DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 1/2 12 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 11
  1. #1
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts

    Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên



    Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên

    印 光 法 師 嘉 言 錄 續 編

    Hậu học Thích Quảng Giác &
    quy y đệ tử Từ Chí Giác đảnh lễ cung kính biên tập

    Pháp sư Đức Sâm giám định

    oOo

    Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

    Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang & Đức Phong

    (dịch theo bản in của Cổ Tấn Báo Ân Phật Học Đường, năm 2002)




  2. Chủ đề tương tự

    1. Thần Quang đoạn tý" (Nhị Tổ Huệ Khả chặt tay)
      Gửi bởi Mục đồng trong mục Thơ văn liên quan Phật giáo
      Trả lời: 13
      Bài cuối: 06-24-2015, 08:18 PM
  3. #2
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    Lời Tựa



    Kinh Pháp Hoa dạy: “Chư Phật Thế Tôn do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời”. Đại sự nhân duyên vừa nói ấy không ngoài muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Chúng sanh vốn sẵn đủ tri kiến của Phật, hiềm rằng phiền não Hoặc nghiệp chướng lấp diệu minh, nếu không được chư Phật khơi gợi, dẫn dắt, chúng sanh sẽ không có cách nào khai thị ngộ nhập được! Do vậy, đức Thích Ca Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác đã than rằng: “Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước, chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí liền được hiện tiền”. Do vậy, chư Phật Thế Tôn hưng khởi lòng Từ, vận dụng lòng Bi, xuất hiện trong thế gian, nói đủ mọi pháp, không gì chẳng nhằm làm cho chúng sanh phá trừ vọng tưởng, chấp trước, hoàn toàn trở thành trí huệ, đức tướng, đều cùng khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật. Nhưng do chúng sanh căn tánh thiên sai vạn biệt, trọn đủ tám vạn bốn ngàn phiền não, đức Như Lai thương xót, xét soi căn cơ để lập giáo, nói rộng rãi tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị.

    Trong số ấy, tìm lấy một pháp viên đốn, siêu diệu, thẳng chóng, rốt ráo, thỏa đáng, thực hiện dễ thành công, dùng sức ít mà hiệu quả nhanh chóng, thích hợp khắp ba căn, gồm trọn các pháp thì chỉ có cách nương theo các vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, các đại tôn giả Ca Diếp, A Nan, Mã Minh, Long Thọ, và lịch đại tổ sư cõi này là Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh. [Các vị ấy] đã sớm đặc biệt chọn lấy pháp môn Tịnh Độ trong Tu Đa La Giáo, [bởi lẽ pháp này] là thuốc A Già Đà trị chung vạn bệnh, dạy cho khắp mọi chúng sanh đều cùng nên tu tập. Vạn người tu, vạn người đến, đều cùng được khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật hòng thỏa thích bổn hoài xuất thế của đức Phật. Pháp môn tối thượng thù thắng siêu tuyệt này từ lúc được khai sáng tại núi Khuông Lô vào thời Đông Tấn, đời nào cũng có cao nhân hoằng dương rạng ngời. Điều này có thể thấy cặn kẽ trong sách vở, chẳng cần phải rườm lời.
    Hơn một trăm năm gần đây, pháp vận cũng nguy ngập theo vận đời, đến nỗi đại pháp như vậy cũng ít có ai đề xướng. May mắn là lúc thoi thóp tột cùng lại sống dậy, được vị Thân Giáo Sư của chúng ta là Ấn Công Lão Nhân thừa nguyện tái lai, đặc biệt hoằng dương đạo này. Đạo đức, văn chương của lão nhân như mặt trời, mặt trăng giữa không trung, như sông rạch chảy khắp cõi đất. Văn Sao Chánh Biên, Tục Biên được lưu thông khắp cõi. Không những hàng đệ tử Phật đua nhau ngưỡng mộ, mà cũng có lắm kẻ chê bai Phật pháp mà đọc văn Ngài, hoặc nghe nói tới đức hạnh của Ngài, lòng cũng chẳng khỏi kính phục. Đức tót vời cảm hóa con người sâu đậm như thế, nhằm đúng thời Mạt Pháp này, thật hiếm người sánh bằng! Nào ngờ do nghiệp cảm của chúng sanh, pháp tràng chợt gãy, mùa Đông năm Canh Thìn (1940), đại sư về Tây, thoáng chốc đã tròn ba năm. Trong ba năm ấy, bồi hồi nghĩ tưởng, hối hận sâu xa lúc ban đầu mình đã xem thường để lỡ, vì sao vậy? Do lúc đại sư tại thế, trí huệ vô ngại, đức hạnh, danh vọng vòi vọi. Dẫu cho ma vương, ngoại đạo tung hoành, chúng sanh ngu muội, không phân biệt được đúng - sai, chỉ cần đại sư ban một lời, quá nửa đã đột nhiên giác ngộ, tâm vui vẻ, chân thành khâm phục. Dẫu lũ quyến thuộc ma cũng chẳng thể hoành hành oai thế được!
    Nay thì tiếng sư tử hống chẳng còn nghe nữa, huệ nhật ẩn bóng, cố nhiên những kẻ viết lách phô phang phá hoại di giáo của đại sư gây hại rất nặng, nhưng vẫn còn có những người có đủ con mắt giống như bảy mươi vị [đệ tử] thấu hiểu Trọng Ni (Khổng Tử) chẳng thể phá hoại được.

    Chúng ta cũng chỉ đành ai nấy tận hết sức mình tu hành là được rồi, hơi đâu để so đo với bọn họ. Mặc cho bọn họ “chữ Phật ta chẳng thích nghe”, chúng ta chỉ có A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, chỉ niệm đức Phật, chỉ cầu Tịnh Độ mà thôi! Nhưng lại có chuyện khiến cho con người đau lòng buốt óc nhất, khôn ngăn lương tâm xao xuyến, dẫu biết rõ là nhọc sức vô bổ, nhưng chẳng thể không nói đến, không gì bằng chuyện những kẻ dùng đến bút gỗ, mâm cát (cầu cơ) để tưởng chừng như ca ngợi, ngưỡng mộ đại sư, nhưng [thật ra là] vu báng, khinh miệt Ngài! Nay tôi chẳng phân biệt hết thảy những vị công khai phản đối, hoặc vu báng ngấm ngầm, hoặc thật sự hộ trì, xin hãy đều tâm bình khí hòa thương lượng. Đạo đức, văn chương của đại sư thuở sinh tiền cao tột như thế nào, ta hãy khoan bàn tới. Chỉ căn cứ vào chuyện đại sư biết trước lúc mất, tuổi đã tám mươi, vẫn có thể từ chõng nằm tự mình đi đến ghế tựa, ngồi ngay ngắn hướng về Tây, các căn vui vẻ, chánh niệm phân minh, an tường về Tây giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Sau khi trà-duy (hỏa thiêu), linh cốt trắng sạch, có những miếng màu như vàng ròng hoặc Phỉ Thúy, cũng như xá-lợi thật lắm, linh dị thật nhiều, lắm người thấy nghe. Sự ứng hiện tốt lành như thế, hạng Tăng nhân tầm thường có thể đạt được hay chăng?
    Đối với học vấn, phẩm hạnh của đại sư, xin các vị cứ dựa theo sự thật để phê bình, rốt cuộc có ai chê trách Ngài chẳng hiểu giáo lý, tu mù luyện đui hay chăng? Trộm sợ rằng, bất luận là ai nếu dám thốt ra lời ấy, ắt sẽ bị ngàn vạn người lớn tiếng thóa mạ, quở là kẻ chẳng biết tự lượng, ăn nói bừa bãi1, hủy báng Tam Bảo, tội chẳng thể dung tha, trốn tránh được!


    Những người thật sự hiểu biết đại sư trong thế gian cũng chẳng cần phải đề cao Ngài ra sao, nói Ngài có thần thông tiên tri này nọ, là bậc Bồ Tát nào đó tái lai v.v... (Chúng ta được dự vào hàng đệ tử, đối với mật hạnh tự ẩn giấu chẳng lộ của đại sư, chưa thấy chứng cứ thật sự nào. Dẫu có chuyện ấy đi nữa, cũng chẳng nên tự phô phang), nhưng nhận biết đại sư là bậc hạnh giải siêu việt, trác tuyệt, thâm nhập kinh tạng, khéo léo khế hợp Phật tâm, hạnh làm khuôn mẫu cho đời, lời lẽ làm pháp tắc cho cõi thế, nhất cử, nhất động đều hữu ích cho pháp môn, đều nêu khuôn phép cho hàng hậu học.
    Bình luận như thế, tôi sợ trộm rằng bất luận ai nghe tới (trừ hạng ma vương chuyên cầu danh văn lợi dưỡng, ghen ghét, chướng ngại, ôm lòng hoại loạn pháp môn) ắt sẽ đều cùng gật đầu. Thế mà nhiều người vẫn còn cho rằng chưa thể khen ngợi đại sư xứng với sự thật, ngay cả hạng giả vờ xưng tụng, ngưỡng mộ cũng không thể phủ nhận. Hạnh giải của Ngài thuở đương thời, tướng lành lúc lâm chung, thiết thực như vậy đó, chắc chắn cao đăng thượng phẩm, chẳng còn phải ngờ vực dị nghị mảy may chi nữa! Đã lên Thượng Phẩm cõi Tây Phương thì chứng Vô Sanh Nhẫn, viên mãn Phật quả chỉ là vấn đề thời gian, có thể nói Ngài đã hoàn tất nhiệm vụ học Phật, đương nhiên chẳng còn có mảy may thiếu sót, tiếc nuối gì!
    Kẻ hơi biết giáo lý hãy nên thấu hiểu sâu xa. Có lắm kẻ cầu cơ, thường mạo nhận là được đại sư giáng đàn, tự lược thuật những chuyện thật lúc sinh tiền (tợ hồ là đúng, nhưng thật ra là sai), tự nói chính mình đã sanh về Tây Phương, lại còn buồn bã hối hận thoạt đầu chẳng tin lời cơ bút. Lời lẽ vu hãm oan uổng ấy, người hơi hiểu biết Phật pháp nghe xong liền đau lòng, buốt óc, hoặc đến nỗi phun cả cơm ra! Vì sao vậy? Xin hỏi là thật hay giả, thì những người cùng tự xưng là đệ tử Phật hãy đều cùng nhau bình tâm hòa khí để đáp lời. Trong thế gian, có học thuyết, lý lẽ nào cao siêu, huyền diệu hơn Tam Tạng gồm mười hai thể loại do kim khẩu [của đức Thế Tôn] giảng ra hay chăng? Tôi trộm sợ rằng ngoài những kẻ công khai phản đối Phật pháp ra, chẳng có một ai dám đáp một chữ Có!

    ----------------

    1 Nguyên văn “tín khẩu thư hoàng” (信 口 雌 磺). Theo Thành Ngữ Tự Điển, Thư Hoàng là một khoáng chất có màu vàng, mềm, dễ nghiền thành bột. Do thời cổ, giấy thường được nhuộm vàng bằng chất Hoàng Bá để tránh mối mọt, nên khi viết sai chữ nào, người ta dùng bột Thư Hoàng bôi lên, rồi viết chữ đúng chồng lên trên. Vào thời Đông Tấn, Vương Diễn vốn là một người hâm mộ tư tưởng Lão Trang, thích biện bác với người khác, nhưng thường ăn nói bừa bãi, câu sau mâu thuẫn câu trước. Hễ có ai chỉ ra chỗ sai, bèn nói lấp liếm, hoặc cãi chày cãi cối “tôi không hề nói câu ấy”, nên người thời ấy thường bảo ông ta “khẩu trung Thư Hoàng”, ngụ ý châm biếm miệng ông ta ngậm sẵn Thư Hoàng để bôi sửa những chỗ nói bậy. Sau này, câu “khẩu trung Thư Hoàng” bị biến đổi thành “tín khẩu Thư Hoàng” và được sử dụng với ý nghĩa ăn nói bừa bãi, rồ dại, không suy nghĩ, không cần biết đến hậu quả!


  4. #3
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    Như vậy thì kinh điển gồm mươi hai thể loại trong Tam Tạng của đức Phật ta chính là học thuyết, giáo lý tối cao vô thượng, được thế giới công nhận đã lâu; đại sư lại thông hiểu rộng khắp Tam Tạng, khế hợp Phật tâm khéo léo, do cầu lòng Nhân mà đạt được lòng Nhân, đích xác đã sanh về Tây Phương, tấn tu Bồ Đề như trong phần trên đã thuật. Thế mà lũ bút gỗ mâm cát vẫn lắm phen vu cáo đại sư, bảo Ngài thốt lời hối hận vì trước kia đã chẳng tin theo lời cơ bút. Đúng là còn dữ dằn, tai hại hơn những kẻ công khai phản đối, phá hoại rất nhiều!

    Đối với lũ thanh đồng (2) phò cơ ấy chuyên bám vào bút gỗ, mâm cát để kiếm ăn, một bề chẳng dính líu gì tới đại sư cho mấy thì đều đáng bỏ qua, chẳng buồn tính toán tới. Nhưng có lắm đệ tử đã từng quy y với đại sư, vẫn khoác lấy danh xưng là kẻ tin tưởng, ngưỡng mộ đại sư, mà vẫn tin tưởng những lời lẽ vu cáo ấy, coi như là khuôn vàng thước ngọc do chính đại sư tự thuật. Hạng người ấy càng đáng gọi là mất trí điên cuồng, kém cỏi đến cùng cực! Vì sao vậy? Bởi chính họ tà - chánh chẳng phân, thối - thơm chẳng biết, vu báng đại sư cũng hồ đồ giống hệt như bọn [cầu cơ] kia! Kiểu ăn nói bịa đặt trong đàn cầu cơ như vậy chẳng những khinh rẻ, nhục mạ đại sư, mà còn khinh rẻ, nhục mạ toàn bộ Phật giáo! Bởi lẽ, đức Phật giảng kinh nhằm dạy con người cầu sanh Tây Phương, cầu chứng Phật quả. Những điều đại sư dạy người khác cũng là cầu sanh Tây Phương, chứng Phật quả. Đương nhiên, điều đại sư tự hành cũng là cầu sanh Tây Phương, chứng Phật quả. Nay lời bịa đặt trong đàn cầu cơ lại bảo khi chưa sanh về Tây Phương, đại sư chẳng biết Tịnh Độ ở nơi đâu, tức là những gì đại sư dạy dỗ người khác đều là nói dối! Như vậy là đã khinh miệt, nhục mạ đại sư đến mức độ nào? Lại còn nói đại sư đang sống trong cõi Khí Thiên do bọn họ bịa ra (Danh xưng Khí Thiên chẳng những trong Phật pháp không có, ngay cả sách Nho cũng chẳng có. Chỉ vì bọn họ uống nhiều mực quá đến nỗi toàn thân hồ đồ, chính mình không có mắt để biện định đen - trắng trong đàn cơ nên mới nói nhăng, nói cuội như vậy). Lại còn nói nhăng, nói càn đại sư vẫn chưa thể đạt tới Lý Thiên!

    Xét ra, giáo lý thông thường của đức Phật đã dạy đều nhằm làm cho con người thoát khỏi tam giới, tu thánh quả. Nói tới Tam Giới thì một là Dục Giới, tức sáu tầng trời thuộc cõi Dục cùng nhân gian và bốn ác đạo; hai là mười tám tầng trời thuộc cõi Sắc; ba là bốn tầng trời thuộc cõi Vô Sắc. Dục giới, Sắc Giới, Vô Sắc giới được gọi chung là tam giới, đều cùng thuộc biển khổ sanh tử luân hồi. Thoát khỏi tam giới thì mới chứng thánh quả. Nay bọn họ gọi quàng là “Khí Thiên, Lý Thiên”, lại lầm lạc bảo Khí Thiên là quả vị tột bậc, chẳng những khinh miệt, nhục mạ đại sư mà còn khinh miệt, nhục mạ hết thảy Phật, Bồ Tát!

    Họ chẳng biết trong cổ thư, một chữ Lý (理) chỉ có nghĩa là trị lý, tu lý (sửa chữa, giồi mài), vốn từ ý nghĩa “trị ngọc” (mài giũa ngọc) được mở rộng ra. Sau này, nó lại được mở rộng thành đạo lý, đến khi ngài Thanh Lương chú giải kinh Hoa Nghiêm, mới lập ra danh từ Lý pháp giới. Tống Nho ăn trộm nghĩa ấy, lập ra Lý Học, biến chính mình trở thành trò đùa. Bởi lẽ, từ ngữ “Lý pháp giới” chỉ tự thể của các pháp, chính là thật cảnh. Tống Nho không hiểu được cái vốn sẵn chân thật, cứ hiểu theo mặt chữ, nên đến nỗi suốt một ngàn năm qua, trong môn hộ xung đột, xúm nhau tranh cãi chẳng ngớt. Như chư thiên vốn thuộc vào hàng chúng sanh, được sanh lên cõi trời chính là do thiện nghiệp và sức Thiền Định. Nay bọn họ ghép bừa chữ Lý với chữ Thiên, bịa ra danh xưng Lý Thiên, đúng là cứ tưởng khai phá một bầu trời mới lạ, nào ngờ đáng gọi là “con vẹt học nói tiếng người”, trọn chẳng biết chuyện của con người, nực cười quá đỗi!
    Đại sư tri kiến siêu việt, trác tuyệt, đời này hiếm có mấy ai sánh bằng, cố nhiên chẳng [thốt lời] tầm ruồng, thừa thãi. Đối với chuyện cầu cơ, trong Văn Sao Chánh Biên lẫn Tục Biên, đại sư đều có lời răn nhắc, cảnh tỉnh. Chẳng hạn như:
    - Chuyện cầu cơ đều do linh quỷ nương theo tri thức của kẻ phò cơ để xoay chuyển cơ bút, thậm chí còn có những kẻ phò cơ tự bịa đặt lời giáng cơ! Tuy chẳng phải là hoàn toàn không có bậc chân tiên giáng đàn, nhưng chỉ là trong trăm ngàn lần mới ngẫu nhiên có một lần giáng đàn mà thôi! Còn những kẻ xưng là Phật, Bồ Tát đều toàn là hạng giả mạo. Nhưng người phò cơ phần nhiều khuyên người khác làm lành, tuy chẳng chân thật, nhưng do họ đã khoác cái danh làm lành, so với những kẻ công khai làm ác, đương nhiên cao hơn một bậc. Lại còn có thể chứng minh những chuyện họa phước, quỷ thần v.v... khiến cho con người có cái để e sợ; do vậy, chúng ta cũng chẳng cần phải cố ý công kích.
    Hiềm rằng những lời giáng cơ, chẳng những không phù hợp Phật pháp (Kẻ hơi biết Phật pháp phò cơ thì lời giáng cơ thường nói tới những thứ “Phật pháp” nông cạn hoặc gần giống như Phật pháp. Kẻ chẳng biết gì về Phật pháp hầu cơ thì toàn là nói nhăng, nói cuội!) Rốt cuộc phần nhiều là coi mắt cá như minh châu, hoại loạn Phật pháp, gây hại quá lớn! (Người thật sự hiểu biết Phật pháp quyết chẳng phụ họa chuyện cầu cơ, đức Phật chế định Tam Quy, tức là đã bảo ban, răn dạy phân minh, tường tận, thiết thực, huống hồ còn có những nghĩa lý sâu xa). Vì thế, phàm là đệ tử thật sự của đức Phật, chớ nên tùy tiện tán đồng. Những lời trên đây dành để nói với hai người các ông, chớ nên nói công khai, sợ kẻ vô tri cho là tôi bịa đặt đồn thổi để hủy báng người khác thì chẳng những không có lợi ích mà còn có hại nữa!”
    Lời dạy này có thể thấy trong phần Di Giáo đăng trong Hoằng Hóa Nguyệt San số 24. Lại đọc trong Văn Sao Tục Biên, thấy có đoạn:
    - Cầu cơ là do tác dụng của linh quỷ, chúng nó nói ta là vị Phật này, hay vị Bồ Tát nọ, vị tiên kia, đều là mạo danh. Chân tiên có khi giáng cơ, nhưng sợ rằng trong trăm ngàn lần chưa được một lần, huống là Phật, Bồ Tát ư? Dùng cầu cơ để đề xướng Phật pháp tuy có lợi ích nhỏ nhoi, nhưng đã sai từ căn bản. Người thật sự học Phật quyết chẳng cậy vào đấy để đề xướng Phật pháp. Vì sao vậy? Do nó là tác dụng của quỷ thần. Nếu có linh quỷ thông minh thì vẫn chưa đến nỗi hỏng chuyện; chứ nếu lỡ một con quỷ hồ đồ giáng đàn, ắt sẽ đến nỗi hỏng đại sự! Người ta do cầu cơ bị lỡ làng đại sự sẽ bảo Phật pháp sai lầm! Kiểu đề xướng ấy chính là đầu mối phá diệt Phật pháp vậy!”
    Ngài còn dạy: “Vào đời Đạo Quang nhà Thanh trước kia, có một vị Cử Nhân ở Nam Xương, truyền cho một môn nhân cầu cơ xem bệnh ở tỉnh thành, rất linh nghiệm. Nhằm lúc mẹ quan Tuần Phủ bị bệnh, thuốc men vô hiệu, có người thưa ông X... cầu cơ xem bệnh rất linh. Do vậy, quan mời đến thăm bệnh, kê toa, bà cụ uống vào chết tươi! Quan vội sai thầy lang đọc toa thuốc, thì ra trong ấy có những vị thuốc công phạt nhau. Tra khảo, người ấy thưa: „Đấy là do thầy tôi dạy‟, do vậy quan bắt thường thầy anh ta, quở: “Ngươi lừa dối hại người đời‟, sai giết chết ông thầy. Ông cho rằng không cầu cơ sẽ thiếu pháp duyên lay động tâm người lớn lao, chẳng biết nỗi họa cầu cơ lớn tầy trời, công đức khuyên người [của cơ bút] chẳng thể bù đắp được! Bậc chánh nhân quân tử, quyết chẳng dự vào đàn tràng ấy v.v...”
    Những lời cảnh tỉnh, răn dạy như thế, xin hãy đọc từ thư gởi cho ông Trần Tích Châu và thư trả lời cư sĩ X... ở Vĩnh Gia trong Văn Sao Chánh Biên cũng như thư trả lời ông Giang Cảnh Xuân trong Văn Sao Tục Biên, những lời dạy trong các bức thư ấy rất tường tận, thiết thực! Đại sư ngăn ngừa bịa đặt, cả đời cẩn thận, cho ấn loát công khai như thế tức là
    đã cân nhắc kỹ lưỡng. Xin hãy đọc lời Phi Lộ trong tờ nguyệt san số 24, Ngài đã răn chớ nên phát biểu công khai, đủ chứng tỏ những gì chưa được Ngài công bố, chỉ nói riêng tư với người khác, càng hết sức răn nhắc, cảnh tỉnh thống thiết hơn nữa, vẫn chưa biết là bao nhiêu (Năm Dân Quốc 28, 29, ông X... do cái tâm say sưa, đã đem lời cơ bút bảo Sâm lần lượt thông cáo cho các nơi. Những lời xấu ác sâu đậm, gây đau lòng cùng cực ấy vẫn còn rất nhiều). Thuở sinh tiền, đại sư có thái độ như vậy đối với cầu cơ, kinh sách vẫn còn đấy, mọi người đều biết, thế mà [bọn cầu cơ] vẫn dùng lời lẽ “hối hận vì lúc sống chẳng tin tưởng cầu cơ” để vu báng đại sư! Há chẳng phải đã bảo đại sư sống hồ đồ suốt tám mươi năm trên cõi đời ư? Đến khi sanh về Tây Phương mới giác ngộ. Như vậy là đại sư kém rất xa bọn đệ tử một mực tin tưởng cầu cơ như các ngươi rồi! Xin hỏi kiểu vu báng oan uổng ấy đã chèn ép đại sư đến mức nào? Thế mà bọn họ vẫn dương dương đắc ý, tự khoe ta là tín đồ của đại sư, tôn kính, sùng phụng đại sư. Tri kiến kiểu đó, tôi chẳng biết là đã hồ đồ đến bực nào, hay là có dụng tâm chi khác vậy? Những lời dông dài, phiền phức trên đây đều là nói về đàn cầu cơ. Đối với mỗi một đàn cầu cơ linh thiêng nào, đại sư cũng đều thống trách chúng ta chớ nên phụ họa. Ngay như Sâm cũng thường nói: “Phàm ai là đệ tử Phật mà vẫn mê tín lời cơ bút thì tuy là do kiến địa chẳng chân thật nhưng cũng không có ai [trong số ấy] chẳng tin vào thứ ma túy mang tiếng linh nghiệm đó! Họ chẳng biết chuyện linh thiêng trong thế gian thật nhiều, có gì đáng coi là kỳ lạ đâu!” Sâm sống sáu mươi năm trên đời, trải qua những chuyện linh dị dẫu có sạch trúc cũng không thể chép hết được!



    -------------

    2. Những kẻ vịn cơ bút để “thần tiên” giáng cơ thường được gọi là đồng tử, hoặc thanh đồng.



  5. #4
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    Năm mười bảy tuổi, Sâm bệnh nặng sắp chết, lạy ma một lạy, lập tức có linh nghiệm đặc biệt, trở thành một người khỏe mạnh, chắc là tất cả những chuyện linh dị trên thế gian đều khó thể nhanh chóng hơn chuyện này được! Xin hãy đọc trong Hoằng Hóa nguyệt san số 23 có bài viết vụng về của tôi bàn về quả báo rõ ràng của việc sát sanh và phóng sanh thì sẽ biết đại khái. Năm lên mười tám, do bị hoàn cảnh xấu hèn tiêm nhiễm, mê cờ bạc, chơi bài Hoa Hội(3), thường tới những chỗ ô uế khôn kham để van vái quỷ thần. Thường là sáng hôm sau chơi Hoa Hội thì tối hôm nay liền cầu được tên con bài ấy, tôi nghĩ sự linh dị cũng chẳng thua hết thảy đàn cầu cơ. Tới năm hai mươi tuổi, sau khi ăn chay, theo học với vị sư phụ Không Kiến ngoại đạo là Tế Công; ông ta cùng sư huynh đều là hạng giỏi bói toán. Do vậy, Sâm cũng biết đại lược đôi chút; vì thế, bèn đoán thử họa phước tương lai, tiên đoán linh nghiệm càng khó thể viết trọn! Những chuyện quỷ thần thông linh như vậy kể sao cho xiết!
    Nhưng những sự linh dị ấy chẳng những hoàn toàn vô ích cho thân tâm tánh mạng mà còn gây chướng ngại cho đại sự sanh tử (Giới luật của đức Phật ngăn cấm rõ ràng). Ngay cả chuyện con người trong thế gian muốn cầu may tránh dữ cũng thường gặp cảnh trái ngược, huống hồ đàn cầu cơ các nơi trọn chẳng phải là linh dị không sai xuyển mảy may nào! Nếu các vị không tin, tôi sẽ lược thuật chứng cứ như sau:

    Ngày mồng Một tháng Mười âm lịch năm nay, có hai cư sĩ đến thăm, kể lại sự khảo nghiệm họ đã từng trải qua. Trong pháp hội các nơi, họ thường nghe nhiều người tán dương đàn cầu cơ X... nọ lừng lẫy một thời, linh dị phi thường. Lòng họ vẫn nửa tin nửa ngờ, tự nhủ: “Nếu thật sự linh thiêng ta sẽ tin tưởng, sùng phụng, đặc biệt hoằng dương” bèn đến đàn ấy xem thử ra sao, trong tâm ngầm khấn rằng: “Ngài X... (chỉ vị chúa đàn cầu cơ đặc sắc nhất ấy) đã dự vào dòng thánh, ắt có Tam Minh, Lục Thông thì Tha Tâm Thông cố nhiên chẳng cần phải nói nữa. Đệ tử là... chẳng cầu chuyện gì khác, chỉ mong sao khi con chí thành đảnh lễ ba lạy xong, xin bút gỗ của Ngài sẽ ngưng lại bất động, liền có thể chứng tỏ ngài có Tha Tâm đạo nhãn, đệ tử sẽ trọn hết lòng thành sùng phụng, tận lực tuyên dương”. Khấn thầm rồi lễ đủ ba lạy xong, bút gỗ hoàn toàn chẳng ngưng chạy, họ liền chẳng bị đàn tràng ấy mê hoặc.

    Chỉ thấy một vị Tăng thông minh sáng láng tôi từng quen biết mà cũng mê tít đàn cầu cơ ấy. Ông X... nọ nghĩ vị tăng ấy tài năng xuất sắc bất phàm, ai nấy đều mong vị ấy sẽ hoằng dương pháp hóa to lớn trong tương lai; nếu lọt vào tà ma, ngoại đạo, vị tăng ấy sẽ chuyên cậy vào bút gỗ để đề cao giá trị bản thân, dù có khả năng viết lách, thuyết giảng, đầy đủ thế trí biện thông, rốt cuộc cũng thuộc về một trong tám nạn, gây chướng ngại to lớn cho việc học Phật, bèn chẳng tiếc sức hiện thân thuyết pháp nhằm lôi kéo ông ta.

    Phương cách như thế nào? Do vị cư sĩ ấy đã mồ côi từ nhỏ, nhưng vị Tăng ấy không biết, cư sĩ bèn giả vờ viết một bức thư nói: Mẹ ông ta hiện thời đã sáu mươi bảy tuổi, vốn thường khỏe mạnh, nay nhằm ngày kia tháng nọ, mắc phải bệnh nọ, dây dưa lâu ngày, thuốc men vô hiệu. Bất đắc dĩ, kính xin vị Tăng ấy hãy chuyển lời cầu chẩn trị tới đàn cầu cơ ấy, xem thử tuổi thọ của bà cụ như thế nào, cầu cho cụ chóng lành bệnh có được hay không?

    Vị Tăng ấy liền xin giùm ông ta, rồi chuyển lời phủ dụ từ đàn cầu cơ ấy như sau: “Mẹ ngươi tuổi gần bảy mươi, tuổi thọ đến mức ấy kể như đã cao. Bệnh tình trước mắt như vậy, thật sự chẳng đáng ngại. Nay ta ban cho một toa thuốc, hãy cho bà cụ uống trước, sẽ dần dần khỏi bệnh. Tới mười một giờ đêm ngày ấy, ta là X... (chỉ vị chúa đàn ấy) sẽ đích thân tự phóng quang tiếp độ, cụ sẽ liền bệnh hết, thân yên v.v...” Vị cư sĩ ấy đọc lời luận đoán, ra vẻ cảm kích, đợi tới ngày chúa đàn hẹn sẽ phóng quang dẫn dắt, lại tới gặp vị Tăng ấy, tán dương sự linh dị của đàn X... như sau: “Mẹ tôi đã lành bệnh quá nửa, muốn cầu được lành bệnh hoàn toàn”.

    Vị chúa đàn X... ấy nghe tin, lại ban lời dụ rằng: “Sau khi ta là X... phóng quang dẫn dắt, bệnh mẹ ngươi đã bị trừ sạch, nay còn khó chịu đôi chút, chẳng có mảy may vấn đề gì đâu! Lại đến mười một giờ tối bữa kia, ta sẽ trị lần nữa, sẽ liền được khỏe mạnh hoàn toàn v.v...” Qua lại một lần nữa, sau khi vị cư sĩ ấy tiếp nhận lời phủ dụ lần thứ ba từ đàn X... xong mới kể thực tình là mẹ mình đã mất nhiều năm cho vị Tăng ấy nghe, cũng như đưa ba lời dụ từ đàn cầu cơ cho vị Tăng ấy xem, khiến cho vị Tăng ấy ngượng rát mặt. Nghe nói hiện thời vị Tăng ấy đã giác ngộ, thoát khỏi cái kén của lũ ma rồi. Ba lời dụ từ đàn cầu cơ ấy vị cư sĩ Y... vẫn còn giữ, đủ chứng tỏ sự khôi hài của những lời giáng cơ!
    Năm Dân Quốc 19 (1930), cuộc đại chiến gây thành nội loạn ở tỉnh Sơn Đông nước ta, nghe nói là do vị tai to mặt lớn X... nọ mê tín thần thông của gã ma Y... vội vàng đứng lên lật đổ chánh quyền Trung Ương hòng hai người đó sẽ chia nhau làm Chánh Phó Tổng Thống. Vị tai to mặt lớn X... nọ dục vọng quá mạnh, mê tín lời ma đến nỗi mắc họa ấy. Chuyện này do chính cư sĩ Khuất Văn Lục đích thân kể lại cho Ấn Công lão nhân nghe. Lúc ấy, ông Khuất cũng là một người họ hàng của ông X.... Sau khi thất bại, gã ma Y... trốn xa, thay hình đổi dạng nhiều phen.

    Năm Dân Quốc 25 (1936), ở Việt Đông (Quảng Đông), một viên chức có thế lực lớn tên X... chống đối chánh quyền Trung Ương, cũng do bút gỗ, mâm cát xúi giục nổi dậy. Những chuyện như thế đã đăng tải trên báo chí chắc là nhiều người đã mắt thấy tai nghe rất thường!
    Dựa trên ba chuyện này, đủ chứng tỏ rằng kẻ hiếu kỳ thích đồn đại chuyện linh dị sẽ xui nhiều, hên ít. Hiềm rằng chúng sanh tâm hiếu kỳ nặng nề, thấy chánh đạo thông thường, chân thực, thỏa đáng, sát sao, bèn khinh dễ, coi nhẹ, lắc đầu không màng tới; nghe lời xảo trá đồn chuyện hiếm có, lạ lùng, quái dị, bèn kính vâng như chiếu chỉ, đua nhau xúm theo. Không có gì khác cả, chúng ta do đồng nghiệp cảm vời, chẳng thể làm sao được. Đại sư Ngẫu Ích còn phải cảm khái, thốt lời than thở “một ngày mua được ngàn gánh giả, ngàn năm khó mua được một gánh thật”, huống chi bọn ta sanh nhằm thời này, ở trong đời này, làm sao có thể lôi kéo hết các đồng luân cùng ra khỏi hang tối lên được cây cao ư?

    Hãy nên biết rằng những lời lụn vụn, dông dài, phiền phức thiếu trí huệ [của Sâm] vốn chẳng phải là cố ý công kích. Đối với các đàn cầu cơ và những đoàn thể từ thiện do các ngoại đạo lập ra, Sâm luôn giữ tông chỉ “không phá hoại mà cũng không phụ họa”; nói chung là giống như lời đại sư đã dạy trong Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên. Không riêng gì một mình Đức Sâm như thế, hễ ai là bậc đại đức thật sự hiểu biết, phần lớn đều không có lòng riêng tư khác lạ, lẽ nào lại mang tâm hạnh cố ý công kích? Ở đây tôi lại phải rườm lời như thế quả thật là vì các đàn cầu cơ ở nhiều nơi hay bịa chuyện đại sư giáng lâm, đều bảo là Ngài hối hận thuở trước đã chẳng tin cầu cơ! Đủ các lẽ bịa đặt, quả thật đã vu báng, miệt thị đại sư quá đáng!


    --------------

    3. Hoa Hội (花會) là một loại bài phổ biến vào triều Đạo Quang nhà Thanh, thoạt đầu chỉ lưu hành ở vùng Chiết Giang, về sau lan truyền khắp các tỉnh Quảng Đông, Phước Kiến, Giang Tô, Thượng Hải. Do bộ bài gồm ba mươi sáu quân bài, tượngtrưng cho 36 nhân vật trong xã hội như hoàng đế, tể tướng, tướng quân, trạng nguyên, công chúa, ăn mày, hòa thượng, đạo sĩ, nho sĩ, tiều phu v.v... Lưng quân bài vẽ hình rồng, ngựa, bướm, cá v.v.. đẹp đẽ, nên gọi là Hoa Hội. Người chơi bài sẽ đặt tiền, nói tên một quân bài trước khi rút. Nếu rút trúng sẽ được nhà cái chung món tiền lớn gấp 30 lần tiền đặt nếu chỉ có một người chơi. Nếu hai người chơi thì chỉ được chung món tiền gấp 15 lần tiền đã đặt v.v...

  6. #5
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    Sâm theo hầu đại sư hai mươi năm, tuy chưa thể thâm nhập được chỗ sâu kín, nhưng đã biết được đại khái hạnh nghiệp cả đời đại sư, lại chịu ơn đại sư từ bi che chở sâu xa; xét lẽ báo ân, tính kế hộ pháp, đều chẳng thể mặc kệ cho kẻ khác vu báng, chẳng thanh minh mảy may nào! Ví như kẻ làm con nghe kẻ khác vu báng, miệt thị cha mẹ, chẳng có ai không tranh biện. Nếu các vị cầu cơ ở các nơi giữ yên môn đình của chính mình, chẳng muốn hoại loạn Phật pháp, chẳng toan dính dấp đến đại sư của chúng ta thì Sâm một mực chẳng ưa tranh cãi, lẽ nào lại khổ sở đa sự như vậy?

    Hơn nữa, để phòng ngừa bịa đặt, đại sư mong đệ tử Phật hiểu rõ “trong một trăm đàn cầu cơ, có đến chín mươi chín đàn là do quỷ thần chủ trì, mạo danh Phật, tiên giáng lâm, nguy hiểm quá sức”, bèn cho ấn hành, lưu thông sách Tây Phương Xác Chỉ. Trong sách ấy qua những lời giáng cơ, [Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đã] giảng rõ lẽ lợi hại, căn dặn mọi người đừng tin vào cơ bút, những mong ai nấy đều biết tự thương thân. Nào ngờ những kẻ mê tít thò lò đàn cơ lại ngược ngạo viện dẫn hành động ấy của đại sư như một tấm bùa hộ thân! Trầm luân, mê muội khó cứu đến tột bậc như thế, quả thật cũng khiến cho người ta phải thở dài sườn sượt!

    Vì các lẽ ấy, nhằm hộ trì chánh pháp, Sâm tính báo đáp đại sư, nay lại gặp pháp sư Quảng Giác và cư sĩ Từ Chí Nhất, hai vị đã khổ tâm biên tập, giảo đính cuốn Đại Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên. Bản thảo hoàn thành, họ sai Sâm giám định, viết lời tựa để ấn hành, lại nhằm đúng dịp kỷ niệm đại sư khuất bóng đã ba năm, khổ nỗi bản thân văn chương kém cỏi, không thể nào tỏa rạng đạo mầu của đại sư, bèn viết lôi thôi như thế này cho xong hai chuyện ấy.

    Chỉ mong độc giả kính tuân theo lời đại sư ra rả bảo ban, răn dạy, đừng cầu những thứ bàng môn nào khác nữa để khỏi phải lo sầu, chuyên lấy “đôn luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành) làm cơ sở trọn đạo làm người, lấy “chân vị sanh tử, phát Bồ Đề tâm, trì giới niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” (thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, trì giới niệm Phật, cầu sanh Tây Phương) để làm con đường tắt bước vào cảnh Phật. Lấy ba mươi hai chữ ấy làm chuẩn mực để tiến hơn nữa, sẽ tùy duyên đọc tụng các kinh điển chân chánh do đức Phật đã nói thì sẽ tự có thể lúc sống trở thành bậc thánh bậc hiền, khi mất sẽ về cõi Như Lai, mãi cho đến khi viên mãn Bồ Đề. Những đạo mầu nhiệm khác đã có sẵn trong toàn thư (tức Ấn Quang Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên), Sâm chẳng cần phải rườm lời chi nữa!

    Kính cẩn đề lời tựa.


    Phật lịch 2970, ngày lành tháng Mười thiếu, thân giáo đệ tử Khổ Não tỳ-kheo Đức Sâm hòa-nam kính soạn.



  7. The Following User Says Thank You to tinhnghiep For This Useful Post:

    uubatac (09-03-2015)

  8. #6
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên

    印 光 法 師 嘉 言 錄 續 編


    I. Tán Tịnh Độ siêu thắng
    (Khen ngợi Tịnh Độ siêu việt, thù thắng)


    * Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, nhiếp trọn các pháp thuộc chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối, thích hợp khắp ba căn thượng - trung - hạ, thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít mà được hiệu quả nhanh chóng, chắc chắn thoát sanh tử trong đời hiện tại! Chẳng trải qua tăng-kỳ (4) [kiếp số] mà đích thân chứng được Pháp Thân, chính là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, quả thật là đạo trọng yếu để thoát khổ trong hết thảy sự tu trì của chúng sanh. Do pháp này cậy vào Phật từ lực, nên lợi ích so với những pháp chuyên cậy vào tự lực sẽ khác biệt vời vợi một trời, một vực! Vì vậy, kẻ sắp đọa A Tỳ do mười niệm liền được vãng sanh, bậc đã chứng Đẳng Giác phát ra mười nguyện để hồi hướng Tịnh Độ. Do vậy biết: Pháp môn này chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Bởi đó, từ hội Hoa Nghiêm hướng dẫn về, từ lúc được diễn thuyết tại Kỳ Viên đến nay, vãng thánh tiền hiền người người hướng đến, ngàn kinh muôn luận đâu đâu cũng chỉ về (Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa duyên khởi cho Phật Giáo Tây Phương Liên Hoa Hội ở Côn Sơn)

    * Xét từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công mở liên xã đầu tiên, khi ấy bậc cao tăng, đại nho dự vào hội cả một trăm hai mươi ba người. Từ đấy về sau, đời nào cũng có cao nhân tục diệm truyền đăng, truyền khắp trong ngoài nước. Đại pháp của đức Như Lai có năm thứ là Luật, Giáo, Tông (Thiền), Mật, Tịnh, nhưng chỉ có một pháp Tịnh Độ là tu trì dễ dàng nhất, thành tựu dễ dàng nhất, là chỗ quy túc của Luật, Giáo, Tông, Mật. Vì thế các vị thiện tri thức Luật, Giáo, Tông, Mật xưa nay đều chăm chú ngầm tu, rất nhiều vị cực lực hoằng dương công khai. Pháp này chân - tục viên dung, vừa khế cơ vừa khế lý, chẳng những vì người học đạo lập ra một môn mầu nhiệm chung để thoát luân hồi, mà thật ra còn là đạo trọng yếu để người cai trị đất nước ngồi hưởng thái bình. Do đó, vãng thánh tiền hiền, bậc thông suốt, người trí sáng đều cùng tu trì, như mọi ngôi sao chầu về Bắc Đẩu, như các dòng nước chảy xuôi về biển Đông. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Duyên khởi của Xí Lô Liên Xã)

    * Phật pháp là tâm pháp. Tâm pháp ấy chúng sanh, Phật, phàm, thánh, ai nấy đều có. Chúng sanh thì toàn thể là mê trái nên dẫu có vẫn như không. Phật thì triệt ngộ, triệt chứng, đích thân được thọ dụng, lại còn dấy lòng đại từ bi, đem sở ngộ sở chứng của chính mình chỉ dạy hết thảy chúng sanh, ngõ hầu họ đều triệt ngộ, triệt chứng mới thôi! Nhưng vì chúng sanh mê muội, trái nghịch đã lâu, dù nghe đủ mọi pháp môn đối trị, nhưng bởi Hoặc nghiệp sâu dầy, phước huệ cạn mỏng nên khó lòng đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này. Do đã khó thể đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này nên lại phải thọ sanh, quá nửa bị mê mất, đến nỗi trải qua kiếp lâu xa luân hồi sanh tử, không thể do đâu thoát lìa được! Đức Như Lai thương xót, đặc biệt mở ra pháp môn “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm, thượng, trung, hạ căn đều nương vào đại bi nguyện lực của đức Phật Di Đà, cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây, sanh về cõi Cực Lạc kia, khiến cho kẻ đã đoạn Hoặc mau chứng Vô Sanh, kẻ chưa đoạn Hoặc cũng đạt lên Bất Thoái.

    ___________

    4 Tăng Kỳ, gọi đủ là A Tăng Kỳ (Asamkhya), là một trong hai mươi lăm con số lớn nhất của Ấn Độ. Đôi khi còn được phiên âm là A Tăng Già, A Tăng Xí Da, hay A Tăng, có nghĩa là “chẳng thể tính toán được”. Một A Tăng Kỳ là một vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu (tám chữ vạn : 10.000 x 10.000 x 10.000 x 10.000 x 10.000 x 10.000 x 10.000 x 10.000 x 1.000.000).


  9. The Following User Says Thank You to tinhnghiep For This Useful Post:

    socnho (08-28-2015)

  10. #7
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    Pháp này vừa cạn vừa sâu, vừa là Quyền, vừa là Thật, bậc thượng thượng căn chẳng thể vượt khỏi cửa thành này. Vì thế, bậc đã chứng Đẳng Giác còn phải dùng mười nguyện dẫn về. Kẻ hạ hạ căn cũng có thể đạt đến cõi này. Do vậy, kẻ sắp đọa địa ngục A Tỳ vẫn có thể dự vào chín phẩm. Thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt hiệu quả nhanh, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai, là đạo thông đạt để chúng sanh thoát khổ. Vì thế, các vị Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ… các vị tổ sư như Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh… đều cùng hiện tướng lưỡi rộng dài để tán dương, phát tâm Kim Cang để lưu truyền rộng khắp; bởi pháp này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh vậy (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã)

    * Con người có cùng một cái tâm này, tâm cùng một lý này, chúng sanh và Phật chẳng hai, phàm - thánh như một. Do Phật rốt ráo ngộ được tâm này nên triệt chứng Niết Bàn, chúng sanh do rốt ráo mê cái tâm này nên luân hồi sanh tử dài lâu. Nghĩ lại từ vô thủy đến nay, bọn chúng sanh ta và đức Thích Ca Thế Tôn cùng là phàm phu, cùng chịu nỗi khổ sanh tử dữ dội. Đức Thế Tôn do tự phát khởi hùng tâm, trọn đủ sức đại hùng mãnh, tu ròng Giới - Định - Huệ, nên đoạn trọn vẹn Tam Hoặc, hai thứ Tử (Biến Dịch và Phần Đoạn) vĩnh viễn mất, an trụ trong Tam Đức bí tạng, phổ độ quần manh thuộc chín giới. Luận về thời kiếp, dù có dùng hết số vi trần trong một cõi nước cũng chẳng thể tính toán được! Luận về pháp môn thì cạn hết biển mực vẫn khó thể chép được!

    Trong thời kiếp ấy, ban sự pháp hóa này, bọn chúng sanh ta há chẳng nghe pháp tu hành, muốn chứng được tâm này ngay trong một đời hay sao? Chỉ vì Phiền Hoặc sâu dầy, không sức nào đoạn trừ được, hễ thọ sanh lần nữa sẽ lại bị mê mất. Cũng như do chưa gặp được pháp cậy vào Phật từ lực để vãng sanh ngay trong đời này, hoặc do tu pháp này, nhưng tự lực mỏng yếu, không người giúp đỡ, hoặc tuy tự lực sung túc nhưng khi lâm chung bị quyến thuộc lắm cách phá hoại! Do đấy, trải cả kiếp dài lâu, luân hồi trong sanh tử. Dẫu được Phật giáo hóa, vẫn y như cũ uổng mang cái tâm chẳng khác gì tâm Phật, nhưng chẳng thể chứng được quả chân thường giống như đức Phật! Trên đã cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới phụ bạc tánh linh của chính mình. Mỗi phen nghĩ đến, ngũ tạng (5) như lửa đốt.

    Nay may mắn được nghe đức Như Lai vì thương xót chúng sanh thuở mạt kiếp không có sức đoạn Hoặc, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ để hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này vãng sanh Tây Phương: Kẻ đã đoạn Hoặc sẽ cao đăng Bổ Xứ, kẻ vẫn còn đầy dẫy phiền não cũng dự vào dòng thánh. Thật là một pháp môn đặc biệt trong suốt cả một đời giáo hóa của đức Như Lai; thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều thâu tóm. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát còn chẳng thể vượt ra ngoài [pháp môn] này được; dưới là phàm phu Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong số ấy. Vì thế, [pháp môn này] được mười phương cùng khen ngợi, chín giới cùng tuân hành. Huống hồ bọn phàm phu chúng ta bỏ đi pháp này thì lấy đâu để nhờ cậy? (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa sách Sức Chung Tân Lương)

    * Đức Đại Giác Thế Tôn khéo trị những căn bệnh nơi thân nơi tâm chúng sanh, khéo làm cho thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Tâm bệnh có những thứ nào? Chính là tham - sân - si. Đã có những bệnh ấy, tâm chẳng thể chánh được, những ý niệm thuận theo tình kiến, trái nghịch lý sẽ ồ ạt dấy lên. Những niệm ấy đã khởi, ắt sẽ muốn thỏa lòng ham muốn của chính mình, cái tâm hèn tệ giết - trộm - dâm sẽ ngay lập tức biến thành sự thực. Đấy gọi là “do Hoặc (phiền não) tạo nghiệp, do nghiệp chuốc khổ trải trần điểm kiếp (6) chẳng thuở nào xong!” Đức Như Lai thương xót, tùy theo từng căn bệnh của chúng sanh mà ban thuốc, bảo họ: “Tâm tham - sân - si chẳng phải là cái tâm vốn có của các ngươi. Tâm các ngươi vốn viên minh tịnh diệu như tấm gương sáng sạch, trọn chẳng có một vật nào! Hễ có vật ở trước gương thì không vật nào chẳng được soi trọn vẹn. Vật đến chẳng cự tuyệt, vật đi chẳng lưu giữ. Giữ được tánh thiên chân của ta, chẳng bị chuyển theo vật. Mê tâm đuổi theo cảnh thì gọi là ngu phu. Trái trần hợp giác liền dự vào dòng thánh”. Nếu con người biết được điều này, tâm bệnh sẽ lành. Tâm bệnh đã lành, thân bệnh chẳng có cội gốc nữa, dẫu cảm xúc lạnh - nóng cũng chẳng bị nguy hiểm. Tâm đã chánh thì thân sẽ chánh theo. Do đã không có tình niệm tham - sân - si, sẽ do đâu mà có những hạnh hèn tệ giết - trộm - dâm cho được? Ai nấy đều như thế thì dân là đồng bào, loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng, nào còn có chuyện tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau nữa ư?

    Vì thế, những bậc vua quan thông minh duệ trí thuở xưa không vị nào chẳng sùng phụng, hộ trì, bởi [Phật pháp] giữ yên đất nước khi chưa loạn, bảo vệ bờ cõi khi chưa nguy, nên đạt đến thái bình mà chẳng hay chẳng biết, chẳng tỏ lộ dấu vết vậy! Tiếc cho những nhà Nho đời sau tâm lượng hẹp hòi, nhỏ nhen, lấy diệu nghĩa từ kinh Phật để giúp cho những chuyện bàn xuông của bọn họ, nhưng lại bài xích thật lý do đức Phật đã nói, bảo là bịa đặt! Sự lý nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo chính là đại kinh đại pháp khiến cho người hiền mau lên cảnh thánh, kẻ ngu gắng sức làm người dân lương thiện, [thế mà] bọn chúng bảo “thật ra chẳng có chuyện nhân quả báo ứng, con người chết đi, thần hồn đã diệt, còn ai để chịu tội và thác sanh?”


    ----------------

    5. _ Nguyên văn “ngũ nội”, tức là một danh xưng khác của Ngũ Tạng, tức tim, gan, lá lách, phổi, thận.
    6. _ Trần điểm kiếp: Kiếp số nhiều như số vi trần.



  11. #8
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    Từ đấy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để trừng phạt, đến nỗi hùa nhau phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, bỏ thẹn, chẳng hề xấu hổ, ngược ngạo coi đó là vinh, đều là do những thứ học thuyết ấy ươm thành! Cõi đời đã loạn đến cùng cực, ai nấy đều lo sợ, muốn cứu vãn thì chẳng thể không noi theo đại pháp của đức Như Lai. Do vậy, các nơi đều lập Tịnh nghiệp xã hoặc Cư Sĩ Lâm để đề xướng nhân quả, chuyên tu Tịnh nghiệp. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam Thánh Điện)

    * Đức Như Lai vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong cõi đời. Gọi là “đại sự” là vì muốn cho hết thảy chúng sanh đều khai - thị - ngộ - nhập tri kiến Phật, ai nấy đều được thành Phật mới thôi. Do chúng sanh căn tánh lớn - nhỏ khác biệt, nên pháp môn của đức Như Lai có Quyền - Thật bất đồng. Vì vậy, tâm phổ độ chúng sanh của Như Lai chưa được thỏa mãn lớn lao.
    Bởi thế, Ngài đặc biệt mở ra một pháp “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” để dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này thoát khỏi cõi khổ này, sanh sang nước vui sướng kia. Bậc thượng căn sẽ mau chứng Pháp Thân, kẻ [căn cơ] trung - hạ cũng đều cùng lên Bất Thoái, khiến cho chúng sanh cùng thoát sanh tử, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai. Lợi ích ấy chẳng thể diễn tả được! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại Nam Kinh)

    * Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt cả một đời đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà thoát khỏi luân hồi; ngay trong một đời này quyết định lên cõi Phật! Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này làm sao yên được?
    Phàm những ai tu Tịnh nghiệp thì điều thứ nhất là phải giữ tịnh giới nghiêm ngặt; điều thứ hai là phải phát Bồ Đề tâm; điều thứ ba là phải trọn đủ lòng tín nguyện chân thật. Giới là cơ sở, nền tảng của mọi pháp, Bồ Đề tâm là chủ soái của tu đạo, tín nguyện nhằm dẫn đường cho việc vãng sanh. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Tịnh Độ Chỉ Yếu)

    * Phật quang là tâm quang. Tâm quang ấy chúng sanh và Phật đều cùng có, bình đẳng giống hệt như nhau, nơi Phật chẳng tăng thêm, nơi chúng sanh chẳng giảm bớt. Vì thế, lúc mới thành Chánh Giác, đức Thế Tôn than thở sâu xa: “Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì chưa ngộ nên chẳng tránh khỏi biến trí huệ, đức tướng ấy thành vô minh nghiệp thức, mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác, hiệp trần, ví như đi mãi trong đêm dài, chẳng thấy được đường chánh, chẳng va tường đụng vách thì cũng đọa hầm, sụp hố, luân hồi trong lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra!” Đức Như Lai thương xót, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, diễn nói các pháp, chỉ dạy thể tướng của nhất tâm, nói ra nhân quả ba đời, pháp thế gian lẫn xuất thế gian không gì chẳng trọn khắp.

    Lại muốn lợi lạc khắp ba căn nên đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ, ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, đích thân chứng được tâm quang mà Phật và chúng sanh đều cùng có, cũng như [chứng được] tánh thể vô lượng quang thọ.
    Lại còn rủ lòng Từ tiếp dẫn đến tột cùng đời vị lai, ngõ hầu pháp giới chúng sanh đều được đẫm Phật quang, cùng chứng tâm quang. Quang quang chiếu sáng lẫn nhau, thành một thế giới Thường Tịch Quang mới thôi! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Nêu tỏ ý nghĩa ẩn tàng của Phật Quang Phân Xã tại Xung Điền, Vụ Nguyên)

    * Tịnh Độ đại pháp môn lớn lao không gì ở ngoài nó được, như trời che khắp, như đất chở trọn. Bậc Đẳng Giác sắp thành Phật còn phải cậy nhờ pháp này; kẻ nghịch ác sắp đọa A Tỳ mười niệm lên cõi sen, thích hợp căn cơ khắp chín pháp giới, đều cùng siêng gắng đảnh lễ kính vâng, sướng thỏa tâm độ sanh của Phật, duy nhất không còn pháp thứ hai nào nữa! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục)




  12. The Following User Says Thank You to tinhnghiep For This Useful Post:

    uubatac (09-03-2015)

  13. #9
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    * Đại pháp của Như Lai bao trùm pháp giới, bao quát có - không, chỉ dạy chân tâm sẵn có, tỏ rõ diệu dụng tùy duyên. Tâm thể ấy chúng sanh và Phật giống hệt như nhau, phàm - thánh chẳng hai, chân thường bất biến, tịch chiếu viên dung. Do Phật chứng rốt ráo nên được Ngũ Uẩn đều là không, vượt khỏi các khổ, chẳng lập mảy trần, phô bày trọn vẹn vạn đức. Do chúng sanh triệt để mê nên đến nỗi mê chân đuổi theo vọng, trái giác, hiệp trần, luân hồi sanh tử, trọn không có lúc thoát ra. Do vậy, đức Như Lai tùy theo căn cơ của chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho ai nấy đều theo đường về nhà, đích thân thấy được cha mẹ vốn có. Lần chéo áo tìm được hạt châu, liền được của báu vô tận nhà mình sẵn có. Bậc thượng căn cố nhiên được giải thoát, nhưng hàng trung - hạ vẫn trong luân hồi, nên đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ “vượt ngang ra khỏi tam giới”, khiến cho khắp các hạng trung - hạ nối gót bậc thượng căn. Lợi ích ấy không thể nào diễn tả được! Nghĩa này tuy phát xuất từ hội Phương Đẳng, nhưng thật ra đạo ấy bắt nguồn từ hội Hoa Nghiêm, chỉ vì phàm phu, tiểu thánh chẳng thể dự hội [Hoa Nghiêm] nên không có cách chi vâng nhận được.

    Trước khi kinh Hoa Nghiêm được truyền đến [Trung Quốc, pháp môn Tịnh Độ] thường bị coi là đạo phương tiện hay Tiểu Thừa. Sau khi phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện được dịch ra rồi, mới biết đây là lời giảng chân thật về pháp thành Phật. Xưa kia, Viễn Công ở Lô Sơn đã vâng lời Phật phó chúc, thừa nguyện tái lai. Chưa được thấy kinh Niết Bàn đã soạn luận Pháp Tánh Thường Trụ; chưa xem kinh Hoa Nghiêm đã xiển dương tông chỉ hướng dẫn về Cực Lạc, lập pháp ngầm hợp với các kinh, đạo thích hợp khắp ba căn, thông trên, thấu dưới, thỏa thích bản hoài xuất thế của đức Như Lai, giải quyết trọn vẹn đại sự sanh tử của hàm thức. Nếu chẳng phải là bậc Đại Quyền thị hiện (7), làm sao có thể dự đoán như vậy được?

    Vì thế, pháp sư La Thập nói: “Kinh dạy: Trong đời Mạt sau này, phương Đông sẽ có vị Bồ Tát hộ pháp. Gắng lên nhân giả! Hãy khéo hoằng dương chuyện này”. Tăng chúng Tây Vực đều nói đất Hán có bậc Khai Sĩ (8) Đại Thừa, liền hướng về phương Đông cúi lạy, dâng lòng lên rặng Lô Sơn. Tung tích thần lý chẳng thể lường được! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Lời tựa cho bộ Tấn Liên Tông Sơ Tổ Lô Sơn Huệ Viễn Pháp Sư Văn Sao)


    -----------------

    7. _ Đại Quyền: Phật, Bồ Tát vì cứu vớt chúng sanh nên hiện ra đủ mọi thân hình sai khác, thậm chí thị hiện những hạnh Ngũ Nghịch, Thập Ác để hóa độ chúng sanh. Như Vy Đề Hy phu nhân và vua A Xà Thế đều là những bậc đại quyền thị hiện.

    8. _ Khai Sĩ là một cách dịch khác của chữ Bồ Tát. Khai có nghĩa là mở thấu hiểu thông đạt, chỉ dạy chánh đạo, dẫn dắt chúng sanh. Sách Thích Thị Yếu Lãm, quyển Thượng, viết: “Trong kinh thường gọi Bồ Tát là Khai Sĩ, thời Phù Kiên nhà Tiền Tần thường phong tặng danh hiệu Khai Sĩ cho những vị Tăng có đức hạnh, thông suốt giáo lý”.

  14. The Following User Says Thank You to tinhnghiep For This Useful Post:

    uubatac (09-03-2015)

  15. #10
    CHỒI Avatar của tinhnghiep
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    80
    Thanks
    94
    Thanked 75 Times in 20 Posts


    * Xem cặn kẽ khắp những bậc đại trung đại hiếu thuở xưa, lập đại công, dựng đại nghiệp, đạo che trùm thời ấy, đức thấu đến hậu thế, hạo khí lấp trời đất, lòng tinh trung mờ nhật nguyệt đều do học Phật đắc lực mà ra. Những nhà Nho trong cõi đời chẳng biết gốc đạo, chỉ thấy được dấu vết đã bộc lộ, chẳng biết đến cội nguồn của cái tâm, khiến cho cái gốc bị ẩn kín chẳng hiển lộ, tiềm tàng chẳng tỏ rõ. Do những Nho sĩ câu nệ thường đố kỵ Phật, nên [những vị danh nhân] phần nhiều chú trọng tiềm tu mật chứng, chẳng tự bộc lộ. Nếu xét kỹ hành vi của bọn họ, ắt sẽ có những điểm chẳng thể giấu được. Nếu con cháu họ chẳng đầy đủ chánh tri kiến, ắt chỉ sợ bị kẻ tục Nho chê cười, nên cũng chẳng chịu xiển dương. Do nhân duyên này, khiến cho tiềm đức u quang (9) ẩn mất không được nghe đến nhiều lắm!
    Trong bộ Cựu Đường Thư (10), phàm những sự tích về Phật pháp và ngôn luận trao đổi giữa các bậc sĩ đại phu và cao tăng đều được chọn lọc những điều trọng yếu để ghi chép lại. Âu Dương Tu soạn bộ Tân Đường Thư (11) đã gạt bỏ hơn hai ngàn điều. Bộ Ngũ Đại Sử (12) cũng vậy. Ấy là do những nhân vật có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng học thuật thời ấy như các ngài Huyền Trang và Nhất Hạnh (vì các vị đó là cao tăng nhà Phật), cũng như thiếu hẳn khí thế bi tráng khi mô tả các sự kiện như trong bộ Cựu Đường Thư. Nhiều sự kiện bị họ Âu tùy tiện sửa đổi theo thiên kiến nên không đáng được coi như một sử liệu khả tín. Sau này, Ngô Chẩn đã viết cuốn Tân Đường Thư Củ Mậu (uốn nắn những sai lầm trong bộ Tân Đường Thư) để nêu lên bốn trăm sáu mươi điều sai lầm trong bộ Tân Đường Thư, đồng thời phê phán rất nặng: “Không biết cách san định những điểm trọng yếu, chỉ biết tuân theo những gì mình ưa thích!”. Học giả Vương Hân Phu còn chê thẳng thừng: “Bọn Âu Dương Tu chỉ biết viết văn, coi thường khảo chứng!”

    Văn Trung Công Lâm Tắc Từ học vấn, trí thức, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa đều ít thấy trong đời Thanh trước kia. Tuy bận bịu việc nước, ông chẳng hề gián đoạn việc tu trì Tịnh nghiệp chút nào vì học Phật chính là căn bản của học vấn, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa vậy. Đã có được căn bản này thì ứng xử đều thích đáng, xử sự đều hợp lẽ. Đấy chính là nguyên do vì sao bậc đại nhân đời xưa vượt trỗi những hạng tầm thường. Một bữa nọ, chắt của Văn Trung Công là ông Tường, tự là Bích Dư, đưa cho tôi xem cuốn kinh gồm các bài kinh chú Di Đà, Kim Cang, Tâm Kinh, Đại Bi, Vãng Sanh do Văn Trung Công đã đích thân viết, trang bìa ghi “Tịnh Độ Tư Lương”. Trên mặt cái hộp đựng sách đề Hành Dư Nhật Khóa (Khóa tụng hằng ngày trong lúc ngồi xe).
    Đủ biết Văn Trung Công ngầm tu pháp môn Tịnh Độ, tuy ra vào, đi lại, vẫn chẳng chịu bỏ phế. Do dùng để trì tụng lúc đi xe, cuốn kinh ấy chỉ dài khoảng bốn tấc, rộng ba tấc. Chữ viết cung kính, mực thước, không một nét bút nào cẩu thả, đủ thấy lòng cung kính, chí thành của ông, chẳng dám coi thường, chểnh mảng chút nào! (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Trình bày ý nghĩa ẩn kín nơi cuốn Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Văn Trung Công)
    * Thánh giáo của Như Lai pháp môn vô lượng, tùy ý nương theo một pháp nào đó, dùng Bồ Đề tâm tu trì cũng đều có thể liễu sanh thoát tử, thành Phật đạo. Nhưng khi đang tu còn chưa chứng, sẽ có sự khó - dễ, nhanh - chậm rất lớn. Cầu lấy pháp viên mãn nhất, nhanh chóng nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, vừa khế cơ lẫn khế lý, vừa là tánh, vừa là tu, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp hoàn toàn lợi căn lẫn độn căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt để trời, người, phàm, thánh chứng Chân thì không chi bằng một pháp “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”.
    Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật cậy thêm Phật lực. Cậy tự lực thì nếu chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể vượt thoát tam giới, còn cậy vào Phật lực thì tín nguyện chân thành, thiết tha sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Người trong thời hiện tại muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này sẽ trọn chẳng có hy vọng gì!
    Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ pháp nào cũng viên thông, như vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa trời, con sông nào cũng đều hiện bóng. Thủy ngân rớt xuống đất, viên nào cũng tròn xoe. Chẳng riêng gì cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, trị quốc, giữ yên cõi bờ đều có lợi ích lớn lao, mà ngay cả sĩ, nông, công, thương, muốn phát triển sự nghiệp, già, trẻ, trai, gái muốn tiêu diệt bệnh tật khổ sở, không gì chẳng tùy theo lòng cảm mà ứng, thỏa lòng, mãn nguyện. (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ, Duyên khởi trùng tu Niệm Phật Đường và mở liên xã tại chùa Tư Phước, Phụ Dương)

    ------------
    9). Tiềm đức u quang: Những đức hạnh tốt đẹp ngầm kín, không bộc lộ.
    10). Cựu Đường Thư được biên soạn dưới đời Hậu Tấn. Năm Thiên Phúc thứ sáu (941), Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) sai bọn văn thần Trương Chiêu Viễn, Giả Vĩ… soạn bộ sử về triều Đường do tể tướng Triệu Oánh làm Tổng Giám Tu (Chief Editor). Đến năm Khai Vận thứ hai (945) sách mới hoàn thành. Lúc ấy, Lưu Hú đã thay Triệu Oánh làm Tể Tướng nên sách ghi tên vị Tổng Giám Tu là tể tướng Lưu Hú. Thoạt đầu, sách mang tên là Đường Thư, đến đời Tống khi nhóm các văn thần do Âu Dương Tu cầm đầu biên soạn bộ sử mới về nhà Đường, liền đổi tên tác phẩm này thành Cựu Đường Thư. Bộ Cựu Đường Thư dày đến 200 quyển, chép những sự kiện lịch sử từ năm Vũ Đức nguyên niên (618) đời Đường Cao Tổ đến năm Thiên Hựu thứ tư (907) đời Đường Ai Đế.
    11). Bộ Tân Đường Thư do các văn thần Âu Dương Tu, Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lã Hạ Khanh cùng biên soạn, tổng cộng gồm 225 quyển. Do Tống Nhân Tông chê bộ Đường Thư biên chép lộn xộn, nhiều chi tiết thừa thãi, văn phong không rõ ràng, nên năm Khánh Lịch thứ tư (1044), vua xuống chiếu sai Âu Dương Tu, Phạm Kỳ v.v… sửa chữa, tu đính bộ Đường Thư để tạo thành một bộ sử mới. Bộ sử mới biên soạn trong suốt 17 năm mới xong. So với bộ Cựu Đường Thư, văn phong Tân Đường Thư tao nhã hơn, những bài viết dài hơn, hoa mỹ hơn, nhưng nội dung, dữ liệu chỉ bằng 7/10 bộ sử cũ. Tư Mã Quang khi soạn bộ Tư Trị Thông Giám chỉ sử dụng dữ liệu từ bộ Cựu Đường Thư; ông chê Tân Đường Thư chỉ có ưu điểm văn phong tao nhã, chứ đã tùy tiện lược bớt quá nhiều những sự kiện lịch sử, nhất là những dữ kiện về mối quan hệ ngoại giao giữa Đại Đường và các nước lân cận, lược bỏ truyện ký của chỉ sợ thiên hạ đời sau biết Phật pháp hữu ích cho thân tâm tánh mạng, cho nền chánh trị của nước nhà, rồi sẽ học theo! Những sử quan khác đa phần thuộc loại tri kiến hẹp hòi câu nệ ấy. Vì vậy, sự tiềm tu mật chứng của những bậc đại nhân xưa kia đều chẳng được biết đến!
    12). Ngũ Đại Sử gồm hai bộ Cựu và Tân. Cựu Ngũ Đại Sử vốn có tên là Lương Đường Tấn Hán Châu Thư, nên thường được gọi tắt là Ngũ Đại Sử, được biên soạn từ tháng Tư năm Khai Bảo thứ sáu (973) đến tháng Mười năm Khai Bảo thứ bảy (974) theo lệnh của Tống Thái Tổ, do Tiết Cư Chánh cầm đầu một nhóm văn thần chấp bút. Bộ sử này chép những sự kiện lịch sử từ năm Khai Bình nguyên niên (907) đời Hậu Lương đến năm Hiển Đức thứ bảy (960) đời Châu Thế Tông (tức năm nhà Hậu Châu bị Bắc Tống diệt), gồm 150 quyển. Về sau, Âu Dương Tu tự biên soạn tu chỉnh bộ Ngũ Đại Sử, đặt tên là Ngũ Đại Sử Ký (đến thời Càn Long được gọi là Tân Ngũ Đại Sử), bộ sử mới được hoàn tất vào năm Hoàng Hựu thứ năm (1053), nhưng chỉ cất giữ tại tư gia, không phổ biến. Đến khi Âu Dương Tu mất, người nhà dâng lên triều đình, được phê chuẩn lưu hành. Khi bộ này được lưu hành, bộ Cựu Ngũ Đại Sử dần dần biến mất. Theo những sử quan thời cổ như Tư Mã Quang nhận định, khi biên soạn Tân Ngũ Đại Sử, Âu Dương Tu đã tùy tiện cắt xén những dữ liệu lịch sử theo thiên kiến yêu - ghét cá nhân, thiếu hẳn tính công bình, cẩn trọng cần có nơi một sử quan. Do vậy, đến thời Càn Long, dựa vào những phần được bảo tồn trong bộ Vĩnh Lạc Đại Điển đời Minh và hai mươi bộ sách giá trị khác như Sách Phủ Nguyên Giám, Thái Bình Ngự Lãm, Tư Trị Thông Giám Khảo Dị, Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc, Thiên Trung Ký, Cổ Kim Tánh Thị Thư Biện Chứng v.v… Thanh triều đã cố gắng phục hồi diện mạo của bộ Cựu Ngũ Đại Sử, quy định bộ Cựu Ngũ Đại Sử là chánh sử, còn Tân Ngũ Đại Sử chỉ được coi như một tác phẩm văn chương. Ngô Chẩn (một học giả đời Thanh) đã biên soạn cuốn Ngũ Đại Sử Toản Ngộ (tập hợp những sai lầm trong bộ Ngũ Đại Sử) ba quyển để nêu lên những điều sai lầm nặng nề trong bộ Tân Ngũ Đại Sử. Sau đấy, Ngô Lan Đình đời Thanh cũng soạn bộ Ngũ Đại Sử Ký Toản Ngộ Phụ gồm sáu quyển để nêu tiếp những sai lầm trong bộ sử của Âu Dương Tu mà Ngô Chẩn chưa nhắc đến. Các sĩ phu nổi tiếng đời Thanh như Cố Viêm Vũ, Tiền Đại Hân cũng chê Âu Dương Tu luôn tự phụ đã viết sử theo phong cách kinh Xuân Thu, nhưng hoàn toàn chẳng hiểu thấu đáo cách viết sử của kinh Xuân Thu cũng như không phân biệt được sự khác biệt giữa chép sử và viết văn!





  16. The Following User Says Thank You to tinhnghiep For This Useful Post:

    uubatac (09-03-2015)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •