DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 9/11 ĐầuĐầu ... 7891011 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 81 tới 90 của 107
  1. #81
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    12. Bà cư sĩ ngộ đạo



    Ở Ấn Độ có một ngôi chùa, bên cạnh chùa có một cây tùng thuộc giống tùng Ông Uất Bà Sa, vì thế nên người ta lấy cây đặt tên cho chùa, gọi là chùa Cây Tùng.

    Trong chùa có hơn một trăm vị tăng cư ngụ, mỗi ngày tu tập pháp chỉ quán. Chư tăng nơi đây tu hành rất tinh tiến dũng mãnh, vì thế mà thánh nhân chứng quả trong chùa không phải là ít.

    Cách chùa Cây Tùng khoảng hai, ba dặm đường, có một bà cư sĩ tu tại gia. Bà thành tâm cung kính cúng dường các vị xuất gia đến mức cùng cực. Bà phát nguyện mỗi ngày thỉnh một vị tỳ-kheo đến nhà cho bà được cúng dường, vì thế chư tăng trong chùa Cây Tùng luân phiên nhau đến nhà bà thọ cúng. Cúng dường xong, bà còn muốn được nghe chư tăng thuyết pháp khai thị cho, nên các vị tỳ-kheo tuổi cao đức trọng tinh thông liễu giải Phật Pháp thì hoan hỉ chấp nhận, nhưng vì bà cư sĩ này cũng có thông hiểu đôi chút Phật pháp nên các vị tỳ-kheo sức tu học còn ít ỏi thiếu sót thì rất ngại không muốn đến nhà bà.

    Trong chùa Cây Tùng có một vị tỳ-kheo tên là Ma Ha Lô, cuối đời mới xuất gia, tuy tuổi rất cao nhưng sự hiểu biết về Phật Pháp rất là ít ỏi. Chỗ thâm sâu của Pháp thì cố nhiên là mù tịt, nhưng ngay cả chỗ cơ bản tối thiểu ông cũng không biết.

    Một hôm, đến phiên ông đi thọ cúng. Ông dĩ nhiên không hề muốn đi chút nào vì tự biết mình không đủ sức thuyết pháp khai thị cho ai. Ông từ chối, đẩy người khác đi thế, nhưng đẩy tới đẩy lui mà chẳng ai nhận lời đi thế ông, ai cũng bảo rằng:

    – Tới phiên ông thì ông hãy đi chứ, đẩy người khác đi thế nghĩa là thế nào?

    Cuối cùng ông thầm nghĩ rằng:

    – Dù sao ta cũng là tăng sĩ, là phúc điền của chúng sinh, theo lẽ phải nhận sự cúng dường của người ta, cho người ta được dịp vun bồi ruộng phước và trưởng dưỡng gốc thiện. Tuy ta không biết thuyết pháp, nhưng không ai chịu đi thì tốt nhất là chính ta đi vậy.

    Vị tỳ-kheo già bèn chống gậy lần mò từng bước chầm chậm lên đường. Bà cư sĩ ở nhà chờ thật lâu, lòng nóng như lửa đốt vì đã đúng ngọ rồi mà vẫn chưa thấy ai tới. Khó khăn lắm lão tỳ-kheo mới lại tới, bà cư sĩ ngắm ông lão từ xa dáng điệu đạo mạo nghiêm trang, da dẻ hồng hào, đầu tóc bạc phơ, trong lòng cảm thấy vô cùng tôn kính, vội vàng lễ lạy nghênh đón:

    – Ngài là bậc trưởng lão tuổi cao đức trọng, được ngài quang lâm tệ xá, đệ tử cảm thấy vô cùng vinh hạnh!

    Bà một lòng nghĩ rằng vị lão tăng này nhất định phải là một vị trí huệ thâm sâu, sẽ có thể bố thí cho bà những bài pháp vi diệu vô thượng, vì thế bà hoan hỉ khôn kể xiết, vội vàng bày ra những món ăn tuyệt mỹ nhất để cúng dường vị lão tỳ-kheo.

    Cúng dường xong, bà thỉnh vị lão tỳ-kheo ngồi lên tòa cho bà đảnh lễ, và quỳ dưới đất, bà thỉnh ngài thuyết pháp khai thị.

    Vị tỳ-kheo đăng bảo tòa rồi, trong lòng xấu hổ muôn phần, thấy mình thật là ngu si một cách đáng thương vì không hề biết gì về Phật pháp. Không có cách nào khác, ông thở dài một tiếng rồi nói nhỏ:

    – Sự ngu si của con người đúng là gốc rễ của muôn phiền não!

    Nói xong, ông bước xuống bảo tòa bỏ đi. Bà cư sĩ đang quỳ dưới đất, cảm thấy đây là bài pháp vô thượng vi diệu nhất mà bà từng được nghe từ trước đến nay. Bà suy nghĩ phân tích kỹ lưỡng như sau:

    “Ngu si có nghĩa là vô minh, mà vô minh là căn bổn của mười hai nhân duyên; vì có cái căn bổn vô minh này nên con người ở mãi trong bể khổ, sinh sinh tử tử triền miên không ngừng trong luân hồi, tất cả mọi khổ não đều do đây mà phát khởi.”

    Bà cứ mãi tinh tiến tư duy như thế không ngừng nên ngay lúc ấy chứng quả A-la-hán.

    Chứng được quả vị rồi, bà cư sĩ muôn phần hoan hỉ, vào kho lấy ra một tấm thảm dạ lớn màu trắng để cúng dường vị lão tỳ-kheo, nhưng bà tìm khắp nơi không thấy vị này. Sự thật là vị này xuống tòa xong đã bỏ về chùa Cây Tùng ngay, nhưng bà cư sĩ vì mãi chú tâm suy nghĩ bài pháp của ngài ban cho nên lúc đó không nhìn thấy ngài ra về. Tìm mãi không thấy, nên bà đinh ninh là vị này có thần thông, vội vàng mang lễ vật lên chùa cúng dường.

    Lão tỳ-kheo về chùa rồi, có người vào báo có bà cư sĩ đến tìm, ông nghĩ bà này lại muốn nghe pháp nữa nên không chịu ra tiếp. Bà cư sĩ cứ khăng khăng muốn gặp, nên người vào thông báo lúc nãy rất lấy làm khó xử, hỏi bà:

    – Chẳng hay bà nhất định gặp vị ấy để làm gì vậy?

    – Ngài ấy đã giúp tôi giải thoát căn bổn của khổ, vì thế tôi muốn cúng dường cảm tạ.

    Khi lão tỳ-kheo biết bà không đến để đòi nghe pháp mới chịu ra nhận cúng dường.

    Qua chuyện này mới biết, dù một pháp hay tất cả pháp, khi nhân duyên hội tụ đầy đủ, chỉ cần một câu nói là người nghe liền có được lợi lạc lớn, một đời thọ dụng cũng không hết. Nhân duyên chưa đầy đủ thì dẫu lời nói như hoa sen tuôn khỏi miệng cũng chỉ phí công vô ích!



  2. #82
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    13. Vua A Dục hối lỗi


    Một trăm năm sau khi đức Phật nhật Niết-bàn, vị vua trị vì nước Ấn Độ tên là A Dục. Vua A Dục tính tình vô cùng tàn bạo, thích tự tay giết người, và lấy chuyện giết người làm niềm vui.

    Ngày nào vua A Dục cũng phải giết người mới vui, ban đầu ông chỉ giết những tội phạm trong tù, về sau số tội nhân không còn bao nhiêu và cuối cùng, không còn ai cho ông giết nữa. Nhưng ông lại quen thói giết người rồi, nên phải quay sang bắt người vô tội đem ra giết.

    Vua quen giết người nên thấy đó là chuyện thường, nhưng dân chúng thì sợ hãi đến cực độ. Có một vị đại thần thấy thế không chịu đựng được nữa nên đã dâng kiến nghị lên tâu rằng:

    – Đại vương, mỗi ngày đại vương lấy việc tự tay giết người làm trò vui, nhưng ảnh hưởng của việc này đối với nhân tâm hiện tại đã không tốt, đối với hậu thế cũng không tốt. Nếu đại vương thích chuyện giết chóc, chúng thần có thể tìm một người hiếu sát làm chuyện ấy thay thế cho đại vương, để đại vương khỏi bị mang tiếng sát nhân, chẳng hay đại vương thấy thế nào?

    Vua A Dục thấy giải pháp này rất hay nên chấp thuận, bảo họ đi tìm một người như thế. Các vị đại thần đi tìm khắp nơi một kẻ khát máu về làm đao phủ thủ, nhưng không ai bằng lòng nhận lãnh làm việc này.

    Về sau, tại một địa phương hẻo lánh, họ tìm được một người tên là Kỳ Lệ, đây là một người tính tình cực kỳ hung ác bạo ngược, tàn khốc không ai bì kịp.

    Người này sinh sống bằng nghề săn thú, chuyên môn dùng tên độc bắn chết thú vật, lại còn thích giết người, nên ai ai cũng xa lánh chẳng dám đến gần. Kỳ Lệ đến thành Hoa Thị là thủ đô của vua A Dục, vua gặp người sắp thay thế mình thì rất hài lòng.

    Kỳ Lệ xin vua A Dục xây cho mình một tòa nhà thật lớn dùng làm pháp trường, trong đó bày biện đủ các thứ khí cụ để giết người. Trong pháp trường, họ còn đặt ra các phương pháp khác nhau để tra tấn giết chóc, và quyết định rằng hễ có người đặt chân vào tòa nhà này rồi thì không có ngày trở ra, vì thế tòa nhà này có tên là “địa ngục nhân gian”.

    Tại một vùng duyên hải, có một cặp vợ chồng sinh được một đứa con trai, vì họ sống ở ven biển nên đặt tên cho con là Vị Hải.

    Về sau nhà này bị giặc cướp tấn công, hai vợ chồng chẳng may mất mạng, chỉ còn lại Vị Hải tuổi còn nhỏ mà đã mất cả cha lẫn mẹ, không biết làm sao mà sống. May có một vị tỳ-kheo đi ngang chỗ ấy, thấy thế bèn đem Vị Hải về cho xuất gia.

    Vị Hải theo sư phụ xuất gia làm sa-di, rất ngoan ngoãn tinh tiến tu hành. Một hôm, chú đến thành Hoa Thị khất thực, thấy một tòa nhà cao lớn, muốn khất thực hóa duyên nên mới tiến vào bên trong. Chú không thấy bóng dáng một người nào mà chỉ thấy hai bên bày biện những khí cụ giết người rất ghê rợn, chú lấy làm quái dị, vội vàng tìm đường thối lui, nhưng bỗng nhiên người giữ cửa tiến tới cản đường:

    – Ê! Chú sa-di kia! Chú không biết quy luật ở đây sao? Tòa nhà này có tên là Địa ngục nhân gian, do Đại vương Vô Ưu[12] sai chủ nhân của ta là ông Kỳ Lệ về đây trấn thủ. Ai vào đây rồi đều không được trở ra nữa!

    Lúc ấy Kỳ Lệ nghe có tiếng người cũng bước ra, ngăn không cho Vị Hải tìm đường trốn thoát:

    – Số của mi xui xẻo, thôi thì hãy ngoan ngoãn chờ chết đi!

    Vị Hải biết rằng lý luận với những kẻ không còn nhân tính này không ích lợi gì, nên nói:

    – Tôi không hề sợ chết, nhưng nghĩ mình tu hành chưa chứng được quả vị, thật là đáng tiếc. Bây giờ tôi chỉ xin các ông kỳ hạn cho tôi một tháng nữa thôi, cho phép tôi gia công tu hành, sau đó tôi sẽ để cho các ông tùy ý xử tử.

    – Xin gia hạn ngày chết, mi thật là vọng tưởng! Nhưng thôi được, ta niệm tình mi nhỏ tuổi, nhưng một tháng lâu quá. Ta chỉ gia hạn cho mi bảy ngày nữa thôi!

    Vị Hải chỉ còn có bảy ngày nữa để sống, chú bèn lui vào một góc nhà gia công tu hành, hy vọng trong thời hạn bảy ngày ngắn ngủi đó có thể giác ngộ và chứng quả.

    Nhưng giác ngộ chứng quả không phải là chuyện dễ dàng, mà thời gian thì cứ thế mà từng ngày từng ngày trôi qua. Hôm nay đã qua tới ngày thứ bảy rồi, Vị Hải chỉ còn có ngày hôm nay để sống nữa thôi, ngày mai sẽ phải chịu xử tử hình. Thế mà hiện bây giờ vọng niệm còn rối bời trong tâm chú, còn giác ngộ và chứng quả thì chẳng thấy tăm hơi đâu cả!

    Chiều tối đến, “địa ngục nhân gian” có thêm một người khách, đó là một thiếu nữ bị kết tội không trinh tiết.

    Vị Hải nhìn thấy tên Kỳ Lệ lòng lang dạ thú dùng chùy sắt đập vào đầu, vào mặt cô gái, cô gái bị đánh đến lòi cả mắt ra ngoài. Bỗng nhiên chú khởi tâm thương xót, và đối với thế gian thì lại khởi tâm yếm ly muốn xả bỏ. Chú chợt nhớ lại lời dạy của đức Phật “sắc thân con người do ngũ ấm hợp thành, rất mong manh và không có thật”. Chú nhìn lại cô thiếu nữ nọ, bị đánh thêm một cái nữa là trong khoảnh khắc hồn lìa khỏi xác.

    Thân người thì không có gì chắc chắn, thế gian thì đầy khổ não, nếu không phải là một thánh nhân giải thoát thì không có cách nào tránh khỏi khổ đau. Vị Hải lại nỗ lực quan sát thêm nữa, đêm càng lúc càng đen nhưng tâm của chú thì càng lúc càng sáng. Chú chứng được sơ quả Tu Đà Hoàn, gia công tinh tiến thêm, chứng được nhị quả, tam quả và cuối cùng thành tựu được đại quả A-la-hán. Lúc đó, bình mình của ngày thứ tám đã bắt đầu ló dạng.

    Kỳ Lệ bước tới trước mặt Vị Hải nói:

    – Bảy ngày đã qua rồi, hôm nay là ngày thứ tám, mi hãy chuẩn bị chờ chết.

    Vị Hải trả lời rất điềm nhiên:

    – Tốt lắm! Tốt lắm! Đêm đen của ta đã qua, ánh sáng của ta đã đến. Ngày tốt đến rồi thì ông cứ việc tùy ý mà xử tử!

    Kỳ Lệ ném Vị Hải vào trong một cái nồi bằng đồng, trong lòng nồi chứa đầy nước phân, nước tiểu dơ bẩn, phía dưới thì đốt củi khô. Lửa cháy đỏ hừng hực, ánh lửa rực lên một góc trời. Lửa đốt thật lâu nhưng nước cứ tiếp tục lạnh ngắt, cả cái nồi đồng cũng chẳng nóng lên chút nào.

    Kỳ Lệ cho châm thêm lửa mà vẫn chẳng thấy nhiệt độ tăng lên, hắn nổi cáu quát tháo người châm lửa là đồ vô dụng, rồi tự tay ném thêm vào lò rất nhiều củi gỗ, và còn thêm than và dầu. Lửa bùng to hơn, nhưng nước trong nồi vẫn mát rượi. Hắn đưa mắt nhìn xem Vị Hải đã chết chưa, thì thật là không thể tưởng tượng được! Nước dơ bẩn ô uế kia đã biến thành thanh tịnh từ bao giờ, trên mặt nước còn nổi lên những đóa hoa sen, còn Vị Hải thì ngồi kết già trên một đóa sen ngàn cánh.

    Bốn phía rực lên ánh sáng rực rỡ, nhưng không phải là một thứ ánh sáng tầm thường, mà là ánh sáng màu hoàng kim làm chói mắt người nhìn. Tên Kỳ Lệ hung ác ấy không biết phải làm gì hơn là đem chuyện này lên tâu với vua A Dục.

    Vua A Dục nghe chuyện, thấy đây là một sự kiện kỳ lạ nên đem thật nhiều đại thần tùy tùng đến xem thực hư ra sao. Thấy sự thật rồi, vua A Dục bỗng khởi lên một lòng tôn kính hy hữu, quỳ xuống đất xấu hổ mà nói:

    – Đại Đức! Xin hãy tha thứ cho bọn chúng con dốt nát, bây giờ được thấy ngài như thế này con rất là xấu hổ! Tất cả những thứ này đều do con gây tội, xin ngài từ bi tha thứ cho chúng con, cứu độ cho tất cả chúng con!

    Vị Hải nói:

    – Tốt lắm! Tốt lắm! Lúc đức Phật còn tại thế đã thọ ký cho ông rồi! Đức Phật có nói, một trăm năm sau khi Ngài nhập diệt, sẽ có một vị vua tên A Dục là đại hộ pháp của Phật giáo, truyền bá pháp âm và dựng tháp, tạo phúc.

    Vua A Dục nghe nói cách đây một trăm năm mà đức Phật đã biết sẽ có mình rồi, lại càng tăng thêm lòng tin, và xin quy y Tam Bảo. Bao nhiêu tâm ý ác độc đã tan biến hết, vua A Dục biết sám hối một cách chân thành nên được cứu độ.

    Vị Hải rất vui mừng vì đã làm được một việc công đức cho chúng sinh, vua A Dục cũng rất vui mừng vì đã tìm được chỗ quy y chân chính. Lúc vua A Dục lên tiếng thỉnh Vị Hải về cung với mình thì tên Kỳ Lệ bạo tàn, thấy vua A Dục sửa soạn lui về thành vội vàng tiến lên cản đường:

    – Đại vương! Chính ngài là người đưa ra quy luật là chỗ này chỉ có thể vào chứ không thể ra. Bây giờ ngài cũng không được phép đi ra, xin ngài ở lại chịu tội.

    Vua A Dục nghe thế giật mình kinh hoàng, nhưng ông tự trấn tĩnh lại ngay, hỏi rằng:

    – Mi là người vào đây trước, hay ta là người tới trước?

    – Thần là người vào đây trước!

    – Nếu mi là người vào đây trước thì mi sẽ bị trị tội trước!

    Đám đại thần tùy tùng của vua bèn tóm ngay Kỳ Lệ ném vào lửa cho chết cháy, và dở tháo, hủy diệt luôn căn nhà “địa ngục nhân gian” ấy.

    Từ đó trở đi, vua A Dục dùng chính sách nhân từ trị dân, dựng tháp cúng dường, gieo rắc Pháp Phật ở nước ngoài, dân chúng do đó được sống những chuỗi ngày an lạc.

    Sám hối là con đường đưa đến sự cứu độ. Người bằng lòng sám hối là người được sống một cuộc đời mới. Như vua A Dục vốn là một người hung ác, thế mà chịu sám hối sửa lỗi, trong một niệm đã trở thành một người thiện lành.

    Sửa lỗi và sám hối thật là một pháp môn đại công đức, đáng tôn quý lắm vậy!



  3. #83
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    14. So sánh phúc báo



    Cách đây chừng hơn 2.400 năm, nước Ấn Độ giống như vào thời Chiến quốc ở Trung Hoa, chia thành rất nhiều nước nhỏ và rất nhiều bộ lạc. Vua A Dục, một vị vua có phúc báo thù thắng, đã chinh phục tất cả các nước nhỏ và các bộ lạc ấy quy làm thành một quốc gia. Đó cũng là lần đầu nước Ấn Độ được thống nhất trong lịch sử.

    Vua A Dục rất tài giỏi và anh dũng, ông đã đào tạo một đội quân kiên cường, một đoàn ngựa hùng mạnh. Hơn nữa, đối với dân ông thành thật như đối với chính mình, nên chẳng bao lâu, uy đức ông đã cảm hóa được mọi người, ai ai cũng tôn sùng kính trọng ông.

    Nhưng chỉ có một điều đáng tiếc là bản tính ông vô cùng kiêu ngạo.

    Có một lần, ông chiêu tập quần thần và hỏi rằng:

    – Thế gian này còn có chỗ nào không thuộc về ta? Còn có người nào không phục tùng ta?

    Quần thần đồng thanh trả lời:

    – Trong thế gian này, không có chỗ nào là không thuộc về đại vương, cũng không còn một ai là dám không phục tùng đại vương.

    Mọi người nói xong thì có một vị quan đứng dậy tâu rằng:

    – Theo chỗ hạ thần biết, trong thế gian vẫn có nơi không thuộc về vua, thí dụ như long vương trong biển cả, từ trước đến nay không hề giao thiệp với chúng ta cũng chẳng bao giờ đem bảo vật đến triều cống, điều đó chứng tỏ rằng y không hề phục tùng đại vương.

    A Dục vương muốn thử xem phúc đức và uy lực của mình có thâu nhiếp được long vương hay không, nên đem ngàn vạn binh tướng, khua chuông gióng trống, cờ phướng rợp trời, cuồn cuộn kéo đến bờ biển, gằn giọng hét to:

    – Long vương! Ngươi ở trong biên cảnh của ta, tại sao lại có thái độ phản kháng, không xuất hiện đến gặp ta?

    Mặt biển mênh mông lặng lờ, chỉ có nhấp nhô tiếng sóng trả lời. Tuy vua A Dục thị uy ba lần như vậy, nhưng mặt biển vẫn im lìm không có phản ứng.

    Lúc ấy Long vương đang sống an nhiên trong long cung, tuy vua A Dục cuồng ngạo như vậy nhưng ông vẫn làm ngơ như không thấy. Vua A Dục lo lắng không biết phải xử trí ra sao, bèn hỏi quần thần rằng:

    – Có cách nào buộc long vương phải xuất hiện chăng?

    Có một vị quan tương đối có trí huệ lên tiếng trả lời:

    – Đại vương, xin đừng lo lắng, tới đúng lúc đúng thời thì không cần ai gọi, long vương cũng sẽ xuất hiện. Có thể bây giờ phúc báo của y lớn hơn phúc báo của đại vương nên y không chịu quy phục. Nếu đại vương muốn thử cũng có thể được: ngài hãy dùng hai cân vàng đúc hai pho tượng, một tượng của ngài, một tượng của long vương. Đem hai pho tượng ra so sánh, pho nào nặng hơn thì người đó có nhiều phúc đức hơn.

    Vua A Dục làm theo lời vị đại thần để thử nghiệm, khi đem ra cân thì kết quả tượng long vương nặng hơn. Đương nhiên khỏi nói, long vương có nhiều phúc báo hơn vua A Dục.

    Lúc ấy vua A Dục tự hiểu, hổ thẹn mình phúc bạc, từ đó lo gấp rút vun trồng cội đức, phát thiện tâm rộng lớn, cứu tế an ủi những người cô quả, nghèo khổ, người già và trẻ con trong nước. Ông còn lập chùa, dựng tháp ở mỗi huyện lỵ, cung kính thờ phụng tượng Phật, xá-lợi, khi thấy kinh điển thì khởi tâm sùng kính, tâm hoan hỉ, tăng chúng trong nước thì tuyệt đối được ông tôn trọng và thành tâm cúng dường.

    Cứ như thế trong suốt ba năm, ông lại đem hai bức tượng ra cân trở lại, thật là không thể tưởng tượng, lần này tượng của vua A Dục đã nặng hơn.

    Vua A Dục lại muốn thử một lần nữa xem có linh nghiệm hay không, bèn đem đại chúng ra bờ biển. Không cần vua kêu gọi hay truyền lệnh, từ xa long vương đã biến thành một người thanh niên đến đón rước vua, và đem rất nhiều châu báu đến triều cống.

    Mỗi người tự gieo trồng bồi đắp phúc báo của mình. Không có phúc báo mà muốn cho người khác cung kính là điều vọng tưởng, làm sao có thể được?



  4. #84
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    15. Làm vua bảy ngày


    Nước Ấn Độ có một vị vua nổi tiếng nhất, tài ba nhất, đức độ nhất, và được dân chúng kính trọng ngưỡng mộ nhất, đó là vua A Dục. Sau khi Phật nhập Niết-bàn chừng một trăm năm, vua A Dục đã thống nhất nước Ấn Độ và để lại cho đất nước này một trang sử huy hoàng.

    Vua A Dục là một vị Phật tử thuần thành. Lúc còn tại vị, không những ông dốc lòng tin tưởng đức Phật mà còn hết sức tích cực lo việc truyền bá Chánh pháp.

    Để phát khởi lòng tin của dân chúng đối với Phật pháp, ông đã mất không biết bao nhiêu là tâm trí lẫn công sức, tiền tài vào việc lập tháp cúng dường đức Phật ở khắp mọi nơi.

    Ngày hôm nay, nước Ấn Độ còn lại rất nhiều di tích của những chùa và tự viện lớn. Rất nhiều trong số đó là những kiến trúc được xây lên từ thời vua A Dục.

    Vua hết sức nhiệt tình trong việc truyền bá và tự mình tu tập Phật pháp nên bản thân có được một cuộc sống rất phong phú và an vui. Điều làm cho ông buồn tiếc nhất là người em tên là Thường Tu, người em của ông, không những không tin Phật mà còn tin theo tà giáo, đi đến đâu cũng hủy báng Phật pháp. Vua A Dục thường khuyên răn ông, nhưng Thường Tu rất cố chấp, vua không biết phải xử trí bằng cách nào.

    Một hôm trời tối, Thường Tu bước vào hoàng cung, nói với vua A Dục rằng:

    – Vương huynh! Hôm nay đệ khám phá ra một điều và nghĩ tới một số vấn đề, không biết có thể nói với vương huynh không?

    Thường Tu nói xong, mở to hai mắt nhìn thẳng vua A Dục, đợi lệnh của vua.

    – Thường Tu! Hiền đệ là người em mà ta thương mến nhất, từ trước tới giờ ta không hề có sự phân biệt với hiền đệ, đệ nên thường giúp ta trong việc trị nước mới phải, vậy có chuyện chi mà đệ không nói được với ta chứ? Đệ muốn nói gì thì cứ nói đi!

    Thường Tu bèn tỏ ra rất nghiêm chỉnh:

    – Vương huynh! Đệ muốn nói với vương huynh một vài lời trung thật. Huynh đối với mấy ông tỳ-kheo Phật giáo quá đỗi cung kính, quá đỗi ủng hộ mấy ông ấy, coi chuyện Phật sự còn quan trọng hơn việc quốc gia. Đệ thấy mấy ông tỳ-kheo chẳng có gì xứng đáng cho vương huynh cung kính tôn trọng như thế cả, nên đệ khuyên vương huynh nên coi trọng việc nước hơn.

    Những lời hủy báng của Thường Tu, vua A Dục nghe như những mũi tên đâm vào tim, trong lòng rất buồn nên vội vàng ngăn lại rằng:

    – Thường Tu, đệ hãy ngừng ngay những lời nói ấy. Hủy báng Tam Bảo là có tội. Đệ không hiểu sự cao quý của các vị tỳ-kheo, họ là những người đã đoạn trừ được ái dục, xa lìa thân quyến để xuất gia cửa Phật, khoác áo cà-sa, hoằng pháp lợi sinh, tìm cầu sự an lạc cho nhân dân, cho xã hội. Phật giáo có hưng thịnh thì đất nước mới ổn định được.

    Nghe những lời của vua A Dục, Thường Tu đã không đồng ý mà còn nói rằng:

    – Vương huynh! Huynh không nên tin họ như thế, cúng dường mấy ông tỳ-kheo ấy thì có lợi ích gì? Đệ thấy không những vô ích cho quốc gia, mà còn có hại đối với nhân tâm. Cả ngày họ không làm việc, ngồi đó mà hưởng phúc, không lẽ dân chúng không muốn bắt chước sống như thế hay sao? Hơn nữa, huynh nói họ là những người đã đoạn trừ ái dục, kỳ thật chuyện ấy không thể nào có được. Huynh xem, loài vật còn biết thế nào là tình ái, huống chi là loài người?

    Những tà ngôn tà kiến ấy làm cho vua A Dục rất buồn khổ, cuối cùng ông nghĩ ra một giải pháp để sửa đổi quan niệm lầm lạc của Thường Tu.

    Một hôm vua A Dục bí mật gọi một vị đại thần vào cung, căn dặn phải làm như thế, như thế... Vị đại thần lập tức vâng theo lời dặn dò của vua mà thi hành.

    Vào lúc trời chạng vạng tối, vua A Dục đang tắm ngoài ao, thì vị đại thần nọ cùng Thường Tu bước vào cung, thấy vua A Dục vắng mặt mà vương mão cùng long bào thì bày ngay đấy, vị đại thần bèn nói với Thường Tu rằng:

    – Thân vương! Tướng mạo, khuôn mặt của ngài và đại vương hết sức giống nhau, nếu ngài khoác long bào vào thế nào cũng có người lầm tưởng ngài là vua A Dục. Thân vương, ngài làm thử mà xem!

    Thường Tu biết đây là một việc phạm pháp, nhưng tâm hiếu kỳ và tâm hư danh thúc đẩy, ông bèn mặc long bào và đội vương mão lên. Đúng ngay lúc ấy vua A Dục bước vào, thấy thế nổi giận, trách mắng Thường Tu rằng:

    – Ngươi thật là to gan, dám lén lấy áo mão của ta mà mặc, có phải là ngươi muốn làm phản không? Ngươi tính chuyện soán ngôi, có phải chăng?

    Chứng cớ đã rành rành, Thường Tu còn chạy chối vào đâu được? Vua A Dục hạ lệnh:

    – Đem hắn ra ngoài cửa thành chém đầu lập tức!

    Vị đại thần nọ bèn vội vàng tiến đến can gián:

    – Đại vương! Thường Tu là em vua, không phải người ngoài, hơn nữa đây là lần đầu tiên xúc phạm long nhan, xin đại vương tha tội cho thân vương!

    Vua A Dục nhìn xuống nét mặt ủ dột của Thường Tu, rồi đột nhiên hỏi:

    – Thường Tu, ta hỏi ngươi, ngươi có thích làm vua không?

    Thường Tu trả lời rất nhỏ:

    – Tuy rất thích nhưng thần không dám vọng tưởng.

    – Làm vua thì vui sướng ở chỗ nào?

    Bây giờ thì Thường Tu đã lấy lại can đảm, trả lời rằng:

    – Vua là người được tôn trọng nhất nước, những khoái lạc vua hưởng kể ra không hết, mà những diễm phúc vua có thì nói ra cũng không cùng tận. Đồng thời cũng không có ai ở trên cai quản vua, như thế không phải vui sướng là gì?

    – Được! Ngươi đã muốn làm vua thì ta nhường ngôi cho ngươi trong bảy ngày, ngươi có quyền tận hưởng ngũ dục tùy thích. Nhưng mãn kỳ hạn ấy, ngươi sẽ bị xử tử.

    Vua A Dục quy định như thế xong bèn lui về hậu cung, và bí mật ra lệnh cho một vị thị thần đến trước cửa nhà của Thường Tu, chờ ông này chiều chiều từ cung điện trở về thì nhắc nhở một câu.

    Người thị thần tay cầm thanh đao bén, đứng ngay tại cửa nhà, mỗi khi thấy Thường Tu trở về thì lớn tiếng hô rằng:

    – Thêm một ngày vừa mới trôi qua, còn mấy ngày nữa thì xử tử hình!

    Thường Tu rất sợ chết, nghe thế mỗi ngày mỗi thêm phiền não, bất an. Không những ông không khởi lên được một niệm dục lạc nào, mà còn lo âu đến nỗi hình dung tiều tụy hẳn. Bảy ngày làm vua trôi qua trong khổ sầu, đến sáng ngày thứ tám, vua A Dục lên ngôi báu trở lại, hai bên có văn võ bá quan đứng hầu, hỏi Thường Tu rằng:

    – Sao, ngươi làm vua bảy ngày, hẳn là đã hưởng thụ rất nhiều dục lạc phải không?

    Thường Tu nghe vương huynh hỏi như thế thì ủ rũ cúi đầu trả lời:

    – Trong bảy ngày vừa qua, thật sự đệ không nghe, không thấy gì hết, nói chi tới chuyện hưởng thụ. Mỗi ngày về đến cửa nhà, thấy tên thị thần tay cầm thanh đao sáng loáng, miệng lại hô lớn số ngày còn lại, đủ làm cho đệ ưu khổ rồi, còn tâm trí đâu mà nghĩ tới mấy thứ lạc thú kia nữa? Vì thế cho nên trong bảy ngày qua, đệ không nhìn thấy, cũng không nghe thấy gì cả.

    Câu nói của Thường Tu làm cho vua A Dục hết sức vui lòng và yên tâm, ông bèn nói:

    – Thường Tu, các vị tỳ-kheo xuất gia thường tư duy đến vấn đề sinh tử lớn lao ấy, vì thế họ không thể có tâm trí đâu mà sinh khởi niệm ái dục hay tham luyến vật chất bên ngoài.

    Vua A Dục còn thuyết rất nhiều pháp liên quan tới sự đau khổ của nhân sinh đối với vấn đề sinh tử, khiến Thường Tu cảm động rơi lệ, bèn phát tâm quy y Phật pháp và còn xin vương huynh cho phép mình xuống tóc xuất gia nữa.



  5. #85
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    16. Tâm không thối chuyển


    Thuở xưa có một người, tuy không được ai giáo hóa cho, nhưng vì đụng chạm trong đời, bị chuyện thế sự giày vò, chuyện thị phi nhân ngã làm cho khốn đốn quá nhiều, phải chịu khổ vì phiền não nên đâm ra có những suy nghĩ như sau:

    “Một con người trầm luân trong cõi trần lao này, cuối cùng được gì? Trong vũ trụ mênh mông con người bé nhỏ li ti chỉ như một hạt cát của sông Hằng, thế mà suốt ngày tâm trí chỉ dùng trong việc tranh đoạt hoặc lừa gạt dối trá bên ngoài, đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời mang theo được gì? Một đời người như thế, thử hỏi có ý nghĩa nào không?”

    Ông lại nghĩ đến đời sống của người tu hành, đó là những người làm việc vì chúng sinh, đời sống như thế cao cả biết bao! Người tu ít nhất không bị thế sự trần lao làm cho khốn đốn phiền não; hơn nữa, họ còn có thể chứng đắc được thánh quả, giải thoát khỏi mọi khổ não.

    Nghĩ đến đây, ông rời bỏ gia đình đi tu, làm một vị sa-môn.

    Vị sa-môn này từ sáng sớm đến chiều tối chăm chỉ tu học, không phút nào dám giải đãi. Chỉ cần nhớ lại đời sống của ông lúc trước và cái quả vị thánh mà ông nhắm đến trong tương lai cũng đủ thôi thúc ông chuyên cần học đạo.

    Nhưng năm này sang tháng khác đã trôi qua mà ông vẫn chưa chứng đắc được quả vị nào, không lẽ công phu sâu dày như thế mà vẫn không chứng được đạo hay sao? Ông càng nghĩ càng lo sợ, hẳn là mình đã lầm đường lạc lối hay đang bị tà ma phá phách? Ôi! Chẳng thà trở về nhà làm kiếp phàm phu cho rồi, cần gì phải tu hành khổ sở như thế này!

    Ông quyết định sửa soạn bỏ về nhà, rồi bỗng lại do dự. Sự thành công hay thất bại có khi được định đoạt chỉ trong một niệm: bỏ đi thì mấy năm cần khổ học đạo vừa qua coi như đổ xuống sống xuống biển, hy vọng ngộ đạo coi như mất vĩnh viễn; còn nếu lấy lại tinh thần để tiếp tục con đường tu hành, biết đâu có thể thành tựu một ngày nào đó chăng?

    Trong lúc những ý nghĩ nên đi hay nên ở như thế đang quay cuồng trong đầu ông, thì có một vị thần cây trong núi thấy thế cảm động, vì trong kiếp trước đã từng có nhân duyên với ông. Thần cây rất lo lắng cho ông, biết rằng nếu ông trở về thì sẽ vĩnh viễn trôi nổi trong biển rộng sinh tử.

    Thần cây bèn dùng chút thần thông thử thách, biết đâu xoay chuyển được ý chí của ông và giúp cho ông thành tựu đạo nghiệp? Thần cây hóa thành một vị tỳ-kheo ni xinh đẹp, ăn mặc diêm dúa, đeo đầy nữ trang châu báu, ưỡn ẹo làm dáng đến trước mặt vị sa-môn.

    Vị sa-môn thấy thế không chịu được, bèn nghiêm sắc mặt lại mà mắng rằng:

    – Cô là tỳ-kheo ni, là người xuất gia học đạo, tại sao lại ăn mặc theo lối thế tục? Tại sao lại làm bộ làm tịch để làm quáng mắt người khác?

    Hóa nhân tỳ-kheo ni trả lời:

    – Chuyện ấy có quan hệ gì? Quần áo, nữ trang chỉ là huyễn hóa, phấn son chỉ là màu sắc, thì có gì đáng tham luyến đâu? Tất cả đều là giả tướng, chính thân của ông lẽ nào không đồng một thể hay sao? Trước mắt thì thấy có tuổi thanh xuân, có sức khỏe dồi dào, nhưng một khi vô thường đến, đất nước lửa gió phân tán rồi, thì chủ của thân ấy ở đâu? Vô tướng, thật tướng, chân như vốn bất sinh bất diệt, biết rõ các pháp bổn lai là như thế thì chứng đạo có chi là khó khăn?

    Một con người sống trên thế giới này giống như mặt trăng trên trời vậy: một mình một bóng, đến một mình và đi cũng một mình, trên thân khi đến không mang một thứ gì và khi đi cũng sẽ không mang theo được một thứ gì, không có vật chi thuộc về mình một cách chân thật.

    Chúng sinh ngu si, trong những hoàn cảnh hư huyễn không thật mà sinh tham luyến, mê say đến nỗi tự ràng buộc mình vào đó. Không phải cảnh giới mê hoặc con người, mà chính là con người tự đắm chìm vào cảnh giới; không phải phiền não trói buộc con người mà chính là con người tự đi tìm phiền não để cột ràng mình vào. Vì mê lầm mà tham ái cảnh vật hư huyễn không thật nên suốt một đời sống như mộng, như say, như si, mà còn ngày đêm oán trời hận người. Họ không hiểu cái khổ không phải là cái gì tự có, mà là do ác nghiệp của chính họ chiêu cảm đến.

    Chúng sinh thật đáng thương! Ngẫu nhiên tạo được vài nhân thiện, chiêu cảm được vài phúc báo, thế là đã mãn nguyện, dương dương tự đắc, không hiểu rằng phúc báo cũng chỉ là giả tạm. Một khi nếm cái mùi giả tướng của thế gian rồi tham luyến nó, thì sẽ thấy cái vui sướng rất khó mà đi theo thân mình mãi mãi, ngược lại cái tai họa thì như bóng theo hình, một giây một khắc cũng không rời. Muốn cầu cái vui sướng tự tại vĩnh viễn thì phải liễu ngộ vấn đề sinh tử, phải vĩnh lìa tham dục và tạo tác.

    Trong Ba cõi, dĩ nhiên cũng có những vị được rất nhiều phúc báo ở cõi trời, nhưng những vị này rồi cũng có lúc hưởng hết phúc và phải bị đọa lạc. Pháp Phật có nói: “Người ở trong gia đình như ngồi trong lao tù, mà cái tầng trời cao nhất của ba cõi cũng chỉ như lao tù. Chỉ có cái học vô lậu mà chư Phật và chư Bồ Tát đã tu học, tức là quán chiếu tướng không của chư pháp, và dừng bỏ cái thấy lệch lạc là có sự sai biệt giữa ta và người, mới là cái cảnh giới thường hằng an vui cứu cánh.

    Hóa nhân tỳ-kheo ni nói thao thao bất tuyệt một hồi, như một thùng nước sạch dội lên tâm trí của vị sa-môn. Ông suy xét kỹ lưỡng ý nghĩa của từng câu nói vừa mới nghe. Đúng thế, cái giả tướng vốn do tứ đại hòa hợp, chúng sinh vì quá ư say đắm cái giả tướng này mà tự hại lấy mình.

    Khi giác ngộ được rằng pháp tính vốn là “không”, con người sống ở trên thế giới này như một du khách đi qua xứ khác chơi, thì nhìn chúng sinh trong mười phương thật sự không thể nói được là có thân có sơ.

    Nhờ thế mà tâm hồn vị sa-môn trở nên cởi mở, xả bỏ hết mọi sự vướng ngại. Ý nguyện ban đầu kiên cố trở lại, ông chăm chỉ tu học và về sau chứng đắc được quả vị đại tự tại.



  6. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    chimvacgoidan (10-19-2015)

  7. #86
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    17. Hiểu đạo và tu đạo



    Có hai anh em nhà nọ cùng xuất gia theo Phật. Họ tu một thời gian thì từ từ tách nhau ra, mỗi người rẽ sang một đường lối khác biệt nhau. Người anh thì rất tinh tấn hành đạo, còn người em thì hết sức cố gắng học hỏi để hiểu đạo.

    Sau một vài năm, người thì chăm chỉ sớm tối, người thì chỉ lo nghiên cứu, cả hai đều có chỗ thành đạt. Người anh thì chứng quả A-la-hán, người em thì đã thâm nhập Ba tạng kinh điển của Phật pháp.

    Tuy nhiên, người em thường cho là mình học rộng nghe nhiều, tự vỗ ngực khoe khoang tỏ ra thông minh, làm cho mọi người phải biết đến tên mình, cho rằng như thế mới là vinh dự. Khi người anh biết điều ấy rất lấy làm lo lắng cho em, cảm thấy sự thành công của em mình không có triển vọng tốt đẹp, nên có lần khuyên nhủ rằng:

    – Thân người khó được, gặp Phật tại thế cũng rất khó. Chính đức Phật đã có nói, cơ hội mất thân người thì ví như mặt đất mênh mông, còn cơ hội được thân người thì ví như chút bùn dính trên móng tay. Bây giờ hiền đệ đã có thân người, nên lấy việc tu hành làm trọng, việc tìm hiểu để sau, hiền đệ phải hết sức thận trọng chọn lựa việc ưu tiên mà làm.

    Người em nghe nói thế không thấy anh mình có lý nên bỏ ngoài tai, còn bác bỏ rằng:

    – Điều huynh nói, đệ nghĩ không hẳn đã đúng. Đệ cảm thấy sự hiểu biết về Phật pháp của đệ tuy chỉ như giọt nước trong biển cả, và tuy chưa vào được cốt tủy của đạo, song đã đi thì phải đi cho trót. Đợi đệ tinh thông Tam tạng giáo nghĩa, đảm nhiệm chức vị “thầy của trời người”, sau đó tu hành cũng chẳng muộn.

    – Nhưng đời người vốn vô thường ngắn ngủi, lỡ như hiền đệ chưa học xong Tam tạng giáo nghĩa đã bị vô thường cuốn mất thì sao? Cho nên chuyện tu hành là chuyện cấp bách nhất!

    Nhưng người em vẫn chấp chặt vào ý kiến của mình, không chịu nghe lời khuyên của anh. Không lâu sau, người em mắc phải một cơn bệnh quái dị, không có thuốc nào cứu chữa chỉ còn chờ chết. Biết là không thể thoát chết, người em vô cùng khiếp sợ nói với người anh rằng:

    – Lúc trước tiểu đệ ngu si đui mù, không chịu nghe lời khuyên bảo của hiền huynh. Bây giờ đứng trước cửa tử, tu hành không kịp nữa rồi!

    Người em nói mà nước mắt ràn rụa, xin lỗi anh và không lâu sau trút hơi thở cuối cùng. Người anh niệm tình anh em, bèn nhập định quán sát xem người em thác sinh về chốn nào.

    Khi thấy người em đã thác sinh vào nhà một ông trưởng giả, người anh bèn nghĩ đến chuyện cứu độ em. Nhà của người trưởng giả ở gần một ngôi chùa, người anh bèn về ở đấy tu hành để dò xét chờ đợi cơ hội.

    Trong đời sống mới, người em vừa lên ba tuổi đã được người anh cho quy y và dạy niệm Phật. Đó là một đứa bé thông minh khôn ngoan, học đâu biết đó nên được mọi người yêu mến.

    Khi nó được bốn tuổi, một hôm được bà nhũ mẫu bồng lên chùa trên núi thăm sư phụ. Chùa tọa lạc trên một ngọn núi cao, các bậc thang bằng đá thì khúc khuỷu gập ghềnh, bà nhũ mẫu bồng đứa bé trong lòng sơ ý vuột tay, đứa bé rơi xuống núi, máu đổ thịt rơi, thân hình tan tác, chết một cách thê thảm.

    Ngay trong sát-na nó lìa đời, trong tâm sinh khởi niệm ác, oán hận bà nhũ mẫu ôm mình không cẩn thận khiến cho phải gặp tai nạn như thế này. Vì niệm sân hận trong tâm đó nên chết rồi là đọa ngay xuống địa ngục.

    Khi người anh biết được chuyện này, thương xót đứa em bất hạnh đã đành, nhưng ông còn nhập định xem nó thác sinh vào chốn nào. Bỗng nhiên trong định, ông thấy em mình đã rơi xuống địa ngục, bất giác than dài:

    – Trong địa ngục khổ sở đến chừng nào, khó độ đến chừng nào! Chư Phật và chư Bồ Tát còn không cứu được, ta làm sao cứu được hiền đệ đây!

    Phật pháp khó được nghe, thân người khó được, mà một khi được rồi thì có được bao năm? Chúng ta phải nắm bắt cơ hội, cố gắng tu hành. Trong đạo Phật, hiểu đạo tuy là chuyện quan trọng nhưng thực hành đạo càng cấp bách hơn. Nếu đủ nhân duyên, tốt nhất là nên tu và học cùng một lúc, hành và giải phải được coi trọng ngang nhau. Bằng như chưa đủ nhân duyên, việc trước mắt phải lấy sự hành trì làm trọng, kẻo vô thường chóng vánh, hối không còn kịp!




  8. #87
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    18. Bài học cho người háo sắc



    Có một cặp vợ chồng kia sống tại một nơi hẻo lánh của Ấn Độ, vì muốn cầu thiện tri thức nên không ngại đường xa vạn dặm, dọn về thành Xá Vệ tìm kế sinh nhai.

    Hai vợ chồng đều có tên rất đẹp, chồng tên Lạc Tu, vợ tên Hân Kiến. Chồng thì tinh tiến tu trì Phật pháp, vợ thì xinh đẹp như tiên nữ, người nào đã từng quen biết với cặp vợ chồng này, khi nói về họ cũng đều không tiếc lời khen ngợi.

    Hân Kiến không những xinh đẹp mà còn phúc hậu hiền lành, khiến rất nhiều người hiếu kỳ muốn được nhìn thấy mặt người tiên. Nhưng khổ thay, Hân Kiến không bao giờ bước chân ra khỏi cổng, sợ mình là nguyên nhân mang tới cái họa thị phi. Chỉ khi nào các vị tỳ-kheo thánh nhân đến nhà nàng mới chịu đích thân tiếp đãi và lễ kính cúng dường.

    Nhưng danh tiếng về nhan sắc của nàng vẫn vang lừng khắp nơi, xa gần không ai là không nghe nói đến và tấm tắc khen ngợi.

    “Danh thơm đưa đến sự ganh tị, nhan sắc đưa đến tai họa.” Nhan sắc mỹ lệ của Hân Kiến suýt chút nữa đã là nguyên nhân dẫn đến cái chết của hai vợ chồng.

    Có một ông vua tên là Tự Tại, nghe đồn về nhan sắc của Hân Kiến, cũng muốn được một lần nhìn xem nàng xinh đẹp tới mức nào. Một hôm ông hỏi vị đại thần thân cận nhất:

    – Có cách nào cho ta được thấy nàng không?

    Vị đại thần trả lời:

    – Hai vợ chồng họ đã quy y Tam Bảo, đã thọ năm giới, nghiêm trì giới luật, bình thường rất ít khi ra khỏi nhà. Phu nhân Hân Kiến vốn không chịu tiếp một ai, nếu đại vương nhất định muốn nhìn thấy mặt phu nhân, thì chỉ có một cách là giả làm tỳ-kheo, lúc ấy phu nhân Hân Kiến mới bằng lòng tiếp đãi.

    Vua Tự Tại làm đúng lời khuyên của vị đại thần, giả dạng làm một người tu hành đến nhà của Hân Kiến, quả nhiên được nàng tiếp đãi một cách nhiệt thành. Về lại cung, ông không phút giây nào là không nhớ tưởng đến nàng, vì trong đời ông chưa từng gặp một người đẹp như thế. Ông bèn nghĩ làm cách nào để có thể sống chung với mỹ nhân mãi mãi, nhưng biết làm sao đây? Ông lại tìm đến vị đại thần nói trên để vấn kế, vị này trả lời:

    – Tuy hai vợ chồng là người tu hành và lại là người từ xa đến đây sinh sống, song đã cư trú ở nước này thì đều là thần dân của đại vương. Nếu đại vương cho triệu đến gặp mà họ không đến là không tuân thánh chỉ, là có tội phải phạt, lẽ nào họ không sợ tội hay sao? Thần còn xin tâu thêm rằng, tại một nơi cách đây hơn ngàn dặm, có một cái hồ rất lớn, trong hồ ấy có mọc những đóa hoa sen ngũ sắc, nếu có ai muốn hái những đóa hoa sen ấy phải vượt qua ba loại tai nạn, một là rắn độc, hai là ác thú, ba là giặc cướp. Chúng ta không có lý do gì tự nhiên bắt tội người ta, nhưng nếu muốn buộc cho họ có tội thì đại vương chỉ cần sai Lạc Tu đi hái những đóa hoa sen ấy về, tự nhiên hắn sẽ phải táng thân mất mạng. Đại vương, nếu muốn bắt mỹ nhân Hân Kiến thì đây là một giải pháp có thể giúp đại vương thành tựu được ý nguyện.

    Vua Tự Tại lúc ấy không còn nhân tính, tâm tư đã hoàn toàn bị tham dục sai sử, không còn biết đâu là lương tâm, là lẽ trời, nên cứ đúng theo lời khuyên của vị đại thần mà thi hành. Ông lập tức cho triệu Lạc Tu vào cung, hỏi rằng:

    – Khanh là thần dân của ai?

    – Thần là thần dân của đại vương.

    – Đã là thần dân của ta, vậy tại sao từ trước đến nay không đến bái kiến ta?

    – Thần tự thấy mình ngu si dốt nát, từ trong bùn lầy nước đọng sinh ra nên không dám đến bái kiến đại vương.

    Vua Tự Tại sa sầm nét mặt:

    – Ngươi có biết không đến bái kiến vua là có tội hay không?

    – Xin đại vương bớt giận, thần đã tự biết lỗi của mình rồi.

    Vua Tự Tại khấp khởi mừng thầm, thấy kế hoạch của mình sắp thành công, hình bóng của mỹ nhân sắp xuất hiện trước mắt, bèn nói tiếp:

    – Ngươi đã tự biết lỗi, ta sẽ không xử tử ngươi. Nhưng ta đang muốn một vật này, nếu như ngươi mang về được cho ta thì ta sẽ xá tội cho ngươi.

    Lạc Tu hỏi:

    – Thần sẵn sàng làm những gì đại vương sai bảo, nhưng không biết đại vương muốn sai thần đi đâu và mang những gì về cho đại vương? Xin đại vương chỉ dạy rõ ràng.

    – Cách đây hơn ngàn dặm đường có một cái hồ lớn, trong ấy có mọc những đóa sen ngũ sắc ngạt ngào hương. Ta chỉ cần ngươi hái về cho ta một đóa thôi. Nhưng ta căn dặn ngươi, ngươi phải trở lại trong vòng bảy ngày. Quá thời hạn bảy ngày ta sẽ kết tội ngươi chậm trễ.

    Lạc Tu về nhà, đem tất cả mọi sự kể cho vợ nghe. Hân Kiến nghe xong buồn bã nói:

    – Tai nạn của chàng hôm nay là do nhan sắc của thiếp mà ra. Đức Phật đã từng nói, Tam giới không phải là nơi chắc chắn, ta chỉ có thể nương tựa vào giới luật mà thôi. Khi ra đường, chàng phải niệm thầm danh hiệu Phật, không phút giây nào quên lãng. Có như thế mới có thể biến họa thành phúc được. Nhưng nếu chẳng may chàng có bề gì, thiếp sẽ xuống tóc xuất gia, quyết vì chàng mà không bao giờ tái giá.

    Hân Kiến chuẩn bị lương khô cho chồng mang theo và hai người từ biệt nhau. Đây là một cuộc chia tay đau đớn, nhưng họ không bịn rịn khóc lóc như người thường. Lạc Tu sửa soạn đâu đó xong xuôi là lập tức lên đường, hướng thành ngoại mà ra đi.

    Từ khi ra khỏi cửa đi ròng rã được bốn ngày, Lạc Tu mới gặp phải chuyện chưa từng thấy. Hôm ấy, khi trời sắp tối, trên con đường hoang vắng bỗng có một bọn cướp kéo đến rất đông đảo, trong tay cầm nào gươm nào đao, nào thương nào kích, trông hung dữ bạo tàn rất ghê rợn. Lạc Tu thấy họ thì chỉ một lòng niệm thánh hiệu của Phật. Tướng cướp chận đường hỏi:

    – Ê, mi là ai? Dám cả gan tới đây làm gì?

    – Tôi tên là Lạc Tu, là đệ tử của đức Phật, phải tới đây để hái hoa sen ngũ sắc.

    Lạc Tu trả lời một cách cứng cỏi. Nghe chàng tự xưng mình là đệ tử của đức Phật, thái độ và giọng nói của bọn cướp thay đổi hẳn, họ trở nên tử tế và ôn hòa:

    – Trước đây vua đã từng sai nhiều người tới đây hái hoa, nhưng chúng tôi căm hận vua trị nước không công minh nên chúng tôi giết hết những người ấy rồi. Huynh không phải là người có tội mà bị vua ra lệnh tới đây. Chúng tôi tuy là một lũ giặc cướp nhưng tuyệt đối không hại đệ tử của đức Phật, huống chi huynh là người vô tội? Ngay giờ phút này chúng tôi xin thả huynh đi, nhưng trên đường đi như thế, huynh sẽ phải gặp rắn độc và ác thú, chưa chắc đã tránh khỏi bị chúng làm hại. Thôi thì bây giờ huynh không cần phải đi, chúng tôi sẽ đi hái hoa thay huynh, sau đó huynh có thể bình an mà trở về. Chúng tôi làm như thế vì sự kính trọng đối với đức Phật, và nếu chúng tôi giúp đỡ cho đệ tử của Ngài thì sau này chúng tôi có thể chia được một chút phúc đức. Xin huynh ở lại đây chờ một chút.

    Không lâu sau, họ đem hoa sen ngũ sắc về, không phải chỉ một đóa hoa mà là rất nhiều hoa, Lạc Tu không thể nào khuân nổi. Bọn cướp bèn gởi người khuân giúp Lạc Tu và hộ tống chàng về tới cửa thành mới chia tay.

    Khi Lạc Tu vào yết kiến vua Tự Tại, vua kinh ngạc tột độ khi thấy chàng đã về tới bình yên vô sự, bèn hỏi rằng:

    – Trên đường đi khanh đã gặp những gì? Làm sao khanh lại có thể về tới mau chóng như thế?

    Lạc Tu không giấu giếm, đem tất cả mọi chuyện ra kể cho vua Tự Tại nghe. Vua nghe rồi, xấu hổ mà rằng:

    – Bọn cướp là phường không biết phải trái, vì thế ngày thường vẫn gia hại khách buôn qua lại. Vậy mà khanh được họ giúp đỡ, khanh đã cảm hóa được họ, khanh hẳn phải là người rất thiện lương. Đáng xấu hổ thay cho ta, ngồi trên cương vị một ông vua mà không biết phân biệt thiện ác, không rõ đúng sai, bọn giặc cướp mà còn biết kính trọng khanh và khinh thường ta nữa là! Khanh là người được bọn đạo tặc tôn kính, thế mà ta lại lập kế mưu hại khanh, ta thật là sai quấy!

    Lúc ấy vua Tự Tại thật sự cảm thấy xấu hổ, bèn sám hối với Lạc Tu và phát nguyện quy y đức Phật, thọ trì ngũ giới, sửa chữa sai lầm cũ, xây dựng một tương lai thiện lành, và trở thành một vị đại hộ pháp của đức Phật.

    Về sau, vua Tự Tại dùng đức độ nhân từ mà trị dân, bọn cướp bỏ nghề cũ trở về với đời sống lương thiện, quốc gia vì thế mà trở nên thái bình an lạc.

    Sự thật, chính là nhờ vợ chồng Lạc Tu đã chân thành tu hành theo Phật pháp nên mới cảm hóa được mọi người.




  9. #88
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    19. Tâm độc địa



    Trong xã hội ngày xưa có một tập tục rất xấu, đó là khi hai vợ chồng cưới nhau được vài năm, nếu người vợ chưa sinh sản được thì người chồng thường cưới thêm vợ lẽ, khiến cho hòa khí trong gia đình vì thế mà tan nát.

    Thời xưa có một người, cưới vợ được mấy năm rồi, hai vợ chồng thèm khát một đứa con mà chờ mãi không có, người chồng nóng ruột quá nên cuối cùng đi cưới một cô vợ lẽ. Với sự thỏa thuận của bà vợ lớn, cô vợ lẽ được về ở chung trong cùng một nhà.

    Không lâu sau cô này sinh hạ được một đứa con trai trắng trẻo và bụ bẫm, khiến người chồng hết sức vui mừng. Từ đó ông lại càng cưng quý cô vợ lẽ và thằng con trai mà không ngó ngàng gì đến bà vợ cả.

    Ngay từ phút đầu, bà vợ cả đã xem cô vợ lẽ như cái gai trong mắt, huống chi bây giờ thấy chồng cưng quý mẹ con cô này hơn trước, dĩ nhiên bà không khỏi nổi cơn ghen tức. Nhưng trước quyền uy của ông chồng, bà không làm gì được, chỉ có thể thừa lúc người chồng vắng nhà mới hơi tỏ lộ ra chút ghen hờn, giận tức đối với người vợ lẽ. Tuy nhiên những cơ hội ấy rất hiếm, cho nên lòng oán hận của bà càng lúc càng chồng chất nhiều thêm.

    Một hôm, đứa bé vừa đúng hai tuổi, bà vợ cả thừa lúc cô vợ lẽ vắng mặt mới rút một cây trâm vàng cài trên tóc cắm sâu vào đầu đứa bé. Bà làm chuyện này một cách âm thầm bí mật, không ai hay biết. Đứa bé khóc mãi không ngừng nhưng không ai nghe thấy, cho nên đứa bé trắng trẻo bụ bẫm kia, chỉ sau một đêm lên cơn sốt thật nặng đã yểu mệnh mà chết.

    Thấy đứa con mình mang nặng đẻ đau lại kháu khỉnh dễ thương đến dường ấy bỗng nhiên một hôm ngã lăn ra chết, người mẹ nào mà không đau đớn? Cô vợ lẽ bị tai nạn giáng xuống đầu một cách thình lình như thế khóc thương bi thảm, thằng con chết cả tháng rồi mà cô vẫn còn gào khóc thảm thiết, tâm can tan nát cho đến ngã bệnh.

    Người chồng thấy con mình chết yểu dĩ nhiên là thương tiếc vô cùng, nhưng ông bình tĩnh hơn, nghĩ rằng người đã chết thì nào có sống lại được, khóc lóc chẳng ích lợi gì. Tuy nhiên có rất nhiều người bà con láng giềng nói rằng một đứa bé chết thình lình như thế chắc chắn là phải có nguyên do, họ bèn khuyên cô vợ lẽ mở quan tài để khám nghiệm tử thi.

    Quả nhiên mọi người đoán không sai, lúc khám nghiệm mới thấy trong đầu của đứa bé có cắm một cây trâm vàng dài cả ba tấc!

    Cô vợ lẽ thấy con mình chết vì bị sát hại thì lại càng đau khổ hơn, vừa bi thương vừa căm phẫn, cô thề rằng sẽ báo thù cho con, nếu không thì chết không nhắm mắt.

    Cô tìm một vị Bà-la-môn để thỉnh giáo, hỏi xem phải làm thế nào để báo thù. Vị này bảo cô nếu trì được trai giới thì sẽ được mãn nguyện. Lòng thương con của cô càng tha thiết thì ý nguyện báo thù càng thâm sâu, cô bèn trì trai giới rất tinh cần. Không lâu sau, cô vợ lẽ này vì quá sầu muộn nên lìa bỏ cõi đời.

    Cũng đúng lúc ấy bà vợ cả thụ thai nên vui mừng khôn kể xiết. Cây gai trước mắt đã nhổ được rồi, chính mình lại đang có thai nên có thể được chồng yêu chiều hơn, niềm vui của bà thật là không cùng tận!

    Không lâu sau bà sinh hạ được một đứa con gái xinh đẹp như hoa như ngọc, cả nhà cưng quý đứa bé như châu báu, nhưng bất hạnh thay, đứa bé vừa được hai tuổi thì lìa đời.

    Thật là một tai biến không ai có thể ngờ được, bà vợ lớn khóc đến chết đi sống lại, nhưng người đã chết rồi, biết làm sao đây?

    Một thời gian sau bà lại sinh được một đứa con trai, nhưng nuôi chưa đến ba tuổi cũng đã chết yểu.

    Cứ như thế, bà sinh được sáu đứa con nhưng chỉ nuôi được đến bảy tuổi là tối đa. Con cưng mà lại chết yểu, làm cha mẹ ai lại không đau đớn? Ròng rã mười năm trời như thế, người vợ lớn sinh được đứa con nào là đứa con ấy chết yểu nên đau khổ triền miên, thân thể tiều tụy, bà tuyệt vọng tự giam mình suốt ngày trong nhà không muốn tiếp xúc với người ngoài.

    Một hôm, bỗng nhiên có một vị tỳ-kheo đến tìm bà. Ban đầu bà từ chối không chịu ra gặp, về sau vị tỳ-kheo bảo là có chuyện quan trọng muốn nói với bà, bà mới chịu ra. Khi vị tỳ-kheo nhìn thấy bà, ông liền hỏi ngay:

    – Bà có nhớ cô vợ lẽ đã chết rồi không? Cô ấy vì sao mà chết? Rồi đứa con mới lên hai của cô ấy, cũng vì sao mà chết vậy?

    Câu hỏi đặt ra quá bất ngờ khiến bà vợ cả hoảng sợ, toàn thân run lẩy bẩy, không trả lời được câu nào. Bà xấu hổ và đau đớn kể lại mọi sự cho vị tỳ-kheo nghe, và cầu khẩn ông cứu khổ cho bà.

    Vị tỳ-kheo nói cho bà biết rằng sáu đứa con chết yểu của bà chính là oan hồn cô vợ bé đầu thai về cố ý làm cho bà khổ đau. Nếu bây giờ bà muốn giải trừ mối oan gia đó, bà phải đến chùa làm công quả để tiêu tai.

    Ngày hôm sau, bà vợ lớn tuân theo lời dạy của vị tỳ-kheo, trời vừa tảng sáng là bà thức dậy sửa soạn đến chùa, nhưng trên đường đi, bà thấy một con rắn độc đang hả miệng thật lớn, phăng phăng trườn đến gần bà khiến bà sợ quá ngã xuống bất tỉnh. May thay, vị tỳ-kheo nói trên cũng vừa đến nơi, nói với con rắn độc:

    – Này rắn độc! Ngươi chưa thấy mãn nguyện sao? Ngươi nghĩ lại xem, bà ấy chỉ hại ngươi có một lần mà ngươi báo thù tới sáu lần, như thế chưa đủ rồi hay sao? Bây giờ bà ấy đã biết hối hận, lại còn muốn lên chùa làm công đức hồi hướng cho ngươi, ngươi cũng nên hóa giải mối oan kết ấy đi. Ngươi không nghe nói “oán cừu nên cởi không nên kết” chăng? Nếu hôm nay ngươi muốn giết bà ấy thì chẳng có ích lợi gì cho ngươi mà chỉ có hại. Vì tương lai của chính ngươi, ngươi nên bỏ qua hết mọi sự đi! Không lẽ ngươi muốn đời đời kiếp kiếp sinh làm súc sinh hay đọa địa ngục?

    Câu nói của vị tỳ-kheo khiến con rắn độc có vẻ như hiểu ra, nó cúi đầu rồi từ từ trườn đi mất.

    Bà vợ cả tỉnh dậy không thấy con rắn độc nữa, vị tỳ-kheo mới đem chuyện vừa qua kể cho bà nghe. Do đó bà vợ lớn cảm thấy chuyện mình làm lúc trước quá ư tội lỗi, bà bèn xin xuất gia tu hành với vị tỳ-kheo. Những năm cuối của cuộc đời, bà sống trong rừng sâu núi thẳm để sám hối nghiệp chướng mà mình đã tạo trong quá khứ.

    Hại người là tự hại lấy chính mình, làm sao không cẩn thận chuyện nhân quả cho được?



  10. #89
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    20. Phước đức của hoàng hậu



    Đức Phật đã từng dạy rằng người hành bố thí là người đang tạo cho mình một gia sản vững chắc. Công đức của bố thí không những thù thắng, mà còn là nơi nương tựa bảo đảm và an toàn nhất. Những người hiện tại giàu có trên thế gian chính là những người đã tạo nhân bố thí trong kiếp trước, và họ đang hưởng phúc báo của công đức này. Và người hành bố thí ngày nay chính là đang chuẩn bị hưởng hạnh phúc trong tương lai.

    Thời xưa ở Ấn Độ có một bà hoàng hậu, lòng tin Phật pháp rất thâm sâu và thành khẩn. Bà chỉ thích làm hai việc là bố thí và tạo công đức. Vì thế nhân dân trong vương quốc rất thương mến tôn kính bà, và ngay trong cung bà cũng được tất cả mọi người suy tôn.

    Một hôm, bà khoác vào người một bộ y phục lụa là tuyệt đẹp, trên đầu đội vương miện bằng trân châu để đi dạo trong vườn hoa với nhà vua. Nhà vua ngắm nhan sắc kiều diễm của hoàng hậu và nói:

    – Ái khanh của ta! Nàng nghĩ xem, nàng trang điểm thật là xinh đẹp, mức sống phú quý mà nàng đang hưởng thật ít ai có được. Nhờ ta mà nàng mới có một cuộc đời vinh quang như thế, nàng thấy có đúng không? Ta là vua, nàng là hoàng hậu, ta ăn thì ăn ngon, mặc thì mặc đẹp, nhà ở thì lộng lẫy, những niềm phúc lạc ấy nàng đều được chia sẻ với ta, thế thì ái khanh ơi, nàng phải thương yêu ta lắm mới phải!

    – Đại vương, thiếp phải luôn luôn thương yêu và cảm tạ đại vương. Nhưng phú quý thiếp được hưởng ngày hôm nay, không phải là nhờ đại vương ban cho mà là nhờ phúc báo sẵn có của thiếp. Giữa chúng ta chỉ có quan hệ vợ chồng, còn nói tới phúc báo của người này hay người kia, thì phải nói là nhờ nhân thiện do chính mỗi người gieo trồng chứ không ai ảnh hưởng ai được cả!

    Những câu nói của hoàng hậu không làm cho vua hài lòng chút nào, nhưng ông không trả lời, chỉ hầm hầm quay trở về vương cung. Ông muốn chứng tỏ cho hoàng hậu thấy rằng những quan niệm của bà không đứng vững.

    Khuya hôm ấy, chờ hoàng hậu ngủ say rồi, ông lén cởi chiếc nhẫn quý giá mà hoàng hậu đang đeo trên tay rồi đem ném xuống sông. Vua làm điều này một cách bí mật, không có người nào trông thấy. Hôm sau hoàng hậu tỉnh giấc, thấy chiếc nhẫn không cánh mà bay bèn hỏi vua:

    – Quân vương! Chàng có thấy chiếc nhẫn của thiếp không?

    Vua đáp:

    – Làm sao ta thấy được? Nhẫn nàng đang mang trên tay tại sao lại hỏi ta? Không lẽ một người sẵn có phúc đức như nàng mà cũng bị mất nhẫn ư?

    Nhà vua trả lời một cách châm biếm.

    – Vâng, nếu thiếp có phúc và chiếc nhẫn ấy là thuộc về thiếp thì chắc chắn nó sẽ không mất; ngược lại nếu thiếp không được sở hữu một vật nào đó mà cứ cưỡng ép để có thì cũng chỉ vô ích mà thôi.

    Thái độ của hoàng hậu rất thản nhiên và tự tại. Tuy đó chỉ là một chiếc nhẫn, nhưng trên chiếc nhẫn có gắn một viên bảo châu vô giá, thế mà chiếc nhẫn mất đi không làm cho hoàng hậu phiền não hay ưu tư chút nào. Nếu chuyện ấy xảy ra cho nhà vua, chắc là ông đã lo lắng ghê gớm lắm, vì thế ông mới lập ra mưu kế ấy để đánh đổ cái lý luận tự cho mình là phi phàm của hoàng hậu.

    Lạ thay, ba ngày sau, cung nữ trong nhà bếp mổ bụng một con cá thì tìm ra chiếc nhẫn mà hoàng hậu đã mất mấy hôm nay. Vua nghe tin này ngạc nhiên cùng cực, lúc ấy ông mới tin tưởng chắc chắn rằng phúc đức là điều không thể nghĩ bàn.

    Số là sau khi chiếc nhẫn bị vua ném xuống sông rồi, thì liền bị một con cá bơi ngang chỗ ấy đớp vào bụng mất. Mới nuốt xong chiếc nhẫn, nó rơi ngay vào lưới của một người đánh cá và người này đem mẻ cá mới lưới được bán cho triều đình. Mọi sự việc ăn khớp vơi nhau chặt chẽ, chỉ cái phước vô song của hoàng hậu mới khiến cho chiếc nhẫn đã mất mà tìm lại được một cách hy hữu như thế.

    Từ đó trong cách đối xử với hoàng hậu, vua không dám tỏ ra mình là người thi ân nữa, vì ông đã tin rằng phúc của ai thì người đó hưởng. Tội báo hay phúc báo đều như bóng theo hình.

    Phúc báo là do bố thí, do cúng dường mà có. Làm người nên bố thí, nên cúng dường cho nhiều là vì lý do này.



  11. #90
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    21. Tâm ham danh


    Tâm của một con người ngu si bị động niệm là vì ngã tham và ngã chấp. Một người như thế rất xem trọng danh lợi và có thể hy sinh tất cả cho nó, ngay đến cả thân mệnh nữa, mục đích là để có được một thứ danh dự hư huyễn không thật.

    Ở Ấn Độ thời xưa có một người đàn bà thuộc dòng Bà-la-môn tên là Đề Vi. Gia đình bà xưa nay vốn giàu có, nô tỳ nuôi trong nhà cũng có đến cả trăm người. Nhưng từ khi chồng bà qua đời thì mức sống dần dần suy sụp.

    Thật không phải dễ dàng cho một góa phụ khi phải ứng phó với mọi chi phí trong nhà, nào quần áo ăn uống, rồi tiền nuôi gia nhân, nào ăn nào mặc, ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác. Vì thế Đề Vi vô cùng buồn khổ vì cái họa nghèo khó luôn luôn đe dọa.

    Thật ra, để giảm bớt ngân quỹ, bà có thể giải tán một phần gia nhân đông đảo và giữ lại một số ít người để làm việc trong nhà, nhưng Đề Vi cho rằng danh dự là điều quan trọng nhất, thể diện là cần thiết nhất, vì thế bà không chịu giải quyết vấn đề bằng cách ấy. Nhưng còn cách nào khác nữa đâu? Bà nghĩ thà chết chứ không để mất mặt, nhưng nếu đã chọn cái chết thì cũng phải chọn chết thế nào cho có ý nghĩa.

    Lúc ấy ở Ấn Độ có một trường phái ngoại đạo cho rằng muốn được sung sướng thì phải trả giá bằng sự đau khổ, kiếp này càng đau khổ thì kiếp sau càng được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc. Đề Vi nghe được tà kiến này là mù quáng tin tưởng theo ngay. Bà nghĩ rằng không có cái đau đớn nào đối với thân thể con người cho bằng cái đau của sự chết cháy, nên bà quyết định tự thiêu. Làm như thế, thứ nhất, bà đánh đổi cái đau đớn ấy để lấy một kiếp sau sung sướng; thứ hai, một khi chết rồi bà không cần phải đối phó với chuyện kiếm tiền chi phí trong nhà; và thứ ba, chết để cầu đạo là một cái chết rất vinh dự, thể diện của bà sẽ giữ được vẹn toàn.

    Đề Vi tính toán như thế, tuy bà rất kín đáo không nói cho ai hay, nhưng một đệ tử của đức Phật là Tôn giả Biện Tài lại đoán biết tất cả những gì bà nghĩ trong đầu, nên ngài đích thân đến nhà bà để giáo hóa. Tôn giả nói với Đề Vi rằng:

    – Bà không đảm nhiệm nổi mọi chi phí trong nhà nên mới muốn tự thiêu tìm cái chết, có phải vậy không? Nhưng làm như thế bà cũng không thoát được trách nhiệm, trái lại càng làm cho nghiệp chướng tăng trưởng. Ác nghiệp của kiếp trước chưa trả xong mà đã chết đi, thì kiếp sau cũng sẽ phải trả một lần nữa. Đồng thời, tự đốt cháy thân cũng là tạo tội. Bà phải biết tự thiêu là một hành động tự sát, và tự sát là có tội. Các tội nhân trong địa ngục A Tỳ đêm ngày bị đốt cháy, suốt một ngày trời chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, cứ thế mà bị thiêu đốt mấy chục ngàn năm mới có thể trừ tội. Còn bà bây giờ chỉ tự đốt có một lần mà mong trừ tội thì làm sao được?

    Đề Vi nghe Tôn giả nói như thế thấy rất có lý, như người đang ngủ mê chợt bừng tỉnh, định thưa hỏi tôn giả một câu, thì dường như tôn giả đọc được điều bà đang nghĩ, ngài nói tiếp:

    – Bà muốn diệt tội cũng không phải là chuyện khó. Tất cả mọi việc thiện ác đều do tâm sinh khởi, nếu tâm của bà chất chứa những niệm ác thì cũng giống như ánh sáng của mặt trăng bị mây đen che mờ, không thể chiếu ra ngoài được. Chỉ có cách là một lòng làm việc thiện, không giữ niệm ác nào trong tâm, lúc ấy chẳng khác nào một cơn gió mát thổi bạt mây đen đi, mặt trăng sẽ lập tức chiếu soi ánh sáng đầy khắp. Làm như thế không những có thể diệt trừ tội chướng, mà kiếp sau cũng sẽ được lợi ích lớn!

    Đề Vi nghe xong rất vui mừng, liền triệu tập tất cả quyến thuộc nô tỳ trong nhà, thỉnh giáo Tôn giả:

    – Bạch Tôn giả, được ngài khai thị giáo hóa, chúng con rất cảm kích. Kính xin tôn giả dạy cho chúng con làm cách nào để giải thoát và diệt tội.

    Tôn giả Biện Tài nói:

    – Nếu muốn diệt tội, thì trước hết phải tìm căn nguyên của tội lỗi. Tất cả các tội ác đều do thân, khẩu và ý tạo ra. Vì thế, bây giờ bà phải tu pháp Thập thiện...

    Rồi Tôn giả liền giảng cho bà Đề Vi và đại chúng nghe ý nghĩa của Thập thiện, và dạy cho họ phải làm sao để sám hối nghiệp chướng của những kiếp trước, làm sao để tạo nghiệp thiện, làm sao để phát tâm từ bi...

    Bà Đề Vi nhận lãnh sự chỉ giáo của tôn giả một cách vui mừng. Từ ngày hôm đó về sau, đời đời kiếp kiếp bà phụng hành theo lời dạy của Phật, phát nguyện cứu chúng sinh ra khỏi khổ đau, vì vậy mà về sau bà chứng đắc được quả thánh.



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •