DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 7/11 ĐầuĐầu ... 56789 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 61 tới 70 của 107
  1. #61
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    6. Chết vì việc nghĩa


    Ngày xưa, Ấn Độ có một khu rừng rậm to lớn, vô cùng rậm rạp, có hàng ngàn hàng vạn chim chóc, thú rừng sống ở trong ấy. Đây là thế giới của loài động vật, từ đời này sang đời khác, chúng sinh sôi nẩy nở trong khu rừng này.

    Mùa xuân, mầm lá non mềm mại xuất hiện trên mỗi cành cây, trăm hoa tỏa hương ngào ngạt, chim con theo mẹ tập bay, thú con theo bố tập chạy, giống như một cảnh thiên đường, hài hòa và tràn ngập hạnh phúc.

    Có một hôm, khu rừng bỗng nhiên bốc lửa. Chim chóc, thú rừng nào bay nào chạy, tìm đường thoát tử trong một khung cảnh hỗn loạn, trong tiếng khóc than thảm thiết.

    Những ngọn lửa không khác gì những chiếc lưỡi rắn cuộn tròn bay lượn khắp mọi nơi thiêu đốt, ánh lửa rực trời, sức nóng mãnh liệt.

    Lúc ấy trong rừng có một con chim trĩ, cứ bay đi bay lại giữa khu rừng cháy với dòng nước sông, nhúng mình trong nước sông để thấm ướt lông cánh rồi bay về rừng rùng mình cho nước rơi xuống, những mong dùng những giọt nước ấy để dập tắt lửa.

    Nhưng làm sao có thể dập tắt được biển lữa dữ dội mênh mông ấy với một lượng nước nhỏ bé như thế? Thế mà chim trĩ vẫn cứ bay đi bay về, như thể không hề thấy đó là một điều mệt mỏi khổ nhọc.

    Trời Đế Thích thấy được việc ấy bèn hỏi:

    – Này chim trĩ, ngươi đang làm gì thế?

    – Tôi đang cứu lửa trong khu rừng cháy!

    – Thôi ngừng lại đi, đừng có ngu si như thế, với cái sức bé nhỏ yếu ớt của ngươi thì làm sao dập tắt được ngọn lửa kia để mà cứu rừng được chứ! Ngươi có thể bay ra khỏi đây mà thoát thân, như thế chưa đủ cảm thấy mình may mắn lắm rồi sao?

    Chim trĩ không đồng ý, trả lời rằng:

    – Khu rừng này đã nuôi nấng tôi, có rất nhiều bà con thân hữu của tôi sống trong đó, nhà cửa của họ, con cái của họ, tất cả đều nương dựa vào khu rừng này mà sinh sống an lạc, tôi có sức khoẻ, làm sao tôi có thể thấy nạn mà không cứu? Làm sao tôi có thể khoanh tay mà đứng nhìn được? Tôi không thể ích kỷ và lười biếng! Tôi phải cứu hỏa!

    – Vậy thì với cái sức bé nhỏ yếu ớt của ngươi, ngươi tính chừng nào thì dập tắt được lửa?

    – Tới chết mới thôi!

    Con chim trĩ trả lời không chút do dự.

    Trời Đế Thích nghe thế, hết sức kinh ngạc lại cũng hết sức bội phục. Vua của trời Tịnh Cư biết chim trĩ có thệ nguyện và tâm từ bi rộng lớn như thế bèn dập tắt lửa trong rừng giùm nó.

    Về sau, khu rừng ấy vĩnh viễn xanh tươi, rậm rạp, dầu mùa thu gió có thổi hay mùa đông trời có tuyết, nhưng sinh khí trong rừng vẫn tràn trề như thể đang giữa một mùa xuân trường cửu.

    Các loại chim bay, thú chạy vẫn từng đời, từng đời sinh sôi nảy nở, và nạn cháy rừng không bao giờ xảy ra nữa.

    Con chim trĩ có tinh thần Bồ Tát ấy được các loài cầm thú trong rừng tưởng niệm muôn đời.

    Biết trước rằng có những việc mình không thể làm được nhưng vẫn quyết tâm làm tới chết mới thôi, đó thật là một tinh thần cao cả!

    Với cái tinh thần cúc cung tận tụy, tới chết mới thôi ấy, thì ai cũng có thể thành tựu được Phật đạo!



  2. #62
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    7. Hóa hình cứu bạn



    Trong khu vực náo nhiệt nhất của thành Xá Vệ có một cửa tiệm bán hàng rất đặc sắc, lớn rộng thênh thang, trong ấy hàng hóa chất cao như núi, người mua kẻ bán vào ra nườm nượp, thật là một quang cảnh phồn thịnh, ai cũng biết đây là một cửa tiệm rất giàu sang phát đạt.

    Mỗi ngày bà chủ tiệm chưng diện diêm dúa để tiếp khách, thái độ của bà kiêu sa đài các khiến cho trong hàng nữ lưu rất nhiều người hâm mộ bà.

    Hôm đó, có một người khách hàng kỳ quái bước vào cửa, không nói không rằng, tự tay bưng một cái ghế đến sát gần bà chủ ngồi xuống. Tuy không vui nhưng đối với khách bà đâu dám chểnh mảng, vì thế bà vẫn phải cúi thấp người xuống chào. Có ai ngờ khách chẳng trả lời tiếng nào, chỉ chăm chăm nhìn bà mỉm cười. Bà chủ cảm thấy hơi bất mãn, và cũng sợ đây là một người thô lỗ có tâm bất thiện không biết từ đâu lại, nên nghiêm sắc mặt mà hỏi:

    – Thưa ông đến đây có việc gì?

    Khách vẫn chẳng trả lời, mà còn nhìn bà một cách thân thiện hơn, nụ cười mang một ý nghĩa sâu sắc hơn, giống như nụ cười đồng lõa giữa hai người đã từng quen biết nhau nhiều.

    Trong lúc bà chủ đang lo lắng tìm cách đối phó, cặp mắt của khách bỗng thình lình hướng về một đứa bé đang đứng bên cạnh bà và mỉm cười lễ độ gật đầu chào. Đó là con trai của bà, mới lên sáu tuổi, tay cầm một chiếc trống nhỏ chơi đùa say sưa.

    Lúc ấy từ bên ngoài vọng vào tiếng chiêng, tiếng trống, cùng tiếng người cười nói huyên náo ầm ĩ. Thì ra đó là một đoàn người hàng ngũ chỉnh tề đi ngang qua cửa tiệm, tay đánh trống miệng thổi kèn, và ở hàng cuối là một con lợn lông lá bị cạo nhẵn nhụi sạch sẽ, cổ đeo giải lụa đỏ, được khiêng lên cao. Khách trong tiệm ai cũng chạy ra xem, người khách quái lạ ban nãy cũng đưa mắt ra ngoài nhìn, rồi bỗng buông một tiếng thở dài ai oán. Những người khách khác xem xong thì trở vào, đồng thanh trầm trồ khen ngợi.

    Nguyên do là cách đó không xa, có một người con chí hiếu, nhân sinh nhật cha mới đặc biệt giết ba con thú vật cúng tế thần linh, cầu nguyện cho cha được sống lâu mạnh khoẻ. Vị quái khách nghiêng tai lắng nghe mọi người bàn tán, rồi bỗng nhiên phá lên cười to như điên như cuồng, khiến mọi con mắt đều đổ dồn về ông. Đến đây thì bà chủ không chịu nổi nữa, gằn giọng hỏi:

    – Ông là ai?

    – Sao? Bà không nhận ra tôi ư? Tôi là bạn thân của bà đây! Bà thật sự quên tôi rồi sao?

    Quái khách vừa hỏi vừa cười ha hả. Bà chủ nghe thế thì tim gan đã muốn nổ tung lên rồi, sắp nổi cơn lôi đình thì người quái khách lại cười to hơn và nói:

    – Ha ha! Thật là vui! Các người toàn là cố nhân gặp nhau, vui quá thì thôi, ha ha!

    Quái khách lại cười một tràng dài, rồi bỗng nghiêm mặt nói rằng:

    – Đúng rồi, bà không thể nhận ra tôi được, cha của bà mà bà còn không nhận ra nữa là, nói gì đến tôi! A! Người đời thay đổi đảo điên, thật đáng thương xót...

    Ông thở một hơi dài rồi nói bằng một giọng bi ai:

    – Chắc chắn bà không thể tưởng tượng nổi rằng đứa bé đang đứng bên cạnh bà là người cha quá cố của bà. Lúc còn sống, cha bà không biết gì về nhân quả, chẳng rõ việc đạo lý nên đã tạo rất nhiều ác quả, chết rồi sinh vào thai trâu, sống 16 năm chịu đòn roi nhục nhã nhưng vẫn chưa tiêu trừ hết nghiệp tội, nên sau đó còn bị lột da làm trống cho người ta đánh, lúc ấy mới coi như đã trả xong nợ tội. Khi làm súc sinh không tạo nghiệp chướng nên được sinh lại trong loài người, chính lúc đó bà hoài thai và cũng vì hai người còn chút duyên nghiệp với nhau nên ông mới sinh vào nhà của bà. Bà xem kìa, cái trống trong tay đứa bé, chính là làm bằng tấm da trâu của cha bà lúc trước!

    Người quái khách nói tới đây thì ngừng lại nhìn bà chủ. Bà vẫn chưa nguôi giận, song nghe những lời khách nói thì cũng cảm thấy bán tín bán nghi.

    – Tôi không hề có chút ác ý nào cả. Trong đời quá khứ bà và tôi là đôi bạn rất thân, nhưng vì tôi hạ thủ công phu nhiều hơn bà nên kiếp này có được chút thần thông. Chúng sinh trong lục đạo thật quá là đáng thương, thí dụ như bà và đứa bé con của bà, hoặc con của bà và tấm da trâu làm trống cho nó chơi, hoàn cảnh nào cũng quá sức thương tâm! Hay là như vị hiếu tử mà lúc nãy ai cũng khen ngợi, giết một con lợn để cầu cho cha thêm tuổi thọ, nhưng có ngờ đâu rằng mình đã trồng cho cha gốc rễ của tội ác sâu dày? Con lợn sẽ chết vì cha của ông ta, thì sẽ có một ngày nào đó cha ông ta sẽ vì con lợn mà chết. Mạng phải thường mạng, như vậy thì hiếu hạnh tìm đâu ra trong việc đó? Chúng sinh ngu si không hiểu lý đạo nên mới tạo thành những quan hệ kỳ dị điên đảo với nhau như thế. Vì tình bạn xưa kia giữa bà và tôi, tôi đặc biệt đến đây nói với bà rằng, vinh hoa phú quý trên thế gian như lửa xẹt, như ánh chớp, trong nháy mắt đã không còn, không nên tham luyến những thứ ấy. Trái lại hãy tu trì Ngũ giới, Lục độ, mau thoát ra khỏi sáu đường ô trược.[11] Tôi đi đây, có lẽ chúng ta còn có duyên gặp lại nhau một lần nữa, mong bà hãy suy nghĩ cho chín chắn.

    Quái khách nói thao thao bất tuyệt như thế xong, không ai thấy ông bước ra ngoài đường, chỉ thấy ông đứng dậy tiến ra phía cửa rồi thì chẳng còn thấy bóng dáng đâu nữa.

    Bà chủ ngây người ra tại chỗ, như bị rơi xuống một vùng sương mù dày đặc.

    Từ đó, bà chủ thay đổi thái độ hoàn toàn, bà không còn thích chưng diện như xưa, mặc thì quần áo không làm cho kẻ khác chú ý, ăn thì chỉ ăn rau cải, sáng tối tự giam mình thật lâu trong một điện Phật nhỏ. Người làm công trong tiệm cũng như bạn bè thân thích của bà ai cũng ngạc nhiên trước những thay đổi ấy. Vì ngu si nên họ tự hỏi, không hiểu sao bà lại biến thành một người quá xuẩn ngốc như thế, có tài sản mà không chịu hưởng thụ!

    Một tháng sau, người làm công trong tiệm nói với bà rằng có một người ăn mày rất xấu xí, tự xưng là bạn thân của bà đến xin gặp. Bà chủ nghĩ rằng người quái khách đã trở lại, vội bước ra xem, nhưng không phải là người ấy.

    – Không! Tôi không biết ông!

    Nói xong bà xoay lưng bỏ đi. Người kia cười lớn:

    – Ha ha! Mới có một tháng thôi mà đã không nhận ra tôi rồi, huống chi là cách nhau một kiếp tái sinh! Được! Chỉ cần bà tiếp tục tinh tiến như vậy hoài thì việc liễu sinh thoát tử có thể trong tầm tay!

    Bà chủ đang toan bước vào trong tiệm, nghe những lời ấy thì vội vàng xoay lại, nhưng người hành khất xấu xí đã biến mất tự bao giờ, chỉ còn âm thanh lời nói như còn vang vọng lại.

    Khoảng hơn 10 năm sau, bà chủ bỏ nhà ra đi, chỉ đem theo đứa con trai của mình, bỏ lại rất nhiều tài sản cũng như rất nhiều người thương tiếc, ngậm ngùi. Nhưng người đời không ai biết rằng chính bà đã thực sự tỉnh ngộ và chọn đi theo con đường giải thoát.

    Thật ra, người khách quái dị ấy là ai vậy? Đó chính là một trong những tiền thân của đức Phật Thích Ca, lúc còn trên đường tu tập chưa chứng được Phật quả.



  3. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    Thiện Tâm (10-06-2015)

  4. #63
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    8. Hoa sen trong ngục lửa



    Trong đời quá khứ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni có lần ứng thân làm một vị thương nhân.

    Vị thương nhân này làm ăn phát đạt, hưng thịnh, tài sản danh vọng ngày càng phát triển. Vì ông từ bi và luôn luôn bố thí giúp đỡ người cô cùng nghèo khổ nên được mọi người thương mến kính trọng. Nhà vua cũng ngưỡng mộ đức độ, học vấn và tài sản của ông nên đã kết bạn thâm giao với ông.

    Một buổi trưa hôm đó, thương gia đang sửa soạn dùng cơm trưa, thì bỗng nhiên có một vị tỳ-kheo rất trang nghiêm đến đứng tại ngưỡng cửa, chờ ông cúng dường thức ăn, cho ông có cơ hội tạo thêm phúc báo.

    Khi ma vương thấy vậy thì sinh tâm ganh tị, bèn vận dụng ma lực để ngăn cản không cho thương nhân cúng dường. Với ma lực ấy, ma vương tạo ra một địa ngục lửa, trong đó những ngọn lửa dữ ngùn ngụt cháy, có những ngạ quỷ hình thù quái dị đang bị lửa thiêu đốt, khóc la kêu gào thảm thiết.

    Nhưng lúc ấy trong nhà của thương nhân không hề thấy nghe những cảnh huống bi thảm ấy, mà chỉ thấy một vị tỳ-kheo trang nghiêm đang ôm bát đứng tại ngưỡng cửa và chỉ nghe tiếng vị ấy nói:

    – Thí chủ! Nếu ông bố thí cho tôi, một tỳ-kheo đang khất thực hóa duyên, thì tôi sẽ chúc phúc cho ông được hạnh phúc vô cùng.

    Nghe những lời nói trang nghiêm ấy, phu nhân lập tức đem ra rất nhiều cao lương mỹ vị ra cửa, nhưng đột nhiên bà cảm thấy toàn thân như bị điện giật, bèn run lẩy bẩy mà quay trở vào nhà.

    Vị thương nhân không biết sự kiện gì đang xảy ra bèn bước ra cửa xem xét, thì trước mắt ông bỗng xuất hiện một cảnh địa ngục rất khủng khiếp. Nhưng người thương nhân này có trí huệ nên biết ngay đây là quỷ thuật của ma vương. Ma vương thấy thương nhân bước ra thì nói một cách thân thiện rằng:

    – Này tài chủ! Ông nhìn xem cái địa ngục lửa khủng khiếp này, đây là chỗ đọa lạc của những kẻ thích làm việc thiện, thích bố thí. Những tội nhân đó là những người đã đem rất nhiều tiền của, vật dụng ra bố thí cho kẻ nghèo khổ vô dụng thay vì đem tiền ấy cúng tế thần linh. Thần linh cảm thấy bị xúc phạm nên đã trừng phạt họ, đày họ xuống địa ngục chịu khổ. Nay ta nghĩ tới tương lai của ông, để sau này ông khỏi đọa địa ngục chịu khổ nên đặc biệt đến đây khuyên can ông đừng bố thí nữa, mà hãy tuân theo lời chỉ thị của thần linh.

    Thương nhân trí huệ thừa biết tâm ác độc của ma vương nên hỏi lại:

    – Người thích bố thí làm việc thiện thì bị thần linh trừng phạt đày xuống ngục chịu khổ, vậy những người nhận bố thí thì tương lai sinh về đâu?

    Ma vương đáp:

    – Những người nhận thí thì được lên thiên đường, hưởng thọ phúc lạc của cõi trời.

    Thương nhân trí huệ bèn trả lời với một nét mặt thản nhiên:

    – Những lời khuyên can chân thành của ông đến với tôi đã quá muộn, vì tôi biết cái tâm ham bố thí làm việc thiện của tôi không có thuốc nào chữa trị được. Nếu người ta có tiền mà bảo người ta đừng nên bố thí mới đúng chính đạo, thì những người dầu ít trí huệ tới đâu cũng không tin. Như ông nói người bố thí sẽ bị đọa địa ngục, và người nhận thí được lên thiên đường thì tôi còn muốn bố thí thêm cho nhiều người hơn nữa, để những người này nhờ sự bố thí của tôi mà được lên thiên đường, được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn. Quyết không phải vì sợ tai nạn cho mỗi một thân mình mà trốn tránh.

    Ma vương căm giận nhắc lại:

    – Hãy nghĩ kỹ đến lợi ích của chính mình mà xét lại! Tiêu xài rất nhiều tiền để rồi chịu khổ vô hạn thì đúng là ngu si nhất đời!

    – Tôi bằng lòng bị đọa xuống địa ngục lửa chịu thiêu chịu đốt, nhưng tôi không bỏ việc nhân nghĩa, bố thí.

    Nói xong thương nhân nhảy vào ngọn lửa đang phừng phực cháy. Nhưng kìa, một đóa hoa sen trắng bỗng nở ra dưới chân ông, nâng người ông từ từ lên cao, rời xa ngọn lửa đỏ. Thì ra vị tỳ-kheo ban nãy vô cùng hoan hỉ, muốn báo đáp ân đức cúng dường của thương nhân nên mới đằng vân giá võ, hiện đại thần thông, biểu thị lời chúc phúc vô hạn của mình cho vị thương nhân nhân từ bằng cách ấy.

    Ma vương thấy uy đức không thể nghĩ bàn của vị tỳ-kheo, và cũng thấy ma thuật của mình không lừa dối được vị thương nhân nọ, bèn xấu hổ mà biến đi cùng với cái địa ngục giả tạo.

    Vì thế, với người có nghị lực và lòng tin kiên cố thì dẫu có thế lực ác độc nào áp đảo cũng không thể bức bách và làm hại họ được.



  5. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    Thiện Tâm (10-06-2015)

  6. #64
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    9. Sát sinh cúng tế người chết



    Ngày xưa, để cúng tế người thân quá cố, người ta hay giết rất nhiều dê, cừu v.v.. gọi là “vật tế người chết”. Chư tỳ-kheo thấy ai cũng làm như thế bèn hỏi đức Phật:

    – Thế Tôn! Thiên hạ giết rất nhiều thú vật để cúng tế người chết. Làm như thế thì có công đức nào?

    Đức Phật dạy:

    – Này chư tỳ-kheo, sát sinh để cúng tế người chết không hề có một công đức nào hết. Từ xưa đã có người hiền ngồi trong hư không mà thuyết pháp, nói tới các tội chướng của việc sát sinh, khiến cho người trong cõi Diêm Phù bãi bỏ việc sát sinh để cúng tế. Thế mà chuyện quá khứ nay lại xuất hiện nữa rồi!

    Đức Phật nói xong, tiếp tục kể chuyện xưa:

    – Trong quá khứ, ở nước Ba La Nại có một vị giáo sư bà-la-môn danh tiếng, tinh thông ba tạng Vệ Đà, muốn cúng tế người chết nên đi bắt một con dê và dặn dò mấy người học trò rằng:

    – Đem con dê này ra bờ sông tắm rửa, đeo hoa lên cổ cho nó, mua 5 đồng tiền thức ăn cho nó ăn, sửa soạn cho nó xong rồi dẫn nó về.

    Mấy người học trò tuân lệnh đem dê ra bờ sông tắm rửa, và sửa soạn cho nó ngay tại đấy. Con dê thấy được nghiệp kiếp trước của mình, biết rằng hôm nay đã đến ngày mình thoát khỏi mọi khổ đau, mừng vui cười lớn, phát ra những âm thanh như tiếng bình vỡ. Nhưng nghĩ tới ông bà-la-môn kia sắp đem mình ra giết và sẽ phải chịu quả báo đau khổ, bất giác sinh tâm thương xót cho ông ta, bèn lớn tiếng oà lên khóc. Những học trò của ông bà-la-môn liền hỏi:

    – Dê này, khi thì mi cười lớn, khi thì mi lại khóc to, là tại sao vậy?

    – Xin dắt tôi về gặp thầy của các người rồi hãy hỏi lại tôi câu ấy.

    Đám học trò bèn dắt dê về, đem mọi sự kể lại cho thầy nghe. Thầy bà-la-môn nghe kể xong hỏi dê:

    – Tại sao mi cười rồi lại khóc?

    Dê moi trong ký ức để hồi tưởng lại túc nghiệp của mình, đáp lời ông bà-la-môn rằng:

    – Bà-la-môn, ngày xưa tôi cũng là một vị Bà-la-môn, đọc tụng tinh thông quyển kinh “Ma Nô Pháp điển” như ông vậy. Vì muốn tế người chết nên tôi giết dê đem cúng, và trong 499 đời, tôi đã phải chịu quả khổ chết đứt đầu. Bây giờ là kiếp cuối cùng thứ 500, hôm nay tôi sẽ thoát hết mọi đau khổ, vì thế tôi mới vui mừng mà cười to. Tôi lại khóc ngay sau đó, là vì tôi giết một con dê mà 500 đời phải bị cái nạn đầu lìa khỏi cổ, tuy hôm nay tôi sẽ thoát tai ách đó rồi, nhưng nghĩ tới ông, bà-la-môn, ông giết tôi rồi lại sẽ chịu cái khổ chết đứt đầu trong 500 đời như tôi, tôi xót thương ông mà khóc.

    – Dê ơi đừng sợ, ta sẽ không giết mi đâu.

    – Bà-la-môn, ông nói gì thế? Ông giết hay không giết tôi, hôm nay tôi cũng không thể thoát chết được.

    – Dê đừng sợ, ta sẽ bảo vệ mi, sẽ đi cùng đường với mi.

    – Bà-la-môn! Sức bảo vệ của ông rất yếu, mà tội ác của tôi đã tạo lại rất lớn!

    Bà-la-môn đem dê đi thả, và ra lệnh không ai được giết nó, rồi sai bọn học trò cùng đi chung đường với dê. Dê được tự do, chạy vào khu rừng cây rậm ở dưới một mõm đá cao, vươn cổ lên gặm lá cây mà ăn. Đúng ngay sát na ấy, trên đỉnh mõm đá bỗng vang lên một tiếng sấm, một góc của tảng đá bị nẻ ra, rơi trúng ngay cổ con dê đang vươn lên lúc ấy, thế là dê bị đứt đầu mà chết. Có rất nhiều người bèn chạy đến tập trung xung quanh.

    Lúc ấy, ta là thần cây chỗ ấy, thấy mọi người như thế bèn dùng thần lực ngồi ngay ngắn giữa hư không. Để cho những chúng sinh ấy biết quả báo của ác nghiệp mà không sát sinh nữa, ta thuyết pháp để cảnh giác họ cái khổ ghê rợn dưới địa ngục. Mọi người nghe pháp ấy, quá kinh sợ việc bị đọa địa ngục, từ đó ngưng bặt việc sát sinh. Ta cũng dạy mọi người thọ trì giới hạnh, và ai cũng nghe lời ta dạy, tích tụ những việc thiện như bố thí v.v... nên cuối cùng ai cũng được sinh lên cõi trời.

    Sát sinh để cúng tế không hề có phúc báo mà còn là một việc tội lỗi, những người thích sát sinh cúng tế hãy mau hồi tỉnh.

    Những người thích sát sinh tế tự, nếu nghe được những lời này của đức Phật thì hay biết bao!



  7. #65
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    10. Vua Nhất Thiết Thí


    Truyện cổ Phật giáo Ngày xưa ở Ấn Độ có một vị quốc vương được tôn xưng là Nhất Thiết Thí. Ngài là một ông vua rất mực nhân từ, thực hành đạo Bồ Tát. Bất kỳ người nào đến cầu xin với ngài điều chi đều được toại ý, nên dẫu xa xôi mấy người ta cũng nghe biết đến tên ngài.

    Tại một quốc gia lân cận, có một thằng bé thuộc dòng Bà-la-môn, từ bé đã mất cha, sống với mẹ già và một người chị. Không có cha, nhà lại nghèo nên cuộc sống của ba mẹ con thật vô cùng khốn khổ.

    Một hôm người mẹ gọi con đến bảo rằng:

    – Mẹ nghe nói ông vua nước láng giềng là người rất mực nhân từ, ai đến cầu xin điều chi cũng được ông giúp đỡ, do đó mới được người ta tôn xưng là vua Nhất Thiết Thí. Mẹ nghĩ con có thể tìm đến đó xin đức vua ấy một số tiền để ba mẹ con mình sinh sống, không biết con có bằng lòng đi hay không?

    – Thưa mẹ, con rất muốn đi qua bên ấy, nhưng thật tình con không có hiểu biết gì cả, lại không có chút học vấn nào, vì vậy con sợ không có khả năng đi xa như vậy. Con muốn ở đây cầu học trước cho có chút hiểu biết, có chút vốn liếng tri thức, thông hiểu đôi chút việc đời việc người rồi sẽ đi.

    Người mẹ nghe thế, suy nghĩ một hồi lâu, cân nhắc kỹ càng điều con mình yêu cầu rồi bằng lòng đi mượn tiền để sinh sống trong một năm. Thời gian đó người con đi tìm thầy cầu học.

    Thời gian đi vùn vụt, mau như nước chảy, ngoảnh đi ngoảnh lại một năm đã trôi qua mà đứa bé kia chẳng học được là bao. Về nhà, nó bàn với mẹ xin mẹ tìm cách khác, nhưng người mẹ lại thôi thúc phải con mau đi gặp vua Nhất Thiết Thí, không nên chần chờ nữa. Vì thế nó đành nghe theo lời.

    Ngày đứa con lên đường, trong nhà không còn gì cả, bà mẹ lại đi tìm người chủ nợ năm ngoái để xin mượn thêm tiền, nhưng lần này ông chủ nợ không bằng lòng mà đưa ra điều kiện, buộc người mẹ và người chị phải đến nhà ông làm công thì ông mới chịu cho mượn thêm tiền.

    Ngay lúc ấy, đức vua Nhất Thiết Thí phải đương đầu với một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Vị vua một nước láng giềng vốn tàn bạo bất nhân, lòng tham không đáy, đã đem một đội binh mã lớn rầm rộ kéo đến đánh phá biên giới của vua Nhất Thiết Thí, với ý định thôn tính nước này.

    Nghe tin, vua Nhất Thiết Thí không hề lấy làm ngạc nhiên hay lo lắng, cứ thản nhiên như không hề có chuyện chi xảy ra, cũng không chuẩn bị bất cứ điều chi để ứng chiến.

    Vì sao có chuyện lạ như vậy? Vì vua Nhất Thiết Thí vốn luôn nghĩ rằng đời sống con người vô cùng ngắn ngủi và tạm bợ, vinh hoa phú quý đều không có thật, nên ông đã từng nghĩ đến việc một ngày nào đó sẽ đem quyền cai trị đất nước của mình bố thí cho người nào mong muốn có được nó. Chỉ cần dân chúng được sống bình yên không phải khổ sở vì chiến tranh là ông mãn nguyện rồi, nên ông không hề nghĩ đến chuyện xuất binh chống cự để bảo vệ vương quyền.

    Các quan đại thần trong triều lấy làm lo lắng trước tình cảnh ấy, lại thấy nhà vua cứ thản nhiên như thể không có gì xảy ra, vẫn cư xử, làm việc vui vẻ như bình thường, ai nấy ruột gan như lửa đốt, nên đồng xin yết kiến vua để hỏi ngài tại sao không lo việc ứng chiến.

    Vua Nhất Thiết Thí im lặng không đáp, đợi cho các vị đại thần thưa thỉnh ba lần mới nói lên nỗi khổ tâm của mình:

    – Này các hiền khanh, nếu chỉ để bảo vệ quyền lực, danh dự và địa vị riêng của mỗi mình ta, thì ta nghĩ không cần phải đối phó với sự tranh chấp ấy. Ta không muốn mọi người dân phải vì một cá nhân ta mà hy sinh tính mạng một cách vô nghĩa. Các khanh thử nghĩ xem, cuộc sống của một con người, chẳng qua mỗi ngày ăn vài chén cơm, mặc một hai thước vải, ở thì sáu bảy thước đất là đủ rồi. Người có trí huệ cần gì phải lao tâm khổ trí vì những thứ đồ vật ngoài thân như vậy? Ta không muốn đánh nhau với kẻ địch là chỉ vì muốn bảo vệ cho sinh linh cả nước. Nếu quốc vương nước láng giềng thật tình muốn đến đây, ta sẽ đem ngai vàng này tặng không cho ông ta, chỉ cần ông ta đừng làm tổn hại đến sinh mệnh của trăm họ là được rồi. Các khanh có tán đồng những điều ta nghĩ hay chăng?

    Các vị đại thần từ lâu vốn đã được đức tính nhân từ của nhà vua cảm hóa, nên hôm nay nghe vua nói như thế thì không ai phản đối.

    Thế là, nửa đêm hôm ấy, vua Nhất Thiết Thí để lại ấn ngọc, thay thường phục, không đem theo người tùy tùng nào, cưỡi một con ngựa khoẻ lặng lẽ rời hoàng cung, đi ra khỏi thành.

    Ngày hôm sau, vua nước láng giềng dẫn một đội quân tiên phong nhanh chóng tiến thẳng vào thành, không gặp bất cứ một sự kháng cự nào, cứ thế mà thênh thang tiến vào. Thành trên thành dưới, cổng trong cổng ngoài đều không có một sự ngăn trở hay phản đối nào cả!

    Dân chúng trong thành từng đoàn từng lớp vẫn qua lại nhộn nhịp buôn bán, chuyện trò rộn ràng, họ không hề biết rằng ngay trong lúc ấy đã diễn ra một sự thay ngôi đổi chủ.

    Lòng tham và dục vọng của con người như biển sâu không đáy, dường như không có gì có thể lấp đầy! Vị bạo vương kia đã không tốn chút công sức nào để cướp đoạt một thành trì to lớn, một đất nước giàu có, lẽ ra đã có thể tự thấy toại nguyện mà hưởng thụ, thì lại không thấy như thế là đủ. Ông sinh ra nghi ngờ vì sự thành công quá dễ dàng, và lo lắng vì không hiểu được dụng ý sự ra đi lặng lẽ của vua Nhất Thiết Thí. Ông nghĩ, tốt nhất là nhổ cỏ thì phải nhổ cho tận gốc mới có thể tránh được mọi điều phiền phức về sau. Thế là, ông liền treo một giải thưởng rất lớn cho bất cứ ai bắt được vua Nhất Thiết Thí đem về.

    Vua Nhất Thiết Thí rời hoàng cung rồi cứ nhắm hướng vùng hoang dã mà đi. Đi mãi được đến năm sáu trăm dặm, tới một chỗ nọ thì gặp đứa bé nhà nghèo vâng lời mẹ đi tìm ông để mong được giúp đỡ. Nhưng vua Nhất Thiết Thí không hề biết điều đó nên hỏi đứa bé:

    – Này em bé, em đi đâu một mình vậy? Sao không có người lớn nào đi với em?

    – Cháu đi tìm gặp ông vua nhân từ, xin ông ấy giúp đỡ gia đình cháu.

    Rồi đứa bé đem hoàn cảnh gia đình mình nhất nhất kể cho vị vua nhân từ này nghe:

    – Từ khi cháu còn rất nhỏ, cha cháu đã qua đời rồi, bỏ lại cháu với người chị và một mẹ già. Mẹ cháu là phận đàn bà yếu đuối, cha cháu lại không để lại gia sản nào nên đời sống rất là khốn khó. Gần đây, cũng vì cháu muốn cầu học, mẹ cháu phải vay mượn tiền của người ta. Vì thế nên bây giờ mẹ cháu và chị cháu phải đến nhà làm công cho họ để trừ nợ. Hoàn cảnh gia đình cháu vô vàn khó khăn như thế, nên cháu muốn đi tìm đức vua nhân từ kia để xin ngài giúp tiền cho cháu đi chuộc mẹ và chị về.




  8. #66
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    Vua Nhất Thiết Thí nghe xong thở dài, trả lời:

    – Em bé ơi, ta chính là vua Nhất Thiết Thí mà em đang muốn tìm đây!

    Nghe rằng người đứng trước mặt mình, với một vẻ ngoài hết sức bình thường mà lại tự xưng là vua Nhất Thiết Thí, đứa bé vô cùng kinh ngạc, hầu như không sao tin được là sự thật lại có thể như thế!

    Vua Nhất Thiết Thí liền đem chuyện mình ra kể hết cho đứa bé nghe. Nghe xong, đứa bé rất cảm động, nước mắt ràn rụa, bi thương quá không tự chủ được.

    Nhà vua dịu dàng khuyên đứa bé không nên quá thương tâm, và hứa sẽ có cách giúp cho nó được toại nguyện. Đứa bé hoài nghi hỏi lại:

    – Đại vương! Hiện nay ngài không còn cai trị đất nước, trong người hầu như không còn một vật gì đáng giá, ngài định lấy gì mà giúp cháu đây?

    Vua Nhất Thiết Thí thản nhiên đáp:

    – Ông vua nước láng giềng tuy đã chiếm được đất nước của ta nhưng trong lòng vẫn chưa thỏa mãn. Vì ta bỏ đi lánh nạn, nên bây giờ ông ta đang treo một giải thưởng rất lớn cho ai bất cứ bắt được ta đem về. Nếu em giết ta và đem thủ cấp của ta về lãnh thưởng, thì lúc ấy không phải là em sẽ được toại nguyện hay sao?

    Đứa bé từ chối vì không thể nhẫn tâm làm việc ấy. Nhà vua bèn dạy nó cắt mũi, cắt tai của mình đem về cũng có thể lãnh thưởng, nhưng đứa bé nhất quyết không làm những chuyện như thế. Cuối cùng, nhà vua liền nói:

    – Em không muốn giết ta, lại cũng không muốn làm cho ta bị thương, vậy bây giờ chỉ có một cách này mà thôi: Em hãy trói ta lại rồi đưa về, em làm được việc này không?

    Đứa bé còn chần chừ chưa quyết định thì nhà vua đã hết lời thúc giục, còn tự mình chạy đi tìm dây trói mang lại, nên nó đành phải nghe theo kế sách của nhà vua.

    Vua Nhất Thiết Thí và đứa con của nhà bà-la-môn nọ bèn cùng nhau hướng về phía kinh thành mà đi. Khi còn cách kinh thành khoảng hai dặm, nhà vua bảo đứa bé trói ông lại rồi mới đi tiếp.

    Lúc ấy, nhân dân trong thành nam nữ già trẻ đều kéo ra xem, nhìn thấy đức vua nhân từ của mình bị trói đưa vào thành thì không một ai không thương tâm bật khóc, thậm chí có những người quá sầu đau đến mức ngã lăn xuống đất bất tỉnh, như thể nhìn thấy cha mẹ mình chết vậy! Bầu không khí đau thương lan rộng khắp kinh thành, mọi người đều u sầu áo não không còn thiết gì đến chuyện làm ăn buôn bán...

    Đến cửa cung điện liền có người nhanh chóng vào trong thông báo. Vị bạo vương nghe nói có người bắt được kẻ thù của mình đem về thì mừng rỡ bước ra xem và lập tức truyền lệnh đưa ngay vào cung.

    Các vị đại thần nhìn thấy đức vua nhân từ trở về liền phủ phục cả xuống đất mà khóc lóc thảm thiết. Tình cảnh vô cùng bi thương khiến cho chính vị bạo vương cũng không khỏi động tâm, ông bèn hỏi các đại thần:

    – Vì sao các ông lại khóc lóc thê thảm đến như vậy?

    Các đại thần đồng thanh tâu lên rằng:

    – Đại vương, xin ngài tha lỗi cho chúng thần đã thất lễ! Nhưng chúng thần thấy đức vua nhân từ này không những đã bỏ cả vương vị mà còn đem chính thân mình ra bố thí cho người khác, lại chẳng có chút gì là tiếc rẻ ân hận! Đại vương, hành động như vậy thật quá ư cao cả, vì thế chúng thần không thể không thật lòng cảm động!

    Vị bạo vương nghe các vị đại thần nói như thế thì lòng hung hăng bạo ngược bỗng chốc như tan biến. Ông bèn hỏi đứa bé con nhà bà-la-môn xem nó đã bắt được nhà vua kia như thế nào. Đứa bé thật tình đem chuyện gia đình mình và việc gặp gỡ nhà vua nhân từ giữa đường ra sao, kể lại rõ ràng từng chi tiết cho bạo vương nghe.

    Sau khi nghe đứa bé kể lại đầu đuôi mọi chuyện, vị bạo vương liền được cảm hóa, trong lòng thấy vô cùng xúc động, nước mắt bất giác trào ra không sao ngăn lại được. Ông lập tức truyền lệnh cởi trói cho vị vua nhân từ kia, sai người đưa đi tắm gội sạch sẽ rồi mời ngồi lên vương vị, đem ấn ngọc trao trả lại. Ông còn quỳ xuống đất mà tâu lên đức vua nhân từ rằng:

    – Tiểu vương này đã nghe tiếng nhân đức thánh thiện của đại vương từ lâu, nhưng không tin là thật có những chuyện như thế, nên mới nghĩ đến việc thôn tính đất nước của ngài. Nào ngờ khi vào được lãnh thổ của ngài, không hề gặp phải bất cứ một sự kháng cự nào. Nhưng lúc ấy tôi vẫn nghĩ rằng đại vương chẳng qua chỉ chạy theo danh thơm tiếng tốt mà thôi. Cho đến hôm nay tôi mới tận mắt được thấy hành vi cao cả và đức độ của ngài, tôi thật vô cùng khâm phục. Cúi xin ngài tha thứ cho những việc làm đã qua của một kẻ tiểu nhân ngu si, và tôi nguyện từ nay về sau nghe theo lời đại vương chỉ dạy, hướng dẫn, để không còn đi theo con đường tội lỗi nữa.

    Quả thật là, dùng sức mạnh để đối địch và đàn áp không bao giờ có thể thu phục được người khác một cách đúng nghĩa; chỉ có đạo đức mới khiến cho người ta quy phục một cách chân chính.

    Sau khi kể cho mọi người nghe câu chuyện trên, Đức Phật bảo các đệ tử rằng:

    – Vua Nhất Thiết Thí chính là tiền thân của ta, bạo vương ngày đó nay chính là Xá-lợi-phất, còn đứa con nhà bà-la-môn nay chính là Đề-bà-đạt-đa. Cho nên, ta sở dĩ thành tựu được sáu ba-la-mật, có đủ 32 tướng tốt, mười loại Phật lực, viên mãn tất cả mọi công đức, đều là nhờ ơn của Đề-bà-đạt-đa. Vì thế, Đề-bà-đạt-đa là thiện tri thức của ta, cũng là người bạn tốt của ta.

    Có thể xem một người đệ tử phản bội như Đề-bà-đạt-đa là thiện tri thức, là bạn tốt, quả thật nhân cách của Đức Phật quá sức cao quý!



  9. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    minhquang (10-08-2015)

  10. #67
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    11. Chim gõ kiến



    Trong khu rừng nọ, có một con chim gõ kiến thực hành tâm từ bi và đạo Bồ Tát.

    Con chim gõ kiến này khác với những con chim khác, bẩm sinh đã thông minh sáng láng, lại có lông cánh tuyệt đẹp. Khi nó bay, trông nó uy nghi trang trọng, thật là vua của loài chim rừng!

    Trong rừng có những thân cây bị mọt ăn thủng lỗ, thì loài chim gõ kiến hay đi tìm bắt sâu mọt trong những lỗ thủng ấy ăn để sống. Nhưng con chim gõ kiến này nhân từ quá nên chỉ ăn các mầm chồi non mềm hay uống nước các thứ trái cây, chứ không nỡ mổ những con mọt nhỏ bé kia để nuôi thân. Đồng thời, nó cũng mà một vị y sĩ rất thông minh, có thể trị bệnh cho loài chim và cho cả loài thú đi trên mặt đất nữa.

    Có một lần, chim gõ kiến bay qua cánh rừng, gặp một con sử tử nằm dài bên vệ đường, lớn tiếng kêu rống, rên rỉ đau đớn. Chim gõ kiến ngừng xuống hỏi:

    – Hỡi vua của loài thú! Ai làm cho bạn đau đớn như thế? Có phải là bị tên của thợ săn bắn trúng? Hay mắc phải một chứng bệnh nguy ngập? Hay là mới gây hấn với loài voi? Hay tại đói quá nên đau đớn? Xin bạn hãy nói cho tôi biết, không chừng tôi có thể giúp bạn được!

    – Hỡi vua của loài chim! Tôi không phải bệnh, cũng không phải gây hấn với voi, mà chỉ tại tôi mắc xương ngang cổ họng. Cái đau đớn cùng cực này, so với cái đau bị trúng tên cũng không thấm gì. Nó làm cho tôi không nuốt vào được, nhổ ra cũng không được, nếu bạn có thể giúp tôi thì xin bạn hãy ra tay làm phúc!

    – Tôi có thể giúp bạn, miễn là bạn nghe lời tôi dặn bảo.

    Sư tử gật đầu ưng thuận, chim gõ kiến bèn đi tìm một cành cây thật chắc chắn, bảo sử tử há miệng thật to, to đến mức không há nổi nữa mới thôi, rồi mới kê nhánh cây vào miệng sử tử. Xong đâu đó, chim mới bay vào miệng sư tử, khôn khéo làm cho hai đầu miếng xương nông ra một chút, rồi dùng hết sức lực ngậm xương trong mỏ kéo ra. Sau đó, nó từ từ xê dịch khúc cây ra khỏi miệng sư tử. Con chim gõ kiến hoàn thành sứ mạng trong lòng rất khoan khoái, lúc ấy mới cáo biệt sư tử mà bay đi.

    Sư tử không còn đau đớn nữa, trong lòng cũng rất cảm khái, tạ ơn chim gõ kiến rồi cũng từ biệt mà quay về.

    Một thời gian sau, chim gõ kiến kiếm không được thức ăn nữa vì mấy ngày trước đó trời khô hạn, không có lấy một giọt mưa, chồi cây và hoa quả cháy sém khô cằn... Chim gõ kiến đói quá, ngày một gầy mòn, nếu cứ thế này mãi thì chỉ mấy ngày nữa chắc là chết đói mất!

    Toàn thân rã rời, nó mệt mỏi tìm kiếm cái gì ăn thì đột nhiên thấy dưới một gốc cây to, con sư tử mới được cứu hôm nọ đang mải miết ăn một con cừu béo mập săn được. Nó ngấu nghiến nhai nhai nuốt nuốt, không màng tới bất cứ chuyện gì khác.

    Con chim gõ kiến bay xuống, khép nép đứng bên cạnh sư tử, nhìn nó bằng cặp mắt cầu khẩn như xin ăn mà không mở miệng nói một lời nào. Nhưng con sư tử vô tình vẫn nhồm nhoàm nhai nuốt miếng thịt cừu của mình, không thèm ngó ngàng gì tới con chim gõ kiến, giả vờ như không thấy.

    – Chắc anh chàng này không nhận ra mình.

    Chim gõ kiến nghĩ như thế, bèn tiến tới gần con sử tử, cầu cứu một cách khiêm tốn:

    – Hôm nay tôi đến gặp bạn như một kẻ ăn mày, xin bạn cho tôi một chút gì ăn, tôi đói quá rồi bạn ạ. Nếu bạn thuận lòng thí xả một chút thức ăn cho kẻ sắp chết đói, thì công đức của bạn rất lớn!

    Con sư tử hung dữ gầm lên:

    – Mi to gan thật, trong lúc ta đang dùng bữa thì mi táo bạo dám đến gần, ý mi muốn hiến thân làm thức ăn cho ta phải không? Cái lúc mi bay vào miệng ta lấy miếng xương ra khỏi họng, là vì ta cho phép mi làm, chẳng có gì đáng kể công hết! Ta không có lòng nhân từ, mi có cút đi không!

    Con chim gõ kiến không nói không rằng, lặng lẽ ôm nỗi thất vọng trong lòng, sửa soạn bay đi.

    Thần cây thấy con sư tử vong ân bội nghĩa như thế, trong lòng hết sức bất bình, bèn hỏi chim gõ kiến:

    – Tại sao bạn không mắng vào mặt cái phường vong ân ấy? Không lẽ bạn không đủ sức đối phó với hắn hay sao? Bạn là ân nhân của hắn mà hắn lại đối xử vói bạn một cách hung dữ như thế, tại sao bạn không mổ vào hai con mắt của hắn, mà lại chấp nhận cho hắn tàn nhẫn ngược đãi bạn?

    – Đừng nhắc tới hắn nữa. Xử phạt con sử tử vong ân bội nghĩa ấy không phải là việc của tôi. Trong tương lai, hắn sẽ tự nhiên lãnh lấy hậu quả của sự vong ân bội nghĩa ấy. Nếu có một ngày nào đó hắn gặp nạn, sẽ không ai đến cứu hắn nữa. Nhưng tôi không bao giờ ân hận vì đã thi ân cho hắn. Nếu như tôi nghĩ đến sự báo đáp rồi mới thi ân, thì đó là một việc mua bán vay trả, chứ không phải là một hành động đạo đức cao cả.

    Nghe chim gõ kiến nói như thế, thần cây cảm động mà khen ngợi rằng:

    – Bạn thật là một người nhân từ, đạo đức cao thượng. Bạn không giống như một con chim, mà giống một con người khoác lên một bộ lông cánh tuyệt đẹp. Trí huệ phúc đức của bạn sẽ vĩnh viễn không bao giờ thiếu sót!

    Tán thán xong, thần cây cáo biệt mà đi. Con chim gõ kiến cũng rời bỏ con sử tử vong ân bội nghĩa.

    Vài ngày sau, con sư tử bị thợ săn bắn chết.

    Không bao lâu, trời rưới xuống một trận mưa cam lồ, làm cho khắp mặt trái đất được tưới nhuần tươi tốt, hoa nở, lá non, và con chim gõ kiến nhân từ kia được cả trái đất ca tụng, khen ngợi.



  11. #68
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    12. Rắn trả ơn



    Truyện cổ Phật giáo Lúc đức Phật Thích-ca còn ở nhân địa tu đạo Bồ Tát, Ngài đã từng sinh ra làm một vị đại phú ông rất giàu có. Cây gỗ trong rừng và mỏ khoáng trong núi đều thuộc sở hữu của ông, dùng suốt đời cũng không hết. Còn nói về tiền bạc thì phải đếm lên tới cả ngàn vạn ức tiền vàng, tha hồ sử dụng chi tiêu.

    Ông là người từ bi, hỷ xả, thường thường bỏ ra cả ngàn vạn lượng vàng để bố thí mà không chút tiếc nuối. Ông cũng thường lui tới những chốn chợ búa, chờ thấy con vật đáng thương nào sắp gặp nạn, sắp bị giết thịt thì vội vàng chạy tới mua về phóng sinh.

    Phóng sinh là tâm nguyện duy nhất của ông phú hộ nhân từ này, nên được người đời đặt tên cho ông là Thiện Nhân.

    Có một hôm, vị phú ông nhân từ ấy thấy ngoài chợ có một con rùa rất lớn, đang mở to hai mắt chăm chú nhìn ông. Con rùa có vẻ thống khổ vô hạn, nước mắt trào ra, như thể đang cầu xin ông cứu giúp.

    Thấy thế ông rất buồn, vội vàng tiến đến xin mua con rùa. Người bán rùa, dĩ nhiên là muốn bán con rùa đi, nhưng khi thấy Thiện Nhân đến hỏi giá tiền, thì cố ý làm khó dễ, trả lời là không muốn bán. Thiện Nhân từ bi tha thiết muốn cứu mạng con rùa nên nài nỉ xin mua. Người bán rùa nói:

    – Nếu ông nhất định muốn mua thì phải trả cho tôi một vạn đồng tôi mới chịu bán, bằng không thì tôi đem nó về giết làm thuốc uống!

    Thiện Nhân không chút do dự, đưa ra một vạn đồng mua rùa mang về.

    Người bán rùa lòng dạ đen tối ấy tuy có một vạn đồng bỏ túi nhưng sau đó nhà bị trộm, rồi lâm bệnh nặng, cuối cùng còn bị cháy nhà, khiến cho một vạn đồng tiền bị thiêu rụi, xơ xác lại hoàn xác xơ.

    Thiện Nhân mang con rùa lớn về nhà, đem những món ăn ngon lành nhất cho ăn, rồi thấy miệng rùa có vết thương, vội lấy thuốc bôi cho nó. Không lâu sau, vết thương trên miệng rùa đã lành, ông cho xe chở rùa ra bờ biển thả xuống nước, trả tự do cho nó về với trời đất.

    Cách đó không lâu sau, vị phú ông từ bi đang ngồi tham thiền thì bỗng nhiên có tiếng gõ lạch cạch ở cửa sau. Ông mở cửa xem, thì ra đó là con rùa được ông cứu lúc trước. Con rùa lên tiếng nói với ông rằng:

    – Ân nhân, không lâu nữa ngôi thành này sẽ gặp nạn lớn. Dân chúng ở thành này nghiệp tội rất nặng, bây giờ nghiệp đã đến thời phải trả, không thể nào tránh khỏi tai họa. Chỉ có hai nhà là không nằm trong số người phải trả báo, một là nhà của ngài, hai là nhà của vua. Ngày đó tháng đó, nguyên ngôi thành này sẽ chìm dưới nước sau một trận lụt rất lớn. Xin ân nhân cùng vua sớm chuẩn bị mướn người đóng tàu, hẹn nhau khi thấy nước lớn vừa dâng lên thì mau lên tàu, thuận theo dòng nước mà đi, tự nhiên sẽ tìm được nơi nương náu.

    Con rùa lớn nói xong quay đầu đi mất. Thiện Nhân rất ngạc nhiên, nhưng được một con rùa biết nói báo nguy trước, không thể không tin. Hôm sau ông bí mật báo cho vua biết chuyện đêm qua, cấp tốc chuẩn bị mọi sự. Đúng y như rằng, không bao lâu sau, nạn lụt xảy ra trong thành. Khi một con nước lũ vừa ập đến là con rùa kia cũng xuất hiện, thôi thúc họ lên tàu mà đi. Con rùa bơi phía trước, bảo họ rằng:

    – Xin đi theo tôi, đừng để lạc mất phương hướng!

    Khi con tàu đang lướt trên dòng nước lũ, bỗng phía sau có một con rắn lớn bơi đến, ngóc đầu lên nhìn, dáng vẻ như xin được cứu mạng. Thiện Nhân từ bi bèn ra lệnh ngừng tàu lại vớt con rắn lên. Con rùa phía trước nói:

    – Ân nhân! Con rắn này có duyên với ngài, sau này ngài sẽ hiểu.

    Cách đó không xa, ông lại cứu một con cáo, và lại được rùa khen ngợi. Rồi đến phiên một người đang vùng vẫy trong dòng nước lớn, la hét kêu cứu, Thiện Nhân từ bi cũng muốn cứu y nhưng con rùa ngăn lại nói rằng:

    – Đây là một người có tâm địa xấu xa, tốt nhất là đừng cứu y. Nếu hôm nay cứu y, sau này y sẽ hại ân nhân.

    Thiện Nhân trả lời:

    – Bất cứ người nào chúng ta cũng phải cứu. Nếu chúng ta ích kỷ mà không cứu là phản bội lời chư Phật dạy rằng phải xem tất cả bình đẳng như nhau. Dầu sau này có xảy ra chuyện gì đi nữa, ta cũng phải cứu người này.

    Rồi không màng tới lời ngăn cản của rùa, ông vớt người nọ lên khỏi nước, cứu cho khỏi chết chìm.

    Đi một đỗi nữa thì con rùa lớn lại mở miệng ra nói:

    – Trời quang mây tạnh, thiên tai đã qua rồi. Tôi xin tạm thời cáo biệt.

    Nói xong nó bỏ đi ngay. Rắn và cáo cũng từ giã mà đi.

    Đoàn người lênh đênh trên mặt nước một thời gian thì khám phá một hòn đảo nhỏ. Họ lên bờ, thấy hòn đảo này có rất nhiều tài nguyên, chỉ tiếc là không có bao nhiêu dân cư trú. Họ quyết định lưu lại trên đảo ở tạm.

    Có một hôm, con cáo xuất hiện một cách bất ngờ, nói với Thiện Nhân rằng:

    – Ân nhân! Ngài đã cứu tôi thoát nạn, hôm nay tôi xin báo đáp ơn cứu mạng to lớn ấy. Vừa rồi tôi mới khám phá ra một kho tàng trong một cái huyệt giữa núi. Kho tàng này không nằm trong mộ phần của ai, cũng không phải do tôi cướp giật, tức là của trời cho tôi. Nay tôi muốn đem kho tàng này dâng tặng cho ân nhân để báo đáp ơn sâu, xin ân nhân vui lòng nhận.

    Thiện Nhân nghĩ rằng nếu không nhận và nếu chẳng may kho tàng này rơi vào tay một kẻ bất lương thì không phải là đáng tiếc lắm sao? Chi bằng ta vui lòng nhận, rồi đem bố thí cho người nghèo, và giúp đỡ tất cả những chúng sinh khốn cùng. Nghĩ như thế rồi, ông bằng lòng nhận kho tàng của con cáo dâng tặng.

    Khi ông đi lấy kho tàng về, thì người được ông cứu khỏi chết chìm lúc trước, không những không nghĩ tới chuyện đền ơn cứu mạng mà còn dùng lời dọa nạt và thủ đoạn bắt Thiện Nhân phải chia cho mình phân nửa kho tàng. Thiện Nhân cho hắn mười cân vàng nhưng con người tâm địa đen tối ấy từ chối không nhận, dọa rằng:

    – Nếu ông không chia cho tôi phân nửa, tôi sẽ tố cáo ông đã quật mồ cướp của.

    Thiện Nhân đáp:

    – Thiên tai vừa qua chắc chắn đã làm cho rất nhiều người bị tán gia bại sản, tôi muốn đem số vàng này cứu giúp họ. Nếu ông lấy đi, hẳn không phải để làm điều tốt, tức là phản bội lương tâm, cho nên tôi không cho ông toại nguyện tà ý đó.

    Người kia ôm mối hận, bí mật tố cáo với quan, vu khống Thiện Nhân đã quật mồ cướp của. Vì thế Thiện Nhân tốt bụng bị bắt, nhưng lòng không chút oán hận kẻ xấu xa đã vu khống mình, chỉ thấy rằng mình đã tạo nghiệp tội trong kiếp trước nên kiếp này mới bị quả báo xấu như thế này.

    Ông không hề oán hận, chỉ cầu nguyện sao cho tất cả chúng sinh sớm thoát tai nạn, đừng kết oán với người khác để đừng bị giam trong tù ngục như mình hôm nay.

    Vua rắn và vua cáo là những con vật có tánh linh, chúng bèn họp nhau bàn bạc làm cách nào để cứu ân nhân đã bị giam trong ngục tù một cách oan uổng. Vua rắn nói với vua cáo rằng:

    – Tôi có một cách này, nhất định cứu được ân nhân thoát nạn.

    Nói xong vua rắn bèn cáo biệt vua cáo mà đi. Vua rắn một mình bò lên núi tìm cỏ thuốc, đây là một loại thuốc có một không hai, có thể giải độc và xoa dịu mọi đau đớn trong chớp nhoáng. Vua rắn ngậm cỏ thuốc trong miệng bò vào ngục, nói với Thiện Nhân rằng:

    – Đây là một loại cỏ thuốc có năng lực giải độc. Không lâu nữa thái tử sẽ bị bệnh, không có thầy thuốc nào cứu được, chỉ có loại thuốc này mới có thể cứu thái tử thoát hiểm. Lúc đó ân nhân hãy nói với tên cai ngục là mình có thuốc thần trừ độc, chắc chắn hắn sẽ loan tin ấy ra, và như thế ngày ân nhân ra khỏi tù không còn xa nữa!

    Vua rắn từ giã Thiện Nhân rồi, lén bò vào vương cung cắn chân thái tử một cái. Tức thời chất độc lan đi rất nhanh, tất cả thầy thuốc danh y đều bó tay chịu thua, nhìn thái tử chờ chết. Ông vua già chỉ có một đứa con trai duy nhất ấy thôi nên tâm can còn nóng nảy hơn đàn kiến trong chảo nóng. Ông ra lệnh cho các đại thần dán bảng yết thị khắp nơi, cấp tốc kiếm tìm một vị thần y. Nếu có ai cứu được thái tử khỏi bệnh thì sẽ được phong làm thừa tướng, còn nếu ai giới thiệu thần y đến thì sẽ được thưởng một vạn lượng vàng.

    Đúng như rắn chúa tiên đoán, tên cai ngục biết tin này bèn báo cho Thiện Nhân trong tù biết. Thiện Nhân nói:

    – Tôi có thuốc thần trong người.

    Vua nghe tên cai ngục báo tin, lập tức vời Thiện Nhân vào cung bôi thuốc cho thái tử. Thuốc vừa bôi xong, thái tử lập tức hết đau và vết sưng cũng xẹp xuống ngay, được bình an thoát hiểm. Vua thấy chân thái tử lành lặn, vui mừng khôn kể xiết, bèn hỏi nguyên do tại sao Thiện Nhân bị vào tù. Khi biết thiện nhân bị tù oan, vua tự trách rằng:

    – Ta là vua thất đức, và quan quân đại thần cũng thiếu sáng suốt nên để cho kẻ ác lừa bịp, người hiền bị phỉ báng!

    Vua ra lệnh bắt con người vong ân bội nghĩa kia về chịu khổ hình, phong Thiện Nhân làm thừa tướng và đại xá tất cả tội nhân khiến cho mọi ngục tù đều trống không trong khoảnh khắc.

    Thiện Nhân hiểu biết Phật pháp một cách thâm sâu, nên vua cung kính thỉnh ông khai thị. Thiện Nhân bèn tuyên thuyết giáo nghĩa cứu khổ của đức Phật cho vua nghe khiến vua được tỉnh ngộ, quy y Tam Bảo, tôn kính thọ trì giới luật thanh tịnh, phát tâm từ bi rộng lớn, mở các kho vựa của quốc gia cứu giúp người nghèo khổ, chỉnh đốn việc giáo dục, xây cất viện dưỡng lão và viện mồ côi, thương xót tất cả hữu tình.

    Về sau, đất nước này trở nên hòa bình an lạc, được từ quang của đức Phật chiếu rạng khắp nơi.



  12. #69
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    PHẦN III: Những chuyện thuộc nhiều giai đoạn khác

    1. Năm loại bất tử


    Kinh A-di-đà có nói tới 16 vị đại đệ tử của đức Phật, trong số ấy có tôn giả Bạc Câu La. Ngài cao lớn tráng kiện, nghi dung trang nghiêm đẹp đẽ, đó là vì trong những đời quá khứ ngài không hề sát hại một sinh linh nào. Nhờ thiện nghiệp ấy nên trong 91 đời ngài không bệnh hoạn, từ nhỏ tới già không ngã bệnh một lần nào. Không những thế, ngài còn có cái phúc đức là không bao giờ chết vì năm loại tai họa, cũng gọi là có được “năm loại bất tử”. Thế nào là năm loại bất tử?

    – Một là không vì thiên nhiên biến chuyển như núi lở hay đất sụp mà chết.

    – Hai là không bị lửa dữ thiêu cháy, không bị nước lớn nhận chìm mà chết.

    – Ba là không bị giặc cướp làm hại mà chết.

    – Bốn là không bị chết bởi lệnh vua.

    – Năm là không bị đao binh, chiến tranh làm thiệt mạng.

    Tôn giả Bạc Câu La có thiện nghiệp và phúc báo ấy, ai được thấy ngài hay nghe nói đến ngài đều phải cung kính và tán thán.

    Ngài tu hành tinh tiến, thường ngồi kiết già, đoan nghiêm bất động. Khi ngài tọa thiền dưới gốc cây, không bao giờ cảm thấy mệt mỏi mà tựa vào thân cây. Cũng thế, trong các phòng thất, ngài cũng không bao giờ ngồi tựa vào các vách tường.

    Trên phương diện chuyên cần tu tập cũng không ai bằng ngài, và khó hơn nữa, ngài có đầy đủ biện tài vô ngại, có thể thuyết giảng cặn kẽ tất cả các diệu pháp.

    Thế nhưng ngài không thường thuyết pháp cho đại chúng, luôn luôn giữ thái độ tĩnh mặc, vô ngôn. Điều ấy khiến cho nhiều người lấy làm kỳ dị. Đã có tài thuyết pháp thì tại sao lại không thuyết? Vì thế một hôm tôn giả A Nan mới hỏi ngài rằng:

    – Tôn giả Bạc Câu La! Tại sao ngài lại không tuyên thuyết diệu pháp cho đại chúng nghe?

    Tôn giả Bạc Câu La bèn trang trọng trả lời rằng:

    – Nói nhiều chưa chắc đã được người ta tin nghe. Dẫu cho mình nói câu nào cũng đáng giá ngàn vàng, nhưng thế nào cũng có người cho rằng lời mình nói ra làm nhiễu động tâm họ. Tôi thường đắc được Pháp lạc trong cảnh tịnh tĩnh, cho nên tôi muốn mọi người cũng được như tôi, hưởng Pháp lạc trong sự tĩnh lặng.

    Tôn giả Bạc Câu La không những rất chuyên tâm trong việc an tọa tham thiền, mà trong việc tu trì công đức nhẫn nhục thì lại càng vượt bực hơn: bị người đánh đau, ngài không những không trả đũa mà còn không khởi tâm sân hận. Bị người hãm hại, đã không phục thù, ngài cũng không hề oán trách người. Cũng như bị người chửi mắng, ngài cũng có thể nhẫn nhục chịu đựng. Được lợi, bị suy thoái, bị hủy báng, được danh dự, được khen ngợi, bị chế nhạo, được sung sướng hay khổ đau, tám loại “gió” (bát phong) ấy không thể làm cho ngài động tâm hay phiền não. Công phu tu dưỡng của ngài thật xứng đáng cho chúng ta muôn đời kính phục và tôn trọng.



  13. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    lamebay (10-10-2015)

  14. #70
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    2. Nghiệp giết hại



    Có một vị vua luôn được xem là đức độ và tài giỏi nhất của Ấn Độ từ xưa đến nay, đó là vua A-dục. Ông có một hoàng tử tên là Câu-na-la. Hoàng tử Câu-na-la rất khôi ngô tuấn tú, tướng mạo như tranh vẽ, khuôn mặt như trăng rằm, vì thế có rất nhiều cô gái muốn được gần gũi với chàng.

    Lúc đó, trong cung điện có một nàng vương phi trẻ tuổi tên là Đê-xá-la Hy-đa. Cô gặp hoàng tử lần đầu đã đem lòng yêu thương, thường tìm đủ mọi cơ hội để được gặp gỡ, gần gũi.

    Một hôm, nhân tìm được một cơ hội tốt, vương phi liền đi tìm gặp hoàng tử, đem hết tâm sự tha thiết bày tỏ với chàng, hy vọng hoàng tử sẽ chấp thuận tình cảm của mình. Nhưng hoàng tử Câu-na-la xưa nay vốn tin theo Phật pháp, luôn giữ gìn phẩm hạnh thanh cao, đạo đức. Đối với một vương phi của phụ hoàng, tuy còn trẻ tuổi nhưng về phương diện vai vế là ngang với mẹ mình, chàng làm sao có thể sinh lòng tà vạy? Chàng tuyệt đối không bao giờ có thể làm một chuyện vô luân điên đảo như thế, nên trước những lời êm ái dịu ngọt của vương phi chàng vẫn không hề động lòng.

    Khi người vương phi nhan sắc mỹ miều kia đem tình ái ra bày tỏ với chàng mà không được chấp thuận, ngược lại còn phải nghe những lời lẽ khuyên răn dịu dàng nhưng cương quyết của chàng thì cô ta quả thật không sao chấp nhận được.

    Người vương phi quá si tình ấy vì không đạt được ý nguyện nên vừa buồn vừa xấu hổ, sinh tâm oán hận, liền bất chấp tất cả, sai người độc ác đến khoét mắt hoàng tử trước khi giết chàng đi.

    Khi câu chuyện này vỡ lở ra, mọi người nghe tin đều hết sức kinh hoàng. Làm sao một người hiền lành, đáng yêu như hoàng tử lại phải chịu một số phận bất hạnh đến như thế? Vì quá thắc mắc, mọi người bèn tìm đến một vị tỳ-kheo đã chứng đắc thần thông để thưa hỏi. Vị tôn giả này trả lời rằng:

    – Trong một tiền kiếp rất lâu xa về trước, tại thành Ba-la-nại có một người thợ săn, quanh năm săn thú để sinh sống. Một năm nọ, tiết trời lạnh giá, người thợ săn lên núi săn bắn, tình cờ phát giác ra một hang động với rất nhiều nai đang trú lạnh trong ấy. Từ đó, mỗi ngày ông ta đều đến cửa động để bắt lấy một con nai đem về nhà, trước hết móc mắt nai, sau mới đem ra giết thịt. Cứ như thế trong suốt hơn một năm trời, bầy nai đáng thương kia cứ từ từ bị giết hết, không còn một con nào. Do nhân duyên giết hại ấy, từ đời này sang đời khác người thợ săn kia phải chịu quả báo luôn bị khoét mắt đau đớn trước khi bị giết. Hoàng tử Câu-na-la ngày nay chính là người thợ săn độc ác thuở ấy.

    Tôn giả nói xong, mọi người vẫn còn chưa hết nghi hoặc, liền gạn hỏi:

    – Bạch tôn giả, đã là một người thợ săn độc ác như thế thì làm sao lại được sinh ra làm hoàng tử trong một gia đình hoàng tộc cao quý? Xin tôn giả từ bi thuyết giải cho chúng tôi được hiểu.

    Vị tôn giả ôn tồn trả lời:

    – Điều đó lại là do một nhân duyên khác. Thuở xưa, sau khi đức Phật Ca-la-ca diệt độ rồi thì vua của nước ấy cho người điêu khắc tôn tượng của Như Lai để tỏ lòng tôn kính Tam bảo, lại còn xây bảo tháp cúng dường tôn tượng. Nhưng về sau có một hôn quân không tin Tam bảo, ra lệnh hủy hoại pho tượng Như Lai. Trong nước ấy có một người thợ điêu khắc tượng, thấy vua vô đạo như thế rất buồn khổ, nên phát nguyện đem pho tượng Phật vỡ nát về tu sửa lại trang nghiêm như cũ. Người thợ điêu khắc thuở ấy cũng chính là một tiền kiếp của hoàng tử Câu-na-la, nhờ công đức tu sửa tượng Phật mà nay được sinh vào hoàng tộc, lại do kết duyên với Phật pháp từ thuở ấy nên đến nay sinh ra cũng được nghe biết và tin tưởng, thực hành theo Chánh pháp. Nhưng vì nghiệp giết hại ngày trước chưa hết nên vẫn phải chịu quả báo như vậy.

    Những lời giảng giải của vị tôn giả đã làm tăng thêm lòng tin vào nhân quả của mọi người, rằng có nhân như thế thì sẽ thọ nhận quả báo như thế, mọi việc xảy ra ở đời đều là tự làm tự chịu. Đó là một chân lý, vì không ai có thể chịu khổ thay cho người khác cả!



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •