DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 8/11 ĐầuĐầu ... 678910 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 71 tới 80 của 107
  1. #71
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    3. Tài sản chân thật



    Thuở xưa, có hai anh em cha mẹ mất sớm, để lại một gia sản to lớn. Không hiếu dưỡng được song thân, họ đều rất lấy làm buồn tiếc.

    Thời gian vùn vụt trôi qua, hai anh em cùng lớn lên nhưng khác biệt nhau rất xa, từ chí hướng đến ý thích. Người anh thì mến đạo nghĩa, thường làm việc thiện như bố thí của cải, do đó gia sản ngày càng tổn giảm; còn người em thì say mê tích lũy tài sản, thường dùng đủ mọi mánh khóe làm ăn buôn bán nên gia sản ngày càng tăng thêm. Người em rất bất mãn lối sống của anh mình, nên một hôm, không chịu đựng được nữa, người em đến gặp anh và lên mặt dạy dỗ:

    – Anh em chúng ta bất hạnh nên cha mẹ mất sớm. Cha mẹ để lại gia tài cho chúng ta, phận làm con phải nhớ nghĩ đến công ơn của cha mẹ, mau mau phải nỗ lực làm ăn buôn bán để giữ gìn và phát triển cái vốn gia sản sẵn có ấy, khiến hương hồn cha mẹ ở suối vàng cũng được an ủi, như thế mới đúng đạo làm con. Đằng này anh lại từ sáng đến tối cứ lo chạy theo mấy ông sa-môn xuất gia để nghe kinh Phật, không lẽ mấy ông ấy có thể cho anh áo quần tiền của hay sao? Gia đình anh càng ngày càng nghèo khó, gia sản cha mẹ để lại ngày càng hao hụt, không những có lỗi với hương hồn cha mẹ mà còn khiến cho lối xóm phải chê cười.

    Người anh hiền từ nhã nhặn đáp lại:

    – Những gì chú nói anh đã biết rõ hết, nhưng đó chỉ là những ý nghĩ thiển cận của thế tục. Chú nghĩ rằng mình phải giữ gìn và khuếch trương sản nghiệp của cha mẹ để lại mới là tận hiếu, nhưng anh thì hoàn toàn không nghĩ như chú. Làm như thế chẳng qua chỉ giúp chú có thêm điều kiện hưởng thụ, chứ vong hồn cha mẹ nào được lợi ích gì? Còn anh chỉ muốn lo giữ theo Năm giới một cách nghiêm chỉnh, chuyên cần thực hành Mười điều thiện, cúng dường Tam bảo, nương theo Chánh đạo mà hồi hướng mọi công đức để cứu vớt cha mẹ, nguyện cho hương hồn cha mẹ được xa lìa Ba nẻo khổ mà sinh về đường thiện, dần dần tiến đến chỗ được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đây mới thật là con đường báo hiếu chân chính. Đạo và đời vốn khác biệt nhau, cái mà đạo cho là sung sướng và quý giá thì người đời lại cho là vô nghĩa, không thể hiểu được. Những gì chú cho là khoái lạc hôm nay chính là gốc rễ của phiền não về sau. Anh không muốn chạy theo những khoái lạc huyễn ảo như thế. Sự khoái lạc mà người có trí huệ mong cầu phải là một sự khoái lạc chân chánh và thường tồn!

    Người em nghe anh nói, cảm thấy mình không có lý lẽ gì để tranh cãi thêm nữa, nhưng trong lòng không phục, bèn nén giận cúi đầu ra về.

    Người anh biết em mình không thể nói một lần mà hiểu, bèn nêu rõ tâm chí muốn cầu học đạo của mình. Người em biết anh mình lòng đã cương quyết hướng về đạo nên dù bực tức vẫn im lặng không phản đối.

    Không lâu sau đó, người anh vì muốn cho việc học đạo được chuyên tâm nên lìa bỏ gia đình, khoác y ôm bình bát làm sa-môn, ngày đêm tinh tiến tu thiền, cẩn thận từng lời nói, từng ý nghĩ, về sau chứng được quả A-la-hán.

    Người em nghe tin này không những không vui mừng mà lòng phiền não giận hờn anh càng tăng thêm. Vì si mê nên từ sáng đến tối anh ta chỉ biết lo làm ăn để tích lũy tài sản, cho đến mức đầu óc phải choáng váng, còn việc nhân sinh giải thoát thì anh ta không mảy may chú ý đến.

    Cuối cùng, tài sản kếch sù mà anh ta có được cũng không giúp kéo dài mạng sống vốn có giới hạn. Quả thật, khi chết đi là không đem theo được bất cứ vật gì, chỉ có nghiệp lực đã tạo là vẫn luôn theo sát bên mình.

    Trong lúc sống người em quá ư tham dục nên sau khi chết liền bị đọa vào loài súc sinh, đầu thai làm thân trâu. Con trâu này sinh ra mạnh khoẻ mập mạp, liền bị một người nhà buôn mua về để kéo xe muối.

    Vì phải kéo xe trèo dốc đường dài, lao khổ không phút nào ngừng nghỉ, nên con trâu mất sức, gầy mòn, mỗi lần lên dốc thở phì phò mà vẫn bị roi vọt, trông thật là thê thảm, thương tâm. Vừa đúng lúc ấy, người anh đi ngang qua dùng đạo nhãn quán sát con trâu, biết đây là em mình ngày trước nên nói để khai mở trí huệ cho em:

    – Chú ơi, một đời chú khổ cực, gia tài sản nghiệp chú gom góp được tính ra không biết bao nhiêu mà kể, bây giờ tài sản ấy đâu rồi? Trước kia chú nói việc tu đạo là vô dụng vì không đem lại quần áo, tiền của, chỉ có việc tích lũy tài sản mới đáng quý vì nó giúp chú thỏa mãn mọi dục lạc. Bây giờ đạo pháp đã giúp anh giải thoát được luân hồi, chứng được quả thánh, còn tài sản mà chú quý trọng sao lại không cứu chú thoát khỏi kiếp trâu mà sinh về cõi lành?

    Nói xong, người anh vận dụng thần thông khiến con trâu tự thấy được kiếp trước của mình. Con trâu tuy không nói được nhưng đau khổ rơi nước mắt, biết mình kiếp trước có được thân người nhưng lại làm nhiều điều bất thiện, tham lam, ganh ghét, không tin Phật pháp, khinh chê Thánh chúng, không nghe lời khuyên bảo thiện lành của anh, cho đến nỗi bây giờ đọa làm thân trâu, hối tiếc thì đã quá muộn.

    Người anh biết em mình đã có tâm niệm hối hận và tự trách, liền xin với người chủ mua lại con trâu này, và đem mối quan hệ giữa mình với con trâu kể cho người chủ nghe. Người chủ trâu nghe xong tóc gáy dựng đứng, rùng mình ghê sợ, không dám nhận tiền mà đem trâu dâng tặng cho người anh. Người anh dắt trâu về chùa, cho nó quy y Tam Bảo và dạy nó niệm Phật. Không lâu sau, con trâu chết đi, sinh lên cõi trời Đao-lợi.

    Về sau, người chủ con trâu nghĩ đến vấn đề sinh tử luân hồi cũng xả bỏ tất cả, chuyên tâm học đạo, cuối cùng cũng được mãn nguyện, chứng được Thánh quả, giải thoát phiền não.

    Nỗ lực kiếm tiền cho chính bản thân mình thì tiền ấy không hề thuộc quyền sở hữu của mình; còn dùng tiền tài để đem lại hạnh phúc cho xã hội, ích lợi cho chúng sinh, thì tiền tài ấy mới chính thật thuộc về mình. Có nhân thì tất nhiên phải có quả, đây là một đạo lý bất di bất dịch.



  2. #72
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    4. Tâm an thì đất bằng



    Vào đời quá khứ, Bồ Tát Trì Địa sinh đúng vào thời đức Như Lai Phổ Quang xuất thế. Ngài mới nghe qua Phật pháp liền phát tâm xuất gia, và phát nguyện rằng hễ ngài còn sống đời nào thì trong đời sống ấy ngài sẽ dùng hết sức lực vì chúng sinh mà xây cầu đắp đường. Phàm thấy có chỗ nào nguy hiểm thì ngài gia công tu sửa cho con đường giao thông được thuận lợi an toàn. Trong nhiều đời như thế, Bồ Tát Trì Địa cứ một lòng làm việc khổ nhọc, không giải đãi, không mệt mỏi, không than vãn, không khoe khoang.

    Ngoài việc xây cầu và đắp đường, cứ thấy người già hoặc trẻ con phải xách vác cái gì nặng nề cồng kềnh là Bồ Tát Trì Địa vội vàng chạy đến vác hộ, không cần biết đường xa hay gần, và tuyệt đối không nhận một sự đền ơn báo đáp nào. Vì thế ngài được rất nhiều người kính ngưỡng.

    Có một lần, quốc vương lập đàn cúng dường Như Lai, Bồ Tát Trì Địa biết được liền vội vàng cẩn thận tu sửa con đường mà Như Lai sắp bước qua cho được bằng phẳng, rồi cung kính đứng chờ Như Lai giáng lâm.

    Đến thời đức Như Lai Tỳ Xá, đức Phật lại đi ngang qua con đường ấy. Ngài hết lời khen ngợi Bồ Tát Trì Địa có tinh thần làm việc vì người, và đưa cánh tay ra xoa đỉnh đầu của Bồ Tát mà nói rằng:

    – Ông phát tâm tu sửa tất cả mọi con đường khiến đâu đâu cũng được bằng phẳng. Đất bằng thì tâm cũng bằng, trong tương lai ông sẽ chứng quả rất mau chóng.

    Bồ Tát Trì Địa nghe Như Lai khai thị xong, lập tức đốn ngộ, biết rằng thân mình cùng thế giới và tất cả mọi sự mọi vật không hề có một sự sai khác nào, ngài biết bổn tính của mình vốn tịch lặng vô nhiễm, không có cái “ngã” nào tồn tại. Vì thế ngài chứng đắc quả A-la-hán.

    Đó là chuyện tiền kiếp của ngài Bồ Tát Trì Địa.



  3. #73
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    5. Con chó biến thành bà hoàng



    Vào thời Phật pháp thịnh hành ở Trung Ấn Độ, trong một toà thành nọ, có vị đệ tử tại gia của đức Phật phát tâm cúng dường một vị tỳ-kheo, đi tìm hỏi khắp nơi mới gặp được một vị tỳ-kheo đã chứng quả A-la-hán, bèn thỉnh vị này mỗi ngày đến nhà mình để cúng dường.

    Trong nhà vị cư sĩ nói trên có nuôi một con chó, khi vị tỳ-kheo dùng cơm thì con chó ngồi xổm bên cạnh bàn. Vị tỳ-kheo thuận tay nắm một viên cơm cho con chó ăn. Con chó được ăn nên có rất nhiều thiện cảm với vị tỳ-kheo.

    Vị tỳ-kheo mỗi ngày đến ăn cơm, thì con chó cũng mỗi ngày được ngài cho ăn. Con chó nhớ tưởng đến vị tỳ-kheo, vị tỳ-kheo cũng biết được tâm niệm của con chó nên cứ tới giờ là cho nó một nắm cơm. Do đó con chó càng thêm thiện cảm đối với vị tỳ-kheo.

    Cứ thế trong suốt một năm trời, con chó đến lúc chết, đầu thai trong hoàng cung của vua nước An Tức làm công chúa.

    Sinh ra, cô đã biết kiếp trước của mình, lúc còn làm chó trong nhà một vị cư sĩ và ngày ngày chia cơm với vị tỳ-kheo, sự việc ra sao cô đều nhớ rõ ràng.

    Một hôm, vua nước Nguyệt Đê phái Sử Tiết đến nước An Tức. Vua nước An Tức thấy Sử Tiết là người hiền lại có tài và rất thông minh nên gả công chúa cho Sử Tiết, bảo đưa công chúa về nước Nguyệt Đê.

    Công chúa theo chồng về nước Nguyệt Đê, mỗi lần gặp một vị tỳ-kheo xuất gia là trong lòng cô rất vui mừng. Cô hồi tưởng lại lúc trước còn mang thân chó, nhờ được một vị tỳ-kheo cho ăn cơm, có thiện cảm đối với ngài, nên kiếp này mới được thân người. Để tỏ lòng tri ân báo ân, cô nghĩ tốt nhất là nên lập đàn trai thật lớn để cúng dường tăng chúng.

    Phật pháp tại nước Nguyệt Đê rất hưng thịnh, tỳ-kheo xuất gia rất đông. Mỗi ngày công chúa đem thức ăn đến cúng dường cho từ 400 đến 500 vị, tất cả đều một tay cô lo liệu, tuyệt đối không mượn ai khác làm thay. Lo việc cúng dường hoàn tất rồi, cũng chính tay cô lo việc chùi rửa dọn dẹp. Người hầu, nô tỳ trong nhà đều một lòng tán thán cô, và đặt cho cô danh hiệu là “vương thí”:

    – Công chúa tới chỗ này mà còn mỗi ngày tự tay lau chùi sạch sẽ thì chúng ta cũng nên gia công nỗ lực!

    Sau đó, bọn nô tỳ lén dấu chổi đi, nghĩ rằng họ sẽ tự lo việc chùi rửa, không nên để công chúa làm những việc như thế nữa. Công chúa đòi lại chổi mãi không được, bèn lấy từ trong rương một chiếc áo mới mặc hôm trước, cuộn tròn lại làm cái chổi quét đất. Người chồng thấy công chúa lấy áo làm chổi quét đất bèn nói:

    – Tại sao nàng không dùng chổi lại dùng áo quét đất, như thế không uổng phí lắm sao?

    Công chúa trả lời:

    – Trong tiền kiếp thiếp không hề có lấy một vật gì có thể dùng để bố thí, chỉ có thiện tâm đối với một vị tỳ-kheo thôi mà kiếp này được hưởng phúc báo, sinh ra làm công chúa. Thiếp chưa bao giờ phải lo mưu cầu sinh sống, tự nhiên có được áo, thì dùng nó làm chổi có gì đâu là uổng phí?

    – Tuy nàng lễ kính Phật pháp, cúng dường tỳ-kheo, nhưng ta chưa hề thấy mấy ông tỳ-kheo cho nàng được một đồng nào, trong khi đó áo nàng mặc là do ta lao lực kiếm tiền mà có.

    Người chồng nói như thế để khuyên bảo công chúa. Công chúa bèn giải thích cho chồng hiểu:

    – Thiếp còn nhớ được rằng kiếp trước thiếp là một con chó, được nuôi trong nhà một vị đệ tử của đức Phật. Mỗi ngày có một vị tỳ-kheo đến nhà người này dùng cơm, thiếp bèn ngồi ở dưới bàn đợi vị tỳ-kheo nọ bốc một nắm cơm cho thiếp ăn. Thiếp rất có thiện cảm với tỳ-kheo, do nhân duyên ấy mà kiếp này đầu thai vào trong nhà quốc vương. Thiếp xin hỏi chàng, tất cả những gì thiếp có hôm nay không phải là do vị tỳ-kheo ấy ban cho thiếp hay sao?

    Người chồng nghe xong, thấy vợ nói rất có lý, bèn nói:

    – Nàng chỉ có mỗi một sự là đem thiện tâm đối xử với một vị tỳ-kheo mà được phúc báo to lớn như vậy, Phật pháp quả là không thể nghĩ bàn!

    Sự thật thì người chồng này hơi có chút bủn xỉn, nhưng khi được công chúa kể cho nghe chuyện nhân quả phúc báo thì tâm liền biến chuyển, từ đó biết bố thí cho người nghèo, cúng dường chư tăng mà không sinh lòng tiếc rẻ, giúp cho Phật pháp được hoằng dương trong dân gian.



  4. #74
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    6. Thân nữ chuyển thành nam



    Nghiệp chướng của người nữ so với người nam vẫn luôn nặng hơn. Sinh ra làm một người đàn bà, dầu trên bất cứ phương diện nào cũng không thắng được một người đàn ông. Vì thế, người đàn bà nào trên thế giới này cũng phải sinh tâm tàm quý đã sinh làm thân nữ.

    Thời quá khứ có một cô gái, vì muốn sám hối nghiệp chướng của mình và muốn các đời sau không còn thọ thân nữ nữa, mới đem một bó hoa tươi thắm và thơm ngào ngạt đến chùa dâng cúng đức Phật. Cô chí thành đảnh lễ tượng Phật và sau đó, ra khỏi chùa đến cửa lớn thì vừa vặn gặp một vị tỳ-kheo. Cô hỏi:

    – Bạch thầy, đem một bó hoa cúng Phật được bao nhiêu phước báo?

    Vị này đáp:

    – Tôi là người mới xuất gia tu học, chưa rõ lắm về điều cô muốn hỏi. Nhưng tôi có thể đưa cô đến gặp một vị đã chứng quả A-la-hán, và cô có thể hỏi ngài.

    Vị xuất gia sơ học bèn đưa cô gái đến gặp vị A-la-hán, và đem vấn đề cô gái hỏi ra thưa thỉnh ngài. Vị A-la-hán trả lời:

    – Công đức cô đem một bó hoa cúng Phật, khiến kiếp tới cô sẽ không sinh làm thân nữ nữa, được sinh lên cõi trời hưởng phúc suốt một vạn kiếp mà phước báo vẫn chưa hết. Sau đó, còn phước báo nào nữa thì tôi không đủ sức biết được.

    Vị A-la-hán không trả lời được cho cô gái một cách hoàn mãn khiến cô vẫn còn bất an. Vị A-la-hán bèn nói:

    – Cô ở đây chờ một chút, tôi lên cung trời Đâu Suất thỉnh giáo Bồ Tát Di Lặc.

    Vị A-la-hán nói xong, lập tức đằng không lên cung trời Đâu Suất, hỏi Bồ Tát Di Lặc:

    – Có một tín nữ cúng Phật một bó hoa và sám hối nghiệp chướng trong quá khứ. Công đức của cô như thế, nói cho đến cùng tận thì được bao nhiêu?

    Nhưng ngài Bồ Tát Di Lặc cũng không thể biết hết được tường tận vấn đề này, ngài bảo khi nào ngài chứng quả Phật thì mới biết rốt ráo được!

    Xem thế mới biết, cúng Phật một bó hoa thôi mà được công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn, không thể so sánh. Chỉ cần mọi người chịu phát tâm tu công đức cho nhiều, bố thí cho nhiều, thì không những có thể làm cho nghiệp chướng tiêu trừ, mà phước báo đạt được thì không thể nào hiểu cho tận cùng được!



  5. #75
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    7. A-la-hán gặp nạn



    Ngày xưa ở nước Kế Tân, vùng Tây Vực, có một vị cao tăng tên gọi là Ly Việt, lúc trẻ xuất gia, ở trong hang động trên một đỉnh núi hoang vắng học đạo, công phu tu hành thiền định rất chuyên cần, chứng được quả A-la-hán và sáu phép thần thông. Vì thế nên người người xa gần biết tiếng, tìm đến theo ngài học đạo.

    Dưới sự chỉ dẫn khéo léo và từ bi của ngài, đệ tử ngài cũng chứng quả A-la-hán rất mau, chứng quả xong họ phân tán khắp nơi để lo việc hoằng pháp.

    Tuy ngài Ly Việt đã chứng thánh quả nhưng vẫn không ngừng tinh cần tu trì, rất ít khi nghỉ ngơi. Một hôm có chút giờ nhàn rỗi, ngài mới nhân đó dọn dẹp hang động, chợt thấy tấm y màu xám mà ngài thường mặc đã theo thời gian mà ngả sang màu bạc trắng.

    Không biết tại sao ngài lại chợt có ý muốn lên núi hái rễ cỏ và vỏ cây làm thuốc nhuộm rồi đem tấm y trăm mảnh ra nhuộm lại. Bỏ tấm y trong nồi thuốc nhuộm rồi, ngài dùng một nhánh dương liễu khuấy nước để trộn thuốc nhuộm cho đều, thì quái lạ thay, tấm y bỗng dưng biến thành một tấm da trâu! Chưa hết, thuốc nhuộm trong nồi đang đen như mực, bỗng biến thành màu đỏ như máu, và mấy cái rễ cỏ, vỏ cây lại biến thành những miếng thịt trâu. Quái dị hơn nữa là mùi thịt trâu còn bốc ra từ cái nồi đang sôi, khiến ngài cứ trố mắt ra nhìn một cách kinh ngạc.

    Đúng lúc ấy một người nông phu từ chân núi chạy lên, thấy ngay miếng thịt trâu trong nồi, bèn la hét giận dữ:

    – A, ông thật là to gan! Hôm nay ông khai giới sát nên mới đem con trâu của tôi ra giết phải không! Sáng sớm tôi dắt trâu lên núi ăn cỏ, mấy phút sau không thấy nó nữa, đi tìm khắp nơi mà tìm không ra, may mà có mùi thịt dẫn đường nên tôi mới tìm được tới đây! Thì ra là ông, một kẻ xuất gia, đã bắt trộm con trâu của tôi đem ra làm thịt! Bây giờ ông còn gì để nói nữa không? Đi! Đi với tôi đến gặp vua ngay!

    Người nông phu nóng nảy không chịu nghe lời phân trần, lôi Ly Việt xềnh xệch đi đến gặp vua. Thời ấy không có toà án, không có pháp đình, hễ có việc gì bất bình là dân chúng kéo nhau đi gặp vua, nhờ vua phân xử.

    Khi người nông phu kể lể hết sự tình cho vua nghe, vua bèn hỏi Ly Việt có lời nào biện bạch không? Chứng cớ đã rành rành ra đó, còn có gì để nói nữa, do đó vua xử Ly Việt ngồi tù 12 năm.

    Mười hai năm, tức là bốn ngàn ba trăm tám chục ngày hơn chứ có phải ít đâu! A-la-hán Ly Việt trong suốt thời gian tù tội phải đảm nhiệm công việc quét dọn nhà lao và chùi rửa cầu xí cho sạch sẽ. Mặc dù vậy, buổi tối ngài chăm chỉ chuyên cần tu thiền định, không bao giờ nằm xuống. Ngài từ bi nhẫn nại như thế nên đến cả mấy người cai ngục, người nào cũng hết sức cảm động và kính phục.

    Thời gian 12 năm tù đã mãn, những người đệ tử ngày xưa tham thiền với ngài bỗng không hẹn mà cùng một lúc nhớ nghĩ đến sư phụ trong núi, tất cả bèn dùng thần thông quan sát, biết là sư phụ bị tù oan trong 12 năm trường.

    Họ cưỡi gió bay về cung vua, từ trên không trung khua trống pháp để tỏ sự bất bình. Nhà vua nghe thế hết sức kinh ngạc, vội vàng tự tay phóng thích A-la-hán Ly Việt ra khỏi nhà giam.

    Sau 12 năm tù đày, Ly Việt tóc thì dài, râu thì trắng, nhưng khi ngài vừa bước chân ra khỏi cửa ngục thì râu tóc tự nhiên rụng cả xuống đất, rồi còn bay lên không trung, biến hiện vô lượng hóa thân, mỗi hóa thân phóng ra ánh sáng rực rỡ. Thái độ an nhiên của ngài không giống một người mới được thả ra khỏi tù chút nào.

    Lúc ấy, chư Thần Quỷ muốn ra tay trừng phạt nhà vua vì sự không công minh, nhưng ngài Ly Việt ngăn lại:

    – Các con không được ra tay, đây là nghiệp chướng của ta, không thể oán trách bất cứ ai khác.

    Trong một kiếp quá khứ, ta là một người nông phu, có một con trâu đi lạc. Ta lên núi tìm nó, đi cùng hết núi tìm cũng không ra, mà lại gặp một vị xuất gia tu hành. Không suy nghĩ gì thêm, ta liền nghi ngờ chính vị này bắt trộm trâu của ta. Trong suốt ngày hôm đó, trong tâm ta khởi đầy vọng niệm. Ta muốn đuổi vị ấy ra khỏi núi, ta muốn bắt vị ấy đưa lên vua để vị ấy bị giam cầm vào ngục tối... Ta đã tạo nghiệp ác nên kiếp này phải chịu đủ 12 năm tù oan.

    Giống như chuyện cho vay ăn lãi, thời gian càng lâu thì tiền lãi càng cao, quả báo ta phải chịu đựng đã lên tới tám ngàn lần số “nợ” ta đã vay mượn.

    Ta chỉ tiếc là tại sao lúc đó không làm được gì ích lợi cho người khác, không phát tâm bố thí rộng rãi, có phải là kiếp này đã tiêu trừ được nghiệp chướng rồi không?

    Nhà vua và các đại thần nghe Ly Việt kể lại chuyện xưa như vậy, ai nấy đều tỉnh ngộ và đều hiểu rằng nguyên tắc nhân quả là một nguyên tắc bất di bất dịch, không một ai có thể đứng ngoài nguyên tắc này.



  6. #76
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    8. Nai biết trọng chữ tín



    Truyện cổ Phật giáo Trong một khu rừng thẳm trên núi cao có một bầy nai cùng nhau chung sống, con số lên tới cả trăm con. Chúng đi theo những cánh đồng xanh mơn mởn, vừa ăn vừa đùa giỡn, chẳng mấy chốc tiến dần đến chốn thị thành có người ở.

    Hôm ấy, nhà vua dẫn đầu một đoàn tùy tùng ra khỏi thành hướng về phía thôn dã săn bắn. Người ngựa khắp nơi, đoàn nai kinh hãi chạy tán loạn. Có một con nai đang mang thai bị bỏ lạc lại phía sau, không cách nào chạy kịp. Trong lúc vừa đói lại vừa mệt, nó sinh hạ được hai con nai con.

    Nai mẹ đem hai con nai con giấu vào một nơi kín đáo rồi vội vàng nghĩ tới chuyện kiếm ăn. Vì trong lòng đang khủng hoảng, nó bất cẩn sa xuống hố. Lo lắng cho hai đứa con, nai mẹ sốt ruột tìm đủ cách thoát ra khỏi hố nhưng không thoát được, nó bèn kêu khóc thảm thiết. Thợ săn nghe tiếng khóc, chạy đến xem thấy một con nai lớn, vui mừng vô cùng định đem nai ra giết. Nai mẹ quỳ xuống, khấu đầu van xin, dáng điệu như muốn nói:

    – Tôi vừa mới sinh được hai con nai con, lâu lắm rồi chưa có gì vào bụng, xin các ông làm phúc thả cho tôi ra một lúc thôi, để tôi về thăm các con và chỉ cho chúng nó chỗ nào có nước có cỏ, để chúng nó có thể tự kiếm sống một mình, rồi sau đó tôi sẽ trở lại chịu chết. Tôi thề không sai lời hẹn ước.

    Thợ săn thấy nai mẹ quỳ xuống với dáng điệu van nài như thế, vừa kinh dị vừa quái lạ, bèn nói:

    – Làm người trong đời ai cũng tham sống sợ chết, huống chi mi là loài thú vật! Bây giờ mi đã đến tay ta, ta bắt được mi rồi, làm gì có chuyện thả mi ra?

    Họ không hề có ý định thả nai mẹ về. Nai mẹ khóc nước mắt ướt cả mặt, liên tục khấu đầu cầu khẩn như muốn nói:

    – Mạng sống của tôi hiện thời đang nằm trong tay các ông. Tôi không hề tiếc chút thân tàn này, chỉ thương xót hai đứa con thơ dại. Nếu các ông bằng lòng thả cho tôi về thì hai đứa con của tôi mới còn sống sót được, bằng không chúng nó chỉ còn có nước chết mà thôi!

    Thợ săn thấy nai mẹ van nài với những tình cảm không khác gì loài người, không thể không cảm động nên cuối cùng thả cho nai mẹ ra đi.

    Nai mẹ chạy về chỗ giấu mấy đứa con, vừa buồn vừa vui, chỉ cho chúng biết ở đâu có nước uống và ở đâu có cỏ ăn, xong rơi lệ mà nói:

    – Lúc nãy mẹ ra ngoài, không cẩn thận nên bị rơi vào tay thợ săn, chút xíu nữa thì không về gặp các con được. Vì mẹ lo nghĩ cho các con nên xin họ thả cho ra trong chốc lát để về thăm các con. Các con thật là bất hạnh đáng thương! Từ nay các con sẽ không có mẹ săn sóc nữa. Mẹ hy vọng các con sẽ sống sung sướng sau này.

    Nai mẹ nói tới đây, bỏ các con ở lại mà đi. Hai con nai con thấy mẹ đi rồi trở về, mừng rỡ vô cùng, bây giờ lại nghe mẹ nói sẽ đi nữa, bèn theo bén gót, vừa đi vừa kêu khóc. Nai mẹ quay đầu lại nói:

    – Các con không thể nào theo mẹ được, nếu không mẹ con chúng ta sẽ bị giết hại cả nhà! Mẹ được về thăm các con một lúc như thế, có chết cũng cam lòng! Chúng ta nghiệp chướng sâu dày nên sinh ra làm súc sinh, nay còn gặp thảm trạng bị bắt bị giết. Mẹ chết đi rồi, mong các con lập nguyện vững chải là không bao giờ tái sinh làm thú vật nữa!

    Nhưng nai con nào có nghe lời nai mẹ, nhất định theo mẹ cho đến chỗ có cái hố. Thợ săn thấy nai mẹ về, theo sau có hai chú nai con, trong lòng lại càng thấy bất nhẫn nên thả cho mấy mẹ con nhà nai về hết.

    Họ bèn đem chuyện này lên tâu với nhà vua. Nhà vua cũng thấy loài nai mà biết trọng chữ tín còn hơn loài người, bèn hạ lệnh cấm săn bắn nai, cho nên từ đó bầy nai mới gọi bạn kết lũ mà sống tự do, đi lại chơi đùa tự tại trên những cánh đồng cỏ.

    Sinh làm nai mà có chữ tín lại biết thương con như thế, thật không khác gì con người.

    Đức Phật nói chúng sinh trong vũ trụ, ai ai cũng có trí huệ và đức độ của Như Lai, điều đó quả thật không sai!

    Chỉ cần có tâm từ bi là ngay trong kiếp này đã được quả báo tốt. Lừa gạt người khác chính là tự lừa gạt lấy mình, giữ chữ tín với người khác tức là tự giúp đỡ lấy mình.

    Chuyện con nai mẹ biết trọng chữ tín, thật đáng làm bài học cho loài người biết bao!



  7. #77
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    8. Nai biết trọng chữ tín



    Trong một khu rừng thẳm trên núi cao có một bầy nai cùng nhau chung sống, con số lên tới cả trăm con. Chúng đi theo những cánh đồng xanh mơn mởn, vừa ăn vừa đùa giỡn, chẳng mấy chốc tiến dần đến chốn thị thành có người ở.

    Hôm ấy, nhà vua dẫn đầu một đoàn tùy tùng ra khỏi thành hướng về phía thôn dã săn bắn. Người ngựa khắp nơi, đoàn nai kinh hãi chạy tán loạn. Có một con nai đang mang thai bị bỏ lạc lại phía sau, không cách nào chạy kịp. Trong lúc vừa đói lại vừa mệt, nó sinh hạ được hai con nai con.

    Nai mẹ đem hai con nai con giấu vào một nơi kín đáo rồi vội vàng nghĩ tới chuyện kiếm ăn. Vì trong lòng đang khủng hoảng, nó bất cẩn sa xuống hố. Lo lắng cho hai đứa con, nai mẹ sốt ruột tìm đủ cách thoát ra khỏi hố nhưng không thoát được, nó bèn kêu khóc thảm thiết. Thợ săn nghe tiếng khóc, chạy đến xem thấy một con nai lớn, vui mừng vô cùng định đem nai ra giết. Nai mẹ quỳ xuống, khấu đầu van xin, dáng điệu như muốn nói:

    – Tôi vừa mới sinh được hai con nai con, lâu lắm rồi chưa có gì vào bụng, xin các ông làm phúc thả cho tôi ra một lúc thôi, để tôi về thăm các con và chỉ cho chúng nó chỗ nào có nước có cỏ, để chúng nó có thể tự kiếm sống một mình, rồi sau đó tôi sẽ trở lại chịu chết. Tôi thề không sai lời hẹn ước.

    Thợ săn thấy nai mẹ quỳ xuống với dáng điệu van nài như thế, vừa kinh dị vừa quái lạ, bèn nói:

    – Làm người trong đời ai cũng tham sống sợ chết, huống chi mi là loài thú vật! Bây giờ mi đã đến tay ta, ta bắt được mi rồi, làm gì có chuyện thả mi ra?

    Họ không hề có ý định thả nai mẹ về. Nai mẹ khóc nước mắt ướt cả mặt, liên tục khấu đầu cầu khẩn như muốn nói:

    – Mạng sống của tôi hiện thời đang nằm trong tay các ông. Tôi không hề tiếc chút thân tàn này, chỉ thương xót hai đứa con thơ dại. Nếu các ông bằng lòng thả cho tôi về thì hai đứa con của tôi mới còn sống sót được, bằng không chúng nó chỉ còn có nước chết mà thôi!

    Thợ săn thấy nai mẹ van nài với những tình cảm không khác gì loài người, không thể không cảm động nên cuối cùng thả cho nai mẹ ra đi.

    Nai mẹ chạy về chỗ giấu mấy đứa con, vừa buồn vừa vui, chỉ cho chúng biết ở đâu có nước uống và ở đâu có cỏ ăn, xong rơi lệ mà nói:

    – Lúc nãy mẹ ra ngoài, không cẩn thận nên bị rơi vào tay thợ săn, chút xíu nữa thì không về gặp các con được. Vì mẹ lo nghĩ cho các con nên xin họ thả cho ra trong chốc lát để về thăm các con. Các con thật là bất hạnh đáng thương! Từ nay các con sẽ không có mẹ săn sóc nữa. Mẹ hy vọng các con sẽ sống sung sướng sau này.

    Nai mẹ nói tới đây, bỏ các con ở lại mà đi. Hai con nai con thấy mẹ đi rồi trở về, mừng rỡ vô cùng, bây giờ lại nghe mẹ nói sẽ đi nữa, bèn theo bén gót, vừa đi vừa kêu khóc. Nai mẹ quay đầu lại nói:

    – Các con không thể nào theo mẹ được, nếu không mẹ con chúng ta sẽ bị giết hại cả nhà! Mẹ được về thăm các con một lúc như thế, có chết cũng cam lòng! Chúng ta nghiệp chướng sâu dày nên sinh ra làm súc sinh, nay còn gặp thảm trạng bị bắt bị giết. Mẹ chết đi rồi, mong các con lập nguyện vững chải là không bao giờ tái sinh làm thú vật nữa!

    Nhưng nai con nào có nghe lời nai mẹ, nhất định theo mẹ cho đến chỗ có cái hố. Thợ săn thấy nai mẹ về, theo sau có hai chú nai con, trong lòng lại càng thấy bất nhẫn nên thả cho mấy mẹ con nhà nai về hết.

    Họ bèn đem chuyện này lên tâu với nhà vua. Nhà vua cũng thấy loài nai mà biết trọng chữ tín còn hơn loài người, bèn hạ lệnh cấm săn bắn nai, cho nên từ đó bầy nai mới gọi bạn kết lũ mà sống tự do, đi lại chơi đùa tự tại trên những cánh đồng cỏ.

    Sinh làm nai mà có chữ tín lại biết thương con như thế, thật không khác gì con người.

    Đức Phật nói chúng sinh trong vũ trụ, ai ai cũng có trí huệ và đức độ của Như Lai, điều đó quả thật không sai!

    Chỉ cần có tâm từ bi là ngay trong kiếp này đã được quả báo tốt. Lừa gạt người khác chính là tự lừa gạt lấy mình, giữ chữ tín với người khác tức là tự giúp đỡ lấy mình.

    Chuyện con nai mẹ biết trọng chữ tín, thật đáng làm bài học cho loài người biết bao!



  8. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    Thiện Tâm (10-13-2015)

  9. #78
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    9. Thời và vận



    Tại Ấn Độ ngày xưa, vua nước Ba La Nại tên là Phạm Đạt Ma. Một hôm, vua và quần thần lên núi thẳm rừng sâu săn bắn, đến chiều tối thì trú đêm trong một căn lều cỏ dưới ngọn cây cao. Sau một ngày chạy nhảy săn đuổi, vua Phạm Đạt Ma rất mệt mỏi nên vừa đặt lưng xuống là ngủ say như chết.

    Lúc ấy, trong ngoài tĩnh mịch, cái yên tĩnh của ban đêm như có gì rờn rợn. Bỗng nhiên xa xa có tiếng gọi:

    – Bệ hạ! Bệ hạ! Vua Phạm Đạt Ma!

    Vua Phạm Đạt Ma đang ngủ say bị tiếng gọi ấy đánh thức dậy thình lình, ông mở to hai mắt nghiêng tai lắng nghe.

    – Bệ hạ! Bệ hạ!... Bệ hạ!

    Trong đêm đen, ai là người gọi nhà vua? Vua Phạm Đạt Ma cho rằng thần kinh của mình quá ư nhậy cảm nên không thèm tìm hiểu gì thêm, nhắm mắt ngủ tiếp.

    Ngày hôm sau, đoàn người lại tiếp tục săn bắn, cho đến khi mặt trời ngả về tây họ mới mệt nhoài kéo nhau về. Suốt một ngày săn bắn hào hứng, nhà vua đã quên khuấy tiếng gọi trong đêm vừa qua. Đêm hôm ấy, y như đêm trước, ông lại ngủ rất say. Đến nửa đêm, tiếng gọi quái dị lại vang lên:

    – Bệ hạ! Bệ hạ!... Bệ hạ!

    Nhà vua lại bị tiếng gọi đánh thức, hơi cảm thấy bực bội nhưng đồng thời cũng lấy làm lạ, làm sao mà hai đêm liền lại có người gọi mình như thế? Vua sai cận vệ ra ngoài nhìn xem là ai, nhưng không hề có bóng dáng của một người lạ nào.

    Qua đêm thứ ba, sự thể lại diễn ra như trước. Lần này vua bắt đầu cảm thấy sợ, ông không còn hứng thú gì trong việc săn bắn nữa, tuy đó là thú vui mà ông ưa thích nhất từ trước đến nay. Trời vừa hừng sáng, vua không dám nấn ná lại chỗ ấy, truyền lệnh cho quần thần trong vòng một giờ phải nhổ trại và thu dọn tất cả để tức khắc hồi cung.

    Về tới hoàng cung, vua vẫn còn phiền não vì chuyện này nên triệu tập đông đủ các đại thần trong triều để cùng nhau thảo luận. Mọi người đoán chắc rằng đây là yêu ma quỷ mị tác quái, và phải tìm cách trừ khử ma quỷ ngay.

    Nhưng khi nói đến ma quỷ thì ai cũng run sợ, văn võ đại thần tướng sĩ trong triều chẳng ai dám đảm nhận trọng trách một mình vào chốn rừng sâu quyết đấu với ma quỷ.

    Cuối cùng, chỉ còn cách là dán yết thị, chiêu mộ người can đảm dũng lược và có sức mạnh đi bắt quỷ.

    Bảng yết thị nói rằng, người nào trừ được quỷ sẽ được thưởng 500 lượng vàng.

    Yết thị dán lên chưa được bao lâu thì có một người nghèo khổ cùng đinh nhưng lại rất gan dạ đến xin đi trừ quỷ để lãnh thưởng.

    Vua thấy người này thân thể cường tráng, rất lấy làm vừa ý, bèn đem đầu đuôi câu chuyện kể cho người này nghe. Trời vừa chạng vạng tối, người cùng đinh này lên đường.

    Màn đêm từ từ buông xuống, người này vào tận trong rừng sâu ngồi yên chờ đợi. Từng phút, từng phút chầm chậm trôi qua. Đến khoảng nửa đêm, tiếng gọi quái dị nọ lại vang lên:

    – Bệ hạ! Bệ ha!... Bệ hạ!

    Người cùng đinh nhắm hướng tiếng gọi vọng lại mà tiến tới, khám phá ra tiếng gọi này từ trong một hang động vọng ra. Ông đứng trước hang động, lớn tiếng gọi vào:

    – Ê! Mi là người hay là quỷ? Mau ra đây! Nếu không ta sẽ lấy dao bén đâm chết mi!

    Thật lạ lùng, ông vừa nói xong thì trong động lại vọng ra âm thanh trả lời:

    – Tôi không phải là quỷ, cũng không phải là người. Tôi là kho tàng bị chôn trong hang động này. Thật đáng tiếc, mấy đêm liền tôi gọi nhà vua đến mang tôi về, nhưng vua không thèm màng tới. Anh đến thật đúng lúc, bây giờ toàn thể tài sản này chúng tôi hiến tặng cho anh hết! Chẳng qua tôi có 7 người bạn, và chúng tôi đi đâu cũng muốn đi cùng. Bây giờ tôi bày cho anh phải làm những gì: ngày mai anh về chùi dọn nhà cửa cho sạch sẽ, xong chuẩn bị sẵn chút sữa bò và chút nước nho. Đến trưa, chúng tôi sẽ cải trang thành 8 nhà tu đến nhà anh. Anh đợi chúng tôi ăn uống xong, lấy một cây gậy phang vào đầu người trưởng đoàn của chúng tôi, xong đem ông ấy đặt vào góc nhà, lúc đó kho tàng sẽ về tay anh.

    Người cùng đinh nghe những lời ấy thì quá đỗi mừng rỡ, vội vàng chạy về nhà. Trời chưa sáng, ông đã lo chùi dọn nhà cửa thật sạch sẽ, xong đến gặp nhà vua, ba hoa khoác lác bịa ra một câu chuyện trừ quỷ. Nhà vua không chút nghi ngờ, sai đem 500 lượng vàng ra thưởng cho ông. Ông vui mừng trở về nhà sửa soạn cơm nước và sữa, rồi còn gọi một người thợ hớt tóc về nhà hớt tóc tươm tất.

    Thời gian quá cấp bách nên ông vừa hớt tóc xong thì có 8 nhà tu đã đến trước cửa. Ông lễ độ mời họ vào nhà ngồi, xong đem các thứ đã chuẩn bị sẵn ra khoản đãi họ. Xong, như đã đồng ý với nhau trước, ông đem tới một cây gậy và nhắm đầu nhà tu trưởng đoàn phang vào một cái thật mạnh.

    Thật là quái lạ, ông vừa mới phang xuống, tám ông thầy tu bỗng biến thành tám cái bình bằng vàng sáng choang, óng ánh. Ông mừng quýnh mừng quáng, bây giờ ông không còn là một anh chàng cùng đinh nữa mà đã trở thành một ông nhà giàu.

    Nhưng mọi sự đã bị một người khác thấy rõ ngọn nguồn. Số là người thợ hớt tóc ban nãy, chưa kịp đi thì khách đã đến nên đành phải trốn trong một căn phòng khác nhìn trộm và vô tình thấy hết tất cả.

    Ông này vừa kinh ngạc vừa khoái chí, lòng tham nẩy sinh, tuy không biết ất giáp gì nhưng cũng muốn bắt chước theo điều mình mới nhìn thấy để phát tài:

    – Ta cũng có thể làm giàu bằng cách này vậy!

    Ông về nhà, một mặt nhờ người đi tìm 8 ông thầy tu mời về, một mặt dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, mua thật nhiều thức ăn ngon lành dọn sẵn, đợi 8 ông thầy tu tới rồi, ông chân thành mời họ vào cỗ, đợi cho họ ăn no rồi mới bắt chước anh chàng cùng đinh kia, vác gậy ra phang lên đầu một trong 8 ông thầy tu.

    Nhưng thật là luống công, vì 8 ông thầy tu chẳng những đã không biến thành 8 cái bình vàng, mà người bị đánh thì bể đầu chảy máu kêu la bài hãi, vì thế người ngoài đường bu đến xem rất đông.

    Vô cớ hành hung người tu hành, thật là tội đã rành rành không chối vào đâu được, người thợ hớt tóc lập tức bị bắt giải vào phủ quan chịu tội.

    Khi bị quan tòa hỏi tại sao lại đánh người, ông thợ hớt tóc mới đem đầu đuôi ngọn ngành câu chuyện kể lại cho quan nghe. Quan tòa lại mang chuyện này trình tâu lên vua. Nhà vua nổi giận, sai người đến nhà người cùng đinh tịch thu hết mấy cái bình vàng, nhưng quái lạ thay, bình vàng mới đặt trước mặt nhà vua đã biến thành những con rắn độc ghê rợn. Vua hốt hoảng vội sai người mang trả tất cả về cho chủ cũ.

    Câu chuyện trên đây muốn nói rằng: nếu ta không đủ nhân duyên có được vật gì, thì không thể cưỡng ép cho có. Nếu cưỡng ép nhân duyên cho có thì chỉ tự gây tổn hại mà thôi.

    Cổ nhân có nói “mưu tài hữu đạo”. Nếu mưu cầu điều gì mà không đúng phép tắc, đạo đức thì chẳng khác gì ép cát tìm dầu hay đục băng đá tìm sữa, hoàn toàn phí công vô ích.

    Nhưng mọi sự được mất của thế gian xét cho cùng cũng đều là vô thường. Tiền của, tài sản quý báu cuối cùng rồi cũng sẽ bỏ ta mà đi, vì khi nhắm mắt xuôi tay chẳng ai mang theo được gì cả. Cho nên, đức Phật có dạy rằng: “Chỉ có sự trì giới mới là tài sản chắc chắn nhất, bảo đảm nhất.”



  10. #79
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    10. Tôn kính người già



    Ngày xửa ngày xưa, nước Ba La Nại có một phong tục rất tàn nhẫn. Dân chúng nước ấy cho rằng những người già chỉ sống bám vào xã hội, rằng họ sống trên đời là vô ích vì chỉ biết tiêu xài lãng phí chứ không thể làm việc. Họ nghĩ, những người như thế thì có ích lợi gì trên thế gian này đâu? Xét lại, nếu lấy lương thực dùng để nuôi người già đem nuôi một đứa bé, không phải là hợp lý hơn sao?

    Vì thế, ở nước Ba La Nại có một điều luật quái dị rằng: “Không ai được nuôi dưỡng người già trong nhà, nếu trái luật thì cả nhà sẽ bị xử tử hình.”

    Một phần là để tôn trọng luật pháp, một phần cũng vì vấn đề sinh kế gia đình nên nhà nào cũng như nhà nấy, nói đúng hơn là cả nước đều coi thường người già. Hễ trong nhà cha mẹ bắt đầu lớn tuổi là con cái liền đem bỏ giữa núi sâu, làm mồi cho hổ beo hay dã thú.

    Điều luật vô nhân đạo như thế về lâu về dài đã trở thành một tập quán, một phong tục. Tuy nhiên thiên tính của nhân loại không thể hoàn toàn bị tiêu diệt, nên có một số người không tán đồng chút nào cách xử sự ấy. Nhưng họ sợ bị trừng phạt, không dám phản kháng nên chỉ biết cam chịu, khổ tâm đem cha mẹ già lên núi sâu làm mồi cho dã thú.

    Lúc ấy trong nước có một vị trưởng giả hạ sinh được một đứa con trai, cha hiền con hiếu, gia đình rất hòa thuận êm ấm. Những ngày vui trôi mau, vị trưởng giả từ từ tóc đã điểm sương. Đứa con trai không thể nào nhẫn tâm tuân theo điều luật vô lương tâm như thế, nên cả nhà cùng nhau tìm ra một giải pháp. Đứa con lén đào một cái hầm trong nhà, che mắt quan quân địa phương và hàng xóm, đưa cha mẹ già xuống dưới hầm ở, và mỗi ngày đưa thức ăn vật dụng xuống cho cha mẹ dùng.

    Ngày lại ngày từ từ trôi qua, người con luôn luôn cẩn thận giữ gìn nên không ai phát giác được bí mật của chàng. Vị trưởng giả lớn tuổi sống dưới hầm, suốt ngày tụng kinh niệm Phật cho qua thì giờ.

    Không lâu sau, một biến cố xảy ra trong nước làm cho nhà vua và nhân dân lo lắng bất an. Số là các nước láng giềng thấy Ba La Nại là một nước không mấy gì có thực lực, trên phương diện chính trị và quân sự không có gì vững chắc, nên mới có ý định đem quân xâm chiếm nước này.

    Cho đến nay, sự giao hảo giữa Ba La Nại và các nước láng giềng rất tốt đẹp, họ đã từng hợp tác liên minh, không ai xâm lấn ai. Nhưng lần này họ trở mặt, mà nguyên nhân lớn nhất là họ không chấp nhận được cái điều luật phế bỏ người già của nước Ba La Nại. Vì thế họ nghĩ ra một cách, trước hết họ gởi một bản chiến thư, trong đó đặt bốn câu hỏi. Nếu không ai trả lời được bốn câu hỏi ấy, thì các nước sẽ khởi binh khai chiến với nước Ba La Nại.

    Khi nhà vua nhận được bản chiến thư ấy, trong lòng rất lấy làm lo lắng vì cả một triều đình văn võ đại thần không ai trả lời được bốn câu hỏi này. Cuối cùng chỉ còn cách chép lại bốn câu hỏi, dán khắp các nẻo đường, hy vọng có người học sĩ nào trong nước giải đáp được. Nếu có người nào giải đáp được bốn câu hỏi ấy thì sẽ được vua trọng thưởng vô cùng hậu hĩ. Bốn câu hỏi ấy là:

    – Trên thế gian này, điều gì đáng trân quý nhất?

    – Trên thế gian này việc gì làm cho con người sung sướng nhất?

    – Trên thế gian này, hương vị nào tuyệt diệu nhất?

    – Trên thế gian này, mạng sống nào kéo dài nhất?

    Bản câu hỏi được dán khắp nơi, nhưng một ngày, hai ngày trôi qua rồi mà chưa có ai giải đáp được. Qua tới ngày thứ ba, bỗng có một chàng thanh niên trẻ tuổi đến trình diện, nói là mình biết câu trả lời. Sau đó, trước mặt công chúng, chàng cầm bút viết:

    – Thứ nhất, lòng tin là điều trân quý nhất.

    – Thứ hai, chính pháp làm cho con người sung sướng nhất.

    – Thứ ba, lời nói thật có hương vị tuyệt diệu nhất.

    – Thứ tư, trí huệ có mạng sống dài lâu nhất.

    Viết xong, những người đang đứng xem tại chỗ nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng. Những vị quan sứ đang đứng canh gác ở đấy lập tức đem các câu trả lời này trình lên vua. Vua xem rồi lấy làm vui mừng, xuống chỉ cho vời người thanh niên trẻ tuổi ấy vào cung.

    Vua hỏi ai dạy cho chàng các câu trả lời ấy, chàng thanh niên đáp:

    – Chính cha của hạ thần đã dạy cho hạ thần.

    Vua ngạc nhiên hỏi:

    – Cha của khanh hiện giờ ở đâu?

    – Xin bệ hạ xá tội cho hạ thần trước, hạ thần mới dám tâu lên.

    Vua liền chuẩn y lời cầu xin, hứa sẽ không bắt tội chàng vì bất cứ chuyện gì. Khi ấy, chàng thanh niên mới nói:

    – Tâu bệ hạ! Cha của hạ thần tuổi đã cao, nhưng hạ thần không nhẫn tâm đem cha già vứt trên núi hoang. Bốn câu trả lời mới được trình lên bệ hạ là do cha của hạ thần dạy cho, hiện thời cụ đang sống dưới hầm nhà của hạ thần.

    Nghe những lời nói thành thật của người thanh niên, nhà vua suy nghĩ một lúc và tỏ vẻ hối hận mà nói:

    – Ta bậy quá! Ta bậy quá! Mau truyền lệnh cho toàn dân không ai được đem người già bỏ lên núi nữa, đó là một hành động không hợp ý trời! Lương tri ta ám độn nên đã hại không biết bao nhiêu người có trí huệ rồi!

    Từ đó trở đi, dân chúng nước Ba La Nại trở nên những người hiếu thảo bậc nhất, biết hết lòng tôn kính những người lớn tuổi già nua.



  11. #80
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    11. Chuyện kiếp xưa



    Bảy trăm năm sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, tại nước Kế Tân ở miền Bắc Ấn Độ có một long vương hung ác tên là A Lợi Na xuất hiện, thường nổi gió to sóng lớn nhiễu hại dân chúng, gây ra những tai họa rung trời chuyển đất. Lúc đó có hai ngàn vị A-la-hán phát tâm vận dụng tất cả thần lực của mình để đuổi long vương A Lợi Na ra khỏi bờ cõi.

    Một ngàn vị A-la-hán sử dụng thần lực cao nhất của mình làm cho đại địa chấn động, năm trăm vị phóng ra những tia sáng cực kỳ mãnh liệt, năm trăm vị còn lại thì nhập định, vận dụng thiền lực mạnh mẽ. Các vị này hợp tác với một sức mạnh vĩ đại như thế nhưng vẫn không làm cho long vương kia suy chuyển chút nào.

    Trong lúc mọi người đang khổ não, có một vị tôn giả tên là Kỳ Dạ Đa xuất hiện. Ngài tiến đến ven bờ hồ, búng ngón tay ba lần chỉ long vương mà gọi to:

    – Này con rồng kia! Ta truyền lệnh cho mi phải đi nơi khác ngay, không được phép ở lại chốn này!

    Long vương A Lợi Na nghe thế, không dám trì trệ, lập tức bay bổng đi mất.

    Hai ngàn vị A-la-hán đều không hiểu được tại sao lại có một sự kiện lạ lùng như thế, làm sao lại có thể đuổi rồng đi một cách dễ dàng giản dị đến dường ấy! Họ liền cử ra một số vị đến thưa hỏi tôn giả Kỳ Dạ Đa:

    – Chúng tôi cũng chứng đắc một quả vị như ngài, cũng đoạn tận phiền não, cũng giải thoát sinh tử không có gì sai khác, chúng ta nhất loạt bình đẳng, thế mà chúng tôi cùng nhau hợp sức, dùng tận cùng năng lực mà không sao làm cho con rồng nhúc nhích, còn tôn giả chỉ búng ngón tay ba lần mà nó riu ríu ngoan ngoãn phục tòng rời khỏi đất này là vì lý do gì?

    Tôn giả đáp:

    – Từ khi tôi còn là phàm phu, luôn luôn nghiêm trì cấm giới, thân khẩu ý không bao giờ dám tạo ác nghiệp nào, dùng tâm bình đẳng không phân biệt để tu trì tất cả các pháp. Các vị không làm cho rồng lay chuyển là vì công đức tích tập không đồng với tôi vậy.

    Hàng phục long vương A Lợi Na rồi, tôn giả Kỳ Dạ Đa dẫn đoàn đệ tử tiếp tục con đường vân du về phía bắc.

    Con đường dài hun hút, có khi chạy ngang những miền đồng bằng rộng lớn, có khi thì đi vòng qua những sườn núi chập chùng, hai bên đường có những ngọn cây cao vút nghênh đón gió nam lay động cành lá. Tôn giả một mình đi bộ dưới tàn cây bóng mát, bỗng nhiên dừng bước, ngước đầu nhìn lên cành cây nơi có một con quạ đen đang đậu. Tôn giả nhìn kỹ nó rồi nhẹ mỉm cười, gật gật đầu.

    Các vị đệ tử đi theo sau mấy bước, thấy thế không khỏi ngạc nhiên, hỏi ngài:

    – Bạch Tôn giả, vì sao ngài lại mỉm cười với con quạ đen?

    Tôn giả đáp:

    – Đúng lúc đúng thời ta sẽ nói.

    Đoàn người lại tiếp tục hướng về phía trước mà đi, tới một tòa thành bằng đá. Vừa mới bước qua cổng thành, tôn giả bỗng biến sắc mặt, lộ vẻ vô cùng buồn rầu. Mọi người đều lo lắng nhưng không ai dám hỏi.

    Lúc ấy là giờ cơm trưa, họ vào thành khất thực. Dùng cơm xong họ ra khỏi thành, tới cửa thành, tôn giả lại biến sắc mặt, buồn rầu như lúc mới tiến vào cửa thành ban nãy. Các vị đệ tử không chờ được nữa, họ quỳ xuống khẩn khoản hỏi:

    – Bạch Tôn giả, thỉnh ngài giải nghi cho chúng con, tại sao ngài lại cười với con quạ đen, và tại sao ngài lại hai lần biến sắc mặt tại nơi này?

    Tôn giả thở dài một tiếng, lộ vẻ âu sầu mà trả lời rằng:

    – Chín mươi mốt kiếp trước, lúc Phật Tỳ Bà Thi nhập Niết-bàn rồi, ta sinh làm con một vị trưởng giả. Khi ta nói ra chí nguyện xuất gia học đạo, cha mẹ già ngăn lại rằng: “Khoan đã, con phải biết là trong đời người, không có con nối dõi là tội bất hiếu lớn nhất. Con đi rồi, ai sẽ là người nối dõi tông đường nhà ta đây? Con hãy cưới vợ trước đã rồi nói chuyện sau.”

    Ta bận bịu chuyện gia đình một thời gian, cưới vợ xong xuôi ta lại đem chuyện xuất gia ra thưa với cha mẹ, nhưng cha mẹ lại nói: “Nếu con sinh được một đứa con thì ta sẽ không ngăn cản con nữa.”

    Không lâu sau, ta sinh được một đứa con trai. Khi đứa bé bập bẹ biết nói, ta lại không chờ được nữa, xin với cha mẹ rằng:

    – Bây giờ thì cha mẹ có thể để cho con thành đạt nguyện vọng xuất gia của con rồi chứ?

    Cha mẹ ta không nghĩ ra lý do nào để ngăn trở ta được, bèn lén xúi con ta đến kêu khóc van nài như sau:

    – Cha ơi, cha không thể đi, nếu không hãy mang mẹ con con đi theo, cha không thể bỏ mẹ con con được, ôi...

    Làm cha, nghe con khóc kể van xin như thế, ý chí xuất gia bị rung chuyển, ta sinh lòng quyến luyến cốt nhục thân tình, nên vỗ về con mà nói một cách thương yêu:

    – Cha sẽ không đi đâu cả, cha sẽ ở mãi với con!

    Nhân duyên này đã khiến ta phải tiếp tục lưu lạc trong đường sinh tử. Hôm nay ta dùng thần thông nhìn lại họ hàng thân thích trong quá khứ, thấy rằng lúc sống thì cùng nhau thương thương mến mến, nhưng một khi chết rồi thì đường ai nấy đi, rất khó mà gặp lại nhau, tuy vẫn cùng luân lạc trong lục đạo. Con quạ đen ban nãy trên ngọn cây chính là con trai ta trong đời quá khứ, không ngờ nó lại đến nỗi này. Coi như còn có duyên nên hơn mười kiếp qua rồi mà còn gặp mặt nhau.

    Tôn giả nói tới đây thì ngừng lại, có vẻ như vô cùng xúc động.

    – Và chuyện gì đã xảy ra ngoài tòa thành?

    Một vị đệ tử xen vào hỏi.

    – Ta biến sắc mặt ở ngoài cửa thành là vì ta thấy một đứa bé ngạ quỷ thân thể yếu mòn, cầu cứu với ta rằng: “Thỉnh tôn giả vào thành nói với mẹ con rằng con ở ngoài thành ngày ngày trông ngóng mẹ đi kiếm thức ăn, đợi đã 70 năm rồi mà vẫn chưa về, con nay quá đói khát không chịu đựng được nữa!”

    Ta vào thành chuyển lời đứa con đến ngạ quỷ mẹ. Quỷ mẹ khóc lóc mà rằng: “Thưa tôn giả, con cũng biết thế, đã vào thành 70 năm rồi, không lúc nào là không lo nghĩ tới nó, nhưng con không còn cách nào cả. Lúc còn sống không biết kết duyên lành với người khác, lại không gieo trồng phúc đức nào, nên bây giờ xin ăn rất khó. Tuy chỉ kiếm được những món ăn bất tịnh cấu uế như máu mủ, nước mắt nước dãi, phân và nước tiểu các thứ, nhưng vì con mới sinh xong còn yếu ớt, nên hễ mới kiếm được vật chi là bị quỷ bạn mạnh hơn cướp mất. Lần này khó khăn lăm con mới kiếm được thức ăn, giấu giấu diếm diếm đến được cửa thành, thì bị bọn lính quỷ giữ cửa cản lại không cho ra. Tôn giả! Xin ngài thương xót hai mẹ con chúng con, giúp cho chúng con gặp lại nhau, chia nhau mấy món ăn bất tịnh này!”

    Ta đem quỷ mẹ ra ngoài thành, nhìn thấy hai mẹ con mừng mừng tủi tủi chia nhau thức ăn, lòng ta rất buồn, không ngăn được câu hỏi:

    – Ngươi ở đây bao lâu rồi?

    Quỷ mẹ đáp:

    – Con không biết ở đây được bao lâu rồi, chỉ biết rằng toà thành trước mắt đã được dựng lên rồi đổ xuống, đổ xuống rồi lại được dựng lên tổng cộng là 7 lần rồi!

    Ôi! Ta thở dài. Thời gian sung sướng thì luôn luôn ngắn ngủi, còn lúc gặp khổ đau thì lâu dài vô cùng. Không ngờ thọ mệnh của ngạ quỷ lại lâu dài đến dường ấy!

    Tôn giả nói xong, các vị đệ tử đứng nghe ai nấy đều kinh hoàng, không lạnh mà run. Ai cũng có thể làm một chuyện gì đó đưa đến một hậu quả ghê rợn như vậy. Nếu không tinh cần tu hành, nếu không dùng Phật pháp làm ngọn đèn soi dẫn lối, chỉ một lần sơ xuất là khổ hận thiên thu!

    Đến đây đoàn người lại hướng về phía trước mà đi, bước đi vô cùng vững chải. Mọi người cảm thấy phấn chấn, tinh thần sung mãn, họ quyết nhắm hướng con đường ánh sáng phía trước mà đi tới!



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •