DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 5/11 ĐầuĐầu ... 34567 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 41 tới 50 của 107
  1. #41
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    37. Hằng Già Đạt



    Thuở xưa tại Trung Ấn Độ có một quốc gia tên là Ba La Nại, thừa tướng của nước này giàu có nhất thiên hạ, gia sản lên tới tiền muôn bạc triệu, nhưng hai vợ chồng đã lớn tuổi mà chưa có đứa con nào.

    Tông đường không người nối dõi, tài sản kếch sù không ai thừa kế, hai vợ chồng rất lấy làm lo lắng, đi cầu tự khắp nơi.

    Cuối cùng, trời không phụ lòng người, đến 50 tuổi thì họ sinh hạ được một đứa con trai bụ bẫm trắng trẻo, đặt tên là Hằng Già Đạt.

    Đứa bé sinh ra mặt mũi thanh tú như một thiên thần, ai thấy cũng phải thương, lại là con muộn nên được cha mẹ cưng chìu hết mực, xem như hòn ngọc trong tay. Tuy Hằng Già Đạt có cuộc sống như một ông hoàng con, nhưng không hề vì thế mà trở nên hư hỏng, trái lại lúc nhỏ học giỏi và luôn luôn cầu tiến, hướng thượng.

    Lớn lên, một hôm Hằng Già Đạt đột nhiên xin cha mẹ cho phép mình xuất gia, nhưng vì sự nối dõi tông đường, làm sao vợ chồng thừa tướng chấp thuận cho cậu quý tử làm một điều như thế?

    Thấy cha mẹ không chấp thuận, Hằng Già Đạt rất buồn bã, chàng thấy không được xuất gia thì đời này thật không có ý nghĩa, vì thế chàng muốn xả bỏ mạng sống này, tái sinh sang một kiếp khác để có thể sống cuộc đời xuất gia.

    Ban đầu chàng leo lên một đỉnh núi gieo mình xuống vực đá sâu kết liễu cuộc đời, nhưng quái lạ quá, khi chàng rơi xuống thì lại hoàn toàn bình an, không chút thương tích. Lần thứ hai, chàng lại đến bờ biển lớn nhảy xuống đáy, nhưng khi chàng rơi xuống nước rồi thì cũng thật lạ lùng, nước cuốn chàng đi và đẩy lên bờ. Lần thứ ba, chàng uống thật nhiều thuốc độc rồi nằm dài xuống thảm cỏ chờ chết, nhưng sau một đêm thức dậy chàng vẫn mạnh khoẻ như thường.

    Cuối cùng, chàng nghĩ ra một giải pháp mới. Chàng thường nghe nói người nào phạm pháp thì sẽ bị chém đầu, nên chàng muốn kết liễu đời mình bằng cách đó.

    Lúc ấy, hoàng hôn vừa buông xuống, vua A Xà Thế đưa rất nhiều cung nữ đến một khu vườn có một hồ nước để cùng nhau tắm. Trước khi xuống nước, các cô cởi bỏ y phục để trong một rừng cây. Vừa khéo Hằng Già Đạt cũng đi ngang qua đó, thấy rất nhiều xiêm y, biết là của các cô cung nữ, bèn cố ý lấy trộm và ôm chồng xiêm y ấy trong tay từ từ bước ra khỏi rừng. Dĩ nhiên chàng bị người canh vườn trông thấy, lập tức bắt giữ chàng lại và đưa ra cho vua xử tội. Vua A Xà Thế nghe chuyện nổi giận lôi đình, rút cung tên ra muốn bắn chết tội nhân, nhưng lạ lùng thay, tên vừa bắn ra thì quay đầu lại, vua bắn ba lần thì mũi tên cũng quay đầu lại ba lần. Vua thấy thế rất lấy làm kinh dị, bèn hỏi Hằng Già Đạt rằng:

    – Ngươi từ đâu đến? Là người cõi trời hay là giống rồng?

    – Tâu bệ hạ, thần không phải là người của thiên giới cũng không phải từ long cung đến. Thần là con trai của quan thừa tướng, muốn xin xuất gia nhưng cha mẹ không chấp thuận, nên thần đi khắp nơi tìm cái chết mà chưa được toại ý. Nay cúi xin bệ hạ bắn chết thần đi!

    Vua nghe xong, bao nhiêu sân hận tiêu tán, còn hoan hỉ nói:

    – Tốt lắm! Ngươi đã muốn xuất gia thì ta đưa ngươi đến diện kiến đức Phật. Đức Phật như người cha lành, thế nào cũng sẽ thu nhận cho ngươi xuất gia.

    Thế là Hằng Già Đạt được xuất gia học đạo với đức Phật, vì do vua giới thiệu nên cha mẹ chàng không cản được nữa. Không lâu sau, dưới sự chỉ dạy của đức Phật, chàng đạt được quả A-la-hán.

    Thấy Hằng Già Đạt đắc quả một cách nhanh chóng như thế, rất nhiều người lấy làm kỳ lạ. Đức Phật biết được những gì mọi người nghĩ nên một hôm, Ngài thuyết về nhân duyên kiếp trước của Hằng Già Đạt cho mọi người nghe:

    – Rất lâu xa về trước, ở miền bắc Ấn Độ có một vị vua tên là Phạm Ma Đạt. Một hôm, vua đưa rất nhiều cung nữ ra vườn chơi đùa ca hát. Tiếng hát du dương của bọn cung nữ vang ra phía ngoài vườn, có một người nghe được thích quá bèn cao giọng hát theo. Tiếng hát đột ngột ấy vang đến tai vua, vua không bằng lòng ra lệnh bắt người ấy và đưa ra pháp trường xử trảm.

    Đúng lúc ấy, có một vị đại thần cũng vừa đến nơi, nghe rõ nguyên nhân, biết rằng tội nhân vì không biết mà làm nên tội, thương tình người này ngu si nên tìm đến nhà vua cầu xin tha tội cho hắn.

    Vị đại thần đã cứu mạng cho một người không quen không biết ấy, vì có chút lòng nhân từ nên sau khi xả mạng được sinh lên thiên giới, hưởng thụ tất cả những vui sướng của cõi trời xong lại sinh xuống làm người, có nhân duyên với Phật, được xuất gia với Phật và thành đạo rất mau chóng.

    Hỡi chư vị đệ tử! Vị đại thần cứu người đó chính là Hằng Già Đạt hôm nay. Vì thế, cứu một mạng người thì đời đời kiếp kiếp sẽ được người cứu.



  2. #42
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    38. Ma Ha Lô đắc đạo


    Tại nước Ma La ở Ấn Độ, cách đô thành chừng sáu, bảy trăm dặm, có một tòa tinh xá, bình thường có 500 vị tỳ-kheo đã thọ giới cụ túc sinh sống ở trong ấy. Ngoài số các vị tỳ-kheo ấy còn có một vị tương đối lớn tuổi, tên gọi là Ma Ha Lô. Ông sinh ra vốn ngu si đần độn, không ai có thể dạy cho ông học, cho đến một câu kệ ông cũng không nhớ nổi.

    Vì thế 500 vị tỳ-kheo nọ đều xem thường ông, khinh thị ông, không ai muốn ở chung một chỗ với ông, nên trong cuộc sống hằng ngày ông luôn luôn cô độc một mình.

    Có một hôm nhà vua sai sứ thần đến tinh xá thỉnh mời chư tỳ-kheo cho vua cúng dường. Ma Ha Lô hổ thẹn mình ngu đần, không dám tham gia pháp hội trai tăng của nhà vua, ông chờ tất cả mọi người rời thành và đến hoàng cung rồi, nghĩ mình ngu si đáng xấu hổ, bèn lẳng lặng đi lấy một sợi dây thừng, ra vườn hoa dưới một gốc cây lớn, định treo cổ tự sát.

    Đúng lúc ấy đức Phật trang nghiêm tướng hảo đã hiện ra trước mặt Ma Ha Lô, nghiêm nghị quở trách rằng:

    – Ma Ha Lô! Tại sao lại muốn làm chuyện xuẩn ngốc như thế, ông đã không gấp rút chăm chỉ tinh tiến, còn muốn làm một điều ngu si đến thế ư!

    Đức Phật ngừng lại một lúc, rồi nói tiếp:

    – Nguyên lai kiếp xa xưa, ông là một vị tu đạo học thức uyên bác, nhưng ông không bao giờ chịu bố thí sự hiểu biết của mình để giúp người khác học, lại sinh tâm ngã mạn, khinh thị tất cả mọi người, vì thế nên đời đời kiếp kiếp chịu quả báo ngu si ám độn. Chuyện này ông không trách được ai, mình làm chuyện sai quấy thì mình phải tự biết sám hối một cách thâm sâu, cái chết không kết thúc được nghiệp tội đâu!

    Ma Ha Lô được đức Phật giảng cho nghe xong, trong lòng hổ thẹn muôn phần, bèn quỳ xuống trước mặt đức Phật xin Ngài cho phép ông được sám hối. Đức Phật từ bi, cho dù đã tạo tội gì, chỉ cần biết nhận lỗi và hối cải thì đều được Ngài thương xót hóa độ.

    Đức Phật không quản công lao thuyết pháp khai thị cho Ma Ha Lô, có lẽ nhân duyên đã thành thục, nên khi đức Phật thuyết pháp xong, Ma Ha Lô bèn giác ngộ chứng quả, tâm trí ngu si ám độn kia trong khoảnh khắc trở nên sáng láng, ông có thể thông hiểu rõ ràng lời pháp vi diệu của đức Phật, có thể nhìn thấu tất cả mọi sự trên thế gian.

    Lúc ấy đức Phật biết ông đã ngộ đạo, nên bảo ông hãy mau đi dự bữa cúng dường trai tăng của nhà vua, và sau đó thuyết pháp cho đại chúng nghe. Khi ông vừa tính quay đi thì đức Phật nói thêm:

    – Ma Ha Lô, lúc ông là một vị trưởng lão trong quá khứ, ông đã thâu nhận 500 vị đệ tử, 500 người ấy chính là 500 vị tỳ-kheo đang thọ cúng dường của nhà vua trong hoàng cung. Bây giờ ông hãy mau đến đấy, họ đang chờ đợi ông giảng đạo cho họ!

    Ma Ha Lô bái biệt đức Phật rồi, lên đường đến hoàng cung. Lúc ông đến, buổi lễ cúng dường sắp sửa bắt đầu. Không một chút khách khí, Ma Ha Lô bèn tiến đến chỗ của các vị thượng tọa mà ngồi. Trong khung cảnh trang nghiêm ấy, thái độ của Ma Ha Lô làm cho mọi người kinh dị, tưởng ông đang nổi cơn điên, nhưng trước mặt hoàng đế và đại thần nên không ai dám nói câu nào.

    Khi buổi thọ trai bắt đầu, ai nấy cùng nhau ăn uống. Chờ mọi người ăn xong, Ma Ha Lô bèn đứng dậy hướng về phía mọi người mà thuyết giảng Phật Pháp vi diệu, thị hiện tướng Sư Tử hống.

    Trước muôn cặp mắt đổ dồn về ông, Ma Ha Lô không tỏ vẻ gì là sợ hãi. Thính chúng, trong số ấy có vua quan đại thần, ai nấy đều vô cùng khâm phục. Nhất là các vị tỳ-kheo nọ, họ cảm thấy tàm quý, thật là núi Thái sơn trước mắt mà không nhìn thấy. Đây là một vị đã chứng đại quả A-la-hán, thế mà trong quá khứ đã bị mình khinh thị đến dường ấy! Ai nấy đều ân hận mãi không thôi!



  3. #43
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts
    39. Thần thông không chống được nghiệp lực



    Trong số 16 vị đệ tử công hành siêu việt của đức Phật, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là hai nhân vật xuất sắc nổi bật nhất. Nói đến trí huệ của Xá-lợi-phất và thần thông của Mục-kiền-liên, thì ai ai cũng đều phải công nhận rằng không có vị đệ tử nào khác có thể so sánh được với hai ngài. Chính đức Phật cũng thường hay khen ngợi những thành tựu thù thắng ấy của hai ngài.

    Hai ngài là bạn thân với nhau từ lâu, thường cùng nhau đi lại trong những cảnh giới cõi trời, cõi người và cả địa ngục hay súc sinh, vận dụng thần thông và trí huệ để giải cứu những người đang gặp khổ nạn và giáo hóa những chúng sinh ngu si.

    Có một hôm, hai vị đi tới địa ngục Vô gián, nhiệt độ trong ngục rất cao, giống như một lò than hồng, ngọn lửa bốc lên phừng phực, hơi nóng từ vạc dầu sôi tỏa ra không ngừng, bao phủ cả địa ngục. Những người chịu tội hình thì kêu la than khóc. Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên bèn rưới nước mưa pháp thanh tịnh cho họ, khiến những thống khổ của họ tạm dừng được trong chốc lát.

    Lúc ấy có một tội nhân rất dễ sợ, thân hình to lớn kệch cỡm, còn cái lưỡi thì vừa rộng vừa dài, bên trên có 500 lưỡi cày bằng sắt cày lên trên ấy như cày trên một thủa ruộng hoàn toàn hoang dã, khiến máu tươi từ lưỡi nhỏ xuống từng giọt, từng giọt.

    Người tội nhân này thấy Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thì mừng rỡ như bắt được báu vật, vội vàng chạy đến cầu khẩn:

    – Bạch hai vị tôn giả, con tên là Bộ Lợi Nã, lúc còn sống con là nhà truyền bá tà giáo, chuyên môn thuyết tà pháp và phỉ báng Tam Bảo nên hôm nay phải chịu khổ báo này. Giả như hai vị có đi Nam Thiệm Bộ Châu, xin nói với môn đồ của con đừng lễ bái cái tháp gỗ nơi họ thờ phụng con nữa, điều đó làm cho tội báo của con ngày thêm nặng nề, đồng thời nói với họ đừng phỉ báng Tam Bảo, đừng lấy tà giáo mà lừa gạt chúng sinh nữa, để họ đừng giẫm theo bước chân của con mà đọa lạc xuống nơi này.

    Hai vị tôn giả ra khỏi địa ngục Vô gián và trở về thành Vương Xá, trên đường về thì gặp một nhóm ngoại đạo, trên tay người nào cũng cầm võ khí như cây, gậy gỗ v.v... Những người này chuyên chặn đường những người xuất gia đi ngang qua đấy và còn nhục mạ, đánh đuổi họ nữa.

    Xá-lợi-phất đi trước, thấy họ vung gậy lên toan đánh, bèn dùng lời hòa nhã để ngăn họ, thì những ngoại đạo ấy tuy ngừng tay lại nhưng vẫn dùng tia mắt hung dữ nhìn tôn giả đi qua. Nhưng đến khi Mục-kiền-liên tiến đến thì họ lại vung võ khí trở lên lại.

    – Đợi một chút, Mục-kiền-liên đưa tay lên chặn lại, chúng ta vừa từ địa ngục Vô gián lên, gặp sư phụ của các người là Bộ Lợi Nã ở trong ấy đang chịu những khổ báo cực kỳ nặng nề, lưỡi ông ấy bị cày bằng cày sắt, máu tươi dầm dề, khổ sở không bút nào tả xiết. Ông ấy nhờ ta chuyển lời đến cho các người, hãy ngừng hủy báng Tam Bảo, không được tuyên thuyết tà pháp, và mong không có ai giẫm lên bước chân của ông ấy, đồng thời đừng lễ bái tháp gỗ nữa, để cho ông được bớt khổ phần nào.

    Mục-kiền-liên vì lòng tốt mà nói lại cho họ nghe lời của thầy họ, nghĩ rằng điều ấy có thể làm cho họ hối lỗi và giải tỏa những oan khiên giữa đôi bên lúc ấy. Nào ngờ lời chưa dứt, bọn ngoại đạo đã hung bạo ùa tới như một bầy hổ sói bao quanh ngài tấn công:

    – Đánh hắn! Hắn dám phỉ báng sư phụ của chúng ta! Đánh hắn! Đánh tên sa-môn này đi!

    Nào cây nào gậy tới tấp như mưa rơi lên thân của Mục-kiền-liên, ngài bị đánh đến nỗi thương tích đầy người.

    Mục-kiền-liên, bậc đệ nhất thần thông, thần lực không thể nghĩ bàn, đã từng dùng ngón chân ấn lên cung điện của trời Đế Thích làm cung điện này giao động và sụp đổ, vậy thì tại sao ngài lại không đem sức thần thông ấy ra đối phó khi bị ngoại đạo bao vây đánh đập? Lúc ấy chiến thắng một vài ngàn ngoại đạo không phải là dễ dàng như trở bàn tay sao?

    Mục-kiền-liên tôn giả dùng thần thông chống đỡ tấm thân đầy thương tích vào thành khất thực, trở về tinh xá dùng cơm, xếp đặt lại y bát gọn gàng xong đến gặp đức Phật, đi nhiễu xung quanh Thế Tôn lễ bái và thưa:

    – Con vừa mới trả xong nợ tội, không lâu nữa Xá-lợi-phất sẽ nhập Niết-bàn, chúng con là hai người bạn thân nhất trong thế giới loài người, con nghĩ mình phải đi theo ngài. Xin Thế Tôn từ bi tha thứ cho đệ tử!

    Mục-kiền-liên với tâm cung kính chân thành nhất đi nhiễu xung quanh đức Phật ba vòng theo chiều tay phải, sau đó ngài trở về quê từ biệt gia đình bạn hữu và độ hóa cho những người có duyên với ngài, rồi lên núi Kỳ Xà Lê nhập Niết-bàn.

    Giữa tăng đoàn, đức Phật kể lại cho chúng đệ tử nghe chuyện “đánh một thả một”, tức là chuyện kiếp xưa của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên:

    – Ngày xưa có hai vị tu đạo một hôm đi qua ngôi làng nọ, thì có một bọn trẻ con ngu si trong làng, thấy hai vị từ xa đi tới, tâm liền loạn động, chúng bàn tính với nhau nên làm khó dễ hai vị ấy như thế nào.

    Bọn trẻ du côn kia chắn ngang giữa đường hỏi vị tu đạo đầu tiên mới đi ngang rằng:

    – Chừng nào thì khí hậu mới trở lạnh?

    Vị tu đạo cười đáp:

    – Không kể xuân hạ thu đông, hễ ngày nào có gió có mưa thì cảm thấy lạnh.

    Bọn trẻ nhường cho vị này đi qua đường nhưng lại vội vã chặn đường trở lại, cản không cho vị thứ hai đi tiếp và lại hỏi:

    – Bao giờ trời trở lạnh?

    – Mùa đông thời tiết lạnh lẽo, mặt trời mặt trăng cùng tinh tú xoay chuyển là điều tự nhiên, xuân hạ thu đông bốn mùa, đến mùa đông thì lạnh, đó là định luật tự nhiên của trời đất, ai ai cũng biết điều đó, chỉ có đứa ngu mới không biết.

    Bọn trẻ nghe thế, nhặt đá dưới đất và thi nhau ném vào người vị tu đạo thứ hai. Vị tu đạo thứ nhất chính là Xá-lợi-phất, và vị thứ hai là Mục-kiền-liên. Chuyện xảy ra giống như ngày hôm nay vậy.

    Nói tới đây, đức Phật biết có rất nhiều người thấy Mục-kiền-liên gặp nạn nên sinh lòng nghi ngờ đối với thần thông, vì thế Ngài nói tiếp:

    – Các ông chớ nên nghi ngờ, diệu dụng của thần thông không phải là một điều hư dối, nhờ thần thông tôn giả có thể lên trên trời, chui xuống lòng đất, biến hóa khôn lường, tự do tự tại không có chướng ngại. Mục-kiền-liên có sức mạnh bất khả tư nghì như thế. Tôn giả cũng không hề mất thần thông của mình, chỉ vì khi nào nghiệp lực hiện tiền thì Mục-kiền-liên biết rằng đã có nợ thì phải trả cho hết. Đến Như Lai còn không đi ngược lại luật nhân quả được, người nào cũng thế, khi nào nghiệp báo tới thời trổ quả thì chỉ có cúi đầu mà nhận chịu thôi. Thuận theo nhân quả mới phù hợp với lý tính của chư pháp. Vì thế mọi người nên vui vẻ mà chấp nhận nghiệp báo, đừng nên trốn tránh, cũng không nên oán hận nó. Cũng vì thế, mọi người nên biết rõ rằng nghiệp báo rất đáng sợ mà tinh tiến tu hành, cẩn thận mỗi hành vi của chính mình, dựng một bức tường xung quanh thân khẩu ý mà phòng ngừa. Mục-kiền-liên hiểu rõ giáo pháp của ta một cách chân chính, tôn giả rất giỏi thần thông nhưng không dùng thần thông để che đậy cho tội lỗi của mình.

    Mục-kiền-liên bị nạn là một tấm gương sáng, là một bài học rất tốt cho chúng ta chiêm nghiệm.



  4. #44
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    40. Sa-di ngộ đạo



    Thời Phật Ca Diếp có một vị tỳ-kheo trẻ tuổi, xướng tán rất hay. Khi cùng ở chung một chỗ với các vị tỳ-kheo khác, thầy hay lộ vẻ kiêu ngạo, tự phụ giọng của mình thanh tao trong trẻo, và thấy mình phi thường, nổi bật.

    Có một vị tỳ-kheo lớn tuổi, giọng lại khàn đục, không giỏi tán xướng, cũng ở chung với đại chúng. Khi vị tỳ-kheo trẻ nghe âm thanh tán xướng của vị tỳ-kheo già, thầy bèn cười ngạo rằng giọng ấy không khác gì tiếng chó tru. Vị tỳ-kheo già vốn là một vị thánh đã chứng quả A-la-hán, liền hỏi vị tỳ-kheo trẻ rằng:

    – Thầy có biết tôi không?

    – Tôi biết thầy từ lâu rồi, thầy là vị tỳ-kheo thượng thủ của Như Lai Ca Diếp.

    Vị tỳ-kheo già nói:

    – Tuy không biết xướng tán nhưng tôi đã thoát được sự trói buộc của sinh tử và không còn chịu bất cứ khổ não nào của thế gian.

    Vị tỳ-kheo trẻ nghe thế thì hết sức hoảng sợ, cảm thấy hổ thẹn vô cùng, bèn xin sám hối với vị tỳ-kheo già. Nhưng tính tội đã thành lập rồi, nên trong 500 kiếp sau đó thầy phải chịu khổ báo sinh ra làm người câm. Tuy nhiên, nhờ nhân lành đã từng xuất gia, về sau lúc đức Thích-ca Mâu-ni xuất thế thì thầy được giải thoát.

    Nhân duyên thầy được hóa độ diễn ra như sau:

    Có 500 nhà buôn muốn đi du lịch xa, bèn kết bạn với nhau để cùng đi. Trong số đó có một người dắt theo một con chó để canh gác ban đêm. Đi được nửa đường, các nhà buôn ngủ nghỉ trong lữ điếm, con chó thấy chủ nhân ngủ say, bèn lén lấy trộm một miếng thịt ăn. Nhưng nhà buôn ấy thức dậy thấy được, nổi trận lôi đình, thế là chân đá tay đấm. Lửa sân ngùn ngụt, ông đánh con chó gãy cả bốn chân, vứt nó trong một cánh đồng hoang rồi bỏ đi nơi khác.

    Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất dùng thiên nhãn thông thấy con chó đau đớn không cùng, sắp chết vì đói khát, bèn đem cơm mà ngài đã khất thực được đến bố thí cho nó ăn. Con chó giữ được chút tàn hơi, sung sướng vô ngần. Ngài Xá-lợi-phất lại thuyết diệu pháp cho chó nghe, và con chó nghe pháp xong liền tắt thở, rồi tái sinh trong một nhà bà-la-môn ở thành Xá-vệ.

    Một hôm, ngài Xá-lợi-phất đi khất thực một mình, bà-la-môn ấy trông thấy liền hỏi:

    – Tôn giả đi có một mình, sao không có sa-di theo hầu?

    Ngài Xá-lợi-phất trả lời:

    – Tôi không có sa-di, nghe ông mới có một đứa con trai, có thể cho nó làm sa-di đi theo tôi không?

    Bà-la-môn trả lời:

    – Con trai tôi tên là Quân Đề, hãy còn nhỏ lắm, chưa biết làm việc. Chờ nó lớn lên một chút, tôi sẽ cho nó đi theo tôn giả.

    Ngài Xá-lợi-phất đồng ý.

    Quân Đề được bảy tuổi, Xá-lợi-phất bèn đến nhà Bà-la-môn xin mang chú về. Bà-la-môn bèn ra lệnh cho Quân Đề đi theo Xá-lợi-phất xuất gia làm sa-di.

    Ngài Xá-lợi-phất đưa Quân Đề về tinh xá Kỳ Viên, thuyết pháp cho chú nghe, và Quân Đề lãnh hội được hết. Tuy Quân Đề chỉ là một đứa bé bảy tuổi nhưng chú đã có thể thọ nhận Thánh pháp một cách mau lẹ.

    Chú sa-di Quân Đề chính là con chó trong kiếp trước, đã được ngài Xá-lợi-phất cho ăn cơm và thuyết pháp cho nghe. Nhờ có thiện căn ấy nên chú đã nguyện làm sa-di thị giả của Xá-lợi-phất để báo ơn ngài.

    Người ta nói trẻ con mà vào đạo là vì đã có thiện căn rất lớn từ trước. Trên con đường tu đạo, tuổi tác không phải là một vấn đề. Sa-di hay tỳ-kheo cũng không phải là một vấn đề, thậm chí xuất gia hay tại gia cũng không thành vấn đề nữa. Thọ nhận Thánh giáo, giác ngộ chứng quả thì ở bất kỳ tuổi nào, già lão hay thơ ấu, sa-di hay tỳ-kheo cũng đều có thể làm được.

    Chuyện chú sa-di Quân Đề được khai ngộ lúc tuổi còn thơ là một thí dụ cụ thể.



  5. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    hoatihon (09-24-2015)

  6. #45
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    41. Đại Ca Diếp quy y


    Có một hôm, đức Phật thị hiện tướng bệnh, ngài lặng lẽ nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Vua Tần Bà Sa La nghe tin ấy, vội gọi ngự y là Kỳ Bà đi gặp Thế Tôn để trị bệnh cho Ngài.

    Khi đức Phật đã lành bệnh, ngự y Kỳ Bà cứ muốn đem một lễ vật nào để cúng dường Ngài, nhưng nghĩ tới nghĩ lui hoài, ông không biết phải tặng lễ vật nào mới thích hợp. Cuối cùng, ông nhớ đã có lần chữa bệnh cho vua nước láng giềng, và vị vua này đã đền ơn ông bằng cách tặng một bộ quần áo thượng hảo hạng. Loại quần áo này ngoài những bậc đế vương ra thì duy chỉ có đức Phật mới xứng đáng mặc mà thôi. Ông đem bộ quần áo nói trên dâng lên đức Phật và nói:

    – Thế Tôn, từ khi con bái kiến Như Lai cho đến nay, trong lòng cứ thắc mắc một chuyện. Thế Tôn thường nói, trên thế gian này thân thể của chúng ta khả dĩ đáng quý trọng, thế nhưng con thấy các vị đệ tử của Thế Tôn thường mặc quần áo rách rưới, dơ bẩn. Đứng trên cương vị của một y sĩ, con thấy có giải thích như thế nào đi nữa, làm như thế vẫn không hợp vệ sinh. Bộ quần áo này là do vua nước láng giềng thưởng tặng cho con, xin cho con được đem cúng dường Phật, cho con được trồng chút ít hạt giống phúc đức. Con cũng cúi xin Thế Tôn hãy nói với chư tỳ-kheo, từ nay đừng mặc quần áo dơ bẩn rách rưới nữa.

    Đức Phật không hề cố chấp vào một điều gì, nên đón nhận ý kiến của Kỳ Bà một cách vui vẻ, và cho người đi truyền nói với chư đệ tử tỳ-kheo rằng:

    – Mặc quần áo, không cần biết cũ hay mới, đều phải đơn sơ và sạch sẽ, và nhất định phải được khử trùng bằng ánh sáng mặt trời. Nếu như tham đắm ưa thích những bộ quần áo đẹp đẽ sang trọng là một điều không phải, thì mặc y phục dơ bẩn rách rưới để tỏ ra mình là người học đạo cũng không đúng pháp.

    Lời đức Phật được truyền ra rồi, dân chúng thành Vương Xá bèn tranh nhau may rất nhiều quần áo đem cúng dường chư tỳ-kheo. Người cúng dường đức Phật và chư tỳ-kheo rất đông, nên tin đồn ấy truyền đến tai một vị đại phú hào.

    Vị phú hào ấy tên là Đại Ca Diếp, ở thôn Ma Ha Sa La Dà cách thành Vương Xá không xa lắm. Ông thông minh học rộng, giàu có nhất thiên hạ, là nhân vật xuất chúng nhất của giai cấp Bà-la-môn. Mỗi khi đức Phật thuyết pháp tại tinh xá Trúc Lâm, ông đều đến nghe giảng. Cuối cùng tâm ông từ từ thâm nhập những lời giảng của Như Lai, ông còn nghĩ đến việc xuất gia theo Phật nữa.

    Một hôm trên đường về, ông vừa đến gần tháp Đa Tử ở thành Vương Xá, trong một vùng có rất nhiều gốc cây to cành lá xum xuê giao nhau, thì lạ thay, đức Phật cũng đang ngồi ngay tại đấy mà tĩnh tọa. Ông nhìn mãi đức Phật trang nghiêm, uy nghi dường ấy, và thấy rằng không thể không đến lễ lạy Ngài. Ông đến trước toà Như Lai chắp tay đảnh lễ xong, khẩn khoản cảm động mà nói:

    – Bạch Thế Tôn, bậc Thầy của con! Xin chấp nhận cho Đại Ca Diếp này quy y, từ nay Đại Ca Diếp là đệ tử của Phật.

    Đức Phật thấy rõ tín tâm của Đại Ca Diếp nên nói:

    – Đại Ca Diếp, ông là đệ tử của ta, ta là thầy của ông. Trên thế gian này, nếu ai chưa chứng được Chính đẳng Chính giác thì không thể thu nhận ông làm đệ tử. Ông hãy đi cùng ta.

    Đức Phật lẳng lặng đứng dậy, hướng về phía tinh xá Trúc Lâm mà đi, Đại Ca Diếp đi sau lưng đức Phật một cách cung kính mà nước mắt ròng ròng tuông xuống. Đức Phật quay đầu lại nhìn Đại Ca Diếp rồi nói:

    – Hôm nay ta biết cơ duyên được độ hóa của ông đã đến. Tốt lắm, sau này việc lưu truyền Phật Pháp sẽ cần đến ông rất nhiều.

    Đức Phật hóa độ Đại Ca Diếp rồi, Phật Pháp tại thành Vương Xá đã có cơ sở vững chắc, tinh xá ở núi Linh Thứu cũng đã được thành lập vào thời điểm này. Vua chúa, người trí thức đến quy y rất đông, và sự giáo hóa của đức Phật càng được phổ biến thêm.



  7. #46
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    42. Bốn đứa con



    Đức Phật A-di-đà ở thế giới Tây phương Cực Lạc đã phát nguyện sẽ cứu độ chúng sinh trong biển khổ, chúng ta chỉ cần muốn siêu sinh thì đức Phật A Di Đà chắc chắn sẽ đến tiếp dẫn. Nguyện lực của Ngài to lớn thù thắng, không thể nghĩ bàn được.

    Cách đây chừng hơn 2.500 năm, cũng chính là lúc đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang thuyết pháp ở thế gian, có một vị nữ cư sĩ tại gia học Phật, rất chí thành tin tưởng và cung kính Như Lai. Mỗi buổi sáng bà đều đến gặp đức Phật cung kính lễ bái, chưa bao giờ quên, chưa bao giờ lười biếng trễ nãi.

    Một hôm, bà thỉnh đức Phật đến nhà thọ cúng; đức Phật biết tâm ý của bà nên cố ý hỏi:

    – Bà thiết lập đàn trai cúng dường Phật là vì muốn có được phúc báo gì?

    Bà cư sĩ cung kính trả lời:

    – Nếu được phúc báo, con xin sinh được 4 đứa con.

    Đức Phật từ bi hỏi:

    – Tại sao lại muốn có 4 đứa con?

    – Bạch Thế Tôn, nếu con có 4 đứa con, thì khi chúng nó khôn lớn, đứa đầu sẽ buôn bán làm ăn, kiếm thật nhiều tiền. Đứa thứ hai sẽ cày ruộng làm rẫy, mỗi năm gặt hái được nhiều thóc lúa; đứa thứ ba, con sẽ dạy nó cố gắng chăm chỉ, tương lai làm quan vinh hiển tông môn, và đứa thứ tư thì con sẽ cho nó xuất gia học đạo, tu hành chứng thánh quả để tiếp độ cha mẹ cùng tất cả mọi người, lúc ấy con sẽ hoàn toàn mãn nguyện.

    Đức Phật nghe bà kể những nguyện ước của mình xong, chấp thuận:

    – Được, bà sẽ được như ý.

    Bà cư sĩ mừng rỡ cúng dường đức Phật xong, không bao lâu sau quả nhiên thọ thai, sinh được một cậu con trai. Đứa bé từ nhỏ đã thông minh lanh lợi, không giống với những đứa bé thường tình khác, nên được cha mẹ thương yêu như hòn ngọc trong tay.

    Đứa bé theo thời gian mà lớn lên, tuy mẹ nó cầu xin có bốn đứa con nhưng bà lại không cho nó được đứa em nào cả. Bao nhiêu tình thương đáng lẽ phải chia cho bốn, bà đều đổ dồn hết vào đứa con duy nhất ấy.

    Có một hôm vui chuyện, người mẹ kể cho con nghe việc mình cúng Phật cùng nguyện ước được bốn đứa con của mình, và tại sao mình lại muốn như thế. Người con nghe mẹ kể xong thì khắc ghi lời mẹ trong lòng.

    Lớn lên, cậu học làm ăn buôn bán. Nhờ thông minh lanh lợi nên không đầy một năm sau, kiếm được vô số tiền bạc tài sản, làm cho cha mẹ rất vui mừng.

    Sau đó, cậu không buôn bán nữa mà xoay qua làm nghề canh nông. Nhờ cậu chịu khó cần lao cày cấy tưới tẩm, mức thu hoạch vô cùng dồi dào phong phú, hàng xóm láng giềng ai nấy đều khâm phục. Trong nhà nay đã có tài sản lại vừa có thóc gạo, họ trở thành một nhà đại phú hộ.

    Lúc ấy, cậu muốn hoàn thành nguyện vọng thứ ba của mẹ, tức là có một đứa con làm quan để rạng rỡ tông môn. Cậu vốn là một người tài ba nên xin ra làm quan không phải là việc khó. Chẳng bao lâu cậu đã thăng tiến thành một vị quan lớn, nên gia đình càng giàu sang thêm.

    Bây giờ có gì đáng buồn tiếc nữa đâu? Nhưng nguyện vọng lớn nhất của cậu vẫn chưa thành tựu. Sau một năm làm quan, cậu thưa với mẹ rằng:

    – Mẹ à, bốn điều mà mẹ cầu nguyện, con đã hoàn thành được ba. Bây giờ chỉ còn lời nguyện cuối cùng, nếu hôm nay con xuất gia thì có phải là mẹ hoàn toàn mãn nguyện không?

    Người mẹ biết con mình muốn xin xuất gia, thật ra đây cũng là ý của bà lúc đầu nên bà vui lòng ưng thuận. Người con mừng rỡ từ biệt cha mẹ, đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni xin xuất gia làm sa-môn.

    Nương nhờ công đức của Phật, cùng với thiện duyên của mình, thêm sự gia công tinh tấn tu hành, chẳng bao lâu cậu chứng quả, thành một vị đại A-la-hán. Đắc đạo xong, cậu về nhà độ hóa cha mẹ cùng tất cả người nhà.

    Từ đó về sau, cậu bước trên đường hoằng dương Chính pháp, làm lợi lạc và thành tựu cho mọi chúng sinh.



  8. #47
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    43. Giờ cuối đã điểm



    Trong đời người, từ lúc đầu sinh ra, phải trải qua sự già yếu và bệnh tật để rồi đi thẳng tới cái chết. Ai ai cũng phải đi qua quãng đường ấy, không ai có thể thoát được. Có sinh thì nhất định phải có tử, chuyện sinh tử vô thường của đời người là một sự thật vậy.

    Thời xưa ở Ấn Độ, trong thành Xá Vệ có một ông phú hộ. Khổ nỗi phú quý không được vẹn toàn nên gia tài tuy kếch sù nhưng tuổi đã gần 50 mà trong nhà chưa có tiếng trẻ khóc, vì thế ông đi cầu tự khắp nơi.

    Quả nhiên trời xanh không phụ lòng người có chí, chẳng bao lâu phu nhân hoài thai và 10 tháng sau sinh hạ được một cậu bé bụ bẫm trắng trẻo, hai vợ chồng mừng rỡ vô hạn.

    Cha mẹ già sinh con muộn, nên đứa bé là con vàng con ngọc của họ. Ngày nó đầy tháng, họ bèn mời rất đông quyến thuộc đến nhà uống rượu mừng, thật là nhộn nhịp vô cùng.

    Đứa bé may mắn ấy lớn lên trong tình thương yêu trìu mến của mẹ cha, năm cậu 20 tuổi thì kết duyên với một cô gái xinh đẹp trong làng. Hai vợ chồng trẻ thương nhau đằm thắm, và cha mẹ cậu cũng rất đẹp lòng.

    Nhưng trong đời, “người không sướng ba năm, hoa không nở ba tháng”, tai họa đã giáng xuống gia đình đang an vui êm ấm ấy.

    Một ngày xuân đẹp trời, gió hiu hiu thổi, trăm hoa nở rộ, cặp vợ chồng son cùng nhau đi dạo trong khu vườn sau nhà. Trong lúc chuyện trò dưới gốc cây vô ưu, người vợ trẻ bỗng thấy một đóa hoa đang nụ sắp nở trên một cành cây, bèn nũng nịu bảo chồng:

    – Phu quân yêu dấu! Chàng có thể hái đóa hoa sắp nở kia xuống cho thiếp được không?

    Nghe người vợ thân yêu ngỏ lời yêu cầu, người chồng đương nhiên vội vàng trèo lên cây hái hoa cho nàng. Nhưng khi chàng vừa đưa tay lên về phía đóa hoa thì vô phúc thay, có âm thanh răng rắc của tiếng cây gẫy, trong thoáng chốc người và cành hợp thành một khối mà rơi xuống, vừa chạm đất thì tính mệnh người chồng cũng không còn!

    Tai nạn xảy ra quá đột ngột khiến người vợ trẻ kinh hoàng ngất xỉu.

    Khi hai vợ chồng phú hộ nghe tin bất hạnh này, họ không thể nào tin được đó là sự thật. Đứa con trai của họ mới thấy mặt đây còn mạnh khoẻ, sinh động, thì làm sao bây giờ lại có thể trở thành một cái xác không hồn được? Nhưng sự thật hiển nhiên trước mắt, làm sao có thể không tin!

    Hai vợ chồng già hoảng kinh, đau khổ, còn người vợ trẻ thì tuyệt vọng muốn tự vẫn theo chồng, ai biết chuyện cũng phải rơi lệ thương cảm cho họ.

    May sao, chính lúc đó đức Phật đi ngang qua ngôi làng này để giáo hóa, khi biết được tin này, Ngài bèn tìm đến nhà ông phú hộ, an ủi một cách vô cùng từ bi:

    – Đời người trên thế gian, có sinh tức phải có tử, có thịnh thì phải có suy, không ai có thể làm khác được. Trong cõi thế giới Ta Bà này không làm sao có chuyện có sống mà không có chết. Không có sức người nào có thể đi ngược lại dòng sinh tử. Con của ông bà chết đi, không phải do Trời quyết định, cũng không phải do ai làm hại. Cậu ấy sống là do các nhân duyên hòa hợp lại, cậu ấy chết là do các nhân duyên tan rã, thế thôi. Giống như một người lữ khách, không biết lúc nào đến và không biết lúc nào đi. Ông bà không nên quá thương tâm, hãy để cho tâm trí thư giãn một chút.

    Nhưng những thánh ngôn chí lý của đức Phật, người phàm phu ngu si không lãnh hội được hoàn toàn. Con người luôn luôn thấy rằng con cá nào mình câu hụt cũng vĩ đại, đứa con nào yểu mệnh cũng thông minh và ông chồng nào chết sớm cũng chung tình! Vì thế đức Phật bèn dùng phương tiện nói với họ rằng:

    – Được rồi, ông bà đừng buồn khóc nữa, ta sẽ cứu sống con của ông bà.

    Nghe hai chữ “cứu sống”, hai vợ chồng già mừng rỡ khấu đầu quỳ xuống đất lạy tạ, đức Phật đỡ hai người dậy mà nói:

    – Cứu sống cậu ấy thì không có gì khó, chỉ có điều phải đến nhà nào chưa từng có người chết để thắp ba cây hương thì mới có kết quả.

    Vì muốn cho đứa con đã chết được sống lại, hai vợ chồng già bèn chia nhau đi tìm. Nhưng trên thế gian, tìm ở đâu ra nhà nào chưa từng có người chết? Hai người đành tuyệt vọng cúi đầu trở về. Đức Phật lại thuyết giảng cho họ nghe:

    – Hai người phải hiểu cho rõ. Làm người trong thế gian này, có sinh thì phải có tử. Thương yêu nhau ai hơn mẹ với con, gần gũi nhau ai hơn vợ với chồng, thế mà có được sống vĩnh viễn với nhau đâu? Người nào tráng kiện đến đâu, mạnh khoẻ đến đâu rồi cũng có ngày phải chết. Nếu hôm nay con trai ông bà không chết thì tương lai cũng có lúc đôi bên phải chia lìa.

    Lời của đức Phật như hé mở cánh cửa trí huệ của hai vợ chồng già, cuối cùng họ giác ngộ rằng ở thế gian chuyện gì cũng vô thường, nên họ không còn quá bi lụy nữa.



  9. #48
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    44. Tài nghị luận của Ca Chiên Diên



    Vâng theo lời dạy của đức Phật, tôn giả Ca Chiên Diên, vị “luận nghị đệ nhất” trong hàng tăng chúng đã tuyên dương chủ trương “bốn tính bình đẳng”. Nhưng rất đông Bà-la-môn biết được, không ai tin phục tôn giả. Hễ có cơ hội là họ tìm đến Ca Chiên Diên để bài bác, vấn nạn ngài. Họ nghĩ rằng, nếu không đánh ngã những biện luận của tôn giả thì từ đây về sau, Bà-la-môn sẽ không có hy vọng ngóc đầu lên được nữa.

    Tuy nhiên, ngài Ca Chiên Diên rất giỏi biện luận, khi gặp một vị Bà-la-môn, dẫu quyền uy tới đâu đến vấn nạn ngài, ngài chỉ cần dùng một vài câu ngắn gọn và đơn giản, thế là vị Bà-la-môn nọ cuối cùng cũng phải vui vẻ mà thuần phục.

    Có một hôm, tôn giả cùng các vị tỳ-kheo bạn đồng tu sắp bước vào trai đường bên cạnh hồ Ô Nê nước Ba La Nại dùng cơm, thì có một vị Bà-la-môn lớn tuổi tìm đến khiêu chiến với ngài.

    Vị Bà-la-môn già chống cây gậy, im lặng đứng bên cạnh tôn giả Ca Chiên Diên, những tưởng rằng khi nào Ca Chiên Diên nhìn thấy ông thì nhất định sẽ đứng dậy nhường chỗ cho ông ngồi. Nhưng nào có ngờ đâu, Ca Chiên Diên chẳng thèm ném cho ông một cái nhìn nữa. Ông kiên nhẫn đứng một hồi lâu, cuối cùng lớn tiếng trách mắng rằng:

    – Mấy ông nghĩ sao mà thấy một vị trưởng giả lớn tuổi như tôi đến lại không biết đứng lên mà nhường chỗ ngồi?

    Các vị tỳ-kheo nghe thế thì giật mình, nhiều người vội vàng đứng dậy nhường chỗ ngồi cho vị Bà-la-môn già, duy chỉ có Ca Chiên Diên là chẳng chút động lòng, còn hỏi lại rằng:

    – Ông là ai mà tới đây la hét ầm ĩ như vậy? Chúng tôi ở đây tôn kính phụng hành giáo pháp, nhưng tại chỗ này không có ai là trưởng lão hay tiền bối của chúng tôi cả.

    Vị Bà-la-môn già nọ giận dữ đưa cây gậy đang cầm trong tay lên chỉ vào đầu tóc bạc phơ của mình mà hỏi:

    – Số tuổi đã cao của ta không đủ cho ông tôn làm trưởng lão hay sao? Không đủ cho các ông cung kính tôn trọng hay sao?

    – Ông ư? Ông không thể tự xưng là trưởng lão, cũng không nên chờ đợi được chúng tôi cung kính tôn trọng.

    Ca Chiên Diên trả lời bằng một giọng nhẹ nhàng nhưng cương quyết. Vị Bà-la-môn già giận dữ đến cực điểm, dùng cây gậy chỉ vào mặt Ca Chiên Diên mà mắng:

    – Tại sao ông lại khinh người đến thế?

    Ca Chiên Diên điềm nhiên trả lời rằng:

    – Qua âm thanh, giọng nói của ông, và qua những cử chỉ thô bạo của ông, tôi nhận thấy rằng ông không xứng đáng được tôn làm trưởng lão, cũng không xứng đáng được người khác cung kính. Bởi vì cho dầu ông có là một vị bà-la-môn đã tám, chín mươi tuổi, tóc bạc răng long, nhưng nếu không hề tu hành một cách chân chính, còn đam mê sắc, thanh, hương, vị, xúc, chưa xả bỏ được những phiền não như tham, sân và ganh ghét, thì ông vẫn bị coi như trẻ con. Còn giả sử ông là một thanh niên 20 tuổi, da dẻ chưa nhăn, đầu tóc đen nhánh, nhưng đã giải thoát được sự trói buộc của ái dục, đối với thế gian không có sự tham cầu, không có chút niệm tưởng bất bình nào, thì chúng tôi có thể xưng tán ông là trưởng lão, xem ông là người già dặn, xứng đáng cho chúng tôi thân tâm cung kính.

    Vị bà-la-môn già nghe Ca Chiên Diên nói thế, không có lời lẽ nào để đối đáp, bèn lặng lẽ bỏ đi.



  10. #49
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    45. Hoàng tử Dũng Quân



    Tại thành Tỳ Xá Ly ở miền Trung Ấn Độ có một vị hoàng tử tên là Dũng Quân, tính tình rất phóng túng bê tha, ngày đêm sống một cuộc đời xa xỉ hoang đàng, không biết lo, không biết sầu, chỉ biết vui chơi hoan lạc. Người trong thành không ai là không biết đến nhân cách buông thả của chàng.

    Có một hôm, đức Phật bỗng gọi A Nan đến hỏi:

    – A Nan! Ông có biết hoàng tử Dũng Quân là người như thế nào không?

    – Bạch Thế Tôn, con biết. Hoàng tử Dũng Quân là một người tham cầu ngũ dục.

    – Một người sống trong phóng túng và tham dục như thế, hậu quả sau này sẽ như thế nào?

    – Thế Tôn! Một người như hoàng tử Dũng Quân, chết rồi chắc chắn sẽ đọa địa ngục, chịu đủ những thống khổ của dầu sôi lửa đỏ ở dưới ấy!

    – Đúng thế. Ta thương xót hoàng tử Dũng Quân, do vì sống cuộc sống quá đỗi bê tha nên chỉ còn lại có 7 ngày để sống. Nếu không biết sửa đổi và sám hối, 7 ngày nữa chết đi tất nhiên sẽ đọa địa ngục. A Nan, bây giờ ông hãy đến nhà của hoàng tử, khuyên ông ấy xuất gia.

    A Nan vâng lệnh đức Phật, đến nhà hoàng tử Dũng Quân. Dũng Quân thấy A Nan đến nhà, vô cùng mừng rỡ chạy ra đón chào và nói:

    – Mừng tôn giả quang lâm! Lâu lắm mới gặp lại ngài. Xin tôn giả thuyết giảng cho tôi nghe giáo pháp vi diệu của đức Phật.

    Chờ mọi người ngồi xuống, uống trà xong xuôi, A Nan mới nghiêm trang nói với Dũng Quân rằng:

    – Hôm nay tôi vâng lệnh từ bi của đức Phật, đặc biệt đến đây tìm hoàng tử.

    Nói tới đây, A Nan dùng ánh mắt sáng quắc của mình nhìn thẳng vào mặt của Dũng Quân, nhưng hoàng tử không hề thay đổi nét mặt, vẫn như thường, chẳng chút sầu lo. A Nan nói tiếp:

    – Đức Phật biết đại nạn của hoàng tử sắp tới, hoàng tử chỉ còn có 7 ngày để sống nữa mà thôi. Cho nên, lúc còn hơi thở, Thế Tôn muốn hoàng tử hãy dứt bỏ mọi dục niệm, xuất gia tu hành, thì tương lai mới có thể thoát khổ được.

    Hoàng tử nghe những lời nói này thì khuôn mặt lập tức trở nên trắng bệch, vừa sợ hãi vừa khủng hoảng, nhất thời bỗng cảm thấy trở tay không kịp. Một lúc sau chàng từ từ trấn tỉnh trở lại. Phải nói rằng ngựa đã quá quen đường cũ, không thể nào trong một lúc mà thay đổi được, tuy chỉ còn có 7 ngày để sống, chàng vẫn không đành lòng buông thả tất cả, nên nhìn A Nan cầu khẩn:

    – Tôn giả! Tôi rất sợ xuống địa ngục chịu khổ, nên thế nào cũng sẽ theo đức Phật xuất gia. Tuy nhiên, tôi van cầu ngài hãy phương tiện mà cho phép tôi hưởng thụ dục lạc trong 6 ngày còn lại.

    A Nan biết bẩm tính hoàng tử quá thấp hèn, chỉ đành chấp thuận.

    Đến ngày thứ sáu, hoàng tử từ giã tất cả những người trong cung rồi, dành nguyên cả ngày cuối của đời mình theo đức Phật xuất gia. Đức Phật đại từ bi, chấp nhận phương tiện mà khai thị và truyền giới cho chàng trong một ngày một đêm.

    Quả nhiên qua ngày thứ 7, hoàng tử Dũng Quân bị bệnh thình lình và qua đời.

    Lúc ấy A Nan hỏi đức Phật:

    – Thế Tôn! Hoàng tử Dũng Quân hiện giờ đang ở đâu?

    Phật dạy:

    – Tuy hoàng tử Dũng Quân chỉ tu trì tịnh giới trong vỏn vẹn có một ngày một đêm, nhưng nay đã thác sinh ở cõi trời Tứ thiên vương, làm con trai của Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Ở đây thọ mệnh của ông ta sẽ là 500 năm, sau đó sinh ở cõi trời Đao Lợi, thọ 1.000 năm. Rồi lại sinh ở cõi trời Dạ Ma, thọ 2.000 năm. Đó là không kể những thọ mệnh trên cả vạn năm ở các cõi trời khác như Đâu Suất thiên, Hóa Lạc thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên v.v.. Đến khi hưởng hết phúc đức cõi trời, cuối cùng sẽ sinh xuống làm người, xuất gia học đạo, đắc A-la-hán quả.

    Xuất gia tu hành chỉ trong có một ngày một đêm mà công đức đạt được thật là không thể nghĩ bàn. Đức Phật nói xong về những chỗ mà hoàng tử Dũng Quân sẽ sinh về, rất nhiều người bằng lòng xuất gia, theo đức Phật tinh tiến tu hành, thọ trì tịnh giới.



  11. The Following User Says Thank You to dieunghiem For This Useful Post:

    hoatihon (09-26-2015)

  12. #50
    Avatar của dieunghiem
    Tham gia ngày
    Jul 2015
    Bài gửi
    201
    Thanks
    176
    Thanked 142 Times in 52 Posts


    46. Nhân thiện quả thiện



    Lúc đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở tinh xá Kỳ Viên trong thành Xá Vệ thuyết pháp độ sinh, thì trong ngôi thành lớn ấy có ông trưởng giả nọ sinh được một cậu con trai rất kỳ diệu.

    Lúc cậu ra đời thì có nước cam lồ từ trên trời tuôn xuống, và thiên nhạc tuyệt diệu trổi lên khúc hoan ca. Cha mẹ cậu mừng rỡ quá, mời thầy chiêm tinh về bốc cho đứa bé hy hữu ấy một quẻ. Thầy chiêm tinh bốc xong, khen ngợi rằng:

    – Đứa bé này ra đời có cam lồ, thiên nhạc chào mừng, đó là vì sau này cậu sẽ là phúc tinh của nhân loại, nếu được xuất gia học đạo, chắc chắn sẽ thành một vị thánh!

    Nghe những lời ấy cha mẹ cậu rất đẹp lòng, đặt tên cho cậu là Da Xỉ Mật Đa, tối ngày cưng chìu, cung phụng đủ thứ. Nhưng kỳ lạ thay, đứa bé này không cần bú sữa. Khi đói, giữa những kẽ ngón tay của cậu có một giòng sữa trắng tự nhiên chảy ra, nuôi cho cậu dần dần lớn mập. Lúc còn bé, cậu thông minh dị thường, cung cách siêu phàm.

    Có một hôm cậu đến tinh xá Kỳ Viên, thấy đức Phật với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, thân phóng hào quang sáng ngời, Da Xỉ Mật Đa hoan hỉ vô cùng, liền chạy đến đảnh lễ đức Phật và xin Ngài thu nhận mình làm đệ tử. Đức Phật từ bi nhận lời, cho phép Da Xỉ Mật Đa được xuống tóc xuất gia.

    Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cậu tu hành tinh chuyên, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, có đại thần thông, được người, trời kính phục.

    Những vị đệ tử khác của đức Phật lớn tuổi hơn cậu hay xuất gia trước cậu đều không bì kịp, nên mọi người lấy làm lạ, liền đến thưa thỉnh đức Phật.

    Đức Phật thuyết cho mọi người nghe nguyên do như sau:

    – Lúc Như Lai Ca Diếp còn tại thế, có một vị thân sĩ ở nước Ba La Nại, tuổi đã lớn mới xuất gia học đạo, nhưng lại giải đãi lười biếng, không chịu tinh tiến, thân lại thường hay mang bệnh. Các thầy thuốc thấy ông gầy yếu, bèn khuyên ông nên uống nhiều dầu tô (dầu tô là một loại chất bổ giúp cho thân thể cường tráng). Lão tỳ-kheo này nghe lời thầy thuốc, ráng sức uống dầu tô cho nhiều, tới nửa đêm thì chất thuốc phát tác, ông vừa nóng vừa khát, muốn uống chút nước thì trong bát không có lấy nửa giọt cho ông uống. Chạy ra giếng, giếng đã cạn khô. Chạy ra bờ sông, thì gặp lúc hạn hán đã lâu, nên chỉ thấy đáy sông.

    Ông đi tìm khắp nơi mà không tìm đâu ra nước, khát chịu gần hết nổi. Lúc ấy ông như tỉnh ngộ, biết rằng đây là quả báo từ quá khứ chiêu cảm, nên ông nhẫn chịu khát cho qua đêm ấy. Ngày hôm sau ông tìm tới Như Lai Ca Diếp cầu cứu. Như Lai thấy ông đáng thương, bèn nói với ông rằng:

    – Cái khổ của ông hôm nay không khác gì cái khổ của loài ngạ quỷ, nếu biết sám hối thì còn cứu vãn được. Bây giờ ông hãy dùng nước trong bình của ta mà cung kính dâng lên cho chư tăng.

    Lão tỳ-kheo nghe lời giáo huấn của Như Lai, tính lấy bình nước nhưng nghiệp tội đã quá sâu dày, nên tay mới chạm bình, thì nước trong bình đang đầy ắp bỗng không cánh mà bay đi hết. Lão tỳ-kheo rất buồn phiền, thấy mình như sắp đọa xuống cõi ngạ quỷ tới nơi rồi! Ông lại đi tìm Như Lai, cầu xin Ngài thương xót chỉ giáo cho. Như Lai dạy:

    – Bây giờ ông ở giữa tăng chúng, giữ tâm ý cho thật thành kính, lấy nước thanh tịnh nhất, trong sạch nhất mà cúng dường chư tăng, thì mới thoát được nỗi thống khổ của loài ngạ quỷ này.

    Lão tỳ-kheo vâng lời và tin tưởng Như Lai, sinh tâm đại hoan hỉ, lại còn nương vào sức của Phật nên ở đâu cũng tìm được nước sạch, nước trong. Từ đó, ngày ngày ông mang nước sạch đến cung cấp cho tăng đoàn, mãi cho đến lúc tuổi thật cao mới tạ thế.

    Nhờ công đức cúng dường nước cho chư tăng như thế nên sinh ra đời này mới tự nhiên có sữa thanh tịnh mà uống, và mới được gặp Phật, được hóa độ rất mau chóng.

    Này chư tỳ-kheo, lão tỳ-kheo bệnh hoạn kia, nay chính là Da Xỉ Mật Đa vậy.

    Mọi người muốn tìm cầu hạnh phúc, nên thường cúng dường Phật và Tăng, trồng nhân thiện thì tự nhiên sẽ hái được quả thiện.



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •