Kinh Đại Bát Niết Bàn PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
__________________________________________________ ______________________________________
_ Nầy Bà La Môn ! Tánh ấy có thể làm nhơn cho tất cả pháp trong và ngoài chăng ?
_ Chính thế, thưa Cù Đàm.
_ Nầy Bà La Môn ! Tánh ấy làm nhơn như thế nào ?
_ Thưa Cù Đàm ! Từ tánh sanh ra đại, từ đại sanh mạn, từ mạn sanh mười sáu pháp : Năm đại là địa, thủy, hỏa, phong, không, năm tri căn là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, năm nghiệp căn là tay , chơn, miệng tiếng, nam căn, nữ căn, cùng tâm bình đẳng căn. Mười sáu pháp nầy do năm pháp : Sắc, thinh, hương, vị, xúc sanh ra. Hai mươi mốt pháp nầy có ba pháp căn bổn : Nhiễm, thô và đen. Nhiễm là ái, thô là sân, đen là vô minh. Hai mươi ba pháp nầy, đều nhơn nơi tánh mà sanh.
_ Nầy Bà La Môn ! Những pháp đại, mạn v.v… là thường hay vô thường ?
_ Thưa Cù Đàm theo giáo pháp của tôi thời tánh là thường, những pháp đại v.v… đều là vô thường.
_ Nầy Bà La Môn ! Như trong pháp của ông nhơn là thường còn quả là vô thường. Trong pháp của ta dầu nhơn là vô thường nhưng quả là thường, thời có lỗi gì ?
_ Nầy Bà La Môn ! Trong pháp của các ông có hai nhơn chăng ?
_ Thưa Cù Đàm, có.
_ Thế nào là hai ?
_ Thưa Cù Đàm ! Một là sanh nhơn, hai là liễu nhơn .
_ Thế nào là sanh nhơn ? Thế nào là liễu nhơn ?
_ Sanh nhơn như đất sét làm ra cái bình. Liễu nhơn như đèn soi đồ vật.
_ Hai nhơn nầy là một tánh. Đã là một tánh có thể khiến sanh nhơn làm liễu nhơn chăng ? Có thể khiến liễu nhơn làm sanh nhơn chăng ?
_ Thưa Cù Đàm ! Không.
_ Nếu như sanh nhơn chẳng làm liễu nhơn, liễu nhơn chẳng làm sanh nhơn, có thể nói là nhơn tướng chăng ?
_ Thưa Cù Đàm ! Dầu hai nhơn chẳng làm thành lẫn nhau, nhưng vẫn có nhơn tướng.
_ Nầy Bà La Môn ! Vật của liễu nhơn chiếu rõ có đồng với liễu nhơn chăng ?
_ Thưa Cù Đàm ! Không .