Kinh Đại Bát Niết Bàn
PHẨM SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT THỨ 23
__________________________________________________ ______________________________________


Cũng vậy, vì chúng sanh chẳng thấy Phật tánh nên là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Do thiện tri thức, chư Phật và Bồ Tát dùng nhiều phương tiện dạy bảo mà chúng sanh thấy Phật tánh. Do thấy Phật tánh nên chúng sanh được thường, lạc, ngã, tịnh.

Kiến chấp của chúng sanh phàm có hai : Thường kiến và đoạn kiến. Hai thứ kiến chấp nầy chẳng gọi là trung đạo. Không thường không đoạn mới gọi là trung đạo, không thường không đoạn, tức là trí quán chiếu mười hai nhơn duyên. Quán trí nầy gọi là Phật tánh. Hàng nhị thừa dầu quán nhơn duyên nhưng còn chẳng được gọi là Phật tánh. Phật tanùh dầu là thường bởi chúng sanh bị vô minh che đậy nên không thấy được. Lội chưa qua được sông mười hai nhơn duyên, dụ như thỏ và ngựa kia, vì chẳng thấy Phật tánh.

Nầy Thiện nam tử ! Trí huệ quán chiếu mười hai nhơn duyên đây chính là chủng tử của vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa nầy nên mười hai nhơn duyên gọi là Phật tánh.

Ví như dưa hấu gọi là bịnh nhiệt, vì dưa nầy có thể làm nhơn duyên bịnh nhiệt. Mười hai nhơn duyên cũng như vậy.

Nầy Thiện nam tử ! Phật tánh có nhơn, có nhơn nhơn, có quả, có quả quả.

Có nhơn đó chính là mười hai nhơn duyên. Nhơn nhơn đó chính là trí huệ. Có quả chính là vô thượng Bồ Đề. Qủa quả đó chính là vô thượng Đại Niết Bàn.

Nầy Thiện nam tử ! Như vô minh là nhơn, hành là quả ; hành là nhơn , thức là qủa. Do nghĩa nầy nên thể vô minh kia cũng là nhơn, cũng là nhơn nhơn. Thức cũng là quả, cũng là quả quả. Phật tánh cũng như vậy.

Nầy Thiện nam tử ! Do nghĩa nầy nên mười hai nhơn duyên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng hai, chẳng đến, chẳng đi, chẳng chơn, chẳng quả.

Là nhơn mà chẳng phải quả như Phật tánh.

Là quả mà chẳng phải nhơn như Đại Niết Bàn.

Là nhơn cũng là quả như những pháp do mười hai nhơn duyên sanh.