Kinh Đại Bát Niết Bàn PHẨM QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG BỒ TÁT THỨ 22
__________________________________________________ ______________________________________
Nầy Thiện nam tử ! Thế nào gọi là Kim Cang Tam muội ? Như chất Kim cang nếu ở trong ánh nắng thời màu sắc chẳng nhứt định. Cũng vậy, Kim Cang Tam muội ở trong đại chúng cũng chẳng nhứt định, vì thế nên gọi là Kim Cang Tam muội.
Như chất Kim cang tất cả người đời không thể bình luận giá cả. Cũng vậy, Kim Cang Tam muội có bao nhiêu công đức tất cả Trời Người không thể nghĩ lường được, do đây nên lại gọi là Kim Cang Tam muội.
Như người nghèo đặng báu Kim cang thời hết nghèo cùng khốn khổ, lại khỏi ác quỉ tà độc. Cũng vậy, Đại Bồ Tát được Tam muội nầy thời có thể dứt hết phiền não khổ hoạn xa lìa các ma tà độc, do đây nên gọi là Kim Cang Tam muội.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành Kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ sáu.
Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành Kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ bảy ?
Nầy Thiện nam tử ! Đại Bồ Tát nầy nghĩ rằng : Pháp gì có thể làm nhơn duyên gần với Đại Niết Bàn ? Bồ Tát nầy liền biết có bốn điều : Làm nhơn duyên gần, nếu rời bốn pháp nầy thời không thể được Đại Niết Bàn : Vì thế nên nói rằng siêng tu tất cả khổ hạnh mà được Đại Niết Bàn, thời không đúng.
Đây là bốn điều : Một là gần gũi bạn lành ; hai là chuyên tâm nghe pháp ; ba là nhiếp niệm tư duy ; bốn là tu hành đúng pháp.
Như có người mang bịnh : Hoặc nóng, hoặc lạnh, hư lao, các tà quỉ độc, người bịnh nầy, tìm đến lương y, lương y liền theo bịnh cho thuốc. Người bịnh nầy hết lòng y theo lời chỉ dẫn của lương y, uống thuốc đúng cách, bịnh được lành, thân được an. Người bịnh dụ cho Bồ Tát. Lương y dụ cho thiện tri thức. Phương thuốc của lương y nói dụ cho Kinh Đại Thừa. Y theo lời chỉ dẫn của lương y dụ cho khéo suy nghĩ nghĩa lý của Kinh Đại Thừa. Hiệp thuốc uống đúng cách dụ cho tu hành đúng pháp. Bịnh lành dụ cho dứt hết phiền não. Thân an dụ cho đặng Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Ví như có Quốc Vương muốn cai trị đúng pháp, làm cho nhơn dân được an vui, nhà vua hỏi cách cai trị nơi các quan. Các quan bèn đem cách thức của Tiên Vương tâu với Quốc Vương. Quốc Vương liền chí tâm tin tưởng thật hành theo, đúng như pháp cai trị nước nhà, làm cho cả nước không giặc cướp, nhơn dân an vui. Quốc Vương dụ cho Bồ Tát, các quan dụ cho bạn lành. Cách thức cai trị của các quan tâu dụ cho mười hai bộ Kinh. Quốc Vương hết lòng tin tưởng thật hành dụ cho Bồ Tát nhiếp tâm tư duy nghĩa lý của mười hai bộ Kinh. Quốc Vương cai trị đúng pháp dụ cho Bồ Tát tu hành đúng theo sáu môn Ba La Mật. Cả nước không giặc cướp dụ cho Bồ Tát đã lìa phiền não kiết sử. Nhơn dân được an vui dụ cho Bồ Tát chứng được Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.