DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 663
  1. #1
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nay gần thành Vương Xá có vị Đại Sư hiệu là A Kỳ Đa Xúy Xá Khâm Bà La thấy biết tất cả, xem vàng cùng đất đồng nhau. Đối với người lấy dao chém vào hông bên mặt cùng người lấy chiên đàn thoa vào hông bên trái, tâm của ngài bình đẳng không sai khác, không oán, không thân, thật là bậc lương y trong đời. Đại sư dạy hàng đệ tử rằng : “ Hoặc tự làm, hoặc bảo người làm, hoặc tự chém, hoặc bảo người chém, hoặc tự đốt, hoặc bảo người đốt, hoặc tự hại, hoặc bảo người hại, hoặc tự trộm, hoặc bảo người trộm, hoặc tự dâm, hoặc bảo người dâm, hoặc tự vọng ngữ, hoặc bảo người vọng ngữ, hoặc tự uống rượu, hoặc bảo người uống rượu, hoặc giết một thôn, một thành, một nước, hoặc dùng đao luân giết tất cả chúng sanh, hoặc phía nam sông Hằng Bố Thí chúng sanh, phía Bắc sông Hằng giết hại chúng sanh, tất cả đều không tội không phước, không thí, không giới, không định. Nếu Đại Vương gặp được Đại Sư ấy thời những tội lỗi sẽ dứt trừ.”


    Vua bảo Đại thần Tất Tri Nghĩa : “Nếu thật được như vậy ta sẽ quy y.”

    Lại có Đại thần tên là Kiết Đắc tâu cùng vua rằng : “Ai đến phỉnh gạt Đại Vương mà nói rằng là có Địa ngục ? Như đầu gai nhọn ai làm ra ? Loài chim khác màu ai làm ra? Tánh nước nhuần ướt, tánh đá cứng rắn, tánh lửa thời nóng, tánh gió thời động, tất cả muôn vật tự sanh tự chết ai làm ra ? Thuyết địa ngục chính là văn tự của người trí. Hạ thần nầy xin trình bày nghĩa địa ngục : Chữ địa là đất, chữ ngục nghĩa là phá, phá Địa ngục không có tội báo, đây gọi là Địa ngục. Lại chữ địa là người, chữ ngục là trời, bởi hại cha mình nên đến trong người trên trời. Do nghĩa nầy nên Bà Tẩu Tiên Nhơn nói rằng : Giết dê đặng quả vui cõi trời cõi người, đây gọi là Địa ngục. Lại chữ địa là mạng, chữ ngục là dài, do sát sanh nên đặng thọ mạng dài, đây gọi là Địa ngục. Tâu Đại Vương do đây nên biết thật không có Địa ngục. Như gieo bắp đặng bắp, gieo lúa đặng lúa, giết Địa ngục mắc phải Địa ngục, giết hại người lẽ ra phải đặng báo người. Đại Vương nên nghe lời hạ thần trình bày, thật không có sự giết hại, vì nếu có ngã thời không hại, nếu không ngãlại không chỗ hại. Vì có ngã thời thường còn không biến đổi, vì thường còn nên chẳng thể giết hại, chẳng phá, chẳng hoại, chẳng trói, chẳng buộc, không giận, không mừng, dường như hư không, sao lại có tội giết hại. Nếu không ngã thời các pháp đều vô thường, vì vô thường nên niệm niệm hoại diệt, vì niệm niệm hoại diệt nên người giết, người chết đều niệm niệm diệt, nếu đã niệm niệm diệt thời ai sẽ có tội. Tâu Đại Vương như lửa đốt cây, lửa không có tội, như búa chặt cây, búa cũng không tội, như liềm cắt cỏ liềm thật không tội, như dao giết người, dao chẳng phải người dao đã không tội, sao người lại có tội ? Như thuốc độc giết người, thuốc độc chẳng phải người, thuốc độc đã không tội, sao người lại có tội ? Tất cả muôn vật cũng đều như vậy, thật không giết hại, sao lại có tội. Mong Đại vương chớ nên sầu khổ, vì thường sầu khổ thời sầu khổ càng thêm.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  2. #2
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nay gần thành Vương Xá có vị Đại Sư hiệu là Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên thấy biết tất cả, rõ suốt ba đời, trong khoảng một niệm có thể thấy vô lượng vô biên thế giới, nghe tiếng cũng vậy, Đại Sư ấy có thể làm cho chúng sanh xa lìa tội lỗi, như sông Hằng bao nhiêu đồ nhơ uế, đều làm cho sạch sẽ. Đại sư ấy dạy đệ tử rằng : Nếu người giết hại tất cả chúng sanh mà lòng không ăn năn hổ thẹn thời trọn chẳng đọa ác thú, như hư không chẳng dính bụi dính nước, nếu lòng ăn năn hổ thẹn liền đọa địa ngục, như nước thấm ướt đất. Tất cả chúng sanh đều do Tự Tại Thiên tạo ra. Tự Tại Thiên mừng thời chúng sanh an vui, Tự Tại Thiên sân thời chúng sanh khổ não. Tất cả tội phước của chúng sanh đều do Tự Tại Thiên làm ra, sao lại nói rằng loài người có tội có phước. Ví như thợ máy chế ra người máy, cũng đi đứng ngồi nằm, chúng sanh cũng như vậy. Tự Tại thiên dụ như máy, thân chúng sanh dụ như người máy. Tạo hoá như vậy thời ai là người có tội.

    Nếu Đại vương gặp được Đại Sư ấy thời tội chướng sẽ tiêu trừ.


    Vua bảo Đại Thần Kiết Đắc : “Nếu thật được như vậy thời ta sẽ quy y”.

    Lại có Đại Thần tên Vô Sơ Úy tâu cùng vua A Xà Thế rằng : “Xin Đại Vương chớ sầu khổ. Xét về dòng Sát Đế Lợi là dòng vua chúa, nếu vì nước, vì Sa Môn và Bà La Môn, vì vấn đề an ổn nhân dân, dầu có giết hại nhưng không tội.

    Tiên Vương dầu cung kính Sa Môn mà chẳng phụng thờ các Bà La Môn, tâm không bìng đẳng chẳng phải thật dòng Sát Đế Lợi
    Nay Đại Vương muốn cúng dường các Bà La Môn mà giết hại Tiên Vương thời có tội gì ?

    Tâu Đại vương ! Thật ra không có giết hại. Xét về sự giết hại là giết hại mạng sống. Mạng là hơi gió, tánh hơi gió không thể giết hại được, sao lại nói rằng hại mạng thời sẽ có tội. Mong Đại vương chớ sầu khổ, vì thường sầu khổ thời sầu khổ càng thêm. Nay trong thành Vương Xá có vị Đại Sư hiệu là Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử thấy biết tất cả, thương xót chúng sanh, rõ biết căn tánh lợi độn, tám pháp thế gian không làm ô nhiễm được ngài, tu tập phạm hạnh thanh tịnh, Đại Sư ấy dạy hàng đệ tử rằng : Không Bố Thí, không nghiệp lành, không cha, không mẹ, không đời nay, không đời sau, không A La Hán, không đạo hạnh, không tu hành. Tất cả chúng sanh trải qua bốn muôn kiếp, tự nhiên sẽ thoát khỏi dòng sanh tử, không luận là người có tội hay vô tội, như bốn con sông lớn đều chảy vào biển cả, tất cả chúng sanh lúc đặng giải thoát đều đồng nhau không khác. Nếu Đại vương gặp được Đại sư ấy thời các tội chướng sẽ tiêu trừ.”


    Vua bảo Đại Thần Vô Sở Úy : “Nếu thật như vậy ta sẽ quy y”.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  3. #3
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20
    __________________________________________________ ______________________________________


    Mặc dầu các Đại thần khuyên lơn giảng dạy đủ điều như vậy, nhưng vua A Xà Thế vẫn sầu khổ.

    Lúc đó Đại Y Sĩ Kỳ Bà tâu cùng vua rằng : “Đại Vương ngủ nghỉ có đặng yên chăng ?”

    Vua A Xà Thế liền nói kệ rằng :

    Nếu có người dứt hẳn được, Tất cả những phiền não hoặc, Chẳng tham nhiễm trong ba cõi. Mới ngủ nghỉ được an ổn. Nếu người chứng Đại Niết Bàn, Diễn thuyết nghĩa lý rất sâu. Gọi là thiệt Bà La Môn. Mới ngủ nghỉ được an ổn, Thân không tạo nghiệp ác, Miệng xa lìa bốn điều lỗi, Tâm không có những lưới nghi, Mới ngủ nghĩ đặng an ổn. Thân tâm đều không nhiệt não, An trụ nơi chỗ tịch tịnh, Đặng đến cảnh vui vô thượng, Mới ngủ nghỉ được an ổn. Trong lòng không có chấp lấy, xa lìa những niệm oán thù, Thường hòa thuận không tránh tụng, Mới ngủ nghỉ được an ổn. Nếu chẳng tạo những nghiệp ác, Thường có tâm niệm hổ thẹn, Tin làm ác có quả báo, Mới ngủ nghỉ được an ổn. Cung kính phụng dưỡng cha mẹ, Chẳng giết hại một sanh mạng. Chẳng trộm cướp tài vật người, Mới ngủ nghỉ được an ổn. Điều phục sửa trị sáu căn.
    Gần gũi bậc thiện tri thức, Phá hoại tất cả bốn ma, Mới ngủ nghỉ được an ổn. Chẳng thấy lành cùng chẳng lành, Với những sự khổ sự vui, Vì cứu độ những chúng sanh, Nên luân chuyển trong sanh tử, Nếu người có thể như vậy, Mớ ngủ nghỉ được an ổn. Ai đặng ngủ nghỉ yên ổn ? Đáp rằng : Chính là Chư Phật. Quán sâu nơi tam muội. Thân cùng tâm an chẳng động. Ai ngủ nghỉ được an ổn ? Đáp rằng : Là đấng Từ Bi. Thường siêng tu chẳng phóng dật, Xem chúng sanh như con một. Chúng sanh bị tội vô minh, Chẳng thấy quả khổ phiền não, Thường gây tạo những nghiệp ác, Nên ngủ nghỉ chẳng được yên, Hoặc vì lợi chính thân mình, và đến thân những người khác, mà gây tạo mười nghiệp ác, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên. Nếu nói vì lên ngôi vua, Hại cha vẫn không tội lỗi, Thuận theo ác tri thức nầy, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên. Nếu ăn uống không tiết độ, Uống chất lạnh mà quá nhiều, Do đây phải mang bịnh khổ, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên. Nếu đối với vua có lỗi, Tà niệm với vợ con người, Cùng đi trên đường xa vắng, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên. Trì giới chưa được quả lành. Thái tử chưa được nối ngôi, Kẻ trộm chưa lấy được của, Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.

    Nầy Kỳ Bà ! Nay ta mang bịng nặng nầy chính vì ta nghịch lại vua cha. Cha ta trị nước đúng pháp thật không tội lỗi mà ta lại giết hại. Vì thế nên tất cả lương y diệu dược chú thuật đều không thể trị lành bịnh ta. Lòng ta khổ sở như cá mắc cạn, như nai mắc bẩy v.v… Ta từng nghe người trí bảo rằng người phạm tội nghịch ắt đọa địa ngục. Ta làm sao ngủ yên ổn được. Lại không bậc vô thượng đại y sĩ dùng pháp dược để dứt trừ bịnh khổ cho ta.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  4. #4
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20
    __________________________________________________ ______________________________________


    Kỳ Bà tâu cùng vua : “Lành thay ! Lành thay ! Vua dầu tạo tội nhưng có lòng ăn năn hổ thẹn. Tâu Đại Vương ! Chư Phật thường nói rằng có hai pháp lành có thể cứu chúng sanh. Một là tàm, hai là quí. Tàm là tự chẳng phạm tội. Quí là chẳng bảo người phạm. Tàm là trong lòng tự hổ thẹn. Quí là đối người phát lồ. Tàm là hổ cùng người. Quí là thẹn với trời. Kẻ không tàm, quí thời chẳng gọi là người, nên gọi là súc sanh. Vì có tàm quí thời có thể cung kính cha mẹ sư trưởng. Người có tàm quí thời gọi là có cha mẹ anh em chị em.

    Lành thay ! Đại Vương có lòng tàm quí. Xin Đại Vương nghe hạ thần trình bày.

    Hạ thần từng nghe đức Phật nói : Có hai hạng người trí : Một là người chẳng tạo điều ác, hai là tạo điều ác rồi biết sám hối. Cùng có hai hạng nguời ngu : Một là người tạo tội, hai là người tạo tội rồi che giấu.

    Dầu trước tạo tội lúc sau phát lồ ăn năn hổ thẹn chẳng dám tái phạm, như đem minh châu để trong nước đục, do thế lực của minh châu nước liền trong. Như khói mây tan thời mặt trăng chói sáng. Người tạo tội ác có thể sám hối cũng như vậy.

    Đại Vương nếu sám hối có lòng tàm quí thời tội chướng sẽ trừ diệt, trong sạch như xưa.

    Tâu Đại Vương ! Giàu có hai hạng : Một là nhiều voi ngựa, lục súc,. Hai là nhiều vàng bạc các thứ châu báu. Voi ngựa nhiều chẳng sánh được một hột châu. Cũng vậy, chúng sanh có hai hạng giàu : Một là giàu điều ác, hai là giàu điều lành. Tạo nhiều điều ác chẳng bằng một điều lành. Hạ thần nghe Phật nói tu một tâm lành phá tâm điều ác. Như chút kim cang có thể hoại núi Tu Di. Cũng như chút lửa có thể đốt cháy tất cả. Như chút thuốc độc có thể hại chúng sanh. Cũng vậy, chút ít điều lành có thể phá nghiệp ác lớn. Dầu gọi là chút lành nhưng kỳ thật là lớn, vì phá được nghiệp ác lớn.

    Tâu Đại vương ! Như lời Phật nói che dấu là hữu lậu, chẳng che dấu là vô lậu. Phát lồ sám hối tội lỗi thời là vô lậu. Nếu tạo tội mà chẳng che chẳng dấu thời tội mỏng ít. Nếu có lòng tàm quí thời tội tiêu diệt. Giọt nước dầu nhỏ nhưng lần đầy lu lớn. Cũng vậy, mỗi mỗi tâm lành có thể phá điều ác lớn. Nếu người che dấu tội lỗi thời tội lỗi thêm lớn, còn phát lồ hổ thẹn thời tội lỗi tiêu diệt. Vì thế nên chư Phật nói người có trí chẳng che dấu tội lỗi.

    Lành thay ! Đại Vương có thể tin nhân quả tin nghiệp báo. Xin Đại Vương chớ ôm lòng sầu khổ sợ sệt.

    Nếu có chúng sanh tạo các tội ác rồi che dấu chẳng sám hối, không lòng hổ thẹn, chẳng thấy nhơn quả cùng nghiệp báo, chẳng thể học hỏi nơi người trí, chẳng gần bạn lành, tất cả lương y không thể trị lành bịnh người nầy, như bịnh Ca Ma La, y sĩ trong đời đều khoanh tay. Người tội nầy gọi là nhứt xiển đề chẳng tin nhơn quả, không biết hổ thẹn, chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy hiện tại cùng vị lai, chẳng gần bạn lành, chẳng thuận theo lời dạy của Phật, chư Phật Thế Tôn không thể chữa trị bịnh nầy, như tử thi, y sĩ chẳng chữa được.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  5. #5
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nay Đại vương chẳng phải hạng nhứt xiển đề, sao lại nói rằng không thể cứu lành.

    Như lời Đại vương nói không người nào chữa trị được. Xin Đại vương nên biết rằng : Con vua Tịnh Phan ở thành Ca Tỳ La họ Cù Đàm tên Tất Đạt Đa, tự giác ngộ thành bậc vô thượng chánh giác, thân trang nghiêm đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ mười trí lực, bốn vô sở úy, thấy tất cả, đại từ đại bi thương xót chúng sanh như La Hầu La, tùy thuận chúng sanh như nghé theo trâu mẹ, thuyết pháp đúng thời, lời Phật chơn thiệt, thanh tịnh, vi diệu, đúng nghĩa đúng pháp, duy nhứt, có thể làm cho chúng sanh lìa hẳn phiền não khéo biết căn tánh của chúng sanh, tùy nghi phương tiện không gì chẳng thông đạt. Trí của Phật cao lớn như núi Tu Di, thâm thúy rộng xa như biển cả. Đức Phật có trí kim cang phá tất cả tội ác của chúng sanh. Đức Phật cách đây mười hai do tuần trong rừng Ta La Song Thọ nơi thành Câu Thi Na, đương vì vô lượng vô số Bồ Tát đại chúng mà thuyết pháp. Nếu Đại Vương được nghe Phật dạy về nghĩa vô tác, vô thọ thời bao nhiêu trọng tội sẽ được tiêu trừ.

    Xưa kia Thích Đề Hòan Nhơn lúc sắp chết có năm tướng hiện : Một là áo xiêm nhơ nhớp, hai là hoa trên đầu héo, ba là thân thể hôi dơ, bốn là dưới nách ra mồ hôi, năm là chẳng thích chỗ mình ở. Lúc đó Thiên Đế Thích, hoặc nơi chỗ vắng vẻ thấy Sa Môn, hoặc thấy Bà La Môn, liền đi đến kính ngưỡng như Phật. Các Sa Môn cùng Bà La Môn thấy Thiên Đế Thích đến rất vui mừng nói rằng : Thưa Thiên Chúa ! Nay tôi quy y với ngài.

    Thiên Đế biết chẳng phải Phật, nghĩ rằng : Người đó nếu không phải là Phật thời không thể chửa trị năm tướng suy của ta.

    Thiên tử theo hầu tên Bát Giá Thi tâu cùng Thiên Đế : Vua Càn Thát Bà tên Đôn Phù Lâu có công chúa hiệu là Tu Bạt Đà, Thiên Vương nếu ban công chúa nầy cho hạ thần, hạ thần sẽ chỉ người có thể trừ tướng suy cho Thiên Vương.
    Thiên Đế đáp rằng : Nầy Thiên Tử ! Nếu được như lời khanh vừa tâu, công chúa Xá Chỉ, con gái của vua A Tu La Tỳ Ma Chất Đa hiện ta đương kính ái, nếu khanh muốn ta cũng sẽ ban cho, huống là công chúa Tu Bạt Đà.

    _ Tâu Thiên Vương, hiện tại có đức Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni đương ở thành Vương Xá, Thiên Vương nếu đến cầu pháp nơi Phật thời tướng suy chắc chắn sẽ trừ diệt.


    Thiên Đế liền khiến xa giá đến núi Kỳ Xà Quật. Thiên Đế đầu mặt đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi qua một bên bạch cùng Phật rằng : “Thế Tôn ! trong hàng Thiên Nhơn những gì là trói buộc ?”

    Phật nói : “Nầy Kiều Thi Ca ! Chính là xan tham và tật đố.”

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  6. #6
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20
    __________________________________________________ ______________________________________


    _ Bạch Thế Tôn ! Xan tham tật đố nhơn đâu mà sanh ?

    _ Do vô minh mà sanh.

    _ Bạch Thế Tôn ! Vô minh lại do đâu mà sanh ?

    _ Do phóng dật mà sanh.

    _ Bạch Thế Tôn ! Phóng dật lại do đâu mà sanh ?

    _ Do điên đảo mà sanh.

    _ Bạch Thế Tôn ! Điên đảo lại do đâu mà sanh ?

    _ Do lòng nghi mà sanh.

    _ Bạch Thế Tôn ! Đúng như lời Phật dạy, vì tâm tôi nghi nên sanh điên đảo, đối với người chẳng phải Phật mà tưởng là Phật. Giờ đây tôi được thấy Thế Tôn, lưới nghi của tôi liền trừ. Vì lưới nghi trừ nên điên đảo cũng hết. Vì điên đảo hết nên không có tâm xan tham tâm tật đố.

    Phật nói : “Ông nói rằng không có tâm xan tham tật đố, thời ông đã đặng quả A Na Hàm chăng ? Bậc A Na Hàm không có tâm tham. Nếu không tâm tham sao lại vì mạng sống mà tìm đến ta. Mà bậc A Na Hàm thật chẳng cầu sống.

    _ Bạch Thế Tôn ! Người có điên đảo thời có cầu mạng sống, người không điên đảo thời chẳng cầu mạng sống. Nay tôi thật chẳng cầu mạng sống, tôi chỉ cầu pháp thân cùng trí huệ của Phật.

    _ Nầy Kiều Thi Ca ! Người cầu pháp thân cùng trí huệ của Phật, thời tương lai quyết định sẽ được.


    Nghe lời Phật nói xong năm tướng suy của Thiên Đế liền tiêu diệt.

    Thiên Đế đứng dậy đảnh lễ rồi đi nhiễu Phật ba vòng chắp tay cung kính bạch Phật :

    “Thế Tôn ! Nay tôi sắp chết được sống, sắp mất mạng được mạng, lại được Phật thọ ký sẽ thành vô thượng chánh giác. Bạch Thế Tôn ! Tất cả nhơn thiên thế nào được tăng ích ? Lại do nhơn duyên gì mà phải tổn giảm ?

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  7. #7
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM PHẠM HẠNH THỨ 20
    __________________________________________________ ______________________________________


    _ Nầy Kiều Thi Ca do đấu tránh nên nhơn duyên tổn giảm. Khéo tu hòa kính thời đặng tăng ích.

    _Bạch Thế Tôn! Nếu do đấu tránh mà tổn giảm, từ nay trở đi tôi chẳng cùng A Tu La đánh nhau nữa.

    _ Lành thay ! lành thay ! Nầy Kiều Thi Ca chư Phật Thế Tôn đều nói hạnh nhẫn nhục là nhơn vô thượng Bồ Đề.

    Thích Đề Hoàn Nhơn lễ tạ Phật trở về Thiên cung.

    Tâu Đại Vương vì đức Như Lai có thể trừ những tướng ác , nên gọi Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Đại vương ra mắt Phật chắc chắn sẽ trừ được trọng tội.

    Ngày trước thanh niên dòng Bà La Môn, tên là Bất Hại, vì giết hại nhiều người nên hiệu là Ương Quật Ma La. Thanh niên nầy lại muốn hại mẹ, lúc tâm ác nổi lên cầm gươm tìm mẹ, vì thân tâm ác nên thành nhân tội nghịch, tất phải đọa địa ngục. Lát sau thấy Phật thân tâm khởi ác muốn hại Phật, đây cũng là nhân tội nghịch sẽ đọa địa ngục. Thanh niên nầy được đức Như Lai giáo hoá, tâm ác liền trừ, nghiệp nhân địa ngục tiêu diệt, phát tâm vô thượng Bồ Đề. Vì thế nên đức Phật hiệu là Y Vương vô thượng, chẳng phải như hàng lục sư ngoại đạo kia.
    Tâu Đại Vương lại có Vương Tử Tu Tỳ La, vua cha giận chặt cả tay chân xô xuống giếng sâu. Vương mẫu thấy xót thương sai người đem Vương Tử đến trước Phật. Lúc Vương Tử thấy Phật, tay chân đầy đủ lại như cũ, liền phát tâm vô thượng Bồ Đề. Vì Vương Tử được thấy Phật nên đặng quả báo hiện tại. Do đây nên đức Phật hiệu là Y Vương vô thượng, chẳng phải như hàng lục sư ngoại đạo.

    Tâu Đại vương ngày trước trên bờ sông Hằng có năm trăm ngạ quỷ đã nhiều năm chẳng thấy nước, chẳng được uống, dầu họ đến bên sông nhưng họ thấy thuần là lửa, vì quá đói khát nên họ kêu la than khóc. Lúc đó đức Như Lai ngồi dưới bóng cây ở rừng Uất Đàm Bát cạnh bờ sông. Các Ngạ quỷ đến bạch Phật : “Thế Tốn ! Chúng tôi đói khát sắp chết đến nơi.

    Phật nói : “Sao các người chẳng uống nước sông Hằng ?”

    Các Ngạ quỷ thưa : “Đức Như Lai thấy nước còn chúng tôi thấy là lửa “.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •