DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 663
  1. #1
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 6 _ PHẨM TỨ Y THỨ TÁM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Y theo nghĩa không y theo lời là thế nào ?

    Nầy Ca-Diếp ! Nghĩa là giác-liễu, nghĩa giác-liễu là nghĩa không thiếu sót tức là nghĩa đầy đủ. Nghĩa đầy đủ là Như-Lai. Pháp cùng Tăng đều thường trụ chẳng biến đổi. Đó là y theo nghĩa. Còn những lời gì chẳng nên y theo ? Tức là các bộ luận trau chuốt lời văn. Như Phật từng bảo rằng có rất nhiều thứ Kinh điển tham cầu không biết nhàm, gian dối dua bợ, bày nhiều cách để cầu lợi, làm việc cho kẻ bạch y, lại xướng rằng đức Phật cho phép thầy Tỳ-kheo nuôi tôi trai tớ gái, các vật bất tịnh như vàng bạc châu báu, lúa gạo kho đụn, trâu dê voi ngựa, cùng buôn bán lấy lời. Nơi đời cơ-cẩn Phật vì thương đệ tử nên cho phép Tỳ-kheo chứa đồ ăn cũ, để cách đêm, tự tay nấu nướng, không lãnh thọ mà ăn. Không nên y theo những lời như thế.

    Y theo Trí không y theo Thức là thế nào ?

    Nầy Ca-Diếp ! Trí tức là Như-Lai. Nếu có hàng Thanh-Văn chẳng khéo rõ biết công đức của Như-Lai, đó là “thức” không nên y theo. Nếu rõ biết Như-lai tức là Pháp Thân, đó là Chơn trí nên phải y theo. Nếu thấy thân phương tiện ứng hóa của Như-Lai mà nói là thuộc về ấm-giới nhập, do ăn mà được sống được lớn, sự nhận xét nầy là “thức” cũng chẳng nên y theo. Người cùng Kinh điển nói những điều ấy đều chẳng nên y theo.

    Thế nào là y theo Kinh liễu nghĩa mà không y theo Kinh chẳng liễu nghĩa ?

    Hàng Thanh-Văn nghe đến chỗ Tạng pháp thâm mật của Như-Lai đều nghi ngờ không hiểu pháp ấy từ nơi biển Đại Trí huệ mà có ra. Khác nào những đứa trẻ thơ không hiểu biết xa rộng. Đây gọi là chẳng liễu-nghĩa. Còn bực Bồ-tát có trí huệ chơn thật, theo trí lớn vô ngại nơi tự tâm, như người tuổi tác hiểu biết xa rộng. Đây gọi là liễu-nghĩa. Lại Thanh-Văn thừa là không liễu-nghĩa. Vô thượng Đại-thừa mới gọi là liễu-nghĩa. Nếu nói Như-Lai vô-thường biến đổi thời gọi là chẳng liễu nghĩa. Còn nói Như-Lai thường trụ không biến đổi thời gọi là liễu nghĩa. Lời của hàng Thanh-Văn nên chứng biết, gọi là chẳng liễu-nghĩa. Lời của Bồ-tát nên chứng biết, gọi là liễu-nghĩa. Nếu nói Như-Lai nhờ sự ăn mà sống còn, đó là lời không liễu nghĩa. Nếu nói Như-Lai thường trụ không biến đổi, đây gọi là lời liễu nghĩa. Nếu nói Như-Lai nhập Niết-bàn như củi hết lửa tắt, đó là lời không liễu-nghĩa. Nếu nói Như-Lai nhập pháp tánh, đấy là lời liễu nghĩa.

    Giáo pháp của Thanh-Văn thừa, thời không nên nương tựa vì Như-lai muốn độ chúng sanh nên phương tiện nói ra pháp Thanh-Văn thừa, như ông Trưởng giả đem "bán tự" (nửa chữ) dạy cho con.

    Nầy Ca-Diếp ! Thanh-Văn thừa như mới cày bừa chưa có hột trái, gọi là chẳng liễu-nghĩa vì thế chẳng nên nương theo Thanh-Văn thừa. Phải nương theo pháp đại-thừa. Vì Như-Lai muốn độ chúng sanh mà phương tiện nói pháp đại-thừa, Pháp đại-thừa là liễu-nghĩa, là chỗ nên nương tựa.

    Trên đây là bốn điều nên y theo, cần phải chứng biết.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  2. #2
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 6 _ PHẨM TỨ Y THỨ TÁM
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lại nữa, “nghĩa” đáng y theo gọi là chất trực, chất trực gọi là sáng suốt. Sáng suốt gọi là không kém thiếu. Không kém thiếu gọi là Như-Lai. Sáng suốt lại gọi là trí huệ. Chất trực gọi là thường trụ.

    Như-lai thường trụ gọi là y theo “pháp”, “pháp” ấy gọi là thường trụ, cũng gọi là vô biên, bất tư nghị, chẳng có thể chấp trì, chẳng có thể trói buộc, mà cũng có thể chứng thấy. Nếu kẻ nào nói là không có thể chứng thấy được “pháp”, thời không nên y theo kẻ ấy. Vì thế nên theo “pháp” mà không y theo người.

    Nếu có người dùng lời vi-diệu tuyên nói vô-thường. Không nên y theo những lời nầy. Vì thế nên y theo “nghĩa” mà không y theo “lời”.

    Còn nhận biết chúng Tăng là thường trụ, là vô-vi không biến đổi, chẳng chứa cất tám vật bất tịnh. Đây là "y theo Trí không y theo Thức”.

    Nếu có người nói : Thức làm, thức thọ, không chúng Tăng hòa hiệp. Tại vì sao ? Luận về hòa hiệp gọi là vô sở hữu. Đã vô sở hữu sao gọi là thường trụ. Đây là tình thức không nên y theo.

    Còn liễu-nghĩa gọi là trí túc, trọn không dối hiện oai nghi thanh bạch, không kiêu mạn tự cao tham cầu lợi dưỡng, và đối với trong giáo pháp tùy nghi phương tiện của Như-Lai không sanh lòng chấp trứơc. Nếu vị nào an trụ được trong những điều này, phải biết người ấy đã trụ được nơi đệ nhứt nghĩa. Đây gọi là y theo Kinh liễu-nghĩa.

    Như trong Kinh nói : Tất cả phừng cháy, tất cả đều khổ, tất cả đều không, tất cả vô ngã. Đây gọi là không liễu nghĩa.

    Tại vì sao ? Vì không có thể hiểu rõ nghĩa như vậy, hay làm cho chúng sanh phải đọa A-Tỳ địa ngục. Do vì chấp trước nên không hiểu thấu ý nghĩa. Với câu tất cả phừng cháy, cho rằng Như-Lai nói Niết-bàn cũng cháy. Tất cả vô thường thời Niết-bàn cũng vô thường. Khổ, không, vô-ngã cũng như vậy. Đây gọi là kinh không liễu nghĩa chẳng nên y theo.

    Nầy Ca-Diếp ! Nếu có người nói Như-lai thưong xót chúng sanh khéo biết thời nghi. Vì biết thời nghi nên có lúc Như-Lai nói nhẹ là nặng, hoặc nói nặng là nhẹ. Như-Lai xét biết hàng đệ tử có các nhà thí chủ cung cấp đồ cần dùng không thiếu, nên Phật không cho nhận và chứa tôi tớ, vàng bạc của báu, không cho buôn bán đổi chác những vật bất tịnh. Nếu hàng đệ tử không có thí chủ cung cấp, và thời kỳ mất mùa đói kém, vì muốn hộ trì Chánh pháp, nên Phật cho nhận và chứa tôi tớ vàng bạc xe cộ, ruộng nhà gạo thóc, đổi lấy đồ dùng. Dầu cho nhận cbứa các thứ ấy, nhưng phải tịnh thí cho nhà đàn việt nhiệt thành tin Chánh pháp.

    Bốn pháp trên đây nên y theo. Nếu có các thứ Kinh, luật cùng luận nào chẳng trái bốn pháp trên đây cũng nên y theo.

    Nếu có người bảo : Phải thời nghi hay không phải thời nghi, có thể hộ pháp hay không thể hộ pháp. Như-Lai đều cho tất cả Tỳ-kheo nhận và chứa những vật bất tịnh ấy. Đây là những lời không nên y theo. Nếu có những Kinh, luật, luận nào mà đồng với những thuyết nầy cũng chẳng nên y theo.

    Như-Lai vì người Nhục nhãn mà nói bốn điều nên y theo, không phải nói với các vị có Huệ nhãn.

    Thế nên nay Như-Lai nói bốn điều y chỉ như vậy. “Pháp” chính là pháp tánh. “Nghĩa” chính là Như-Lai thường trụ không biến đổi. “Trí” là rõ biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. “Liễu-nghĩa” là thấu rõ tất cả Kinh điển Đại-thừa.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  3. #3
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 7 _ PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN
    __________________________________________________ ______________________________________


    09. PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN

    (Hán bộ phần đầu quyển thứ bảy)


    Bấy giờ Ca-Diếp Bồ-Tát thưa : “Bạch Thế-tôn ! Có phải cần y-chỉ theo bốn hạng người như trên đã nói chăng ?

    Phật dạy : “Chính thế ! Nầy Ca-Diếp ! Nên phải y-chỉ như Như-Lai đã nói . Sao lại phải y chỉ với bốn bực ấy ? Vì rằng có bốn thứ ma”.

    Ca-Diếp Bồ-Tát thưa: “Bạch Thế-Tôn ! Như lời Phật dạy có bốn thứ ma. Nay con phải làm thế nào để phân biệt là lời của Phật, là lời của Ma. Có những chúng sanh chạy theo hạnh Ma, cũng có nhiều người thuận theo lời Phật dạy. Phải làm thế nào để biết rành hai hạng ấy ?

    Phật dạy : “Nầy Ca-Diếp ! Sau khi Như-Lai vào Niết-bàn bảy trăm năm, ma Ba-Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại Chánh pháp. Ví như thợ săn thân mặc Pháp-y, cũng vậy, Ma-vương Ba-tuần giả hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba-Tắc, Ưu- Bà- Di. Nó cũng hoá làm thân Tư-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La- Hán và hoá làm hình Phật. Ma-Vương đem thân hữu lậu hoá làm thân vô-lậu để làm hư hại Chánh pháp. Thời kỳ Ma-Vương Ba-tuần làm hư hại Chánh pháp, nó sẽ nói rằng xưa kia Bồ-Tát ở cung trời Đâu-Suất chết, rồi sanh nơi cung vua Bạch-Tịnh tại thành Ca-Tỳ-La-Vệ nương sự ái dục hòa hiệp của cha mẹ sanh dục mà có thân. Không bao giờ có người nào sanh trong loài người mà được đại chúng cõi Trời cõi người tôn kính. Và lại nói rằng xưa kia khổ hạnh bố thí những đầu, mắt, tủy, não, bố thí những vợ, con, quốc thành, nên nay đặng thành Phật, vì thế nên được chư Thiên, chư Thần cùng mọi người cung kính. Nếu có Kinh luật nào nói như lời trên đây, phải biết đó là lời của Ma.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  4. #4
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 7 _ PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nầy Ca-Diếp ! Nếu Kinh luật nào nói đức Như-Lai Chánh giác đã thành Phật từ lâu, vì muốn cứu độ chúng sanh nên nay mới thị hiện thành Phật, và vì tùy thuận theo thế gian nên cũng thị hiện có cha mẹ, nhơn nơi ái dục hòa hiệp mà sanh. Phải biết Kinh luật nầy chính thật là của Như-Lai nói.

    Nếu ai tin theo lời ma, thời là quyến thuộc của ma. Bằng người nào có thể tùy thuận Kinh luận của Phật, người đó là Bồ-Tát.

    Nếu có chỗ nào nói không nên tin rằng lúc mới sanh, cả bốn phương Như-Lai đều đi bảy bước. Phải biết đây là lời của Ma. Ai tùy thuận theo lời của ma thời là quyến thuộc của Ma.

    Nếu nói lúc Như-Lai mới ra đời cả bốn phương đều đi bảy bước, đó là Như-Lai phuơng tiện thị hiện. Phải biết đây là Kinh luật của Như-Lai nói. Người nào tùy thuận lời Phật dạy, thời là bực Bồ-tát.

    Nếu có chỗ nói khi Bồ-tát giáng sanh, Phụ-Vương cho người đem đến miếu thờ Trời, tất cả chư Thiên thần, như Đại-Tự-Tại-Thiên, Đại-Phạm-Thiên-Vương, Thiên-Đế-Thích v.v… Thảy đều chắp tay lễ chơn Bồ-Tát. Đây là lời của Phật. Người thuận theo lời nầy là bực Bồ-Tát.

    Nếu gạn rằng : Trời sanh trước, Phật sanh sau, cớ sao chư Thiên lại lễ kính Phật ? Phải biết lời gạn nầy là lời của ma Ba-Tuần. Nếu ai thuận theo lời gạn nầy thời là quyến thuộc của Ma.

    Nếu chỗ nào nói : Lúc làm Thái-tử, vì lòng tham dục, nên Bồ-tát cưới vợ, hưởng thọ khoái lạc nơi chốn thâm cung. Nên biết trên đây là lời của Ma-Vương, người thuận theo đây thời là quyến thuộc của Ma.

    Nếu nói rằng : Từ lâu, Bồ-Tát đã bỏ lìa tâm tham dục, vợ con, cho đến sự vui vi diệu của Tam-thập-tam-Thiên, như bỏ đờm mũi, huống là sự vui ở cõi người. Bồ- Tát cạo bỏ râu tóc, xuất gia hành đạo. Đây là lời Phật nói, là Kinh luật của Phật. Người thuận theo đây thời là Bồ-Tát.

    Nếu có chỗ nói, tại Kỳ-Hoàn tinh xá ở nước Xá-Vệ, vì lòng đại từ thương xót chúng sanh, nên Phật cho các Tỳ-kheo nuôi tôi tớ, voi ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng v.v… Phải biết đây là lời của Ma. Ai thuận theo đây thời là quyến thuộc của Ma.

    Nếu nói rằng, tại nước Xá-Vệ nơi tinh xá Kỳ-Hòan, trước vua Ba-Tư-Nặc và Cổ- Chi-Đức Bà-La-Môn, đức Phật cấm các Tỳ-kheo không được nuôi chứa và làm các điều trên. Người phạm các điều nầy thời không được ở trong hàng Tỳ-kheo, phải huờn tục, như đám cỏ trong ruộng lúa cần phải nhổ bỏ. Đây chính là Kinh luật của Phật. Người thuận theo đây thời là bực Bồ-tát.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  5. #5
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 7 _ PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nếu nói rằng : Thái-Tử Bồ-Tát thị hiện vào miếu thờ Trời, ở trong pháp Ngoại đạo xuất gia tu hành, thị hiện biết tất cả oai nghi lễ tiết, khéo hiểu tất cả văn tự kỹ nghệ, thị hiện làm bực tôn qúy nhất trong các giai cấp của xã hội, dầu vậy, Bồ-Tát chẳng có lòng luyến ái, như hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Vì độ chúng sanh nên Bồ-Tát phương tiện thị hiện thuận theo thế-pháp. Những lời trên đây là của Phật nói, người thuận theo đây là bực Bồ-Tát. Nếu nói trái lại thời là lời của Ma cùng quyến thuộc của Ma.

    Nếu có người cố chấp chín bộ Kinh luật mà không chịu tin Kinh điển Phương đẳng Đại thừa cho rằng không phải của Phật nói, vì trong Kinh luật của họ không có nói đến. Phải biết người nầy có tội, không phải đệ tử của Phật.

    Nếu có người tin Kinh điển Phương đẳng Đại thừa, cho rằng vì độ chúng sanh nên Như-Lai nói Kinh Đại thừa. Người nầy chính thật là đệ tử của Phật.

    Nếu có chỗ nói, Như-Lai không phải là kết quả của vô lượng công đức, là vô thường biến đổi, do chứng pháp Không nên tuyên nói lý vô-ngã, chẳng thuận với thế gian. Đây là lời của Ma, người tin lời nầy thời là quyến thuộc của Ma.

    Nếu nói rằng Như-Lai là bực Đẳng-Chánh-Giác không thể nghĩ bàn, là kết qủa của vô lượng công đức, là thường trụ không biến đổi. Đây là lời Phật nói, ai thuận theo lời nầy thời là bực Bồ-Tát.

    Nếu có Tỳ-kheo thiệt không chỗ được mà dối hiện tướng đã được, cùng nói được các pháp hơn người, thời phạm tội Ba-la-di, mất pháp làm người, như viên đá bể hai không còn liền lại được.

    Nếu có Tỳ-kheo giới đức trong sạch, ít muốn biết đủ, ở nơi vắng vẻ rảnh rang. Vua quan gặp Tỳ-kheo cho là bực A-La-hán, rồi cung kính khen ngợi rằng Đại- sư đây sau khi bỏ thân nầy sẽ chứng quả Vô thượng bồ-đề. Tỳ-kheo nghe được liền cải chính là mình chưa chứng quả Thánh và khuyên vua quan chớ nhận lầm. Nhà vua vẫn cố kính tin và loan truyền cho mọi người cùng tôn trọng cúng dường. Tỳ-kheo nầy thiệt là người giới đức trong sạch nên làm cho mọi người được phước đức lớn. Tỳ-kheo nầy không phạm tội Ba-la-di vì tự mọi người sanh lòng kính tin cúng dường. Nếu nói Tỳ-kheo nầy mắc tội, phải biết đó là lời của Ma.

    Lại có Tỳ-kheo giảng tuyên Giáo-điển Đại-thừa rất sâu của chư Phật rằng : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sẽ dứt trừ vô lượng phiền não bèn thành bực Vô thượng Chánh giác, trừ hạng Nhứt-xiển-đề. Nếu có người hỏi Tỳ-kheo : Nhà thầy có Phật tánh chăng ? Sẽ được làm Phật hay không ? Tỳ-kheo đáp : Chính tôi đây quyết định có Phật tánh, còn thành Phật hay không chưa có thể thẩm định. Người lại nói Đại-Đức không phải hạng Nhứt-xiển-đề, tất được thành Phật không còn nghi ngờ gì. Tỳ-kheo đáp rằng : “ Vâng ! Đúng như lời người đã nói”. Dầu Tỳ-kheo nầy nói quyết định có Phật tánh, mà vẫn không phạm tội.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  6. #6
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 7 _ PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lại có Tỳ-kheo lúc xuất gia tự nghĩ rằng : Nay ta quyết định thành bực Vô thượng Chánh giác. Tỳ-kheo nầy dầu chưa được thành Phật, nhưng đã được vô lượng vô biên phước đức. Vì xưa kia, trong tám mươi ức kiếp, ta giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi, khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật, thuở ấy ta cũng quyết định rằng mình có Phật tánh, nhờ đó nên nay ta được thành Phật, có đức Đại-từ-bi.

    Những điều trên đây là lời Phật nói, nếu ai thuận theo thời là bực Bồ- Tát. Còn ai không chịu thuận theo thời là quyến thuộc của Ma.

    Ma lại sẽ bảo rằng : Không có bốn tội trọng, mười ba tội Tăng tàn, hai tội bất định, ba mươi tội xả-đọa, chín mươi tội đọa, bốn pháp phải sám hối, các pháp phải học, bảy điều diệt tránh, nhẫn đến không có tội thô, tội nghịch, nhứt- xiển-đề. Nếu có Tỳ-kheo phạm các tội đã kể trên đây mà phải đọa Địa ngục thời hàng ngoại đạo lẽ ra đều được sanh lên cõi Trời cả, vì Ngoại đạo không thọ giới, tất không có giới gì mà phạm. Đó là Như-Lai muốn khủng bố người nên nói các điều giới ấy. Dầu Như-Lai có nói phạm tội đột-kiết-la, phải bị đọa vào Địa ngục mãi đến tám trăm muôn năm của cõi trời Đao-Lợi mới mãn tội, đó cũng là việc thị hiện để khủng bố người. Rằng ba-la-di cho đến đột-kiết-la tội nặng tội nhẹ không sai. Đây là các nhà luật sư vọng nói là lời của Phật chế, kỳ thiệt không phải Phật chế như vậy. Tất cả những lời trên đây là điển từ của Ma cả.

    Có chỗ nói rằng : Ở trong các điều giới nếu phạm một giới nhỏ, sẽ bị khổ báo trong thời gian rất lâu. Nhận thức như vậy sẽ giữ gìn tự thân như rùa dấu kín sáu chi.

    Nếu có luật sư nào nói rằng : “Phàm chỗ phạm giới đều không tội báo”.

    Không nên gần gũi luật sư nầy. Như Phật đã từng dạy :

    Nếu nói quá một pháp. Đây gọi là vọng ngữ, Chẳng nhận thấy đời sau. Không ác nào chẳng tạo.

    Do đây, chẳng được thân cận người phủ nhận Nhơn Quả. Trong Chánh pháp của Phật trong sạch như vậy, huống lại có phạm tội du-lan-giá hoặc phạm tăng- tàn và ba-la-di mà chẳng phải là tội ư ! Thế nên rất phải tự giữ gìn những giới pháp như vậy. Nếu không giữ gìn, thời lấy pháp gì mà gọi là cấm giới ?

    Trong các Kinh, Như-Lai cũng nói nếu có phạm bốn tội trọng ba-la-di cho đến phạm tội nhỏ đột-kiết-la, thời phải theo luật mà trị tội. Nếu chúng sanh chẳng hộ trì cấm giới làm sao thấy được Phật tánh.

    Dầu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng phải do nơi trì giới rồi sau mới được thấy. Do thấy Phật tánh mà được thành Vô thượng Chánh giác.

    Trong chín bộ kinh, Không có kinh Đại-thừa Phương đẳng, cho nên không nói có Phật tánh. Dầu không nói, nhưng phải biết là thiệt có Phật tánh.

    Người nào nói những lời như đây, thời thiệt là đệ tử của Như-Lai “.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  7. #7
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 7 _ PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN
    __________________________________________________ ______________________________________


    Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “Bạch Thế Tôn ! Như trên đã nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Trong chín bộ Kinh chưa từng nghe thấy điều nầy. Như nói là có thời sao lại không phạm tội Ba-la-di ?

    Phật dạy : “Nầy Ca-Diếp ! Như lời ông nói đó, thiệt chẳng phạm tội ba-la- di. Như có người nói trong biển cả chỉ có bảy thứ báu, không có tám thứ, Người nầy không có lỗi. Cũng vậy, nếu nói trong chín bộ kinh, không có Phật tánh, vẫn là vô tội vì Như-Lai ở trong biển lớn đại trí, đại thừa nói có Phật tánh. Hàng Nhị Thừa chẳng thấy biết mà nói là không, nên chẳng mắc tội. Cảnh giới nầy là chỗ thấy biết của Phật, chẳng phải hàng Thanh-Văn và Duyên giác biết đến.

    Nầy Ca-Diếp ! Người không được nghe Tạng pháp thậm thâm bí mật của Như-Lai thời làm thế nào biết rằng có Phật tánh . Những gì gọi là tạng pháp thậm thâm bí mật của Như-Lai ? Chính là Kinh điển Đại-thừa Phương đẳng vậy.

    Nầy Ca-Diếp ! Có các nhà ngoại đạo, hoặc nói Ngã là thường còn, hoặc nói Ngã là đoạn diệt.

    Như-Lai không nói như vậy, mà cũng nói là có Ngã và cũng nói là không Ngã. Đây gọi là Trung đạo.

    Nếu có người nói : Đức Phật nói Trung đạo : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì phiền não che ngăn nên không thấy không biết. Vì thế nên phải siêng năng tu tập để dứt trừ phiền não.

    Ai nói được những lời trên đây thời chẳng phạm bốn tội trọng. Nếu không nói được như đây thời gọi là phạm tội ba-la-di.

    Nếu có người nói : “Tôi đã thành Phật, vì tôi có Phật tánh”. Người nói lời nầy phạm tội ba-la-di. Vì dầu có Phật tánh. Nhưng chưa tu tập các pháp lành nên chưa được thấy, vì chưa thấy Phật tánh nên chẳng được thành Phật.

    Nầy Ca-Diếp ! Do những nghĩa nầy nên Phật pháp rất sâu chẳng thể nghĩ bàn”.


    Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “Bạch Thế-tôn ! Có Quốc vương hỏi thế nào là Tỳ-kheo mắc phải tội Đại-Vọng-Ngữ ?”

    Phật dạy : “Nầy Ca-Diếp ! Nếu có Tỳ-kheo vì cầu lợi, vì việc uống ăn, rồi làm những cách dua nịnh gian ngụy khi trá, thế nào cho người đời tưởng thật ta là bực khất sĩ, để ta được danh to lợi lớn. Tỳ-kheo nầy nhiều ngu si, tự biết rằng chính mình chưa chứng đặng bốn quả Thánh, trong lòng luôn suy nghĩ phải làm thế nào cho người đời, các Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di đều nói rằng ta đã chứng quả, là bực phước đức lớn, thiệt là thánh nhơn, Tỳ-kheo suy nghĩ cầu lợi chẳng phải cầu pháp, ta phải đi đứng đoan nghiêm, chấp trì y-bát, giữ đúng oai nghi, ở riêng nơi yên vắng như A-La-Hán. Làm cho người đời đều bảo rằng : Tỳ- kheo như thế là bực lành bực tốt nhất, ngài tinh cần khổ hạnh tu pháp tịch diệt. Như thế ta sẽ có đệ tử đông, cũng sẽ được người cúng dường trọng hậu, khiến hàng phụ nữ cung kính mến tưởng.

    Nếu có Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào làm những sự như vậy thì mắc phải tội Đại Vọng Ngữ.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  8. #8
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Quyển 7 _ PHẨM TÀ CHÁNH THỨ CHÍN
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lại như có Tỳ-kheo vì muốn kiến lập Chánh pháp Vô thượng nên ở nơi yên vắng, tự chẳng phải A-la-Hán mà muốn làm cho mọi người tin tưởng gọi là A-La- Hán, là Tỳ-kheo tốt, Tỳ-kheo lành, Tỳ-kheo tịch-tịnh, được nhiều người xuất gia theo làm quyến thuộc. Nhơn đó khuyên dạy các Tỳ-kheo và Ưu-Bà-tắc phá giới, đều khiến trì giới. Do đây mà Chánh pháp được kiến lập, làm rạng rỡ pháp Vô thượng của Như-Lai, khai hiển Phương đẳng Đại-thừa, độ thoát vô lượng chúng sanh, khéo hiểu những nghĩa khinh trọng trong Kinh luật mà Như-lai đã nói. Tỳ-kheo nầy lại nói : Nay ta cũng có Phật tánh. Có Kinh điển gọi là tạng bí-mật của Như- lai. Nơi trong Kinh nầy, ta sẽ quyết định đặng thành Phật đạo, có thể dứt sạch vô lượng ức phiền não kiết sử. Vì vô lượng Ưu-Bà-Tắc mà nói rằng : Các ông đều có Phật tánh, ta cùng các ông đều sẽ an trụ nơi cấp bực của Như-lai mà thành Vô thượng Chánh giác, đứt sạch vô lượng phiền não kiết sử. Tỳ-kheo nói những lời trên đây không gọi là người phạm Đại Vọng Ngữ mà gọi là bực Bồ- Tát.

    Như nói : Người phạm tội đột-kiết-la phải bị đọa trong Địa ngục chịu tội đến tám trăm muôn năm tính theo năm tháng ở cõi Trời Đao-Lợi, huống là cố phạm tội du-lan-giá.

    Trong Đại-thừa đây, nếu có Tỳ-kheo phạm tội du-lan-giá thời không nên thân cận.

    Những gì gọi là tội du-lan-giá trong Kinh Đại-thừa ?

    Nếu có đàn-tín tạo lập chùa Phật, đem các tràng hoa dùng cúng dường Phật. Có Tỳ-kheo thấy chỉ trong xâu hoa, không hỏi xin mà lấy thời phạm tội du-lan-giá. Hoặc biết hay chẳng biết cũng đều phạm như vậy. Nếu vì tâm tham mà phá hoại tháp Phật thời phạm tội du-lan-giá. Không nên thân cận những người như vậy.

    Nếu đàn-tín thấy tháp Phật hư, vì muốn tu bổ cúng dường Xá lợi, nơi trong tháp nầy hoặc được châu báu bèn đem gởi Tỳ-kheo. Tỳ-kheo lãnh rồi bèn tự ý thọ dụng. Tỳ-kheo nầy gọi là hạng bất tịnh, sanh nhiều sự đấu tránh. Các Ưu-Bà-Tắc tốt không nên gần gũi cúng dường. Tỳ-kheo như vậy gọi là vô căn, gọi là hai căn, gọi là bất định căn.

    Người bất định căn lúc tham muốn làm gái, thân liền biến làm gái, lúc tham muốn làm trai thân liền biến làm trai.

    Tỳ-kheo như vậy gọi là ác-căn, không gọi là nam, không gọi là nữ, không gọi là tại gia, không gọi là xuất gia. Với Tỳ-kheo nầy, không nên thân cận cung kính cúng dường.

    Trong Phật pháp, về pháp tắc của hàng Sa-Môn, phải sanh lòng từ bi lợi ích chúng sanh, cho đến loài trùng kiến cũng phải ban sự vô úy, đây là pháp của Sa- Môn. Xa lìa uống rượu cho đến ngữi mùi đây là pháp của Sa-Môn. Chẳng được vọng ngữ cho đến trong giấc mộng cũng không nghĩ đến sự vọng ngữ, đây là pháp của Sa-Môn. Chẳng sanh lòng dục cho đến trong giấc mộng cũng không nghĩ đến lòng dục, đây là pháp của Sa-Môn.


    Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “Bạch Thế-Tôn ! Nếu Tỳ-kheo ngủ chiêm bao hành dâm dục, có phạm giới chăng ?”

    Phật dạy : “Không phạm giới. Ở nơi sự dâm dục, phải sanh ý nghĩ là hôi nhơ, cho đến không có một niệm tưởng là sạch tốt. Tránh sự nghĩ tưởng ái nhiễm hàng phụ nữ. Nếu chiêm bao hành dâm, lúc thức dậy phải hổ thẹn ăn năn,. Nếu móng lòng dâm dục phải kíp trừ bỏ. Tỳ-kheo đi khất thực, lúc nhận cúng dường, phải có ý tưởng như ăn thịt con đẻ trong thời kỳ đói kém. Pháp môn trên đây là Kinh luật của Phật nói, Người thuận theo đây thời là bực Bồ-tát.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •