Kinh Đại Bát Niết Bàn Quyển 1 _ PHẨM TỰ THỨ NHẤT
__________________________________________________ ______________________________________
Các cõi Phật ở Nam-phương, Tây-phương, Bắc-phương, cũng có vô lượng Vô-Biên-Thân Bồ-Tát và vô lượng đại Bồ-Tát ở mười phương đều đến rừng Ta-La. Bốn bộ chúng ở Diêm-Phù- Đề (15) hội về đông đủ, trừ Ma-Ha-Ca-Diếp, A-Nan-đà, vua A-Xà-Thế và quyến thuộc của vua nầy. Thần Đà- Na-Bà, A-Tu-La nhẫn đến mười sáu loài ác độc, rắn, rít, bò cạp, bọ hung v.v… đều bỏ ác niệm mà sanh lòng nhân từ xem nhau như cha mẹ, chị em. Tất cả chúng sanh trong cõi Đại- thiên sanh lòng nhân từ đối với nhau cũng như thế, trừ hạng Nhứt-xiển-đề.
Hôm ấy, cả Đại thiên thế giới do thần lực của Phật, biến thành trang nghiêm đẹp sáng như cõi Cực lạc của Đức Vô-Lượng-Thọ Phật ở phương Tây (16). Đại-chúng trong pháp-hội Ta-La đều thấy rõ các thế giới của chư Phật ở mười phương, như thấy mình trong gương sáng.
Lúc ấy ánh sáng năm màu từ mặt Phật phóng ra bao trùm đại hội rồi thâu vào miệng Phật. Cả chúng hội Trời, Người, A-tu-la v.v… thấy ánh sáng thâu vào miệng Phật, thời cả kinh mà nói rằng : “Đức Phật phóng ánh sáng rồi thâu vào nơi miệng, chắc có duyên cớ. Hay chính là tướng sắp nhập Niết-Bàn khổ thay ! Khổ thay ! Sao Đức Thế-Tôn lại rời bỏ bốn tâm vô-lượng, chẳng nhận sự cúng dường của Trời, của người. Mặt trời Thánh-huệ từ nay sắp tắt hẳn, thuyền pháp vô-thượng từ nay sắp chìm mất. Thế gian rất khổ. Than ôi ! Đau lòng lắm thay ! Than xong, đại chúng nhào lăn kêu khóc, nước mắt hòa máu rơi đầy nơi đất".
---------------
THÍCH NGHĨA:
(1 ) Rừng cây Ta-La, cũng đọc là Sa-La, vì chỗ Phật ngự, bốn phía có tán cây Ta-La chia làm bốn cặp nên gọi là Ta-La Song-Thọ Câu-Thi-Na.
(2) HỮU ĐẢNH gọi đủ là “Tam hữu chi đảnh” – Cõi trời cao nhất trong tam giới, tức là sắc Cứu-Cánh-Thiên.
(3) CÕI ĐẠI-THIÊN, nói đủ là Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới : Một Thái-dương-hệ gọi là một tiểu thế-giới, gồm một từng trời Sơ Thiền và một cõi Dục.
Một ngàn tiểu thế giới hiệp lại cùng một từng trời Nhị-Thiền, gọi là một Tiểu-Thiên Thế- giới ( 1 T H. G x 1000 = 1 Tiểu Thiên )
Một ngàn Tiểu Thiên hiệp lại cùng một từng trời Tam-Thiền. Gọi là một Trung-Thiên Thế- Giới ( 1 T. TH. G. x 1000 = 1 T. TH x 1000 = 1 Trung Thiên )
Một ngàn Trung-Thiên hiệp lại gồm một từng trời Tứ-Thiền, gọi là một Đại-Thiên Thế-Giới ( 1 T. TH. G x 1000 = 1 TH x 1000 = 1 TR. TH x 1000 = 1 Đại-Thiên)
Từ một Thái-dương-hệ hay một Tiểu Thế-giới phải ba lần nhơn ngàn chồng lên mới thành một Đại-Thiên Thế-Giới, tức là 1.000.000.000 Tiểu thế giới cùng 1.000.000 trời Nhị-Thiền, 1.000 Trời Tam-Thiền và một từng Trời Tứ-Thiền, nên cũng có chỗ gọi Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới.
(4) -Trong toàn cõi Đại-Thiên có vô số loài hữu tình chúng sanh. Đại khái chia làm 6 : Trời, Người, A-Tu-La, Qủy, Súc sanh, và Địa ngục. Có chỗ thêm Tiên thành bảy loài. Có chỗ lược A-Tu- La thành năm loài gọi là “ Ngũ-Thú”.
(5) - TỲ-KHƯU có ba nghĩa : Khất-sĩ, Phá ác và Bố-ma.
Có ba trường hợp thành Tỳ-Kheo :
I – Người chứng Thánh quả vô-lậu gọi là Pháp tánh Tỳ-kheo.
II- Được Phật hiện diện, gọi là Thiện-Lai Tỳ-kheo, thời thành Tỳ-kheo.
III-Chư Tăng hòa hợp đúng pháp bạch tứ yết-ma trao giới Tỳ-kheo, đây gọi là Tác-pháp Tỳ-kheo.
(6) - TỨ VÔ-LƯỢNG-TÂM : Từ, Bi, Hỉ, Xả. Vận dụng bốn tâm trên đây bủa khắp vô-lượng chúng sanh trong vô lượng thế giới, nên gọi là bốn tâm vô lượng.
(7)- BỒ TÁT : Nói đủ là Bồ-Đề-Tát-Đỏa có nghĩa là Hữu-tình đã Giác ngộ và giác ngộ các hữu tình khác. Bắt đầu từ khi mới phát tâm Bồ đề vô thượng : “ nguyện thành Phật độ muôn loài “, tu lục độ vạn hạnh, phá hai chướng, chứng Pháp thân. Tất cả có 57 bực Bồ-Tát : những bực Thập Địa đã chứng Pháp thân gọi là Đại-Bồ-Tát (Bồ-Tát Ma-Ha-Tát)
(8)- TAM BẢO : Ba ngôi báu quý nhứt ở thế gian : Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo.
(9)- Ưu-Bà-Tắc ; Cận-sự-nam. ƯU-BÀ-DI : Cận-sự-nữ. Hai phái tại gia thường gần gũi hộ trì Tam-Bão. Bắt đầu qui-y Tam-Bảo thời được danh hiệu nầy.
(10)-NGŨ-GIỚI : năm điều giới của hàng tại gia : không được sát sanh, không được trộm cắp, không được tà dâm, không được vọng ngữ, không được uống rượu say.
(11)- TRÀ-TỲ : Lễ thiêu thi hài lấy tro để thờ.
12)- THẤT-BẢO : vàng, bạc, lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mã não, ngọc san hô, ngọc hổ phách, trân châu.
(13)- A-TĂNG-KỲ : vô số HẰNG-HÀ-SA : Sông Hằng (Gange).là con sông to, nguồn từ Hy-Mã- Lạp-Sơn (Himalaya) chảy qua trung châu Ấn-Độ đổ ra Ấn-Độ-Dương. Bờ sông và đáy sông này có nhiều cát mịn. Khi thuyết pháp, Phật thường dùng số hột cát của sông Hằng để thay một số lớn.
VI-TRẦN : Bụi nhỏ. Số nhiều như bụi nhỏ không thể tính đếm đươc.
THẾ-GIỚI : Mỗi thế-giới là cả một Đại-Thiên, phạm vi giáo hóa của một Đức Phật.
(14)-TÒA SƯ-TỬ : Chỗ ngồi chạm hình sư tử tiêu biểu oai đức tự tại đối với đại chúng, như sư tử oai khiếp quần thú.
(15) DIÊM-PHÙ-ĐỀ cũng gọi là Nam Thiệm-Bộ-Châu, tức là quả địa cầu nầy.
(16) A-Di-Đà PHẬT, Phạm-âm, Tàu dịch là Vô-Lượng-Thọ Phật, hoặc Vô- Lượng-Quang Phật, giáo chủ cõi Cực-Lạc, cũng gọi cõi An-Lạc cõi An-Dưỡng. Cõi nầy cách cõi Ta-Bà đây mười muôn ức cõi về phương Tây.