DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 64/67 ĐầuĐầu ... 14546263646566 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 631 tới 640 của 663
  1. #631
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hàng Bồ Tát nầy lo gì chẳng thọ trì được Kinh Đại Niết Bàn nầy, cớ gì Đức Như Lai lại hỏi Kiều Trần Như: A Nan ở đâu ?

    Đức Thế Tôn bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : Lóng nghe ! Lóng nghe ! Nầy Thiện Nam Tử ! Ngày trước ta thành Phật đã trải qua ba mươi năm, lúc ở thành Vương Xá, ta có bảo các Tỳ Kheo rằng nay trong đại chúng nầy ai có thể vì ta mà thọ trì mười hai bộ Kinh, và cung cấp hầu hạ cho ta, cũng khiến nơi mình chẳng mất lợi lành. Lúc đó Kiều Trần Như đến bạch với ta để lãnh. Ta bảo Kiều Trần Như đã già yếu cần phải có người hầu hạ, sao lại muốn hầu hạ ta. Lúc đó Xá Lợi Phất cũng đến lãnh, ta cũng bảo Xá Lợi Phật như đã bảo Kiều Trần Như. Lần lượt đến năm trăm vị A La Hán, ta đều chẳng nhận làm thị giả.

    Lúc đó Đại Mục Kiền Liên liền nhập Chánh định quán sát biết ý của Phật muốn A Nan làm thị giả liền xuất định nói với Kiều Trần Như.

    Lúc đó Kiều Trần Như cùng năm trăm A La Hán đến nói với A Nan rằng : “Nầy A Nan ! Nay ông nên làm thị giả cho Đức Như Lai, nên đến thưa với Đức Như Lai để nhận lấy việc ấy.

    A Nan nói : “Thưa chư Đại Đức ! Thiệt tôi chẳng kham hầu hạ Như Lai. Vì Đức Như Lai tôn trọng như Sư Tử Vương, như rồng, như lửa, tôi thời yếu đuối nhơ nhớp đâu có thể kham được.

    Các A La Hán khuyên bảo A Nan đến lần thứ ba, A Nan vẫn từ chối.

    Đại Mục Kiền Liên nói rằng : Nầy A Nan, nay ông chưa rõ biết duyên cớ.

    An Nan thưa : Bạch Đại Đức xin nói cho.

    Đại Mục Kiền Liên nói : Vừa rồi, đức Như Lai cầu thị giả, năm trăm A La Hán đều xin lãnh mà Đức Như Lai chẳng bằng lòng. Tôi nhập định thấy ý của Như Lai muốn cho ông làm. Sao ông trở lại chẳng chịu.

    A Nan nghe xong liền quỳ chắp tay thưa rằng : Bạch Chư Đại Đức ! Nếu có việc như vậy, Đức Thế Tôn cho tôi ba điều nguyện, tôi sẽ tuân mạng lịnh chư Tăng mà làm thị giả :
    Một là giả sử Đức Như Lai đem y cũ ban cho tôi, xin cho phép tôi chẳng nhận. Hai là giả sử Đức Như Lai thọ biệt thỉnh của đàn việt, xin cho phép tôi chẳng đi theo. Ba là xin cho phép tôi ra vào không luận là giờ khắc nào. Nếu Đức Thế Tôn bằng lòng ba điều nguyện nầy, thời tôi xin tuân mạng lịnh chư Tăng mà làm thị giả cho Như Lai.


    Kiều Trần Như cùng năm trăm A La Hán đem việc trên mà bạch lại với Phật.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  2. #632
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Đức Phật Thế Tôn khen ngợi A Nan rằng : “Lành thay ! Lành thay ! A Nan Tỳ Kheo có đủ trí huệ dự thấy mà tránh trước sự cơ hiềm. Vì sẽ có người cho rằng vì y thực mà A Nan hầu hạ Đức Như Lai, nên A Nan xin phép chẳng lãnh y cũ và chẳng theo Phật thọ biệt thỉnh. Lại A Nan có đủ trí huệ, biết rằng nếu ra vào có giờ thời không thể làm lợi ích rộng cho bốn bộ chúng, nên A Nan xin phép ra vào không luận giờ nào.

    Ta bằng lòng cho phép A Nan ba điều như A Nan đã xin.


    Đại Mục Kiền Liên trở lại bảo A Nan rằng : “Chúng tôi đã đem lời ông yêu cầu bạch lên Đức Như Lai. Đấng Đại Từ đã bằng lòng.

    A Nan thưa : “Bạch Đại Đức ! Nếu Như Lai đã bằng lòng , tôi xin qua làm thị giả.

    Phật bảo Văn Thù Sư Lợi : “Hơn hai mươi năm nay, A Nan hầu hạ ta có đủ tám điều chẳng thể nghĩ bàn :

    Một là hơn hai mươi năm, A Nan không bao giờ theo ta thọ biệt thỉnh. Hai là không bao giờ lãnh lấy y cũ của ta. Ba là không bao giờ đến ta mà phi thời. Bốn là dầu còn đủ phiền não nhưng khi theo ta vào cung vua, đến nhà sang giàu, thấy các người nữ, Thiên nữ, Long nữ, A Nan không bao giờ có dục tâm. Năm là mười hai bộ Kinh của ta nói ra, nghe qua một lần A Nan đều nhớ rõ chẳng cần hỏi lại, như nước trong bình nầy rót qua bình kia, chỉ trừ một lần hỏi : Thuở Lưu Ly Thái Tử giết hại họ Thích Ca, phá thành Ca Tỳ La, A Nan buồn khổ khóc lóc đến bạch với ta rằng tôi cùng Như Lai đồng sanh trưởng trong thành nầy, đồng một họ Thích, tại sao dung nhan của Như Lai như thường, mà tôi thời tiều tụy. Ta đáp A Nan rằng vì ta tu Không Định nên chẳng đồng như ông.

    Ba năm sau, A Nan trở lại hỏi ta rằng : Bạch Thế Tôn ! Tôi qua thành Ca Tỳ La kia từng nghe Đức Như Lai tu Không Tam Muội, việc đó là hư hay thật ? Ta bảo A Nan đúng như vậy. Sáu là từ khi hầu hạ ta đến nay, dầu chưa được Tha tâm trí, mà A Nan thường biết những Chánh định của Như Lai nhập. Bảy là từ khi hầu ta đến nay, dầu chưa được nguyện trí, mà A nan có thể biết rõ người nầy đến chỗ Như Lai hiện tại có thể được bốn quả Sa Môn, người nầy ngày sau sẽ được, người nầy sẽ được thân Trời hay thân người. Tám là từ khi hầu ta đến nay, những lời bí mật của Như Lai, A Nan đều biết được cả.

    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! A Nan Tỳ Kheo có đủ tám điều bất tư nghì như vậy nên ta gọi A Nan là Đa văn tạng.

    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! A Nan lại có đủ tám pháp nên có thể thọ trì hoàn toàn mười hai bộ Kinh : Một là tín căn kiên cố, hai là tâm ý chất trực, ba là thân không bịnh, bốn là thường tinh tấn, năm là có đủ niệm tâm, sáu là không kiêu mạn, bảy là thành tựu định ý, tám là có đủ trí huệ do nghe pháp mà sanh.

    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thị giả của Phật Tỳ Bà Thi tên là A Thúc Ca cũng có đủ tám pháp như vậy. Thị giả của Phật Thi Khí tên là Sai Ma Ca La, thị giả của Phật Tỳ Xá Phù tên là Ưu Ba Phiến Đà, thị giả của Phật Câu Lưu Tôn tên là Bạt Đề, thị giả của Phật Câu Na Hàm Mâu Ni tên là Tô Đàn. Thị giả của Phật Ca Diếp tên là Diệp Đà Mật Đa, đều cũng có đủ tám pháp như vậy. Nay A Nan thị giả của ta cũng có đủ tám pháp ấy, nên ta gọi A Nan là Đa văn tạng.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  3. #633
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Trong đại chúng nầy dầu có vô lượng vô biên Bồ Tát, nhưng các Bồ Tát nầy đều có trọng nhiệm là đại Từ đại Bi, đều có công vụ gấp rút : Điều phục quyến thuộc và trang nghiêm tự thân. Do đây nên sau khi ta nhập Niết Bàn, những vị nầy không thể tuyên thông mười hai bộ Kinh. Nếu có Bồ Tát hoặc có lúc tuyên thuyết mà người chẳng tin thọ.

    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! A Nan Tỳ Kheo là em của ta, hầu hạ ta hơn hai mươi năm, những pháp được nghe đều thọ trì đầy đủ như nước rót vào một cái bình. Nên nay ta cố hỏi A Nan ở đâu, muốn khiến A Nan thọ trì Kinh Đại Niết Bàn nầy.

    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Sau khi ta nhập Niết Bàn, những pháp mà A Nan được nghe, ông ấy tự có thể tuyên thông, những pháp A nan chưa được nghe thời Hoằng Quảng Bồ Tát có thể lưu bố.

    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nay A Nan ở cách ngoài đại hội nầy mười hai do tuần, đương bị sáu muôn bốn ngàn ức Thiên Ma não loạn, ông nên qua đó nói lớn rằng : Tất cả loài Ma nên lóng nghe ! Nay Đức Như Lai nói Đại Đà La Ni, tất cả Thiên Long Bát Bộ cùng chư vị Thần kỳ đều cung kính thọ trì Đà La Ni nầy. Mười Hằng hà sa chư Phật cũng đồng tuyên nói Đà La Ni nầy. Đà La Ni nầy có thể chuyển thân nữ, tự biết túc mạng. Nếu thọ trì năm điều : Phạm hạnh, đoạn nhục, đoạn tửu, đoạn tâm, thích ở vắng lặng, rồi chí tâm, tín thọ, đọc tụng, biên chép Đà La Ni nầy, người nầy sẽ được vượt khỏi bảy mươi bảy ức thân tệ ác.


    Liền đó đức Thế Tôn nói thần chú :

    _ A Ma Lệ, Tỳ Ma Lệ, Niết Ma Lệ, Mông Già Lệ, Hê Ma La Nhã Kiệt Bệ, Tam Mạn Na Bạt Đề Lệ, Ta Bà La Đà Ta Đàn Ni, Ba La Ma Tha Ta Đàn Ni, Ma Na Tư, A Chuyết Đề, Tỳ La Kỳ, Am Ma Lại, Đàn Bà Táp Ma, Tá Lệ Phú La Nê, Phú La Na, Ma Nô Lại Đệ.

    Lúc đó Văn Thù Sư Lợi lãnh Đà La Ni nầy đến chỗ A Nan y theo lời Phật to tiếng bảo chúng Ma.

    Ma Vương nghe Đà La Ni nầy rồi liền phát tâm Vô thượng Bồ Đề, bỏ nghiệp Ma và thả A Nan.

    Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng A Nan đồng đến chỗ Phật, A Nan thấy Phật chí tâm kỉnh lễ.

    Phật bảo A Nan: ngoài rừng Ta La nầy có một Phạm Chí tên Tu Bạt Đà La đã một trăm hai mươi tuổi, ông ấy dầu được Ngũ thông mà chưa bỏ kiêu mạn, được Phi phi tưởng định cho là Nhứt thiết trí đã được Niết Bàn. Ông nên đến nói với Tu Bạt Đà La rằng : Đức Như Lai ra đời như hoa Ưu Đàm. Giưã đêm nay đức Như Lai sẽ nhập Niết Bàn. Nếu có chỗ phải làm nên làm kịp thời, chớ để ngày sau sanh lòng hối hận.

    Ông nói, Tu Bạt Đà La chắc sẽ tin thọ. Vì ông thuở quá khứ đã từng năm trăm đời làm con trai của Tu Bạt Đà La. Lòng yêu thương của ông ấy vẫn còn, nên có thể tin thọ lời của ông.


    A Nan tuân lời Phật đến nói với Tu Bạt Đà La.

    Tu Bạt Đà La bảo rằng: Lành thay ! Thưa ngài A Nan ! Nay tôi sẽ đến chỗ Như Lai.

    A Nan cùng Tu Bạt Đà La trở về ra mắt Phật.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  4. #634
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thăm hỏi xong , Tu Bạt Đà La nói : Thưa Cù Đàm ! Nay tôi muốn hỏi xin ngài đáp cho.

    Phật liền hứa khả.

    Tu Bạt Đà La nói : Thưa Cù Đàm ! Có các nhà Sa Môn, Bà La Môn nói rằng tất cả chúng sanh thọ báo khổ vui đều theo nơi nghiệp đã tạo ra ngày trước. Do đây nếu có người trì giới tinh tấn, thân tâm chịu khổ thời phá hoại được nghiệp đời trước. Nghiệp cũ đã hết thời quả khổ cũng dứt hết, khổ đã dứt thời chứng được Niết Bàn. Nghĩa trên đây là thế nào ?

    _ Nầy Thiện Nam Tử ! Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn nói như vậy, ta sẽ vì xót thương mà thường đến chỗ người ấy để hỏi rằng : Quả thiệt ngài có nói như vậy chăng ? Nếu họ đáp là có và họ bảo rằng vì họ thấy cbúng sanh làm điều ác mà giàu sang tự tại, lại thấy người làm lành mà nghèo hèn mất tự do, lại thấy có người ra công ra sức nhiều mà không có của, thấy kẻ ở không tự nhiên có của, có người từ tâm chẳng sát sanh mà chết yểu, có kẻ ưa sát sanh lại sống lâu, có người tinh tấn trì giới phạm hạnh thanh tịnh hoặc được giải thoát hoặc chẳng được, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh thọ báo khổ vui đều do nghiệp nhơn ngày trước.

    Nầy Tu Bạt Đà La ! Ta sẽ hỏi họ các ngài có thiệt thấy nghiệp quá khứ chăng ? nếu có, nghiệp ấy nhiều hay ít ? Khổ hạnh hiện tại phá được nhiều ít ? Các ngài biết được nghiệp nầy đã hết hay chẳng hết chăng? Nghiệp nầy đã hết là hết tất cả chăng ? _ Nếu họ đáp là họ thiệt chẳng biết, thời ta sẽ vì họ mà dẫn ví dụ : Như có người thân bị tên độc, gia quyến rước y sĩ đến để nhổ mũi tên độc, lấy độc xong, người đó được lành mạnh. Sau đó mười năm, người nầy còn nhớ rõ rằng : Y sĩ đó nhổ tên độc cho tôi rồi dùng thuốc thoa đắp khiến tôi được lành mạnh an vui.

    Các ngài đã chẳng biết nghiệp nhơn quá khứ làm sao biết được khổ hạnh hiện tại quyết định phá được nghiệp quá khứ ?

    Nếu họ nói rằng : Nay Cù Đàm cũng có nghiệp quá khứ, cớ sao lại riêng trách nghiệp quá khứ của chúng tôi ? Trong Kinh của Cù Đàm cũng nói rằng : Nếu thấy người giàu sang tự tại, thời nên biết người nầy đời trước ưa bố thí. Như vậy chẳng phải gọi là nghiệp quá khứ ư ?

    Ta bảo họ rằng : Nầy các ngài ! Biết như vậy gọi là tỉ tri, chẳng gọi là chơn tri. Trong Phật pháp hoặc có do nhơn mà biết quả, hoặc có do quả mà biết nhơn. Trong Phật pháp có nghiệp quá khứ có nghiệp hiện tại. Các ngài thời chẳng như vậy, chỉ có nghiệp quá khứ mà không biết nghiệp hiện tại.

    Phật pháp của ta do nơi phương tiện mà dứt nghiệp, giáo pháp của các ngài thời chẳng từ nơi phương tiện mà dứt nghiệp.

    Giáo pháp của các ngài cho rằng nghiệp đã hết thời khổ hết, Phật pháp của ta thời phiền não đã hết nghiệp và khổ cũng hết. Do đây nên ta trách nghiệp quá khứ của các ngài.

    Nếu họ nói rằng : Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi thiệt chẳng biết, đó là lời của thầy chúng tôi, không phải lỗi của chúng tôi.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  5. #635
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Ta sẽ bảo họ rằng thầy của các ngài là ai ? Nếu họ đáp là Phú Lan Na. Thời ta lại bảo họ rằng : Trước kia sao các ngài chẳng thưa hỏi cho rõ ràng coi thầy của các ngài có thiệt biết nghiệp quá khứ không ? Nếu Thầy của các ngài bảo là chẳng biết, tại sao các ngài lại nhận lấy lời ấy. Nếu thầy của các ngài bảo là biết thời nên hỏi rằng : Hạ khổ làm nhơn duyên có thọ trung và thượng khổ chăng ? Trung khổ làm nhơn duyên có thọ hạ và thượng khổ chăng ? Thượng khổ làm nhơn duyên có thọ hạ và trung khổ chăng ? Nếu đáp là không thời nên lại hỏi : Sao nhà thầy nói báo khổ vui chỉ do nghiệp quá khứ mà chẳng phải nghiệp hiện tại ?

    Lại nên hỏi : Khổ hiện tại, quá khứ có chăng ? Nếu quá khứ có khổ thời nghiệp quá khứ đều đã dứt hết, nếu đã đều dứt hết sao lại còn thọ lấy thân ngày nay ? Nếu quá khứ không khổ chỉ có nơi hiện tại, tại sao lại nói chúng sanh khổ vui đều do nghiệp quá khứ ?

    Nầy các ngài ! Nếu cho rằng khổ hạnh hiện tại có thể phá hoại nghiệp quá khứ, lại lấy gì để phá khổ hạnh hiện tại ? Nếu như chẳng phá thời khổ là thường, nếu khổ là thường sao lại nói rằng được giải thoát khổ ? Nếu lại có hạnh nhiệp phá hoại khổ hạnh, thời quá khứ đã hết tại sao có khổ ?

    Nầy các ngài ! Khổ hạnh như vậy có thể làm cho nghiệp vui thọ lấy quả khổ chăng ? Có thể làm cho nghiệp khổ thọ lấy quả vui chăng ? Có thể làm cho nghiệp không khổ không vui chẳng thọ quả chăng ? Có thể làm cho báo hiện tại thành báo đời kế chăng ? Có thể làm cho báo đời kế thành báo hiện tại chăng ? Có thể làm cho hai báo nầy thành không quả báo chăng ? Có thể làm cho định báo thành không quả báo chăng ? Có thể làm cho không quả báo thành định báo chăng ?

    Nếu họ trả lời rằng không thể được, ta sẽ bảo rằng : Nầy các ngài ! Nếu như không thể được, duyên cớ gì các ngài lại thọ khổ hạnh nầy ?

    Các ngài nên biết rằng quyết định có nghiệp quá khứ và nhơn duyên hiện tại. Do đây nên tôi nói nhơn nơi phiền não mà sanh ra nghiệp, nhơn nơi nghiệp mà thọ quả báo.

    Các ngài nên biết rằng tất cả chúng sanh có nghiệp quá khứ và có nhơn hiện tại. Dầu chúng sanh có nghiệp sống lâu quá khứ, nhưng phải nhờ nhơn duyên ăn uống hiện tại. Nếu nói chúng sanh thọ khổ thọ vui quyết định chỉ do nơi nghiệp quá khứ thời không phải. Vì như có người trừ được kẻ thù cho nhà vua, do đây mà được vua ban cho nhiều của báu, do có nhiều tiền của mà hiện tại được sung sương. Người nầy hiện tại làm nhơn sung sướng nên thọ báo sung sướng hiện tại. Lại như có người giết chết Vương Tử, do đây mà phải bị tru lục. Người nầy hiện tại tạo nhơn khổ nên phải thọ báo khổ hiện tại.

    Nầy các ngài ! Tất cả chúng sanh hiện tại nhơn nơi tứ đại, thời tiết, đất đai, nhơn dân mà thọ khổ thọ vui. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bất tất đều nhơn nơi nghiệp đời trước mà thọ khổ, thọ vui.

    Nầy các ngài ! Nếu do nhơn duyên dứt nghiệp mà được giải thoát, thời tất cả thánh nhơn chẳng được giải thoát. Vì bổn nghiệp quá khứ của tất cả chúng sanh là vô thỉ vô chung. Do đây nên ta nói lúc tu thánh đạo, thánh đạo nầy có thể ngăn nghiệp vô thỉ vô chung.

    Nầy các ngài ! Nếu thọ khổ hạnh bèn đắc đạo đó, thời tất cả loài súc sanh lẽ ra đều đắc đạo. Do đây nên phải trước điều phục tâm mình mà chẳng điều phục thân. Vì thế nên trong kinh ta nói chặt đốn rừng nầy chớ chặt đốn cây, vì do nơi rừng sanh kinh sợ chẳng phải do nơi cây. Muốn điều phục thân phải trước điều phục tâm. Tâm dụ như rừng, thân dụ nơi cây.


    Tu Bạt Đà La thưa : Bạch Thế Tôn ! Tôi đã trước điều phục tâm rồi.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  6. #636
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phật nói : Nầy Thiện Nam Tử !Nay ông làm thế nào có thể trước điều phục tâm ông ?

    _ Bạch Thế Tôn ! Tôi trước suy nghĩ rằng : Dục ái là vô thường, vô lạc, vô tịnh, quán sát sắc là thường, lạc, ngã, tịnh. Suy nghĩ như vậy rồi kiết sử cõi dục dứt mà được sắc xứ, nên gọi là trước điều phục tâm.

    Kế đó tôi quán sát sắc là vô thường : Như mụn nhọt ghẻ, như thuốc độc như mũi tên, thấy vô sắc là thường tịch tịnh trong sạch. Quán sát như vậy rồi kiết sử cõi sắc dứt mà được vô sắc xứ. Do đây nên gọi là trước điều phục tâm.

    Kế đó tôi lại quán sát tưởng là vô thường như nhọt như ghẻ như độc như tên. Quan sát như vậy rồi được phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi phi tưởng xứ nầy là nhứt thiết trí vắng lặng thanh tịnh thường hằng bất biến không sa đọa. Do đây nên tôi có thể điều phục lấy tâm mình.


    Phật nói : Nầy Thiện Nam Tử ! Như thế thời ông đâu có điều phục được tâm ! Phi tưởng phi phi tưởng xứ định của ông được vẫn còn gọi là tưởng, Niết Bàn là vô tưởng, sao ông nói rằng chứng được Niết Bàn ?

    Nầy Thiện Nam Tử ! Trước ông đã có thể nhàm trách thô tưởng, nay sao ông lại tham trước nơi tế tưởng. Chẳng biết nhàm trách phi tưởng phi phi tưởng xứ định, định nầy vẫn gọi là tưởng như nhọt ghẻ như độc như tên.

    Nầy Thiện Nam tử ! Thầy của ông là Uất Đầu Lam Phất thông minh lanh lợi còn không thể dứt được Phi tưởng phi phi tưởng xứ nầy mà phải thọ lấy thân ác đạo, huống là những kẻ khác.

    _ Bạch Thế Tôn ! Thế nào có thể dứt được tất cả các cõi ?

    _ Nầy Thiện Nam Tử ! Người quán thiệt tướng có thể dứt tất cả các cõi.

    Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là thiệt tướng ?

    _ Nầy Thiện Nam Tử ! Tướng vô tướng gọi là thiệt tướng.

    _ Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là tướng vô tướng ?

    _ Nầy Thiện Nam Tử ! Tất cả pháp không tự tướng, không tha tướng và không tự tha tướng, không tướng vô nhơn, không tướng tác, không tướng thọ giả, không tướng pháp, tướng phi pháp, không tướng nam nữ, không tướng sĩ phu, không tướng vi trần, không tướng thời tiết, không tướng làm ra mình, không tướng làm ra người, không tướng làm ra mình ra người, không tướng có tướng không, không tướng sanh, tướng sanh giả, không tướng nhơn, tướng nhơn nhơn, không tướng quả, tướng quả quả, không tướng ngày đêm, không tướng sáng tối, không tướng kiến tướng, kiến giả, không tướng văn tướng văn giả, không tướng giác tri, tướng giác tri giả, không tướng Bồ Đề, không tướng Đắc Bồ Đề giả không tướng nghiệp, tướng nghiệp chủ, không tướng phiền não, tướng phiền não chủ.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  7. #637
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nầy Thiện Nam Tử ! Những tướng như vậy tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là tướng chơn thiệt. Tất cả pháp đều là hư giả, tùy theo chỗ nó diệt thời gọi là thiệt. Đây gọi là thiệt tướng, là pháp giới, là tất cánh trí, là đệ nhứt nghĩa đế, là đệ nhứt nghĩa không.

    Nầy Thiện Nam Tử ! Nơi thiệt tướng nầy, người hạ trí quán đó thời được Thanh Văn Bồ Đề, người trung trí quán đó thời được Duyên Giác Bồ Đề, người thượng trí quán đó thời được Vô thượng Bồ Đề.


    Lúc Phật nói pháp nầy, có mười ngàn Bồ Tát chứng được Nhứt sanh thật tướng, có mười lăm ngàn Bồ Tát chứng được Nhị sanh pháp giới, có hai mươi lăm ngàn Bồ Tát được Tất cánh trí, có ba mươi lăm ngàn Bồ Tát ngộ Đệ nhứt nghĩa đế. Đệ nhứt nghĩa đế nầy cũng gọi là Đệ nhứt nghĩa không, cũng gọi là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Lại có bốn mươi lăm ngàn Bồ Tát được Hư không Tam Muội, Hư không Tam Muội nầy cũng gọi là Quảng Đại Tam Muội, cũng gọi là Trí Ấn Tam Muội. Năm mươi lăm ngàn Bồ Tát được Bất thối nhẫn, Bất thối nhẫn nầy cũng gọi là Như pháp nhẫn, cũng gọi là Như pháp giới. Có sáu mươi lăm ngàn Bồ Tát được Đà La Ni, Đà La Ni nầy cũng gọi là Đại Niệm Tâm, cũng gọi là Vô ngại trí. Có bảy mươi lăm ngàn Bồ Tát được Sư Tử Hống Tam Muội, Tam Muội nầy cũng gọi là Kim Cang Tam Muội, cũng gọi là Ngũ Trí Ấn Tam Muội. Có tám mươi lăm ngàn Bồ Tát được Bình đẳng Tam Muội, Tam Muội nầy cũng gọi là Đại Từ Đại Bi. Có vô lượng Hằng hà sa chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Đề, vô lượng Hằng hà sa chúng sanh phát tâm Duyên Giác, vô lượng Hằng hà sa chúng sanh phát tâm Thanh Văn. Có hai muôn ức Nhơn nữ và Thiên nữ hiện đời chuyển thân nữ được thân nam.

    Lúc đó Tu Bạt Đà La nghe đức Phật nói pháp thậm thâm vi diệu, được pháp nhãn thanh tịnh bỏ tà kiến xin xuất gia.

    Phật nói : “Lành thay ! Lành thay ! Thiện Lai Tỳ Kheo !”

    Tu Bạt Đà La vui mừng hớn hở, râu tóc tự rụng thành tướng Sa Môn, dứt hết phiền não đặng quả A La Hán.

    Được chứng quả rồi, Tu Bạt Đà La chiêm ngưỡng tôn nhan, đầu mặt đãnh lễ chơn Phật, quỳ chắp tay tự trách tội lỗi ngày trước của mình mà bạch Phật rằng : “Bạch Thế Tôn ! Tôi rất hờn thân độc nầy nhiều kiếp đến nay luôn khi dối, làm cho tôi chìm mãi trong vô minh tà kiến trôi đắm theo giáo pháp của Ngoại đạo. Rất đau đớn thay ! Thân nầy làm hại quá nhiều. May mắn thay ! Nay nhờ ơn Như Lai mà được vào Chánh pháp.

    Trí huệ của Đức Thế Tôn như biển cả, lòng từ bi của đức Thế Tôn vô lượng. Tôi tự suy xét dầu nhiều kiếp nát thân cũng chưa báo được ơn đức nầy.


    Tu Bạt Đà La buồn khóc rơi lệ không thể tự ngăn được, lại bạch Phật rằng : “Bạch Thế Tôn ! Tôi tuổi đã già suy, không còn sống bao lâu, bị hành khổ bức não. Xin đức Thế Tôn nán lại để dạy dỗ chớ nhập Niết Bàn.

    Đức Thế Tôn nín lặng chẳng hứa.

    Thỉnh Phật chẳng được, Tu Bạt Đà La sầu khổ kêu to lên rằng : “Khổ thay ! Khổ thay !Thế gian trống rỗng ! Thế gian trống rỗng ! Nay cớ gì sự kinh sợ lớn liền đến, khắp nơi phải khổ não.

    Than ôi ! Chúng sanh phước đã hết ; huệ nhãn đã dứt.


    Than xong, ông càng khóc lóc nghẹn ngào, cả mình ửng máu, té xuống trước Phật hôn mê ngất xỉu.

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  8. #638
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ THỨ 25
    __________________________________________________ ______________________________________


    Giây lâu tỉnh lại, ông nghẹn ngào rơi lệ mà bạch Phật rằng : “Bạch Thế Tôn ! Nay tôi không nỡ thấy đức Như Lai nhập Niết Bàn xin Đức Thế Tôn cho phép tôi diệt thân nầy trước, rồi sau Đức Thế Tôn sẽ nhập Niết Bàn.

    Bạch xong, Tu Bạt Đà La liền ở trước Phật mà nhập Niết Bàn.

    Lúc đó có vô số Hằng hà sa Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thiên, Nhơn, A Tu La v.v… đồng kêu to lên rằng : “Khổ thay ! Khổ thay ! Cớ sao Đấng Chánh giác lại sớm bỏ lìa khiến chúng tôi không có chủ, không chỗ về, không nơi nương, không chỗ đến.

    Đại chúng buồn than khóc lóc đấm ngực té xỉu. Tiếng kêu khóc khắp cõi Đại Thiên. Lúc đó Đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng :

    Chớ quá khóc lóc như trẻ nít. Đại chúng phải cố dằn chớ để tâm mê loạn !

    Đại chúng ở trong biển lớn sanh tử phải siêng năng tu hành cho tâm được thanh tịnh, chớ để mất chánh niệm chánh huệ, phải gấp cầu chánh trí mau thoát khỏi các cõi. Nếu thọ thân trong ba cõi thời bị khổ luân hồi không ngằn mé, vô minh là ông chủ, ân ái là Ma vương, sai khiến thân tâm như tôi tớ, duyên theo trần cảnh tạo nghiệp sanh tử, tham sân si niệm niệm làm hại, từ vô lượng kiếp đến nay thường thọ lấy sự khổ não. Đâu có người trí mà chẳng đi ngược lại nguồn sanh tử nầy !

    Đại chúng nên biết rằng từ nhiều kiếp đến nay ta đã nhập Đại Niết Bàn, không còn có ấm giới nhập, mà đã dứt hẳn các cõi, thường ở trong bảo tạng Kim Cang thường, lạc, ngã, tịnh. Hôm nay ta ở nơi đây thị hiện sức phương tiện bất tư nghì mà nhập Đại Niết Bàn đồng với pháp thế gian. Đó là ta muốn cho chúng sanh rõ biết thân như chớp nháng, dòng sanh tử chảy quá mau, những hành pháp luân chuyển vô thường lẽ phải như vậy.

    Như Lai nhập Đại Niết Bàn là rất sâu rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của chư Phật Bồ Tát, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được.


    Đức Phật lại bảo đại chúng : Tu Bạt Đà La đây đã từng cúng dường Hằng hà sa chư Phật, đã trồng sâu căn lành, do sức đại nguyện, ông ấy thường xuất gia trong phái ngoại đạo Ni Kiền Tử, dùng phương tiện huệ để dắt dẫn chúng sanh tà kiến cho họ được vào chánh trí. Tu Bạt Đà La nương nơi bổn nguyện lực, hôm nay được gặp ta sắp nhập Niết Bàn, được nghe Chánh pháp, được quả A La Hán. Đã được quả rồi lại nhập Niết Bàn.

    Từ khi ta thành Phật độ A Nhã Kiều Trần Như , đến sắp nhập Niết Bàn độ Tu Bạt Đà La, công việc của ta đã trọn vẹn, dầu ta có mãi ở lại cũng không có gì khác với ngày nay.


    Nói xong Đức Thế Tôn lại xướng rằng : Lành thay ! Lành thay ! Tu Bạt Đà La vì báo ân Phật mà nhập Niết Bàn. Đại chúng phải nên cúng dường thi hài của ông ấy và xây lập tháp miếu.

    Lúc đó đại chúng buồn khổ thảm thiết, gạt lệ dằn lấy lòng, y theo lời Phật dạy, dùng gỗ thơm trà tỳ thi hài của Tu Bạt Đà La.

    Đương lúc thiêu, thi hài của Tu Bạt Đà La ở trong lửa phóng ánh sáng lớn, hiện đủ mười tám sự biến hóa : Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, hông mặt ra lửa, hông trái ra nước, hiện thân lớn khắp trong hư không rồi lại hiện nhỏ v.v…

    Lúc đó trong đại chúng có vô lượng Ngoại đạo tà kiến được chánh kiến phát tâm Bồ Đề.

    Sau khi hiện thần thông, thi hài của Tu Bạt Đà La trở vào trong lửa.

    Trà Tỳ xong , đại chúng thâu lấy Xá lợi, dựng tháp cúng dường.


    Phẩm Kiều Trần Như

    HẾT

    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  9. #639
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM DI GIÁO THỨ 26
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phẩm THỨ HAI MƯƠI SÁU

    DI GIÁO


    Lúc bấy giờ Đức Phật bảo An Nan và đại chúng : Sau khi ta diệt độ, hàng tứ chúng phải siêng hộ trì Kinh Đại Bát Niết Bàn của ta. Trong vô lượng vô số kiếp ta tu tập pháp Đại Niết Bàn khó đặng nầy, nay đã giải thuyết rõ ràng cho đại chúng.

    Các người nên biết pháp Đại Niết Bàn nầy là bảo tạng Kim Cang thường, lạc, ngã, tịnh hoàn toàn viên mãn của tất cả chư Phật. Tất cả chư Phật đều ở nơi pháp Đại Niết Bàn nầy mà nhập Niết Bàn. Pháp nầy là pháp tối hậu rốt ráo chí lý cùng tột không thiếu sót. Chư Phật đều phóng xả thân mạng nơi đây, do đó nên gọi là Đại Niết Bàn.

    Đại chúng muốn đặng chơn thật báo ân Phật, mau chứng Bồ Đề, được chư Phật rờ đầu, đời đời sanh ra chẳng mất chánh niệm, thập phương chư Phật thường hiện trước mình ngày đêm giữ gìn làm cho tất cả mọi người được pháp xuất thế, thời phải siêng năng tu tập kinh Đại Niết Bàn nầy.


    Phật bảo A Nan : Lúc ta chưa thành Phật thị hiện vào trong pháp ngoại đạo của Uất Đầu Lam Phất, tu học Tứ thiền Bát định.

    Từ khi ta thành Phật đến nay bác bỏ những pháp ấy khuyến dụ lần lần các phái Ngoại đạo, cuối cùng đến ông Tu Bạt Đà La, cho họ đều vào Phật Đạo.

    Đức Như Lai dùng đuốc đại trí đốt tràng tà kiến, như đem lá cỏ khô ném vào trong ngọn lửa lớn.

    Nầy A Nan ! Nay những người dòng Thích Ca ta rất lo nghĩ đến họ. Sau khi ta nhập Niết Bàn, ông phải siêng năng đem điều lành dạy răn, hàng quyến thuộc của ta, hết lòng dạy dỗ cho họ được diệu pháp. Chớ để họ phóng dật tán tâm chơi bời hoặc theo tà pháp.

    Người chưa thoát khỏi sự thống khổ trong ba cõi phải sớm cầu giải thoát. Phải lo sợ chốn ngũ trược ái dục nầy, một khi mất thân người rất khó được lại, trọn đời phải thường soi xét. Khó lấy tình để cầu thoát khỏi quỉ vô thường.

    Phải thương xót chúng sanh, chớ giết hại dầu là côn trùng nhỏ nhít. Thân nghiệp thanh tịnh thường sanh cõi tốt đẹp; Khẩu nghiệp thanh tịnh xa lìa những lỗi ác; Chớ ăn thịt, chớ uống rượu. Điều phục con rắn tâm cho nó vào đạo quả.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

  10. #640
    HOA Avatar của socnho
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.157
    Thanks
    536
    Thanked 546 Times in 191 Posts
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    PHẨM DI GIÁO THỨ 26
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phải suy nghĩ kỹ nghiệp nhơn thiện ác cảm báo tốt xấu. Nhơn quả trong ba đời tuần hoàn chẳng mất, như bóng theo hình. Đời nầy luống qua về sau ăn năn không kịp.

    Giờ Niết Bàn đã đến, ta tóm tắt dạy bảo như vậy.


    A Nan nghe lời Phật dạy, thân thể rung tâm động, buồn khóc nghẹn ngào, mê muội té xuống trước mặt Phật như người chết.

    Lúc đó ngài A Nâu La Đà an ủi A Nan rằng : “Đâu nên quá sầu khổ như vậy ! Đã đến giờ Đức Như Lai nhập Niết Bàn, ngày nay dầu có Phật, sáng mai thời đã không. Ông y theo lời tôi để thưa hỏi Đức Như Lai bốn điều.

    _ Sau khi Phật nhập Niết Bàn Lục Quần Tỳ Kheo làm việc ô tha gia, cùng Xa Nặc ác tánh, các Tỳ Kheo làm thế nào để cùng họ cộng trụ và chỉ dạy họ ?

    Đức Như Lai còn thời dùng Phật làm Thầy, Đức Như Lai đã diệt độ rồi lấy gì để làm Thầy ?

    _ Lúc Phật còn nương nơi Phật mà trụ, Như Lai đã diệt độ nương gì để trụ ?

    _ Sau khi Phật diệt độ, lúc kết tập pháp tạng, đầu các kinh phải để những lời gì ?


    A Nan như ở trong mộng nghe ngài A Nâu Lâu Đà khuyên bảo hỏi Phật bốn điều. Lần lần được tỉnh ngộ chẳng xiết buồn thảm, A Nan đem bốn điều trên hỏi Phật.

    Đức Như Lai bảo A Nan : “Sao lại quá buồn khổ như vậy ! Chư Phật thuyết pháp giáo hóa việc làm đã xong, theo phải về nơi đây.

    Lành thay ! Lành thay ! Bốn điều ông vừa hỏi, là lời hỏi tối hậu, có lợi ích lớn cho tất cả thế gian. Các ông lóng nghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ.

    Sau khi Phật nhập Niết Bàn, Tỳ Kheo Xa Nặc tâm tánh sẽ lần lần điều phục nhu hòa bỏ ác tánh cũ.

    Nầy A Nan ! Ông Nan Đà trước kia rất nặng ái dục, tánh rất xấu ác, Đức Như Lai dùng thiện phương tiện chỉ dạy cho ông ấy được lợi ích vui mừng. Phật rõ biết căn tánh của ông ấy, dùng huệ Bát nhã mà giảng thuyết mười hai nhơn duyên : Chính là vô minh duyên hành, hành duyên thức, nhẫn đến lão tử ưu bi khổ não, đều là rừng bụi vô minh yêu ghét, tất cả hành khổ đầy tràn trong ba cõi, chạy khắp trong lục đạo. Cội gốc sự khổ từ vô minh khởi lên. Dùng huệ Bát nhã hiển bày tánh tịnh, quán sát kỹ cội gốc thời dứt được tội lỗi trong ba cõi. Vì cội gốc vô minh dứt nên vô minh dứt, vô minh dứt thời hành dứt, nhẫn đến lão tử ưu bi khổ não đều dứt.


    Lấy buông xả làm đạo hạnh

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Chủ đề tương tự

  1. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
    Gửi bởi Mây trắng trong mục Kinh
    Trả lời: 219
    Bài cuối: 04-06-2017, 08:30 AM

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •