Ông Thiên Đế Thích và ông Tỳ Thủ Yết Ma đem xe cõi Trời xuống rước: Ngài đi trước, đi sau có bộ Thiên, bộ Long, quỷ thần, vua quan, dân chúng, đến một nơi bình thản cao sạch. Vua Đế Thích sai các quỷ Dạ Xoa ra bờ biển lấy gỗ chiên đàn, gỗ ngưu đầu về chất thành một đống, đổ dầu Tô phóng hỏa thiêu thi hài Tôn Giả.
Đốt xong mọi người bái tạ ra về. Chờ cho lửa tắt, ông Sa Di Quân Đề thu Xá Lợi của thầy và tấm áo Cà Sa đem về chốn Phật, bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thầy con là Xá Lợi Phất đã nhập Niết Bàn, đây là Xá Lợi và áo bát, xin Thế Tôn chứng minh.
Thấy ông Quân Đề bạch xong cảm động quá! Tôi quỳ xuống bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất với Phật Pháp là một đại tướng, vào Niết Bàn sớm quá, sau khi Ngài nhập diệt chúng con biết nương cậy vào đâu?
Phật dạy rằng: Tuy ông Xá Lợi Phất nhập Niết Bàn, song pháp thân và giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của ông đâu có nhập Niết Bàn, vì ông không nỡ nhìn thấy ta nhập Niết Bàn, nên ông nhập trước ta đấy thôi. Chẳng những đời nay như thế, đời quá khứ, ông cũng không đành lòng nhìn ta chết, ông còn tự chết trước ta.
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Đời quá khứ Tôn giả Xá Lợ Phất chết trước Ngài, việc đó thế nào, cúi xin nói cho chúng con và chúng sinh đời sau được rõ.
- A Nan ông nên biết! Đời quá khứ đã lâu lắm, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Chiên Đà Bà La Tỳ (Tàu dịch là Nguyệt Quang) thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám muôn ức tụ lạc, ông có hai muôn phu nhân và thể nữ, bà thứ nhứt tên là Tu Ma Đàn (Tàu dịch là Hoa Thị), một vạn quan đại thần, ông quan lớn nhất tên là Ma Chiên Đà (Tàu dịch là Đại Nguyệt), năm trăm Thái tử, người thứ nhất tên là Thi La Bạt Đà (Tàu dịch là Hiền Thọ).
Thành ấy ngang dọc bốn trăm do tuần, làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, bốn mặt có bốn trăm hai mươi cửa, đường sá thành phố trang nghiêm. Trong nước ấy có bốn hàng cây bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, cành vàng lá bạc, hoặc pha lê lá lưu ly. Những hồ ao bằng bốn thứ trân bảo, cát dưới lòng ao bằng bốn thứ bảo nói trên. Trong cung nhà vua chu vi bốn mươi dặm, làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê. Thời đó nước giàu dân mạnh, an vui sung sướng!
Một hôm vua ngồi trên bảo điện thốt nhiên nghĩ như vầy: Người ta ở trên đời tôn vinh hay phú quý, thiên hạ kính nể muốn gì được nấy cũng do quả báo tích đức tu thiện đời trước đem lại. Cũng ví như kẻ nông phu, mùa Xuân mất công cày bừa gieo mạ cấy lúa, tới mùa Hạ, mùa Thu gặt hái được thóc gạo đem về ăn uống. Nếu mùa Xuân họ không mất công cày cấy, dĩ nhiên mùa Hạ, mùa Thu không gặt hái thu hoạch được.
Ta cũng thế, đời trước tu phúc lành, đời nay hưởng quả tốt, nếu bây giờ ta không tiếp tục tu theo, đời sau lấy gì an hưởng?
Nghĩ rồi bảo các quan đem tiền của ở trong kho ra bố thí, và sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn ông vua, cũng phải mở kho bố thí cho dân.
Khi đó các ông vua phải tuân theo mệnh lệnh, thông cáo cho toàn cõi biết.
Ngày phát chẩn, nhân dân kéo nhau đến Kinh thành "đông như kiến cỏ", kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù, ai nấy đều được nhà vua phân cấp tiền gạo, áo quần đầy đủ, từ đó muôn dân được an vui sung sướng. Danh đức lừng lẫy, tiếng khen đồn khắp bốn phương.

Trả lời với trích dẫn