DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 11/16 ĐầuĐầu ... 910111213 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 101 tới 110 của 196
  1. #1
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXV. TÁN ĐÀN NINH



    Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỷ Khưu ở đó.

    Khi bấy giờ có năm trăm người ăn mày, bằng ngày cứ theo Phật và chư Tăng xin ăn, ngoài ra không xin ai hết, đã lâu năm vẫn không thôi. Khi đó tự bảo nhau rằng:

    - Lũ ta sống nhờ dưới bóng Phật và chư Tăng, đã lâu ngày, xét rằng: Cứ như thế này mãi cũng vô ích, ngày qua tháng lại, không lại hoàn không, một mai quỷ Vô Thường tới bắt, chúng ta nhờ thế lực gì cứu thoát, chi bằng chúng ta xin Phật xuất gia tu đạo, cầu giải thoát là tối diệu.

    Bàn xong họ đến lễ Phật bạch rằng:

    - Kính lạy Ðức Thế Tôn, chúng con bạc phúc sinh nơi hạ tiện, mong ơn cao cả hàng ngày được sống dưới bóng Từ Quang, hôm nay bọn chúng con tất cả năm trăm người một lòng thành kính cầu xin xuất gia tu đạo, cúi mong từ bi tế độ! Sợ rằng chúng con là kẻ ăn xin, vào chúng tu hành làm nhơ tiếng của ngôi Pháp Vương, việc đó có được xin Ngài chỉ giáo?

    Phật dạy! Pháp của ta thanh tịnh, không phân biệt giàu, nghèo, sang , hèn, cũng ví như nước trong sạch, đem rửa những đồ nhơ bẩn thì các vật quý vật hèn, của tốt của xấu, trai hay gái đều trong sạch cả. Pháp của ta ví như lửa cháy, tất cả núi, sông, đá, đất, hoặc trên trời dưới biển muôn vật bất luận lớn nhỏ, nếu đốt đều cháy tiêu tan. Pháp của ta cũng như hư không, con trai, con gái, giàu nghèo, sang hèn, ai cũng có thể vào được.

    Nghe Phật nói xong, tất cả bọn đều vui mừng! Cúi đầu lạy sát đất đồng thành xin nhập đạo tu hành.

    Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khưu!

    Tất cả năm trăm người đều rụng hết tóc, áo Cà Sa thấy mặc tại mình, biến thành những Vị Sa Môn tu hành không bao lâu đã dứt hết lậu nghiệp, thành ngôi A La Hán.

    Khi đó trong nước các nhà hào trưởng và nhân dân hay tin Phật cho những người ăn mày xuất gia nhập đạo, họ rất không bằng lòng và nói:

    - Những kẻ ăn mày hèn hạ, Phật cũng cho họ xuất gia đứng vào hàng Tăng chúng. Chúng ta có tác phúc mời Phật và chư Tăng, quyết không cúng dàng bọn họ, và cũng không thể cho họ ngồi giường chiếu của nhà mình được.

    Thái Tử Kỳ Đà biết thế, sửa soạn cơm chay chu đáo, sai người đi mời Phật, dặn rằng:

    - Anh đi mời Phật và chư Tăng, chứ không mời bọn ăn mày.

    Người đó đến lễ Phật và bạch rằng:

    - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thái Tử Kỳ Đà ngày mai xin mời Thế Tôn và chư Tăng đến vương cung thụ trai, cho Hoàng gia được ân triêm công đức, song Thái Tử có dặn con, không mời những ông ăn mày, xin Ngài từ bi hỷ xả cho?

    Phật mỉm cười nhận lời!

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  2. #2
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXVI. BỐ THÍ ĐẦU



    Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở một nước Tỳ Xá Ly, trong vườn cây A La.

    Khi đó Ðức Thế Tôn hỏi tôi (A Nan) rằng:

    - Những người được phép tứ thần túc thì thọ được một kiếp, như ta được tứ thần túc còn phải tu tập. Vậy có biết Như Lai thọ được bao nhiêu không? Ngài hỏi luôn ba lần như thế.

    Lúc đó tôi bị ma yếm chăng? Nên cứ lặng yên không trả lời. Phật lại bảo:

    - A Nan! Ông hãy đi đến chỗ tĩnh mịch mà suy xét.

    Tôi vâng lời đứng dậy đi vào trong rừng.

    Vừa đi khỏi, thì ma Ba Tuần đến bạch Phật rằng:

    - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Ngài ở đời giáo hóa đã lâu, tế độ nhân gian được thoát sinh tử, nhiều như số cát sông Hằng, nay tuổi đã già yếu, Ngài nên vào Niết Bàn đi!

    Phật lấy chút đất để trên móng tay hỏi Ba Tuần rằng:

    - Đất trên móng tay ta nhiều hay đất quả địa cầu nhiều?

    - Kính lạy Ngài, đất quả địa cầu nhiều.

    Ta độ chúng sinh cũng ít như đất trên móng tay vậy, còn những chúng sinh chưa được độ cũng nhiều như đất quả địa cầu, cách ba tháng nữa, ta sẽ vào Niết Bàn.

    Ba Tuần nghe Phật nói xong vui mừng bái tạ lui ra!

    Tôi ngồi trong rừng, chợt ngủ mê thấy một cây to lớn che khắp cả hư không, cành lá um tùm hoa quả tốt tươi, cống đức của cây này vi diệu vô cùng, không thể tả xiết. Bỗng nhiên có một trận cuồng phong làm cho cành lá tan nát tơi bời! Tôi lo sợ quá! Giật mình tỉnh dậy lồng ngực hãy còn đập liền hồi, tôi thầm nghĩ như vầy: Ta mộng thấy cây này là một cây mà tất cả thiên hạ đuợc nhờ, tự nhiên lại bị trận gió làm tan nát như thế, Ðức Thế Tôn của ta tế độ cho khắp nhân Thiên, Phàm Thánh, muôn loài hàm sinh đều lợi ích. Cũng như cây này che chở cho khắp thiên hạ, mộng này có lẽ Ðức Thế Tôn vào Niết Bàn, tôi đứng lên vào Tinh Xá cúi đầu làm lễ bạch Phật rằng:

    - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Vừa đây con mộng thấy, một cây to lớn che chở cho muôn loài bỗng gặp cơn gió lớn, đập gẩy tan tành, con dự đoán hay Thế Tôn sắp vào Niết Bàn, lạy Ngày có phải, cúi xin chỉ giáo?

    Phật dạy rằng: - Thực thế đấy! Sau ba tháng nữa ta vào Niết Bàn, cũng như lời ta vừa nói đây, những người được phép tứ thần túc thì thọ một kiếp, như ta được tứ thần túc còn phải tu tập. Vậy Như Lai thọ được bao nhiêu ư? Ta hỏi luôn ba lần như thế mà ngươi không đáp, ngươi đi khỏi ma Ba Tuần lại mời ta vào Niết Bàn và ta đã hứa.

    Tôi nghe xong như sét đánh bên tai, lo sợ quá! Buồn khổ quá! Giờ đây Ngài vào Niết Bàn, chúng sinh biết nương tựa vào đâu?

    Sau đó các đệ tử ai ai cũng âu sầu buồn bã, xúm xít thăm hỏi Ngài.

    Phật dạy rằng: - Tất cả thế gian đều bị luật vô thường chuyển biến luôn luôn, nay còn mai mất, không có nhất định, từ loài người, loài vật cho đến núi sông vũ trụ bao la, không có một vật gì được tồn tại mãi mãi đâu. Ta vì chúng sinh trong pháp giới, việc nên làm ta đã làm xong, những việc phải nói, ta đã nói hết, các ông nên chăm chỉ tu hành, lo buồn làm chi vô ích.

    Ngài Xá Lợi Phất than rằng:

    - Than ôi! Con mắt sáng của thế gian đến ngày khép lại, đức Như Lai vào Đại Niết Bàn, chúng sinh hết chỗ trông nhờ!

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  3. #3
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXVII. BỐ THÍ MẮT



    Chính tôi được nghe: Một thuở nọ Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

    Bấy giờ Ðức Thế Tôn đương tuyên diễn Chánh Pháp cho Đại chúng nghe, những người dự thính cũng đông, họ kéo nhau đi toán này toán khác tấp nập.

    Lúc đó có một người dòng Bà La Môn mù, ngồi bên lề đường, thấy người đi nhộn nhịp hỏi rằng:

    - Hôm nay các ông đi đâu đông thế?

    Họ đáp rằng:

    - Anh không biết hay sao?

    - Dạ! Chúng tôi không được biết!

    - Ít được gặp Phật ra đời lắm anh ạ, hiện Ngài đương thuyết pháp ở nước ta, chúng tôi đi nghe thuyết pháp đây!

    Người này tuy mù nhưng có một đặc tài là hiểu biết tám thứ tiếng, anh ta chỉ nghe lời nói là phân biệt được, kẻ tôn sang, hay người bần tiện. Tám thứ tiếng là:

    - Điểu thanh
    - Tam xích điểu thanh
    - Phá thanh
    - Nhạn thanh
    - Cổ thanh
    - Lôi thanh
    - Kim linh thanh
    - Phạm thanh

    Điểu thanh:là người nói tiếng như chim kêu, người này có tính quên ơn sinh thành dưỡng dục (bất hiếu), tâm địa không có liêm khiết.

    Tam xích điểu thanh:người này bẩm tính hung tàn bạo ngược, hay làm hại người thương tổn cho nhân vật, ít có lòng từ bi hòa thuận.

    Phá thanh:tức là người con trai nói tiếng như đàn bà, đàn bà nói tiếng như đàn ông, kẻ này bạc phúc bần cùng hà tiện.

    Nhạn thanh:tiếng nói như chim nhạn kêu (ken két) người nay có tính hớt của người làm của mình, ăn cắp lời của người làm lời của mình. Nhưng hay chơi nhiều bạn thân, và hay đón tiếp người xa lạ bốn phương.

    Cổ thanh:tiếng nói vang vang như tiếng trống, người này biện luận nhanh chóng, giải thích đạo lý sâu huyền có thể làm quốc sư.

    Lôi thanh:tiếng nói ầm ầm như tiếng sấm vang, người này trí tuệ sâu rộng, phân tách được pháp tính giáo hóa cho thiên hạ.

    Kim linh thanh:tiếng nói như tiếng chuông, người này giàu có, lắm tiền của vàng bạc.

    Phạm thanh:tiếng nói như cõi Trời Phạm thiên, người này phúc đức cao dày, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, nếu xuất gia thì thành Phật.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  4. #4
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXVIII. NĂM TRĂM NGƯỜI MÙ


    Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở một nước Xá Vệ tại vườn ông Cấp Cô Độc và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

    Bấy giờ nước Tỳ Xá Ly có năm trăm người mù đi ăn mày, nghe thấy người ta nói: Đức Như Lai ra đời rất là hiếm có, nếu chúng sinh nào được gặp, bất luận có bệnh hoạn gì cũng nhờ Ngài cứu được, kẻ mù sẽ được sáng con mắt, kẻ điếc sẽ được nghe rõ, kẻ còng gù sẽ được thẳng thiu, kẻ khễnh kiễng sẽ được duỗi thẳng, kẻ cuồng si sẽ được áo cơm, kẻ sầu khổ sẽ được an vui.

    Năm trăm người bàn nhau rằng:

    - Lũ ta sinh nơi hạ tiện, đã bị nghèo đói, lại mù đôi mắt, trên đời không ai khổ hơn, vậy chúng ta đến chốn Phật nhờ Ngài tế độ.

    Bàn nhau xong rồi hỏi thăm người đi đường rằng:

    - Ðức Thế Tôn bây giờ ở nước nào, các ông bảo cho biết?

    - Họ đáp rằng: - Ngài đang ở nước Xá Vệ.

    Lẩm bẩm nói rằng:

    - Ai là người thương lũ chúng tôi? Làm phúc đưa chúng tôi đến nước Xá Vệ nơi Phật ngự.

    Nhưng không, không ai giúp.

    Sau họ đi xin tiền, góp lại được năm trăm đồng, đứng bên lề đường lớn tiếng nói:

    - Ai đắt chúng tôi đến nước Xá Vệ, xin trả năm trăm đồng!

    Khi đó có một người nhận, lấy tiền rồi bảo năm trăm người rằng:

    - Các anh hãy nắm vào vai nhau, làm thành một hàng dọc, còn tôi đi trước đắt.

    - Khi đến nước Ma Kiệt Đề, tới một cánh đồng rộng thấy mỏi mệt quá, anh lẩn mất, năm trăm người trơ trọi không biết lối đi, lúng túng, đường đi chẳng đi, đi xuống ruộng, dẵm nát nhừ đồng lúa. Ông trưởng giả chủ ruộng thấy năm trăm người mù đi trên ruộng của ông, đầy xéo tan nát lúa mạ mất nhiều.

    Ông nổi giận mắng rằng:

    - Các anh mù, đường chẳng đi, đi giữa ruộng làm nát lúa hết rồi, có lên không?

    - Dạ! Thưa ông, chúng tôi mù lòa không nhìn rõ, xin ông tha cho.

    - Các anh ở đâu tới đây?

    - Thưa ông, chúng tôi ở nước Tỳ Xá Ly, nghe đồn Ðức Phật từ bi cứu thế, hiện Ngài ở nước Xá Vệ, chúng tôi thuê một người dắt, tới đây họ bỏ trốn mất, thành ra lẩn quẩn ở chốn này, ông làm phúc cứu giúp, ơn ấy không bao giờ dám quên!

    Nghe họ nói thế, ông cũng thương, về sai người dắt họ đến nước Xá Vệ, thì Phật sang nước Ma Kiệt Đề, người ấy lại đắt đến nước Ma Kiệt Đề, thì Phật vừa sang nước Xá Vệ, cứ thế đến bảy lần vẫn không gặp Phật.

    Họ mong muốn được gặp Phật, như kẻ đói mong được cơm ăn, kẻ khát mong được nước uống, một lòng chân thành khát ngưỡng Ðức Thế Tôn, vì thế tuy mù con mắt thịt, nhưng con mắt tâm của họ đã từng nhìn thấy Phật, nên họ vẫn hoan hỷ không biết mỏi mệt. Khi đó Ðức Thế Tôn xem biết thiện căn của họ đã thục, lòng tin đã chắc, nên Ngài ở lại nước Xá Vệ cho họ được gặp.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  5. #5
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXIX. PHÚ NA KỲ


    Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở một nước Xá Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô Độc và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

    Thuở bấy giờ nước Phóng Bát có ông Trưởng giả tên là Đàm Ma Tiện (Tàu dịch: Pháp Quân), nhà giàu nhất nước ấy, vợ ông sinh được đứa con trai, nhân gặp lúc nhà vua xuất quân đi đánh trận, nên đặt tên là Tiện Na (Tàu dịch: Quân). Sau bà lại sinh được cậu nữa, giữa lúc nhà vua thắng trận, nên đặt tên là: Tỷ Kỳ Đà Tiện Na (Tàu dịch: Thắng Quân).

    Phải khi ông Trưởng giả mắc bệnh, các thầy lang đến chữa được tiếp đãi trọng hậu, ăn uống rất đàng hoàng, tiền vàng khá nhiều. Nhưng không may gặp bọn thầy lang gian ác, cho trái thuốc, cốt ngâm bệnh ông lê thê mãi không khỏi, để chúng kiếm nhiều tiền.

    Ông có một người ở gái, hàng ngày thuốc thang cơm cháo hầu hạ, nó biết mưu của bọn thầy lang như thế, nên nó thưa với ông rằng:

    - Thưa ông! Các ông lang không tốt đâu! Họ ác lắm! Thấy ông giàu có, cho ông uống trái thuốc, dềnh dàng cho lâu khỏi, để cầu lợi. Vậy để tôi cứ như lần trước, theo đúng phép điều trị thì khỏi!

    Ông nói:

    - Phải! Mi nói đúng, cho mi được tùy ý!

    Sau, cô điều dưỡng cho ông được khỏi bệnh. Một thời gian sau Trưởng giả khỏe mạnh, cô thưa với ông rằng:

    - Thưa Trưởng giả! Tôi hầu hạ thuốc thang cho ông nay ông đã khỏi bệnh. Vậy tôi xin ông một điều, nếu ông vui lòng tôi xin nói?

    Trưởng giả đáp: - Mi cứ việc nói.

    - Tôi mong ước đã lâu, muốn để vui thú ân tình với ông một đêm, xin ông đừng từ chối!

    Ông Trưởng giả mỉm cười gật đầu.

    Cô mừng quá, đêm hôm ấy cùng ông thỏa mãn ân tình, sau cô có thai, qua thời gian sinh một cậu con trai, vì được mãn nguyện vọng, nên đặt tên là Phú Na Kỳ (Tàu dịch là Mãn Nguyện).

    Song cũng hay! Cậu bé kháu khỉnh, khi lớn có đức tướng khôi ngô, lòng dạ ngay thẳng trung chính, thông minh, về mặt thương mãi có tinh thần hơn người, lại biết cách trồng cây, nuôi súc vật, đi đến đâu cũng gặp tốt lành. Như vậy, là do tinh khí của ông Trưởng giả, nên được thông minh xuất chúng, chỉ nỗi làm con người ở gái, nên đứng vào hàng nô tỳ hèn hạ, không được cao quý bằng con bà lớn.

    Khi đó Trưởng giả mắc bệnh, biết mình phải chết, gọi hai con lên dặn rằng:

    - Con người có sinh phải có tử, xem trong mình cha không có phần nào ở với con được nữa, vậy sau khi cha chết, các con nên ở với nhau, chớ phân chia tài sản!

    Đáp: - Dạ! Xin cha cứ an tâm điều dưỡng thuốc thang, nếu cha có mệnh hệ nào, chúng con, anh em ở với nhau, xin nhớ lời cha dạy.

    Được ít ngày ông chết, anh em ăn ở với nhau, trên thuận dưới hòa, sống chung một nhà đoàn viên vui vẻ! Không xảy ra chuyện chi xích mích. Qua thời gian khá lâu, cũng vì sự sinh sống, hai người anh con bà lớn đi ra nước ngoài buôn bán, vợ con và tài sản đều giao cho Phú Na Kỳ là em thứ ba ở nhà coi sóc, đảm nhiệm việc gia đình.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  6. #6
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXX. NI ÐỀ


    Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô Độc, và rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

    Bấy giờ trong thành Xá Vệ người ở đông đúc, chỗ cư xử chật hẹp, nhà xí ít, đi đại tiểu tiện phần nhiều phải ra ngoài thành, những nhà giàu sang họ đi vào trong một cái bô, đậy nắp cẩn thận, mướn người xách ra ngoại thành đổ.

    Khi đó có ông Ni Đề nhà nghèo, hàng ngày sinh sống bằng nghề đổ phân thuê. Ðức Thế Tôn luôn luôn nghĩ đến chúng sinh có duyên, kẻ nên độ trước thì độ trước, kẻ nên độ sau thì độ sau, cũng như cây kia nở hoa trước, thì kết quả trước, cây này nở hoa sau, thì kết quả sau, tùy theo những chúng sinh căn lành đã thục, hoặc sớm hoặc muộn đều được độ cả. Ngài biết ông Ni Đề căn lành đã thục, nghiệp chướng đã tiêu, nên một hôm tôi theo Ngài vào thành để cứu ông tiến lên con đường giải thoát.

    Khi Ðức Thế Tôn và tôi tới đầu phố, thì ông Ni Đề gánh hai cái thùng phân đi đổ, ông nhìn thấy Phật trong lòng tủi hổ, quẹo đi ra con đường khác để lánh mặt, vừa ra khỏi đường, bỗng nhiên gặp Phật, sợ quá! Tẻ ra lối khác, tâm ý lộn xộn, đập thùng vào bờ tường gạch, phân bắn đầy người, ông ngồi thụp xuống và không dám nhìn Phật.

    Ðức Thế Tôn tới gần an ủi và nói rằng:

    - Ni Đề, muốn theo ta xuất gia tu đạo cho thoát khỏi các nỗi đau khổ không?

    - Dạ! Kính lạy Ðức Thế Tôn! Ngài là dòng Kim Luân Vương, các đệ tử của Ngài là những quý nhân, con là kẻ hạ tiện hèn hạ, đâu dám xuất gia đồng hàng cùng các đệ tử của Ngài được!

    - Ni Đề! Nghe ta nói: pháp của ta thanh tịnh nhiệm mầu, cũng ví như nước sạch có thể tẩy trừ được tất cả cấu uế nhơ bẩn, cũng như đống lửa cháy lớn có thể đốt tiêu mọi vật, mặc dù vật lớn hay nhỏ, cứng hay mềm, tốt hay xấu, đã bỏ vào thì thành tro than hết, pháp của ta cũng thế, rộng rãi vô biên, giàu nghèo, sang hèn, trai gái, nếu ai muốn tu ta sẽ độ hết.

    Ông Ni Đề nghe Phật nói xong, lòng tin chắc chắn, phục xuống lạy và thưa rằng:

    - Dạ! Kính lạy Ðức Thế Tôn! Ngài đã giàu lòng thương đến con, vậy cúi xin Ngài cho con được nhập đạo tu hành.

    Thấy ông bẩn thỉu quá, Phật sai tôi đưa ông ra sông tắm, và cho ông một tấm áo mới, mặc về tịnh xá Kỳ Hoàn, Phật thuyết pháp cho ông nghe như sau:

    - Sinh tử là đau khổ phải nên sợ! Niết Bàn là pháp an vui lâu kiếp bất diệt, phải nên kính.

    Ông nghe Phật thuyết pháp xong hốt nhiên giác ngộ, chứng được sơ quả, chắp tay lễ kính thọ giáo làm Sa Môn.

    Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khưu!

    Ngài nói dứt lời, tóc của ông rụng hết, áo Cà Sa thấy mặc tại mình.

    Phật dạy: - Ni Đề! Ông nên biết: Sắc thân năm ấm nầy là khổ, những ác nghiệp gây ra từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tập họp ở tâm thức nên đoạn nó đi. Diệt phải nên chứng, đạo phải nên tu.

    Nghe Phật nói xong ông Ni Đề liền giác ngộ, dứt hết lậu hoặc.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  7. #7
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXXI. ĐẠI KIẾP TÂN NINH



    Chính tôi được nghe: Một thời Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà.

    Về phương nam nước Xá Vệ có một nước tên là Kim Địa, ông vua đó tên là Kiếp Tàn Ninh, con trai ông tên là Đại Kiếp Tân Ninh. Trí óc thông sáng sức lực khỏe mạnh, sau khi nhà vua băng hà, Thái Tử Đại Kiếp Tân Ninh lên nối ngôi, thống trị ba vạn sáu nước, quân lính rất nhiều, thiên hạ vô địch, tiếng anh hùng đã lừng lẫy bốn phương. Nhưng xứ Trung Quốc họ không tùng phục.

    Bấy giờ có một người lái buôn đến nước Kim Địa buôn bán, đem dâng vua bốn thứ lụa Bạch Điệp rất tốt. Vua nhận rồi hỏi rằng:

    - Vật này mua ở xứ nào?

    - Tâu Bệ Hạ! Mua ở Trung Quốc!

    - Trung Quốc tên chi?

    - Tâu Bệ Hạ! Tên là La Duyệt Kỳ, Xá Vệ, và còn nhiều nước khác nữa.

    - Các vua xứ Trung Quốc, tại sao không đem lụa này dâng ta?

    - Tâu Bệ Hạ, đối với lực lượng họ cũng chẳng kém gì nên họ không dâng!

    Vua Kim Địa thầm nghĩ như vầy:

    - Thế lực của ta có thể toàn thu được thiên hạ về một mối, họ không chịu thần phục ta, ta sẽ cử đại hùng binh sang đánh!

    Nghĩ xong hỏi lái buôn rằng:

    - Các nước xứ Trung Quốc, nước nào lớn hơn và hùng mạnh hơn?

    - Tâu Bệ Hạ, nước Xá Vệ lớn nhất, và hùng mạnh nhất!

    Nhà vua nói:

    - Tốt lắm, Trẫm nhận lẽ này cho anh, và cho anh ra!

    - Dạ! Tâu Bệ Hạ, con xin cáo lui.

    Nhà vua thảo tờ chiếu chỉ, sai người mang sang cho vua Ba Tư Nặc như sau:

    - Ba Tư Nặc! Ông nên biết: Nước ta hùng mạnh khắp cõi Diêm Phù Đề đều biết, Khanh tuyệt giao với ta; Ta sai người mang chiếu chỉ này, bảo cho Khanh biết: Nếu Khanh đương nằm nghe thấy chiếu chỉ của ta đến, thì phải ngồi dậy ngay! Nếu đương ngồi phải đứng dậy ngay! Nếu đương ăn phải nhổ ra ngay! Nếu đương tắm phải quấn tóc lại ngay! Nếu đương đứng phải chạy đến đỡ lấy ngay, sau bảy ngày nữa sẽ biết ta! Nếu không theo đúng lời nói đây, ta sẽ đem đại hùng binh sang tiêu diệt nước của nhà người!

    Vua Ba Tư Nặc tiếp được tờ chiếu chỉ vua Kim Địa, sợ toát mồ hôi! Bối rối không biết nghĩ sao liền đi cầu Phật giải quyết.

    Bạch Phật rằng: - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Vua Kim Địa cậy sức hùng mạnh, hẹn bảy ngày nữa đem binh sang đánh, con vừa nhận được thơ. Cúi xin Ðức Thế Tôn đoán cho!

    Phật dạy: - Nhà vua không lo! Về bảo sứ giả rằng: Ta cũng có một ông Đại Vương nước lớn, ông đó theo Phật giáo, cũng gần đây, vậy nhà ngươi mang tờ chiếu này đến cho Đại Vương ta coi!

    Sứ giả đi cùng vua Ba Tư Nặc đến rừng Kỳ Hoàn.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  8. #8
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Phẩm XXXII. TỶ KHƯU NI VI DIỆU



    Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại tinh xá Kỳ Hoàn, sau khi vua Ba Tư Nặc đã băng hà, Thái Tử Lưu Ly chấp chính, bạo ngược tham tàn, thả voi đạp chết nhân dân vô kể.

    Bấy giờ các con gái trong nhà quý phái, thấy thế chán đời, rủ nhau đi xuất gia tu đạo để cầu giải tháot rất đông.

    Nhân dân họ thấy các cô hoặc họ Thích, hoặc các nhà Hầu Tước, là những dòng họ tôn sang bỏ sự vinh hoa sung sướng, xuất gia tu đạo, cả thảy năm trăm người, nên họ rất tôn kính, tranh nhau cúng dàng.

    Một hôm các cô ấy bàn nhau như vầy:

    - Chúng ta tuy được xuất gia, mang danh là Tỷ Khưu Ni, song đối với Phật Pháp chưa hiểu biết gì; chưa được uống Pháp Dược, để tiêu những tập chướng Dâm, Nộ, Si từ đời vô thuỷ. Bây giờ phải đến bà Thâu Lan Nan Đà Tỷ Khưu Ni xin học hỏi, và để bà truyền pháp Bát kính cho. Các cô cùng nhau đến làm lễ và thưa rằng:

    - Kính thưa bà, chúng con không biết có phúc duyên gì, được hạnh phùng Tam Bảo xuất gia tu đạo, làm Tỷ Khưu Ni, song đối với giáo lý cao siêu của Ðức Phật chưa hiểu biết gì, hôm nay chúng con cả thảy năm trăm người, đến đây cầu xin bà từ bi thí Pháp Nhũ, cho chúng con được ân triêm công đức!

    Bà Thâu Lan Nan Đà nói:

    - Các cô sinh trưởng nơi tôn sang, tôn vinh phú quý, vinh hoa thiếu chi, đương tầm tuổi trẻ, xuất gia học đạo làm gì cho khổ một đời tươi trẻ! Thôi đem áo bát cho tôi, trở về lấy chồng, hưởng cuộc đời êm ấm nơi khuê các, cho khoái lạc, tội chi làm Tỷ Khưu Ni ở nơi chốn chùa chiền khô quạnh, chôn dìm cuộc đời như đống tro tàn lạnh lẽo!

    Các cô nghe bà nói xong, lòng dạ hoang mang, sa nước mắt tạ lễ lui ra. Trong khi đi bảo nhau rằng:

    - Chúng ta muốn thoát khỏi con đường tình ái, ngu si, mê muội của thế gian, đến đây bà đã không khuyên bảo lũ ta được gì, lại đem những lời lẽ lôi kéo chúng ta vào nơi hang hầm miệng sói, trụy lạc đời đời. Vậy chị em ta đến bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu, cầu bà tế độ.

    Năm trăm cô đến chỗ bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu, cúi đầu lễ sát đất thưa rằng:

    - Kính thưa bà, chúng con ở tại tập tục mê muội, tuy đã đi xuất gia, nhưng tâm ý vẫn còn tham ái, lòng dục vẫn thường phát khởi như lửa đốt, không cách gì ngăn cản nổi, xin bà thuyết pháp để giải thoát cái tội căn ấy cho lũ chúng con!

    Bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu đáp rằng:

    - Trong ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai, các cô muốn hỏi gì?

    - Dạ! Kính thưa bà, đời quá khứ, và đời vị lai, còn viễn vọng, chúng con không dám hỏi, xin hỏi bà: Cái tội thắt chặt của sự dâm dục đời hiện tại, nó xấu hay tốt, nó hay hay nó dở, có kết quả gì cho mình không? Có lợi ích hay không có lợi cho tương lai, xin bà giải thích!

    - Các cô muốn biết rõ hãy để ý nghe!

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  9. #9
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts



    Phẩm XXXIII. LÊ KỲ DI




    Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thấi Tử Kỳ Đà. Tại bản triều vua Ba Tư Nặc có ông quan đại thần tên là Lê Kỳ Di, nhà giàu, sinh được bảy người con trai; sáu cậu đã lập gia đình xong xuôi, còn cậu thứ bảy chưa có vợ, ông tự nghĩ:

    Tuổi đã già yếu, còn đứa con trai út, nếu lập gia đình cho nó thì phải tìm nơi xứng đáng, và con người xinh đẹp.

    Một hôm có người bạn thân dòng Phạm Chí đến chơi, trong lúc chuyện trò vui vẻ! Ông nói:

    - Thưa bác! Tôi còn thằng cháu trai út, muốn lấy vợ cho nó, nhưng chưa tìm được nơi đâu xứng đáng. Bác từ trước đến nay đi du lịch các nước đã nhiều, vậy phiền bác nơi đâu con nhà tử tế, có nết tinh khiết, hiền hậu hòa nhã, để bác giới thiệu cho cháu một người!

    - Dạ! Việc chi chứ việc ấy, tôi có thể giúp được.

    Qua thời gian sau, ông bạn thân này sang nước Đặc Xoa Thị Lợi, gặp năm trăm đồng nữ đi hái hoa. Ông theo sau để quan sát, tới một suối nước chảy cô nào cô ấy đều tụt giày dép lội qua, duy có một cô để cả giày lội theo, đi một lát tới con sông nhỏ, các cô kia đều vén quần lội qua, nhưng cô nói trên, không vén để cả quần lội theo, khi đi tới rừng cây, các cô kia đều trèo lên cây hái hoa, bắt trái, cô này không trèo, đợi các cô kia xuống, xin được rất nhiều, ông tới trước hỏi cô kia rằng:

    - Thưa cô, tôi xin hỏi cô một vài điều có được không?

    - Dạ, xin ông cứ hỏi, không sao!

    - Vừa đây qua suối, các cô kia đều tụt giày dép lội qua riêng cô không tụt là có ý gì?

    - Thưa ông, sở dĩ giày dép, chính là để giữ cho cái chân, khỏi dẫm phải gai góc mảnh sành, và các vật có thể làm hại chân; trên mặt đất, còn có thể trong thấy mà tránh, dưới nước làm sao trông thấy, những gai góc độc trùng mà tránh, vì thế nên tôi không tụt!

    Ông hỏi tiếp: - Qua sông, các cô kia đều vén quần lội, riêng cô để cả quần là ý nghĩa chi?

    - Thưa ông người con gái, phải có sự kín đáo nhiệm nhặt, lõa lồ thân thể, thô con mắt bàng quang, và tự thẹn cho mình nên tôi không vén!

    Ông hỏi tiếp: - Các cô kia đều trèo cây, tại sao cô không trèo?

    - Thưa ông leo cây sợ cành gãy, làm nguy hai cho mình, vì thế nên tôi không trèo?

    - Xin lỗi cô tên chi, cha mẹ cô thế nào?

    - Thưa ông tên tôi là Tỳ Xá Ly, mẹ tôi là em vua Ba Tư Nặc tên là Đàm Ma La Tiện. Phạm tội trốn sang nước này, làm bạn với ba tôi sinh ra tôi.

    - Cha mẹ cô bình sinh cả chứ?

    - Dạ, thưa ông, cha mẹ cháu hãy còn bình sinh cả!

    - Tôi muốn theo cô về thăm ông bà có được không?

    - Dạ, thưa ông được!

    Cô đưa ông về tới nhà, rồi vào thưa với cha rằng:

    - Thưa cha, có người Bà La Môn muốn vào thăm cha!

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

  10. #10
    Avatar của minh thức
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    319
    Thanks
    278
    Thanked 188 Times in 77 Posts


    Nhà vua liền sai người lấy roi xem, quả nhiên thấy con dao ở trong roi thực, chứng tỏ như thế, nhà vua sai các lực sĩ, gọi ba mươi hai cậu vào trong cung, thu hết roi, rồi xử tử ngầm không cho ai biết, chặt đầu ba mươi hai cậu bỏ vào hòm gỗ niêm phong cẩn thận, mang lại cho bà Tỳ Xá Ly.

    Giữa ngày hôm ấy, bà Tỳ Xá Ly mời Phật và chư Sư về nhà cúng trai, trong nhà đương nhộn nhịp; kẻ bưng cơm người rót nước tấp nập, bà thấy người nhà vua khiêng một cái hòm đến, tự mừng thầm và nói rằng:

    - Hôm nay có lẽ nhà vua cho người mang các món ăn ngon đến phụ giúp ta cúng dường đức Phật chăng ?

    Bà định sai người mở xem.

    Phật nói: - Hãy khoan! Để ta dùng cơm xong rồi sẽ mở!

    Khi thụ trai xong, Ðức Phật gọi bà lên ngồi một bên, Ngài nói rằng:

    - Thân này vô thường, nó chịu đựng những sự đau khổ! Rồi lại thành không, chính là không có ta; kiếp sống rất nhiều nguy hiểm tai nạn, sợ hãi mà nó không tồn lập được bao lâu; nó trói buộc bằng mọi sự phiền não, chua xót khó tả xiết, ân ái có ngày biệt ly! Thương luyến lẫn nhau, làm thân mình và thức tâm mệt nhọc, không ích gì cho đạo, ta nói đây, chỉ riêng những người có trí tuệ, mới nhận thức được pháp thiết yếu này.

    Nghe Phật nói xong bà tín ngộ, liền chứng được quả A Na Hàm, vui mừng chắp tay bạch Phật rằng:

    - Kính lạy Ðức Thế Tôn, con xin bốn đều như sau:

    Con xin cúng dàng các vị Tỷ Khưu bệnh, và các món ăn tùy theo bệnh.
    Con xin cúng dàng các vị phụ trách khám bệnh.
    Các vị Tỷ Khưu ở xa tới con xin cúng dàng trước.
    Các vị Tỷ Khưu đi xa con xin cúng dàng lương thực.

    Lạy Ðức Thế Tôn! Các vị bệnh hoạn vì không có thuốc tốt và món ăn ngon lành nên bệnh lâu khỏi, hoặc khó chữa, hoặc nhân thế mà bị mạng chung. Các vị khám bệnh phải trông nom bệnh nhân, nên không đi khất thực được, vì thế nên con xin cúng. Các vị ở nơi xa mới tới, chưa quen biết ai, đi khất thực gặp chó dữ hoặc gặp kẻ bất nhân làm thương tổn đến thân thể, hoặc sỉ nhục, vì thế nên con xin cúng dàng trước. Các vị đi xa phải có bè bạn, nếu không có lương thực đem theo hoặc đi không kịp, đường sá nguy hiểm, nhiều độc thú, đi một mình, sợ mắc tai nạn, vì thế nên con xin cung cấp lương thực.

    Ðức Thế Tôn thấy bà xin bốn việc ấy nên Ngài khen rằng:

    - Quý hóa có tâm như thế công đức rất lớn, như thế khác chi cúng Phật!

    Nói xong Ðức Phật và chư sư trở về rừng Kỳ Hoàn.

    Sau khi Ðức Phật đã về, bà sai người mở hòm xem nhà vua cho cái gì, trái lại thấy ba mươi hai cái đầu lâu người, chính là các con trai của bà. Vì bà đã hiểu biết đời là vô thường, và đắc quả A Na Hàm, tâm ái luyến thế gian đã đoạn hết, nên không có ảo não khóc than gì mà chỉ nghĩ thoáng câu:

    - Đau khổ thay! Thương xót thay có sinh tất có tử; nổi chìm trong năm thú; khổ gì đến như thế!

    Bấy giờ ba mươi hai nhà vợ, nghe biết con rể chết về tay nhà vua, họ nói rằng:

    - Nhà vua vô cớ giết oan người lương thiện!

    Lòng thương con rể phẫn uất nổi lên cực độ! Họ đem quân đến vây kinh thành nhà vua để báo thù.

    SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •