DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 1/9 123 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 86
  1. #1
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts

    84 vị Đại Thành Tựu



    Các vị chân sư Đại thủ ấn

    Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

    -----------

    Đại sư thứ nhất: Luipa - Nhà sư Du-già ăn lòng cá thối


    Như chó dại dính mật ong nơi mũi
    Cuồng điên tìm vị ngọt khắp nơi nơi
    Hãy tiết lộ bí mật của một Lạt-ma
    Cho kẻ dại khờ kia hiểu rõ
    Với một con người nhạy cảm
    Ngộ được chân lý vô sinh
    Tia nhìn thoáng qua của một Lạt-ma
    Là tia chớp thanh tịnh
    Soi sáng và huỷ diệt ảo ảnh
    Như con voi đốn ngã quân thù
    Bằng chiếc vòi tựa gươm đao


    Truyền thuyết

    Thuở nọ, tại đảo quốc Tích Lan (Śrỵ Lanka), sau khi quốc vương băng hà, theo truyền thống, thái tử thứ nhất sẽ kế vị vua cha. Nhưng các quan thiên văn xét thấy rằng muốn đất nước được an bình thì cần phải trao ngôi báu cho người con thứ. Vì vậy, vị hoàng tử trẻ tuổi nghiễm nhiên thành người trị vì cả vương quốc Tích Lan.

    Mặc dù sống trong cảnh lộng lẫy xa hoa, được cung phụng đầy đủ các món ngon vật lạ, nhưng vị vua trẻ vẫn cảm thấy chán chường quyền lực và sự giàu sang. Bởi xét cho cùng thì nhà vua chẳng được gì thêm ngoài hai thứ ấy! Và niềm khao khát duy nhất của ngài là thoát khỏi cảnh ràng buộc này.

    Rủi thay, trong lần đầu bỏ trốn, nhà vua trẻ bị bắt lại và bị xiềng chặt vào chiếc ngai bằng một sợi xích vàng. Sau đó, nhờ đút lót cho lính canh, nhà vua lại thoát ra khỏi hoàng cung cùng một người hầu.

    Ngài đã tưởng thưởng một cách hào phóng cho người hầu cận trung thành trước khi rời bỏ Tích Lan để tìm đến Ramesvaram, nơi đức vua Rama đang trị vì. Tại đây, ngài đã đổi chiếc vương miện bằng vàng để lấy một da dê và bộ vương phục quí giá để lấy một bộ quần áo rách nát. Kể từ đó, ngài trở thành một đạo sĩ du phương.

    Vị đạo sĩ vốn là cựu vương này thân tướng oai nghiêm đẹp đẽ nên không mấy khó khăn trong việc khất thực độ thân.

    Du hành khắp xứ Ấn Độ, cho đến một hôm tình cờ ngài đặt chân đến vùng Phật tích Vajrasana, nơi xưa kia thái tử Tất-đạt-đa tu thành chánh quả. Tại đây, ngài được gặp các nữ Du-già hành giả (Dakini) truyền cho tâm pháp.

    Rời Vajrasana, ngài đi đến Pataliputra (thành Hoa-thị), kinh đô của nhà vua nằm ven bờ sông Hằng. Ban ngày ngài đi khất thực, đêm về nghỉ ngơi nơi mộ địa.

    Một bữa nọ, trong khi đi khất thực ngài tình cờ dừng chân trước ngưỡng cửa của một thanh lâu. Chính nghiệp lực của ngài đã dun rủi đưa đến sự kỳ ngộ này.

    Một cô kỹ nữ lầu xanh mà trong tiền kiếp từng là một dakini chăm chú nhìn vị đạo sĩ một hồi lâu rồi thốt lên rằng: “Các căn của ông quả là khá thanh tịnh, chỉ hiềm một nỗi tính kiêu mạn vi tế về dòng dõi hoàng tộc vẫn còn phảng phất trong ông.”
    Nói xong, cô đổ một ít cháo ôi thiu vào bình bát của ngài.

    Đi được một quãng, vị đạo sĩ trút thứ cháo lỏng bỏng đã hôi thối không còn ăn được nữa xuống một rãnh nước ở ven đường. Cô gái nhìn theo thấy vậy bèn quát lên một cách giận dữ: “Làm thế nào ông có thể đạt đến Niết-bàn khi tâm ông còn phân biệt sự dơ sạch của thức ăn? ”

    Nghe lời trách mắng như thế, vị đạo sĩ cảm thấy xấu hổ và chợt nhận ra rằng ngài chưa hoàn toàn dứt trừ hết các phiền não trong tâm. Và ngài nhận thức được rằng tâm suy lường phân biệt là trở ngại chính khiến ngài khó đạt tới Phật tính.

    Ngài liền đi về phía sông Hằng, liên tục thiền quán ròng rã suốt 12 năm để diệt vọng niệm phân biệt và các kiến chấp.

    Hằng ngày, ngài đi quanh bờ biển lượm các ruột cá mà ngư dân vứt bỏ rải rác. Pháp tu của ngài là vận tâm quán tưởng thứ ruột cá tanh hôi đến tởm lợm ấy trở thành một loại tiên dược thanh khiết. Ngài quán chiếu các pháp thế gian là duyên hợp, bản chất của chúng chỉ là một sự rỗng không.

    Bởi hạnh tu ấy, nhân dân quanh vùng gọi ngài là Luipa, có nghĩa là “người ăn ruột cá”.
    Sau 12 năm tinh cần tu luyện, ngài Luipa đã chứng đắc thần thông và giác ngộ. Ngài trở thành một vị Guru nổi tiếng, và trong các truyền thuyết về Darikapa và Dengipa cũng có nhắc đến ngài.

    Hành trì

    Truyền thuyết về ngài Luipa đã khôi phục lại một số sự kiện trùng lắp gần giống như trường hợp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Luipa là một vị vua từ bỏ ngai vàng và các thú vui ngũ dục để đi tìm sự giác ngộ, và ngài cũng đã ra đi trong một đêm tối cùng với một người hầu, để rồi sau đó trở thành một tu sĩ. Cả hai đều đánh đổi vương miện và hoàng bào để lấy một bộ y phục tồi tàn của dân nghèo. Điều ấy nói lên quyết tâm từ bỏ địa vị cao sang để đi tìm chân lý giải thoát.

    Có điều là Luipa đã sinh ra vào thời kỳ Phật không còn tại thế. Do đó ngài không gặp Phật để được người trực tiếp trao truyền giới luật và được hướng dẫn các pháp tu đơn giản nhưng có hiệu quả lớn.

    Để có thể đoạn trừ tạp nhiễm vi tế, vị Kim cương Thánh nữ đã đưa ra phương pháp giải trừ các kiến chấp phân biệt trong tâm của Luipa, vì đó là nguyên nhân đưa hành giả trở lại sáu nẻo luân hồi. Tuy nhiên, muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi trong hiện kiếp cần phải có pháp môn thù thắng khế hợp với căn cơ của hành giả.

    Luipa được xem là bậc thầy của Tantra Mẹ, nhưng khai ngộ cho ngài lại là một kỹ nữ mà trong tiền kiếp vốn là một nữ Du-già hành giả (Dakini).

    Vị Dakini đã thấu suốt được tâm kiêu mạn vi tế về dòng dõi, chủng tộc, đẳng cấp còn đọng lại trong tâm của Luipa, nên qua cách cúng dường cháo thiu bà đã gián tiếp chỉ cho ngài pháp môn đối trị: Pháp môn dùng thức ăn bất tịnh.

    Để đạt tới tâm siêu xuất, cần nuôi dưỡng và kết thân với cái mà ta căm ghét nhất. Cách tu tập này hình thành tâm bất nhị, không phân biệt, bởi vì phải biến mọi kiêu hãnh, phân biệt, định kiến thành những hạnh lành, giống như ngài Luipa biến ruột cá tanh hôi thành tiên dược.

    Nếu hành giả không lãnh hội được chân tính rỗng không thường hằng trong từng xúc niệm liền lập tức rơi vào đối đãi phân biệt, mà cảnh giới nhị phân là cảnh giới của sáu nẻo luân hồi.

    Để đạt tới cảnh giới Niết-bàn bất nhị, cần phải đạt được tâm bất nhị. Bởi nhờ nơi tâm bất nhị mà hành giả có thể nhận rõ được mùi vị chung của tất cả các pháp. Mùi vị ấy là mùi vị giải thoát thanh tịnh.

    Xem xét pháp tu của ngài Luipa, ta sẽ thấy được rõ hơn nếu hiểu được cá biểu trưng cho điều gì trong xã hội của thời ấy.
    Trước hết, cá cũng là một chúng sinh hữu tình. Đối với đạo Bà-la-môn, ăn cá đồng nghĩa với sự chối đạo vì ruột cá là thức ăn chỉ dành cho chó mà thôi. Và trong Vật tổ giáo (Totem), chó là giống thấp hèn nhất.

    Thực hành một pháp tu như vậy vào thời ấy, Luipa trở thành một hạng người dơ bẩn, hạ tiện, không ai có thể đến gần hay tiếp xúc. Ăn ruột cá là một cách tự sỉ nhục mình nhằm xoá bỏ tất cả những vết tích về dòng dõi, sự giàu sang và các đặc quyền trước kia trong sâu thẳm của hiện hữu kiêu mạn vi tế núp mình trong đó, cái mà hành giả Luipa cần phát hiện.

    Mặc dù pháp môn tu tập của ngài Luipa không được mô tả đầy đủ ở đây nhưng ta thấy rằng định lực của ngài đã biến chuyển được thế giới riêng của ngài. Luipa là chủ tể của cái thế giới mà ngài kiến lập.

    Sử liệu

    Truyền thuyết vừa kể là căn cứ duy nhất xác định ngài Luipa đã sinh ra ở Tích Lan, và như vậy lẽ ra các văn bản của Singhaladvipa nhất định phải có đề cập đến. Nhưng vào thời ấy có nhiều vương quốc nằm trên vùng tiểu lục địa gọi là Singhaladivpa, trong đó có một vương quốc giáp ranh với Oddiyana mà nhiều nguồn tư liệu khác cho là nơi ngài Luipa đã sinh ra.

    ....


  2. The Following 2 Users Say Thank You to caydendau For This Useful Post:

    chimsese (12-01-2020),Phúc Hạnh (07-18-2015)

  3. #2
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts
    Đại sư thứ 2: Lilapa - Đức vua ẩn sĩ


    Trong cái vút nhanh
    của bốn trạng thái tâm cao thượng,
    Đức vua - Nhà Du-già - Con sư tử chốn rừng già
    Vương miện là năm chòm lông màu lam ngọc
    Còn nhà Du-già kia
    Vương miện là năm thức thanh tịnh
    Với mười vuốt sắc
    Con mãnh sư xé nát thịt con mồi
    Mười hạnh tốt của nhà Du-già
    Bén như gươm đao
    chặt đứt những quyền năng tiêu cực
    Vì ngộ được chân lý này nên Lilapa giải thoát



    Truyền thuyết


    Một ngày nọ, trong khi vị quốc vương vùng Tây Ấn đang tựa lưng ở bệ rồng, chợt có lính canh tâu rằng có một vị đạo sĩ muốn vào bái kiến.


    Nhìn vẻ cơ hàn và nét phong trần của đạo sĩ, nhà vua tỏ vẻ ái ngại và thương xót, vua phán: “Sống rày đây mai đó, hẳn là thầy khổ lắm? ”


    “Tâu bệ hạ, tôi không hề lấy đó làm khổ não. Có chăng chính bệ hạ mới là kẻ đau khổ, đáng thương.” Đạo sĩ ung dung đáp.


    “Cớ sao thầy nói vậy? ” Nhà vua sửng sốt hỏi.


    “Trước hết, bệ hạ luôn sống trong nỗi lo mất ngôi, mất nước. Lòng của bệ hạ lúc nào cũng canh cánh lo sợ cơn thịnh nộ của thần dân dễ đưa tới việc tạo phản. Vì thế nên bệ hạ đau khổ. Còn như tôi đây, vào nước không chìm, vào lửa không cháy, độc không hại được, lại biết thuật trường sinh bất tử, ra khỏi luân hồi.”


    Nghe qua lời đạo sĩ nói, nhà vua bồi hồi than rằng: “Bạch thầy, làm thế nào quả nhân có thể bắt chước nếp sống rày đây mai đó cơ cực như thầy. Cúi xin thầy từ bi ban cho diệu pháp. Có cách tu nào phù hợp với hoàn cảnh của quả nhân, không lìa ngôi báu, vợ đẹp con xinh, cung điện nguy nga mà vẫn tu thành chánh quả được chăng? ”


    Bạch xong, vua phủ phục năm vóc sát đất khẩn cầu đạo sĩ truyền pháp.


    Đạo sĩ hoan hỷ nhận lời, bèn trao tâm pháp cho nhà vua. Nghe xong pháp từ, vua liền vào định.


    Kể từ đó, nhà vua thường tu tập thiền định ngay trên ngai vàng và thậm chí trong khi cùng các phi tử thưởng thức vũ nhạc. Nhà vua được mệnh danh là Lilapa vì tính ưa lạc thú và yêu thanh sắc của ngài.


    Cách tu của Lilapa là chú mục bất động vào chiếc nhẫn ngài đeo ở bàn tay phải.


    Sau khi đắc định, vua bèn quán thân tướng của thủ thần (Yidam) Hevajra cùng quyến thuộc của ngài. Lilapa ngộ được chân lý rốt ráo và đắc thần thông Đại thủ ấn sau khi thành tựu pháp quán này.



    Hành trì


    Qua truyền thuyết của ngài Lilapa, ta thấy một khi giáo pháp của một bậc thầy khế hợp với căn cơ của người đệ tử thì người ấy không nhất thiết phải lìa bỏ đời sống gia đình, từ bỏ các thú vui ngũ dục, mà vẫn có thể tu tập tập đạt tới cứu cánh Niết-bàn.
    Kim cương thừa trở nên ngày càng cực thịnh, trước hết là do khuynh hướng chung của xã hội Ấn Độ thời ấy, khi mà quyền lực của giai cấp Bà-la-môn bắt đầu suy sụp, Đa thần giáo phát triển rộng rãi trong các giai tầng thấp hơn, lối tu khổ hạnh không còn sức thu hút quần chúng và chủ nghĩa hưởng lạc xuất hiện.


    Kim cương thừa vừa là nhân vừa là quả của một sự kết hợp giữa dục lạc và giải thoát.


    Trong giáo pháp Kim cương thừa, triết học nhất nguyên (Vạn pháp duy tâm tạo) của Ấn Độ đã đạt đến chỗ cùng tột của nó. Đó là xem bản chất của hành vi con người cũng đồng với các bậc thánh.


    Tuy nhiên kẻ cầu đạo phải có đủ sức dũng mãnh tinh tấn, dám thừa nhận mình vốn là Phật và cảnh giới quanh mình vốn là cõi Phật.


    Điều quan trọng nhất là hành giả phải gặp được chân sư. Vị chân sư này sẽ xem xét căn cơ mà truyền pháp khế hợp với kẻ cầu đạo, hướng vị này đến chân lý giải thoát rốt ráo để cứu độ chúng sinh với tâm vô ngã chứ không hướng đến dục lạc.


    Ngoài ra, căn cơ của hành giả cần phải ở vào giai đoạn chín mùi, nghĩa là vị ấy phải dốc một lòng cầu chân lý giải thoát.
    Ngài Lilapa có những đủ cơ duyên ấy, nên sau khi được điểm đạo ngài đã say mê tu tập pháp thiền định trụ tâm vào một điểm duy nhất (one-pointed samadhi).


    Đây là việc khó làm đối với những ai có đời sống bận rộn hay đang chìm đắm trong dục lạc. Bởi ngay các hành giả Mật tông (tantrika) muốn nhất tâm quán điểm như thế cũng phải tìm nơi an tịnh như mật thất hay hang động hẻo lánh để tu luyện.


    Nhưng trong Kim cương thừa, một khi hành giả hội đủ các duyên và được chân sư khai ngộ thì việc xuất gia không theo nghĩa thông thường là “ly gia cát ái”, mà được hiểu như là một trạng thái của tâm - trạng thái dứt bỏ mọi vọng tưởng và phân biệt đối đãi. Tâm an tịnh ấy là mật thất. An trú trong tâm an tịnh ấy, hành giả tự do quán sát cảnh giới di chuyển bên ngoài mà tâm vẫn không bị thôi thúc xô đẩy. Hành giả liền nhận biết rằng “không” không lìa khỏi “sắc”.


    Đây nói trụ tâm vào một điểm tức là thâm nhập vào đối tượng. Trụ tâm vào một điểm chỉ là giai đoạn sơ khởi, vì như thế hành giả cũng chỉ mới nhập vào đàn pháp (mandala). Lúc ấy, tướng của thủ thần Heruka và quyến thuộc của ngài chưa hiện rõ. Hành giả phải tiếp tục quán tưởng cho đến lúc thân tướng của vị thần này xuất hiện đầy đủ, rõ ràng đến từng chi tiết, màu sắc phải phân minh.


    Sau đó, quán tưởng hai vị thủ thần nhập vào nhau giữa trung tâm đàn, đồng thời quán mười sáu vị Kim cương thủ vây quanh, mỗi mỗi hiện ra đầy đủ với các màu sắc khác biệt.
    Thành tựu giai đoạn này tức thời hành giả đắc pháp.


    Phép quán này gọi là phép quán về tính hư vọng của sắc, vì sắc ấy tức là tướng của thủ thần cùng quyến thuộc vốn từ hư không mà hiện ra.


    Trên mặt nhẫn của ngài Lilapa vốn không có tướng của các thủ thần, vì vận tâm quán tưởng mà có nên gọi sắc ấy là từ nơi không. Vì nghịch lý ấy, nên nói “sắc tức là không”.


    Đây là Hevajra mạn-đà-la. Hevajra còn có tên là Heruka. Hevajra tantra tức Yoginitantra, chính là Tantra Mẹ.


    Trong bài kệ xưng tán đệ nhất nghĩa đế, Lilapa tán dương con tuyết sư (sư tử tuyết) là chủ tể bí mật của muôn loài. Con sư tử cái cho một thứ sữa mà ai uống vào thì được trường sinh bất tử. Nhưng loại sữa đặc biệt này chỉ được đựng trong bình ngọc mà thôi. Năm chòm lông xanh trên bờm con sư tử đực tượng trưng cho năm thức thanh tịnh. Mười vuốt chân tượng trưng cho Mười Ba-la-mật. Thành trì bất khả xâm phạm là Bốn tâm vô lượng.


    Theo một số các tượng thường thấy thì tượng thủ thần Hevajra màu xanh có tám mặt, bốn tay và bốn chân trong tư thế ôm choàng minh phi của ngài là Nairatma có khuôn mặt trắng, hai tay và hai chân. Cả hai đều trong tư thế nhảy múa, một chân co, một chân duỗi. Có tượng vẽ ngài mười sáu tay, mỗi tay cầm một cái đầu lâu, còn Nairatma thì một tay cầm đầu lâu, một tay cầm câu liêm, trong dáng đứng uy vũ chống lại pháp thuật của bốn quỷ thần gồm Phạm Thiên, Visnu, Siva và Sakra (Đế thích).

    Hình Phạm Thiên màu vàng, tượng trưng cho ngũ ma.
    Hình Visnu màu xanh, tượng trưng cho nhục cảm.
    Hình Siva màu trắng, tượng trưng cho sự huỷ diệt.
    Hình Sakra màu trắng, tượng trưng cho kiêu mạn và tham dâm.



  4. The Following 2 Users Say Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (07-18-2015),Thiện Tâm (07-19-2015)

  5. #3
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 3: Virupa - Chân sư của các thiên nữ



    Chân lý hiển nhiên thuộc về ta
    Chỉ cần an trú trong thực tướng
    Chẳng nghĩ, chẳng suy, chẳng nắm bắt
    Chẳng phải của ta, chẳng là ta
    Không cố chấp
    Không cầu tỉnh giác
    Chẳngphải thường hằng
    Chẳng phải hằng
    Giải thoát rốt ráo và viên mãn



    Truyền thuyết


    Ngài Virupa vốn sinh trưởng ở miền đông xứ Triputa thuộc vương quốc Bengal dưới thời vua Devapala.


    Ngay từ thuở thiếu thời ngài đã qui y tu học tại tu viện Somapuri. Không lâu sau đó, ngài nằm mộng thấy Kim cương nữ Bồ Tát trao cho tâm pháp. Với lòng mong muốn mau thành tựu, ngài gia công trì tụng Kim cương chơn ngôn hai mươi triệu biến trong suốt thời gian 12 năm, nhưng ngài vẫn không thấy có dấu hiệu chứng đắc.


    Một hôm, quá ư thất vọng, ngài ném xâu chuỗi vào hố xí và rủa thầm: “Mấy cái hạt vô tích sự này, chẳng liên quan gì đến niềm an lạc của ta.”


    Tuy nhiên, vào một đêm trong khi đang hành trì công phu, sự bừng ngộ xảy ra trong tâm thức, ngài chợt nhớ đến xâu chuỗi đã mất. Tức thì Kim cương nữ Bồ Tát hiện ra trao lại cho ngài xâu chuỗi và dạy rằng: “Ngươi chớ phiền não. Ta sẽ luôn ở bên ngươi để hộ trì. Hãy loại bỏ các kiến chấp phiền não mà gắng công tu tập.”


    Sau đó, ngài Virupa tu tập Kim cương tâm pháp thêm mười hai năm nữa thì ngài thấu triệt đệ nhất nghĩa đế, và kể từ ấy ngài vượt thoát ra ngoài vòng sinh tử.


    Mặc dù vậy, Virupa là người vốn quen rượu thịt. Hằng ngày, người hầu thường đi ra ngoài kiếm rượu thịt để dâng cho ngài. Cho đến một hôm người hầu lén bắt trộm những con chim câu của tu viện làm thịt.


    Thấy bỗng dưng mất những con chim câu, vị giám viện rung chuông họp tăng chúng lại tra hỏi: “Ai trong các người đã ăn thịt những con chim câu của tu viện? ”


    Chúng tăng đồng thanh đáp: “Bạch thầy, việc này vốn chưa từng xảy ra. Có điều chắc chắn là không ai trong chúng tôi lại có thể sát hại những con chim câu ấy.”


    Chợt một vị tăng nhìn vào cửa sổ phòng của Virupa, thấy ngài đang dùng thịt chim câu với rượu.


    Lập tức Virupa bị trục xuất ra khỏi tu viện.


    Gửi lại chiếc bình bát nơi bàn thờ, Virupa đảnh lễ lần cuối cùng trước tượng đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư mà ngài đã thờ phụng hơn 24 năm qua, rồi ra đi.


    Lúc rời cổng tu viện, một ông tăng chận lại hỏi: “Thầy sẽ đi về đâu? ”


    Ngài đáp: “Ta đi theo con đường của riêng ta.”


    Gần tu viện Somapuri có một hồ sen lớn, quanh năm phủ đầy lá. Khi đến gần hồ, Virupa liền ướm thử chân trên một lá sen để xem nó có chìm không. Đoạn ngài niệm danh hiệu Phật, rồi bước thoăn thoát trên những cánh sen để đi qua bên kia bờ hồ.
    Chứng kiến cảnh Virupa hiển lộ thần thông như thế, chúng tăng đều kinh hoàng, lòng tràn đầy hối hận.


    Họ tiến lại gần, năm vóc sát đất, đảnh lễ và sờ vào chân ngài với niềm cung kính vô biên: “Ngài thật có pháp lực vô biên. Cớ sao lại nhẫn tâm giết hại những con chim câu của chúng tôi? ”
    Virupa mỉm cười đáp: “Những gì các ông thấy biết cũng chỉ là ảo ảnh, giống như các hiện tượng thông thường khác trong thế gian mà thôi.”


    Nói xong, sư sai người hầu mang lại những mẩu xương, thịt vụn của chim, bỏ vào lòng bàn tay trái đưa lên cao, tay phải khẻ khảy móng mấy cái.


    Những con chim câu liền sống lại và bay đi, trông chúng to đẹp và khoẻ hơn trước.


    Từ bỏ lối sống của một nhà sư trong tu viện Somapuri, Virupa trở thành một nhà Du-già khất thực. Lang thang đến bờ sông Hằng, ngài xin vị nữ thần sông này một ít vật thực, nhưng vị nữ thần này tỏ ra kiêu kỳ từ chối khiến sư nổi giận, rống lên một tiếng rồi tách nước sông làm đôi để đi qua.


    Ngài đi mãi đến thị trấn Kanasata. Tại đây ngài ghé lại một tửu quán để dùng cơm và uống rượu. Cơm trắng và rượu nồng là hai thứ mà ngài ưa thích nhất.


    Thấy Virupa uống rượu liên miên, chủ quán có ý định đòi tiền trước. Virupa cười bảo: “Ta sẽ ra đi khi trời tối. Lúc ấy trả tiền cũng không muộn.”


    Nói xong, tay trái ngài cầm dao quắm chỉ thẳng vào mặt trời, dùng phép “định thân” chặn đứng mặt trời, chia bầu trời làm thành hai phần: một bên tối và một bên sáng. Cứ như thế trải qua suốt mấy ngày, ngài tiếp tục uống và dùng lửa tam muội thiêu đốt năm trăm ngàn quỷ thần trong vùng, khiến cho hạn hán xảy ra trong vùng.


    Đức vua xứ Kanasata lấy làm kinh hoàng về việc lạ chưa từng có ở đất nước của ngài nhưng không rõ duyên do gì. Cả triều đình cũng bó tay không biết tai họa từ đâu mà đến.


    Cuối cùng, nữ thần Mặt Trời hiện ra báo cho nhà vua biết, sở dĩ có việc lạ như thế là do một hành giả Du-già nợ tiền cơm, rượu, và làm cho chính vị nữ thần này cũng đang phải khốn đốn.
    Nhà vua bèn sai người đến trả tiền cho chủ quán. Virupa biến mất.


    Ít lâu sau, Virupa du hành đến Indra. Đây là vùng đất có nhiều tín đồ Bà-la-môn rất cuồng tín. Virupa tình cờ đi ngang qua một tượng thần Siva bằng đá cao đến hơn 20 mét. Những tín đồ Bà-la-môn đang canh giữ tượng thần buộc ngài phải vái chào thánh tượng Śiva. Ngài chối từ, hỏi rằng: “Bậc trưởng thượng mà phải vái chào kẻ dưới hay sao? ”


    Vua xứ Indra cũng có mặt ở đó, bèn lên tiếng bênh vực cho các đạo sĩ Bà-la-môn. Nhà vua phán: “Nếu ngươi không vái chào thánh tượng, ngươi sẽ phải tội chết.”


    Ngài nói: “Nhưng nếu ta đảnh lễ vị thần này, ta sẽ mắc tội lớn hơn tội chết.”


    Vua đáp: “Ngươi cứ làm. Hãy để tội ấy trẫm gánh chịu.”


    Virupa liền chắp tay cung kính. Tức thì, tượng thần Siva nứt đôi, một giọng nói rền vang như sấm sét từ cõi trời vọng xuống: “Đệ tử có mặt! Bạch thầy có điều gì dạy bảo? ”


    Ngài Virupa nói: “Nay ta qui y cho ngươi. Hãy phát nguyện hộ trì chánh pháp.”


    Thần Siva hiện ra, phát nguyện đúng theo lời dạy. Rồi tượng đá khép lại nguyên vẹn như cũ.


    Từ Indra, Virupa lại vân du đến Devikota thuộc miền Đông Ấn. Hầu hết cư dân vùng này đều là phù thủy ăn thịt người, uống máu nóng. Họ thường rình rập bỏ bùa mê các khách bộ hành tình cờ qua lại vùng này để bắt đem về tế lễ.


    Một ngày nọ Virupa cùng một thiếu niên đi vào vùng này. Cả hai dừng chân ở một ngôi đền thờ cuối làng để nghỉ qua đêm. Trong cuộc tương ngộ này, Virupa có ban cho chú bé một câu thần chú để hộ thân. Cả hai lăn ra ngủ vùi vì quá mệt mõi sau chặng đường dài.


    Lúc ấy, bọn phù thủy đang tụ tập để tế lễ. Họ đã có thịt thú vật nhưng còn thiếu máu người để cử hành đúng nghi thửc của cuộc tế. Gã phù thủy cầm đầu đã bỏ bùa Virupa và cậu bé vào buổi sáng, bèn sai thuộc hạ đến ngôi đền để bắt hai nạn nhân của chúng.


    Nhờ mật chú hộ thân, cơ thể của cậu bé như dính chặt xuống mặt đất khiến bọn phù thủy dùng hết sức cũng không tài nào nhấc lên nổi. Chúng đành khiêng một mình Virupa đang còn say ngủ về nơi ở của chúng.


    Bọn phù thủy tưới rượu lên khắp thân hình của Virupa, tay cầm dao, miệng cười rú lên một cách ma quái. Tiếng cười mỗi lúc một lớn, nhưng khi chúng chưa dứt tiếng cười, Virupa liền ngồi choàng dậy cất tiếng cười. Lần này, tiếng cười của Virupa to hơn gấp ngàn lần tiếng cười của bọn phù thủy, âm thanh chấn động đến tam thiên đại thiên thế giới, khiến bọn chúng mất hết ý thức.


    So với tiếng cười của Virupa, tiếng cười của bọn phù thủy chỉ như tiếng khóc của trẻ sơ sinh.


    Quá kinh sợ, bọn phù thủy khẩn nài xin ngài tha tội. Sau khi dùng thần lực nhiếp phục bọn phù thủy, Virupa làm lễ qui y cho chúng. Ngài dạy: “Nếu các ngươi một lòng chí tín, quy ngưỡng Tam bảo thì ta luôn kề cận các ngươi để hộ trì, tránh khỏi mọi sự tổn hại. Ngày ngày các ngươi phải chuyên cần tu tập hạnh Bồ Tát. Nếu các ngươi giải đãi, tự thân sẽ bị mất đi một cốc máu. Và nếu các ngươi quay lưng lại với chánh pháp mà trở về với loài quỷ thần thì chiếc đĩa này sẽ chém lìa đầu các ngươi. Lúc bấy giờ, Bắc Phương Quỷ Vương sẽ đến hút cạn máu của các ngươi.”


    Bọn phù thủy nhất mực vâng lời dạy của ngài Virupa.
    Tương truyền, ngày nay người ta vẫn còn thấy hình dáng chiếc đĩa này và Bắc Phương Quỷ Vương trong dãi Ngân hà.
    Sau khi nhiếp phục bọn phù thủy, Virupa lại vân du sang xứ khác.


    Ít lâu sau, ngài lại trở về viếng thăm vùng Dekikotta. Lúc bấy giờ, vị Đại Phạm Thiên và thị giả của ngài là Umadevi dùng thần thông tạo ra một thành phố gồm bốn triệu cư dân để tôn vinh và thờ phụng ngài.


    Tất cả vật thực dành cho buổi lễ cung nghinh ngài Virupa trở lại Dekikotta được chư thiên mang đến từ 33 cõi trời trong Dục giới.


    Có truyền thuyết nói rằng ngài thọ đến 700 tuổi mới viên tịch.



    Hành trì


    Chướng ngại của Virupa cũng chính là phiền não của các hành giả Mật tông lúc còn sơ cơ. Trở lực ấy có lẽ do ngài quá đem tâm dục cầu khiến sắc ý bột phát trong giai đoạn tu định và cũng bởi kiến chấp ấy của ngài (preconception) đối với chân tính (nature of reality).


    Kim Cương Thánh Nữ hiện ra như một thực thể nội tại vô biên đã phá vỡ cái vòng luẩn quẩn mà Virupa bị kẹt trong đó suốt 12 năm và giải thoát ngài ra khỏi sự bế tắc của tâm thức.
    Không dựa vào sự vật bên ngoài, vất bỏ xâu chuỗi để đi vào bản tâm, đó là nhận thức đầy tính dứt khoát của Virupa.


    Trong kinh dạy rằng: Bản tâm thanh tịnh thì gọi đó là hạt châu như ý. Bản tâm vốn là không, các pháp lưu xuất thành niệm là do có các căn. Trong khi thiền định, thường thì các kiến chấp sẽ tạo nên vọng tưởng rồi biến thành phiền não.



  6. The Following 2 Users Say Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (07-21-2015),Thiện Tâm (07-19-2015)

  7. #4
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Sử liệu


    Nơi ngài Virupa trải qua 12 năm tu học chính là đại tu viện Somapuri, một trong những tu viện lớn nhất ở vùng Đông Ấn, được xây dựng dưới triều đại Pala (gồm xứ Bengal và Bihar). Các vua thuộc triều đại này vốn là những đại thí chủ của Mật tông.


    Nhà sư học giả Taranatha cho rằng vua Devapala (810-840) đã xây dựng tu viện này, nhưng có lẽ nó đã được tạo dựng trước đó nhiều năm do công của vua Dhamlapaka (770-810), một nhân vật sống cùng thời với Virupa.


    Đến nay, người ta vẫn chưa xác định được vị trí chính xác của tu viện này, nhưng có thể đó là khu vực Ompur ở Bengal.
    Có một điều đáng nói là thanh qui chi phối tăng chúng ở đây đã được sư Santaraksita truyền sang Tây Tạng và vẫn còn được áp dụng cho đến bây giờ.


    Tripura, sinh quán của ngài, gồm những khu vực khác nhau như Radhakisorapura, Assam Devikotta. Các địa danh này cũng là tên của các đền thờ Mẫu thần (Sakta) toạ lạc trong những khu rừng sâu khó vào được. Nơi đó, các bộ tộc theo giáo pháp Đại Mẫu có tập tục tế người như theo chuyện kể ở Kamarupa mà Virupa đã cải đạo cho các bộ lạc này.


    Từ “witch” theo Tạng ngữ là Phra Men (vetala), đó là một loại ma tử thi chuyên ăn thịt người để hoàn sinh (a resurrected flesh-eating corpse), nhưng theo kinh văn Tây Tạng thì đây là những nữ phù thủy bậc thấp chuyên về ma thuật và sử dụng linh phù.


    Có một mẩu chuyện khác kể rằng Virupa được các thiên nữ (dakini) dâng cúng hoa sen và ốc tiên (hai biểu tượng của âm dương).


    Với sự giúp đỡ của một Phật tử, Virupa đến được núi Sri Parvata. Tại đây, ngài A-xà-lê Long Trí Bồ Tát đã truyền thụ cho ngài các pháp thuật của Trời Dạ Ma (Yama). Với các pháp thuật này, Virupa quay lại Devikotta hàng phục các phù thủy và khiến họ qui y Tam bảo.


    Lại có thuyết nói rằng Virupa là người lập ra pháp môn Rakta Yamari Tantra và một số các phương pháp thiền định đó liên quan đến bộ môn Tantra này.


    Xét theo cung cách mà Virupa cải đạo cho dân chúng vùng Devikotta cũng như cách hàng phục Trời Đại Phạm Thiên ở Indra, chúng ta liên tưởng đến vị đạo sư Mật tông Liên Hoa Sanh, một nhân vật cùng thời với ngài, cũng đã dùng những phương cách tương tự để nhiếp phục và cải đạo cho những người theo đạo Bôn ở Tây Tạng. Theo kinh văn của dòng tu Yogini Candika (the Mystic Heat) thì ngài Virupa chính là nhà sư Sridramapala, và Nalanda là tu viện mà Virupa có lần đến tu học và sau đó bị trục xuất. Orissa chính là nơi ngài thi triển tửu lượng.


    Ngoài ra, có một điểm phù hợp với câu chuyện thần Siva nứt ra khi Virupa chắp tay tại Somanath, vì tại Samrastra có một tượng đá của Đại Phạm Thiên (Mahadeva). Bức tượng đá khổng lồ rất nổi tiếng này bị quân Hồi giáo phá huỷ vào năm 1015.



  8. The Following 2 Users Say Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (07-21-2015),Thiện Tâm (07-19-2015)

  9. #5
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 4: Dombipa - Người cưỡi cọp




    Viên đá của nhà triết học
    Biến sắt trở thành vàng
    Năng lực tự nhiên của viên đá quí
    Biến đam mê trở thành thức thanh tịnh



    Truyền thuyết


    Dombipa vốn là quốc vương xứ Ma-kiệt-đà (Magadha). Ngài được Đạo sư Viupa khai ngộ và truyền tâm ấn.


    Vị quốc vương ngộ đạo này thương yêu thần dân của ngài như con đỏ. Tuy nhiên dân chúng vẫn không biết ngài là môn đồ của Mật tông, mà chỉ biết ngài là vị vua hết lòng thương yêu và chăm lo đời sống nhân dân.


    Để đất nước có một cuộc sống an lạc, ngài cho vời viên đại thần đến và dạy rằng: “Vì nghiệp quả đời trước nên đất nước ta thường xảy ra dịch bệnh và nạn đạo tặc. Nay để tránh tai họa cho muôn dân, ngươi mau đúc một cái chuông đồng lớn treo lên một cây đại thụ. Mỗi khi thấy có hiện tượng nguy biến thì đánh chuông ấy lên, tức nhiên tai họa tiêu trừ.”


    Viên đại thần y lệnh. Kể từ đó trong nước bớt nạn trộm, cướp và dịch bệnh. Cho đến một ngày nọ, có một đoàn hát rong từ phương xa đến để trình diễn cho nhà vua xem. Trong đám người thấp hèn ấy có một thiếu nữ 12 tuổi, xinh đẹp diễm lệ, ai thoạt nhìn cũng không khỏi đem lòng yêu thương. Nhà vua bèn tỏ ý nhận nàng về làm bầu bạn. Ngài bí mật ra lệnh cho bọn họ dâng nàng cho ngài.


    Một người trong bọn tâu rằng: “Đại vương! Ngài là bậc cao quí, chúng tôi chỉ là kẻ tôi tớ hạ tiện mà mọi người khinh khi xa lánh. Cớ sao đại vương lại nghĩ đến một việc kết hợp không tương xứng như thế? ”


    Nhưng nhà vua cứ khăng khăng làm theo ý mình và ban thưởng vàng bạc cho đoàn hát rong.


    Sau đó, vua bí mật giấu nàng trong hậu cung suốt 12 năm. Sau đó mọi người mới phát hiện ra sự có mặt của nàng.


    Tiếng đồn loan đi khắp nơi. Người ta nói với nhau rằng: “Nhà vua đã chung sống với một phụ nữ thuộc tầng lớp hạ tiện. Điều này thật khó dung thứ.”


    Trước áp lực của thần dân và triều đình, nhà vua buộc phải thoái vị và giao quyền bính lại cho thái tử.


    Sau đó, nhà vua rời hoàng cung và cùng nàng phi ấy đi vào rừng để sống. Tại nơi hoang dã, cả hai cùng nhau tu luyện môn Du-già mật pháp (Tantric Yoga) trong 12 năm.


    Một dạo sau đấy, kể từ khi vua thoái vị, đất nước lâm vào cảnh rối ren. Triều thần họp lại và quyết định thỉnh cầu cựu vương quay về chấp chính.


    Các sứ giả của triều đình đi vào rừng sâu để tìm ngài và khi gần đến nơi, họ nhìn thấy cựu vương đang ngồi thiền định dưới một gốc cây đại thọ, còn vị phi nữ của ngài đang bước trên những cánh sen để lấy nước sương mai về cúng dường chủ nhân của bà.


    Họ ngạc nhiên quay về tâu với triều đình.


    Sau khi nghe các sứ giả thuật lại sự việc mà họ đã chứng kiến, quần thần cùng nhân dân trong xứ liền kéo nhau đi đón cựu vương.


    Nhận lời thỉnh cầu của dân chúng, nhà vua cùng người thiếp cưỡi trên mình một con bạch hổ, tay roi là một con bạch xà, rời khỏi khu rừng rậm. Tất cả mọi người nhìn thấy cảnh ấy đều không khỏi khiếp sợ.


    Chào hỏi mọi người xong, nhà vua phán: “Ta đã phải mất đi địa vị cao quí chỉ vì sự kết hợp với người phụ nữ ở tầng lớp hạ tiện. Nay các ngươi yêu cầu ta trở lại ngai vàng là một điều không thích hợp. Chỉ có cái chết mới mong xoá bỏ được những thành kiến về giai cấp. Vậy các ngươi hãy hoả thiêu chúng ta.”
    Theo tập tục Ấn Độ, để xoá bỏ những dấu vết tội lỗi hoặc để chứng minh sự vô tội của mình, người ta đưa nạn nhân lên giàn hoả và đốt trong bảy ngày, nếu người ấy còn sống thì sẽ được thừa nhận là vô tội.


    Lễ hoả thiêu nhà vua cùng người thiếp diễn ra trong suốt bảy ngày đêm.


    Đến khi lửa tàn, mọi người đến gần quan sát. Họ thấy quanh thân thể của hai người dường như có một màn sương mong manh, y phục trên người của họ vẫn y nguyên không một vết cháy xém. Mọi nghi ngờ về nhà vua đều tan biến trong lòng mọi người.


    Khi ấy, nhà vua trỗi dậy, bước ra khỏi đống tro tàn và gọi mọi người lại bảo: “Hỡi dân chúng mến yêu của ta. Nếu các người noi được gương tu tập của ta, thì ta sẽ ở lại trị vì các người. Nếu như các người không thể tự tu tập để tự cứu lấy bản thân mình, thì sự có mặt của ta phỏng có ích gì? Quyền lực chỉ là một chút ít lợi lộc nhỏ nhoi. Công đức tu hành mới là to lớn. Vả lại, vương quốc của ta không phải là vương quốc của quyền lực, mà là vương quốc của chân lý.”


    Nói xong, vua liền từ biệt.


    Hành trì


    Ở Ấn Độ, người ta tin rằng tiếng chuông có khả năng xua đuổi tà ma và làm thanh tịnh tâm trí. Chiếc chuông mà Dombipa cho dựng lên có nhiều công năng như để cảnh giác nạn đạo tặc, báo động mối nguy về thiên tai, dịch họa, hoặc xua đuổi các quỷ thần, tà ma, uế trược khi có dịch bệnh, làm thanh tịnh tâm trí và tăng trưởng thiện nghiệp.


    Tiếng chuông ngân là biểu tượng của sự tỉnh giác, và khi nghe tiếng chuông ngân, tâm thức có thể dứt hết các niệm trần để thâm nhập vào cảnh giới tịch tịnh tức không tính (Emptines).
    Ngoài ra, cuộc hôn nhân không cùng đẳng cấp là một điều cấm kỵ của xã hội thời bấy giờ, kẻ vi phạm sẽ bị mọi người khai trừ khỏi giai cấp và có khi bị trừng phạt nặng nề.


    Trong Phật giáo và đặc biệt đối với Mật tông, khuynh hướng chống lại giai cấp không phải là sự đối kháng gay gắt nhằm lật đổ giai cấp hay cải tạo xã hội như các học thuyết khác. Vua bỏ ngôi, quan từ chức để đi tu chính là hành động từ bỏ giai cấp của mình - một cách chống đối quan điểm giai cấp.


    Nhưng đối với quần chúng thời ấy, sự chống đối này không bị ghép tội vì đây là sự miễn trừ đối với thần thánh. Hơn nữa, đối với người tu hành, muốn đạt tới Phật tính thì điều căn bản là cần phải diệt hết các kiến chấp về giai cấp.


    Chính vì vậy mà các hành giả Du-già thường chọn người bạn đời, kẻ đạo hữu của mình từ giai tầng thấp hơn trong xã hội, để trưởng dưỡng tâm vô phân biệt (awareness of non-discrimination).


    Với các phương thức tu tập đặc biệt của Du-già, hành giả có thể biến dục tưởng thành trí huệ.


    Đối với một hành giả Du-già thì người vợ tinh thần (mystic consort) hay đạo hữu ấy là sắc tướng của nghiệp ấn (karma mudra) để ấn chứng các giai đoạn tu tập ba nghiệp (thân, khẩu, ý). Người vợ tinh thần của Dombipa chính là hoá thân của Kim cương Bồ Tát. Pháp tu của họ là kết hợp giữa dục lạc (pleasure) và không tính (emptiness). Phương pháp này dùng để kích động luồng hoả hầu (kundakini) ở trung tâm tình dục (sexual chakra) khiến nó làm lưu thông các luân xa (yếu huyệt) trong cơ thể.


    Sử liệu


    Theo tài liệu của Taranatha thì Dombipa vốn là vua xứ Tripura, quê hương của đạo sư Virupa, vị thầy tế độ của Dombi.


    Tương truyền rằng sau khi hoàn thành nhiệm vụ giáo hoá thần dân trong nước, Dombipa cùng vợ ngài vân du khắp nơi dùng thần thông để lợi lạc quần sanh, nhiếp phục ngoại đạo và khai ngộ cho những kẻ có cơ duyên.


    Có lần ngài cưỡi cọp bay ngang qua thành Radha để nhiếp phục vị quốc vương xứ này. Và tại Karmataka, miền nam Ấn Độ, Dombipa đã truyền giáo pháp cho năm trăm môn đồ.


    Dombipa còn được biết dưới một danh hiệu khác là Dombi Heruka. Dombipa nghĩa là chúa của Dombi. Và Dombi là tên của vợ ngài. Heruka là tiếng ghép giữa Samvara và Hevajra, đó cũng là pháp hiệu của một đạo sư (Siddha). Vì thế, Dombi là Hevajra. Dombi Heruka tạo lên nhiều bộ luận có liên quan đến Tantra Mẹ. Tác phẩm tiêu biểu nhất là Ekavira -Saddha.
    Ngài sống vào cuối thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ 9.


  10. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Thiện Tâm (07-22-2015)

  11. #6
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 5 : Savaripa - Người thợ săn



    Trong khu rừng hoang vu
    Một con nai ẩn náu
    Con nai có tên là chán bỏ
    Kéo cánh cung của phương tiện là trí tuệ
    Buông chiếc tên chân lý
    Con nai chết
    Ừ, tư tưởng chết
    Thịt xương ấy là bữa tiệc của bất nhị
    Thuần một vị thanh tịnh mà thôi
    Và mục đích ta đã đạt đến rồi



    Truyền thuyết



    Tại vùng núi Vikrama, có một người thợ săn tên là Savaripa. Ông giết hại muông thú để sống và sống để giết hại muông thú, bởi đó là nghề nghiệp không mong muốn của ông.


    Bồ Tát Quán Thế Âm động lòng muốn giải thoát cho ông khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy, bèn dùng thần thông hoá thành một người thợ săn đón ông ở giữa đường.


    “Ông là ai? ” Người thợ săn Savaripa hỏi.
    “Ta cũng là thợ săn như ông.”
    “Ông từ đâu tới? ”
    “Rất xa.”
    “Thế với một mũi tên, ông có thể bắn hạ bao nhiêu con nai? ” Savaripa hỏi với vẻ tự hào về tài thiện xạ của mình.
    Bồ Tát đáp: “Khoảng chừng 300 con hoặc hơn nữa.”
    “Thế thì ta muốn xem tài của ông.”
    Bồ Tát nhận lời thách thức của Savaripa.
    Sáng sớm hôm sau, y hẹn, Bồ Tát đưa Savaripa đến một nơi có sẵn 500 con nai do ngài dùng sức thần thông hiện ra.


    Người thợ săn vừa trông thấy bầy nai, bèn đưa tay chỉ: “Kìa! Cả bầy nhiều như thế, ông có khả năng hạ được bao nhiêu con? ”
    “Ta sẽ hạ một lúc 500 con.”
    Savaripa có vẻ không hài lòng, đề nghị: “Sao ông không bắn trước 100 con thử xem? ”


    Bồ Tát liền bắn một mũi tên, 100 con nai cùng ngã lăn ra chết. Bồ Tát bảo Savaripa mang một con về nhà. Nhưng khi cúi xuống để vác một con nai, Savaripa vận hết sức lực vẫn không tài nào nhấc lên. Lúc ấy, lòng kiêu hãnh của y biến mất.
    Trên đường về, Savaripa khẩn khoản xin Bồ Tát dạy cho y cách bắn cung kỳ diệu ấy. Ngài nhận lời nhưng buộc Savaripa phải chay tịnh trong vòng một tháng.


    Nhờ vậy, hai vợ chồng Savaripa bớt được nghiệp sát sanh trong thời gian một tháng.


    Sau thời gian ấy, Bồ Tát quay lại và bảo Savaripa rằng: “Nếu ông thực lòng muốn học thuật bắn cung vi diệu của ta, thì trước hết ông phải khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, từ bỏ rượu thịt, thì việc học mới mau chóng thành tựu.”


    Savaripa đồng ý ngay không một chút ngần ngừ. Thời gian ấn định trôi qua, khi Bồ Tát trở lại, Savaripa nồng nhiệt đón chào. Nhưng Bồ Tát chẳng đá động gì đến việc dạy dỗ.


    Ngài vẽ một vòng tròn Mạn-đà-la rồi rải một lớp hoa tươi lên vòng ấy. Rồi Bồ Tát bảo hai vợ chồng người thợ săn: “Các ngươi thử nhìn vào xem! ”


    Khi nhìn vào vòng tròn kỳ diệu ấy, cả hai thấy hình ảnh của họ đang bị lửa thiêu đốt trong địa ngục. Quá kinh hoàng, họ không thốt nên lời.


    “Các ngươi thấy những gì?” Bồ Tát hỏi.
    “Chúng tôi thấy bản thân mình bị thiêu đốt trong địa ngục.” Cuối cùng, Savaripa gắng gượng trả lời.
    “Các ngươi có sợ không?”
    “Dĩ nhiên, chúng tôi rất sợ.”
    “Các ngươi có muốn tránh khỏi nạn ấy không?”
    “Chúng tôi rất muốn, nhưng biết phải làm sao?”
    “Chính các ngươi có thể tự cứu lấy mình.”


    Bồ Tát liền giảng về nghiệp quả cho hai người nghe. Sau đó là thuyết về bốn tâm vô lượng và sáu pháp Ba-la-mật. Ngài nói: “Hậu quả đời sau của nghiệp giết hại là thác sinh vào địa ngục, hiện thời thường gặp nạn tai bất ngờ, thọ mạng ngắn ngủi. Nếu người từ bỏ ác nghiệp, tu tập hạnh lành, tích lũy công đức, thì không những thọ mạng lâu dài mà còn có thể tu thành quả Phật.”
    Nhận thấy Savaripa ngộ được chánh pháp, Bồ Tát liền dùng phép thần thông đưa Savaripa lên đến đỉnh núi Đan-ti để tu tập thiền định trong 12 năm.


    Sau thời gian dài tu tập, Savaripa xuất định, xuống núi đi tìm thầy mình.


    Bồ Tát hiện ra bảo: “Này, thiện nam tử! Cảnh giới Niết-bàn vi diệu mà ngươi đã chứng chẳng phải là cảnh giới của hàng Thinh văn, Duyên giác. Đời sống ở thế gian như lửa rơm mau cháy, chóng tàn. Vô số chúng sinh còn luẩn quẩn trong vòng vô minh. Nay ta phú chúc cho người thay ta lưu lại thế gian mà tế độ chúng hữu tình.”


    Savaripa vâng mệnh, quay về quê cũ tiếp tục thiền định chờ cho đến khi vị Phật đương lai hạ sinh là ngài Di Lặc ra đời để cùng ngài giáo hoá chúng sinh trong một thời kỳ mới.

  12. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Thiện Tâm (07-22-2015)

  13. #7
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 6: Saraha - Đại Bà-la-môn



    Này hiền hữu, khắc ghi tâm trí
    Tuyệt đối kia vốn có sẵn đây
    Cớ sao quanh quẩn suốt ngày
    Tìm đâu cho thấy? Chỉ hoài công thôi!
    Lời bí mật ở trên môi
    Vị chân sư ấy, vì sao không cầu?
    Phép rốt ráo thật nhiệm mầu
    Nhận ra chân lý, tử sinh sá gì!



    Truyền thuyết


    Saraha vốn là một nhà quí tộc thuộc giai cấp Bà-la-môn ở Roli, miền đông Ấn Độ. Bẩm sinh ngài đã có phép thần thông vì ngài vốn là một Daka, tức là con của một thánh nữ (Dakini).


    Mặc dù được dạy dỗ theo khuôn phép của đạo Bà-la-môn nhưng ngài lại đi theo con đường Phật pháp. Saraha được các nhà sư Phật giáo mật truyền tâm pháp. Ban ngày ngài học giáo pháp của đạo Bà-la-môn, nhưng đêm đến ngài lại nghiên cứu Phật lý.


    Tuy vậy, ngài vẫn là người hay uống rượu. Điều này vi phạm giáo luật của đạo Bà-la-môn nên họ kết tội ngài và thỉnh cầu nhà vua tước bỏ địa vị của ngài.


    Bọn người Bà-la-môn tâu rằng: “Tâu đức vua anh minh! Ngài có trách nhiệm bảo vệ quốc giáo. Gã Saraha này, chúa của 15.000 hộ dân thành Roli, lại báng bổ giáo luật. Hãy trừng phạt hắn để làm gương.”


    Vua phán: “Trẫm không thể lưu đày một vị chúa của 15.000 hộ dân.”


    Sau đó, vua đích thân đến viếng Saraha và khuyên ngài bỏ rượu. Saraha không thừa nhận nên tâu với vua: “Thần không có uống rượu. Nếu bệ bạ ngờ vực, xin mời dân chúng họp lại, thần sẽ chứng minh là mình vô tội.”


    Khi tất cả mọi người tề tựu đông đủ, Saraha tuyên bố: “Ta vô tội. Nếu ta có tội thì tay ta đây bị sẽ cháy bỏng.”


    Nói xong, Saraha liền nhúng cả cánh tay vào một vạc dầu đang sôi hừng hực, nhưng tay vẫn không hề hấn gì. Thấy thế, nhà vua quay lại hỏi những người bà-la-môn: “Các ngươi còn cho rằng Saraha có tội hay không? ”


    Những người bà-la-môn chống chế: “Chính ông ta thật có uống rượu.”


    Lần này, Saraha bưng lấy một bát đồng sôi đang nấu chảy kê miệng uống ngon lành.


    Những người bà-la-môn lại gào lên: “Chính chúng tôi chứng kiến ông ta uống rượu.”


    Saraha bèn thách thức bọn giáo sĩ: “Bây giờ, ta và một trong các ngươi nhảy vào bồn nước này, kẻ nào chìm là có tội.”


    Một người trong bọn họ tình nguyện cùng Saraha nhảy vào bồn, nhưng chính y bị chìm xuống tận đáy. Ngay lập tức, Saraha tuyên bố: “Ta vô tội nếu như lần này ta chìm xuống, ngươi nổi lên.”


    Thế là Saraha lại chìm xuống đáy nước, còn người kia nổi lên mặt nước.


    Chứng kiến cảnh Saraha hý lộng thần thông như thế, vua bèn phán: “Nếu Saraha pháp lực cao cường thì cứ để cho ngài uống rượu.”


    Lúc ấy, mọi người lấy làm ngưỡng mộ, tiến đến vái chào Saraha và xin ngài truyền pháp.


    Saraha ứng khẩu đọc ba bài kệ, một cho đức vua, một cho hoàng hậu và một cho tất cả mọi người.


    Ít lâu sau, Saraha kết duyên cùng một thiếu nữ xinh đẹp ở độ tuổi trăng tròn. Ngài cùng vợ rời quê nhà đi sang một xứ khác.
    Ngày ngày, Saraha tu tập thiền định, còn người vợ trẻ đi xin vật thực về để cúng dường cho chủ nhân của bà.


    Một ngày nọ, Saraha ngỏ ý muốn ăn món cà-ri cải. Người vợ liền đi nấu món cà-ri này mang đến cho ngài.


    Khi bà mang món ăn đến thì Saraha đang nhập định nên bà đặt bát cà-ri bên cạnh rồi lặng lẽ rút lui.


    Saraha nhập định trong 12 năm. Khi vừa xuất định, ngài bèn lớn tiếng kêu vợ mang món cà-ri đến.


    “Ngài đã nhập định suốt 12 năm, bây giờ không phải là mùa cải, lấy gì mà nấu? ”


    Saraha ngượng ngùng khi nghe vợ trách như thế. Ngài định bỏ đi lên núi cao để tiếp tục hành thiền. Biết thế, người vợ liền khuyên: “Núi cao, hang sâu đâu chắc đã thật là cảnh thanh tịnh. Sự thanh tịnh chân chính là từ bỏ kiến chấp của tâm hẹp hòi. Ngài nhập định suốt 12 năm, vậy mà vẫn còn bám lấy ý muốn ăn món cà-ri cải của 12 năm trước, thì cho dù lên núi cao hay vào hang sâu, phỏng có ích gì? ”


    Nghe vợ nói thế, Saraha chợt tỉnh ngộ.


    Vì vậy ngài không đi nữa mà ở lại đó tiếp tục tu tập. Ngài quán xét lẽ “các pháp vốn thanh tịnh” cho đến lúc liễu ngộ hoàn toàn.



    Hành trì


    Saraha đã vượt lên trên cả hai phạm trù đúng và sai. Ngài chứng minh rằng tất cả các hiện tượng mà chúng ta đang cảm nhận bằng giác quan đều là hư vọng (delusory).


    Điều ấy không ngụ ý rằng không có chân lý, không có đúng, sai, mà chỉ chứng tỏ rằng định lực của một vị đạo sư có thể hoán chuyển và kiểm soát các nguyên tố cấu thành mọi hiện tượng trong vũ trụ (tứ đại).




  14. The Following 2 Users Say Thank You to caydendau For This Useful Post:

    luanhoi (01-03-2017),Thiện Tâm (07-22-2015)

  15. #8
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 7: Kankaripa - Kẻ góa vợ



    Ôi! Thiên nữ, Dakini của lòng ta
    Nàng dung mạo mỹ miều
    Mà chỉ có mắt thanh tịnh của ta
    Mới đủ khả năng chiêm ngưỡng
    Tướng ấy không lìa ta
    Nhưng không phải thuộc về ta
    Các pháp hiện tượng của một vũ trụ rỗng không
    Thiên nữ ơi! Nàng chẳng có gì sánh bằng
    Vì ta không đủ lời diễn tả



    Truyền thuyết


    Một thuở nọ, tại Magaddha có một thanh niên thuộc giai cấp hạ tiện. Lớn lên, anh ta kết duyên cùng một thiếu nữ có nhan sắc mặn mà cũng cùng tầng lớp xã hội.


    Anh ta tính tình chơn chất và cũng không phải là hạng người thiếu đạo đức. Tuy nhiên, anh ta thường không quan tâm đến cuộc sống đức hạnh và những giá trị của tâm linh. Vì thế, sau khi trải qua lạc thú của lứa đôi, anh ta có cảm giác rằng chỉ có cuộc sống thực tại mới đem lại cho anh ta những lạc thú hoàn toàn. Còn tất cả những điều khác chỉ là vô nghĩa.


    Rủi thay, cho đến một ngày của định mệnh khắc nghiệt, người vợ trẻ lâm bạo bệnh và qua đời!


    Đau khổ đến mất cả lý trí, anh ta ôm chặt lấy thây ma mà không chịu buông rời nửa bước.


    Một nhà sư Du-già thấy anh ta trong tình trạng vô cùng tuyệt vọng và đau khổ ấy bèn dừng chân để hỏi duyên cớ.


    “Ngài không thấy tôi đang đau đớn như bị cưa xẻ đây sao? Nàng chết đi là một mất mát to lớn, là kết thúc mọi niềm hạnh phúc, khoái lạc của đời tôi. Quả thật không ai trên đời này đau khổ bằng tôi.”


    Nhà sư khuyên: “Tất cả cái gì sinh ra đều phải kết thúc bằng cái chết. Có sinh thì có tử. Có tụ thời có tán. Gặp gỡ rồi phải chia ly. Trong cõi thế gian vô thường này, ai cũng phải trải qua những chặng đường đau khổ ấy. Đó là qui luật tự nhiên, cớ sao ngươi lại phải vật vã mà ôm giữ cái thây ma kia, khác nào ôm giữ một đống bùn? Cớ sao ngươi không tu tập để cho vơi bớt nỗi sầu khổ kia?”


    Nghe vị sư nói, anh ta choàng tỉnh cất tiếng nài nỉ: “Xin ngài xót thương dạy cho tôi cách thoát khỏi nỗi đau khổ này.”


    Vị sư hoan hỷ nhận lời, khai thị cho anh ta. Kế đó, ngài dạy cho anh ta phương pháp thiền định để trừ tâm sầu não và những ý nghĩ vẩn vơ về cái chết của người thân yêu. Ngài dạy cho anh ta cách quán tưởng hình ảnh vợ mình như một Kim cương Thánh nữ (Dakini), một biểu tượng của không tính và tịnh lạc. Đồng thời, ngài cũng dạy cho anh ta quán các pháp vốn không có tự ngã.


    Sau 6 năm tu tập, khi thấy rõ các pháp đều do duyên sinh, Kankaripa hốt ngộ chân lý.



    Hành trì


    Hư không (space) và thanh tịnh quán (pureawreness) là hai-trong-một (two-in-one). Dakini vừa là sắc tướng của một người nữ vừa là tướng của thanh tịnh thức. Vũ khúc của Dakini là sự chuyển động của nguyên lý âm dương. Đó là sự vận hành của các pháp thế gian.



  16. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Thiện Tâm (07-22-2015)

  17. #9
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 8: Minapa - Con người xui xẻo




    Người ngư phủ bám chặt vào chiếc cần câu
    Trôi dạt ra biển cả của số phận
    Sống sót trong bụng cá
    Tu tập phép Du-già
    Mà thần Siva dạy cho Uma
    Người ngư phủ ấy là Minapa
    Và sau đó trở lại đất liền
    Ngay cả đá
    cũng không chịu nổi bước chân của ngài



    Truyền thuyết


    Minapa vốn làm nghề chài lưới ở vùng Bengal. Chân sư của ngài chính là Đại phạm thiên vương.
    Minapa thường ngày vẫn dong thuyền ra khơi đánh cá đem về chợ bán để độ thân.


    Một hôm, Minapa vô tình dùng thịt làm mồi câu, một con kình ngư nổi lên đớp mồi làm đắm cả thuyền và nuốt trọn thân mình Minapa vào trong bụng. Nhưng vì số kiếp chưa hết nên Minapa tiếp tục sống trong bụng của nó.


    Trong khi ấy, Thánh nữ Umadevi là vợ của Đại phạm thiên (Mahadeva) cầu xin chồng bà truyền cho pháp thuật. Đại phạm thiên không muốn truyền pháp bí mật ở những nơi mà người khác có thể lén nghe, bèn bảo với Umadevi cùng đi xuống đáy biển sâu.


    Lúc bấy giờ, con thủy quái chứa Minapa trong bụng lại nằm nghỉ gần nơi Đại phạm thiên đang truyền pháp cho Umadevi.
    Vì nữ thần này ngủ gục trong khi Đại phạm thiên giảng pháp, nên chính Minapa lại là người học được trọn vẹn pháp thuật của Thiên vương.


    Đến khi Đại phạm thiên vương ngừng nói pháp thì Umadevi tỉnh giấc, lại bảo: “Ngài nói tiếp đi.”


    “Nhưng ta vừa mới nói xong. Vậy thì từ nãy giờ ai đã đối dáp cùng ta? ” Đại phạm thiên nói với vẻ ngạc nhiên.


    Ngài liền dùng thiên nhãn xem khắp, chợt thấy Minapa đang ở trong bụng con thủy quái nằm gần đó, bèn nghĩ thầm: “Chính người này mới thực sự là môn đồ của ta.”


    Được cơ may hiếm có, Minapa thiền định suốt 12 năm trong bụng con thủy quái.


    Về sau, ngư dân trong vùng bắt được con thủy quái và mổ bụng nó vì tưởng có châu báu. Nhờ thế, Minapa thoát ra được.


    Mọi người chứng kiến cảnh Minapa chui ra từ bụng cá đều kinh hãi. Ai cũng sửng sốt khi nghe tên vị vua dưới thời Minapa chưa bị nạn, mới biết ngài ở trong bụng cá được 12 năm.
    Vì vậy họ gọi ngài là Thầy Cá và tất cả đều đảnh lế cúng dường vật thực cho ngài.


    Vui mừng về sự thành tựu ấy, Minapa nhảy nhót khiến chân ngài lún sâu vào mặt đất đá y như người ta cho chân xuống bùn.
    Tương truyền, ngài thọ đến 500 năm.



    Hành trì


    Con cá khổng lồ trong truyện là biểu trưng của đời sống tinh thần. Bị cá ấy nuốt vào bụng mà không chết là do công đức đời trước của Minapa.


    Khác với các vị Du-già kia, Minapa không tự nguyện mà là tình cờ một cách may mắn học được pháp thuật. Sự may mắn sau cùng là sau 12 năm thiền định dưới nước, Minapa được về lại đất liền. Ở đây, ý nói Minapa không bị tù đày, trói buộc trong pháp môn tu tập mà vượt thoát ra ngoài, không chấp vào pháp tu của mình.


    Đối với một hành giả Mật tông (tantrika), cá tượng trưng cho sự giải thoát vì nó tự do bơi lội không cần phải nỗ lực, không cần phải ngủ nghỉ và không bị ướt (ái nhiễm, tỉnh giác).


    Sử liệu


    Minapa còn gọi là Macchendra hay Mina. Ngài vốn là bậc Đệ nhất chân sư (Adi Guri) của giáo phái Sakta tức dòng tu Yogini Kaula hay còn gọi là Siddhamarta.


    Kinh Kaulajrana Nimaya có ghi phần giáo pháp mà Đại phạm thiên truyền cho Umadevi.


    Cũng có tương truyền rằng Minapa đã nhặt được kinh này ngoài biển, vì con trai của thần Siva hoá chuột đánh cắp kinh này, sau đó ném ra biển. Cho nên mới có sự tích Minapa học được pháp thuật này ở Nepal. Người ta còn cho rằng chính Bồ Tát Quán Thế Âm dạy cho thần Siva môn Du-già, và Minapa vô tình học được khi thần Siva truyền lại pháp này cho Parvatte tức Umadevi.


    Cũng có thuyết nói rằng khi nạn đói kém vì thiên tai hạn hán xảy ra ở Nepal thì chỉ có Minapa mới đủ khả năng cầu đảo. Vua Narendradeva đã sai sứ giả đến tìm. Ngài Minapa nhận lời và bảo sứ giả về trước, còn ngài hoá thân thành một con ong nghệ xuất hiện bay quanh chỗ vua. Nhà vua vừa đưa tay tóm bắt thì trời đổ mưa.


    Cảm động công đức ấy, vua cho vẽ chân dung của ngài để thờ phụng khắp nơi như một vị thần thủ hộ của xứ Nepal.


    Ngày nay, người ta còn thấy tại một trong những ngôi đền chính của thủ đô Kathmandu có tượng thờ ngài Minapa.



  18. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Thanh Trúc (07-24-2015)

  19. #10
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 9: Goraksa - Kẻ chăn bò bất tử



    Cho dù sinh ra ở giai cấp nào
    Ngươi cũng có cơ hội đi tới giải thoát rốt ráo
    Mà không có chướng ngại nào
    có thể ngăn lối ngươi đi
    Ta! Goraksa cũng chộp lấy cơ hội ấy
    Ta gieo hạt giống giác ngộ
    Bằng cách phục vụ cho Caurangi một cách vô tư
    Và Acinta đã ban cho ta
    những giọt rượu trường sinh
    Goraksa đã chứng đắc
    Riêng ta đứng nơi đây
    Uy nghiêm như một vị vua của ba cõi



    Truyền thuyết


    Goraksa sinh ra trong một gia đình tiểu thương dưới đời vua Devapala. Thuở thiếu niên, ông đã chăn trâu để giúp gia đình.


    Một hôm theo lệ thường, Goraksa đang cùng lũ mục đồng nô đùa thì đại sư Minapa đến chỗ bọn trẻ. Ngài nói: “Này các cháu, các cháu có nhìn thấy lũ kên kên bay lượn quanh đây không? Gần đây có một hoàng tử gặp nạn. Ngài bị chặt lìa chân tay và đang nằm chờ chết. Có cháu nào giúp ta đến cứu mạng hoàng tử không?”


    Nghe nhà sư nói, Goraksa đáp ngay: “Cháu thấy ạ! Nhưng trong khi cháu đi cứu ông hoàng, xin ông giúp cháu trông chừng đàn trâu.”


    Thế là, Minapa canh bầy trâu, còn Goraksa đi tìm hoàng tử gặp nạn. Theo hướng bay lượn của bầy kên kên, Goraksa tìm thấy một hoàng tử đang nằm ngất bên thân một cây to.
    Goraksa quay lại báo với nhà sư: “Quả nhiên đúng như lời ông nói.”


    Sư hỏi: “Thế con đã làm gì?”
    “Thưa ông, con đã cho hoàng tử phân nửa phần thức ăn mà con mang theo.”
    “Tốt lắm! Vậy con hãy chăm sóc hoàng tử cho đến khi ngài lành bệnh nhé! ”
    Nói xong, nhà sư từ biệt.
    Cậu bé vâng lời, đi chặt những cành lá to để dựng lều cỏ rồi vực hoàng tử vào bên trong.


    Ngày ngày Goraksa mang thức ăn đến cung phụng, lại còn tắm rửa cho ngài một cách chu đáo. Goraksa phục vụ và an ủi vị hoàng tử trong 12 năm.


    Bấy giờ, Goraksa đã trở thành một chàng thanh niên cao lớn.
    Một ngày nọ, theo thường lệ, Goraksa đến chỗ ông hoàng, cậu ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy vị hoàng tử này đang đứng thẳng trên đôi chân.


    Trong giây lát, Goraksa hiểu ra rằng lâu nay vị hoàng tử đã tu tập phép Du-già của sư Minapa truyền cho. Nay việc hành trì đã đem lại kết quả nên tứ chi của hoàng tử lành lại như cũ.
    Đoạn, ông hoàng vận thần thông bay lượn giữa không trung và hỏi vọng xuống: “Ngươi có muốn học phép thiền định của ta không?”


    Goraksa đáp: “Tôi không cần phải học với ngài. Tôi cũng có một chân sư. Chính thầy tôi sai tôi chăm sóc, nuôi dưỡng ngài bấy lâu nay.”


    Nói xong, Goraksa quay đi chăn trâu và chờ sư Minapa đến. Chẳng bao lâu thì sư Minapa lại xuất hiện, Goraksa thuật lại sự việc, sư lấy làm hài lòng. Ngài điểm đạo cho chàng và truyền cho pháp thuật.


    Goraksa y pháp tu hành mãi cho đến khi thấy có hiện tượng sở đắc, ngài bèn đi tìm Minapa.


    Nhưng sư lại bảo Goraksa sẽ không thể đại triệt đại ngộ nếu ông không hoá độ được vô số chúng sanh thoát khỏi luân hồi.
    Goraksa lại bắt đầu vân du khắp nơi để hoằng pháp độ sinh. Nhưng Đại phạm thiên vương hiện ra khuyên rằng: “Ngài chỉ nên truyền pháp cho những kẻ chí tâm cầu đạo, chớ có trao pháp cho kẻ thiếu tín tâm và những kẻ ngu độn.”


    Nghe vậy, từ đó Goraksa chỉ truyền pháp cho những ai hội đủ các duyên và căn cơ khế hợp với giáo pháp của ngài.



    Hành trì


    Các hành giả Du-già thuộc giáo phái Nath tu tập môn Hatha-yoga,một lối tu khổ hạnh. Họ tìm cách chặn đứng ý thức và nghiệp gây ra từ sự hoạt động của tứ chi, tập trung mọi năng lực vào các luân xa (chakra) hoặc vào cửu khiếu (nine bodily orfius).


    Công phu lâu ngày, họ có thể bẻ gập các khớp xương để xếp sát vào thân như bị chặt tay chân, giống như con rùa rút vào trong cái mai của nó.



  20. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    Thanh Trúc (07-24-2015)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •