DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 6/9 ĐầuĐầu ... 45678 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 51 tới 60 của 86
  1. #51
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đai sư thứ 50: Medhini - Người nông dân mệt mỏi



    Thông qua tuệ giác của sự hiểu biết bẩm sinh
    Và phương tiện thiện xảo của giáo pháp
    Vì nền tảng ấy là bản chất thật của chúng sanh
    Niềm tịnh lạc khởi lên, nghĩa là đến đích



    Truyền thuyết


    Medhini là nông dân ở thành Hoa Thị, tình cờ gặp được chân sư của mình trên cánh đồng mà ông đang cày bừa.


    Sư truyền pháp cho ông, nhưng vì cuộc sống bận rộn khiến ông không thể thực hành thiền định như ý muốn. Medhini bèn tìm đến thầy bày tỏ trở ngại.


    Sư nói:


    Ý thức là cái cày
    Cảm thọ là bò kéo
    Cày cánh đồng nhân duyên
    Gieo hạt giống trí huệ
    Thu hoạch vui thanh tịnh.



    Medhini lãnh hội được ý thầy, bèn quay về tu tập. Sau 12 năm thì chứng đắc.



  2. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    hoatihon (08-21-2015)

  3. #52
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 51: Pankajapa - Bà-la-môn thác sanh từ hoa sen



    Bơ vơ giữa cuộc đời
    Không một chút kiến thức
    Làm sao phân biệt được
    Đá quí với thủy tinh
    Nhưng với sự nhận thức
    Và được sự hướng dẫn của một chân sư
    Chúng cũng chẳng khác gì nhau
    Vì ánh sáng của mặt trăng, mặt trời
    Cũng chỉ là tia chớp của loài đom đóm


    Truyền thuyết


    Mặc dù Pankajapa thuộc giai cấp bà-la-môn, nhưng tương truyền ông sinh ra từ một đoá sen trong một cái hồ lớn ở vùng xa xôi hẻo lánh.


    Cách hồ ấy không xa có một bức tượng của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng những người bà-la-môn lại lầm tưởng là tượng của Đại Phạm Thiên Vương, nên họ thường lui tới để lễ bái cúng dường.


    Theo phong tục bản xứ, mỗi tín đồ đều mang ba nhánh hoa đến cúng dường trước tượng, sau đó lấy một nhánh đặt lên đầu để được ban phúc.


    Một ngày nọ, đại sư Long Thụ đi ngang qua đền. Ngài ghé lại và cúng dường lễ bái thánh tượng của Bồ Tát.


    Đức Quán Thế âm Bồ Tát thị hiện thâu nhận lễ vật và lấy một cành hoa đặt lên đầu đại sư Long Thụ. Pankajapa chứng kiến việc lạ ấy, lấy làm ngạc nhiên và ganh tị.


    Ông bảo với ngài Long Thụ: “Ta lễ bái cúng dường bức tượng này suốt 12 năm nhưng chưa hề được ân huệ như thế. Lẽ nào ngươi chỉ lễ bái có một lần duy nhất mà đã được ban phúc.”


    Ngài Long Thụ đáp: “Ý nghĩ của ngươi thật bất tịnh. Điều này không phải lỗi ở ta.”


    Pankajapa chợt hiểu rằng mình đã sai, bèn dập đầu xuống đất cầu ngài Long Thụ thu nhận làm đệ tử.
    Đại sư nhận lời và điểm đạo cho ông:


    Từ bi là niềm vui sướng vô biên
    Vì vậy, bậc thánh nhân không phân biệt
    Kẻ thân hay người sơ
    Như cơn mưa lớn tưới khắp muôn nơi
    Đó là trí tuệ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát




  4. #53
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 52: Ghantapa - Người rung chuông



    Tự ban phép lành cho chính mình
    Bằng cách buộc tâm ở ba nơi
    Kinh lalana ở bên phải
    Kinh rasana ở bên trái
    Avadhuti ở ruột cùng
    Để nắm bắt được chân lý
    Kẻ trí giả cần quan tâm đến ba điều:
    Chân sư - tâm - và hiện tượng



    Truyền thuyết


    Ghantapa vốn là tu sĩ của một đại tu viện thuộc vùng Sri Nalanda. Ngài nổi tiếng là người giữ gìn giới luật tinh nghiêm và thông thạo về Ngũ minh môn.


    Chẳng bao lâu, ngài rời Nalanda đi vân du đây đó để hoằng dương chánh pháp, làm lợi lạc quần sanh và thực hành hạnh vô ngã, cũng là để mở rộng tầm hiểu biết về mọi mặt.


    Vào thời đó, hoàng đế Devapala do công đức đời trước nên cai trị một vương quốc giàu có và thịnh vượng gồm một triệu tám trăm ngàn hộ dân, cùng với hai nước chư hầu khác là Kamapura và Bengal.


    Xứ Kamapura có chín trăm ngàn hộ, xứ Bengal có bốn trăm ngàn hộ, tổng cộng ngài cai trị cả thảy ba triệu một trăm ngàn hộ dân.


    Thủ phủ Pataliputra là nơi mà đạo sư Ghantapa đến truyền bá đạo pháp. Thường ngày ngài đi khất thực và về nghỉ ngơi dưới một bóng cây đại thụ.


    Một hôm, hoàng đế bàn với hoàng hậu rằng: “Tất cả các pháp đều vô thường. Tất cả chúng sinh đều phải chịu khổ đau. Tất cả những thấy biết, cảm thọ trong cuộc sống thật là vô nghĩa. Đối với công việc triều chính, ta đã chu toàn trách nhiệm, ta đã trải rộng biên cương, lo cho dân lành một cuộc sống bình yên, no đủ. Vậy chúng ta có nên cúng dường những thứ vật thực cần thiết cho tăng chúng để tích lũy thêm công đức cho đời sau chăng?”


    Hoàng hậu nghe qua bèn tâu: “Trong nhiều đời thuộc quá khứ, bệ hạ đã từng cúng dường cho các thánh tăng, nên đời này mới được hưởng phước báo. Cớ sao chúng ta lại không tiếp tục tạo dựng công đức cho đời nay lẫn đời sau? Thần thiếp nghe nói rằng hôm nay có một du tăng từ phương xa đến. Có lời đồn rằng ngài là một bậc đạo hạnh, trí huệ thông suốt như một bậc thánh. Ngài chẳng có gì quí giá ngoài những vật dụng cần thiết và một tấm tọa cụ. Thường ngày ngài đi khất thực loanh quanh. Vậy, ta nên thỉnh ngài đến hoàng cung để dự đại tiệc. Chúng ta sẽ thết đãi ngài tám mươi bốn món ăn chính, mười bốn loại thịt ngon, rượu bồ đào và năm loại thức uống khác. Chúng ta sẽ thay chiếc đèn cũ kỹ của ngài bằng ánh sáng lấp lánh của những viên kim cương. Và rồi, chúng ta sẽ dâng ngài tất cả những thứ giải trí mà vương quốc của chúng ta có thể mang lại.”


    Nhà vua nghe qua những lời của hoàng hậu liền hoan hỷ chuẩn y.


    Sáng hôm sau, vua sai quân hầu đến thỉnh sư. Nhưng ngài từ chối, sứ giả đành phải quay về báo lại với đức vua.


    Hôm sau nữa, đức vua đích thân đi thỉnh sư. Khi nhà vua đến nơi, ngài cúi mình đảnh lễ sư và muốn biết lý do vì sao sư từ chối lời mời đến hoàng cung. Sư đáp: “Bệ hạ bất tất phải phiền luỵ đến thế.”


    “Quả nhân vì kính tín đại sư nên mới thân hành đến đây. Mong đại sư quá bước đến hoàng cung.”


    “Vương quốc của bệ hạ đầy rẫy những điều tác tệ. Ta không đến đâu.”


    “Cúi mong đại sư hoan hỷ lưu lại với chúng tôi một năm thôi.”
    Mặc cho đức vua nài nỉ, Ghantapa vẫn một mực từ chối không chịu đến viếng hoàng cung, dù chỉ một ngày. Sư bảo: “Nhà vua đi, đứng, nằm, ngồi đều không tránh được tội lỗi. Thật bất tịnh, nên ta dứt khoát không nhận lời mời.”


    Thế là, nhà vua đành phải quay về. Nhưng rồi ngày nào ngài cũng đến vấn an sư, với hy vọng sư sẽ đổi ý. Và cứ như thế trong suốt bốn mươi ngày nhưng không đem lại kết quả gì.
    Cuối cùng nhà vua và hoàng hậu cảm thấy bị xúc phạm quá đáng. Ngọn lửa sân hận bùng cháy trong tâm thức họ.


    Vua hạ chiếu rao truyền khắp nơi rằng, người nào có thể phá được phạm hạnh của sư Ghantapa sẽ được trao cho nửa vương quốc và được thưởng một trăm cân vàng.


    Lúc bấy giờ ở kinh thành Hoa Thị (Pataliputra) có một mụ điếm già tên là Darina luôn mong mỏi có một cuộc sống giàu sang. Khi hay tin ấy bèn tìm đến hoàng cung để hiến kế.


    Mụ khẳng định với nhà vua rằng mụ có thể thoả mãn yêu cầu của nhà vua và làm cho nhà sư kiêu mạn kia phải thân bại danh liệt Thế là vua chấp thuận kế sách của mụ.


    Darina vốn có một thời oanh liệt ở chốn lầu xanh, mụ biết đủ trăm phương nghìn kế để quyến rủ đàn ông, lại có một cô con gái vô cùng xinh đẹp ở tuổi vừa mới cập kê.


    Nàng hãy còn rất trong trắng, chưa hề bị nhiễm ô bởi cuộc đời. Nàng có một khuôn mặt tựa trăng rằm, dáng đi uyển chuyển, lời nói dịu dàng, khôn ngoan, một thân hình khêu gợi và một khuôn ngực tròn đầy. Mụ quyết định: “Ta sẽ khiến con gái ta đem ông tăng này trở lại với thế giới của dục vọng và ta sẽ phá hủy đạo hạnh của y trong mười ngày liên tục.”


    Thế là mụ già đi đến chỗ ở của Ghantapa để cúng dường. Mỗi lần đến như thế, mụ đều tỏ ra rất cung kính đảnh lễ trước ngài. Đến ngày thứ mười, mụ tiến lại gần bên sư thưa: “Bạch thầy! Xin thầy cho phép tôi được phục vụ trong suốt mùa an cư này.”


    Ghantapa không hề quan tâm đến mụ. Nhưng từ ngày này sang ngày khác, mụ cứ theo nài nỉ xin được phục vụ ngài và cuối cùng mụ cũng được sự đồng ý của sư.


    Darina lấy làm vui mừng liền bày ra một cuộc tiệc để ăn mừng cái gọi là sự thành công bước đầu của mình. Mụ ngâm nga luôn miệng:


    Mánh khoé của một cô gái
    giúp nàng thực hiện ước mơ.
    Sức quyến rũ của nàng
    là vũ khí vô cùng lợi hại.



    Mụ nhủ thầm: “Bằng mưu mẹo ta có thể lừa phỉnh cả thế gian này, sá chi một nhà sư.”


    Thế là mụ điếm già cố tìm cách phô trương năng lực của mình. Khi mùa an cư bắt đầu, Ghantapa bảo với mụ rằng chỉ nên sai các người nam mang vật thực đến cúng dường. Tuy nhiên, sư không đề cập với mụ việc không cho người nữ đến phục vụ. Darina bèn ưng thuận.


    Trong hai tuần lễ đầu, mụ sai toàn những thanh niên mang vật thực gồm gạo và nước suối đến cúng dường.


    Nhưng đến ngày thứ mười lăm, mụ chuẩn bị một bữa tiệc lớn. Mụ sửa sang, trang điểm cho cô con gái ăn vận lộng lẫy như một nàng công chúa, đoạn sai nàng cùng năm mươi thanh niên mang thật nhiều vật thực đến cúng dường sư.


    Mụ căn dặn con gái khi đến nơi phải đứng từ xa quan sát vị trí túp lều của sư. Cô gái vâng theo lời mẹ và cố gắng ghi nhớ những lời mẹ dặn.


    Sau khi đám thanh niên ra về, cô gái tìm cách lén vào bên trong căn lều của Ghantapa.


    Khi nhà sư từ trong rừng trở về, ngài thấy vắng đi những người hầu nam và ngài lấy làm ngạc nhiên khi thấy một thiếu nữ ăn vận sang trọng như một công nương đang ở trong chỗ ở của ngài.


    Sư thắc mắc hỏi cô gái: “Chuyện gì đã xảy ra với các chàng trai vậy?”


    “Thưa thầy, họ không có thời gian lưu lại nên tiện thiếp phải ở lại để phục vụ ngài.”


    Sư ăn xong bữa, nhưng cô gái vẫn cứ nán lại không chịu ra về.
    Mãi đến khi sư nghiêm khắc xua nàng về, cô gái liền đáp: “Trên trời có những đám mây ngũ sắc, thiếp e rằng trời sắp đổ mưa, vì vậy thiếp phải nán lại.”


    Cô gái lưu lại cho đến khi mặt trời lặn khuất chân trời. Cuối cùng cô nói: “Mặt trời đã tắt nắng mà tôi không có người đi cùng để hộ vệ. E rằng đi một mình giữa đêm tăm tối sẽ bị cướp mất tư trang và thiệt hại đến tính mạng.”


    Đến lúc này không thể từ chối được nên sư đồng ý cho cô ngủ lại ở bên ngoài căn lều.


    Nhưng khi đêm đến, cô gái giả vờ hoảng sợ kêu khóc ầm ĩ. Không biết làm sao hơn, sư đành để cho cô vào bên trong để ngủ.


    Túp lều lại quá nhỏ dành cho hai người nên tất nhiên thân thể hai người phải chạm vào nhau.


    Cho đến nửa đêm, thân thể hai người quyện vào nhau làm một và họ cùng nhau trải qua bốn từng lạc thú.


    Sáng hôm sau, Ghantapa yêu cầu cô gái ở lại và họ trở thành một đôi vợ chồng. Một năm sau, đứa con của họ cất tiếng khóc chào đời.


    Trong thời gian ấy, nhà vua càng trở nên mất kiên nhẫn hơn. Ngài cứ luôn hỏi thăm mụ Darina về việc thực hiện quỷ kế của mụ đã thành công đến đâu nhưng mụ cứ né tránh mãi.


    Cho tới ba năm sau, mụ mới đến báo cho nhà vua biết kết quả của âm mưu làm hại nhà sư Ghantapa.


    Được tin, nhà vua lấy làm hài lòng phán: “Hãy bảo với con gái nhà ngươi, trong ba ngày nữa ta sẽ đến viếng thăm nàng và nhà sư.”


    Đúng ngày hẹn, vua tập trung dân chúng rồi khởi hành đi đến chỗ sư Ghantapa.


    Khi ấy Ghantapa bàn với người vợ: “Chúng ta nên ở đây hay nên đi sang một xứ khác?”


    Cô gái muốn ra đi, vì cô sợ mọi người sẽ quở mắng và sỉ nhục cô. Vì vậy, Ghantapa dấu đứa bé trong tấm áo choàng, kẹp theo một bình rượu ở nách rồi dẫn vợ ra đi.


    Rủi ro thay, trên đường đi họ gặp nhà vua ngay ở giữa đường. Nhà vua ngồi trên mình voi cất giọng dè bỉu: “Cái gì dưới lớp áo của thầy vậy? Và cô gái xinh đẹp này là ai?”


    “Ta mang theo bình rượu và đứa bé trong tấm áo choàng là con của ta.” Ghantapa đáp, mắt vẫn nhìn thẳng vào đức vua.


    “Khi ta mời thầy đến hoàng cung, thầy từ chối, lại còn chê ta là kẻ tội lỗi. Bây giờ thầy hãy nhìn lại xem! Một thầy tu lại có vợ, có con. Rõ ràng như năm với năm là mười. Thầy là một con người đầy tội lỗi.”


    Sư thản nhiên đáp: “Ta vô tội. Ngươi chớ sỉ nhục ta.”


    Khi nhà vua lập lại lời cáo buộc một lần nữa, Ghantapa hất tung đứa bé và bình rượu xuống dưới đất. Nữ thần đất lúc bấy giờ cả kinh vội dùng thần thông phụt một dòng nước cực mạnh lên cao hứng lấy đứa bé và bình rượu, đặt lơ lửng giữa khối nước.


    Đứa bé trở thành sấm sét và bình rượu biến thành một cái chuông (ghanta). Nhà sư Du-già và người vợ cùng biến thành hai vị thần Samvara và Varahi trong tư thế âm dương giao hoà.


    Cả hai bay lên trên không trung, còn nhà vua và đoàn tùy tùng bị ngập trong làn nước.


    Đám người sắp bị chết đuối sợ hãi nhìn đau đáu lên trời, gào khóc, van xin mong cứu giúp: “Chúng tôi xin quy y thầy.”


    Nhưng lúc ấy, Ghantapa đang ở trong Phẫn nộ bất động đại định (Samadhi of immutable wrath) nên ngài vẫn giữ im lặng.


    Khi mọi người sắp nguy khốn thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra, dùng một bàn chân chèn nơi chỗ đất nứt và làm cho nước trở về chỗ cũ. Thế là mọi người được cứu sống.


    Họ mừng rỡ cúi lạy cầu xin sư tha tội.



  5. #54
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Bấy giờ, có một tượng Quán Thế Âm bằng đá bỗng hiện ra ngay chỗ ấy, và cho đến ngày nay ở vị trí nơi chân của bức tượng này vẫn còn phun ra một tia nước nhỏ cao đến sáu thước.


    Sư xuất định, dạy rằng:


    Mặc dù dược thảo và thuốc độc
    tạo ra kết quả trái ngược nhau,
    Nhưng trong bản chất rốt ráo của chúng,
    cả hai đều như nhau.
    Giống như những thuận duyên và nghịch duyên
    trên con đường tu tập,
    Chúng hữu ích như nhau.
    Vì vậy chớ nên phân biệt
    Bậc trí giả chẳng chối bỏ điều chi
    Cớ sao đứa con tinh thần lại không thừa nhận?
    Nếu ngươi bị đánh độc đến năm lần,
    Thì cũng bị lạc lối trong luân hồi vậy.



    Qua lời giải thích của sư, nhà vua cùng mọi người từ bỏ các kiến chấp và ý tưởng sai lầm. Họ thấy được niềm tin và đồng lòng quy y pháp.


    Từ đó, Ghantapa được mệnh danh là “Người giữ chuông”. Danh tiếng của ngài vang dội khắp nơi.


    Trong sáu kiếp thuộc đời quá khứ, cô gái luôn là người khiến cho sư phải từ bỏ Phạm hạnh thanh tịnh. Nhưng trong đời này, vì tâm phân biệt của sư không còn nữa; cấu trúc nhị phân trong tâm của ngài đã tan biến trong cảnh giới vô tận của tánh không, nên dòng tâm thức của ngài đã phát triển đến mức cùng tột.


    Ghantapa đặt tên cho con trai của ngài là Vajrapani tức Kim Cương Thủ. Còn cô gái, vợ của ngài, do công đức phục vụ ngài trong nhiều đời nên nay cô cũng thoát khỏi vô minh.


    Ghantapa có quyền năng và phẩm tính của một vị Phật.


    Hành trì


    Một bản dịch khác liên quan đến đạo sư Ghantapa càng làm sáng tỏ những chỗ còn mơ hồ trong truyền thuyết vừa kể trên.


    Theo bản dịch này, Ghantapa vốn là con trai của đức vua Nalanda. Ngài không chịu nối ngôi cha lại đi xuất gia thọ giới cụ túc với hoà thượng Jayadeva Subhadra. Sau đó ngài trở thành quốc sư của vua Nalanda.


    Ngài gặp Darikapa và được vị này điểm đạo và truyền cho mạn-đà-la Samvara, rồi bảo ngài vào rừng tu tập.


    Cho đến một hôm ngài nghe một giọng nói vọng xuống từ trên không trung bảo ngài phải đi đến Oddiyana.


    Vị nữ chân sư của ngài vốn làm nghề chăn lợn. Ban đầu ngài tỏ ý từ chối vì bà này dung mạo cực kỳ xấu xí, nhưng sau đó ngài nhận ra bà chính là một Dakini.


    Và một lần nữa, vị nữ chân sư này truyền cho ngài mạn-đà-la Samvara .


    Tại cánh rừng già ở Oddiyana, ngài đã xúc phạm đến đức vua khi ngài từ chối đi cùng với nhà vua vào kinh thành.


    Cô gái được sai đến để quyến rũ ngài chính là yếu tố còn thiếu trong thiền định của ngài.


    Ghantapa đã điểm đạo cho cô và nhận cô như là một Dakini của ngài.


    Mặc dù nhà vua tìm cách nhạo báng nhưng chính thực là Ghantapa vốn vào thành để hoá độ dân chúng.


    Tương truyền ngài dùng thần thông hoá hiện ra hai đứa bé, một trai và một gái. Đoạn dùng một cái muỗng lớn chiết rượu ra, rồi sai chúng đi đổ đầy các bình rượu của mọi nhà trong kinh thành.


    Sau đó ngài vất cái muỗng xuống đất, khiến nước phụt lên từ một khe nứt. Hai đứa bé biến thành sấm chớp và một cái chuông.


    Ngài cùng vợ biến thành hai vị thần Samvara. Điều này giải thích lý do vì sao Omsa là nơi mà Kim cương thừa được truyền bá rộng rãi.


    Truyền thuyết đưa ra một chủ đề lớn đề cập đến sự mông muội của một hạng người tự cho rằng cách tư duy của mình là đúng.
    Họ chấp chặt vào những nguyên tắc luân lý hữu hạn để kết tội người khác dám có một lối sống vượt thoát khỏi cái thường tình của những quy ước xã hội.


    Cô gái Dakini trong tiền kiếp đã từng quyến rũ, cám dỗ Ghantapa. Và trong những kiếp ấy, ngài đều bị trói buộc bởi những mệnh lệnh của luân lý.


    Trong đời này, tâm ngài đã thuần thục nên ngài chấp nhận giáo pháp của một Dakini, đồng thời đạt tới giải thoát sau khi trải qua bốn trạng thái an lạc.


    Tâm thanh tịnh của ngài đã được ấn chứng bởi Đại thủ ấn nên nhà vua đâu thể hiểu rằng “Tâm hoan hỷ không bao giờ ô nhiễm”.


    Nhà vua tự cho mình có lý khi kết tội “một người đàn ông và một người đàn bà sống trong tội lỗi” vì nhà vua không chấp nhận các thanh tịnh khả hữu nơi người khác.


    Nếu truyền thuyết nêu rõ rằng thiền định Đại thủ ấn ngăn không cho Ghantapa chấp nhận lời mời của nhà vua thì ở đây thiếu vấn đề trả nghiệp khi nhà vua tìm mọi cách để làm nhục ngài.


    Trong giáo pháp sư dạy cho nhà vua và mọi người, ngài đã truyền lại cái mà ngài đã chứng nghiệm: “Chớ ưa thích điều tốt, chớ ghét bỏ điều xấu. Hãy chấp nhận mọi thứ như tự thân của chúng. Hãy thâm nhập vào thực thể để nếm được vị chung của các pháp.”


    Nhưng chính điều này Ghantapa đã không nhận ra trong sáu kiếp quá khứ. Ở đây có hai cặp phạm trù đạo đức. Cuộc sống ban đầu của ngài là một bậc tu hành đầy đủ giới đức và sống phạm hạnh, và về sau là cuộc sống của một nhà Du-già phóng khoáng. Hai phương tiện khác nhau nhưng cùng một đích đến.


    Điều này hơi nguy hiểm khi các bậc thầy rao giảng truyền thuyết này cho một người đang bám víu vào các tiêu chuẩn đạo đức nhị phân để tu tập tìm sự thanh tịnh và tỉnh giác, vì y sẽ nhanh chóng cảm thấy bị hụt hẩng, rơi vào hố thẳm của nghi ngờ và lầm lẫn.


    Tuy nhiên, không có một sự trùng lắp nào cho thấy những con người bị xã hội ruồng rẫy vì phi đạo đức lại có thể được khai tâm trong môn Tantra này.


    Những ý niệm luân lý đôi khi cũng là những trở ngại khó vượt qua để thành tựu Bồ Tát nguyện, vì đôi khi những nguyên tắc này có tính quyết đoán và không thoả hiệp với hành động từ bi

    .
    Sử liệu


    Về mặt lịch sử, Ghantapa là người đồng thời với đệ nhị hoàng đế Devapala (810-830) Nhưng hình như đây không phải là vị vua mà Ghantapa đã xúc phạm.


    Devapala là một đại thí chủ rất hào phóng của tu viện Nalanda. Vào thời ấy, xứ Bengal được gọi là Bengala. Nó gồm cả đông và tây xứ Bengal hiện nay, không kể những phần đất của Bihar.
    Kamapara chính là thành phố tiếp giáp với thung lũng Brahmaputra mà thủ phủ là Pataliputra, gồm cả đông và nam Bihar.


    Ghantapa rất nổi tiếng ở Tây Tạng vì sự nghiệp khai sáng dòng tu Samvara Pancakrama. Pancakrama bao gồm các phương pháp luyện tập thân thể được Ghantapa đề cập trong mười tám tác phẩm nổi tiếng của ngài và hầu hết những tác phẩm này điều liên quan đến Samvara Tantra.


    Ngài nhận được sự khải huyền về Samvara mạn-đà-la từ Kim Cương Thánh Nữ, mà có lẽ bà này chính là người phụ nữ chăn lợn ở Oddiyana, nhưng cũng có thể là nữ Du-già Vilasyavajra, đệ tử của sư Dombipa Heruka.


    Trong dòng Mật tông Tây Tạng, đôi khi người ta gác bỏ tên của Dengipa qua một bên, nhưng lại đề cập đến Darikapa như là một chân sư của Samvara. Dòng Kalacakra cũng gồm Ghantapa. Điều này khiến ngài trở nên là một trong những người Ấn Độ đầu tiên được truyền môn Tantra này.


    Do đó, có thể kết luận rằng môn Tantra này đã xuất hiện tại Đông Ấn vào khoảng thế kỷ 9.



  6. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    hoatihon (08-22-2015)

  7. #55
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 53: Jogipa - Kẻ hành hương



    Hãy kiên trì chú mục vào ánh sáng trong tâm
    Toả sáng rực rở như đầu một ngọn lửa
    Tất cả các hiện tượng tĩnh và động
    Tan chảy và chìm vào hư vô



    Truyền thuyết


    Jogipa là một người có năng lực và có cơ duyên với môn Tantra nhưng lại là một người kém trí huệ. Mặc dù được chân sư Savanpa truyền cho pháp thuật và phương cách thiền định, ông vẫn không hề có một chút tiến bộ nào trong việc tu tập. Jogipa đem thắc mắc của mình trình với tôn sư.


    Sư bảo ông phải đi hành hương đến 24 thánh địa và trong lúc đi hành hương phải trì tụng thần chú Kim Cương Tát Đỏa.


    Jogipa y pháp tu tập trong 12 năm thì đắc thần thông Đại thủ ấn.
    Sau khi đắc pháp, ngài vân du khắp nơi để hành đạo, hóa độ vô số đệ tử và thọ được năm trăm năm.




  8. #56
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 54: Celukapa - Kẻ biếng nhác



    Sau nhiều năm thực hành lời dạy của chân sư
    Ta bỗng thấy...
    Đất nước, lửa, gió không tồn tại
    Tất cả hiện tượng đều là Đại ấn



    Truyền thuyết


    Celukapa sinh ra trong một gia đình hạ tiện ở vùng Mangalapur. Vốn là một kẻ lười nhác, lúc nào cũng tỏ ra uể oải vì chứng ngủ gật, nhưng Celukapa rất sợ sinh tử luân hồi và nghiệp báo.


    Một hôm ông đang ngồi dưới gốc cây thì có một nhà sư Du-già là Maitripa đi ngang qua, cất tiếng hỏi: “Chẳng hay hiền hữu lo âu chuyện gì?”


    “Thưa thầy, tôi đang suy nghĩ làm cách nào để thoát khỏi nghiệp báo. Tôi mong gặp được chân sư truyền thụ giáo pháp nhưng vì quá lười nên không đi tìm. Nay cơ duyên đã đến, mong thầy từ bi nhiếp thọ.”


    Đại sư Maitripa bảo: “Nếu ngươi được khai tâm, điểm đạo thì dứt được bệnh hay ngủ, lại còn có khả năng thoát khỏi luân hồi. Nhưng ngươi nhất thiết phải nỗ lực tu tập.”


    “Đệ tử xin vâng lời thầy.”


    Đại sư Maitripa truyền cho ngài giáo pháp của Samara, dạy cách thiền định để khai thông các trung tâm lực. Ngài dặn: “Hãy tập trung các pháp hiện tượng vào ba nghiệp: thân, khẩu và ý; dẫn hai luồng hỏa hầu (Lalana và Rasana) đi vào trung tâm lực (Avadhuti), quán tưởng thành một cái hồ lớn mà cảm thọ là một con thiên nga trong cái hồ ấy. Khi dồn tất cả năng lực vào Avadhuti thời ngươi có thể vượt qua sự mệt mỏi, hôn trầm và như thế sẽ trụ trong một trạng thái vô niệm và tịch tĩnh.”


    Celukapa tu tập như vậy trong 9 năm thì dứt các vô minh và đạt thần thông Đại thủ ấn.




  9. #57
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 55: Godhuripa - Người bẫy chim



    Các hiện tượng bên trong hay bên ngoài
    đều từ tâm mà ra
    Khi nhận ra bản chất của tâm là ánh sáng
    Thì ngủ nghỉ, đi lại, mơ mộng và thiền định
    đều hiển hiện trong pháp giới
    Hiểu được trọn vẹn như vậy
    nên ta nhận ra Phật tính


    Truyền thuyết


    Godhuripa là dân xứ Disunagar, sống bằng nghề bẫy chim.
    Một hôm ông đang dùng tấm lưới lớn để bẫy chim thì gặp một nhà sư Du-già. Sư hỏi thăm về nghề nghiệp. Godhuripa bảo rằng: “Do nghiệp bất thiện đời trước nên kiếp này tôi phải làm nghề bẫy chim để sống. Dẫu biết rằng đây không phải là một nghề tốt, nhưng không có cách nào khác hơn, thưa đại sư.”


    Đại sư nói: “Nếu vậy, đời sau của ngươi lại càng tệ hại hơn nữa. Sao ngươi không tu tập pháp Phật để tìm thấy sự an lạc?”


    “Xin thầy xót thương mà dạy cho pháp giải thoát.”


    Đại sư liền làm phép khai tâm, điểm đạo cho Godhuripa rồi dạy rằng: “Ngươi hãy quán sát tất cả âm thanh trong thế gian này đều là tiếng chim hót. Hai thứ ấy đều là một thì chứng vào pháp giới.”


    Godhuripa tu tập được 9 năm thì dứt vô minh, chứng đắc Đại thủ ấn. Ngài thọ được một trăm năm và hóa độ trên ba trăm đệ tử.




  10. The Following User Says Thank You to caydendau For This Useful Post:

    lamebay (08-22-2015)

  11. #58
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 56: Lucikapa - Kẻ đào tẩu



    Từ vô thủy đến vô chung
    Ta đắm mình trong bể trầm luân
    Lời của chân sư là con tàu vững chãi
    Giúp ta vượt qua bao đại dương
    Đến bên kia bờ giải thoát


    Truyền thuyết


    Lucikapa là một người thuộc giai cấp bà-la-môn. Vì thấy cảnh chết chóc của những người chung quanh, ông sinh ra chán nản không muốn sống nơi chốn phồn hoa đô hội mà tìm đến ẩn cư ở một vùng xa xôi hẻo lánh.


    Lucikapa rất muốn tu tập pháp Phật, nhưng chưa tìm được cho mình một chân sư.


    Một hôm, nhìn thấy một vị tăng đi ngang qua chỗ ở, ông vội ra vái chào và đảnh lễ rất cung kính.


    Vị sư hỏi: “Vì sao ngươi vái chào ta?”


    “Thưa, bấy lâu tôi mong được tu tập pháp Phật nhưng chưa gặp được chân sư. Nay duyên may đưa đến, xin thầy xót thương truyền cho diệu pháp.”


    Sư hoan hỷ làm phép quán đảnh và khai tâm cho Lucikapa. Ngài y pháp tu tập, sau 12 năm thì đắc pháp.


    Sau khi đắc pháp, ngài đọc một bài kệ ngắn nói lên sự giác ngộ của mình:


    Luân hồi và niết bàn là hai
    Riêng ta thấy ấy hai mà một
    Giải thoát chính là niềm an lạc
    Chẳng dựa vào một vật gì,
    Thì khó khăn mấy cũng qua được bờ kia




  12. #59
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts


    Đại sư thứ 57: Nirgunapa - Trẻ thơ giác ngộ




    Giáo pháp của chân sư
    Dẫn đường ta đi đến chốn bình an
    Nơi ấy,
    Không có chỗ cho cảm xúc dữ dội
    hay tư tưởng mâu thuẫn trú ngụ
    Lời dạy của một chân sư
    Làm tan những cơn sóng dữ
    Những cơn sóng quấy rầy ta trong thiền định



    Truyền thuyết


    Nirgunapa sinh trưởng ở vùng Purvadesa. Sự ra đời của ông thật sự là một niềm vui sướng lớn đối với cả gia đình.


    Điều không may là khi lớn lên, Nirgunapa không thể ngồi dậy hay cử động bình thường như bao đứa trẻ khác. Điều này khiến cha mẹ của Nirgunapa thất vọng.


    Hơn nữa, tuy lớn tuổi nhưng trí óc của cậu chẳng khác nào đứa trẻ lên năm. Cha mẹ cậu thường nói với nhau: “Thằng Nirgunapa nhà ta thật là vô tích sự. Lẽ ra chúng ta chẳng nên sinh nó.”


    Tuy khờ khạo nhưng nghe những than phiền của lời bố mẹ Nirgunapa cũng buồn tủi lắm.


    Cho đến một hôm Nirgunapa tự lăn mình ra khỏi nhà đến một nơi vắng vẻ. Ở đấy, cậu gặp một nhà sư Du-già. Sư bảo: “Ngươi hãy đứng dậy, vào thành mà kiếm cơm. Cớ sao cứ nằm ì ra đấy?”


    Nirgunapa đáp: “Tôi không thể ngồi dậy được.”


    Thương hại cho hoàn cảnh của Nirgunapa, sư nhường cho cậu một ít thức ăn và hỏi: “Ngươi có biết làm nghề gì không?”


    “Thưa thầy, tôi không biết làm gì cả.”


    “Nhưng ngươi còn phải ăn, ngươi không sợ chết đói à?”


    “Thưa có, nhưng tôi biết phải làm gì đây?”


    “Nếu ngươi có thể gắng công tu tập thiền định, ta sẽ dạy cho.”


    “Thưa thầy, nếu nằm mà thiền định được thì tôi xin vâng lời thầy.”


    Sư làm phép khai tâm cho Nirgunapa và dạy: “Người giác ngộ và pháp được ngộ đều là vô minh cả. Kẻ nào không nhận hiểu được chân lý ấy thì sẽ bị phiền não sai khiến. Khi tâm thức vắng lặng thì phiền não không có chỗ trụ. Không có sự tách biệt giữa các pháp và tánh không. Nếu nắm bắt được chân lý này, ngươi có thể đi lại tự tại.”


    Nirgunapa tuân theo lời dạy của sư, vừa khất thực độ thân vừa tu tập thiền định cho đến khi giác ngộ được các pháp và tánh không là sự hợp nhất của ánh sáng tự tâm.


    Khi có ai gặp ngài hỏi về lai lịch xuất thân của ngài, Nirgunapa thường nhìn vào mắt họ với ánh mắt từ bi khiến kẻ đó phải động lòng rơi lệ khóc.




  13. #60
    CHỒI Avatar của caydendau
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    99
    Thanks
    141
    Thanked 190 Times in 44 Posts
    Đại sư thứ 58: Jayanada – Vị điểu sư



    Đại sư thứ 58: Jayanada – Vị điểu sư



    Vào đại định, ta náu mình trong thanh tịnh
    Thoát khỏi bủa vây của sự phân biệt suy lường
    Nhận biết rằng ta đã thoát tai ương
    Vì vọng tưởng đã không còn theo đuổi kịp



    Truyền thuyết



    Jayanada là một quan nhân ở xứ Bengal theo đạo Bà-la-môn. Đức vua xứ này cũng là người của đạo Bà-la-môn. Tuy vậy, Jayanada rất hâm mộ đạo Phật và ngài đã bí mật cải đạo, tu tập pháp môn Mật tông.


    Ngài có những sở đắc tâm linh, nhưng không một ai biết được điều bí ẩn này.


    Trong khi ngài tu tập pháp “bi điền”, một pháp tu cúng dường thức ăn bằng cách gia trì mật chú rồi tung lên không trung để hiến cúng cho chư thần, có người biết được bèn tâu lên nhà vua.


    Đức vua ra lệnh giam ngài vào ngục tối. Ngài nói: “Tâu bệ hạ, cúng dường thần thánh đâu phải là tội lỗi. Xin bệ hạ xét lại.”


    Nhưng nhà vua vẫn không thay đổi quyết định.


    Khi vào trong ngục, Jayanada vẫn tiếp tục tu tập và bớt phần thức ăn ném ra bên ngoài cửa sổ để cúng dường.


    Mỗi lần như thế có một bầy quạ đến để ăn những thức ăn đó. Thấy hiện tượng lạ ấy, vua ra lệnh cho dời Jayanada đến một trại giam khác.


    Thấy không có thức ăn như thường lệ, đàn quạ tụ tập thành một đàn lớn, đông vô số kể bay đến hoàng cung, cắn mổ tất cả mọi người. Chúng cho rằng đức vua đã cầm tù Jayanada, người nuôi dưỡng chúng.


    Khi ấy nhà vua mới nhận ra rằng Jayanada vô tội, bèn thả ngài ra và yêu cầu ngài xua đàn chim ấy đi, đồng thời ban cho hai mươi đấu gạo để ngài cho chim ăn hằng ngày.




Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •