Printable View
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNLời Giới Thiệu__________________________________________________ ______________________________________
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
https://thuvienhoasen.org/images/fil...gu-content.jpg
Tỳ kheo Thích Hằng Đạt dịch
Lời Giới Thiệu
Tuy thuyết pháp trong bốn mươi chín năm trường mà đức Phật Thích Ca tự bảo rằng Ta chưa từng nói một lời nào. Tuy truyền trao tâm ấn cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp qua hình ảnh "Niêm Hoa Vi Tiếu", mà đức Phật cũng chưa hề nói một chữ "Thiền". Tuy bao đời lịch đại tổ sư, thầy trò "Dĩ Tâm Truyền Tâm" với nhau, nhưng chưa từng nói rằng có một pháp nào để truyền thừa. Tiếp nối tông chỉ này, thiền sư Hư Vân, bậc minh nhãn thiện tri thức thời cận đại, tuy giảng kinh thuyết pháp, hoằng truyền tông giáo, khơi dậy mạch nguồn Thiền tông, tiếp thừa hệ phái ngũ gia (Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng), hóa độ hàng chục ngàn tăng ni và hàng triệu cư sĩ tại gia trải qua một thế kỶ, mà chính tự tay Ngài chưa từng viết một quyển khai thị hay pháp ngữ nào.
Mãi cho đến khi Ngài bị công an Cộng Sản Trung Quốc tra tấn dã man trong hai lần liên tục, chư đệ tử mới khẩn thỉnh Ngài tự thuật lại cuộc đời tu hành, hoằng pháp lợi sanh, hầu mong làm tấm gương sáng cho hậu thế. Vì lòng từ bi quảng đại, tuy bị trọng thương qua hai lần bị tra tấn cực hình, Ngài vẫn cố gượng kể lại cuộc đờI tu hành của mình, mà sau này chư đệ tử viết lại thành quyển "Biên Niên Tự Thuật" (đã được chúng tôi và anh Nguyên Phong phiên dịch cùng phóng tác ra Việt ngữ, qua quyển "Đường Mây Trên Đất Hoa"). Lại nữa, vì hương thơm đức hạnh tu hành của Ngài lan truyền khắp nơi, khiến chư đệ tử phải thâu thập những bài giảng thuyết, khai thị, pháp ngữ của Ngài, rải rác trong bao thập niên, rồi gom lại thành tập "Pháp Ngữ", để lưu truyền hậu thế.
Tuy bị công an Cộng Sản Trung Quốc tra tấn, chết đi sống lại hai lần, nhưng xuyên qua những bài pháp ngữ cùng trong quyển "Biên Niên Tụ Thuật", Ngài chưa từng đả kích hay lên án chế độ Cộng Sản, mà chỉ bảo là do nghiệp duyên tiền kiếp, nên nhẫn nhịn gánh chịu. Lịch đại tổ sư đã từng bị bao nghịch duyên oan trái như tôn giả Mục Kiền Liên bị ngoại đạo đánh chết, tổ Sư Sử bị vua Di La Quật chém đầu, tổ Bồ Đề Đạt Ma bị người hãm hại bằng thuốc độc, nhưng các ngài chẳng hề oán trách ai, mà chỉ vui lòng thọ nhận oan khiên tiền kiếp, vì đã nhận ra "Bổn Lai Diện Mục", tức chủ nhân ông trong thân tứ đại bọt bèo huyễn hóa. Ngược lại, phàm phu vừa bị một trong tám gió thổi đến, thì tham sân si bèn nổi lên.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNLời Giới Thiệu__________________________________________________ ______________________________________
Quyển Pháp Ngữ mà hiện tại quý độc giả đang cầm trên tay, được chúng tôi phiên dịch từ quyển "Hư Vân Hòa Thượng Khai Thị Lục" do pháp sư Tịnh Huệ, và một phần trong quyển "Hư Vân Văn Tập" do hai cư sĩ Hồng Khánh Sùng cùng Hoàng Khánh Lâm biên tập ghi chép lại.
Đối với hành giả Thiền Tông nói riêng và hàng Phật Tử thành tâm cầu đạo giải thoát nói chung, sẽ thấy quyển này vô vàn quý giá vì là kim chỉ nam và cẩm nang cho người tu tập pháp Tổ Sư Thiền, như những bài "Điều kiện tiên quyết khi tu thiền", hay "Phương pháp quán thoại đầu cùng phản văn văn tự tánh", mà chính thiền sư Hư Vân đã "Thật Tu Thật Chứng". Lại nữa, nếu muốn thâm nhập vào ba môn vô lậu học, tức giới định huệ của Phật giáo Đại Thừa, hành giả phải nên đọc qua quyển Pháp Ngữ này, vì trong đây thiền sư Hư Vân giảng sâu rộng về phương thức trì giới thanh tịnh, thâm nhập chánh định, phát khởi trí huệ vô sư.
Ngoài ra, có đọc qua những bài pháp ngữ này, chúng ta mới cảm kích thâm sâu hạnh nguyện nhẫn nhục, tâm hồn vị tha vô ngã, đạo tâm kiên cố trường viễn, hành tung bình dị, hạnh tu đầu đà của thiền sư Hư Vân, một vị thánh tăng trong đời cận đại, cho dầu thế sự có đảo điên, hay "Nội Ưu Ngoại Hạn" của quốc gia dân tộc.
Phiên dịch quyển Pháp Ngữ này, chúng tôi hy vọng quý độc giả mến chuộng tu thiền sẽ nghiền ngẫm và áp dụng những lời vàng ngọc của thiền sư Hư Vân vào cuộc sống tu tập hằng ngày, hầu mong ly khổ đắc lạc, và sống lại với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình.
Kế đến, chúng con thành tâm đốt nén tâm hương kính lễ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, ba đời mười phương chư Phật, chư Bồ Tát chư hiền thánh Tăng, đại lão hòa thượng Hư Vân, ân sư đại lão hòa thượng Tuyên Hóa trong cõi Niết Bàn thấu rõ và chứng minh cho bản dịch Pháp Ngữ này.
Trong Kinh thường dạy: "Hãy chí thành viết một chữ hay truyền cho kẻ khác chừng một câu thì công đức phước báu vô lượng". Vậy có bao nhiêu công đức do dịch quyển Pháp Ngữ này, chúng con thành tâm hồi hướng cầu nguyện cho quê mẹ Việt Nam và thế giới được thanh bình; Phật giáo Việt Nam và Thế Giới mãi được trường tồn; tất cả chúng sanh đồng phát tâm Bồ Đề chứng quả vị Phật.
Cuối cùng, chúng con thành tâm cầu xin chư vị thiện tri thức trong mười phương từ bi xá tội và chỉ dạy những lỗi lầm sơ suất trong bản dịch này.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mùa xuân năm 2000.
Tỳ kheo Thích Hằng Đạt kính bút.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
Tỳ kheo Thích Hằng Đạt dịch
PHẦN I
I. Quý cư sĩ tại Thượng Hải thỉnh giảng năm 1911
Hôm nay, tôi được quý cư sĩ yêu cầu lược giảng Phật pháp. Bàn về việc này, lão nạp thật hổ thẹn muôn phần. Chướng duyên che lấp, tự mình chẳng có chút tu hành chân thật. Tuy đàm luận những lời thô thiển, nhưng không ngoài việc nhắc lại những lời dư thừa của cổ nhân mà chẳng có chút gì liên hệ với mình.
Nhớ lại khi xưa, đức Phật vì đại sự nhân duyên mà giáng thế, giáo huấn, và dạy bảo hơn tám mươi bốn ngàn pháp môn. Tất cả đều nhằm vào mục đích tùy theo căn bịnh mà cho thuốc. Thật ra, nếu không có bịnh thì dùng thuốc để làm gì ? Tuy nhiên, một khi còn bịnh thì chẳng thể không dùng thuốc. Các phương thuốc tại cõi Hoa Mạn này là những toa linh dược rất linh nghiệm mà không ngoài: Thiền-tông, Luật-tông, Giáo-tông, Tịnh-độ-tông, Mật-tông. Những phương thuốc đó đã từng một thời phát triển rạng rỡ ở phương này. Ngoài ra, có những Tông phái được xem là hưng thịnh một thời như tông Thiên Thai, tông Hiền Thủ, tông Duy Thức, Đông Mật, Tây Mật . Các tông phái đó tuy thù thắng vi diệu, nhưng chỉ có Thiền-tông và Luật-tông là nhiều người không chú ý đến.
Tuy nay là đời Mạt pháp, nhưng thực ra pháp không mạt tận, mà chỉ tại do người. Tại sao ? Người người chỉ lo đàm luận suông thiền này Phật nọ. Giảng Phật học rất nhiều, nhưng không chịu học Phật. Xem thường hạnh Phật, chẳng rõ nhân quả, phá giới luật Phật chế. Những tệ đoan xấu xa, đại khái phát xuất từ những nguyên nhân đó. Vì vậy, chúng ta, những người chân chánh vì sanh tử mà học Phật, phải cẩn thận chú ý, chớ xem thường bỏ qua.
Pháp môn tuy nhiều, nhưng mỗi mỗi đều vì cắt đứt sanh tử luân hồi. Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Xoay về nguồn tánh thì không hai, nhưng phương tiện lại có nhiều".
Trong hai mươi lăm vị Thánh, mỗi vị chuyên môn tu một pháp môn. Do đó, chư Tổ bảo rằng phải thâm nhập một pháp môn. Chư Thánh hiền nếu tham tu tập nhiều pháp môn thì e rằng không thể chứng đắc đạo viên thông. Vì vậy, thọ trì sáu mươi hai ức Hằng sa danh tự của các vị Pháp Vương Tử , không bằng thọ trì một danh tự Quán Âm Bồ Tát.
Người học Phật quý tại chân thật, chứ không biểu diễn tu đạo; phải thường dẹp trừ những tâm kiêu ngạo giả dối; chí nguyện phải kiên cố; chẳng tham đắm thần thông diệu dụng; tin sâu lý nhân quả; kiên trì giữ giới như giữ hạt sương mai buổi sớm; tận lực hành trì chẳng phạm giới pháp thì sẽ có ngày thành Phật mà tuyệt nhiên không có gì là kỳ lạ. Tâm, Phật, chúng sanh vốn không sai biệt. Tự tâm là Phật. Tự tâm làm Phật. Sao có tu chứng ? Vì do sự khác biệt giữa mê và ngộ, cùng tình ái, tập khí nặng nề, mới tạm phân thành mười pháp giới. Phải nên hiểu rằng mười pháp giới xuất phát từ một nguồn tâm, hay gọi là Phật. Vì thế, phải tận lực hành trì, tiêu diệt hoặc nghiệp. Tập khí và tật bịnh nếu được trừ hết thì tự nhiên không cần dùng đến thuốc. Người xưa bảo:
- Dẹp hết tâm phàm, thật không có chư Thánh giải thoát.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Ví như khi nước dơ nếu bỏ phèn vào thì trở nên lắng trong. Tu đạo cũng như thế. Tập khí và tình ái như bụi trần; nước như tự tâm; phèn lọc nước dơ, khiến nước đó liền được lắng trong. Lúc tu hành, người phàm phu hãy cố gắng chuyển tánh phàm thành tánh Thánh. Tuy nhiên, phải phân rõ gì là chánh, và gì là phụ. Hoặc niệm Phật là chánh, còn các pháp môn khác là phụ trợ, rồi hồi hướng công đức tu hành về cõi Tịnh Độ. Niệm Phật quý nơi tâm và khẩu không khác biệt. Niệm niệm không gián đoạn. Niệm đến lúc không niệm mà niệm. Thức ngủ luôn nhất như. Dụng công như vầy, sao lo gì không đến cõi Cực Lạc ?
Tham thiền vốn là pháp môn siêu vượt hơn các pháp môn khác. Dâng cành hoa mỉm cười, khiến xuất sanh biết bao bậc minh tâm kiến tánh. Đây thật là tông chỉ truyền ngoài giáo lý của đức Như Lai mà phàm phu không thể hiểu nổi. Nếu chưa gặp được bậc minh tâm kiến tánh, chỉ nên nỗ lực tham quán một câu thoại đầu. Chớ nên đem tâm cầu giác ngộ, hay để tâm trống không, rồi ngồi khởi vọng tưởng, cùng tham nghĩa huyền diệu, công án, thần thông, v.v... Phải nên quét sạch tri kiến, chỉ trụ một câu thoại đầu, rời ngoài niệm ý thức. Lúc một niệm chưa sanh, hãy nhìn thẳng vào, dầu lâu chẳng thối và chẳng màng ngộ hay không ngộ. Khi nghi tình hiện rõ, tâm tự kết thành phiến. Lúc động tịnh nhất như , nếu gặp được cơ duyên, ngồi thiền liền cắt đứt mạng căn, như quả đã chín thì phải rụng, rồi mới thật tin rằng mình cùng Phật không khác. Ngài Quy Sơn bảo:
- Đời đời nếu không thối chuyển, quyết sẽ có kỳ đạt đến quả vị Phật.
Sao tự khi dối mình ! Mỗi suy nghĩ và cách nhìn đều không biết tông chỉ của Thiền-tông, nên lầm chấp giữ tà tín xằng bậy. Dùng cuồng thiền tà định, chế nhiễu hủy báng và bảo rằng Thiền-tông như thế này hay như thế nọ mà chẳng biết việc tốt xấu. Nào biết đâu, từ xưa đến nay, thành Phật làm Tổ như lột vỏ lúa, đơn độc chỉ có tông này siêu vượt hơn những pháp môn khác.
Luận về đời nay, trong Thiền-tông những bậc ngoại hộ thật ích sư tử hống thật rất hiếm có. Những tông phái khác cũng đều tệ hại như thế. Người đời nay chẳng có chút sự tinh tấn tu hành; cứ mắc bịnh nơi bảo ăn mà chịu không ăn, hay chỉ lo đếm trân bảo cho người khác, hoặc vứt bỏ luật nghi nhân quả, thật tệ hại quá lắm !
Nếu thiền gia dùng công phu tu thiền mà niệm Phật thành phiến, thì vẫn giống như người thường niệm Phật, sao lo gì không gặp Phật Di Đà ? Nếu người niệm Phật dùng tâm niệm đến lúc không niệm mà niệm, thức ngủ như nhau, để tham thiền như thiền gia thì lo gì không ngộ đạo ?
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Tổng quát, phải nên dốc tâm hành trì thâm sâu vào một pháp môn. Tu pháp môn nào cũng đều như thế. Nếu dụng công tu hành như vậy thì tôi dám bảo đảm rằng ai ai cũng sẽ thành Phật. Sao sợ nghiệp căn sâu dầy, tập khí thâm sâu, mà không được đốn ngộ giải thoát ? Ngoài những pháp này ra, nếu có những pháp thuật khác hay hơn, thật tôi không biết đến !
Những người học đạo khó tinh tấn hay khó đạt được ích lợi, phần nhiều vì tâm làm biếng và tham lam chưa dứt. Nay tham thiền, mai niệm Phật, rồi mốt lại trì mật chú, cùng tu bao loại pháp môn khác mà không phân biệt môn nào chánh, môn nào phụ. Luôn luôn thay đổi cửa ngõ môn đình mà vọng cầu thành Phật; chẳng hành chút hạnh Phật, chỉ tạo bao nghiệp ma, nên thường làm quyến thuộc ma. Tu đến khi tóc bạc mà chẳng thành, bèn trở lại phỉ báng chế giễu chánh pháp. Người xưa bảo:
- Nếu không muốn bị đọa vào ngục vô gián, chớ phỉ báng chánh pháp của Như Lai.
Hôm nay gặp thắng hội Đại Sĩ, mọi người đồng tâm làm lễ, và phải tự nhận ra đại sĩ Quán Tự Tại trong nhà mình. Đại sĩ Quán Tự Tại từ văn, tư, tu, rồi nhập vào Tam ma địa. Ngài A Nan vì Ỷ trí nhớ hay, nên không tránh khỏi tà tư. Dùng tánh nghe để trì danh hiệu Phật, sao không tự biết cái nghe ? Nghe lại tự tánh, tánh liền thành đạo vô thượng.
Hư Vân tôi vốn là kẻ nương núi rừng hoang dã, tri thức cạn cợt, chỉ vì do ý tốt của quý vị, thỉnh mời đến đây, để lược bày những việc hành trì thối thất và tăng ích của sự tu hành.
Hôm nay là ngày mười chín tháng chín, cùng với quý vị, dùng miệng thô tục niệm danh hiệu Quán Âm. Đại sĩ Quán Âm do từ cái nghe mà nhập vào cửa pháp, rồi xả bỏ mọi mắt, mũi, thân, ý, các vật sở hữu, và quên hết có, không, nơi chốn, thân mạng. Quý vị hãy tự tại mà quán tâm niệm !
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
II. Khai thị trong kỳ Phật thất tại Phước Kiến Công Đức Lâm, năm 1933
Tu hành trong Phật thất quý tại nhất tâm. Tâm nếu không chuyên nhất thì mắt nhìn Đông, hay tai nghe Tây. Tu hành cách đó, cho đến Phật Di Lặc hạ sanh, nghiệp chướng vẫn còn ràng buộc nơi thân. Phật pháp hay thế gian pháp cũng đều giống nhau. Chẳng chú tâm làm việc pháp thế gian còn không được, hà huống tu Phật pháp ! Đối với người niệm Phật, từ đầu đến cuối, phải liên tục niệm thầm lặng; phải niệm rõ ràng mỗi câu mỗi chữ, không thể lầm lộn. Phật đến cũng niệm hay Ma đến cũng niệm. Niệm đến lúc gió thổi không vào thân, hay mưa rơi không ướt mình thì mới có ngày thành tựu. Tại sao ? Phật là bậc Giác ngộ. Nếu muốn Giác ngộ thì phải tự biết dùng sự chuyên tâm mà niệm. Ma tức là phiền não. Chúng não hại huệ mạng của chúng sanh. Biết Ma vốn thường não hại huệ mạng, đương nhiên phải nên dụng công lực, chuyên tâm niệm Phật để hàng phục chúng. Thế nên, khi Giác ngộ viên mãn thì thường thấy Phật. Khi bị tổn hại thì đó là gặp Ma.
Trong đạo tràng niệm Phật, nếu ngồi bất động và liên tục niệm Phật thì chắc chắn sẽ gặp Phật. Khi tôi đến, quý vị ra đón tiếp lễ bái. Quý vị đón tiếp để làm gì ? Thật có uổng phí thời gian lắm không ? Làm sao chứng đắc được gì ? Có phải khi tôi đến, khiến làm não hại tịnh nghiệp nhất tâm của quý vị không ? Việc này, cũng vì quý vị đặt tôi vào điện Diêm Ma La. Thật buồn thay !
Thương thay cho người thế tục ! Họ không biết cung kính Tam Bảo. Họ đem heo quay, gà quay, cá nướng đến cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm; đó là phạm giới giết hại, lại không biết cung kính Ngài. Lần nọ, tôi ở Thượng Hải, gặp lúc bọn ca múa hát xướng đến ca diễn. Một vị cư sĩ nọ mua vé cho vài chỗ ngồi, mất cả trăm đồng. Ông ta mời tôi đi xem ca diễn. Tôi bèn bảo ông ta rằng hãy nói thử xem, đệ tử tại gia khi thọ tám giới quan trai, không được đi xem ca diễn, hà huống tôi là người xuất gia ! Ông mời tôi đi xem diễn kịch, cũng giống như đem heo quay cúng Bồ Tát. Ông ta liền cúi đầu sám hối, và thưa rằng hôm nay bỏ ra cả trăm đồng mới được nghe lời giáo huấn, cùng biết cách thức cung kính chư Tăng.
Phật pháp vô thượng, quý tại dụng tâm.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
III. Thư đáp tướng Tưởng Giới Thạch
...Ngày nay, Phật giáo lan truyền khắp thế giới. Phật giáo tiên phong mở đường cho chủ nghĩa đại đồng. Trên thế giới, xem xét kỹ càng, nhận thấy có hai luồng tư tưởng: Luận Duy Thần và luận Duy Vật. Tuy nhiên, chủ thuyết quả báo luân hồi ảnh hưởng phổ cập khắp nơi; đây là điều không thể nghĩ bàn ! Theo luận Duy Thần của đạo Cơ Đốc thì Thần thường ban an vui cho người hiền, nhưng lại trừng phạt những kẻ ác. Vì vậy mà chấp nhận sự tồn tại của thần linh, và cho đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, những nhà Duy Thần đó chẳng biết giáo điều như thế, không thể khiến người đời tin sâu, nên đưa đến việc họ cùng những nhà Duy Vật tranh cãi bài bác. Do đó, đạo Cơ Đốc không thể duy trì nền hòa bình cho thế giới. Thật ra, thần tức là vật. Vật tức là tâm. Tâm cũng là thần. Tuy nhiên, thần cũng không phải thần, hay vật cũng không phải vật, và tâm cũng không phải tâm. Đức Phật giải thích rõ rằng ba cõi vốn không có một pháp nào cả, mà chúng đều là vọng khởi từ chân tâm. Từ chân tâm này sanh ra muôn pháp. Tuy gọi là "Chân Tâm", nhưng thực ra vì có vật chất hư vọng đối đãi nên mới giả lập danh tự. Bàn đến lẽ cùng tột, gọi là "Chân Tâm" cũng không đúng.
Ví như trong biển cả, tâm là nước, và muôn pháp (muôn sự vật) là sóng. Khi biển êm gió lặng thì gọi là nước biển. Khi gió thổi biển động thì gọi là sóng biển. Khi sóng lặng thì là nước biển. Lúc nước biển khởi dậy thì biến thành sóng biển. Giả sử không có tướng nước chảy cuồn cuộn thì không thể lập danh từ hư giả là sóng biển. Nếu không có danh từ sóng biển thì danh từ nước biển hư giả do đâu mà sanh ra ! Những danh từ hư giả này, chỉ do chúng ta tùy tiện lập ra. Vì vậy, vật tức là tâm. Hữu vi tức là vô vi. Sắc tức là không. Vọng tức là chân. Phiền não tức là Bồ Đề. Chúng sanh tức là chư Phật. Lúc một niệm bị mê hoặc thì tâm trở thành vật; vô vi biến thành hữu vi; không biến thành sắc; chân biến thành vọng; Bồ Đề biến thành phiền não; chư Phật biến thành chúng sanh; nước biển chảy cuồn cuộn thì biến thành sóng biển. Khi có một niệm giác ngộ thì vật chẳng khác tâm; hữu vi chẳng khác vô vi; sắc chẳng khác không; vọng chẳng khác chân; phiền não chẳng khác Bồ Đề; chúng sanh chẳng khác chư Phật; sóng biển lặng thì là nước biển. Lại nữa, vì tâm khởi mê hoặc nên mới giả lập ra vật chất, hữu vi, sắc tướng, vọng không, phiền não, chúng sanh, v.v... để đối đãi với chân tâm, vô vi, chân không, Bồ Đề, chư Phật. Vì thế, dẫu gọi là duy tâm, duy vật, hữu thần, hay vô thần, tất cả đều do tâm thức phân biệt đặt để....
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Có người bảo:
- Nếu như thế thì Phật giáo cũng theo luận Duy Tâm !
Nhà Phật tuy nói duy tâm, nhưng khác hẳn với luận lý Duy Tâm của các nhà triết học. Luận Duy Tâm của triết học là nơi tâm chấp có và nơi vật chấp không. Vì vậy, Phật Thích Ca bảo rằng chúng sanh chấp tâm suy tính so đo làm tự tánh và chấp vọng tưởng sanh tử làm thật thể. Người theo chủ nghĩa duy vật, chấp vật thể là có thật và chấp tâm là hư vô. Phật Thích Ca bảo rằng những người này thường làm những việc điên đảo, vì ngộ nhận vật chất mà cho là mình, nên mãi mãi lưu chuyển trong dòng sanh tử. Luận Duy Thần phân tách rõ ràng giữa thật thể của vật chất và thật thể của thần linh. Vì thế, luận Duy Thần và Duy Vật phân biệt thành hai thế giới riêng biệt. Phật Thích Ca bảo rằng khi tâm thức bị mê hoặc thì nhận lầm bọt biển làm biển cả. Đó gọi là sự hiểu biết sai lầm. Hoặc vì gần gũi, thấy hình trâu mà cho là trâu thật. Hoặc nhìn sơ qua sừng trâu mà lầm nhận sừng trâu là con trâu. Hoặc do thấy đầu trâu mà cho đầu trâu là con trâu. Thật ra, chẳng phải như thế ! Họ không nhìn thấy toàn thể tướng chân thật của con trâu. Phật giáo đàm luận cùng tận cội nguồn và thấu triệt chân lý qua việc chỉ rõ con trâu trắng chân thật. Nếu chỉ xem sơ qua mà chưa thật thấy toàn thể con trâu, đó là lạc vào thiên chấp của luận Duy Tâm và Duy Vật.
Biệt danh chân lý của nhà Phật là minh tâm kiến tánh, bản nhiên thanh tịnh, chân tâm thường trụ, giác tánh chân như, thật tướng pháp thân, v.v... Rời các danh tướng thì không có nơi chốn định nghĩa chân lý. Thể tánh tự giác vốn tự sáng soi và là đức tánh bổn hữu mà không có năng và sở đối đãi. Gốc vốn không có gì gọi là mười phương hay ba đời. Lại nữa, chẳng có chi gọi là đất đai, con người, thú vật, cây cỏ, ngói đá, địa ngục, thiên đường, v.v...Thật ra, chỉ vì một vọng niệm mà khởi ra pháp hữu vi.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, ngài Phú Lâu Na bạch hỏi Phật:
- Bạch đức Thế Tôn ! Tánh giác vốn tự thanh tịnh, nhưng vì cớ sao lại đột nhiên sanh ra đất đai núi sông ?
Phật đáp:
- Này Phú Lâu Na ! Ông hỏi rằng chân tâm đã vốn thanh tịnh, vì sao bỗng nhiên lại sanh ra núi, sông, đất liền ? Vậy ông có thường nghe Như Lai chỉ dạy rằng chân tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường sáng suốt chiếu soi không ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Con có thường nghe Phật dạy nghĩa ấy.
- Vậy chân tâm này, ông cho nó tự có tánh sáng suốt phân biệt chiếu soi hay là không có sáng suốt phân biệt chiếu soi ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Nó sẵn có tánh sáng suốt phân biệt chiếu soi nên mới gọi là tâm. Nếu không có tánh sáng suốt phân biệt chiếu soi thì không gọi là tâm, vì nó không phân biệt được cái gì cả.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
- Ông nói rằng nếu nó không sáng suốt phân biệt chiếu soi thì không phải là tâm, vì nó không phân biệt được cái gì cả. Vậy ông có hiểu chăng: Nếu có chiếu soi phân biệt thì không phải là chơn, còn không có chiếu soi thì chẳng phải là tâm. Nếu tâm mà không sáng suốt thì không phải là chân tâm thanh tịnh rồi.
Ông nên hiểu rằng chân tâm vẫn sáng suốt; vì ông vọng chấp cái Sáng Suốt Phân Biệt làm tâm, nên thành ra có năng phân biệt (tâm) và bị phân biệt (cảnh).
Chân tâm của ông không phải cái bị phân biệt, nhưng vì ông khởi ra cái năng phân biệt nên nó (chân tâm) trở thành cái bị phân biệt (cảnh). Đã vọng thành cái bị phân biệt thì dĩ nhiên ở nơi ông phải vọng sanh ra cái năng phân biệt.
Thế là ở nơi chân tâm của ông vẫn thanh tịnh, không có năng và sở, mà thoạt nhiên thành ra có năng và sở.
Thể tánh chân tâm vốn không khác biệt. Do vọng niệm phân biệt có năng sở và bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới. Do có hư không và thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giới và chúng sanh lăng xăng đối đãi lẫn nhau nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt xấu, phải trái, v.v... Vì vậy mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và sanh diệt là thế giới; cái không có hình tướng và yên tịnh là hư không. Khác với hư không và thế giới là chúng sanh.
Ngay trong chân tâm, do vô minh vọng động mà có hư không. Hư không mờ mịt vì vô minh sanh ra. Trong hư không có chất động, vì nó là vọng. Do đó, trong hư không có gió (phong luân) để duy trì thế giới.
Do hư không sanh ra gió và do nơi tâm chúng sanh có tánh cố chấp phân biệt, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có những chất cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc cứng chắc là vì tâm cố chấp sanh ra. Nó sáng ngời là do tâm phân biệt sanh ra). Đây là nguyên nhân có chất kim khí để bảo trì thế giới.
Vì tâm chúng sanh có tánh cố chấp phân biệt nên sanh ra chất cứng chắc là kim khí, và vì có vọng động mà thành ra gió. Rồi gió thổi kim khí và cọ xát mãi, khiến kim khí đó nóng lên, nên nháng sanh ra ánh sáng là lửa. Đây là nguyên nhân có lửa để nấu đốt các vật.
Chất vàng ngọc vừa sáng ngời và đượm mát. Do lửa xông lên nên có hơi nước rịn ra. Đây là nguyên nhân có nước để bao bọc cả mười phương thế giới.
Vì tánh lửa bốc lên, còn nước thì lại chảy xuống, nên chỗ có thấp ướt thì là sông biển, chỗ cao nổi lên là cồn đảo. Bởi lửa và nước dung hòa nhau, cho nên trong biển thỉnh thoảng bốc lên ánh sáng của lửa, và trong cồn đảo lại có sông rạch thường chảy ra nước.
Vì thế lực của nước yếu hơn lửa, nên bị lửa bốc lên kết thành núi cao. Do đó, đập đá thì có lửa, còn đốt quá nóng thì nó chảy ra nước.
Vì thế lực của đất yếu hơn nước, nên nó bị nước rút lên làm cỏ cây. Vì vậy, nếu đốt cỏ cây thì chúng trở thành tro, còn vò ép thì chúng lại ra nước.
Tóm lại, vì trong tâm chúng sanh có các vọng tưởng xen nhau phát sanh, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có các cảnh vật. Do nhân duyên này mà thế giới tiếp nối nhau sanh ra mãi không dứt.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, nầy Phú Lâu Na ! Cái Hư Vọng Phân Biệt đó không có gì lạ, chỉ vì ông chấp cái Phân Biệt Chiếu Soi làm tâm. Đã có cái Phân Biệt thì dĩ nhiên phải có cái Bị Phân Biệt đối đãi lẫn nhau. Vì vậy, cái Năng Phân Biệt không vượt ra ngoài cảnh Bị Phân Biệt. Do nhân duyên này mà nghe không ngoài tiếng, thấy không ngoài sắc, ngửi không ngoài mùi, nếm không ngoài vị, v.v... rồi vọng thành sáu căn và sáu trần đối đãi nhau, nên phân ra có: Thấy, nghe, hiểu, biết.
Đồng nghiệp trói buộc lẫn nhau mà có hợp, có tan, có thành, có hóa. Khi thấy sáng tỏ thì thấy các màu sắc phát ra. Nhận rõ sự thấy thì kiến chấp thành tư tưởng; ý kiến khác nhau thì thành ra ghen ghét; tư tưởng đồng nhau thì thành ra yêu thương.
Dòng ái lan ra làm thành hạt giống, rồi do giao cấu phát sanh, khiến thu nạp tưởng thành bào thai, tức là chiêu dẫn chúng sanh đồng nghiệp, nên có nhân duyên sinh yết la lam, át bồ đàm, v.v...
Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hay hóa sinh, tùy chỗ của các loài ấy mà ứng hiện. Loài noãn sanh chỉ do tâm tưởng mà sinh; loài thai sinh do tình dục mà ứng hiện; loài thấp sinh do tâm hợp mà cảm sanh; loài hóa sinh do phân ly mà hiện ra.
Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau, nên các loài thọ nghiệp báo và theo đó mà có thăng trầm, lên xuống. Do nhân duyên ấy mà chúng sanh tiếp nối sanh sản không ngừng.
Này Phú Lâu Na ! Tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau, khiến mến luyến mãi không rời. Thế nên, trong thế gian, cha mẹ con cháu nương nhau sinh ra tiếp nối không dứt. Những việc như thế, đều do tham dục làm gốc.
Lòng tham và yêu mến cùng tăng trưởng. Tham mãi không dừng, nên trong thế gian, các loài noãn sinh, hóa sinh, thấp sinh, thai sinh, tùy theo sức mạnh yếu mà ăn nuốt lẫn nhau. Những việc như thế, đều do tâm tham giết hại làm gốc.
Người ăn thịt dê; dê chết làm người và người chết làm dê. Như thế cho đến mười loài chúng sanh, chết sống và sống chết ăn nuốt lẫn nhau, khiến đồng tạo ác nghiệp, suốt đời vị lai. Những việc như thế, đều do tâm tham lam trộm cắp làm gốc.
Loài này cướp giựt thân mạng loài kia; loài kia giết hại lại loài này; trả vay, vay trả lẫn nhau đến trăm ngàn kiếp không thể ra khỏi sanh tử.
Trai mê sắc gái; gái thương tình trai; vì tình ân ái thương yêu lẫn nhau, nên trăm ngàn kiếp bị triền phược trói buộc mãi trong vòng luân hồi.
Tóm lại, chỉ có ba thứ như giết hại, trộm cắp, dâm dục làm cội gốc, nên nghiệp (nhân) và quả tiếp nối không ngừng.
Này Phú Lâu Na ! Ba thứ điên đảo (thế giới, chúng sanh, nghiệp quả) đều nằm trong chân tâm; vì vô minh vọng động sanh ra Năng Phân Biệt và Sở Phân Biệt đối đãi lẫn nhau, nên vọng thấy có núi sông đất đá, thế giới, chúng sanh, rồi tiếp tục sanh diệt biến hóa, vô cùng hư vọng...
Trong tánh giác thể chân như bỗng nhiên sanh ra chân và vọng. Từ đó lại phân thành tướng bất biến và tùy duyên. Thể tánh bình đẳng bất biến, vượt ngoài những tướng sai biệt, chẳng phàm chẳng thánh, không thiện không ác, chân thật như thường, vốn là chân như bất biến.
Tùy duyên sanh diệt mà khởi tướng sai biệt, có phàm có thánh, có thiện có ác, đó là chân như tùy duyên. Lại nữa, gọi là chân như bất biến vì muôn pháp vốn là chân như, chứ chẳng phải tâm, vật, thần. Gọi là chân như tùy duyên vì chân như này vốn là muôn pháp, tức là tâm, vật, thần. Luận duy tâm lầm nhận thần linh, tức là chân như tùy duyên, mà cho đó là chân tâm.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Nhà Duy Vật đề xướng luận vô thần lại hẹp hòi biên kiến; triết lý của họ thuộc về chân như tùy duyên, tức chỉ thấy có vật chất. Người theo chủ thuyết Duy Vật lại căn cứ theo vật chất mà đề xướng luận vô thần. Người theo luận Duy Thần cũng hẹp hòi biên kiến, vọng sanh phân biệt, lầm nhận vật chất và thần linh, tức là chân như tùy duyên.
Người đề xướng luận Duy Thần nào biết tâm tức là vật, và vật tức là thần ! Tâm, vật, và thần đồng một thể tánh. Có tâm tức có vật. Có vật tức có thần. Vô tâm tức vô vật. Vô vật tức vô thần. "Có" không phải có trong cái "có, không", lại chẳng có mà có trong diệu hữu. Cái "không" chẳng phải cái không đoạn diệt, lại vượt ngoài cái diệu không của cái "có không".
Luận Duy Tâm, Duy Vật, Duy Thần chưa từng hiểu rõ nghĩa lý này, nên cùng nhau công kích đả phá. Thật ra, họ đều đúng và đều sai. Người nghiên cứu học Phật pháp, hãy nên phá vỡ những tảng băng đá này !
Đối với việc nghiên cứu bản thể vũ trụ của nhà Phật, tôi đã tường thuật rõ ràng như bên trên rồi. Ngoài ra, những việc như sự cấu tạo hay thành hoại của thế giới, hệ thống khí quản của thân người, cùng bao vấn đề khác, trong kinh Lăng Nghiêm và những bộ kinh luận khác đều đã thuyết minh, luận bàn tường tận rõ ràng. Đa số, những điều này đều phù hợp với những phát minh của các học giả, triết gia, khoa học gia trong hiện thời và tương lai.
Tuy nhiên, đối với giá trị nhân sanh, pháp tắc và hạnh nguyện của chư đại Bồ Tát, chỉ có chư thánh hiền mới biết được. Những điều này, trong kinh điển thường nhắc đến. Vì vậy, nên biết rằng Phật giáo rất thần diệu và vĩ đại. Tuy nhiên, Phật giáo tuyệt không khoe khoang những điều kỳ lạ, lại cũng không làm những việc hư dối, khiến mê hoặc quần chúng. Mỗi lời nói và hành vi đều y theo ba môn vô lậu học giới định huệ, mà thi hành thực tiễn.
Sao gọi là giới định huệ ? Phòng phi chỉ ác gọi là giới. Khi sáu căn tiếp xúc với cảnh, tâm không tùy duyên (mà khởi) nên gọi là định. Tâm và cảnh tròn đầy như hư không, và thường giác chiếu mà không mê hoặc, đó gọi là huệ. Phòng ngừa việc xấu, và đình chỉ việc ác của ba nghiệp, khiến dòng nước tâm tự lắng đọng trong sáng, tức do giới mà sanh định. Nước tâm lắng đọng trong sáng, khiến tự tánh chiếu soi khắp xum la vạn tượng, tức do định mà sanh huệ. Nhà nho cũng có câu:
- Sau khi định tâm thì sẽ được tĩnh lặng; tĩnh lặng rồi sẽ được an lạc; an lạc rồi sẽ có khả năng suy xét quán chiếu; suy xét quán chiếu rồi sẽ có thể đắc đạo.
Các nhà triết gia cũng thường suy gẫm về sự tướng cùng sở học của họ. Tuy nhiên, nhà nho, nhà triết học, và nhà khoa học đều dùng tâm phan duyên (phân biệt) để suy tư về vạn vật và vũ trụ. Họ nào biết đâu vũ trụ và vạn vật cũng do từ tâm phan duyên tạo thành ! Năng tư sở lự đều bắt nguồn từ tâm phan duyên. Nếu muốn cầu chân lý thâm sâu phải ngồi thiền tĩnh lự. Các nhà triết học hiện nay, đối với sự nhận thức về các luận lý, thường lao xao tranh cãi, mãi không kết thúc.
Phật pháp rời ngôn từ và dứt đường tư lự (suy nghĩ), nên khiến trí huệ giác chiếu khắp vũ trụ cùng muôn vật muôn sự.
Nếu ngồi xuống, ung dung tự tại mà bàn luận, thì thấy rằng Phật giáo vốn tiên tri tiên giác, và bao hàm cả triết học, khoa học, tôn giáo. Lò nào cũng cùng một xưởng.
Nhật Bổn tôn sùng Phật giáo làm quốc giáo, nên thời cận đại đạo Phật rất hưng thịnh. Những nhà duy tân và hiền sĩ anh tài xuất thân từ thiền học không ít. Đối với những việc của dân chúng, các ngài đều hiểu thấu. Nếu không dùng võ lực quân phiệt mê muội, không dùng sức mạnh bạo lực để giết chóc, và không dùng chính sách xâm lược khiến trái ngược với đạo, thì ngày nay được an ổn, đâu đến nỗi phải bị thảm bại.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Có người nghi rằng Phật giáo rất tiêu cực và mê tín, nên không xứng đáng làm quốc giáo; đây là vọng tưởng của những người chưa hiểu gì về đạo Phật. Thật ra, Phật giáo không hủy hoại tướng của thế gian, cớ sao gọi là tiêu cực ? Đạo Phật dẫn dắt con người đi từng bước để bỏ mê hợp với tánh giác thì cớ sao gọi là mê tín ? Suy nghiệm lại chữ Phật, theo tiếng Phạn phải nói cho đủ là Phật đà, và được dịch là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bồ Tát, tiếng Phạn gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch là giác hữu tình và hữu tình giác. Bồ tát có hai hạng là xuất gia và tại gia. Bồ Tát thường phát tâm rộng lớn vì chúng sanh mà cầu đạo Bồ Đề vô thượng. Các ngài vừa tự tu hành, vừa giáo hóa tha nhân. Đó là hạnh chánh tín và tích cực của chư Bồ Tát. E rằng trên thế gian hiếm có ai phát được những hạnh nguyện này.
Phật giáo y theo hai nghĩa "chiết" và "nhiếp" mà lập nhiều môn phương tiện. Sao gọi là chiết ? Chiết tức là chiết phục kẻ ác. Xưa kia, khi Thạch Lặc hỏi về giới cấm giết hại, thì ngài Phật Đồ Trừng đáp:
- Ông là vua trăm họ, chớ nên giết hại chúng dân bừa bãi. Đó là nghĩa của giới cấm giết hại.
Lại nữa, chư Bồ Tát quyền thừa tại gia phải chiết phục kẻ ác để lợi sanh. Tuy cầm đao trượng, cho đến chặt đầu kẻ ác, mà không thật phạm giới cấm giết hại; ngược lại còn sanh thêm công đức. Nếu ác ý mà giết người, thì biết là không thể được. Vì thiện ý mà giết người, đó là thủ nhãn thiện xảo của đại Bồ Tát Kim Cang quyền thừa.
Sao gọi là nhiếp ? Nhiếp tức là nhiếp thọ người hiền. Chư Phật Bồ Tát vì lợi ích của chúng sanh, nên không quản ngại gian nan hiểm nạn. Có bốn pháp nhiếp thọ. Thứ nhất, bố thí nhiếp, tức là nếu có chúng sanh muốn tiền tài thì Bồ Tát bố thí tiền tài. Nếu chúng sanh muốn nghe pháp thì Bồ Tát bèn thuyết pháp bố thí, để khiến cho họ sanh tâm thân ái mà thọ đạo. Thứ hai, ái ngữ nhiếp, tức là tùy theo căn tánh của chúng sanh, Bồ Tát ban những lời khuyên nhủ, thí dụ ngọt ngào, để khiến cho họ sanh tâm thân ái mà thọ đạo. Thứ ba, lợi hành nhiếp, tức là thân miệng ý của Bồ Tát luôn hành thiện nghiệp, làm lợi ích chúng sanh, khiến họ sanh tâm thân ái mà thọ đạo. Thứ tư, đồng sự nhiếp, tức là dùng pháp nhãn mà quan sát căn tánh của chúng sanh; tùy theo sở thích của họ mà Bồ Tát phân hình thị hiện, và cùng họ làm những việc ích lợi, để họ phát tâm thọ đạo. Đó là những hạnh tích cực của chư Phật và Bồ Tát.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Sao gọi là phương tiện ? Tức là các ngài tùy theo căn tánh của chúng sanh mà cứu độ bằng những phương tiện quyền xảo.
Bên trên đã bàn về bốn pháp nhiếp thọ, đó cũng là những môn phương tiện quyền xảo. Phẩm Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa thuyết:
"...Ví như trong đường hiểm
Chỉ toàn loài ác thú
Lại chẳng có cỏ nước
Nơi người thường sợ hãi.
Vô số trăm ngàn chúng
Muốn thoát đường hiểm đó.
Đường ấy rất rộng dài.
Qua năm trăm do tuần
Có một vị đạo sư
Mạnh khỏe có trí huệ
Tâm sáng suốt cương quyết
Tại đường hiểm cứu nạn.
Chúng nhân đều mỏi mệt
Mà bạch đạo sư rằng:
Chúng con đều mệt nhọc
Nơi đây muốn thối lui.
Đạo sư bèn suy nghĩ:
Bọn trẻ thật đáng thương
Sao lại muốn thối bước
Bỏ mất châu báu lớn ?
Nên nghĩ kế phương tiện
Mà thiết lực thần thông
Hóa ra thành ấp lớn
Các phòng xá nguy nga.
Chung quanh có vườn rừng
Sông ngòi cùng ao tắm
Lầu gác cao, cửa lớn,
Trai gái đều đầy đủ.
Liền hóa làm thế rồi
An ủi chúng đừng sợ.
Các ngươi hãy vào thành
An trú tùy sở thích.
Chúng nhân liền vào thành
Tâm đều mừng vô ngần
Đều sinh tưởng an vui,
Tự cho là được độ.
Đạo sư biết đã nghỉ
Hợp chúng lại bảo rằng:
Đây chỉ là hóa thành
Thấy các ông quá mệt
Giữa đường muốn thối lui
Nên quyền thiết hóa thành.
Nay đương cần tinh tấn
Phải cùng đến bảo sở..."
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Xem qua bài kệ này, chúng ta biết rõ thâm ý của Phật Thích Ca phân thời lập giáo, quyền thuyết phương tiện. Thế nên, những bậc thượng thiện căn thường hợp với thiền và giáo. Người chú trọng sự phân chiết thì hợp với Duy Thức học. Pháp môn phổ cập trong quần chúng là Tịnh Độ. Người xuất gia hay kẻ tại gia, dẫu tu theo Đại Thừa hay Tiểu Thừa, đều vì nhiệm vụ cứu độ giáo hóa rộng khắp quần sanh, khiến cho tất cả chúng sanh đều thọ pháp ích lợi.
Gần đây, có những người theo lập trường vô thần, thấy các Phật tử lễ bái hay trì danh niệm Phật, thì họ cho là mê tín. Họ không biết rằng lễ bái chư Phật chư Bồ Tát nào khác gì với sự cung kính các bậc trưởng thượng ! Sự niệm Phật, đối với việc tu tâm, chẳng phải là công phu tu hành sao ? Vả lại, trì danh niệm Phật, bất quá chỉ là một pháp môn phương tiện giản dị cho người sơ cơ. Ngoài ra, trong tông Tịnh Độ còn có các pháp môn như Quán tượng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Thật tướng niệm Phật, v.v... Tông Tịnh Độ vốn rất diệu dụng vô cùng tận, mà họ tự không hiểu rõ, lại cho là mê tín.
Lại nữa, có người bảo rằng đạo Cơ Đốc cũng thoát thai từ tông Tịnh Độ. Xem xét chúa Giê Su mặc y phục cũng tương đồng với Phật. Trong kinh "Phật Thuyết A Di Đà" thường nhắc đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương. Tín đồ đạo Cơ Đốc cũng thường nói đến Thiên Quốc Cực Lạc. Cõi Tịnh Độ được phân thành chín phẩm. Gia giáo Lý Lâm Thiên Thần Phổ cũng nói là có chín phẩm vị Thiên Thần. Trong Kinh A Di Đà, Phật Thích Ca nói rằng không thể dùng chút ít nhân duyên phước đức thiện căn mà được sanh qua cõi Cực Lạc. Đạo Cơ Đốc cũng nói rằng nếu ở tại nhân gian mà không lập công bồi đức thì Thiên Chúa sẽ không rước về Thiên Quốc. Người tu theo tông Tịnh Độ, phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà trong sáu thời, khẩn cầu Phật tiếp dẫn. Đạo Cơ Đốc cũng bảo tín đồ rằng ngày đêm sáng tối phải thường cầu khẩn Thượng Đế gia hộ. Trong nhà Phật có pháp quán đảnh. Đạo Cơ Đốc có lễ rửa tội. Xem xét những điều như trên, thấy rằng tông chỉ của đạo Cơ Đốc và tông Tịnh Độ thật rất tương đồng. Giê Su giáng sanh sau Phật Thích Ca hơn năm trăm năm. Ngài đã từng thọ giáo huấn của Phật Thích Ca, nên mới được Kinh A Di Đà, rồi y cứ theo đó, mà sáng lập tôn giáo mới. Điều này không thể nào nghi ngờ được. Lại nữa, Giê Su đã từng qua Ấn Độ ẩn tích ba năm để tham học. Sự tuy vô căn cứ, mà dấu tích vẫn còn tồn tại.
Đạo Cơ Đốc tuy tựa như pháp môn trì danh niệm Phật của tông Tịnh Độ, nhưng rất kém xa. Tín đồ Cơ Đốc chỉ cầu tha lực. Tuy tin tha lực như thế, mà họ lại không hiểu tại sao phải tin. Gần đây, có những người miễn cưỡng trì danh niệm Phật, chỉ chú trọng vào tha lực, tự bảo là phù hợp với đạo.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1__________________________________________________ ______________________________________
Chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông trong Kinh Lăng Nghiêm viết:
"...Chư Phật trong mười phương thường lân mẫn thương xót nghĩ nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con cứ chạy lẫn trốn thì mẹ có thương nhớ cũng vô ích. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con đều không cách xa. Nếu tâm chúng sanh thường nhớ Phật niệm Phật, thì hiện tiền và tương lai, tất sẽ thấy Phật, và không xa cách Phật. Không cần giả lập phương tiện, tâm vẫn tự được khai ngộ... Nhân địa của con, dùng tâm niệm Phật mà nhập vào Vô sanh pháp nhẫn. Hôm nay tại nơi đây, nhiếp thọ người thường niệm Phật, quy nơi Tịnh Độ".
Có nhân thì có quả, tức là sự và lý không chướng ngại nhau. Đạo Cơ Đốc bảo rằng người hiền lương sẽ sanh qua Thiên Quốc vĩnh viễn. Giáo lý của tông Tịnh Độ bảo rằng vãng sanh Tịnh Độ thì mãi sanh nơi cõi Phật, thấy Phật nghe pháp, liễu ngộ vô sanh pháp nhẫn. Dùng diệt mà hiển thị sanh, nên có sanh diệt đối đãi. Cuối lúc diệt, sanh trong cái vô sanh, tức vốn tự vô sanh, nên không có diệt. Vì vậy, gọi là Vô Lượng Thọ.
Y theo hạnh nguyện của Bồ Tát, chẳng phải chỉ có người xuất gia mới cầu đạo vô thượng, mà người tại gia cũng hành được. Bất quá, người xuất gia chỉ sống xa quốc chủ, rời thân bằng quyến thuộc, xả bỏ ân ái gia đình, ý tại thoát ly tình dục trói buộc. Người xuất gia xả bỏ tình riêng mà phát triển đồng tình Phật tánh. Xả bỏ ân ái riêng tư để trở thành bậc bác ái vĩ đại. Lấy việc cứu độ tất cả chúng sanh làm trung. Dùng sự nhiếp thọ chúng sanh làm hiếu. Đó là ý nghĩa của chủ nghĩa đại đồng. Tiên sinh Tôn Trung Sơn thường nói:
- Phật giáo lấy việc cứu thế gian làm nhân đức. Phật học là mẹ của mọi ngành triết học. Tôn giáo tạo thành nền văn hóa và duy trì hùng khí cùng thiên tánh tự nhiên của dân tộc. Nhân dân chẳng nên không có tư tưởng tôn giáo. Nghiên cứu Phật học giúp bổ xung vào những điểm khiếm khuyết của triết học.
Hôm nay, Ngài (Tưởng Giới Thạch) đã cho phép kết hợp Phật giáo vào nền văn hóa, tức là bổ ích thêm cho tư tưởng học thuật của nước nhà. Hiện tại, Phật giáo đang lan truyền rộng rãi khắp thế giới. Phật giáo luôn chủ trương khuyến tấn đại giáo đại đồng duy nhất. Đây không phải là lời trống rỗng.
Vả lại, ngày nay tự do tôn giáo, chẳng nên cưỡng ép người theo những đạo mê tín, thì mới khiến nhân tâm trung thành khâm phục mà sanh chánh tín. Nếu bỏ Phật giáo thì quy ngưỡng vào nơi nào ?
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1 _ Khai thị ngày 17/01/1943__________________________________________________ ______________________________________
IV. Khai thị tại chùa Từ Vân ở Trùng Khánh vào ngày mười bảy tháng giêng, năm 1943
Hôm nay, quý vị phát tâm quy y Tam Bảo. Lão nạp rất vui mừng. Quý vị không quản đường xa, băng sông lội suối đến đây, không ngoài việc hy vọng đạt được sự lợi ích này. Tuy nhiên, nếu muốn đạt được lợi ích, phải tự thuận theo tự tướng mà hành trì. Nếu chỉ quảy đeo hư danh trống rỗng, sẽ không đạt được gì. Quý vị nên biết rằng hôm nay thọ giới quy y, tức là làm đệ tử Phật. Quý vị đã giống như được sinh vào nhà Đế vương, tức là làm con cháu Đế vương, nhưng phải cố gắng đôn đúc tu hành, đừng để bị trục đuổi, thì mới thật là phượng các loan đài, có phần lợi ích.
Từ nay về sau, phải y chiếu theo lời di giáo của Phật mà hành trì. Phải sớm biết muôn sự trên thế gian này như huyễn hóa. Suốt cuộc đời của con người, làm này tạo nọ, chỉ giống như ong hút mật, tằm dệt lưới. Do một niệm động khởi, nên chúng ta nhập bào thai. Được sanh ra đời xong, lại từ từ biết phân biệt mình người, khởi niệm tham sân si. Lớn lên, dần dần tiếp xúc với xã hội. Mọi toan tính đều vì lợi ích cho mình; tích lũy tiền tài riêng tư cho quyến thuộc. Bận rộn cả đời, chỉ lo chuyện vợ con. Kết quả, không một giây phút rảnh rỗi. Tự mình trói buộc không lối thoát, có khác gì ong hút mật ! Cả đời làm lụng này nọ, tạo bao nghiệp chướng, nên phải chịu quả xấu, phá vỡ chẳng được, nào khác chi tằm tự quấn tơ ! Cuối đời bị đọa lạc vào vạc lửa dầu sôi, ba đường ác. Hãy suy nghĩ kỹ càng !
Vì thế, mọi người phải y chiếu theo lời Phật dạy. Phải ăn chay trường suốt đời, chớ chỉ ăn chay tạm. Chẳng nên giết hại sinh mạng loài khác. Sao nhẫn tâm giết hại sinh mạng loài vật để bổ dưỡng cho thân mình ? Thử xem lúc giết gà, nó tất phải cố kêu la bỏ chạy. Chỉ vì chúng ta mạnh nó yếu, không đủ sức đề kháng chống cự, nên phải chịu nhẫn thọ, nhưng lại tích oán trong tâm, để đợi đến đời sau, nếu có dịp sẽ báo thù. Hiện tại, các cường quốc dùng các loại vũ khí ác độc, hủy diệt các dân tộc nhược tiểu, cùng việc giết gà đồng nhau không khác.
Quý vị đã là Phật tử, nếu việc gì trái với sự lý, chớ nên làm càn. Phật pháp vốn chẳng có gì kỳ lạ, vì luôn tuân theo chánh tâm, thuận theo lý đạo.
Có nhiều người thấy tôi tuổi lớn cơ tuần, nên mỗi lần gặp mặt thì tham thảo tìm tòi thần thông tình tự; họ kiểm nghiệm coi tôi có biết đời quá khứ vị lai của người khác hay không, hoặc thường hỏi chiến tranh bao giờ kết thúc, thế giới bao giờ hòa bình ! Thật ra, không những Thiên ma Ngoại đạo, mà ngay cả Quỷ Thần Súc sanh (Rồng) cũng có năm loại thần thông. Những thần thông này, trong tự tánh vốn có đủ, chớ nên để tâm chú ý. Chúng ta học Phật pháp, phải vì việc minh tâm kiến tánh, giải thoát sanh tử, phát tâm Bồ Đề, hành đạo Bồ Tát. Lời cạn cợt thô thiển của tôi:
- Các việc ác chớ làm. Hãy nên làm các việc lành.
Không nên làm tổn hại người để lợi mình, mà phải tổn mình lợi người. Phải thường thiết thật hành trì giới; do giới sanh định, rồi do định sanh huệ. Tất cả việc đều tự biết tự thấy, thì việc quy y hôm nay chẳng phí uổng.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1 _ Khai thị ngày 17/01/1943__________________________________________________ ______________________________________
Vừa rồi có vài vị hỏi về yếu chỉ của kinh Lăng Nghiêm. Thể theo cơ duyên của đại chúng nơi đây, nay lược thuyết đại khái :
Ở Ấn Độ, bộ Kinh này vốn có một trăm quyển, nhưng tại cõi này, chỉ phiên dịch có mười quyển. Bốn quyển đầu nói về việc kiến đạo. Quyển thứ năm, thứ sáu, và thứ bảy nói về việc tu hành. Quyển thứ tám và thứ chín bàn về chứng quả của cách tu tiệm thứ. Quyển cuối cùng nói về những vọng tưởng phát xuất từ các ấm ma. Tôn giả A Nan vì đại chúng mà thị hiện hỏi đạo. Đầu tiên, đức Phật chứng minh các pháp đều do tâm mà sinh ra. Vì tôn giả A Nan thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, như các màu sắc vàng tím hội tụ, nên sanh tâm thích mến. Phật hỏi:
- Những tướng này dùng vật gì để thấy ?
Ngài A Nan đáp:
- Con dùng mắt để xem thấy tướng hảo thù thắng của Như Lai.
- Tâm và mắt trú tại nơi nào ?
- Con quán thấy Như Lai, mắt xanh biếc như hoa sen, tại trên mặt của Ngài. Nay con quán thấy bốn căn phù trần ngay nơi trước mặt. Tâm thức này, thật trú tại trong thân.
Tâm chẳng ở trong, ở ngoài, hay chính giữa. Nếu không chấp trước mọi việc thì tâm không trụ nơi nào hết. Những vị tu hành không thể đắc được đạo Bồ Đề vô thượng chỉ vì không biết hai việc căn bản. Thứ nhất là cội gốc của sinh tử từ xưa đến nay; chúng sanh thường dùng tâm phan duyên làm tự tánh của mình. Thứ hai là vô thủy Bồ Đề Niết Bàn, thể vốn thanh tịnh. Tuy nhiên, ngay nơi tánh thức sáng soi lại sanh ra các duyên. Do những duyên này, nên chúng sanh quên cội gốc tròn đầy trong sáng. Tuy cả ngày thường mang theo tánh giác mà chẳng tự giác, nên oan uổng đi vào ba con đường ác. Phải biết sanh ra các pháp, vì do tâm ảnh hiện. Mọi nhân quả thế giới vi trần đều do tâm tạo ra. Chúng sanh không thể thành tựu đạo Bồ Đề chỉ vì ngộ nhận khách trần phiền não là mình. Sáu trần là màu sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm, pháp. Sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Đó là mười hai xứ. Lại thêm nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức; tất cả cộng thành mười tám giới. Đất nước gió lửa hợp với không đại, kiến đại, thức đại, làm thành bảy đại. Gom hết lại thành số hai mươi lăm. Từ đây, mỗi vị trong hai mươi lăm vị Thánh tự trần thuật và nói rõ nhân duyên cũng như đường lối tu hành nhập đạo thuở xưa.
Sống trong sáu đường luân hồi, dâm dục là gốc. Lưu chuyển trong ba cõi do ái làm căn bổn. Ngài A Nan vì chúng sanh mà thị hiện tướng: Tuy bao kiếp tu hành, nhưng không thoát được nạn Ma Đăng Già. Trong các tội chướng, dâm dục đứng đầu. Vì dâm dục nhiều khiến tổn hại thân thể, nên giết hại sanh mạng chúng sanh để bổ dưỡng. Những tội ăn cắp nói láo v.v..., cũng theo đó mà phát sanh.
Ngài A Nan thấy ba mươi hai tướng tốt của đức Như Lai, như ánh sáng vàng tím hội tụ, nên đối với sắc đẹp của Ma Đăng Già cũng ưa thích. Trai thích nhìn gái đẹp, hay nghĩ tưởng mình là thân gái. Gái thích nhìn trai, hay nghĩ tưởng mình là thân trai. Những vọng tưởng điên rồ này, cả ngày cứ xoay vần trong tâm niệm. Ví như lúc nhỏ khi còn ở nhà chưa xuất gia, tôi thường để râu tóc, mặc đồ thế tục. Cả ngày giao tế, nghĩ tưởng những việc thế tục. Tối đến lại mộng thấy cha mẹ nội ngoại, quyến thuộc, và bao việc thế tục. Từ khi xuất gia, những việc làm và suy nghĩ không ngoài việc Phật sự. Tối ngủ, mơ thấy những sự không ngoài việc niệm Phật, v.v...
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1 _ Khai thị ngày 17/01/1943__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, năm loại hành tỏi không thể ăn được, vì muốn tránh sự kích thích dục niệm. Trừ dẹp những trợ nhân đó rồi tu chánh tánh, tinh tấn chuyên cần, tự có thể từ từ thành tựu. Tự mình chuyên cần phấn tấn mà không ỷ lại người khác.
Ngài A Nan là hoàng tử, cũng là em Phật. Ngài xả bỏ vinh hoa phú quý, theo Phật xuất gia, và hy vọng Phật sẽ tiếp tay giúp sức, chứng đắc quả vị. Tuy nhiên, nên biết phải tự tu tự chứng mà không thể nương nhờ người khác. Chúng ta nếu không làm biếng giải đãi, luôn phát tâm cần tu tinh tấn, thì sẽ chứng đắc các quả vị Bồ Tát như thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh, thập địa, cho đến đẳng giác, diệu giác. Ba cõi và sáu đường đều là huyễn hóa, và vốn không ngoài một tâm. Tất cả tánh giác vi diệu trong sáng của chư Phật cũng không ngoài một tâm. Thế nên, Tâm, Phật, Chúng sanh, cả ba không khác biệt. Đồng Tử Hương Nghiêm cũng có thể gọi là mũi của chúng ta. Bồ Tát Kiều Phạm cũng có thể gọi là lưỡi của chúng ta. Nhân địa và cách thức tu hành của hai mươi lăm vị hiền thánh tuy không đồng, nhưng sự tu hành chứng ngộ vốn không hơn kém.
Hiện tại, những người sơ phát tâm tu đạo có thể theo pháp tu của Bồ Tát thứ hai mươi bốn và hai mươi lăm, tức là ngài Đại Thế Chí và Quán Thế Âm mà hỗ tương dụng công. Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ là vị Phật kế tiếp sau Phật A Di Đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Sau Bồ Tát Quán Thế Âm, ngài Đại Thế Chí sẽ làm Phật tại cõi đó. Ngài Đại Thế Chí dùng pháp môn niệm Phật tu hành chứng được viên thông. Chúng ta cũng phải tu tập, niệm Phật để nhiếp thọ sáu căn, đạt được tịnh niệm tương tục, đắc Tam ma địa (Chánh định). Mười phương chư Như Lai đều lân mẫn thương xót chúng sanh, như mẹ thương con. Tuy nhiên, nếu con cứ chạy trốn mãi thì mẹ nhớ cũng chẳng có ích gì ! Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì mẹ con đời đời không xa cách. Nếu tâm chúng sanh thường nhớ Phật và niệm Phật thì đời này đời sau, quyết định sẽ thấy Phật. Bồ Tát Quán Thế Âm từ văn tư tu mà nhập vào Tam ma địa; trên hợp với mười phương chư Phật, đồng một lực Từ; dưới hợp với chúng sanh trong sáu đường, đồng một Bi ngưỡng. Nếu gặp thiện nam tử thường trì năm giới thì Ngài sẽ hiện thân nam mà vì người đó thuyết pháp, khiến cho được thành tựu đạo Bồ Đề. Nếu gặp người nữ thường thọ trì năm giới, Ngài cũng sẽ hiện thân nữ mà vì họ thuyết pháp, khiến được thành tụu đạo Bồ Đề. Cứ như thế, trong ba mươi hai ứng thân hoặc hiện thân Trời Người, Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến thân Phật, cùng mười bốn lực vô úy, bốn pháp bất tư nghị, trải qua vô lượng kiếp, Ngài độ vô lượng chúng sanh. Chúng sanh vô tận, bi nguyện vô tận. Quý vị hãy tự suy gẫm !
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1 _ Khai thị : 18-1-1943__________________________________________________ ______________________________________
V. Khai thị tại chùa Từ Vân ở Trùng Khánh vào ngày mười tám tháng giêng, năm 1943
Hôm nay cùng quý vị đàm luận. Đối với hai chữ khai thị, thật tình tôi rất xấu hổ, không dám đảm nhận. Hư Vân tôi, ngay chính mình cũng chẳng rõ, sao dám hàm hồ dạy người !
Lời Phật dạy trong các Kinh điển nhiều vô số. Tại các tùng lâm những lúc tọa hương ngồi thiền, đả Quán Âm thất, Phật thất v.v..., các vị ban thủ luân phiên khai thị. Tuy nhiên, việc bái sám lễ lạy thì không như ngồi thiền đả thất. Khi lễ sám, năm thể phải chạm đất và ba nghiệp phải thanh tịnh mà không nên tăng thêm những lời tán ngôn loạn ngữ. Trên đàn sám không ban những lời khai thị. Lúc lễ sám phải quán tưởng: "Người lễ, bậc thọ lễ, tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Nay con đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm, cảm ứng đạo giao tự hiện tiền".
Thân tâm mình lễ. Phật và Bồ Tát là những vị thọ nhận lễ. Tâm mình vừa lễ vừa quán tưởng thâm sâu về quá khứ, hiện tại, vị lai, nơi mọi thời, đều không thể đắc được. Tất cả đều không tịch, thì tạng tánh Như Lai sẵn có, tự nhiên hiển lộ. Kinh Kim Cang nói: "Nếu lấy sắc cầu Ta, lấy âm thanh cầu Ta, người này hành Tà đạo, không thể thấy Như Lai... Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức thấy Như Lai".
Đây là hai ý nghĩa vừa ẩn vừa hiển. Không chẳng phải không và sắc chẳng phải sắc, thì mới là không chân thật và là sắc chân thật.
Chúng ta đều là những người xuất gia. Nơi trong lửa bỏng dầu sôi, nước non loạn lạc, không gặp đạn dược cũng gặp phi cơ. Thật không may mắn. Tuy nhiên, trong việc không may mắn lại có những sự may mắn. Vì sao ? Người xuất gia vốn: "Một bình bát, ăn cơm ngàn nhà. Thân đơn độc, đi muôn vạn dặm".
Tuy nhiên, hiện tại không thể hành được những hạnh này.
Chúng ta phải nên xả bỏ tất cả, cùng thúc liễm thân tâm. Thân vốn là gốc khổ. Tâm nguyên là nguồn tội. Hiện tại, nếu không nỗ lực tu hành thì đợi đến chừng nào ? Một khi mất thân này thì muôn kiếp khó hoàn phục. Xả bỏ vọng tưởng thì bản tâm như như; muốn được như thế, phải tu hành ngay từ tự tâm, chứ không thể hành từ bên ngoài mà đắc được. Nếu luôn tinh cần tu trì thì lo gì không cắt đứt dòng sanh tử ? Nhà Nho có câu: "Từ thiên tử (nhà vua) đến thứ dân, mọi người phải lấy việc tu thân làm gốc".
Tâm người đời hiện nay khác xưa. Họ không biết sự quan hệ giữa chánh trị và tôn giáo. Dùng chánh trị để sửa thân. Dùng tôn giáo để chuyển hóa nội tâm. Những ý nghĩa này, họ đều không biết đến. Gần đây, chắc có nhiều vị trí thức biết rõ rằng nếu không nhờ sự nỗ lực nhất chí của chánh phủ và tôn giáo thì không thể cứu tế được thiên tai hoạn nạn trong đại kiếp nầy. Hiện tại, tổng thống cùng các vị bộ trưởng, đồng phát tâm kiến lập pháp hội Đại Bi Hộ Quốc Giải Trừ Thiên Tai Hoạn Nạn, cũng không ngoài ý này.
Xưa kia, việc kiến lập pháp hội là việc thường. Đối với pháp hội Thập Luân, Kim Cang v.v..., tôi nhớ không hết, nhưng biết rõ rằng sự dụng tâm tại những pháp hội đó không giống nhau. Các vị Lạt Ma Tây Tạng gần đây hoằng pháp tại Trung Nguyên rất nhiều. Chánh phủ rất mực tôn sùng kính trọng. Không biết có phải là tín ngưỡng đặc biệt của chánh phủ hay không ? Tăng sĩ áo xanh ngày càng lộng hành. Họ phá chùa đuổi tăng áo vàng. Tăng chúng áo xanh hay áo vàng đều là đệ tử Phật. Mật tông được truyền từ Nhật Bổn gọi là Đông Mật. Mật tông được truyền từ Tây Tạng, gọi là Tạng Mật. Những năm gần đây, Mật giáo tại Trung Quốc được thịnh hành một thời, vì đều có thể hiển hiện bao loại thần thông biến hóa. Tuy nhiên, vào lúc nhàn rỗi không chịu thắp hương. Gặp lúc khẩn cấp mới chạy đến ôm chân Phật thì không thể nào thành tựu được.
Hư Vân tôi đi khất thực khắp nhân gian; những nước lân cận hầu như đã đến. Tôi vốn là phàm phu, không có thần thông, không biết biến hóa, nên không dám ăn thịt, cũng không dám ăn quá giờ. Có một số người chẳng hiểu Phật pháp, chưa quên danh lợi, và thường cầu thần thông biến hóa. Tồn trữ những vọng tưởng như thế, chẳng là tà cũng tức là ma. Phải nên biết rằng Phật pháp tại tâm mình, nên không thể đem tâm hướng ngoại cầu pháp. Thần thông phát khởi do trình độ dụng công thì cớ sao khởi tâm hy vọng mong cầu ? Dụng tâm như thế, làm sao khế hợp với chân lý vô sở trụ ? Đức Phật bảo rằng những người này thật đáng thương hại !
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1 _ Khai thị : 18-1-1943__________________________________________________ ______________________________________
Hiện tại, quý vị Bồ Tát đại tâm phát nguyện tu trì Đại Bi Sám Pháp, vì muốn hộ quốc tiêu tai, nên yêu cầu Hư Vân tôi ra làm chủ trì. Công đức Hộ Quốc Tiêu Tai, mọi người đều nên thành tâm nhất ý, cùng làm cùng tạo. Chúng ta bái sám, xưng dương thánh hiệu; Bồ Tát Quán Âm linh cảm vô vàn. Duyên lành của ngài Quán Âm đối với cõi này thật rất thâm sâu. Tuy nhiên, tâm nếu không chân thành thì không thể đạt được cảm ứng. Nếu thành tâm xưng thánh hiệu thì Bồ Tát Quán Âm sao không tầm thanh cứu khổ ? Giữa hai mươi lăm vị thánh trong kinh Lăng Nghiêm, duy chỉ có Bồ Tát Quán Âm là chứng quả vị viên thông vi diệu nhất.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Quán Âm trình bày cách tu chứng viên thông của mình:
- Đức Phật kia (Phật Quán Âm) dạy con từ văn tư tu để nhập vào Tam ma địa. Ngay trong cái nghe, không chạy theo âm thanh của trần cảnh, mà xoay cái nghe trở vào chân tánh. Nhập vào liền được tịch tĩnh, khiến hai tướng động tịnh, chấm dứt không sanh.
Thứ nhất, bên trên khế hợp và đồng một lực Từ với mười phương chư Phật. Thứ hai, bên dưới đồng một Bi ngưỡng với mọi loài chúng sanh. Bồ Tát Quán Thế Âm thật đại vô úy. Ngài luôn dùng ba mươi hai ứng thân để hóa độ chúng sanh. Kinh lại bảo: "Giáo thể chân thật này, thanh tịnh tại âm thanh".
Niệm danh hiệu của sáu mươi ức Hằng hà sa Pháp Vương Tử cũng đồng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bộ "Đại Bi Sám Pháp" do đại sư Tứ Minh Pháp Trí soạn. Bi nguyện thật không thể nghĩ bàn. Năng lực cảm ứng cũng không thể nghĩ bàn. Những câu chuyện cảm ứng được ghi trong sử sách rõ ràng tường tận. Từ sáng đến tối, năm thể chạm đất lễ sám, ba nghiệp thanh tịnh, thì đoạn được tội giết hại, ăn cắp, tà dâm, tham sân si, và chuyển mười việc ác thành mười việc lành. Tất cả đều phải phù hợp với diệu lý của sám pháp. Lại nữa, phát bốn lời đại nguyện, rồi dùng hương hoa, tự trang nghiêm phước đức trí huệ. Những sự lợi lạc như thế, sao lại không làm ? Lời nói là giả mà hành trì mới là chân. Hôm nay, đại khái đàm luận Phật pháp đôi chút. Phải nhớ rằng đức Phật là đấng trượng phu và mình cũng sẽ như thế. Tự tôn tự quý thì tự nhiên sẽ được cảm ứng.
Đời vua Khang Hy, hòa thượng Nguyên Thông trụ trì chùa Tây Vực. Ngày nọ, một vị tăng đắp y vàng đến chùa. Nhà vua rất tôn sùng kính trọng mà bảo hòa thượng Nguyên Thông ra tiếp đãi. Hòa thượng Nguyên Thông bảo rằng đó chẳng phải là tăng hay người, mà là con nhái tinh. Nó có thần thông vi diệu. Bấy giờ, gặp lúc trời hạn hán. Nhà vua ra lịnh cho vị tăng mặc áo vàng kia cầu mưa. Quả nhiên có mưa, nên nhà vua lại càng cung kính. Hòa thượng Nguyên Thông bảo:
- Hãy lấy nước mưa mà đem so với cức rái của các con nhái !
Quả nhiên thật giống nhau; tà chánh rõ ràng. Phải biết rõ ràng về năm mươi ấm ma trong kinh Lăng Nghiêm, bằng không thì sẽ bị chúng chuyển, khiến nhập vào đường ma. Xin đại chúng hãy lưu ý !
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1 _ Khai thị : 19-1-1943__________________________________________________ ______________________________________
VI. Khai thị tại chùa Từ Vân ở Trùng Khánh vào ngày mười chín tháng giêng, năm 1943
Chư Bồ Tát ! Trong pháp hội này, Hư Vân tôi thật không biết tự lượng sức mình, lại không biết quý vị lên chánh điện, đến Tổ đường, làm việc Phật sự, khổ nhọc muôn phần. Tối đến, lại thỉnh quý vị ra niệm Phật, nghe khai thị. Tôi có thật cản trở sự tu hành của quý vị không ? Trong lòng tôi còn vài việc, chưa thổ lộ được. Có một số cư sĩ tại pháp hội này, muốn nghe khai thị. Chư Phật và chư Bồ Tát khó làm mãn nguyện chúng sanh.
Tối hôm qua, tôi đã nói về sự khác biệt giữa bái sám và hành Phật thất, nhưng chưa bàn về những điểm then chốt. Quý cư sĩ đó phát tâm thật khó ai bì được. Hiện tại, tôi không phải là Hư Vân mà trở thành Hư Danh; thật tình thổ lộ không ra lời. Tôi đã từng nói với thầy trụ trì rằng kỳ pháp hội này, quý vị thọ khổ rất nhiều. Ngày ngày, ai ai cũng tự tu đạo và tạo công đức, như dự các tịnh thất và làm công quả, nên không có thời gian nghỉ ngơi. Nơi ngôi chùa này, không có một mảnh ruộng, miếng ngói. Nếu không làm Phật sự thì không thể thành công. Tuy nhiên, nếu làm Phật sự thì không thể dụng công, đả Thiền thất. Vì Phật sự quá bận rộn, nên đến tối mới làm lễ Phóng Diệm Khẩu tại đại điện. Thế nên, tại nơi đây tôi thiết phương tiện giảng Kinh thuyết pháp trong ban ngày, để quý vị cư sĩ có thể băng sông, trở về nhà sớm. Trên đàn sám có bốn mươi chín người bái sám. Họ không thể dừng lại nửa chừng để nghỉ ngơi, mà phải cần có người khác đến luân phiên. Thường trụ lại quá bận rộn, nên hai mươi bốn người không thể xuống đàn.
Bàn về chữ khai thị. Khai tức là khai khải. Thị nghĩa là biểu thị, tức giảng giải việc thiện ác của con người, cùng khai mở bổn lai diện mục của mọi người. Tuy nhiên, sắc tướng vốn không có tướng lớn nhỏ, vuông tròn, phàm thánh, nam nữ, v.v... Phàm tất cả tướng đều là hư vọng. "Nếu thấy tướng mà không phải tướng, tức là thấy Như Lai". Dẹp hết tình phàm, thật không có giải thoát của chư Thánh. Người học đạo phải chân thật, chớ treo đầu dê mà bán thịt chó. Phải tự tầm cầu bên trong, chớ tìm tòi bên ngoài. Lời nói không có nghĩa chân thật, đều giả dối. Hành trì mới là chân thật. Nếu được như thế thì triển chuyển dây chuyền, từ một người đến nhiều người, từ một nhà đến một quốc gia, từ một quốc gia đến nhiều quốc gia, toàn thế giới không cần trị mà an.
Không luận tu học pháp môn nào, phải lấy việc trì giới làm căn bản. Nếu không trì giới mà trí huệ lại tinh xảo, thì tất cả việc làm đều là việc ma. Hai mươi lăm pháp môn trong kinh Lăng Nghiêm đều có thể tu chứng viên thông. Vì vậy bảo rằng phương tiện thì nhiều pháp môn, nhưng quy về cội nguồn thì không hai.
Tự mình chọn lấy một pháp môn làm chánh hạnh, còn những hạnh khác thì chỉ làm phụ. Phải tu cả hai phước và huệ. Nếu chỉ tu phước thì sẽ hưởng phước hữu lậu ở cõi trời người. Nếu chỉ lo tu trí huệ thì sẽ thành trí huệ khô khan. Tu hành mà không đoạn trừ tâm giết hại, đời sau nếu không làm thành hoàng thì sẽ làm thổ địa. Tôi thấy rất nhiều người, nửa ăn chay nửa ăn mặn. Tu học Mật tông lại ăn thịt. Thật rất đau lòng vì hoàn toàn trái ngược với tâm từ bi. Mạnh Tử nói:
- Nghe âm thanh, không nhẫn ăn thịt của chúng.
Mạnh Tử còn nói như thế, huống hồ gì chúng ta đã là Phật Tử ! Cướp giựt sanh mạng của loài vật để thỏa lòng mình sao ? Miệng chỉ hưởng được chút ít vị ngon, mà tạo vô biên nghiệp ác. Gì là giữ và gì là xả ? Gì là nhẹ và gì là nặng ? Tôi thấy không ít các người Thích Tử xuất gia thường ăn thịt. Miệng mồm tôi không được hay, nên mỗi lần thấy những việc như thế thì không thể chẳng nói được. Xin quý vị hãy cố gắng tu hành!
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 1 _ Khai thị : 1-2-1943__________________________________________________ ______________________________________
VII. Khai thị tại chùa Kiềm Minh, Quý Dương, vào mồng một tháng hai, năm 1943
Hư Vân tôi lại y theo lời thỉnh mời của Thủ tướng chánh phủ cùng quý đại cư sĩ để đến đây giảng thuyết và chủ trì pháp hội Đại Bi Hộ Quốc Tiêu Tai. Vì thời gian có hạn, nên không thể đến các đạo tràng khác bái kiến vấn đáp. Xin hãy niệm tình bỏ qua !
Quý vị đều là các bậc Thượng tọa tu hành lâu năm. Đối với Phật pháp đã từng nghiên cứu tu học thâm sâu, đâu cần nghe nhiều lời của tôi. Tuy nhiên, vì quý vị nhất định muốn tôi ra thuyết giảng, nên không thể chẳng nói vài lời.
Hiện tại, các nước trên thế giới đang gây chiến tranh, giết hại lẫn nhau. Nhân dân đang sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng. Vì vậy nói: "Nhân dân không biết nương đâu mà sống".
Nơi đây may mắn có Hòa thượng Quảng Diệu đang hoằng dương Phật pháp, độ khắp chúng sanh.
Hôm nay, Hư Vân tôi cùng quý vị hợp mặt tại chánh điện này thật chẳng phải là nhân duyên ngẫu nhiên. Tuy nhiên, bất quá Hư Vân tôi chỉ lớn tuổi hơn quý vị đôi chút, còn những việc khác thì chẳng hay ho chút nào.
Sau khi thành lập Dân Quốc, chánh phủ vốn đã chấp thuận cho tự do tín ngưỡng. Lời di chúc của Quốc Phụ (Tôn Trung Sơn) đã được ban bố rõ ràng. Nhận thấy những tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Gia Tô giáo, Hồi Giáo đều được chánh phủ bảo hộ. Tuy nhiên, việc phá chùa đuổi tăng lại xảy ra trong toàn quốc. Bị oan ức, sao chẳng có nơi giải bày ? Việc này quý vị hãy suy nghĩ đôi chút. Họ phá chùa đuổi tăng cố nhiên là không đúng. Nhưng vì vật tự thúi rữa, nên mới sanh ra trùng. Hiện tại, các Phật tử phần nhiều bỏ bê trách nhiệm, không biết rằng nếu là người Phật tử thì phải luôn làm Phật sự. Phật sự là gì ? Phật sự tức giới định huệ, là việc mà Phật tử phải tu hành. Nếu nhận chân tu trì, thì tự nhiên sẽ biết cách cảm hóa bọn ác ma, chuyển chúng thành những người hộ trì Phật pháp.
Ngày nay, các Tăng Ni phạm luật pháp thế gian, khiến làm lụy đến chư Phật. Chánh quyền chiếm chùa miếu, đuổi Tăng Ni. Họ không biết chùa chiền đâu có can hệ chi với những Tăng Ni bất hảo ! Một đảng viên bất hảo, đâu có can hệ gì với toàn đảng. Nếu một Tăng Ni bất hảo thì đi phá chùa chiền, còn nếu một đảng viên bất hảo thì có nên hủy diệt toàn đảng không ? Lý này, tôi hy vọng mọi người đều nên hiểu rõ. Mọi người hãy giúp một tay, lật đổ bồn cát này. Chớ nên bảo người Quý Châu chỉ lo Phật pháp ở Quý Châu. Phải nên biết Phật giáo là một hợp nhất. Mọi người không nên phân biệt oán thù hay thân thuộc, như đất chẳng phân biệt biên cương. Phải nên vì chủ nghĩa đại đồng chân chánh. Phải tự nhớ rằng sanh tử là việc lớn. Từ văn tư tu, nhập Tam ma địa. Mọi người phải tự tinh tấn tiến bước. Chớ để một đời trôi qua vô ích.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị : 18-8-1946__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN II
VIII. Khai thị tại Đại Hội Hoan Nghinh Các Giới Chức, tại hội quán Trung Sơn ở Quảng Châu vào ngày 18-8-1946
Lần này, bốn chúng cùng quý vị đại hộ pháp tại các tỉnh hội mời Hư Vân tôi đến đây để hoằng dương Phật pháp. Hư Vân tôi tri thức cạn cợt, thẹn thùng chẳng dám đảm nhận. Hôm nay cùng quý vị đại biểu phân rõ ba điều: Thứ nhất, cung kính hoan nghinh quý vị đến đây. Thứ hai cám ơn quý vị đã cúng dường trai tăng. Thứ ba, không thể ở đây lâu được. Do quý vị đại biểu yêu cầu, Hư Vân tôi mới xuống núi. Đến đây, lại được sự ân cần tiếp đãi của quý vị. Chùa Lục Dong nhỏ hẹp. Người đến đây không phải ai ai cũng được tiếp đón nồng hậu. Hôm nay, đại chúng đồng thỉnh tôi đến đây giảng vài lời. Có vị bảo rằng người như Hư Vân tôi thật rất khó gặp. Thật ra, tôi chỉ là một cây gỗ già nua mục nát rất vô dụng, chẳng có tài cán, lời hay ho, hoặc pháp gì để nói.
Hôm nay, các giới chức đồng phát tâm kiến lập pháp hội Thủy Lục để truy điệu các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn. Vì vậy, tôi sẽ giảng thuyết sơ về duyên khởi của sự kiến lập đàn tràng Thủy Lục.
Sao gọi là Thủy Lục ? Thủy tức là nước tại sông biển ao hồ. Lục tức là đất đai tại núi non, cao nguyên, đồng bằng. Thủy Lục (đất nước) bao hàm cả hư không. Nếu là vật có hình tướng thì không vượt ngoài ba vật này (đất, nước, hư không).
Đấng Như Lai của chúng ta khởi tâm đại từ bi, cứu tế khắp loài hữu tình, nên mới lập ra pháp môn này. Duyên khởi của pháp hội Thủy Lục là khi tôn giả A Nan tu tập thiền định trong rừng, có một con Quỷ chúa đến cầu xin cứu độ. Tôn giả A Nan liền trở về núi Linh Thứu, cầu Phật dạy bảo. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhân đó mà thuyết pháp Thủy Lục. Con Quỷ chúa vốn là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì thương xót chúng sanh trên đất liền đang chịu bao thống khổ, và muốn giúp cho âm hồn trong cõi Địa ngục U Minh được vãng sanh lên cõi Cực Lạc, nên thiết pháp siêu độ.
Pháp hội này khởi đầu từ đời vua Lương Võ Đế ở nước Tàu. Nhà vua phát tâm Bồ Đề rất mực chân thành mà cung thỉnh Hòa thượng Chí Công, định chế nghi thức lập đàn tràng "Thủy Lục" để làm lợi ích cho các oan hồn uổng tử. Sắp đặt đèn cầy xong, vua Lương Võ Đế lễ một lạy; kế đến thắp đèn "Tận Minh", rồi lễ thêm một lạy. Khi đó, cung điện chấn động. Vua lễ lần thứ ba thì trời mưa hoa báu. Công đức đàn tràng "Thủy Lục" như thế.
Đời Đường, tại chùa Pháp Hải, thiền sư Anh Công lại kiến lập đàn tràng Thủy Lục để cầu siêu độ cho vua Tần Trang Nhượng, Phạm Tuy, Bá Khởi, Vương Long Vũ, Trương Nghị, Chẩn Muội, v.v... đã bị trầm luân cả ngàn năm, khiến họ siêu thăng cõi trời. Cư sĩ Tô Đông Pha đời Tống, đại sư Liên Trì đời Minh, v.v..., cùng chư Thánh hiền bao đời bổ sung thêm vào, khiến cho nghi thức lập đàn tràng Thủy Lục ngày một hoàn bị. Muôn pháp do tâm tạo. Mọi người đều thành tâm, tất sẽ có cảm ứng.
Hư Vân tôi thể theo lời khẩn thỉnh của các vị đại hộ pháp mà làm pháp chủ cho đàn tràng này, thật khó từ chối được.
Các chiến sĩ trận vong trong thời kỳ kháng chiến, xả thân báo quốc, nhưng hồn họ vất vưỡng, không nơi nương tựa. Vì tôn sùng ân đức này, chúng ta kiến lập đàn tràng để cầu siêu độ cho họ. Nghĩa dân bất khuất, lưu lạc đường hoang, nhà tan người mất, không hàng phục quân địch, trung thành vì nước. Cô hồn vô chủ, lang thang khắp nơi. Lại có những vong hồn uổng tử, chết vì bị trúng đạn, xe cán, bịnh dịch, chết đuối, chết oan v.v... Chúng ta phải đều cầu siêu độ hết để an ủi chúng sanh ở cõi u linh. Kẻ chết được an, người sống được ích lợi, tức là làm lợi ích khắp cõi dương và cõi âm.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị : 18-8-1946__________________________________________________ ______________________________________
Đây là lý nhân quả tuần hoàn. Xoay lại đạo lý nhân tâm, không ngoài các việc ác chớ làm mà phải hành theo những việc lành. Bao việc khổ sở trên thế gian đều do đã trồng nhân xấu đời trước. Nếu tán tận lương tâm, bỏ quên hiếu để, trung tín, lễ nghĩa, khiêm, sĩ, cứ làm càn làm bậy, thì khiến lụy đến người hiền, và thế giới mãi mãi vẫn còn loạn lạc. Đất nước vừa được trùng quang độc lập, phải cực lực hưng thiện dẹp trừ việc xấu, cải ác theo lành, thì mới không bị nước ngoài xâm lăng. Nếu không lo chuyện đại cuộc mà vẫn cứ khởi nội loạn, thì nhân dân không biết sẽ chết nơi nào. Lúc này, nếu người có lương tâm phải sớm giác ngộ, biết đoàn kết, giải trừ kiếp vận cho đất nước. Nước Tàu từ lúc Hoàng Đế khởi binh đánh vua nước Cửu Lệ cho đến ngày nay, chiến tranh mãi không dừng.
Nếu muốn hòa bình mãi mãi thì mọi người phải nên phát tâm Bồ Đề, và tâm đại từ đại bi. Bồ Đề là chữ Phạn, nghĩa tức là Giác. Giác tức là đất tâm sáng chiếu. Sự khác biệt giữa chư Phật và chúng sanh là việc Giác ngộ hay chưa Giác ngộ. Những vị đã Giác ngộ tất cả các pháp trên thế gian đều do duyên sanh như mộng như huyễn, và thể tánh vốn không, chẳng bị nhiễm ô, được gọi là Thánh hiền. Bất giác tức là vô minh. Một khi vô minh khởi lên thì mê mờ sự lý. Từ tự tâm của chúng ta, sanh ra mười pháp giới. Mười pháp giới đều do tâm tạo. Mười pháp giới gồm có bốn pháp giới Thánh hiền và sáu pháp giới Phàm phu. Bốn pháp giới Thánh hiền là pháp giới của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Gọi là cảnh giới thánh hiền vì nơi đó các ngài đã vượt ngoài ba cõi, không còn thọ luân hồi. Nếu phân biệt thì giữa bốn pháp giới thánh hiền có phân chia cao thấp. Pháp giới tối thượng tức là pháp giới của chư Phật. Kế tiếp là pháp giới của Bồ Tát, rồi đến pháp giới của Duyên Giác, và cuối cùng là pháp giới của Thanh Văn. Sáu pháp giới phàm phu vẫn còn nằm trong biển khổ luân hồi là pháp giới của Trời, Người, A Tu La, Súc sanh, Địa ngục, Ngạ quỷ. Pháp giới của cõi Trời có ba mươi hai tầng Trời. Sau khi thọ hết phước báu, chư Thiên vẫn bị luân hồi như thường. Con người từ đế vương, tể tướng cho đến nông dân, công thương, sĩ thứ, đều thọ hết tất cả khổ của sanh già bịnh chết. Loài A Tu La có phước nhưng không có đức như chư Thiên nên cuối cùng vẫn phải bị hoại diệt. Trong loài Súc sanh, cũng có sự khác nhau về việc hưởng lạc và thọ khổ, như loài Rồng Phượng, Sư tử, Lân giác thì thường hưởng lạc, và ít thọ khổ hơn loài trùng kiến thấp sanh, hóa sanh. Khổ nhọc hay an lạc trong loài Quỷ cũng không đồng. Các Quỷ vương như Diêm Vương và Thành Hoàng đều hưởng lạc nhiều mà thọ khổ ít hơn những loài Quỷ cô hồn vô chủ. Khổ nhất là loài Ngạ Quỷ. Chúng sanh trong Địa ngục thường thọ vô biên khổ cực, chẳng hề được sung sướng.
Mười pháp giới không ngoài một tâm. Giác ngộ hay chưa Giác ngộ cũng từ tâm này ra. Đức Phật của chúng ta thật rất đại từ đại bi. Ngài giảng Kinh thuyết pháp để khiến cho mọi người phát tâm Bồ Đề. Phát tâm Bồ Đề cũng sai khác. Bậc lớn thì phát tâm tu hành thành Phật. Bậc trung thì phát tâm tu hành thành Bồ Tát. Bậc nhỏ thì phát tâm tu hành thành Thanh Văn Duyên Giác. Chư Thiên cũng có vị phát tâm Bồ Đề. Do sự phát tâm rộng hẹp, lớn nhỏ, nên việc thành tựu đạo quả mau chậm không đồng. Chúng ta đang sống trong cõi người, phải nên phát tâm Bồ Đề rộng lớn, cứu độ chúng sanh, thay họ chịu khổ. Lại nữa, nên nguyện rằng sẽ dẹp trừ khổ lụy và khiến chúng sanh được siêu thăng. Nếu người người đều phát tâm như thế thì cõi nhân gian sẽ không còn khổ đau.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị : 18-8-1946__________________________________________________ ______________________________________
Có người hỏi tôi về thần thông biến hóa, thế giới chừng nào hòa bình, vận nước tốt xấu như thế nào ? Tuy nhiên, tôi vốn là Phàm phu, không biết việc chi, lại chỉ là cây gỗ già nua khô mục, không thể chạm khắc. Bất quá, so với quý vị thì ăn cơm hơn nhiều năm, ngu si hơn nhiều năm, nghe các ngôn ngữ lời nói nhiều hơn, xem nhiều quyển Kinh hơn. Nhận biết làm người là khổ đau, nên tôi mới nói ra những lời này. Quý vị chớ nên hỏi việc quốc gia có hòa bình an lạc hay không, mà chỉ nên tự hỏi ngay tâm địa của mình. Ngày đêm sáng tối, chớ nên phân biệt quan dân, nam nữ. Tự khắc phục tâm tánh, chớ để tự tâm mê mờ. Phải thật hành hiếu để trung tín, và cùng mọi người hỗ tương khích lệ. Phải nên trung thành với quốc gia, giáo dục con cái đàng hoàng, hòa thuận vợ chồng, lễ kính thân bằng quyến thuộc bà con láng giềng, có tín nghĩa khi giao hảo với bạn bè. Nếu người người làm được như thế thì thế gian tự nhiên thái bình. Ngược lại, nếu biết sai mà không sửa đổi thì khổ não tất sẽ chạy theo, không thể tránh được. Dầu nhân tâm có phức tạp như thế nào, vẫn tự giữ bổn phận của mình, không chìm đắm trong muôn ngàn mong cầu.
Hôm nay, tôi bàn đến việc nước nhà bị ngoại xâm. Từ đời Thanh niên hiệu Đạo Hàm cho tới nay, người ngoại quốc đến nước Tàu, không phải hoàn toàn muốn chiếm đất đai mà chỉ có mục đích quan trọng nhất là muốn thông thương vì tiền tài lợi lộc. Chúng ta phải tự giữ bổn phận của người quân tử: Thân không cầu an, ăn không cầu no, mến đạo không sợ nghèo, chẳng ham hưởng nhàn. Lịch sử mấy ngàn năm đều có những bậc quân tử như thế. Tại sao hiện nay lại không có được những vị như vầy ? Nếu mọi người đều đồng tâm nhất chí, giữ bổn phận của mình, dùng đồ nội hóa thì người ngoại quốc không thể mưu đồ lợi ích gì cả, và tự nhiên sẽ không sanh tâm xâm lược. Vàng bạc tiền tài nếu không mang ra nước ngoài thì dân giàu nước mạnh mà không cần phải dùng đến máy bay, bom đạn.
Hiện tại, con người tham dục vô cùng. Ai ai cũng đều bỏ quên, khinh rẻ học đạo đức làm người. Kẻ có lương tâm, ưu sầu sống ẩn dật, vì sợ không có cách dạy bảo kẻ hậu lai, nhưng cũng không tránh được kiếp đao binh chiến nạn. Chúng ta chớ bị truyền thống phong tục của người thế gian lôi cuốn; phải rõ nhân quả, biết báo ứng; trồng nhân xấu tức gặt quả ác; cố đề xướng đạo đức. Thế nên, nhà nào tích tụ hạnh lành thì luôn có việc vui, và tự nhiên được trời rồng ủng hộ, khiến con cháu đầy đàn sung túc; người người nếu an phận thủ thường thì quốc gia cũng nhờ đó mà được thái bình an lạc.
Hư Vân tôi tri thức cạn cợt, nay chỉ nhờ duyên khởi của thắng hội tế trai, lược nói đại khái, khiến quý vị thêm mệt nhọc.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Hồng Kông, 1947__________________________________________________ ______________________________________
IX. Khai thị tại Đông Liên Giác Uyển, Hồng Kông, năm 1947
Tuy cơ duyên khó gặp, nhưng bảo rằng tôi nói lời khai thị thì thật rất hổ thẹn. Quý vị thiện tri thức ! Nhân duyên tới Quảng Châu lần này của tôi là do sự thỉnh mời của tướng quân Trương Phát Khuê và chủ tịch La Trác Anh đến đây kiến lập pháp hội Thủy Lục để cầu siêu độ cho các vong hồn chiến sĩ, đồng bào tử nạn trong đại chiến thế giới lần thứ hai. Lại vì ước hẹn với hội Phật giáo tại Hồng Kông cùng muốn gặp gỡ các đệ tử hộ pháp, nên nay tôi mới đến đây. Hôm nay gặp quý vị tại pháp đường, thật là một cơ duyên khó được. Nếu nói khai thị pháp yếu, tôi cảm thấy rất xấu hổ muôn phần. Thứ nhất ngôn ngữ không thông, mình người ngăn cách. Thứ hai, tự không thể khai thị cho chính mình, sao dám nói đến việc khai thị cho người ? Thế nên, chỉ có thể cùng quý vị tùy duyên mà đàm luận.
"Thường nghe được Phật pháp, người Hồng Kông quả thật có phước báu".
Chúng ta là đệ tử Phật, biết rõ Phật pháp khó được nghe. Tuy nhiên, tại Hồng Kông, thường có chư vị đại pháp sư từ các đạo tràng Phật giáo khắp nơi, qua đây giảng Kinh giảng Luận. Sao không thể bảo là người Hồng Kông có phước báo nhiều ư ? Pháp sư giảng kinh nhiều; người hiểu rõ giáo lý cũng nhiều. Tuy nhiên, trong việc hoằng pháp, điều trọng yếu là phải dạy người chẳng nên chấp trước hình tướng bên ngoài. Kinh nói: "Đối với tất cả vật có hình tướng, đều là hư vọng".
Kinh lại bảo: "Chúng sanh trên cõi đất này đều có đầy đủ trí huệ phước đức của Như Lai".
Chúng sanh đều đầy đủ đức tướng trí huệ phước đức của Như Lai, nhưng chưa có thể thành Phật chỉ vì trần lao phiền não làm mê hoặc. Phước đức và trí huệ của Phật đà viên mãn tròn đầy; chân tâm thường trụ không còn bị mê hoặc. Thường tức là bất biến. Trụ tức là bất động. Chân tức là không giả dối. Tâm bất biến, bất động, không giả dối này giác ngộ liễu tri được hết tất cả pháp, nên gọi là chân tâm thường trụ.
"Khởi hoặc tác nghiệp, tạo vô lượng bịnh khổ".
Chúng sanh vì mê mờ chân tâm thường trụ nên khởi mê hoặc mà tạo nghiệp xấu. Trong bân khuân rối rít hiện ra vô lượng thống khổ. Đại Thừa Khởi Tín Luận viết: "Vô minh bất giác sanh ba tế. Cảnh giới do duyên khởi thành sáu thô".
Thô tức là tướng sự vật có thể thấy được. Những hiện tượng trước mắt trên thế gian như tham sân si, cùng bao nghiệp ác giết hại, ăn cắp, tà dâm, nói láo, v.v... đầy dẫy khắp cả. Do những nghiệp ác này, chúng dẫn dắt chúng ta lưu chuyển thọ quả báo, cho đến có sự lưu chuyển liên tục của chúng sanh và thế giới. Truy cứu nhân duyên luân hồi, biết rõ chỉ vì tâm mê chấp ngoại cảnh. Nếu thường giác ngộ, bỏ vọng xoay về chân thì sẽ tiêu diệt bao thống khổ của dòng sanh tử luân hồi.
Vì sao có tham sân si khiến sanh khởi những nghiệp ác, giết hại, ăn cắp, tà dâm ?
"Nếu tâm mọi người đều thanh tịnh thì thế giới sẽ được thanh bình, và nhân dân được an lạc".
Như trong một gia đình, cha mẹ luôn thương mến ái hộ con cái, trai lẫn gái. Vì có ái nên có tham. Vì tham đắm ái dục này, nên thường thích hưởng thụ những việc sung sướng. Vì tham cầu không được nên tâm sân hận nổi lên. Tâm sân nổi lên hừng hực nên khởi tranh đấu. Việc nhỏ thì nhà này cùng nhà khác tranh. Việc lớn thì nước này cùng nước khác tranh, rồi khởi bao chiến tranh khốc liệt. Nếu muốn thế giới hòa bình nhân dân an lạc thì mỗi người phải tự thanh tịnh thân tâm. Có tham sân si cũng như người có tâm bịnh. Nếu muốn dẹp trừ tâm bịnh này thì phải y theo lời chỉ bảo, rồi dùng toa thuốc vi diệu của thầy thuốc. Đức Phật là vị lương y, trị tâm bịnh cho tất cả chúng sanh. Tất cả Phật pháp đều là những toa thuốc vi diệu. Tâm bịnh của chúng sanh có rất nhiều loại, nên phải có nhiều pháp môn để trị liệu.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Hồng Kông, 1947__________________________________________________ ______________________________________
"Học Phật pháp phải nên chú ý phần thực hành".
Nếu tin tưởng sự chẩn bịnh và toa thuốc của thầy thuốc, rồi tự dùng thuốc đó thì bịnh tất sẽ tiêu trừ. Ngược lại, tuy tin thầy thuốc và toa thuốc vi diệu, nhưng lại không uống thì bịnh vẫn y nhiên còn mãi. Cũng như thế, người tu học Phật pháp nếu muốn tự thanh tịnh thân tâm thì phải chú trọng phần thực hành. Vì tâm bịnh của chúng sanh không đồng, nên Phật thiết lập ra bao loại pháp môn. Đối với người có tâm sân hận nặng nề thì dạy tu quán từ bi. Để trị tâm tán loạn, phải dạy tu chỉ quán. Để trị bịnh nghiệp chướng nặng nề, phải dạy niệm Phật. Đức Như Lai thuyết ba tạng Kinh điển, mười hai phần giáo mà không thiên vị gì là trọng (nặng) hay gì là khinh (nhẹ); thật không thể nghĩ bàn !
"Bất ly bổn tông, chuyên tâm tín lại".
Chỉ nên chọn lựa pháp môn nào thích hợp cho chính mình, rồi dùng pháp môn đó làm chính, còn những pháp môn khác thì làm phụ. Trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi thường chuyên tâm tu học mà không rời tông chính. Ví dụ, niệm Phật thì lúc nào cũng không quên niệm. Kinh nói: "Thọ trì danh hiệu sáu mươi hai ức hằng hà sa số chư Bồ Tát cũng đồng như nhất tâm niệm một danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Công đức trì niệm này, thật không khác biệt".
Vì miễn cưỡng, muốn khích lệ chúng sanh chuyên tâm tin tưởng tông này, nên đức Phật mới thuyết như thế. Người học Phật, nếu không biết gì là chủ bạn, và không chuyên tu học, thì kết quả nhất định sẽ không đạt chi cả.
"Nỗ lực phá trừ tất cả vọng tưởng".
Lại nữa, người học Phật phải y theo giới luật Phật chế. Giới là cội gốc của đạo Bồ Đề vô thượng. Nếu y theo giới luật của Phật chế thì không luận tham thiền, niệm Phật, giảng kinh, v.v... tất cả đều là Phật pháp. Nếu không y theo giới luật Phật chế mà cuống quẩn tham thiền, niệm Phật, giảng kinh, thì cùng đạo cách xa muôn trùng, và dễ dàng lạc vào ngoại đạo. Người tu hành học Phật, chớ hướng ngoại truy cầu, chỉ nên tự trừ khử nghiệp chướng, thì sẽ không lưu chuyển trong dòng sanh tử. Nếu cắt đứt được dòng sanh tử thì không cần hành trì chi nữa.
Kinh thuyết: "Phật thuyết hết thảy pháp, để đối trị hết thảy tâm. Nếu không có tất cả tâm, thì không có tất cả pháp".
Tâm này chỉ cho tâm vọng tưởng. Ý của đoạn kinh này là nếu không có bịnh thì cần gì đến thuốc.
Lại nữa, người học Phật phải có đầy đủ niềm tự tin. Trong kinh Phạm Võng, đức Phật nói:
- Ta đã thành Phật. Các ông trong tương lai cũng sẽ thành Phật. Phải có niềm tin như thế thì giới phẩm mới đầy đủ.
Đoạn Kinh này bảo rằng nếu người người tự tin là mình có đầy đủ đức tánh của chư Phật thì đời tương lai sẽ thành Phật. Vì thế, phải nỗ lực giải trừ hết tất cả vọng tưởng khách trần.
"Lại như một tuồng kịch, đời người vốn là mộng huyễn".
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Hồng Kông, 1947__________________________________________________ ______________________________________
Phải tự tin tâm mình vốn là Phật. Tất cả phiền não, tất cả tướng, tất cả chướng ngại, đều là vọng tưởng điên đảo. Do đó, người tu đạo chớ nên chấp trước mà phải xả bỏ hết tất cả. Vì thế bảo rằng muôn pháp đều là không, nên chẳng thể chứng đắc một pháp gì. Kinh Kim Cang thuyết:
"Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn, như bong bóng nước
Như sương mai, như điện chớp
Phải nên quán sát như thế".
Tại sao tất cả pháp hữu vi trên thế gian đều như mộng huyễn không thật ? Lấy một ví dụ để hiểu rõ ràng. Như trong một tuồng kịch cải lương, khi đánh trống khởi nhạc lên, các nghệ sĩ nam nữ già trẻ y theo vai tuồng của mình mà lên sân khấu diễn xuất. Trong khi diễn xuất, có bao tình tiết vui buồn, nóng giận, ghen ghét, v.v... Có người đóng vai làm Hoàng Đế oai phong lẫm liệt, nhưng khi xuống sân khấu thì trở lại làm người dân bình thường. Khi lên sân khấu thì diễn xuất bao cảnh giết người phạm pháp, hung ác, cùng bao cảnh tượng kinh hoàng khủng khiếp, hay ưu sầu buồn bã. Tuy nhiên, khi xuống sân khấu thì cười bảo:
- Chỉ đóng tuồng thôi.
"Phải nên hiểu rõ, vì sao có khổ đau sung sướng ?"
Khi diễn tuồng thì những tình tiết trên sân khấu trông giống như thật, nhưng lúc hạ màn thì chẳng có một tình tiết nào là thật cả. Chúng sanh cũng như thế. Lúc chưa cắt đứt hết phiền não thì vinh hoa phú quý, vui buồn giận tức, xuất hiện rõ ràng. Ai ai cũng vốn là Phật, giống như người đóng kịch. Lúc lưu chuyển theo phiền não, cũng giống như đang đóng tuồng trên sân khấu. Phải nên hiểu rõ cảnh tượng thế gian giống như kịch trường sân khấu. Được lên tận Thiên đường chưa phải là vui. Bị đọa xuống Địa ngục chẳng phải là khổ. Người nam vốn chẳng phải nam. Người nữ vốn chẳng phải nữ. Phật tánh đồng một thể. Người thế gian không biết, trong mộng tự phân biệt rằng đây là mình, đây là người, đây là thân, đây là oán, nên mê muội không ngừng nghỉ. Người xuất gia tuy xả bỏ thân bằng quyến thuộc, nhưng vẫn phân biệt chấp trước mê muội rằng đây là chùa viện, là thầy, là đệ tử, là pháp hữu, và là bạn thân của tôi.
"Bỏ vọng xoay về chân. Tự lợi chính mình và làm lợi ích cho người".
Người tại gia bị ái dục thế tình làm mê mờ. Người xuất gia cũng bị pháp hữu, và pháp quyến thuộc làm mê hoặc. Những người như thế, vẫn chưa đắc được giác ngộ chân thật. Nếu cố gắng thoát ly hết tất cả mê hoặc, bỏ vọng xoay về chân thì mới thành Phật. Do đó, Lục Tổ đại sư khi nghe đến đoạn "ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" trong kinh Kim Cang liền đột nhiên đốn ngộ. Tám chữ này, nếu dùng ngôn từ để giải thích thì không thể được mà nội tâm phải lãnh hội. Chân lý Phật giáo tuy không thể dùng ngôn ngữ để biểu thị, nhưng nếu phế bỏ hoàn toàn thì không thể được. Phải y theo văn tự mới có thể hiểu rõ nghĩa lý. Ngày nay, người học Phật phải nghiên cứu tất cả giáo lý, nhưng vẫn lấy sự hành trì làm căn bản, rồi hoằng dương Phật pháp, khiến ngọn đuốc chánh pháp mãi mãi tiếp tục lan truyền.
"Tương thử thâm tâm phụng trần sát. Thị tắc danh vi báo Phật ân", tức là dùng thâm tâm này để phụng sự chúng sanh như số cát vi trần. Đây gọi là báo ân chư Phật".
Hy vọng tất cả người học Phật, nên lấy hai câu này làm tiêu chuẩn cho việc tự lợi và lợi người.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
X. Khai thị tại Áo Môn, hý viện Bình An vào 1-8-1947
Do sự yêu cầu của hội Phật giáo tại hý viện Bình An, Hư Vân tôi nay đến đây để cùng quý vị đàm luận.
"Pháp" tức là tâm chúng sanh. Tâm chúng sanh cùng tâm Phật vốn không khác biệt. Tâm này đầy đủ tất cả pháp. Pháp tức là tâm, và tâm tức là pháp. Luận Khởi Tín viết: "Gọi là pháp, tức tâm chúng sanh. Tâm này vốn đầy đủ tất cả pháp thế gian và xuất thế gian".
"Pháp thế gian" tức là Trời, Người, A Tu La, Địa ngục Ngạ quỷ, Súc sanh. Hết thảy loài hữu tình và vô tình hoặc những pháp y báo hay chánh báo, v.v... đều thuộc về sáu pháp giới của phàm phu.
"Pháp xuất thế gian" tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, cũng được gọi là bốn pháp giới Thánh Hiền. Gom chung bốn pháp giới của Thánh Hiền và sáu pháp giới của phàm phu, thành mười pháp giới. Mười pháp giới này chẳng ngoài một tâm niệm tạo nên. Nếu chạy theo duyên điên đảo ô nhiễm mê mờ thì sanh ra sáu pháp giới của phàm phu. Nếu không chạy theo duyên điên đảo ô nhiễm mê mờ mà tịnh tâm giác ngộ thì sẽ nhập vào bốn pháp giới của Thánh Hiền. Quán sát như thế, thấy rằng Thánh Hiền hay phàm phu đều do tâm cấu uế hay thanh tịnh mà hiển hiện. Tâm cấu uế của sáu loài phàm phu khiến hiện ra tướng của sáu đường thiện ác, tội phước. Bốn pháp giới Thánh Hiền, do tâm tịnh nên hiện oai đức tự tại, quang minh sáng chói, đức tướng dung mạo từ bi. Kinh nói: "Bồ Tát như vầng trăng sáng thanh tịnh mát lành, thường đi khắp hư không. Trong tâm thanh tịnh và cấu uế của chúng sanh, Bồ Đề thường ảnh hiện".
Thế nên khổ đau hay an lạc đều do tâm, nóng lạnh do mình. Tự tâm tạo nghiệp, rồi tự thân thọ quả báo. Cảnh Thánh cùng Phàm hãy hỏi lại tự tâm thì sẽ rõ !
Phàm phu ngu muội hôn ám chẳng biết yếu chỉ tất cả đều do tâm tạo, nên vọng khởi nghi hoặc. Nếu gặp nghịch cảnh thì oán trời hận người. Nếu gặp thuận cảnh thì kiêu căng tự thị. Hoặc cả đời làm việc thiện nhưng lại bị quả báo ác, hoặc làm ác nhưng hưởng quả báo lành, nên hủy báng nhân quả. Phải biết rằng lý nhân quả rất thâm sâu; ví như sau khi gieo giống trồng cây, quả nào chín trước thì rụng trước. Đời nay, tuy mình luôn làm nghiệp lành, nhưng lại chiêu quả báo xấu; phải biết đó là do nghiệp ác trong đời quá khứ đã thành thục chín mùi, nên đầu tiên phải thọ quả báo xấu. Nghiệp lành làm trong đời nay, vì chưa thành thục, nên hiện tại không thể thọ quả báo lành. Nếu tin lý này thì không nghi hoặc gì hết. Từ đời vô thủy, lầm đường lạc lối, tạo bao nghiệp chướng thâm trọng. Ngày nay quả báo chín muồi, nên phải thọ biết bao đắng cay khổ nhọc, không có lối thoát. Muốn thoát khổ thì phải làm sao ? Kinh Lăng Nghiêm nói: "Tất cả chúng sanh, bị sanh tử liên tục, đều do không biết chân tâm thường trụ, tánh tịnh thể sáng. Vì sống với vọng tưởng không chân thật, nên mới bị luân hồi".
Nếu muốn không bị thọ quả báo trong vòng sanh tử thì phải thường thanh tịnh hóa các vọng tưởng. Vọng tưởng nếu được thanh tịnh thì dòng luân hồi sẽ ngưng ngay. Do đó, tâm mê thì gọi là chúng sanh. Tâm giác gọi là Phật. Vì vậy, Phật và chúng sanh chỉ khác nhau ở mê và ngộ. Nên biết tâm giác tri linh minh sáng suốt này tức là Phật tánh tự nhiên mà ai ai cũng có đầy đủ, mỗi mỗi hiện thành. Phàm phu tuy có đủ Phật tánh, như vàng thật trong mỏ vàng, nhưng chỉ vì đất cát phiền não che lấp, nên trước mắt không thể dùng được. Đức Như Lai bao kiếp tu hành, đã đào thải cát đá hoặc nghiệp. Ngày nay, Ngài đã được một khối vàng tinh khiết, không lẫn lộn với cát đá, nên đại dụng hoàn toàn hiện rõ, và được gọi là bậc vượt khỏi chướng ngại, bậc viên minh, bậc Thế Tôn đại giác.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
Hiện tại, chúng ta nếu muốn tu hành thành Phật, đầu tiên phải xem thử nhân địa phát tâm tu hành của mình như thế nào. Phải trừ khử cội gốc phiền não. Gốc khổ của phiền não nếu diệt thì Phật tánh hiển hiện tròn đầy. Nếu nhân địa tu hành không chân chánh, thì sẽ chịu quả báo cong vạy.
Luận về phương pháp tu hành, có ba thành phần: Thượng, trung, hạ khác nhau. Pháp cũng có ba thừa. Pháp môn tu học của loài người và loài trời đều không đồng. Đối với người căn cơ bậc thượng thì thuyết giảng pháp môn Đại Thừa vi diệu. Người căn cơ bậc trung thì thuyết giảng các pháp môn giải thoát xuất thế gian. Đối với những kẻ căn cơ bậc kém, thì thuyết pháp môn giải thoát khiến họ thoát khỏi những đường khổ nhọc của địa ngục, ngạ quỶ, súc sanh. Phật tuy thuyết bao pháp môn, như giới luật Đại Thừa và Tiểu Thừa, nhưng đều dùng tam quy ngũ giới làm căn bản, khiến người thọ những giới luật này, thường không làm các việc ác, và luôn hành các điều lành. Phải y theo những lời bên trên mà lập thân, tề gia, trị quốc, thì đó mới là điều rốt ráo của chủ nghĩa nhân đạo. Nếu ngừng gieo nhân khổ thì quả khổ sẽ tự diệt mất. Thoát khỏi ba đường khổ và sanh trong cõi trời người thì dễ dàng nhập vào Phật thừa. Đó là nền tảng căn bản học Phật. Tam quy ngũ giới là bờ bến của thế gian, và là diệu pháp an lạc cứu khổ. Đầu tiên giải nghĩa tam quy y, sau đó nói rõ về ngũ giới.
Tam quy y: Thứ nhất là quy y Phật. Thứ hai là quy y Pháp. Thứ ba là quy y Tăng.
Tại sao đầu tiên phải quy y Phật ? Phật là đấng Thế Tôn đại giác, cứu cánh thường lạc, mãi mãi xa lìa khổ não, dạy dỗ chúng sanh, xuất ra khỏi lưới mê, đi trên đường giác. Phật Thích Ca là vị giáo chủ ở cõi Ta Bà, nên đầu tiên phải quy y Phật.
Thứ hai, quy y Pháp, tức là những pháp môn của Phật truyền dạy. Ba đời chư Phật đều y theo những giáo pháp này mà tu hành, thành tụu vô lượng công đức thanh tịnh. Ngày nay muốn xoay về cội gốc, tịnh trừ tâm cấu uế, cần phải tu trì theo Phật pháp. Vì thế, phải quy y Pháp.
Thứ ba là quy y Tăng. Xả thân vì Phật pháp, và xiển dương chánh pháp, phải có người đảm đương hoằng truyền. Dùng phương tiện văn, tư, tu mới chứng quả thành Phật. Nếu Phật pháp không có người thuyết giảng, tuy biết mà khó có thể lãnh hội. Phật pháp thâm sâu khó hiểu, phải nghe chư tăng giảng giải, nên ân đức của các ngài vô cùng cực. Do đó, phải quy y Tăng.
Lại nữa, nghĩa của sự quy y Tam Bảo được phân biệt thành ba. Thứ nhất là nhất thể Tam Bảo. Thứ hai là biệt tướng Tam Bảo. Thứ ba là trụ trì Tam Bảo.
Nhất thể Tam Bảo tức là tự thể của nhất tâm. Phật đà là tiếng Phạn, dịch là Giác Giả. Nhất niệm linh minh tâm giác liễu, tức là tự tánh nhất thể Phật Bảo. Pháp đã đầy đủ ba đức Phật Pháp Tăng, Tam Bảo. Pháp nghĩa là quỸ trì. Tâm tánh này có thể giữ gìn quy tắc của tất cả pháp thế gian lẫn xuất thế gian, tức là tự tánh nhất thể Pháp Bảo. Tăng, tiếng Phạn là Tăng Già Da, nghĩa là một đoàn thể hay chúng hòa hợp. Tâm giác có khả năng hằng trì tất cả pháp. Tâm tức là pháp. Mọi pháp đều là một tâm. Pháp tức là tâm. Tâm và pháp không hai, lý sự hòa hợp, tức tự tánh nhất thể Tăng Bảo. Một tâm như thế đầy đủ Phật Pháp Tăng. Tam Bảo chỉ là một tâm, nên gọi là nhất thể Tam Bảo. Chúng sanh vì mê mờ tâm này mà hướng ngoại truy cầu, nên lưu chuyển trong sanh tử. Chư Phật nhờ giác ngộ được tâm này nên chứng được đạo Bồ Đề.
Thứ hai là biệt tướng Tam Bảo. Danh tướng của ba danh tự Phật, Pháp, Tăng khác nhau. Phật, tiếng Phạn là Phật Đà Da, nghĩa là bậc giác ngộ. Giác ngộ tận nguồn tâm, đạt tận thật tướng, gọi là tự giác. Dùng pháp môn tự chứng mà giác ngộ cho tất cả chúng sanh, gọi là giác tha. Tự giác đã viên mãn, giác tha cũng đã đạt đến cứu cánh, nên gọi là giác hạnh viên mãn. Ba giác viên mãn, muôn đức đều tròn đầy, nên cuối cùng thành Phật. Đầu tiên, Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề, thị hiện thân vàng sáu trượng. Nơi pháp hội Hoa Nghiêm, Ngài thị hiện pháp thân Phật Lô Xá Na. Đó là biệt tướng của Phật Bảo. Đức Như Lai tùy cơ thiết giáo, trong năm thời thuyết giảng các kinh điển quyền thiết và chân thật. Ba tạng mười hai phần giáo, lý, hạnh, chứng, nhân, quả, trí, đoạn, các loại không đồng, gọi là biệt tướng Pháp Bảo. Theo giáo lý mà tu hành. Do tu hành mà khế hợp, rồi chứng ba thừa, như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, nhưng giai đoạn thứ lớp không đồng, nên gọi là biệt tướng Tăng Bảo. Nơi đây đã bàn xong về biệt tướng Tam Bảo.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
Thứ ba là trụ trì Tam Bảo. Sau khi Phật diệt độ, tượng Phật được đắp bằng xi măng, khắc trên gỗ, hay đúc bằng năm loại kim khí, hoặc vẽ trên giấy lụa; những tượng Phật này làm ruộng phước cho chúng sanh. Nếu cung kính như đức Phật còn tại thế thì công đức thật khó nghĩ bàn. Trụ trì mãi không tuyệt mất, gọi là trụ trì Phật Bảo. Vô luận sách màu vàng, hay lá Cụ Diệp đều là ba tạng kinh điển; mười hai phần giáo của Đại Thừa và Tiểu Thừa khiến người thấy nghe, y theo đó mà hành trì thì đều được hết khổ, đắc an lạc, cho đến thành Phật. Ba tạng kinh điển giáo hóa chúng sanh liên tục không ngừng, nên gọi là trụ trì Pháp Bảo. Cạo bỏ râu tóc, đắp y hoại sắc, hoằng tông diễn giáo, hóa độ chúng sanh, nối tiếp Phật chủng, đó gọi là trụ trì Tăng Bảo. Nơi đây, đã bàn xong về trụ trì Tam Bảo.
Trụ trì, biệt tướng, nhất thể, đều gọi là Châu Báu mà không thể bị pháp thế gian xâm lấn tổn hại, hoặc phiền não làm nhiễm ô. Bảy loại châu báu ở thế gian tuy được gọi là quý báu, nhưng thọ hưởng trong một thời gian, cuối cùng sẽ hết, vì chỉ dưỡng sanh chứ không cứu độ cái chết. Tam Bảo có thể chấm dứt vô biên sanh tử, khiến xa rời tất cả sợ hãi lo âu, mãi mãi hưởng thọ thường lạc.
Bàn về quy y Tam Bảo, không chỉ đặc biệt quy y trụ trì Tam Bảo, biệt tướng Tam Bảo, hay nhất thể Tam Bảo. Theo ngôn thuyết thì có ba loại Tam Bảo, nhưng thật ra chỉ sanh từ một tâm mà chẳng có pháp nào khác, vì tất cả sự vật đều do tâm tạo. Tâm nhiếp thọ hết muôn vật, viên mãn tròn đầy, như hạt châu Như Ý. Thế nên bảo rằng tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng, chứ không nói là quy y tha, tức y tựa nơi người khác.
Lục Tổ dạy:
- Tự tánh chẳng quy, không chỗ để nương vào.
"Quy" nghĩa là xoay về cội gốc. Sáu căn của chúng sanh từ một tâm khởi, chỉ vì bỏ gốc mà chạy đuổi theo sáu trần. Ngày nay dùng mạng căn nhiếp sáu tình, xoay về nguồn tâm, nên gọi là quy mạng. Vì vậy, quy y cũng nghĩa là quy mạng.
"Y" nghĩa là y chỉ. Chúng sanh luôn chạy theo âm thanh sắc tướng, niệm niệm lưu chuyển, nên bị chìm đắm trong biển khổ mà không biết chỗ ngừng và không có nơi nương tựa. Ngày nay quy y Tam Bảo, tức thân có chỗ quy về, và tâm có chỗ nương tựa. Từ nay về sau, nhờ tôn kính Tam Bảo làm thầy nên có thể xuất ra khỏi ba cõi u mê, phát tâm Bồ Đề, và quả vị Phật có kỳ chứng đắc. Nghĩa quy y Tam Bảo đã giải thích đầy đủ. Hiện tại, nói rõ về năm giới cấm.
Quy y Tam Bảo rồi, phải y theo pháp mà tu hành, mới thoát khỏi khổ đau trong ba cõi. Nếu không y theo pháp mà tu hành thì không thể nào thoát khỏi vòng triền phược của thế gian. Nếu muốn thoát khỏi vòng sanh tử, dứt dây phiền não, ngoài năm giới ra không còn pháp nào khác. Vì vậy, có câu rằng nếu không giữ năm giới cấm thì đường sanh làm trời người bị cắt đứt.
Thế nên, "Giới" là nền tảng căn bản, sanh ra điều thiện lành, diệt bỏ điều ác, và là cội gốc của đạo đức, cùng là công cụ vượt ra khỏi cõi phàm mà nhập vào dòng thánh. Từ giới sanh định. Từ định phát huệ. Nhờ giới định huệ, mới bước trên đường Bồ Đề mà thành chánh giác. Vì vậy, đạt được giới phẩm thì quả vị Phật sẽ có kỳ chứng đắc.
"Giới là cội gốc của đạo Bồ Đề vô thượng".
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
Đức Phật của chúng ta mở pháp môn phương tiện, bằng cách đầu tiên thuyết tam quy y, rồi lại dạy năm giới; cứ như thế lần lượt thiết lập giới Đại Thừa, Tiểu Thừa, v.v...
Do căn cơ và tâm hạnh của chúng sanh không đồng nhất, nên mới lập giới từ thô thiển đến thâm sâu, từ vi tế đến hiển lộ, nhưng cứu cánh luôn xoay về nguồn, chẳng có hai hoặc ba.
Năm giới: Thứ nhất là giới cấm giết hại. Thứ hai là giới cấm ăn cắp. Thứ ba là giới cấm tà dâm. Thứ tư là giới cấm nói láo. Thứ năm là giới cấm uống rượu. Năm giới này được gọi là học xứ và học tích. Nam nữ tại gia phải nên học theo. Những giới này cũng được gọi là đường lộ, vì nếu đi trên đường đó có thể thăng lên cung điện trí huệ. Tất cả luật nghi diệu hạnh thiện pháp đều xuất phát từ con đường này. Chúng cũng được gọi là học bổn mà người người phải học theo, nên gọi là căn bổn; chúng cũng được gọi là năm đại thí. Năm giới này nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, khiến họ thành tựu vô lượng công đức. Năm giới này nơi trời thì gọi là năm tinh sao; nơi núi thì gọi là năm ngọn; nơi con người thì gọi là năm tạng, trong nhà Nho thì gọi là ngũ thường. Người nhân đức không giết hại. Người nghĩa khí không ăn cắp. Người lễ mạo không tà dâm. Người trí không uống rượu. Người tín không nói láo. Nếu giữ năm giới hoàn toàn thì không cầu thành bậc nhân đức cũng vẫn thành người nhân đức. Không thích nghĩa mà nghĩa vẫn vẹn toàn. Không cầu lễ mà lễ vẫn lập. Không hành mà trí vẫn sáng. Không mong được tin tưởng mà chữ tín vẫn nổi. Thế nên, "giăng lưới thì được lưới" cần gì gia công sức thêm. Đây là nói tổng quát về năm giới.
Hiện tại, bàn về nghĩa của năm giới. Thứ nhất là bàn về giới không giết hại. Chủng tử giết hại nằm ẩn tàng trong tâm của mỗi người mà ai ai cũng có. Mạnh Tử còn bảo:
- Nghe tiếng kêu la của con vật, không đành lòng ăn thịt chúng.
Huống chi người học Phật, sao lại hàm hồ có tâm niệm giết hại, để chịu quả khổ sau này ? Thế nên, đức Phật chế giới không giết hại cho các đệ tử; nếu muốn hành đạo nhân từ thì đầu tiên phải giữ giới không giết hại. Nếu giữ được giới không giết hại thì đường luân hồi sẽ chấm dứt. Nghiệp giết hại khởi đầu không ngoài việc Ỷ sức mạnh mà giết hại kẻ yếu. Hoặc vì tham đắm mùi vị thức ăn, hoặc vì tiền tài mà giết hại kẻ khác. Người giết hại người, và súc vật giết hại súc vật v.v... đều do tâm sân hận, kiêu căng ngã mạn. Nếu vì tham đắm mùi vị thơm ngon mà giết hại loài vật thì đó là do ngu si. Dùng thịt loài khác để tẩm bổ cho thân mình, người quân tử sao lại nhẫn tâm ? Sao không biết rằng nếu tạo nghiệp giết hại bừa bãi thì cừu oán tự khởi ? Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Sau khi ăn thịt dê, dê chết trở lại thành người. Người chết trở lại thành dê. Mười loài như thế. Chết rồi lại sanh. Ăn nuốt lẫn nhau. Ác nghiệp đầy dẫy, cho đến cùng tận đời vị lai, cũng chỉ vì gốc tham lam trộm cướp".
Bị quả báo xấu, trải qua bao số kiếp khó mà tránh khỏi. Giết người hại mạng thì phải đền mạng. Giết súc vật cũng phải đền mạng. Tích xưa, khi vua Lưu Ly giết sạch dòng họ Thích Ca, đức Thế Tôn bị đau đầu nhức nhối; quả báo này do nhân nào tạo ? Trong thời quá khứ, vua Lưu Ly vốn là một con cá lớn. Lúc đó, dòng họ Thích Ca bắt giết, rồi ăn thịt con cá lớn. Đức Phật thuở đó là đồng tử, giỡn chơi lấy cây côn đánh vào đầu con cá lớn ba lần, nên nay mới thọ quả báo nhức đầu. Dòng họ Thích Ca vì ăn thịt con cá lớn, nên ngày nay bị vua Lưu Ly, tức tiền thân của con cá lớn, giết sạch hết.
Quán sát kỹ càng, nhân quả vay trả lẫn nhau, thật rất đáng sợ. Kinh Lăng Nghiêm bảo: "Trên thế gian, những loại thai sanh, thấp sanh, noãn sanh, hóa sanh tùy theo sức mạnh yếu mà ăn nuốt lẫn nhau. Đó là do gốc tham ăn nên mới giết hại."
Không những đức Phật khởi lòng từ bi đến với nhân loại, mà Ngài còn trải lòng từ đến với loài trùng kiến. Phật pháp vốn bình đẳng, không có cao hay thấp. Theo mắt đức Phật quán sát thì chúng sanh trên cõi đất đều có thể thành Phật. Kinh Phạm Võng bảo: "Tất cả người nam là cha mình. Tất cả người nữ là mẹ mình. Chúng sanh trong sáu đường thọ sanh trong đời này, đều là cha mẹ của mình. Nếu giết hại ăn nuốt chúng sanh, tức là giết hại ăn nuốt cha mẹ mình".
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
Người thế gian không biết nên ăn nuốt lẫn nhau. Vì vậy, đức Thế Tôn mới chế ra giới không giết hại sanh mạng chúng sanh. Tất cả sanh linh động vật đều có Phật tánh. Ngay cả côn trùng còn không thể giết hại, sao lại nỡ lòng tương tàn tương sát đồng loại ? Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đời vị lai họ sẽ thành Phật. Họ là cha mẹ chúng ta trong đời quá khứ, và sẽ là những vị Phật trong đời tương lai. Sao lại dám giết hại ? Phàm phu tục tử chúng ta nếu muốn được lợi lạc chớ nên giết hại đồng loại. Mạnh Tử nói:
- Kẻ thất nhân chỉ lo sợ không hại được người.
Hiện nay, người người luôn tranh thắng bại, nên tạo vũ khí giết hại lẫn nhau ở trên đất liền, trên hư không và dưới nước. Nhân tâm ngày càng hiểm ác. Thế đạo ngày càng cuồng loạn. Tương sát tương tàn đến khi nào mới ngưng ? Nếu không tìm cách cứu vãn thì thế gian này mãi mãi biến thành biển khổ. Kẻ sĩ quán sát thế đạo nhân tâm không khỏi buồn thương. Phải nên nỗ lực cầu hòa bình, cứu vãn nhân tâm mê muội, khiến họ quay về đường chánh. Trọng nhân từ, chứ không trọng võ lực. Chẳng tham đắm mùi vị ngon hay thấy lợi mà quên nghĩa, thì tâm giết hại không thể khởi lên. Nghiệp giết hại nếu ngưng thì vận kiếp hoại sẽ ngừng. Sao lại lo tâm không hợp với người xưa ? Nghe đến lý nhân quả liền thấu rõ nghĩa thâm sâu, như hình với bóng, như âm với hưởng. Nếu thâm tín nghĩa lý nhân quả thì nhân tâm không cần sửa đổi mà vẫn luôn lành thiện. Gặp cảnh thuận nghịch, tâm không ưu sầu hay vui thích. Nên biết những nghiệp khổ trong đời hiện tại, như nạn binh đao, kiếp hỏa tai, lụt lội v.v... đều do tự mình tạo ra trong đời quá khứ. Như trong hai đại chiến thế giới, chiến tranh lan tràn khắp nơi, chỉ có các người Tàu cư ngụ tại Úc Châu là được bình an, vì do đời tiền kiếp, không gieo nghiệp giết hại thâm trọng. Những người thường gặp tai nạn, đều do biệt nghiệp chiêu cảm. Phải nên thấu triệt lý nhân quả, thật không thể nghĩ bàn. Nếu thâm tín lý này thì tâm giết hại sẽ ngừng. Nếu người thế gian thường trì giới không giết hại thì tất cả khí giới sát cụ đều là vô dụng.
Đức Như Lai đầu tiên chế ra giới không giết hại vì muốn khiến cho người người đều khởi lòng nhân từ, thương người thương vật, tự trừ khổ cho mình và người, đồng chứng cảnh giới an lạc thường hằng. Đây là sơ lược giảng giải về nghĩa của giới không giết hại.
Thứ hai là bàn về giới không ăn cắp. Ăn cắp do từ tâm tham phát khởi. Đức Phật dạy hàng đệ tử rằng ngay cả một cây kim cọng cỏ mà người khác không cho thì mình chẳng dám lấy, còn nói chi đến việc trộm cướp. Tuy nhiên, chúng sanh chỉ vì thấy lợi trước mắt nên lập bao chước mưu, không cho mà lấy. Tìm kiếm lợi lộc, ác cầu đa cầu, không bao giờ biết đủ, đều do tâm tham lam sai sử. Hình tướng vi tế của tâm trộm cắp là như thế. Phạm tội nặng nề nhất là ăn cắp và lạm dùng vật dụng của mười phương tăng chúng, vật dụng của hiện tiền tăng, cho đến vật dụng của Phật, Pháp, Tăng. Tuy vật chỉ nhỏ như cây kim cọng cỏ mà lấy càn, rồi tự mình dùng hay cùng người dùng, đều là phạm tội trộm cắp nặng nề. Đại sĩ Hoa Thủ nói:
- Đối với năm tội nghịch hay mười nghiệp nặng, tôi đều có thể cứu hộ. Tuy nhiên, nếu ăn cắp mười phương tăng vật thì tôi không thể cứu được.
Đối với vật dụng của cha mẹ hay sư trưởng, không được cho chớ lấy, nếu lấy thì phạm tội nặng. Nếu thâm tín nhân quả, chẳng phạm tơ hào, thì tuy chẳng trì giới không trộm cắp mà vẫn tự hành trì. Nếu được như thế thì cùng đạo chẳng đổi dời. Tối ngủ chẳng cần đóng cửa. Người người trên thế gian đều kết nghĩa với nhau thì làm sao bị gông cùm lao ngục ? Đây là bàn xong về giới không ăn cắp.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
Thứ ba là bàn về giới không tà dâm. Đệ tử Phật xuất gia hay tại gia đều phải nghiêm thủ giới này. Người tại gia giữ năm giới. Tuy được có vợ chồng chánh thức, nhưng không thể tà dâm. Đối với vợ của người khác, được họ bảo bọc, không nên nói lời bậy bạ hàm hồ, còn nói chi đến việc xâm phạm tiết trinh, làm ô nhiễm phạm hạnh ? Đức Phật chế giới cho người tại gia là không được tà dâm. Đối với đệ tử xuất gia, chánh dâm hay tà dâm đều ngăn cấm hẳn. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Người khác thương mến mình. Mình mến yêu hình sắc của người.
Vì do nhân duyên này, trải qua trăm ngàn kiếp thường bị triền phược trói buộc. Vì ba nghiệp giết hại trộm cướp dâm dục làm cội gốc, nên mới có nhân duyên nghiệp quả liên tục".
Nếu thường trì giới này thì không cầu mà lễ vẫn lập, không răn nhắc mà vẫn uy nghiêm, oai nghi tự thủ. Pháp đình không cần xử án lao hình. Đây là nghĩa của giới tà dâm.
Thứ tư là bàn về giới không nói láo. Việc nói láo phải nên dứt hẳn. Thấy thì nói thấy. Nghe thì nói nghe. Lời nói không giả dối. Những việc nhỏ nhít còn phải nói thật, huống hồ là những việc quan trọng ! Quán sát nhân duyên nói láo, đa số do cầu danh thơm lợi dưỡng, hoặc vì giấu diếm dục tình mà tráo trở, hoặc vì che tâm giấu mặt. Lại nữa, chưa chứng thánh quả mà nói là đã chứng, hay chưa chứng tâm Phật mà bảo đã chứng đắc, tức khi dễ thánh hiền, làm mê hoặc thế nhân, đó gọi là đại vọng ngữ. Nếu tạo tội đại vọng ngữ thì sẽ bị đọa lạc vào Địa ngục Vô gián. Thế nên, phải cẩn trọng, chớ phạm giới này. Phật giáo dùng tâm chánh trực làm đạo tràng. Tại sao không y đó mà tu học ? Nếu trì giới này thì sẽ được người người tín nhiệm; không cầu danh mà danh tự đến; không cầu lợi mà phước tự về. Đây là bàn về giới nói láo.
Thứ năm là bàn về giới không uống rượu. Rượu tuy không phải là thức ăn mặn, nhưng thường khiến cho mê tâm loạn tánh. Luận Đại Trí Độ nói uống rượu có ba mươi sáu điều tội lỗi. Kinh Phạm Võng nói: "Đưa rượu cho người uống thì năm trăm đời không có tay, hà huống tự uống cùng dạy người uống ?"
Thuở xưa, một vị tỳ kheo có khả năng hàng phục độc long, nhưng lại thích uống rượu. Ngày nọ, thầy uống rượu say sưa, nằm trên đường lộ, ói mửa hôi hám, không ai muốn đến gần, chỉ có một con cóc nhảy đến liếm mép. Sau đó, thầy lảo đảo trở về chùa. Phật thấy liền mắng:
- Ông có thần lực, hàng phục được độc long. Hôm nay say sưa nằm trên đường lộ, lại bị con cóc hàng phục. Thần thông của ông ở đâu rồi ?
Kể từ đó, Phật cấm các tỳ kheo không được uống rượu. Rượu khiến làm loạn tâm tánh và chiêu vời tai họa. Như thuở xưa, có một đệ tử tại gia của Phật, vì phạm giới uống rượu nên phạm luôn bốn giới giết hại ăn cắp tà dâm nói láo. Thật rất đáng thương !
Rượu khiến làm nhân duyên tạo tội, sao lại tham uống ? Nếu người thế gian trì được giới này thì họa do say sưa không thể đến mình. Đây là giải thích xong về giới cấm uống rượu.
Nếu muốn không phạm năm giới này, điều quan trọng là phải nhiếp tâm. Vọng tâm nếu được nhiếp phục, không khởi phân biệt, không còn thương yêu oán ghét, thì bao loại nghiệp ác, do đâu mà sanh ? Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nhiếp tâm là giới. Nhân giới mà sanh định. Từ định mà phát huệ".
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
Nên biết hai chữ "Nhiếp Tâm" bao hàm ba môn học vô lậu: Giới, định, huệ. Đoạn trừ tham, sân, si thì các việc ác không thể khởi, và tự mình luôn hành những việc lành. Hai chữ "Nhiếp Tâm" đơn độc có thể cứu hộ nhân tâm, duy trì được thế đạo; chỉ việc nhiếp tâm một chỗ thì chẳng có việc gì là không thể giải quyết được; nếu nhiếp tâm được thì công phu ngày càng thâm sâu, và đạo Bồ Đề càng sáng tỏ.
Nhờ hồng ân của chư Phật, trước xướng tam quy y, sau lại ban năm giới. Dùng phương tiện này để cứu khổ chúng sanh. Thâm ân chư Phật lớn lao vô ngần; dẫu đập nát thân này thì chỉ báo đền được một trong muôn phần.
Nghe thuyết nghĩa của năm giới rồi, phải do từ liễu giải mà thực hành. Trăm gia đình trong làng nếu có mười người trì năm giới thì mười người đó được an vui. Trăm người tu mười điều thiện thì trăm người hòa kính. Nếu mọi nhà đều y theo cách thức tu trì giáo pháp này thì trăm vạn người đều nhân từ. Hành một việc lành thì bỏ một việc ác, và tiêu một hình phạt. Một hình phạt tiêu mất trong một nhà thì trăm hình phạt tiêu mất trong một quốc gia. Vị nguyên thủ quốc gia không cần trị mà vẫn ngồi hưởng thái bình. Thế nên, thọ trì năm giới, tức là không những y theo lời Phật dạy, được thọ hưởng quả lành, mà còn trợ người khác y theo luật lệ quốc gia, khiến nước nhà thạnh trị, nhân dân an lạc.
Đây là hành tướng cùng danh đức của tam quy y và năm giới cấm. Quý vị nếu thường chân thật hành trì thì gieo trồng được chủng tử thành Phật. Hạnh và giải tương ưng thì sẽ đạt đến bờ giác. Xin cầu nguyện cho quý vị, từ đây về sau do nghe mà sanh kiến giải. Do có kiến giải mà sanh tư duy. Do tư duy mà phát tâm tu hành, thì thành Phật sẽ có kỳ. Mọi người phải nên thường chuyên cần tinh tấn, rồi chỉ bảo người khác, thì mới mong báo được ân Phật. Hy vọng quý vị, mỗi người luôn luôn nỗ lực, khiến giải trừ tai ách, tiêu trừ hoạn nạn. Nếu thọ tam quy y và năm giới cấm, tức là các việc ác chẳng làm, mà luôn hành các điều thiện, thì tự có khả năng cùng đạo tương ưng và có thể đạt thành tựu Phật đạo vô thượng viên mãn.
XI. Bài diễn thuyết tại xã Liên Nghĩa ở Quảng Châu vào ngày hai mươi bảy tháng chín năm 1947
Quý vị thiện tri thức ! Hư Vân tôi lần này trên lộ trình từ Hồng Kông trở về núi Vân Cư, ghé ngang qua đây. Hôm nay do lời mời của quý vị, nên tôi mới ở lại đàm luận, chứ chẳng vì lụy duyên trần thế.
Quý vị thiện tri thức ! Hai chữ "Phật Pháp" thật cùng tất cả thiện pháp nơi thế gian đều đồng không khác. Chư hào kiệt do tu dưỡng học vấn mà tiên tri tiên giác, thành tựu kiến thức siêu việt thường tình, vượt hơn sở học kẻ khác, khiến an định thế gian.
Chư Phật tổ do bao kiếp tu hành mà thành tựu, chánh tri chánh giác, phát tâm từ bi rộng lớn, độ khắp ba cõi. Chư thánh hiền tại thế gian hay xuất thế gian, do tu hành mà chứng được thánh vị và an lạc nơi đạo.
Quý vị thiện tri thức ! Phật pháp tức là pháp thứ và bổn phận của mọi người. Điều quan trọng là phải đi từng bước vững chắc, xa rời vọng tưởng chấp trước thì mới đạt đến đạo Bồ Đề vô thượng.
Cổ đức nói:
- Tâm bình thường là đạo.
Đạo của ông Khổng Tử không ngoài "Trung Dung". Bàn về lý thuyết thì không thiên chấp tức là "Trung". Không biến đổi tức là "Dung". Bàn về sự thì "Trung" tức là trung đạo. Việc gì cũng không thái quá hay không thiếu thốn. Dung tức là dung thường, xa rời tất cả quái lực loạn thần, thuận theo bổn phận làm người, chẳng làm điều kỳ lạ. Phật pháp cũng như thế. Chúng ta phải vận dụng tâm bình thường chân thật mà xem xét thì mới thấy chân tâm thân thiết. Nhờ làm việc bình thường chân thật mà thấy được chân tâm thân thiết, nên mới có ít phần tương ưng, khiến không phạm tội nói khoác.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 2 _ Khai thị tại Áo Môn, 1-8-1947__________________________________________________ ______________________________________
Pháp của tâm bình thường chân thật, không khác mười điều thiện, tức trì giới không tham lam, sân hận, si mê, giết hại, ăn cắp, tà dâm, Ỷ ngữ, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu. Mười việc thiện này, lão tăng đã từng đàm luận rồi. Nếu có thể hành trì thật tiễn thì đó là nền tảng căn bản của việc tu hành thành Phật Tổ, cũng khiến cho thế giới
thái bình, tạo nên nhân gian Tịnh Độ. Lục Tổ bảo:
- Tâm bình thì nhọc gì trì giới.
Đó là nói về bậc thượng căn lợi trí; các ngài nghe một lời đạo pháp thì hạnh giải đều tương ưng, như voi vượt sông theo dòng mà qua đến bờ kia. Tướng thiện lành còn không có, hà huống có tướng ác !
Đối với người trung căn và hạ căn, họ thường bị gió chuyển. Hai chữ "Tâm Bình", đàm luận thì dễ. Gió có tám loại: Lợi ích, suy đồi, hủy hoại, khen ngợi, tán thán, chửi mắng, khổ nhọc, an lạc. Phàm phu gặp gió lợi lạc thì sanh tâm tham trước. Gặp gió sầu thảm thì sanh tâm bi lụy khổ sở. Gặp gió hủy báng thì sanh tâm sân hận. Gặp gió khen ngợi thì sanh tâm vui thích. Gặp gió tán thán thì tâm trụ không nghi. Gặp gió quở trách thì sanh tâm xấu hổ, khiến trở thành hờn oán. Gặp gió khổ đau thì tâm đầy bi thương. Gặp gió an lạc thì liên tục chạy theo vọng tưởng. Tám gió khởi lên, tâm liền theo đó mà chuyển. Lúc sanh lúc chết, làm sao đối kháng được ? Phải đi từng bước, tức từ sự tướng mà nhận thức thể tánh; khi khởi tâm động niệm, luôn tu hành mười điều lành. Sự tướng tuy là cành lá, nhưng phải nhiếp thọ cành lá trở về cội gốc, thì mới mau đạt đạo Bồ Đề.
Lại nữa, Phật giáo lược khai có mười tông và hơn bốn mươi phái mà bốn tông như Thiền, Tịnh, Luật, Mật nhiếp căn cơ chúng sanh rất rộng rãi.
Quý vị thiện tri thức ! Cảnh giới của chư Phật như vương đô, mà các tông phái như những đại lộ. Dẫu đại lộ nào cũng dẫn về vương đô. Chúng sanh phân tán khắp bốn phương, do điểm xuất phát không đồng, nhưng khi đến nơi vua trú thì đồng một dạng giao cảm. Kinh Kim Cang nói: "Pháp này bình đẳng, không có cao thấp !"
Tuy nhiên, nếu hôm nay đi đại lộ này, rồi ngày mai lại chạy qua đại lộ khác, cứ chạy qua đường này lộ nọ, nên cuối cùng chẳng đi đến đâu.
Lục Tổ bảo:
- Rời đạo mà tìm đạo, thì cả đời chẳng thấy đạo. Lang thang suốt cuộc đời, chẳng đạt được gì, phải nên tự trách.
Thật là lời răn nhắc thâm sâu ! Vì vậy, chúng ta phải thâm nhập vào một pháp môn mà không để phân tâm, hay thối chuyển. Như chuột gặm quan tài, phải từ một nơi mà dụng công thì hồi lâu sẽ đục thủng. Nếu muốn thông đạt hết các tông, phải nên nhận ra chủ bạn. Người hành Thiền tông, phải nên lấy pháp môn của Thiền tông làm chủ (chính), còn giáo lý của những tông khác, phải xem là bạn (phụ). Người hành tông Tịnh Độ, phải lấy pháp môn Tịnh Độ làm chủ, và xem giáo lý của các tông khác là bạn. Luật tông và Mật tông cũng như thế, thì mới tránh việc Hàn Lô tranh khoảnh đất bùn.
Đối với giới luật trong nhà Phật, các tông phái đều phải nghiêm trì. Biết chủ bạn như đi trên đường biết phương hướng. Trì giới luật như đi trên đường có lương thực. Yếu chỉ của các tông phái tuy không đồng, nhưng lên đến đảnh thì cùng một dạng. Thế nên bảo:
- Trở về nguồn tánh không hai, nhưng phương tiện thì lại có nhiều môn.
Hôm nay, trong chúng hội đều là những bậc thượng thiện nhân, cùng Phật có phần. Hư Vân tôi nói nhiều lời, bất quá chỉ như vạch hư không mà thôi. Trân trọng !
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 3 _ Khai thị tại bệnh viện Chí Đức__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN III
XII. Bài giảng tại bệnh viện Chí Đức, hội Phật giáo tỉnh Quảng Châu
Quý vị thiện tri thức ! Hôm nay là ngày thành lập của hội Phật giáo tại bệnh viện Chí Đức. Thể theo lời mời của quý vị thỉnh cầu, Hư Vân tôi đến đây chủ trì buổi lễ. Việc này thật rất hy hữu.
Trên đầu bản hiệu của bệnh viện Quảng Châu có khắc hai chữ Phật Giáo, khiến người vừa xem qua bèn vừa ý.
Quý vị thiện tri thức ! Đời người có tám việc khổ mà bịnh hoạn là khổ bậc nhất. Đức Phật của chúng ta xuất hiện ra trên thế gian này chỉ vì muốn chúng sanh xa rời khổ não và được an lạc. Y dược vốn là một phương minh nằm trong ngũ minh. Trong quyển Thiền Môn Nhật Tụng ghi: "Vì bệnh tật của thế nhân mà ban lương dược".
Bồ Tát cứu bịnh khổ trầm kha của chúng sanh, không tiếc thân mạng. Ví như Bồ Tát Dược Vương, Ngài dùng hương trầm tẩm thân, rồi tự thiêu cúng dường chư Phật. Cúng dường chư Phật tức là cúng dường chúng sanh.
"Tâm, Phật, và chúng sanh, tuy là ba nhưng thật không khác biệt".
Đây là câu liễu nghĩa của kinh Hoa Nghiêm; nơi lý này phải nên suy nghĩ. Chư Phật luôn luôn niệm nhớ chúng sanh, như mẹ nhớ con. Chúng sanh vì có ba căn bệnh tham sân si, nên chư Phật thuyết ra ba pháp giới, định, huệ để trị. Do thân của chúng sanh bị bịnh phong hàn thấp v.v..., nên Phật y theo đó mà cho toa "Y Phương Minh" để trị liệu. Kinh Tịnh Danh viết: "Vì chúng sanh bệnh nên Bồ Tát bệnh".
Chư Phật và chư Bồ Tát đồng thể đại bi, mắt từ nhìn chúng sanh. Quý vị thiện tri thức ! Các bậc hiền thánh ở thế gian cũng có tâm địa và lý giải đồng như thế. Ví như Thần nông cũng vì chúng sanh mà thử trăm loại cỏ. Tại nhân địa, Bồ Tát tu hành hiện các loại thân để thuyết pháp. Thần nông cũng như Bồ Tát, hiện thân Dược Vương mà thuyết pháp.
Quý vị thiện tri thức ! Đối với căn bệnh của nhân loại, năm món dục lạc là nhân chính. Những nghiệp tội trong đời vô thủy cũng do từ năm món dục lạc mà sanh. Khi bệnh tật phát ra, phải cần được chữa trị. Trước mắt, người bịnh hoạn vô lực, cần cầu lương y thật không ít. Quý vị trưởng lão thiện nhân phát tâm thành lập bệnh viện này, tặng y dược cho bệnh nhân; tâm này thật là tâm Bồ Đề, cũng chính là bổn hoài từ bi của Phật.
Quý vị thiện tri thức ! Bồ đề tức là Chánh giác ! Tâm Chánh giác không lạc vào hai bên nhân ngã, thiện ác mà chỉ bình đẳng bố thí, không phân biệt kẻ thân người oán. Trị bệnh cho thân bằng quyến thuộc của mình thì cố nhiên phải lưu tâm. Trị bịnh cho những người khác cũng phải tận tình. Dẫu có người lành hay kẻ ác ra vào bệnh viện, phải dùng tâm bình đẳng mà cứu hộ chữa trị. Đức Phật của chúng ta trong đời quá khứ đã từng xả bỏ thân mạng cho hổ đói. Ý nghĩa này phải nên suy tư.
Do sự nỗ lực của sư trưởng Thâm Lại Lương Trọng cùng viện trưởng họ Trần, nên hôm nay bệnh viện này mới được thành tựu. Cổ nhân bảo:
- Chớ cho làm việc thiện trong buổi ban đầu mà không ảnh hưởng về sau. Chớ cho việc hay lúc cuối mà không xiển dương.
Nói chung, đối với đại chúng ngồi đây, từ nay về sau, người có tiền thì xuất tiền, và người có công sức thì bỏ công sức. Lục Tổ bảo:
- Phật pháp tại thế gian. Không rời thế gian mà tìm giác ngộ. Rời thế gian mà tìm cầu Bồ Đề, thì như tầm cầu lông rùa sừng thỏ.
Đại chúng nỗ lực, khai mở bệnh viện này tức là làm công tác thật đại từ đại bi. Đây chính là biểu hiện chân đế "dùng phương tiện để đạt đến cứu cánh" của đức Phật. Hư Vân tôi không thể sánh bằng mùi hương thơm bay trên đỉnh núi.
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 3 _ Khai thị tại bệnh viện Chí Đức__________________________________________________ ______________________________________
XIII. Tham thiền cùng niệm Phật
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình. Đây là hiện tướng xấu xa trong nhà Phật, thật rất đau lòng ! Thế tục có câu: "Gia đình hòa hợp thì muôn sự đều hưng thịnh. Gia đình ai oán thì miệng chẳng ngon."
Huynh đệ chửi mắng lẫn nhau, chẳng lẽ không bị người đời cười chê cùng khinh khi hay sao ! Tham thiền, niệm Phật cùng các pháp môn khác đều do kim khẩu của Phật Thích Ca thuyết ra. Đạo vốn không hai, chỉ do căn khí nghiệp duyên của chúng sanh không đồng, nên Phật tùy theo bịnh mà cho thuốc. Vì phương tiện nên đức Phật thuyết ra nhiều pháp môn để nhiếp thọ giáo hóa quần sanh. Sau này, chư đại đức y theo giáo lý mà phân tông phái; bất quá chỉ do tùy căn cơ mà thuyết pháp. Nếu người muốn tu trì để trở về tự tánh thì chỉ cần bước vào một cửa là có thể nhập đạo diệu môn, vì bổn gốc vốn không phân biệt cao thấp. Các pháp xưa nay vốn hỗ tương lẫn nhau và viên dung không ngại.
Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì có khác gì với tham thiền ! Tham thiền đến độ cả hai năng và sở đều mất thì có khác gì với thật tướng niệm Phật ! Thiền tức là Thiền trong Tịnh Độ. Tịnh Độ tức là Tịnh trong Thiền. Thiền và Tịnh Độ vốn tương trợ lẫn nhau. Sao người đời khởi tâm chấp trước một bên, thấy cửa này nhà nọ, tự tán thán mà hủy báng kẻ khác, giống như nước với lửa chẳng bao giờ tương dung, khiến phản lại thâm ý phân tông khác giáo của Phật Tổ ! Lại nữa, có thể vô ý phạm trọng tội hủy báng Phật pháp. Thật có đáng thương lắm không ! Hy vọng quý vị đồng nhân, không luận tu trì pháp môn nào, đều phải thể hội thâm sâu yếu chỉ vô tranh của Phật Tổ, chớ múa gậy đánh nhau trong nhà. Mọi người phải hợp lực đồng tâm, cứu độ con thuyền Bát Nhã trên sóng ba đào.