Cội Nguồn Truyền Thừa (1)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
https://www.youtube.com/watch?v=DZ195GiMwC0
Printable View
Cội Nguồn Truyền Thừa (1)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
https://www.youtube.com/watch?v=DZ195GiMwC0
Cội Nguồn Truyền Thừa (1)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
http://phatgiao.org.vn//Images/Conte...uyet-Khe-1.jpg
NHỤC THÂN Thiền Sư NGUYỆT KHÊ
Mục Lục
Lời dịch giả
Lời luận tổng quát
Chương I: Cội Nguồn Tryền Thừa
Chương II: Yếu chỉ Thiền Tông
Chương III: Thỉnh Ích (Hỏi Đạo)
Phụ Lục:
1) Nguyệt Khê Pháp Sư Cao Ngọa Xứ Bi Văn
2) Tiểu truyện của Nguyệt Khê Pháp Sư
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI DỊCH GIẢ__________________________________________________ ______________________________________
Lời dịch giả
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách. Người biên soạn hình như không có tham thiền, đối với Phật pháp cũng chưa được thông thạo, chỉ đem những tác phẩm như THAM THIỀN TU PHÁP, NGUYỆT KHÊ NGỮ LỤC, PHẬT PHÁP VẤN ĐÁP LỤC, ĐẠI THỪA BÁT TÔNG TU PHÁP của Ngài Nguyệt Khê gom lại thành quyển sách này, trong đó lại thêm vào những lời của người giáo môn và ý kiến của tự mình, nghịch với ý chí của Ngài NGUYỆT KHÊ mà chẳng tự biết, mà người biên soạn chỉ biết giữ bản quyền - không cho người khác in lại, đối với văn tự trong sách, do người sắp chữ sắp lộn, có rất nhiều chỗ lời sai chữ trật cũng vẫn để y nguyên mà không dò lại và sử cho kỹ.
Chúng tôi vì muốn giữ đúng ý chí của Ngài NGUYỆT KHÊ mà chẳng di hại cho người đọc nên lược bỏ phần nghịch với ý chí của tác giả và giảm bớt những lời trùng nhau.
NGUYỆT KHÊ Thiền sư đã tịch năm 1965, sách này được in vào năm 1971.
Cuối quyển sách này có một bài đề mục là NGUYỆT KHÊ Pháp Sư Cao Ngọa Xứ Bi Văn (tiểu sử), soạn năm 1971, trong đó không đề cập đến sự viên tịch của Ngài Nguyệt Khê, nên chúng tôi dịch thêm tiểu sử của Ngài do Mục sư Vương Cảnh Khánh soạn. Dù chúng tôi giữ thái độ thận trọng trong việc phiên dịch quyển sách này, nhưng vẫn có thể còn nhiều chỗ sơ sót, xin độc giả hoan hỷ chỉ giáo cho.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
LỜI LUẬN TỔNG QUÁT
Thế nào gọi là THIỀN ?
I.- ĐỊNH NGHĨA CỦA THIỀN.
THIỀN NA là tiếng Ấn Độ, xưa dịch TƯ DUY TU, sau dịch TỊNH LỰ, gọi tắt là THIỀN.
Trước đời Phật Thích Ca, có ông PHẤT ĐANG LA (Nirgranto Jnati Putra) đã sáng lập giáo pháp Thiền Na, dùng khổ hạnh để tu luyện. Sau này Phật Thích Ca lập ra sáu thứ Ba La Mật, cái thứ năm cũng gọi là Thiền na. Kỳ thực hai chữ THIỀN NA chỉ là một tên gọi thông thường về phương pháp tu luyện.
Ngôn giáo của Phật Thích Ca bất cứ Đại Thừa, Tiểu Thừa đều lấy TU THIỀN làm chủ yếu. Các phái ngoại đạo mỗi mỗi đều tự lập pháp Thiền của họ. Tên gọi dù đồng nhau, nhưng tính chất nội dung mỗi mỗi chẳng đồng, như MƯỜI HAI TỊNH PHÁP THIỀN của Phất Đang La, Phi Tưởng Phi phi Tưởng Thiền của Bà La Môn đều khác; nói về THIỀN của Phật Giáo như Lục Đồ Thiền của Đại Thừa, Tứ Đế và Thập nhị Nhân Duyên Thiền của Tiểu Thừa đều khác nhau, còn Bất Lập Văn Tự Thiền của Tối thượng thừa, gọi là “Giáo ngoại biệt truyền”, là do Phật Thích Ca đích thân truyền cho Ma Ha Ca Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Phái Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực hành, chẳng lập văn tự lý luận, nên gọi là Thiền Tông, khác hẳn với các phái Thiền kia.
THIỀN TÔNG ở Trung Quốc từ đời Đường đến đời Tống rất là thịnh vượng, truyền đến ngày nay vẫn còn phổ biến khắp nơi. Cho nên người ta nói đến hai chữ “Tham Thiền" đều chỉ pháp Thiền của Thiền Tông này. Kỳ thật ở trong Phật Giáo, từ Tiểu Thừa cho đến Đại Thừa, các tông các phái mỗi mỗi đều có pháp Thiền riêng biệt, lý lẽ và phương pháp, trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực mỗi phái mỗi khác. Xét theo lịch sử kể trên, chúng ta muốn lập ra một định nghĩa chính xác của chữ Thiền thật là rất khó, nhưng quyển sách này chỉ sáng tỏ về pháp Thiền của Tổ Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Do đó chúng ta chỉ có thể dựa theo Tông chỉ của Thiền Tông, giả thiết một định nghĩa cho chữ Thiền.
Theo pháp tu thông thường, đối với khái niệm của chữ Thiền là từ nhân đến quả, tức là từ nhân vị theo thứ lớp tu tập cho đến chứng quả thành Phật, đều là những phương pháp Tiệm tu, nhưng theo khái niệm của Thiền Tông thì chẳng phải vậy, vì đường lối thực hành của Thiền Tông là pháp trực tiếp, ngay đó hiển thị quả Phật. Chư Tổ nói: “Thấy phải thấy ngay, suy nghĩ là sai”. Kỳ thật quả đã được rồi thì nhân cũng đồng thời giải quyết xong, cho nên gọi là Thiền đốn ngộ. Định nghĩa của Thiền Đốn Ngộ là “Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật".
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
Tại sao phải chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự? Vì văn tự là một tên gọi giả danh, phải qua suy nghĩ rồi mới có thể biểu hiện ra, nên chỉ là một việc gián tiếp, còn bản thể của chơn tâm (cũng gọi là tự tánh) là một sự thực tế rốt ráo, cảnh giới ấy chẳng thể dùng kinh nghiệm suy nghĩ mà đến được, vậy cách gián tiếp của ngôn ngữ văn tự, tự nhiên chẳng có cách để diễn tả. Nên Phật Thích Ca nói: “Ta thuyết pháp 49 năm, chưa từng thuyết một chữ”, lại nói: “Kinh giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết ngón tay chẳng phải mặt trang”. Thế thì ngôn ngữ văn tự là ngón tay để chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay chẳng phải mặt trăng, chỉ là một việc gián tiếp, sự chỉ thị gián tiếp dù cũng là một phương pháp để đạt đến bản thể chơn tâm, nhưng chẳng bằng sự rốt ráo giản dị của chỉ thị trực tiếp, lại sự chỉ thị của ngón tay (ngôn ngữ văn tự) truyền đến đời sau, có người lại nhận lầm cho ngón tay tức là mặt trăng. Do đó pháp Thiền trực tiếp Đốn ngộ của Thiền Tông bèn tùy nhu cầu khắp mọi nơi. Dù nói chẳng lập văn tự, nhưng chẳng phải phế bỏ văn tự, giá trị của văn tự được chư Tổ Thiền Tông chú trọng, cũng như Tổ Đạt Ma dùng kinh Lăng Già đế ấn chứng hậu học.
Thế Tôn ở nơi pháp hội Linh Sơn, đưa lên cành hoa, tất cả đại chúng đều ngơ ngác, chỉ có Ngài Ca Diếp mỉm cười. Thế Tôn nói: “Ta có Chánh Pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, Thật tướng Vô tướng, Pháp môn vi diệu. Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp”. Từ đó pháp Thiền trực tiếp của Thiền Tông, căn cứ theo việc này lấy Tâm truyền Tâm.
Phương pháp trực tiếp biểu thị Phật tánh này, Phật Thích Ca đã dùng qua nhiều lần, cnũg như Thế Tôn đem hạt châu Ma Ni Tùy Sắc hỏi Ngũ Phương Thiên Vương rằng: “Hạt châu này màu gì?. Khi ấy ngũ Phương Thiên Vương tùy sự thấy của mình đều trả lời màu sắc khác nhau. Thế Tôn dấu hạt châu rồi lại đưa tay hỏi tiếp: “Hạt châu này màu gì?”. Các Thiên Vương nói: “Trong tay Phật chẳng có hạt châu thì đâu còn màu gì!”. Thế Tôn nói: “Các ngươi sao mê muội điên đảo quá? Ta đem hạt châu thế gian cho xem thì nói có xanh, vàng, đỏ, trắng, Ta thị hiện hạt châu chơn thật thì chẳng biết gì cả!”. Khi ấy Ngũ Phương Thiên Vương đều tự ngộ đạo.
Lại một hôm khác, ngoại đạo hỏi Thế Tôn: “Không hỏi một lời, không hỏi chẳng lời”. Thế Tôn im lặng giây lâu, ngoại đạo tán thán rằng: “Thế Tôn đại từ đại bi, khai phá đám mây mê muội cho con, khiến con được ngộ nhập”, xong đảnh lễ rồi ra đi. Ngài A Nan hỏi Phật: “Ngoại đạo được lý lẽ gì mà tán thán?”.
Thế Tôn nói: “Như con ngựa hay của thế gian, thấy bóng roi liền chạy nhanh”.
Việc dấu hạt châu rồi đưa tay và sự im lặng giây lâu đều là phương pháp trực tiếp chỉ thị bản thể của Chơn tâm chẳng phải chỉ có một việc “Niêm hoa thị chúng” mà thôi!
“Chẳng lập văn tự" chẳng phải tuyệt đối phế bỏ văn tự, nếu Phật Thích Ca phế bỏ văn tự thì Tam tạng kinh điển từ đâu mà ra? Nếu Tổ Đạt Ma tuyệt đối phế bỏ văn tự thì chẳng nên dùng kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học. Thiền Tông nói chẳng lập văn tự, bất quá dùng để sáng tỏ phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp vốn là khác nhau mà thôi.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
II.- PHÁP THIỀN RA ĐỜI LÀ DO NHU CẦU TỰ NHIÊN CỦA LOÀI NGƯỜI.
Loài người đời Thượng Cổ ngu mê ngoan cố, trí tuệ bị vô minh che khuất, linh tánh bị ngũ uẩn tam độc chi phối, sống trong cuộc sống dã man, nhưng Phật tánh vốn viên mãn, giống như quặng thất bửu ẩn giấu dưới đất, chỉ đợi người khai phá ra. Sau này trí thức mở mang, trước tiên đối với hiện tượng thế giới cảm thấy đủ thứ kỳ lạ và nghi hoặc, rồi sanh tâm tìm cầu bí mật của vũ trụ, hy vọng được giải thích cho rõ ràng, kế đó trở lại tìm hiểu tự tâm, muốn truy cứu nguồn gốc của sự biến hóa chẳng ngừng, sau cùng mới được nhờ sức Trí tuệ Bát Nhã, mong chứng nhập cùng tột rốt ráo của Bản thể tự tánh để vượt ra ngoài sanh tử luân hồi, ấy tức gọi là việc Minh tâm kiến tánh thành Phật vậy.
Ý nghĩa của hai chữ NHƯ LAI là bổn lai như thế, vì Phật tánh và pháp Thiền vốn sẵn đầy đủ, khắp không gian và thời gian, diệu dụng vô biên, nên Phật Thích Ca thường dùng hai chữ NHƯ LAI để đại diện cho bản thể Phật tánh và diệu dụng, nhưng chỉ có người đích thân chứng nhập mới được triệt để thấu rõ ý nghĩa của hai chữ NHƯ LAI và giá trị chơn chánh của pháp thiền.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
III.- SỰ KHÁC BIỆT CỦA THIỀN HỌC VỚI HÌNH NHI THƯỢNG HỌC.
Người ta thường hay nhận lầm Thiền học tức là Hình nhi thượng học của Triết học Tây phương, thật ra thì chẳng đúng. Bởi Hình nhi thưọng học là một môn học để giải thích bản thể của vạn hữu, mà pháp Thiền là phương pháp dùng để chứng nhập bản thể của vạn hữu. Hình nhi thượng học dù muốn giải thích bản thể của vạn hữu, nhưng vì bản thân của người nghiên cứu chưa chứng nhập bản thể cho nên chẳng có cách nào chơn chánh để nhận biết bản thể và giải đáp một cách đầy đủ triệt để. Thật bản thể này chẳng phải dùng kinh nghiệm suy tư có thể đạt đến, như kinh Viên Giác nói: “Dùng tâm suy tư để đo lường cảnh giới của Như Lai, như lấy lửa đom đóm để đốt núi Tu Di thì làm sao cháy được!”.
Học giả Tây phương đối với vấn đề chơn thật siêu việt kinh nghiệm xưa nay chẳng có cách nào để giải quyết, như các nhà triết học Emmanuel KANT (1724-1804) bèn cho trí thức năng lực của con người chỉ có thể nhận biết thế giới tương đối trong phạm vi cảm giác suy tư, đối với cái bản thể thế giới tuyệt đối siêu việt kinh nghiệm suy tư thì chẳng có cách nào để nhận biết được, lại có người cho rằng việc này chẳng cần nghiên cứu nữa, rồi chuyển hướng hết lòng để nghiên cứu khoa học, nhưng đại đa số học giả vẫn cho là trong thế hệ Triết học chẳng thể thiếu sự nghiên cứu Hình nhi thượng học, bất quá chẳng lấy bản thể tuyệt đối làm đối tượng nghiên cứu, chỉ lấy lý luận căn bản của sự vật để làm vấn đề nghiên cứu mà thôi. Cho nên trong Triết học Tây phương chỉ có bản thể luận tương đối, chẳng có bản thể luận tuyệt đối.
Từ xưa nay trải qua mấy ngàn năm, học giả Tây phương đều hướng vào kinh nghiệm suy tư để làm công phu, chẳng những không được chứng nhập bản thể siêu việt kinh nghiệm suy tư, lại nghiên cứu sâu chừng nào thì xa lìa bản thể nhiều chừng nấy, cái nguyên do là thiếu một phương pháp để chứng nhập bản thể.
Sự Tham Thiền chẳng phải trực giác, trực giác là do tác dụng của bộ não thần kinh, bộ não thần kinh chẳng thể biết được Phật tánh. Các học giả Tây phương chỉ tùy theo kinh nghiệm trong vật chất, chọn cái nào là căn bản nhất để làm cái nguồn gốc của vạn vật mà thôi.
Trong lúc nhà triết học Hy Lạp đang dùng kinh nghiệm suy tư để truy cứu nguồn gốc của vạn vật, thì Phật Thích Ca phát minh được phương pháp để trực tiếp chứng nhập bản thể, siêu việt kinh nghiệm suy tư đã mấy ngàn năm. Cho nên pháp Thiền của Phật Thích Ca thật là một phát minh lớn nhất của loài người, giá trị ấy thật chẳng thể đo lường.
Từ khi Phật Thích Ca phát minh pháp Thiền trực tiếp chứng nhập, người tu theo pháp này được kiến tánh thành Phật (chứng nhập bản thể) đã vô số kể, chỉ nói về Trung Quốc, người được kiến tánh, được ghi trong các Truyền Đăng Lục, đã hơn bảy ngàn người, còn những người đã kiến tánh mà chưa được ghi vào thì chẳng biết là bao.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪALỜI LUẬN TỔNG QUÁT__________________________________________________ ______________________________________
IV.- MUỐN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BẢN THỂ CHỈ CÓ CÁCH THAM THIỀN.
Bản thể tức là việc rất thực tế rốt ráo, nhà Phật gọi là Thật Tướng, cũng gọi là Chơn như Phật tánh, tên gọi rất nhiều, đều tùy dụng đặt tên, cái ý nghĩa của bản thể này với bản thể của nhà Triết học Tây phương khác nhau, muốn chứng nhập bản thể, ngoài Tham Thiền chẳng cách nào khác.
Nhà Triết học Tây phương đối với vấn đề bản thể chỉ có một thái độ nghiên cứu để nhận biết, nhà Phật đối với Chơn như Phật tánh thì tỏ ra một thái độ thọ dụng thực tế, vì người Tham Thiền một khi được chứng nhập bản thể tức là Kiến Tánh Thành Phật, ra khỏi sanh tử luân hồi, được sự thọ dụng lớn (tự do, tự tại vĩnh viễn), mục đích của người học Phật là vậy. Nên bất cứ Tông phái nào trong Phật Giáo đều lấy pháp Thiền làm căn bản, đồng thời căn cứ theo pháp Thiền đó có thể khiến người Kiến Tánh hay không mà phân biệt cao thấp. Như Tiểu Thừa dứt lục căn, phá ngã chấp mà lọt vào pháp chấp, Trung Thừa phá pháp chấp mà lọt vào không chấp, ấy đều chưa thể chứng nhập bản thể, chẳng được Kiến Tánh Thành Phật. Đại Thừa Bồ Tát phá không chấp (vô thỉ vô minh) rồi đạt đến cảnh giới tuyệt đối của Thật Tướng, phương pháp của Thiền Tông là chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt đến, mà chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập, gọi là Đốn ngộ thành Phật.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
CHƯƠNG I.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
1.- NGUỒN GỐC CỦA PHÁP THIỀN.
Loài người từ nguyên thỉ ngu dại ngoan cố, Phật tánh Bát Nhã bị vô thỉ vô minh che khuất nên thân tâm hoạt động đều bị ngũ uẩn, tam độc chi phối, sống trong cuộc sống dã man, nhưng Phật tánh vốn sẵn viên mãn chẳng có thiếu sót, như ngọc quí ẩn trong phiến đá chỉ đợi người khai thác ra mà thôi. Sau này trí thức mở mang mới cảm thấy hiện tượng vũ trụ kỳ lạ, lại tôn sùng cho là thần linh, kế đó phát tâm truy cứu cái bí mật của vũ trụ. Ban đầu thì muốn nhờ não bộ lý giải để xác định qui tắc, sau này trở về tìm nội tâm muốn truy cứu chỗ nguồn gốc biến hóa. Những người trí tuệ cao siêu thì muốn nhờ sức Bát Nhã để cầu chứng nhập chỗ cùng tột của bản thể, vượt ra ngoài sanh tử luân hồi, do đó pháp Thiền liền đáp ứng sự nhu cầu mà ra đời.
Cứu xét lịch sử tiến hóa của loài người, các dân tộc phương Đông và phương Tây, tổ tiên của họ đều có sự nhu cầu như thế, đồng thời mỗi mỗi đều có sự phát hiện quí báu, chỉ vì hoàn cảnh trí huệ khác biệt, đường lối thực hành chẳng đồng, nên được kết quả sai biệt cách xa như trời với đất. Các nhà tôn giáo Tây phương thì chú trọng linh cảm, nhà Triết học thì tôn sùng khái niệm và trực giác, các phái đạo gia của Trung Quốc thì tọa vong, nhà nho thì Duy Tinh Duy Nhất, thảy đều có mùi vị Thiền.
Thiền pháp của Bà La Môn Ấn Độ, sáng lập trước hơn các nước khác, nhưng tất cả đều chưa lìa được tác dụng KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI, nên chẳng có cách nào để chứng nhập chỗ cùng tột của bản thể, từ xưa nay vẫn phải chịu sự luân hồi trong tam giới. Chỉ có Phật Thích Ca mâu Ni phát minh được Thiền pháp Bát Nhã và dùng nó để phá tan hầm sâu vô minh, triệt để chứng ngộ vào Vô Dư Niết Bàn, nên gọi là Kiến Tánh Thành Phật. Phật Thích Ca đặt tên pháp này gọi là Pháp Bản Trụ, ý là tự nhiên bản trụ, chẳng do tạo tác mà có, và phủ nhận chẳng do tự mình phát minh.
Kinh Lăng Già nói: “Ví như người đang đi ngoài đồng, thấy có đường đi bằng phẳng liền theo đó vào thành, thọ dụng sự an lạc như ý. Xưa kia tất cả Phật đều đi đường này thì nay ta cũng đi theo mà thôi”. Do đó mà xét thì biết pháp Thiền ra đời là do nhu cầu tự nhiên của loài người, trước khi chưa có loài người, Phật tánh đã sẵn sàng và pháp Thiền cũng đã là bản trụ. Bao nhiêu Cổ Phật trước đời Phật Thích Ca đều nương theo đường này mà đạt đến chỗ chơn như rốt ráo, vô lượng chư Phật – sau đời Phật Thích Ca cũng sẽ nương theo đường này để đạt đến giác ngộ cuối cùng. Ngoài pháp này ra chẳng có pháp nào khác, nên đường lối này dù là sẵn có, nếu chẳng có Phật Thích Ca chỉ thị thì chúng sanh ắt phải quanh quẩn trong ngã rẽ mà quên việc trở nhà.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
2.- PHÁP THIỀN CỦA PHẬT THÍCH CA.
Trước đời Phật Thích Ca, các Tông phái Bà La Môn Ấn Độ đều có pháp Thiền tu hành của họ, pháp danh tiếng nhất như: Mười hai Tịnh Pháp Thiền, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiền, đều là Ngoại đạo dùng đó để tu được sanh cõi Trời. Khi Phật Thích Ca mới xuất gia, từng tham học các Thiện tri thức của Bà La Môn, đối với pháp Thiền của họ đều chưa hài lòng, cho nên vào Tuyết Sơn tự tu. Ban sơ vẫn dùng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiền đoạn niệm dứt dục trải qua sáu năm chẳng kết quả gì, biết Pháp Thiền của Bà La Môn là sai, nên tắm gội, ăn uống lại rồi đến ngồi gốc cây Bồ đề, dùng pháp Thiền Bát Nhã Tam muội phản quang quán chiếu soi, trải qua 49 ngày liền chứng quả Phật, than rằng: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều sẵn đủ Đức tướng trí huệ của Như Lai, nhưng chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. Thích Ca sau khi thành Phật, muốn dùng sở chứng của Ngài khai thị cho chúng sanh khiến ngộ, nhập Tri Kiến Phật, vì căn cơ chúng sanh muôn ngàn sai biệt, nên pháp của Như Lai thuyết cũng muôn ngàn sai khác, nói đại khác có thể chia làm bốn thừa: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa và Tối thượng thừa. Tiểu thừa tu Thiền Tứ Đế, gọi là Thanh Văn thừa, Trung thừa tu Thiền Thập Nhị Nhân Duyên gọi là Duyên Giác thừa, Đại thừa tu Thiền Lục Độ gọi là Bồ Tát thừa, Tối thượng thừa là trực tiếp chỉ thị Chơn như Phật tánh, chỉ có người chứng nói với người chứng mới biết được, gọi là Nhất Phật thừa, tức là pháp Thiền “Niêm hoa thị chúng”, cũng gọi là Giáo ngoại biệt truyền vậy.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu có chúng sanh căn cơ thấp kém thì thuyết hạnh Thanh Văn cho họ, nếu căn cơ lanh lợi, ham Độc Giác thì thuyết đạo Duyên Giác cho họ, nếu có người từ bi, ham lợi ích chúng sanh thì thuyết hạnh Bồ Tát cho họ, nếu có người tâm trí huệ thù thắng thì chỉ thị ngay pháp Vô thượng của Như Lai”.
Phật Thích Ca dù giả thiết đủ phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, nhưng tông chỉ duy nhất chẳng ngoài một việc Kiến Tánh Thành Phật mà thôi, nói vì một nhân duyên đại sự ra đời là vậy. Nên duy có pháp Thiền được khiến chúng sanh đạt đến Kiến Tánh Thành Phật, mới là sự phó chúc huệ mạng của chư Phật, chư Tổ.
Kinh Pháp Hoa nói: “Trong mười phương quốc độ, duy có pháp Nhất Thừa, chẳng hai cũng chẳng ba, ngoài Phật thuyết phương tiện, chỉ dùng giả danh văn tự, dẫn dắt cho chúng sanh, nên nói trí huệ Phật, chỉ một sự thật này, ngoài ra đều chẳng Chơn”.
Khi Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử đều lấy tu Thiền làm cơ bản, sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, do pháp Thiền cao thấp có bốn thừa, nhưng đồng thời được các tông chú trọng. Thiền Tông độc lập thành một Tông phái là bắt đầu từ Trung Quốc.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
3.- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ SƠ TỔ CA DIẾP.
Các pháp môn truyền dạy từ Phật Thích Ca đã có bốn thừa sai biệt, thì pháp Thiền của họ tu bèn có trực tiếp và gián tiếp khác nhau như: Thế gian Thiền, Xuất thế gian Thiền, Xuất thế gian Thượng thượng Thiền, cho đến Ngũ chủng Thiền, Lục chủng đại Thiền v.v... danh hiệu rất nhiều, có cách tu được kiến tánh, cũng có cách tu chỉ được sanh cõi Trời mà chẳng thể kiến tánh, nhưng đều chẳng xuất phát từ Thiền Tông Trung Quốc.
Dù nói Thiền Tông Trung Quốc, nhưng bắt đầu từ Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, truyền đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, truyền vào Trung Quốc làm Sơ Tổ, ấy là sự y cứ để kiến lập Thiền Tông. Sự tích của chư Tổ từ đời, từ đời truyền xuống đều có ghi rõ trong Truyền Đăng Lục, độc giả muốn biết rõ thì hãy tự xem lấy, ở đây chẳng thể kể xiết.
4.- PHÁP THIỀN TẠI TRUNG QUỐC, KHI TỔ ĐẠT MA CHƯA ĐẾN.
Trước khi Tổ Đạt Ma chưa đến, các Kinh Thiền đã truyền vào Trung Quốc rất nhiều. Hằng Đế đời Hậu Hán có Sa Môn An Thế Cao thông suốt Kinh Luận, lại giỏi về pháp Thiền, đến thành phố Lạc Dương, dịch Kinh hơn trăm bộ, trong đó có các Kinh nói về pháp Thiền gồm: Đại An Ban Thủ Ý Kinh hai quyển, Thiền Hạnh Pháp Tưởng Kinh một quyển, Đại Thập Nhị Môn Kinh một quyển, Tiểu Thập Nhị Môn Kinh một quyển, Thiền Hạnh Ba Mươi Bảy Phẩm Kinh một quyển, Thiền Định Phương Tiện thứ đệ Pháp Kinh một quyển, Thiền Pháp Kinh một quyển.
Cuối đời nhà Hán, có Cư sĩ Chí Khiêm người nước Nhục Chi đến Lạc Dương, dịch Tu Hành Phương Tiện Kinh hai quyển, Thiền Bí Yếu Kinh bốn quyển. Đời Tam Quốc có Khương Tăng Hội đến Dương Đô, dịch Tọa Thiền Kinh một quyển: đời Tây Tấn có Sa Môn Trúc Pháp Hộ dịch Hữu Pháp Quán Kinh một quyển, Tu Hành Đạo Địa Kinh bảy quyển; đời Đông Tấn có Trúc Đàm Vô Lan dịch Hữu Trị Thiền Pháp Kinh một quyển; lại có Phật Đà Bạt Đà đến Trường An chuyên hoằng pháp Thiền, sau ứng lời mời của Huệ Viễn Pháp Sư ở Lư Sơn, dịch Đạt Ma Đa La Thiền Kinh hai quyển, Ngài Cưu Ma La Thập có dịch Thiền Bí Yếu Pháp Kinh ba quyển, Tọa Thiền Tam Muội Kinh hai quyển, Thiền Pháp Yếu Giải hai quyển, Tư Duy Lược Yếu Pháp một quyển v.v... Ngoài ra còn nhiều lắm chẳng thể kể xiết.
Các Kinh kể trên phần nhiều thuộc pháp Thiền Tiểu thừa, Trung thừa, các sư như An Thế Cao và Giác Hiền chuyên hoằng về pháp Thiền Tiểu thừa, Cưu Ma La Thập là người Đại thừa mà dịch những Thiền Kinh chẳng giống Đại thừa, cho đến Đạt Ma Đa La Thiền Kinh và Tọa Thiền Tam Muội Kinh xưa kia được xem là Đại thừa Thiền, nhưng ở trong đó cũng xen vào Thiền Trung thừa và Tiểu thừa. Đủ thứ pháp Thiền kể trên gọi là Thiền Số Chi Học, khác hẳn với pháp Thiền “chẳng lập văn tự" của Thiền Tông.
Thiền Số Chi Học là Thiền tu tập theo thứ lớp, từ nhân đến quả, mà pháp Thiền của Tổ Đạt Ma là chỉ thẳng bản tâm, Đốn ngộ thành Phật, chẳng có giai cấp và thứ lớp. Người ta thấy đệ tử Ngài La Thập là Đạo Sanh có cái thuyết “Đốn ngộ thành Phật", bèn cho Thiền Tông xuất phát từ Cưu Ma La Thập, ấy là sai lầm.
Cùng thời với Tổ Đạt Ma có Bửu Chí Hòa Thượng, Bố Đại Sĩ, Hàn Sơn, Thập Đắc, Bố Đại Hòa Thượng, đều là người Minh Tâm Kiến Tánh, nhưng thừa kế thầy nào thì chẳng rõ, cơ duyên ngộ đạo cũng chẳng thể khảo sát.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
5.- THIỀN TÔNG TRUYỀN TỪ TỔ ĐẠT MA.
Trước khi Tổ Đạt Ma chưa đến, Thiền pháp Trung Quốc phần nhiều thuộc Trung, Tiểu _ Nhị thừa, kẻ nghiên cứu giáo tướng về lối tu ngày càng phức tạp và chi ly, học giả ít được chứng ngộ. Khi Tổ Đạt Ma đến, chuyên truyền pháp môn Tâm địa của Như Lai, pháp ấy giản dị trực tiếp, thấu thoát ra ngoài cương yếu của giáo môn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Từ đó pháp Thiền riêng mở một trạng thái mới lạ. Lúc ban sơ vì phương pháp cao siêu, ít người được khế hội, nên ngồi im lặng chín năm để đợi người đặng truyền thừa, về sau người tin ngày càng đông thêm, sự ảnh hưởng mà cho pháp Thiền và giáo lý đã truyền từ xưa kia bị lay động, nên đã sáu lần bị đầu độc, nhưng pháp môn trực chỉ của Thiền Tông đã thay thế cho địa vị của pháp Thiền cũ mà thịnh hành khắp Trung Quốc.
Xem qua lời vấn đáp của Tổ Đạt Ma đều là pháp trực tiếp chỉ thị Phật tánh, thẳng vào cội nguồn Bản thể. Trong Truyền Đăng Lục có ghi: “Nhập Đạo Tứ Hạnh” của Tổ dạy, cứu xét kỹ mới biết do người khác giả mạo, so với ý nghĩa lời nói của Ngài hoàn toàn khác hẳn, như trong bài nói “Bỏ vọng về chơn”, “Im lặng ngó hẳn vách tường”, “Dứt tưởng chẳng cầu, có cầu đều khổ, chẳng cầu mới vui”, “Chẳng có bỏn xẻn đối với thân mạng tiền tài, theo hạnh xã bỏ bố thí, tâm chẳng hối tiếc” v.v... Những lời này toàn là lời dạy của Trung, Tiểu nhị thừa, so với lời “Quách nhiên vô thánh”, “Vô hữu công đức” của Tổ Đạt Ma thì ý chỉ tuyệt nhiên xa cách, Trí thông với nghẽn đã phân biệt rõ ràng.
Thiền Tông sau khi ngộ đạo chẳng nhờ tu tập, nếu còn có tu thì chẳng phải triệt ngộ, Tổ Đạt Ma là bậc Thánh đã ngộ, đầu cần hướng vách tu Thiền! Lại từ xưa nay chư Tổ của Thiền Tông đều phản đối sự lắng tâm tĩnh tọa, Lục Tổ nói: “Kẻ mê lắng tâm tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, bọn này chẳng thể dạy bảo, vì tà kiến đã sẵn”. Lại nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chẳng phải Thiền, ngồi lâu trói chân, có ích lợi gì!”.
Pháp Thiền của Tổ Đạt Ma phế bỏ hư văn, chỉ ngay thực tế, khiến người đốn ngộ cội nguồn, thẳng chứng quả Phật, nên được quét sạch những tệ đoan phức tạp và chi ly, khiến Thiền học từ suy sụp trở thành thịnh vượng, thành một Tông phái lớn. Ngài truyền Kinh Lăng Già để ấn tâm, và chư Tổ đời sau dùng hét, dùng gậy, dùng phẫn nộ chửi mắng, cho đến dùng nhướng mày chớp mắt để tiếp dẫn hậu học, với Tông chỉ Lăng Già, niêm hoa thị chúng đều chẳng khác biệt.
Tổ Đạt Ma được tôn làm Sơ Tổ của Thiền Tông, truyền cho Nhị Tổ Huệ Khả, Tam Tổ Tăng Xán, Tứ Tổ Đạo Tín, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, đến Lục Tổ Huệ Năng, môn đồ của Lục Tổ ngộ đạo rất nhiều, Thiền phong đại thịnh Tứ Tổ có chi nhánh là Pháp Dung Thiền Sư ở núi Ngưu Đầu, cũng rất thịnh vượng, người đời xưng là Ngưu Đầu Thiền, Hành trạng và lời khai thị của chư Tổ đều có ghi trong Truyền Đăng Lục.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
6.- LỤC TỔ HUỆ NĂNG VỚI KINH PHÁP BẢO ĐÀN.
Tổ Đạt Ma truyền pháp Thiền trực chỉ của Phật Thích Ca, đến Lục Tổ Huệ Năng được phát huy cùng tột, từ đó Thiền Tông được đại thành tựu. Lục Tổ vốn là một Cư Sĩ không biết chữ, nhưng Trí huệ tuyệt đỉnh, phàm sở phát huy đều xuất phát từ biển Giác của Như Lai, trực tiếp rốt ráo, cắt đứt tất cả dây dưa, trừ bỏ tất cả sai lầm, rất là thân thiết, rất là thấu triệt.
Trước kia trong Phật Giáo đối với lý đốn tiệm của Pháp thân tự tánh, phần nhiều kẹt nơi văn tự. Lục Tổ trực tiếp chỉ ra, như thổi tan mây mù mà bỗng hiện trong sáng, chẳng còn một hạt bụi để ngăn cách, do đó Thiền Tông truyền bá rất rộng, người được lợi ích rất nhiều, cho đến kẻ "cu ly" hạ tiện, bà già "tay bưng vai gánh rêu rao mua bán ngoài đường" đều biết Tham Thiền, đều được ngộ đạo. Từ lúc ấy, người Minh Tâm Kiến Tánh chẳng thể kể xiết, thật là việc hưng thịnh từ xưa nay chưa từng có.
Bản sắc “chẳng lập văn tự” của Thiền Tông, từ Sơ Tổ cho đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, những lời dạy bảo truyền thừa rất ít, đến Lục Tổ Huệ Năng mới có Kinh Pháp Bảo Đàn ra đời, pháp Thiền của Tổ Đạt Ma tới đây mới được trọn vẹn hiển bày. Lý đạo phát huy trong Kinh Pháp Bảo Đàn hoàn toàn xuất phát từ tự tánh, mỗi lời mỗi chữ đều chẳng lìa tự tánh, bởi vì sau khi chứng ngộ thì trong Tâm "thất thông bát đạt", tùy tiện đem ra đều là tự tánh.
Pháp của Lục Tổ nói là: Trì tự tánh Giới, phát tự tánh Nguyện, nhờ tự tánh Lực, độ tự tánh chúng sanh, quy y tự tánh Phật. Lục Tổ nói: “Thiện tri thức, nơi niệm niệm tự thấy bản tánh trong sạch, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo”. Lại nói: “Pháp sở thuyết của ta chẳng lìa tự tánh, nếu lìa bản thể thuyết pháp gọi là tướng thuyết, làm cho tự tánh thường mê. Phải biết tất cả vạn pháp đều tự tánh khởi dụng, ấy là Giới, Định, Huệ chơn thật”.
Thiền Tông lấy Niết Bàn Diệu Tâm làm bản thể. Niết Bàn Diệu Tâm tức là Lục Tổ nói: “Bản nguyên Tự tánh”, vậy Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu khởi quán chiếu chơn chánh Bát Nhã, trong một sát na vọng niệm đều diệt, nếu biết tự tánh, hễ ngộ liền đến địa vị Phật. Thiện tri thức, trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng tỏ, nhận tự bản tâm, nếu nhận được bản tâm, tức vốn giải thoát; nếu được giải thoát tức là Bát Nhã Tam muội”.
Thế nào là Bát Nhã Tam muội? Người tham thiền cần phải biết rõ, nay đặc biệt giảng rõ như sau:
Bát Nhã có 3 thứ:
1/ Thật tướng Bát Nhã (thể);
2/ Quán chiếu Bát Nhã (trí);
3/ Phương tiện Bát Nhã (dụng).
Nói một cách khác: Thật tướng Bát Nhã tức là Phật tánh, quán chiếu Bát Nhã tức là kiến, văn, giác, tri, phương tiện Bát Nhã tức là lục căn. Lúc đang tu hành, dùng quán chiếu Bát Nhã làm chủ, sai khiến phương tiện Bát Nhã để đập tan vô thỉ vô minh thì chứng Thực tướng Bát Nhã. Sau khi chứng ngộ, Thật tướng tức là Bản thể Phật tánh, quán chiếu phương tiện là diệu dụng Phật tánh. Thật tướng là Định, quán chiếu phương tiện là Huệ; Thật tướng (Phật tánh) là Pháp thân, quán chiếu (kiến văn giác tri) là Báo thân, phương tiện (lục căn) là Ứng thân, ba tức một, một tức ba, gọi là Nhất thể tam thân, thể dụng như một, Định, Huệ bình đẳng, diệu dụng Hằng sa.
Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Tâm lượng rộng lớn, cùng khắp pháp giới, dụng tức liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả là một, một là tất cả, khứ lai tự do, tâm thể vô ngại, tức là Bát Nhã". Lại nói: “Tất cả Trí Bát Nhã đều từ tánh mà ra, chẳng từ ngoài vào, chớ nhận lầm tự tâm, gọi là Chơn tánh tự dụng”.
Về việc phá tan vô thỉ vô minh, Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “nên dùng Đại trí huệ (quán chiếu Bát Nhã) phá tan Ngũ uẩn phiền não trần lao (vô thỉ vô minh), tu hành như thế nhất định thành Phật". Lúc dụng công phu tham thiền, dùng Trí huệ Bát Nhã hướng ngay chỗ hầm sâu vô minh chiếu soi, chiếu đến khi "sơn cùng thủy tận", cơ duyên thuần thục, “Ồ” lên một tiếng thì hầm sâu vô minh bị phá tan, trong một sát na Phật tánh được hiện tiền, Kinh Duy Ma Cật nói: “ngay đó hoát nhiên, liền đắc bản tâm” là vậy. lúc ấy Tam thân, Tứ trí, Ngũ nhãn, Lục thông, viên mãn cụ túc, chẳng thiếu chẳng dư, gọi là Bát Nhã Tam Muội, cũng gọi là Minh Tâm Kiến Tánh.
Cội Nguồn Truyền Thừa (2)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
https://www.youtube.com/watch?v=jEFKysRwSck
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
7.- HÀ TRẠCH THẦN HỘI ĐỊNH TÔNG CHỈ NAM TÔNG.
Lục Tổ Huệ Năng và Thần Tú Đại Sư đều là đệ tử của Ngũ Tổ, Thần Tú chủ trương Tiệm tu, chưa minh tâm kiến tánh, nên bài kệ Thân như cây Bồ đề là phát huy nơi Nhân địa. Lục Tổ đã minh tâm kiến tánh nên bài kệ “Bồ đề vốn chẳng cây” là phát huy nơi Quả điạ, ngay đó đem Niết Bàn Diệu Tâm trọn vẹn trình ra được Ngũ Tổ ấn khả, truyền cho y pháp.
Lúc Lục Tổ đang hoằng tông chỉ Đạt Ma ở Tào Khê, Thần Tú Đại Sư thì đề xướng pháp Thiền tiệm tu ở Nam Kinh, gọi là Bắc Tông. Sau khi Lục Tổ viên tịch, pháp tiệm tu của Bắc Tông ngày càng hưng thịnh, môn đồ của Thần Tú có ba vị Quốc Sư, trong đó Phổ Tịch Thiền Sư danh giá cao nhất, từng làm Quốc Sư trải qua ba đời vua Tắc Thiên, Trung Tông và Duệ Tông. Phổ Tịch tôn Thần Tú làm Lục Tổ, tự xưng là Thất Tổ, tông chỉ của Tào Khê ngày càng chìm lặng, do đó đệ tử Lục Tổ là Thần Hội Thiền Sư, phấn chấn đứng ra chỉ trích môn tiệm tu của Bắc Tông chẳng phải chánh thống của Tổ Đạt Ma, chỉ có Tông chỉ Tào Khê mới là đích truyền. Ngày 15 tháng Giêng năm thứ 20 niên hiệu Khai Nguyên, Ngài ở Hoạt Đài (hiện là Hoạt Huyện tỉnh Hà Nam) Đại Vân Tự thiết lập Vô giá đại hội, xác định pháp thống Thiền Tông do Tổ Đạt Ma truyền. Năm thứ 8 niên hiệu Thiên Hữu, một lần nữa xác định Tông chỉ Nam Tông tại Lạc Dương, từ đó chánh thống Thiền Tông là Lục Tổ Tào Khê mới được xác định.
Ngài Thần Hội xác định Tông chỉ, là công thần của Thiền Tông mà lịch sử ít ghi chuyện này, nơi thạch động Đôn Hoàng có ghi bài “Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Thị Phi Luận do Độc Cô phái soạn” hiện nay lưu tại viện bảo tàng Ba Lê, trong bài này là ghi việc định Tông chỉ của Ngài Thần Hội ở Đại Vân Tự Hoạt Đài.
Thần Hội còn có bài Hiển Tông Ký để hiển bày Tông chỉ của Tào Khê, ngoài ra tác phẩm Chứng Đạo Ca cũng làm cùng lúc xác định Tông chỉ. Nay Chứng Đạo Ca đổi tên là Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca, nhưng tôi đã từng thấy một bản đời nhà Tống ghi rõ tác giả là Thần Hội, nay trích ra mấy đoạn trong Chứng Đạo Ca để chứng tỏ:
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
Dựng pháp tràng, lập tông chỉ,
Rõ ràng Tào Khê là kế thừa,
Bắt đầu truyền đăng từ Ca Diếp,
Hai mươi tám đời truyền từ Ấn.
Pháp lưu Đông, vào đất này,
Bồ Đề Đạt Ma làm Sơ Tổ,
Sáu đời truyền y thiên hạ hay,
Đời sau đắc đạo vô số kể.
Khi xác định Tông chỉ giành chánh thống ở Hoạt Đài, bằng chứng hiệu lực nhất là việc truyền y pháp, trong Hiển Tông Ký có nói: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, hai mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ cùng nhau truyền tâm vô trụ, đồng thuyết tri kiến của Như Lai, cho tới Tổ Đạt Ma đến Trung Quốc làm Sơ Tổ, truyền Y để làm tin cho Pháp, Pháp là chỗ nương của Y, Thiền Tông lấy Y, Pháp tương truyền, ngoài ra chẳng có pháp khác. Trong truyền Tâm ấn để ấn chứng Bản tâm, ngoài truyền Cà Sa để đại biểu Tông chỉ”.
Trong Nam Tông xác định Thị Phi Luận có nói: “Nay Thần Hội thiết lập vô giá đại hội và trang nghiêm đạo tràng, chẳng vì công đức, chỉ muốn xác định Tông chỉ cho người học đạo khắp thiên hạ, vì tất cả người học đạo phân rõ thị phi”.
- Than mạt pháp, thời ác thế,
Chúng sanh phưóc kém khó dạy dỗ,
Cách xa bậc Thánh tà kiến sâu,
Ma mạnh pháp yếu nhiều oán ghét.
Vừa nghe đốn giáo của Như Lai,
Liền muốn diệt cho tan rã hết.
- Pháp viên đốn, chẳng nhơn tình,
Nghi chẳng giải quyết cần phải giành,
Chẳng phải Sơn Tăng chấp nhơn ngã,
Tu hành sợ đọa hầm đoạn thường.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
Theo việc tranh luận của Ngài Thần Hội là muốn phá cửa Tiệm tu của Thanh tịnh Thiền mà kiến lập cửa Đốn ngộ của tổ Sư Thiền vậy.
- Mặc người phỉ, mặc người báng,
Lấy lửa đốt trời tự lao nhọc,
Ta nghe đồng như uống cam lồ.
Tiêu tan bỗng vào bất tư nghì.
Quán ác ngôn, là công đức,
Phỉ báng ta là Thiện tri thức,
Chẳng vì phỉ báng nói yêu ghét,
Sao tỏ vô sanh từ nhẫn lực.
Khi Ngài Thần Hội định Tông chỉ, bị người Bắc Tông vu khống mà bị vua đày, nên mới có lời nói trên. Trong Nam Tông Định Thị Phi Luận nói: “Nay ta hoằng dương Đại thừa, kiến lập Chánh pháp, khiến tất cả chúng sanh đều hay biết, đâu tiếc thân mạng!”.
- Mặt trời lạnh, mặt trăng nóng,
Bọn ma chẳng thể hoại chánh thống.
Xe voi trên đường đang tiến tới,
Bọ ngựa đâu thể chận lại được!
Voi lớn chẳng dạo đường con thỏ,
Đại ngộ chẳng kẹt nơi việc nhỏ,
Chớ nhìn ống hẹp bóng hư không,
Nay ta vì ông giải quyết xong.
Ngoài ra như:
“Gọi người gỗ máy lên để hỏi,
Dụng công cầu Phật lúc nào thành”.
Và:
“Yêu quái trăm năm uổng mở miệng”,
v.v... đều là lời chỉ trích môn tiệm tu Thanh tịnh Thiền. Xét kỹ toàn bộ Chứng Đạo Ca đều là Ngài Thần Hội vì xác định Tông chỉ mà nói ra, so với ý chỉ trong Vĩnh Gia Tập hiển nhiên chẳng đồng. Ngài Vĩnh Gia trước học Thiên Thai, lời nói trong tập còn nhiều giọng nói giống Tông Thiên Thai, nên biết Chứng Đạo Ca là tác phẩm của Ngài Thần Hội, có thể vì người đời sau muốn tránh sự ác cảm của Bắc Tông, nên gán tên cho Ngài Vĩnh Gia mà thôi. Thiền Tông ở ngày nay gai góc khắp đường, lý Đốn, Tiệm hỗn độn chẳng thể phân biệt, có ai kế tiếp theo Ngài Thần Hội, phấn chấn khởi lên tái định Tông chỉ của Tào Khê chăng?
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
8.- GIA PHONG CỦA NĂM PHÁI THIỀN.
Dưới cửa Lục Tổ có bốn mươi ba người đắc pháp, mỗi mỗi hóa độ một phương đều là chánh thống, trong đó Nam Nhạc Hoài Nhượng, Thanh Nguyên Hành Tư và Hà Trạch Thần Hội nổi bật nhất. Phái Nam Nhạc sau này sanh ra Lâm Tế và Qui Ngưỡng hai Tông, phái Thanh Nguyên sau này sanh ra Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động ba Tông. mỗi Tông đều có phương pháp riêng để tiếp dẫn hậu học, gọi chung là Ngũ gia gia phong. Phái Hà Trạch truyền đến Khuê Phong Tông Mật, vốn là người Tông Hoa Nghiêm, thuộc về Giáo môn, chưa thể gánh vác Tông chỉ Tào Khê mà mong điều hòa Thiền Tông với các Tông giáo môn, lọt vào ngôn thuyết kiến giải, làm cho phái Hà Trạch Thần Hội tuyệt truyền, chỉ còn phái Nam Nhạc Thanh Nguyên được người đời sau công nhận là phái đích truyền của Tào Khê.
Nam Nhạc có Mã Tổ cũng như Thanh Nguyên có Thạch Đầu, Mã Tổ được sự thọ ký “Dưới chân chà đạp khắp người thiên hạ”, còn Thạch Đầu thì có tiếng tăm “Thạch Đầu đường trơn”. Mã Tổ chủ hóa Giang Tây, Thạch Đầu chủ hóa Hồ Nam, người tham học từ bốn phương đều tìm đến cửa hai phái, rất là thịnh vượng. Dưới cửa Mã Tổ có đệ tử một trăm ba mươi chín người ngộ đạo, trong đó Bá Trượng Hoài Hải nổi bật nhất, Ngài Bá Trượng là người bắt đầu sáng lập Thiền Viện, soạn Thanh qui của Tòng lâm, đệ tử bậc thượng thủ là Huỳnh Bá Hy Vận, Qui Sơn Linh Hựu. Dưới Huỳnh Bá có Lâm Tế Nghĩa Huyền, là Tổ của Lâm Tế Tông.
Qui Sơn của Qui Ngưỡng Tông, dưới Qui Sơn có Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, do thầy trò Qui Sơn Ngưỡng Sơn xướng họa với nhau cùng phát dương mà thành gia phong của bản Tông.
Dưới Thạch Đầu người đắc đạo cũng nhiều, trong đó Thiên Hoàng Đạo Ngộ, Dược Sơn Duy Nghiễm hai nhánh là chủ lưu, dưới Đạo Ngộ truyền qua Long Đàm Sùng Tín, Đức Sơn Tuyên Giám, đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn, Thiền phong chấn hưng, Tứ chúng nhiễu quanh thường hơn một ngàn năm trăm người, đệ tử nối pháp có Vân Môn Văn Yểm, Huyền Sa Sư Bị tất cả năm mươi sáu người, Văn Yểm là Tổ của Vân Môn Tông.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
Dưới Huyền Sa truyền qua La Hán Quế Sâm, đến Pháp Nhãn Văn Ích là Tổ của Pháp Nhãn Tông.
Dưới Dược Sơn Duy Nghiễm truyền qua Vân Nham Đàm Thạnh, đến Động Sơn Lương Giới với đệ tử Tào Sơn Bổn Tịch cùng nhau sáng lập Tào Động Tông. Ấy là cội nguồn thành lập của năm phái Thiền.
Nói gia phong là tác phong riêng biệt của mỗi Tổ dùng để phát dương Tông chỉ biệt truyền của Thiền Tông. Chư Tổ minh tâm kiến tánh dù đồng nhau, nhưng cá tánh mỗi mỗi chẳng đồng, nên phương pháp tiếp dẫn hậu học mới có sự khoan hồng, oai mãnh, ôn hòa, gấp bách mỗi mỗi khác nhau. Nói tóm lại, gia phong của các phái trong Thiền Tông đều lấy “Niêm hoa thị chúng” của Phật Thích Ca làm mô phạm.
Phương pháp phổ biến nhất của chư tổ Trung Quốc là dùng gậy, dùng hét để tiếp dẫn hậu học. “Gậy” bắt đầu từ Lục Tổ đánh Thần Hội, “hét” bắt đầu từ Mã Tổ tiếp Bá Trượng, tác dụng với niêm hoa chẳng khác. Cho đến Ca Diếp giơ tay, A Nan hiệp chưởng, Nhị Tổ Huệ Khả lễ bái xong về đứng chỗ cũ, Mã Tổ dựng phất trần, quăng phất trần, Bí Ma giơ chỉa, Hoa Sơn đánh trống, Thạch Củng giương cung, Tuyết phong đá cầu, Quốc Sư để chén nước, Qui Tông kéo đá, La Hán vẽ chữ, Đại Tùy hầm khoai, Đức Sơn vào cửa liền đập, Lâm Tế vào cửa liền hét, “Là cái gì?” của Bá Trượng, “Chớ vọng tưởng” của Vô Nghiệp, Triệu Châu uống trà, Vân Môn ăn bánh, tất cả đều chẳng khác với sự "niêm hoa thị chúng" của Phật Thích Ca. Ấy đều là chư Tổ tùy cơ phát huy dùng để tiếp dẫn hậu học, vốn chẳng qui tắc nhất định. Như Lâm Tế Nghĩa Huyền thiết lập các quan ải Tam Huyền Tam Yếu và Tứ Liệu Giản để khám xét đồ chúng, tiếp dẫn hậu học, con cháu truyền thừa nhau tỏ ra thành gia phong.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
GIA PHONG LÂM TẾ TÔNG:
Truyện Lâm Tế trong Truyền Đăng Lục rằng: Tăng hỏi thế nào là câu thứ nhất?
Sư nói: “Ấn khai tam yếu điểm son hẹp, chưa cho suy nghĩ chủ khách phân”.
Hỏi thế nào là câu thứ nhì?
Sư nói: “Diệu giải chẳng cho vấn vô trước (chấp trước), phương tiện đâu phụ (cô phụ) triệt lưu cơ”. Hỏi thế nào là câu thứ ba?
Sư nói: “Hãy xem trên đài hát múa rối, kéo dây đều do người bên trong”.
Lại nói: “Một cú ngữ phải đủ tam huyền môn, một huyền môn phải đủ tam yếu, có quyền có thực, các ngươi làm sao lãnh hội!”.
Thủ Sơn Tĩnh Niệm Thiền Sư (đời thứ năm phái Lâm Tế) trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục rằng: “Ngộ được câu thứ nhất làm thầy của Tổ và Phật, ngộ được câu thứ nhì làm thầy của người và trời, ngộ được câu thứ ba tự cứu chẳng xong!”.
Còn Từ Minh Sở Viên Thiền Sư (đời thứ bảy phái Lâm Tế) vì Tăng hỏi Tam huyền tam yếu mà thuyết tụng rằng:
Đệ nhất huyền:
Tam thế chư Phật tính nói chi?
Dạy bảo trong mộng sanh khinh rẻ,
Ngồi không lại thành đọa đoạn kiến.
Đệ nhị huyền:
Lanh lợi nạp Tăng mắt chưa sáng,
Lửa đá điện chớp là chậm trễ,
Nhướng mày nháy mắt càng cách xa.
Đệ tam huyền:
Vạn tượng sum la vũ trụ rộng.
Mây tan hang trống núi non lặng,
Nước chảy đất bằng đầy sông ngòi.
Đệ nhất yếu:
Thánh phàm nói chi diệu,
Suy nghĩ đường càng xa,
Mở mắt điên đảo nhiều.
Đệ nhị yếu:
Đánh kiểng gọi đỉnh núi,
Thần thông đến tự tại.
Đa văn kêu ngoài cửa.
Đệ tam yếu:
Ngồi nằm khiến người chê.
Bàn tay nắm thiên địa.
Chiếu soi đủ ngàn sai.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
Về Tứ Liệu Giản, trong Lâm Tế Lục ghi rằng: “Như kiến giải Thiền Tông, tử hoạt dĩ nhiên, người tham học cần nên chú ý, cũng như chủ khách gặp nhau thì có ngôn luận qua lại, hoặc tùy vật hiện hình, hoặc toàn thể tác dụng, hoặc nắm cơ tùy phương tiện mà vui giận, hoặc hiện bán thân, hoặc cỡi sư tử, hoặc cỡi tượng vương. Như tiếng hét của người học chơn chánh là đưa ra cái thau bằng keo, Thiện tri thức chẳng biết là cảnh, bèn dính mắc cảnh họ mà làm dáng làm điệu, liền bị người học hét thêm thêm tiếng nữa, Thiện tri thức chẳng chịu buông xuống, ấy là bệnh tuyệt vọng, chẳng thể trị, gọi là “khách nhìn chủ”.
Hoặc là Thiện tri thức chẳng đưa ra vật gì, tùy chỗ hỏi của người học liền đoạt, người học bị đoạt thà chết chẳng chịu buông, ấy gọi là “chủ nhìn khách”.
Hoặc có người học tỏ một cái trong sạch ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức biết là cảnh, liền quăng vào hầm sâu, người học nói: “Tốt lắm Thiện tri thức”. Thiện tri thức liền nói: “Ngốc thay chẳng biết tốt xấu”. Người học liền lễ bái, đây gọi là “Chủ nhìn chủ”.
Hoặc có người học còng tay còng cổ ra trước mắt Thiện tri thức, Thiện tri thức lại cho còng thêm một lớp, người học hoan hỷ, hai bên đều chẳng biết, ấy gọi là “Khách nhìn khách”.
Các Đại đức! Sơn Tăng kể chuyện như thế đều là phân biệt ma quái để biết rõ chánh tà vậy.
Lại nói:
“Có khi đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh,
Có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn,
Có khi nhơn cảnh đều đoạt,
Có khi nhơn cảnh đều chẳng đoạt”.
Tăng hỏi thế nào là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh?
Sư đáp: “Mặt trời phát sinh lụa trải khắp, hài nhiều tóc dài trắng như tơ”.
Hỏi thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn?
Sư đáp: “Lệnh vua đã ban khắp thiên hạ, tướng quân biên thùy chẳng thấy nghe”.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
Hỏi: thế nào là cả nhơn cảnh đều đoạt?
Sư đáp: “Biên giới cách tuyệt tin tức, tự cô độc ở một nơi”.
Hỏi: thế nào là nhơn cảnh đều chẳng đoạt?
Sư đáp: “Vua lên ngôi bửu điện, lão ẩn dật ca ngợi”.
Lại nói:
“Người học từ bốn phương đến, Sơn Tăng ở đây phân làm ba thứ căn cơ: Như người trung hạ căn đến thì ta đoạt cảnh mà họ mà chẳng trừ pháp họ; như người trung thượng căn đến thì ta cảnh pháp đều đoạt; như người thượng thượng căn đến thì ta, cảnh, pháp, nhơn đều chẳng đoạt; như có kẻ kiến giải xuất cách (siêu việt ba thứ căn cơ) đến thì Sơn Tăng ở đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng tùy căn cơ”.
Ngài Lâm Tế ứng cơ thường hay dùng hét, người ta gọi là “Vào cửa liền hét”. Bởi trong một tiếng hét sẵn đủ tam huyền tam yếu và tác dụng chủ khách. Sư từng nói: “Có khi một tiếng hét như bửu kiếm Kim Cang Vương, có khi một tiếng hét như Kim Ma sư tử cự địa (thế sắp chụp người), có khi một tiếng hét như cây trúc dọ thám hình bóng trong đám cỏ, có khi một tiếng hét chẳng cho là tác dụng một tiếng hét, các người làm sao lãnh hội!”.
Lúc bấy giờ, môn đồ tham học trong hội cũng bắt chước Sư hét, Sư nói: “Các người cứ bắt chước Ta hét, nay Ta hỏi các ngươi: Có một người từ bên Đông ra, một người từ bên Tây ra, hai người cùng hét một lượt, ở đây phân được chủ khách chăng? Mà các ngươi làm sao phân? Nếu phân chẳng được, về sau chẳng nên bắt chước lão Tăng hét?”.
Đối với gia phong Lâm Tế, Thủ Sơn Tĩnh Niệm Thiền Sư từng nói: “Các Thượng Tọa! Chẳng nên hét mù hét bậy, ở đây bình thường nói với các ông, khách thì rốt cuộc là khách, chủ thì rốt cuộc là chủ; khách chẳng hai khách, chủ chẳng hai chủ. Nếu có hai khách, hai chủ tức là hai thằng mù, cho nên nếu ta đứng thì ngươi phải ngồi, nếu Ta ngồi thì ngươi phải đứng. Ngồi thì cùng ngươi ngồi , đứng thì cùng ngươi đứng, mặc dù như thế, đến đây con mắt phải nhìn nhanh cho rõ mới được, nếu con mắt do dự thì cách xa muôn ngàn dặm. Tại sao như thế? Giống như cách cửa sổ xem cỡi ngựa, suy nghĩ tức chẳng dính dáng. Các Thượng Tọa đã lưu tâm việc này, cần phải chú ý, tốt nhất đừng bám vào chỗ giả dối, hôm nọ ngày sau ngươi sẽ bị gạt”.
Đây là gia phong đại khái của Lâm Tế Tông.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
GIA PHONG QUI NGƯỠNG TÔNG
Qui Ngưỡng Tông cho chín mươi sáu tướng tròn, gia phong tương đối ôn hòa, chẳng giống sự mãnh liệt của Lâm Tế Tông. Trong Nhơn Thiên Nhãn Mục nói về gia phong Qui Ngưỡng Tông là “Cha từ con hiếu, lệnh trên thì dưới tùng, ngươi muốn ăn cơm ta liền bưng canh; ngươi muốn qua sông ta liền chèo thuyền, cách núi thấy khói liền biết là lửa; cách tường thấy sừng liền biết là trâu”.
Còn Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Luận rằng: “Qui Ngưỡng thì vuông tròn mặc khế, như tiếng dội trong hang, như phù hợp luật lệ thông qua quan ải”.
Truyền Đăng Lục Qui Sơn truyện rằng:
Phổ thỉnh hái trà, Sư (Qui Sơn) nói với Ngưỡng Sơn rằng: “Suốt ngày hái trà, chỉ nghe tiếng ngươi, chẳng thấy hình ngươi, xin hiện bổn hình ra xem!”.
Ngưỡng Sơn lắc cây trà, Sư nói: “Ngươi chỉ được cái dụng, chẳng được cái thể”.
Ngưỡng Sơn nói: “Chưa rõ Hòa Thượng thế nào?”.
Sư im lặng giây lâu, Ngưỡng Sơn nói: “Hòa Thượng chỉ được cái thể, chẳng được cái dụng”.
Sư nói: “Cho ngươi hai mươi gậy”.
Ngưỡng Sơn nói:”Gậy Hòa Thượng con ăn, gậy con bảo ai ăn?”.
Sư nói: “Cho ngươi ba mươi gậy”.
Ngữ Lục của Chơn Tịnh Thiền Sư khi trụ trì Đông Sơn có ghi: “Thượng đường kể: Thuở xưa Diêm Quan thường dạy Tăng về pháp môn kiến tánh nghe nói Qui Sơn cũng vậy, liền sai hai vị Tăng đi dọ thám, đến nơi tọa hạ, nghe trăm điều đề xướng đều chăng hiểu, lại sanh tâm khinh mạn. Một hôm gặp Tiểu Thích Ca (Ngưỡng Sơn) nói: “Ngươi chớ tâm thô”. Tiểu Thích Ca bèn làm một tướng tròn, hai tay đưa ra, hai Tăng cũng chẳng hiểu, Tiểu Thích Ca nói: “Ngươi chớ tâm thô” liền bỏ đi.
Sư Chơn Tịnh nói: “Tiểu Thích Ca tam muội, hai vị Tăng chẳng biết, dưới cửa Động Sơn có kẻ nào biết ta chăng? Là tam muội gì?”. Giây lâu Ngài nói tiếp: “Làm mì cần xứ trồng lúa mạch, ca nhạc nên tôn người Đế Hương” (Nhạc thần của Đế Thích).
Cội Nguồn Truyền Thừa (3)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
https://www.youtube.com/watch?v=Ll649kdiI-s
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
GIA PHONG VÂN MÔN TÔNG
Vân Môn Tông người sáng lập là Tổ Văn Yểm, ban sơ tham vấn Ngài Mục Châu phát minh Tâm địa sau tham Ngài Tuyết Phong. Gia Phong của Tuyết Phong thấu được áo chỉ, bèn nối pháp Tuyết Phong thì ôn hòa, huyền ảo Văn Yểm kế thừa sở trường của hai nhà, phát huy chỉ vi diệu đặc biệt, trụ núi Vân Môn Thiều Châu, đồ chúng thường hơn ngàn người, kẻ nối pháp sáu mươi mốt người.
Gia Phong của Vân Môn thẳng tắt, thường dùng ba chữ Cố (nhìn), Giám (xem), Ỷ (chê) để khám xét người học; còn có Vân Môn Bát Yểu: một Huyền, hai Tùng, ba Chơn Yếu, bốn Đoạt, năm Hoặc, sáu Quá, bảy Tán, tám Xuất, Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Luận xưng Ngài Vân Môn là “Hàm cái triệt lưu”, nói gia phong nhà họ giống như nước sông đang chảy gấp mà đột nhiên dừng lại.
Văn Yểm có tự làm bài kệ rằng:
Vân Môn chót vót trên đám mây,
Cá chẳng dám trụ nước chảy bay,
Vào cửa đã biết ôm kiến giải
Đâu phiền kể lại sình bánh xe.
Đệ tử Ngài Vân Môn là Viên Minh Thiền Sư có bài tụng ba câu của Vân Môn rằng:
1/ Hàm cái càn khôn:
Càn khôn và vạn tượng,
Địa ngục với thiên đường,
Vật vật đều trực hiện,
Mỗi mỗi chẳng đúng sai.
2/ Triệt đoạn chúng lưu:
Đầy núi đầy biển lại,
Mỗi mỗi đều trần ai,
Lại muốn lập huyền diệu,
Ngói bể băng tiêu ngay.
3/ Tùy ba trục lãng:
Cách hỏi đủ biện tài,
Cao thấp đáp chẳng sai,
Cũng như thuốc đúng bệnh.
Chẩn hỏi lúc lâm thời.
Riêng hỏi ngoài ba câu:
Đương nhơn nếu đề xướng,
Ba câu đâu thể gồm,
Có hỏi việc thế nào,
Nam Nhạc và Thiên Thai.
Ngài Trí Môn làm bài tụng “Rút chữ Cố” rằng:
Vân Môn rút cố cười hi hi,
Suy nghĩ bị nó cố giám ỷ,
Dầu cho Trương Lương nhiều kế sách,
Cuối cùng ở đây cũng khó thi (hành).
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
GIA PHONG PHÁP NHÃN TÔNG:
Người sáng lập là Thanh Lương Văn Ích Thiền Sư, Trụ trì Kim Lăng Thanh Lương Tự, học giả bốn phương tấp nập tìm đến tham học, hình thành một Tông phái trong Thiền Tông.
Gia phong của Pháp Nhãn Tông có Lục tướng và Tứ Liệu Giản dùng để tiếp dẫn hậu học. Tứ Liệu Giản tức là Văn văn (phóng), Văn bất văn (thu), Bất văn văn (minh), Bất văn bất văn (ám).
GIA PHONG TÀO ĐỘNG TÔNG:
Tào Động Tông đúng ra phải xưng là Động Tào Tông, do Động Sơn Lương Giới Thiền Sư với đệ tử là Tào Sơn Bổn Tịch Thiền Sư sáng lập. Ngai Lương Giới thọ tâm yếu nơi Vân Nham Thiền Sư, sau trụ trì Động Sơn Phổ Lợi Viện ở Dự Chương, đề xướng Ngũ Vị để tiếp dẫn học giả. Ngũ vị là: Chánh trung thiên, Thiên trung chánh, Chánh trung lai, Thiên trung chí, Kiêm trung đáo. Còn có bài Bửu Cảnh Tam Muội ca.
Động Sơn gia phong miên mật, trong số đệ tử thượng thủ, Ngài Tào Sơn Bổn Tịch đắc tâm truyền, Trụ trì Tào Sơn Sùng Thọ Viện ở Võ Châu, xướng dương yếu khuyết Ngũ Vị, người học đến tấp nập, người đời xưng là Tào Động Tông.
Pháp Nhãn Thiền Sư Thập Qui Tụng rằng: “Tào Động là xướng họa làm dụng”, bởi gia phong một vấn một đáp, qua lại miên mật, so với cơ phong thẳng tắp của Lâm Tế ý thú khác xa. Nên người xưa có lời nói “Lâm Tế tướng quân, Tào Động nông dân”. Vì gia phong Lâm Tế như tướng chỉ huy binh lính trăm vạn, mà gia phong Tào Động thì như kẻ nông phu canh tác ruộng đất rất chu đáo vậy.
Có Tăng hỏi Phần Dương Thiệu Chiêu Thiền Sư thế nào là Chánh trung lai?
Đáp: “Bông sen nở đầy trên đất khô”.
Hỏi: “Sau khi sen nở thế nào?”.
Đáp: “Nhụy bông Kim Liên hứng sương ngọc, cao Tăng chẳng tọa đài Phượng Hoàng”.
Hỏi: “Thế nào là Chánh trung thiên?”.
Đáp: “Mặt trăng chiếu sáng đầu đêm rồi, gà gáy phải báo trước canh năm”.
Hỏi: "Thế nào là Thiên trung chánh?
Đáp: “Mầm nhỏ thành cây to, giọt nước làm sông ngòi”.
Hỏi: "Thế nào là Thiên trung chí?
Đáp: “Ý khí chẳng đắc từ thiên địa, anh hùng đâu nương thời thế thành”.
Hỏi: "Thế nào là Kiêm trung đáo?
Đáp: “Ngọc nữ dệt vải thuyền ọt ẹt, người đá đánh trống tiếng đùng đùng”.
Sư vì Tăng xin hỏi Ngũ vị, bèn tụng ra từng vị rằng:
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
Chánh trung lai:
Bửu kiếm Kim Cang vạch trời ra,
Một tia thần quang khắp thế giới.
Phẩm tánh sáng tỏ tuyệt trần ai.
Chánh trung thiên:
Cơ phong sấm sét nháy mắt nhìn,
Lửa đá điện chớp chậm trễ thay!
Suy nghĩ đo lường xa ngàn dặm.
Thiên trung chánh:
Hãy xem Luân Vương ban chánh lệnh,
Bảy ngàn Thái Tử đều theo hầu,
Giữa đường một mình tìm gương vàng.
Thiên trung chí:
Sư tử tuổi oai thế sẵn,
Thiên tà bá quái ló đầu ra,
Rống lên một tiếng đều hàng phục.
Kiêm trung đáo:
Hiển bày vô công chớ tạo tác,
Trâu gỗ bước đi trong lửa hồng,
Thật là Pháp Vương diệu trung diệu.
Còn Ngũ Vị của Từ Minh Sở Viên Thiền Sư rằng:
Chánh trung thiên:
Gà đen nửa đêm gáy trong phòng,
Đáy biến đốt đèn thế giới sáng.
Tảng đá trồng bông mọc cây linh.
Thiên trung chánh:
Mặt trời lặn xuống hiện bóng lạ,
Ảnh tượng rõ ràng hiển Tông thừa,
Lông mày chớ nhìn trăng trong giếng.
Chánh trung lai:
Ngựa gỗ sanh con khắp thiên hạ,
Mặc tình dẫn dắt đi đường chim,
Há chẳng người nương ổ chim ở.
Chánh trung lai:
Mỗi mỗi trượng phu có ý khí,
Mâu thuẫn chống nhau chẳng vết thương,
Tung hoành khai triển chẳng lìa nhau.
Kiêm trung đáo:
Trắng đen chưa rõ chớ tạo tác,
Phải biết trụ cột chưa sanh con.
Chớ nhận lời cuồng ngưng nửa đường.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG I__________________________________________________ ______________________________________
Trên đây là gia phong đại khái của Tào Động Tông.
Người xưa có bình luận Ngũ gia gia phong rằng:
Tào Động đinh ninh, Lâm Tế thế thắng, Vân Môn thẳng tắt, Pháp Nhãn linh xảo, Qui Ngưỡng trao nhau.
Còn Bạch Vân Pháp Diễn Thiền Sư trong Ngữ Lục có luận về Ngũ gia gia phong rằng:
Tăng hỏi: Thế nào là việc Lâm Tế?
Đáp: “Ngũ nghịch nghe sấm sét”.
Hỏi: Thế nào là việc Vân Môn?
Đáp: “Cờ đỏ lấp lánh”.
Hỏi: Thế nào là việc Tào Động?
Đáp: “Gởi thơ chẳng đến nhà”.
Hỏi: Thế nào là việc Qui Ngưỡng?
Đáp: “Bia gãy nằm đường xưa”.
Tăng lễ bái.
Sư nói: “Sao chẳng hỏi việc Pháp Nhãn?”
Tăng nói: “Để giành cho Hòa Thượng”.
Sư nói: “Người tuần phạm luật giới nghiêm”.
Sư nói tiếp: “Ngộ thì việc đồng một nhà, chẳng ngộ thì muôn ngàn sai biệt, một nửa ăn bùn ăn đất, một nửa ăn mạch ăn mè, hoặc là hàng long phục hổ, hoặc là lượm sò với tôm. Hòa Sơn chỉ biết đánh trống, Bí Ma luôn luôn giơ chỉa. Nói chung một tuồng hát cười, đều do mỉm cười niêm hoa, đồ bỏ trong đám Bạch Vân, gió xuôi xả đất, xả cát, nếu chẳng tâm can thế này, sao được áo gấm vinh qui! Vậy một tiếng “Vinh qui” nên nói thế nào? Vinh hoa hôm nay người chẳng biết mười năm trước là một thư sinh”.
Còn thượng đườngnói: “Đạt Ma từ bên Tây đến, việc lâu nhiều biến đổi, con cháu đời sau gia phong vô hạn, nhiễu loạn thân tâm, một đống chỉ mành. Bạch Vân hôm nay thảy đều cắt đứt.
Đại chúng! Một trăm lẻ năm ngày thanh minh, Thượng nguyên nhất định là rằm tháng giêng.
Nên biết, nói gia phong chỉ là phương tiện tùy nghi của chư Tổ dùng để tiếp dẫn hậu học. Gia phong dù theo người mà khác, nhưng Phật tánh thì ngàn xưa chẳng đổi, kẻ ngộ thì thấu qua như một, chẳng ngộ thì lại thêm rắm rối.
Pháp Nhãn Tông truyền sang Cao Ly, Vân Môn Tông thất truyền đã lâu, nay chỉ còn ba Tông là Qui Ngưỡng, Tào Động, Lâm Tế, nhưng con cháu của các Tông, chỉ lấy cội nguồn gia phổ để truyền thừa với nhau, ghi tên trên pháp quyển là Thiền Sư đời thứ mấy mà thôi, nếu hỏi về gia phong Tông chỉ thì ngơ ngác chẳng thể trả lời. Nên khuyên người học đời nay, hễ được Minh Tâm Kiến Tánh liền được liễu thoát sanh tử, nối tiếp Huệ mạng của chư Phật chư Tổ với chư Phật chư Tổ nắm tay cùng đi, đâu cần phân chia Tông phái chi nữa!
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
CHƯƠNG II
YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
1.- Ý NGHĨA “GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN, CHẲNG LẬP VĂN TỰ”.
Bích Nham Tập có bài bình xướng rằng: “Đạt Ma từ xa quán đất này có căn khí Đại Thừa, bèn vượt biển đến Trung Quốc, chuyên truyền Tâm ấn, khai thị cho kẻ mê, chẳng lập văn tự, trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”.
Nói “Chẳng lập văn tự”, vì văn tự phải nương bộ não suy nghĩ, suy nghĩ thì nương nơi nhất niệm vô minh; nhất niệm vô minh hư huyễn chẳng thật, nên suy nghĩ văn tự cũng hư huyễn chẳng thật. Do hư huyễn chẳng thật gọi là tương đối, tương đối thì có sanh có diệt, chẳng thể hiển bày tuyệt đối chẳng sanh diệt của bản thể, vì văn tự chẳng thể hiển thị Phật tánh, nên nói chẳng lập văn tự. Phật Thích Ca dùng lời nói văn tự để hoằng giáo pháp là do sự bất đắc dĩ, nên thí dụ như ngón tay chỉ mặt trăng, vừa thuyết liền phá, Kinh Niết Bàn nói: “Bắt đầu từ Lộc Uyển, cuối đến sông Bạt Đề, khoảng giữa 50 năm, chưa từng thuyết một chữ” là vậy.
Kinh Kim Cang: “Nếu nói Như Lai có thuyết pháp tức là phỉ báng Phật, người ấy chẳng hiểu nghĩa sở thuyết của ta”. Ý cho rằng phàm thuộc về lời nói văn tự đều chẳng có nghĩa thật, tương đối chẳng thể diễn tả tuyệt đối. Phật Thích Ca vì từ bi độ chúng sanh, dù tạm mượn lời nói văn tự để thuyết pháp, chỉ gọi là phương tiện, nên khi đang thuyết pháp, thường cảnh cáo đại chúng chớ chấp lời nói là thật, để khỏi tự kẹt chẳng thông, đọa vào trong hầm sâu tương đối mà chẳng thể tự cứu.
Phật đối với lời nói và nghĩa thật phân ra rõ ràng, chẳng cho lẫn lộn, thật rất khổ tâm.
Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Những kẻ si mê nói rằng: “Nghĩa như ngôn thuyết, nghĩa với thuyết chẳng khác”. Tại sao? Vì nghĩa tự chẳng thân (không bản thể), ngoài ngôn thuyết chẳng còn nghĩa nào, nên nói nghĩa đúng như ngôn thuyết. Đại Huệ! Họ nói vậy là trí huệ bị cháy khét, chẳng biết Tự tánh ngôn thuyết, chẳng biết ngôn thuyết sanh diệt (pháp tương đối), nghĩa thì chẳng sanh diệt (pháp tuyệt đối). Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết đều đọa nơi văn tự, nghĩa thì chẳng đọa, lìa tánh và phi tánh, cũng chẳng thân chẳng thọ. Đại Huệ! Như Lai chẳng thuyết những pháp đọa văn tự, vì văn tự có với không đều bất khả đắc, nên nói chẳng đọa văn tự. Đại Huệ! Nếu nói Như Lai thuyết những pháp đọa văn tự, ấy là hư vọng, vì pháp lìa văn tự, cho nên chư Phật chúng ta và chư Bồ Tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ. Tại sao? Vì pháp lìa văn tự (bản thể tuyệt đối chẳng dính dáng với văn tự). Dù ngôn thuyết là vọng tưởng của chúng sanh, nhưng cũng chẳng thể phế bỏ ngôn thuyết, nếu chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ bị hoại, nếu giáo pháp hoại thì chẳng còn chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, vậy ai thuyết cho ai? Đại Huệ! Bồ Tát chớ nên chấp trước ngôn thuyết, chỉ dùng phương tiện tùy nghi rộng thuyết Kinh pháp, vì phiền não và hy vọng của chúng sanh chẳng đồng, nên chư Phật vì sự hiểu biết mỗi mỗi khác nhau của chúng sanh mà thuyết pháp, khiến lìa tâm (thức thứ tám _ A lại da thức), ý (thức thứ bảy), và ý thức (thức thứ sáu), vì tâm, ý, ý thức chẳng thể đạt đến chỗ tự giác Thánh trí vậy”.
Lời nói văn tự đối với bản thể của Phật tánh dù chẳng có giá trị để nói, nhưng đối với sự thuyết pháp độ sanh thì vẫn phải nhờ ngôn thuyết để làm công cụ chủ yếu, đến khi hội Linh Sơn, Phật "niêm hoa thị chúng", Ca Diếp tỏ ngộ, mới tuyên bố có pháp môn “Giáo ngoại biệt truyền chẳng lập văn tự" để truyền cho Ca Diếp, pháp môn này là trực tiếp hiển bày thể dụng của Phật tánh, khiến chúng sanh chẳng nhờ văn tự mà trực tiếp ngộ nhập Bản thể của Chơn như. Các đại đệ tử được Thế Tôn dạy dỗ và huân tập đã lâu, Thế Tôn biết họ căn cơ đã thuần thục, nên đặc biệt truyền thị pháp môn vi diệu này, khiến đốn ngộ pháp Vô sanh, thẳng siêu Phật địa.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
Suy nghĩ, lời nói, văn tự cùng xuất phát từ nhất niệm vô minh. Khi một niệm chưa động, tịch nhiên trống rỗng, chẳng có tư tưởng cảm giác, dĩ nhiên cũng chẳng nói lời nói văn tự, đây gọi là vô thỉ vô minh. Khi vô thỉ vô minh bị kích thích, một niệm đã động, suy nghĩ liền sanh. Do suy nghĩ có lời nói, do lời nói mà lập văn tự, suy nghĩ là lời nói chẳng có tiếng, lời nói là suy nghĩ có tiếng, văn tự là lời nói có hình, lời nói là văn tự vô hình, cả ba đều gom trong chữ “tên gọi”. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Tên gọi” có hai thứ, một là tên gọi ngôn thuyết, hai là tên gọi suy tư. Nhà triết học Rousseau cũng nói “Tư tưởng là lời nói bên trong”, Lâm Tế Thiền Sư nói: “Tên gọi chẳng tự là tên gọi, chỉ do trước mắt ngươi cho là cái linh thiêng của kiến văn giác tri chiếu soi ấy gắn cho tất cả tên gọi”. Nhưng cả ba đều khởi từ nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh có sanh có diệt, biến đổi vô thường, tên gọi văn tự cũng theo đó biến đổi vô thường. Vô thường thuộc tương đối, Phật tánh thuộc tuyệt đối, tương đối chẳng thể hiển bày tuyệt đối, nên tuyệt đối của Phật tánh chỉ có thể tự tu chứng mới có thể nhận biết được, chẳng thể dùng văn tự diễn tả, cũng chẳng thể dùng bộ não suy lường. Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa (Phật tánh tuyệt đối) là sở đắc của Thánh trí tự giác, chẳng phải cảnh giới cảm giác của vọng tưởng ngôn thuyết cho nên vọng tưởng chẳng thể hiển bày Đệ nhất nghĩa. Ngôn thuyết sanh diệt lay động do nhân duyên tương sanh với nhau, vì do nhân duyên tương sanh với nhau nên chẳng thể hiển bày Đệ nhất nghĩa”.
Kinh Giải Thâm Mật nói: “Ta nói thắng nghĩa (Phật tánh) là sở chứng bên trong của bậc Thánh, việc làm suy tư (suy nghĩ đo lường) là sở chứng của chúng sanh". Lại nói: “Sở hành của thắng nghĩa vô tướng, suy tư là hành theo cảnh giới có tướng. Thắng nghĩa chẳng thể ngôn thuyết, suy tư là hành theo cảnh giới ngôn thuyết, thắng nghĩa vốn tuyệt biểu thị, suy tư là hành theo cảnh giới biểu thị, thắng nghĩa tuyệt cả tranh luận, suy tư là hành theo cảnh giới tranh luận”.
Theo các Kinh kể trên, nên biết suy nghĩ văn tự với Chơn như Phật tánh chẳng thể tiếp xúc nhau. Người ta thường nói: “Chỉ có thể ý hội chẳng thể ngôn truyền”. Kỳ thật tuyệt đối của Phật tánh dù muốn ý hội cũng chẳng thể được, huống là ngôn truyền ư! Chẵng những Phật tánh như thế, cho đến một kỹ thuật tinh xảo của thế gian chỗ huyền diệu của họ cũng chẳng thể ngôn truyền vậy. Như Trang Tử nói: “Hoàn Công đọc sách ở nhà trên, người thợ mộc đẽo bánh xe ở nhà dưới, buông chàng đục đi lên hỏi Hoàn Công rằng: “Xin hỏi sách Ngài đọc đó là lời nói gì?”. Hoàn Công trả lời: “Lời nói của bậc Thánh”. “Bậc Thánh đâu?”. “Chết rồi”. Người đẽo bánh xe liền nói: “Thế thì sách Ngài đọc đó chỉ là cặn bã của bậc Thánh mà thôi!”. Hoàn Công nói: “Quả nhân đọc sách , người thợ đẽo bánh xe sao được bàn luận? Nếu nói có lý thì tha tội, nếu nói không được thì chém đầu”. Người đẽo bánh xe thưa: “Hạ thần đem việc của hạ thần ra mà xem, nếu hạ thần đẽo bánh xe hơi lỏng một chút thì xe chạy được nhưng không an toàn vì dễ sút ra, nếu đẽo hơi chặt thì bánh xe khít mà quay không được, so sự tự ngộ của hạ thần, tâm khiến tay, tay cầm búa đẽo vào bánh xe, chẳng lỏng chẳng chặt, dùng miệng chẳng thể nói, nhưng có sự tự động ở trong đó. Dù con của hạ thần cũng là một thợ mộc danh tiếng, nhưng hạ thần chẳng thể đem sự ngộ ấy để truyền dạy cho con. Nay hạ thần còn sống, có bánh xe, có búa, có tay mà còn truyền thọ chẳng được, huống là bậc Thánh đã chết, chỉ để lại lời nói không còn gì cả!”. Do đó chứng tỏ lời nói văn tự là việc gián tiếp trong gián tiếp, sức diễn tả rất hạn chế, huống là muốn truyền đạt bản thể của tuyệt đối ư! Nên Phật nói: “Bất khả thuyết! Bất khả thuyết”, còn Văn Thù Bồ Tát tán thán Duy Ma Cật rằng: “Cho đến chẳng có ngôn thuyết ấy là chơn nhập pháp môn bất nhị”.
Cội Nguồn Truyền Thừa (4)
PHƯƠNG PHÁP TU TRÌ CỦA THIỀN TÔNG
Tác giả: Nguyệt Khê Thiền Sư - Dịch Giả: Thích Duy Lực
https://www.youtube.com/watch?v=oUE9w0DIj0Q
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
Thế Tôn vì cứu sự hạn chế hẹp hòi của lời nói văn tự, nên ở ngoài ngôn giáo biệt truyền phương pháp trực tiếp, tức là việc niêm hoa thị chúng vậy. Chẳng những niêm hoa mà thôi, phàm nhướng mày nháy mắt, tằng hắng, ngó nhìn đều là phương pháp tiếp dẫn hậu học, khiến cho ngộ nhập bản thể tuyệt đối.
Kinh Lăng Già nói: “Đại Huệ! Chẳng phải tất cả thế giới đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết chỉ dùng để giả lập mà thôi. Hoặc có thế giới dùng ngó nhìn để thuyết pháp, hoặc dùng hình tướng, hoặc dùng nhướng mày, nháy mắt, hoặc cười hoặc ngáp, hoặc tằng hắng hoặc lay động, hoặc ghi nhớ cõi Phật. Đại Huệ! Những tác dụng kể trên đều khiến chư Bồ Tát đắc Vô sanh Pháp nhẫn và Tam muội thù thắng, cho nên chẳng phải ngôn thuyết gồm có tất cả tánh. Đại Huệ! Giống như những ruồi, muỗi, con kiến, côn trùng trong thế giới này, đều chẳng có ngôn thuyết mà mỗi mỗi làm xong việc hằng ngày”. Hét, gậy, chửi, mắng, dựng phất trần, giơ ngón tay của Tổ Sư Trung Quốc đều từ đây mà ra, chẳng phải khi không bày đặt, hoặc có người nói Thiền Tông là sáng lập từ Trung Quốc, ấy là do người chưa hiểu thấu vậy.
Mặc dù sự diễn tả của ngôn thuyết văn tự có nhiều hạn chế, nhưng chẳng thể phế bỏ. Kinh Viên Giác nói: “Kinh Giáo liễu nghĩa như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng, thì biết ngón tay chẳng phải mặt trăng, tất cả ngôn thuyết của Như Lai khai thị cho Bồ Tát đều cũng như thế". Nên biết giáo pháp văn tự của Như Lai đều từ biển tánh chảy ra, muốn khiến chúng sanh theo đó tu hành để đạt đến bản thể tuyệt đối, lìa nhị biên Có và Không, chẳng phải lời nói văn tự của thế gian có thể so sánh.
Kinh Giải Thâm Mật nói: “Dù pháp tánh lìa ngôn, vì muốn khiến chúng sanh tự hiện Đẳng Giác, nên giả lập danh tướng”. Còn nói: “Dù Tự tánh chẳng tánh, pháp sở chứng lìa những văn tự, nhưng chẳng thể bỏ ngôn thuyết văn tự mà được diễn thuyết”. Kinh nói: “Biết pháp chẳng do ngôn, người khéo diễn tả ở nơi vô ngôn, mà hiển bày ngôn thuyết, như tiếng vang khắp nơi”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chư Phật ra diệu âm thanh, vì chúng sanh làm Phật sự; tất cả chư Phật tịch lặng vô ngôn cũng vì chúng sanh làm Phật sự”. Nên biết một nói, một nín, một động, một tịnh của Phật đều là dẫn dắt chúng sanh đạt đến chỗ Giải thoát, như thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc, chỉ cần hết bệnh tức là toa thuốc hay, đâu cần phân biệt là lộc nhung hay cứt bò!.
Xưa nay các Tổ Sư Thiền Tông như Ngài Đạo Tín, Huệ Năng, Đạo Nhất, Bá Trượng, Đại Châu, Lâm Tế, Tuyết Phong, Tuyết Đậu v.v... dù gắn cái bản hiệu ‘Chẳng lập văn tự", nhưng đều có pháp ngữ và tác phẩm lưu hành trên đời, chẳng phải hoàn toàn phế bỏ văn tự. Nên biết nói “Chẳng lập văn tự" là muốn chỉ rõ tìm Phật tánh trong văn tự bất khả đắc, người tu hành chớ nên đọa vào vọng tưởng văn tự mà bị văn tự trói buộc, nếu cứ chấp thật sự chẳng lập văn tự thì nghịch với bản ý của Phật với Tổ vậy.
Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Kẻ chấp Không lại báng Kinh rằng, trực ngôn chẳng dùng văn tự; đã nói chẳng dùng văn tự thì con người cũng chẳng nên ngôn ngữ, vì ngôn ngữ tức là tướng của văn tự”. Lại nói: “Trực đạo chẳng lập văn tự, đâu dè hai chữ CHẲNG LẬP cũng là văn tự, thấy người có lời nói, liền báng họ là dính mắc văn tự. Các người nên biết, tự mê còn đỡ, lại báng kinh Phật, chớ nên báng Kinh, tội chướng vô số kể”.
Tổ Đình Sự Uyển có nói: “Chư Tổ truyền Pháp, ban sơ tu hành gồm tam tạng giáo thừa, sau Tổ Đạt Ma chuyên truyền Tâm ấn, phá chấp Giáo để hiển Tông (Thiền), gọi là giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, nhưng đối với sự chẳng lập văn tự, người hiểu lầm rất nhiều, thường cho là bỏ cả văn tự, lấy im lặng tĩnh tọa làm Thiền, ấy thật là con dê câm của Thiền môn. Vả lại muôn pháp lăng xăng, đâu chỉ là văn tự chẳng lập thôi. Họ chẳng biết đạo tức phải thông, sao lại cố chấp nơi một góc!”.
Nên người thông thạo ngay nơi văn tự mà văn tự bất khả đắc, đối với văn tự như thế, đối với các pháp khác cũng vậy, hễ kiến tánh thành Phật là xong, đâu đợi bỏ văn tự mới xong!
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
Cho nên văn tự dù thuộc về tương đối, nếu được nương ngón tay mà thấy mặt trăng thì văn tự chưa từng chẳng có công dụng, nếu được Minh Tâm Kiến Tánh, chứng nhập Nhất hạnh, Nhất tướng Tam muội thì ngay nơi văn tự tức là Thật tướng, tương đối biến thành tuyệt đối; nếu chấp ngón tay là mặt trăng thì văn tự chưa từng là chẳng hại.
Tam tạng mười hai bộ Kinh là do Phật Thích Ca giả lập, cũng do Phật phủ định; giả lập là vì độ chúng sanh, phủ định là vì khỏi làm hại cho chúng sanh. Nếu giả lập mà chẳng thể phủ định thì chẳng phải là Phật; nếu phủ định mà chẳng thể giả lập cũng chẳng phải là Phật. Vì hay giả lập cũng hay phủ định. Cho nên Phật Pháp mới được viên dung vô ngại, thuần túy trọn vẹn mà chẳng có chỗ khuyết điểm.
Phật từng thuyết “Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã” rồi ngay đó phủ định liền; Phật từng thuyết “Tứ đế, Thập nhị nhân duyên” rồi cũng ngay đó phủ định liền; Phật từng thuyết “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” rồi cũng ngay đó phủ định liền, nói giả, chẳng thật, bất khả đắc. Phật thuyết Pháp như thế mới chẳng bị kẹt nơi danh tướng, dẫn dắt vào nơi tuyệt đối mà chẳng có gì cả. Hoặc có người muốn dựa theo kinh điển pháp môn để vấn nạn Phật, mà chẳng biết những kinh điển những pháp môn đó Phật đã mỗi mỗi tự phủ định rồi! Phật vừa nói liền phá, cho đến chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích để tìm thì đâu còn gì để cho họ chỉ trích ư! Nên người vấn nạn Phật muốn báng Phật, cũng như dùng nắm tay đánh hư không, như ngước mặt phun nước miếng lên trời, mong chẳng tự làm nhơ cho mình cũng chẳng được. Được hiểu như thế rồi mới có thể học Phật tham thiền.
2.- SỰ KHÁC BIỆT CỦA TÔNG MÔN VÀ GIÁO MÔN.
Tông môn, Giáo môn phân ra riêng biệt bắt đầu từ Trung Quốc mà căn cứ nơi kinh Lăng Già. Phật bảo: “Đại Huệ! Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác Bồ Tát, có hai thứ tướng thông: gọi là Tông thông với Thuyết thông, Nói Tông thông là do tự mình chứng đắc tướng thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng, rồi ngộ nhập Tự Tướng Tự Giác Địa nơi giới vô lậu, xa lìa tất cả giác tưởng hư vọng, hàng phục tất cả bọn Ma Ngoại đạo, do tự giác phát huy ánh sáng, ấy là tướng Tông thông. Thế nào là tướng Thuyết thông? Nói thuyết đủ thứ giáo pháp nơi chín bộ Kinh, lìa các tướng đồng, dị, và có, không, dùng phương tiện tinh xảo, để tùy thuận chúng sanh, ứng cơ thuyết pháp khiến được độ thoát, ấy gọi là tướng Thuyết thông. Đại Huệ! Ngươi và các Bồ Tát nên tu học.
Phật nói ‘Tông thông” là pháp Thiền thực tiễn do mình tự tham tự chứng; nói “Thuyết thông” là pháp sư giảng Giáo lý, thuyết pháp tự tại, chẳng lìa tự tánh, chẳng đọa nhị biên. Một là trực tiếp, một là gián tiếp; một do tâm hành, một do khẩu thuyết, đức Phật hoằng pháp lợi sanh, đại khái chẳng ra ngoài hai lối này. Hai thứ phương pháp dù chẳng đồng, nhưng mục đích cuối cùng chỉ là một, nếu xét kỹ lại thì Tông chẳng lìa Giáo, Giáo chẳng lìa Tông, xưa nay Tông môn dù nói chẳng lập văn tự, chẳng trọng Kinh điển, nhưng Thế Tôn sau khi niêm hoa thị chúng rồi liền nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng, Vi diệu pháp môn, Chẳng lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”. Tám câu này tức là ngôn ngữ, tức là Giáo lý, cho đến Tổ Đạt Ma lấy Kinh Lăng Già truyền cho Ngài Huệ Khả, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lấy Kinh Kim Cang truyền thọ Ngài Huệ Năng, Tứ Tổ có Pháp Ngữ, Lục Tổ có Pháp Bảo Đàn, ấy đều chứng tỏ Tông chẳng lìa Giáo vậy.
Lại như trong Giáo điển Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Viên Giác, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Lăng Già đều trực thị Tông chỉ thẳng lìa Pháp thân, ấy đều chứng tỏ Giáo chẳng lìa Tông vậy. Nên Chứng Đạo Ca nói: “Tông cũng thông, Thuyết cũng thông, Định, Huệ sáng tròn chẳng kẹt Không", chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ ý chỉ này, vì tiên nhập làm chủ, nên ít người thông suốt, lại mỗi mỗi tự lập cửa ải, bài xích lẫn nhau, kẻ học Thiền thì chấp Tông mà đè Giáo, kẻ học Giáo môn thì chấp Giáo mà khinh Tông. Thật ra Tông lìa Giáo thì đọa nơi rỗng không, Giáo lìa Tông thì thành ra tạp loạn, Tông với Giáo như hai bánh của xe, chẳng thể phế bỏ bánh xe nào.
Hành giả Tông môn dụng công tham thiền, ngoài việc thân cận Thiện tri thức, hiểu rõ phương pháp dụng đứng đắn, vẫn cần biết rõ cảnh giới chẳng đồng của bốn Thừa và sự khác nhau của phương pháp dụng công, mới chẳng lầm nhận cho Tiểu Thừa là Đại Thừa, lạc vào lối tẻ, chẳng thể đạt đến Minh Tâm Kiến Tánh.
Muốn rõ bốn Thừa cũng nên xem Kinh điển Giáo lý; người học Giáo lý đã rõ bốn Thừa rồi, cần phải chơn tham thật chứng mới được Minh Tâm Kiến Tánh. Nếu chẳng Minh Tâm Kiến Tánh, dù Kinh điển văn tự chứa đầy bụng, biện tài như suối chảy, ngòi bút viết ra muôn ngàn văn chương, với bản thể của Phật tánh đều chẳng dính dáng, thậm chí hiểu lầm ý Phật, tự ý phát huy để di hại cho kẻ hậu học.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
3.- ĐẠI Ý CỦA BỐN THỪA.
Chữ Phật còn thuộc giả danh, huống là bốn Thừa ư! Nhưng đức Phật đại Bi cứu thế, phương tiện độ sanh, vì tùy căn cơ sâu cạn của chúng sanh nên giả thiết đủ thứ ngôn giáo pháp môn dùng để tu tập, theo thời ứng cơ, tùy nghi lập giáo, như lương y trị bệnh, tùy bệnh cho thuốc, nên có những thí dụ như xe dê, xe trâu (tam thừa) và Hóa Thành (nửa đường), Bửu Sở (quả Phật) v.v... Khổ tâm ấy thật là chiếu sáng muôn đời.
Tất cả pháp có thể nói ra đều thuộc về tương đối; pháp tương đối phải tùy theo không gian và thời gian mà biến đổi, vốn chẳng thật thể. Nên đức Phật thuyết Pháp vừa thuyết liền phá, ban sơ Phật đã từng vì chúng sanh thuyết diệu lý của Chơn như Pháp thân, ý chỉ huyền ảo vi diệu, chúng đều bỏ đi, rồi trở lại thuyết Pháp môn Tiểu Thừa, người nghe mới tin được. Đến khi đồ chúng tu Tiểu Thừa đã quen thuộc, ham thích Thiền vị, chỉ tự độ thân mình, Phật lại quở rằng: “Đây chẳng phải cứu cánh, chưa lìa hẳn sanh tử, nên tu Trung thừa”. Đồ chúng mới chuyển tu Trung thừa, đạt nơi ngã, pháp đều Không. Phật lại quở rằng: “Đây vẫn chưa cứu cánh, tập khí từ vô thỉ chưa sạch, cũng còn biến dịch sanh tử, nên tu Đại Thừa". Từ đó chúng mới chuyên tu pháp Đại Thừa, đến khi căn cơ thuần thục, Phật mới trực thị pháp Tối thượng thừa, kẻ tu hoát nhiên đại ngộ, thấu triệt bản tâm chẳng sanh chẳng diệt, chẳng biến chẳng khác, sẵn sàng viên mãn, chẳng do tạo tác, mới biết phi tâm, phi Phật, cuối cùng chẳng có pháp nào khác để đắc, nói ‘Pháp môn” chỉ là nói suông, nói “bốn thừa” đều là hí luận, khi ấy mới tin Phật nói “Chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ” là chẳng phải cố ý bày đặt sự huyền bí.
Nay lược thuật cảnh giới bốn thừa như sau:
TIỂU THỪA: Cũng gọi là Thanh Văn thừa, do nghe thanh giáo của Phật mà ngộ lý Tứ Đế, đoạn dứt Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng nhập Niết Bàn Tiểu thừa, ấy là lối tu hạ căn trong đạo Phật. Kinh Thắng Man Bửu Quật rằng: “Hai chữ Thanh Văn là kẻ hạ căn theo giáo lập tên, THANH tức là Giáo vậy.
Pháp môn Tứ Đế của thừa Thanh Văn sở tu tức là KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. KHỔ là cái quả thọ báo, TẬP là cái nhân chiêu quả, DIỆT là đắc quả tịch diệt, ĐẠO là lối tu để đoạn trừ cái nhân chiêu quả. Nói một cách khác, tu theo TỨ ĐẾ tức là biết Khổ đoạn Tập, mộ Diệt tu Đạo, Đế là ý nghĩa xác thật. Cách tu của họ là đoạn dứt công dụng của lục căn, lắng tâm tĩnh lự, cho đến chỉ còn một chút niệm trong sạch, ấy là cảnh giới của Tiểu thừa đạt đến, quả cùng tột gọi là A La Hán.
Động cơ của người tu Tiểu thừa là nhàm chán sanh tử mà cầu thanh tịnh Tịch diệt, cho rằng trong linh tánh vốn chẳng phiền não, tất cả khổ đều do lục căn chiêu tập mới có, nên muốn được sự vui của thanh tịnh tịch diệt chỉ có tu đạo làm cho công dụng của lục căn dừng lại, chẳng sanh tác dụng chiêu tập, mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, mũi chẳng ngửi, lưỡi chẳng nếm, thân chẳng xúc, ý chẳng tưởng, công dụng của lục căn đã dứt sạch, sáu cửa đã đóng kín, trong linh tánh chỉ còn một niệm thanh tịnh, tịch tịnh an lạc, ấy là đạo quả sở chứng của Tiểu thừa, nhưng lục căn dù tạm dứt, mà một niệm thanh tịnh chưa được buông bỏ, ắt chẳng phải cứu cánh.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
TRUNG THỪA: Cũng gọi Duyên Giác thừa, do quán Nhân Duyên mà ngộ đạo. Xưa nay xưng Bích Chi Phật, dịch nghĩa là Độc Giác. Pháp môn của Trung thừa là Thập Nhị nhân duyên, tức VÔ MINH duyên HÀNH, HÀNH duyên THỨC, THỨC duyên DANH SẮC, DANH SẮC duyên LỤC NHẬP, LỤC NHẬP duyên XÚC, XÚC duyên THỌ, THỌ duyên ÁI, ÁI duyên THỦ, THỦ duyên HỮU, HỮU duyên SANH, SANH duyên LÃO TỬ. Thập nhị chi (mười hai nhánh) này bao gồm quá khứ, hiện tại, vị lai, tam thế nhân quả tuần hoàn chẳng dừng. Ở đây VÔ MINH là nhất niệm vô minh, cũng gọi là tánh nhất niệm vọng động, chẳng phải vô thỉ vô minh, vì bất giác khởi niệm, bèn sanh ra đủ thứ phiền não, tạo đủ thứ thiện ác nghiệp, gọi là HÀNH, hai chi này là nhân đời trước. THỨC là nghiệp thức, như thân trung ấm bị nghiệp lôi kéo mà đến đầu thai; DANH SẮC là lúc ở trong thai sắc thân chưa thành, tứ ấm THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC chỉ có tên gọi, chưa có thật chất; LỤC NHẬP là nói ở trong thai lục căn đã hoàn thành, là chỗ sở nhập của lục trần, XÚC là sau khi sanh ra, lục căn tiếp xúc lục trần, THỌ là lãnh thọ các cảnh giới thuận nghịch, năm chi này là quả đang thọ ở đời này. Ái là đối với cảnh trần có sở ái, THỦ là chấp thủ việc mình ham muốn, HỮU là có quyền sở hữu, cho mình được tùy ý chi phối, ba chi này là nhân sở đắc của đời này, đời này tạo nghiệp nhân thì đời sau báo ứng nghiệp quả. SANH là tùy theo sự gieo nghiệp nhân thành chủng tử để thọ sanh nơi kiếp sau. LÃO TỬ là kiếp sau đã có sanh, ắt phải có lão tử, hai chi này là quả báo phải thọ ở đời sau. Ấy là đại khái của Thập nhị nhân duyên.
Kẻ tu pháp Trung thừa quán xét chúng sanh trong tam thế đều bị Thập nhị nhân duyên chi phối, mà Thập nhị nhân duyên thì nương nhất niệm vô minh sanh khởi, cho rằng Tiểu thừa chưa thể phá nhất niệm này, nên chưa đạt cứu cánh, nếu được đoạn dứt nhất niệm này, thì được vượt ra ngoài tam thế, liễu thoát sanh tử.
Nên cách dụng công của họ là muốn quét sạch nhất niệm vô minh, đạt đến cảnh giới mênh mông trống rỗng chẳng có gì cả, tự cho đã chứng Niết Bàn, chẳng biết đã lọt vào vô thỉ vô minh. Cái cảnh giới trống rỗng chẳng có chi cả, cũng gọi là “Không chấp”, linh tánh ám muội, chẳng khác gì gỗ đá! Huống chi nhất niệm dù tạm dừng, nếu bị kích thích vẫn có thể nổi lại, nên sở chứng của Trung thừa cũng chưa cứu cánh.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
ĐẠI THỪA: Cũng gọi là Bồ Tát thừa, pháp sở tu là sáu Ba La Mật, cũng gọi là Lục độ. Sáu Ba La Mật là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền na, Bát nhã. Người tu Đại thừa gọi là Bồ Đề Tát Đỏa, Bồ Đề dịch là Giác, Tát Đỏa dịch là Hữu tình. Ý là giác ngộ chúng sanh hữu tình, gọi tắt là Bồ Tát, tức là chúng sanh phát đại tâm Bồ Đề, lấy tâm Bồ Đề làm thể để tự độ; lấy tâm Đại bi làm dụng để độ thành, tự tha kiêm lợi, nên xưng Đại thừa. Phẩm THÍ DỤ trong kinh Pháp Hoa rằng: “Nếu có chúng sanh nơi Phật Thế Tôn nghe pháp tín thọ, tinh tấn tu hành, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, Vô sở uý, dùng sức tri kiến của Như Lai thương xót vô lượng chúng sanh, độ thoát tất cả trời, người đều được lợi ích an lạc, ấy gọi là Đại Thừa.”.
Lục độ bao gồm tam học Giới, Định, Huệ, mà lấy pháp Thiền na làm chủ yếu để dụng công, người tu Đại thừa biết nhất niệm vô minh chẳng thể phá, nên lợi dụng nhất nhiệm vô minh để phá tan vô thỉ vô minh mà được kiến tánh, ấy là phương pháp dùng tướng cướp (nhất niệm vô minh) để bắt vua cướp (vô thỉ vô minh) vậy.
TỐI THƯỢNG THỪA: Cũng gọi là Phật thừa, khi đã minh tâm kiến tánh, hiển hiện Phật tánh chơn như, phát huy diệu lý tuyệt đối, chỉ có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết nhau được. Nên THẾ TÔN niêm hoa, CA DIẾP mỉm cười; CA DIẾP giơ tay; A NAN hiệp chưởng, dùng Tâm ấn Tâm, khế hợp ăn khớp, trình bày trước mắt, chẳng nhờ ngôn thuyết, là pháp tối cao cùng tột, chẳng còn gì hơn nữa, ấy là Tối thượng thừa Thiền.
Tiểu thừa đoạn lục căn, Trung thừa đoạn nhất niệm vô minh, Đại thừa đoạn vô thỉ vô minh, tối thượng thừa trực chỉ chơn như Phật tánh, đây là đại ý của bốn thừa. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Pháp chẳng bốn thừa, do tâm người tự có sai biệt mà hình thành, thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa, hiểu nghĩa ngộ pháp là Trung thừa, y pháp tu hành là Đại thừa, vạn pháp đều thông, vạn pháp sẵn sàng, tất cả chẳng nhiễm, lìa chư pháp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là Tối thượng thừa”. Thế thì đại ý của bốn thừa đã rõ ràng.
Triệu Châu Hòa Thượng nói: “Ta chẳng thích nghe một chữ PHẬT”, còn nói: “Hễ lão Tăng niệm PHẬT một tiếng thì phải súc miệng ba ngày”. Nếu thấu rõ lời này thì chẳng bị bốn thừa trói buộc.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
4.- MỤC ĐÍCH CỦA THAM THIỀN.
Mục đích của Tham thiền là gì? Là muốn "minh tâm kiến tánh". Cái quả "minh tâm kiến tánh" như thế nào? Là thấu triệt bổn nguyên, vượt ngoài tam giới, liễu thoát sanh tử, chẳng thọ hậu hữu, độ mình độ người, phổ lợi chúng sanh. Ấy là mục đích cuối cùng của loài người.
Nhưng muốn minh tâm kiến tánh, trước tiên phải rõ thế nào là tâm tánh. Tâm tánh là bổn nguyên tự tánh của chúng sanh, cũng gọi là Phật tánh, học gọi CHƠN NHƯ, NHƯ LAI. Thiền Tông gọi là Bổn lai diện mục, Thanh tịnh Pháp thân; Duy Thức Tông gọi là Tự thân tịnh độ, Thường tịch quang tịnh độ; Tam Luận Tông gọi là Thật tướng Bát Nhã, Luật Tông gọi là Bổn nguyên tự tánh, Kim Cang bửu giới. Thiên thai tông gọi là Tự tánh thật tướng, Hoa Nghiêm Tông gọi là Nhất chơn pháp giới; Mật Tông gọi là Tịnh Bồ đề tâm ... danh hiệu dù nhiều, bản thể chỉ một. Duy Thức Luận nói: “Chơn là chơn thật, tỏ chẳng hư vọng. Như là như thường, tỏ chẳng biến đổi. Nghĩa là cái chơn thật này, nơi tất cả pháp thường như bản tánh, nên gọi Chơn Như”. Kinh Duy Ma Cật nói “Như là chẳng hai chẳng khác”. Kinh Kim Cang nói “Như Lai là chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu”.
Theo những Kinh Luận kể trên, nói “Tâm tánh” là chỉ ngay Chơn tâm tự tánh, chẳng phải tâm tánh của người đời. Người đời nói “tâm” ấy là vọng tâm, tức là vô minh, nay muốn minh tâm cái tâm chơn thật cùng tột, nên gọi là CHƠN NHƯ.
Kinh Hoa Nghiêm phát huy cái lý của Chơn như Phật tánh rất tường tận, trong phẩm Thập Hồi Hướng nói: “Siêng tu tất cả pháp xuất thế gian, đối với thế gian vô thủ vô y, đối với diệu đạo chánh kiến kiên cố, thấu pháp chơn thật, lìa chư vọng kiến, ví như chơn như, khắp tất cả nơi, chẳng có ngằn mé; ví như Chơn như, chơn thật làm tánh, ví như chơn như, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi, ví như chơn như, nơi tất cả pháp, vô tánh làm tánh ... (còn rất nhiều, nay lược bỏ chẳng kể xiết).
Đây là cảnh giới chơn như Phật tánh do Phật với Tổ đích thân chứng nhập, rồi dùng ngôn ngữ phương tiện để khai thị cho chúng sanh, chúng sanh nghe rồi, hoặc ngơ ngác chẳng hiểu nói gì, hoặc biết được đại ý nhưng chẳng thể cho là minh tâm kiến tánh; nghe rồi được hiểu gọi là giải ngộ, cần phải tự tham tự chứng, đích thân thấy rõ, mới có thể gọi là chứng ngộ, sở chứng với Phật chẳng khác, nên gọi Kiến Tánh Thành Phật.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
Thường có kẻ thông minh lanh lợi, xem nhiều Kinh điển mà được giải ngộ, giảng giải cho người khác nghe, biện tài như suối chảy mà thật thì chẳng biết Chơn như Phật tánh là vật gì. Cũng như người chưa từng đến thắng cảnh Tây Hồ, chỉ xem du ký của người khác, lại diễn tả cho người khác nghe giống như đã từng đi qua, thật thì chưa từng đích thân thấy thắng cảnh ấy, nếu gặp người đã từng du lịch Tây Hồ, hỏi về chơn cảnh ấy thì ngơ ngác chẳng thể trả lời, vì thế nên Thiền Tông chủ trương chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự là vậy.
Nên biết, muốn minh tâm kiến tánh toàn nhờ chơn thực tham chứng, người khác chẳng thể thay thế được, chẳng quí đa văn, chỉ quí thấy ngay, từ ngoài cửa vào chẳng phải gia bửu, lời nói của người khác nói chẳng dính dáng với mình.
Xưa kia Hương Nghiêm Hòa Thượng ở trong hội Bá Trượng, thông minh lanh lợi, hỏi một đáp mười, bị Qui Sơn hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh nói thử một câu xem!”, liền ngơ ngác chẳng đáp được. Về liêu phòng tìm ra hết thảy văn tự xem qua, muốn tìm một câu để trả lời trọn chẳng thể được, than rằng: “Bánh vẽ chẳng thể cứu đói”, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra, Qui Sơn nói: “Ta nói cho ngươi thì ngươi về sau sẽ mắng ta; ta nói là việc của ta, chẳng dính dáng với ngươi!”. Hương Nghiêm bèn lấy tất cả ngôn giáo đốt bỏ, thẳng qua Nam Dương, nghỉ tại di tích của Huệ Trung Quốc Sư, tham cứu lâu ngày, một hôm nhổ cỏ, ngẫu nhiên quăng miểng trúng nhằm cây tre phát ra tiếng, hoát nhiên tỉnh ngộ, liền về tắm gội đốt nhang, hướng về phía Qui Sơn lễ bái rằng: “Hòa Thượng đại từ, ân hơn cha mẹ, nếu lúc đó vì con nói trắng ra thì đâu có việc Kiến Tánh hôm nay”.
Do đó mà xem, Thiền Tông chẳng lập văn tự, chỉ chú trọng tham chứng, mà được tôn là phương thuốc hay của minh tâm kiến tánh, pháp Thiền của Thiền Tông được phổ biến khắc Trung Quốc, đâu phải việc ngẫu nhiên.
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
5.- CÁC LOẠI THIỀN.
THIỀN là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật, các Tông Đại, Tiểu thừa đều có pháp Thiền chuyên môn, Ngoại đạo Tà sư cũng mỗi mỗi kiến lập pháp thiền của họ, tà chánh lẫn lộn, tên gọi rất nhiều, cho nên người tu tập pháp Thiền của Tông môn, trước tiên phải hiểu rõ pháp Thiền của các Tông và phân biệt Tà, Chánh, Chơn, Ngụy, rồi mới chẳng bị lầm vào lối tẻ, chẳng phân biệt được trắng đen. Người xưa vì đáp sai một chuyển ngữ, đọa thân chồn năm trăm đời, hành giả nên cẩn thận! Phàm phá Ngã chấp là Chánh, chấp Ngã là Tà, lối tu theo Ngã chấp là Ngoại đạo; tu đúng theo Tông chỉ là Chơn, không đúng Tông chỉ là Ngụy, nay đại khái đưa ra các loại Thiền như sau:
1).- TỐI THƯỢNG THỪA THIỀN:
Hành giả sau khi chứng ngộ, trong tâm thất thông bát đạt, tùy tiện đề ra mỗi pháp đều là Phật pháp, nói nghịch nói xuôi chẳng lìa Chơn như, tất cả từ chơn tâm mình chảy ra, che thiên ngập địa, từ Thế Tôn niêm hoa thị chúng, cho đến Tổ Sư hét, gậy, chửi mắng, đều là trực chỉ chơn như, trọn mâm đem ra, kẻ hoát nhiên kiến tánh thì chẳng cách tơ hào, nếu còn do dự bèn cách xa muôn dặm, ấy là Tối thượng thừa Thiền.
2).- NHƯ LAI THIỀN VỚI TỔ SƯ THIỀN:
Như Lai Thiền là Thiền giáo môn, chứng nhập từng bực như: Thập tín, Thập trụ, cho đến Thập địa, Đẳng giác, còn có thể giải thích: Tổ Sư Thiền thì không có thứ bậc, thẳng vào bản thể Phật tánh chẳng thể giải thích. Người xưa có một việc chứng tỏ:
Hương Nghiêm Hòa Thượng sau khi chứng ngộ, thuyết bài kệ trình Ngài Qui Sơn rằng:
“Tiếng trúc quên sở tri,
Chẳng cần nhờ tu trì,
Động dụng hiển lối xưa,
Chẳng đọa nơi vắng lặng.
Mỗi mỗi chẳng dấu tích,
Thanh sắc ngoài oai nghi,
Người đạt đạo bốn phương,
Đều xưng thượng thượng cơ”.
Qui Sơn nghe rồi bảo Ngưỡng Sơn rằng:
“Ông này đã triệt ngộ”. Sai Ngưỡng Sơn soát xét lại, Hương Nghiêm thuyết kệ rằng:
“Năm xưa nghèo chưa phải nghèo,
Năm nay nghèo mới thật nghèo.
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm nay nghèo dùi cũng không".
Ngưỡng Sơn nói: “Như Lai Thiền thì cho sư đệ ngộ, Tổ Sư Thiền thì chưa”.
Hương Nghiêm lại nói bài kệ khác:
“Ta có một cơ,
Nháy mắt nhìn y.
Nếu còn chẳng ngộ,
Chớ gọi Sa di”.
Ngưỡng Sơn bảo với Qui Sơn rằng: “Mừng cho Nhàn sư đệ đã ngộ Tổ Sư Thiền".
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪACHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG__________________________________________________ ______________________________________
3).- THIỀN NA VÀ BÁT NHÃ THIỀN:
Thiền Na Thiền là pháp Thiền thứ năm trong sáu Ba La Mật, Bát Nhã Thiền là sau khi đã minh tâm kiến tánh, phát huy đại dụng để độ người như việc niêm hoa thị chúng.
4).- NHẤT VỊ THIỀN VÀ NGŨ VỊ THIỀN:
Phá tan hầm sâu vô minh, minh tâm kiến tánh, đốn siêu Phật địa, vào cảnh bất nhị, gọi là Nhất Vị Thiền. Ngoại đạo thiền, phàm phu thiền, Tiểu thừa thiền, Đại thừa thiền, Tối thượng thừa thiền gọi chung là Ngũ vị thiền.
5).- BA THỨ TỊNH QUÁN THIỀN:
Tức Sa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na, như kinh Viên Giác đã có giải thích kỹ càng về ba thứ Thiền quán này.
6).- KHÔ MỘC THIỀN (THIỀN CÂY KHÔ):
Những pháp Thiền chấp ngồi suốt ngày đêm chẳng nhúc nhích như dựng cây khô, cho ngồi lâu là cao, gọi là khô mộc Thiền.
7).- THAM THIỀN LẦM DỤNG CÔNG RẤT DỄ PHẠM NHỮNG BỆNH SAU ĐÂY:
A.- CHỈ bệnh: Đè nén tất cả tư tưởng miễn cưỡng dừng lại, như nước biển chẳng nổi sóng, chẳng nổi một bọt nhỏ. Tiểu thừa đoạn dứt lục căn, đạo giáo thanh tịnh quả dục, tuyệt Thánh bỏ trí đều thuộc bệnh này, Phật tánh thì chẳng hợp với CHỈ.
B).- TÁC bệnh: Bỏ vọng lấy chơn, lấy niệm xấu đổi niệm lành, nghịch trần hợp giác, nghịch giác hợp trần; phá một phần vô minh, chứng một phần pháp thân, Lão Tử: “Thường vô dục để quán diệu, thường hữu dục để quán sai”; Khổng Tử: “Chánh tâm thành ý”, nhà Nho: “Trừ bỏ ích kỷ của dục vọng, tồn tại chánh tâm của thiên lý” ấy đều thuộc về bệnh này, Phật tánh chẳng do TÁC mà đắc.
C).- NHẬM bệnh: Tư tưởng khởi cũng mặc kệ, diệt cũng mặc kệ, chẳng dứt sanh tử, chẳng cầu Niết Bàn, chẳng trụ, và chấp trước tất cả tướng, chiếu mà thường tịch, tịch mà thường chiếu, đối cảnh vô tâm, nhà Nho: “Lạc thiên tri mệnh”, Đạo giáo: “Trở về tự nhiên”, “Trở về hài nhi" đều thuộc bệnh này, Phật tánh chẳng do Nhậm mà có.
D).- DIỆT bệnh: Tất cả tư tưởng dứt sạch, mênh mông trống rỗng như gỗ đá, Trung thừa phá nhất niệm vô minh, Trang Tử: “Tọa vong”, nhà Nho: “Ngã tâm vũ trụ" và chơn lý của sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ đều thuộc bệnh này, Phật tánh chẳng do DIỆT mà có.
Tham thiền lầm dụng công phu nếu phạm bốn bệnh kể trên thì sẽ lầm nhận Tứ tướng, nay lược giải như sau: