Kính các vị tiền bối !
Con thấy ở đây ghi là Giáo lý Nhất Thừa, dạ con chỉ biết có Đại Thừa, Tiểu Thừa, chứ con chưa biết Nhất Thừa là sao ?
Kính xin quý tiền bối hoan hỉ chỉ dạy.
Kính !
Printable View
Kính các vị tiền bối !
Con thấy ở đây ghi là Giáo lý Nhất Thừa, dạ con chỉ biết có Đại Thừa, Tiểu Thừa, chứ con chưa biết Nhất Thừa là sao ?
Kính xin quý tiền bối hoan hỉ chỉ dạy.
Kính !
Chào chocon !
Nhất Thừa là không có Thừa nào mà cũng không ngoại trừ Thừa nào, mời các bạn xem ảnh minh họa nhé :
Kính quý đạo hữu !
Chúng ta thao thức muốn tìm đạo, tìm Chân lý, tìm phương thoát khổ nàn, thì đức Phật đã chuỷên pháp luân _ tức là bắt đầu dạy đạo (Phật pháp) bằng bài Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, .....v...v...
Những Giáo lý này vừa tầm, thuận hợp căn cơ của đại đa số người đương thời, mà bây giờ chúng ta tạm đặt tên là Giáo lý Nhân Thiên Thừa. Trong ảnh minh hoạ trên là hành trình đi đến "SỐ 1".
Tiếp theo đức Phật dạy Giáo lý Vô Ngã, chúng ta hãy gọi là Giáo lý Tiểu Thừa đi nhé ! Trong ảnh minh hoạ trên là hành trình đi đến "SỐ 2". Thực chứng Giáo lý Vô Ngã, hành giả đạt 1 trong 4 quả vị (Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm A La Hán). Toàn chứng Giáo lý Vô Ngã là vị A La Hán, những vị này có thể nhập Diệt Tận Định để vào Niết Bàn.
3) Vị trí này muốn ám chỉ những vị Độc Giác, không kinh qua Giáo Lý cơ bản (Nhân Thiên Thừa), không tu chứng từng bực (Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán) do thiền định sâu, quán sát nguyên uỷ của sự vật _ Thập Nhị Nhân Duyên _ mà thẳng đến Giác Ngộ : Bích Chi Phật.
4) Con đường Đại Thừa, thực tế dấn thân vào vạn pháp mê lầm, hoá giải hay nói khác đi là nhận ra cái hư ảo của vạn pháp, thực chứng CÁC PHÁP ĐỀU HƯ HUỸÊN mà thành tựu các quả vị Bồ tát từ Sơ Địa đến Thất Địa (Thất Địa là Địa Bất Thối chuyển).
5) Con đường Tối Thượng Thừa, giúp hành giả (chư Bồ tát) nhìn thấy thực chứng sự bình đẳng của các pháp _ HUỸÊN và PHI HUỸÊN _ TẤT CẢ HUỸÊN ĐỀU NHƯ _ còn gọi là CÁC PHÁP NHƯ HUỸÊN _ từ Địa Bất Thối Chuyển trở lên đến Đẳng Giác (Địa thứ 8, 9, 10).
CON ĐƯỜNG NHẤT THỪA được dụ toàn bộ bức ảnh minh hoạ trên. (được thể hiện bằng màu cam chuyển sắc viền bên ngoài).
Kính !
Kính các bạn !
Người tu Tiểu Thừa nếu cứ bám chặt vào con đường mình đã chọn thì sẽ có thể đến Giải Thoát Sinh Tử Luân Hồi, tức là đắc quả A La Hán, cũng gọi là vị Giác Ngộ (nhưng đạo Phật hãy còn từ Đại Giác Ngộ, để chỉ những vị Đại Bồ tát hay Phật _ Chánh Đẳng Chánh Giác).
Người tu Đại Thừa nếu cứ bám chặt vào con đường mình đã chọn thì vẫn sẽ có thể đến Giải Thoát Sinh Tử Luân Hồi, vẫn sẽ có thể đạt đến địa vị Bất Thối (tức là Bồ tát Thất Địa).
---------------
Thưa các bạn, vậy là chúng ta đã có một bản đồ khái quát về Hành trình Chân Lý của đạo Phật, hay nói khác đi là bản Đề Cương về Con Đường Nhất Thừa, bây giờ chúng ta bắt đầu vẽ bản đồ chi tiết các bạn nhé :
.........1. NHÂN THIÊN THỪA (NTT) :
Thưa các bạn vì đây là CÕI NHÂN (loài người) cho nên đa số chúng ta mang nặng "tính người", và vì thế NTT là thích hợp nhất để đạo Phật tiếp cận quảng đại quần chúng.
Thế nào là NHÂN THIÊN THỪA (NTT) ?
_ NTT là một trình Giáo lý thuần Thiện, nhẹ nhàng dễ tương thích với đa số loài người chúng ta.
* _ Nhân Thừa gồm những giáo điều : Hiếu kính cha mẹ, ông bà, thương yêu đùm bọc anh chị em, giúp đở người khó khăn hoạn nạn, nói năng thì khí sắc thường giữ thuận hoà ôn nhu .....v...v....
_ Giữ 5 Giới (Sát, Đạo, Dâm, Vọng Tữu), ăn chay kỳ 2 ngày, 4 ngày mỗi tháng.
_ Giáo lý thì tuỳ thích mà xem Kinh đọc sách, nghe thuyết pháp.
_ Nếu giữ đều đặn những điều trên thì khi "100 tuổi" sẽ được đầu thai trở lại cõi người, làm người khá giả, hạnh phúc.
** _ Thiên Thừa cũng gồm những Giáo điều trên nhưng tích cực hơn, thấy người khó khăn hoạn nạn thì tích cực giúp đở, quên mình (không đắn đo nhiều đến sự an nguy của mình) để giúp người.
_ Giữ 10 Giới, hành Thập Thiện; ăn chay mỗi tháng 6 ngày, 10 ngày, hoặc chay trường.
_ Về phần Giáo Lý thì gắng học và hành theo Bát Chánh Đạo.
_ Nếu tinh tấn vâng làm theo Phật dạy thì khi mãn phần dứt khoát sẽ sanh về các tầng Trời thấp.
Kính bác nguoi aolam !
Tất nhiên ai cũng thích cõi trời hơn cõi người.
Nhưng vodanh có một thắc mắc, vì sao các cõi khác ít nhiều thì trong kinh điển cũng có trường hợp thành Phật, riêng cõi trời thì chưa thấy kinh điển nào nhắc đến có trường hợp từ cõi trời mà thành Phật, dù trong kinh điển các vị từ cõi trời đến nghe kinh là vô số, hầu như có Phật thuyết Pháp là có chư thiên đến nghe.
Điều kiện để thành Phật rất tốt, tránh được ác đạo, căn cơ cao hơn, được nghe chính Phật thuyết pháp, chẳng vướng bận cơm áo gạo tiền, vậy thì lí do gì trong kinh điển chẳng thấy nhắc đến có vị nào từ cõi thiên mà thành Phật cả.
Vậy nên vodanh cũng phân vân, nếu được chọn thì nên chọn cõi người hay cõi thiên?
Kính nhờ bác giúp vodanh giải mối nghi này!
Kính bạn vodanh !
" vì sao các cõi khác ít nhiều thì trong kinh điển cũng có trường hợp thành Phật"
Xin bạn dẫn chứng dùm : _ Cõi Địa Ngục đã từng có ai thành Phật ? _ Cõi Ngạ Quỷ đã từng có ai thành Phật ?_ Cõi Súc sinh đã từng có con gì thành Phật ?_ Cõi Tu La đã từng có vị nào thành Phật ?
"riêng cõi trời thì chưa thấy kinh điển nào nhắc đến có trường hợp từ cõi trời mà thành Phật ?"
Ngày xưa, Hoá thân Phật Thích Ca đã từng dùng cõi Trời Đâu Suất làm "trạm trung chuyển" (với danh hiệu Hộ Minh Bồ tát) trước khi đến với cõi Ta Bà này.
Theo Kinh nói thì hiện tại Bồ tát Di Lặc cũng đang ở cõi Trời Đâu Suất, trong tương lai sẽ chui xuống cõi ô trược này để hoàn mãn hạnh nguyện THÀNH PHẬT.
"Điều kiện để thành Phật rất tốt, tránh được ác đạo, căn cơ cao hơn, được nghe chính Phật thuyết pháp, chẳng vướng bận cơm áo gạo tiền, vậy thì lí do gì trong kinh điển chẳng thấy nhắc đến có vị nào từ cõi thiên mà thành Phật cả".
Điều này thì đức Phật đã có kê ra 8 chỗ chướng nạn đối với Phật tử (cần nên tránh), Bát nạn gồm :
1. Địa ngục (zh. 地獄, sa. naraka)
2. Súc sinh (zh. 畜生, sa. tiryañc)
3. Ngạ quỷ (zh. 餓鬼, sa. preta)
4. Trường thọ thiên (zh. 長壽天, sa. dīrghāyurdeva), là cõi trời thuộc sắc giới với thọ mệnh cao. Thọ mệnh cao cũng là một chướng ngại vì nó làm mê hoặc hành giả, làm hành giả dễ quên những nỗi khổ của sinh lão bệnh tử trong Luân hồi mà không chịu thức ngộ.
5. Biên địa (zh. 邊地, sa. pratyantajanapāda), là những vùng xa xôi nơi trung tâm, không thuận tiện cho việc gặp hoặc tu học chính pháp.
6. Căn khuyết (zh. 根缺, sa. indriyavaikalya), không có đủ giác quan hoặc các giác quan bị tật nguyền như mù, câm, điếc.
7. Tà kiến biện thông (zh. 雅見, sa. mithyādarśana), những kiến giải sai lệch, bất thiện nhưng lại trôi chảy đầy uỷ mị ma lực.
8. Như Lai bất xuất sinh (zh. 如來不出生, sa. tathāgatānām anutpāda), nghĩa là sinh sống trong thời gian không có Phật hoặc giáo pháp của Phật không hiển hiện.
Các bạn chú ý, sinh lên cõi Trời Trường Thọ hoặc là sinh về Bắc Cu Lư Châu là những nơi rất sung sướng, lại không thể tu hành gì được, SẼ SỐNG LÂU DÀI TRONG VÔ MINH mà thôi, chứ có ích lợi gì đâu !.
Đừng nói chi đến sự sung sướng khoái lạc trên các cảnh Trời, có những vị có phước được đầu thai làm người, dầu còn duyên với Phật pháp được học Phật pháp đến nơi đến chốn, nhưng cuộc sống tiện nghi "trơn như thoa mở" cũng hầu hết đều "lạc vào đường Tà".
Không phải ra mặt phá hoại Phật pháp mới là Tà, mà quên mất mục đích "học Phật là cầu Giải thoát" lại thực tâm ca ngợi, ngưỡng mộ tôn sùng những tiêu chí SINH THIÊN cũng đều là lạc vào đường Tà.
Đạo Phật tạm dùng NHÂN THIÊN THỪA để gieo duyên cho Phật tử sơ cơ, giúp họ bớt khổ bớt căng thẳng trong cuộc sống, từ đó Phật tử mới an tâm mà tu học lên Con đường Giải Thoát.
"Vậy nên vodanh cũng phân vân, nếu được chọn thì nên chọn cõi người hay cõi thiên?"
Tuỳ bạn, nhưng ngày xưa Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã từ bỏ cung son điện ngọc, vợ đẹp con xinh để dốc lòng tìm đạo nơi chốn "thâm sơn cùng cốc". Ở Việt Nam ta, cũng đã từng có vài vị vua, vài nàng công chúa đã từ chối cuộc sống đầy tiên nghi danh vọng để tìm Chân Lý Phật pháp, thì nay sao ta lại yếu hèn đi tìm chỗ an nhàn sung sướng ?
Chào Thanh Trúc !
Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói "Vong thất Bồ Đề Tâm, tu chư Thiện Nghiệp thị danh Ma Nghiệp" (Lìa đích Giải Thoát Rốt Ráo, chạy theo điều lành thiện, đúng nó là Ma nghiệp đó !).
Thưa các bạn ! "Làm điều lành chăm việc Thiện" là Giáo điều mà xuyên suốt hành trình tu Phật từ sơ cơ cho đến cuối hành trình, chư Phật tử đều phải "dán lên trán". Thế mà sao ở đây đức Phật lại nói lạ vậy ?
_ Xin thưa, "Làm điều lành chăm việc Thiện" là pháp trợ duyên, tất cả Phật tử chúng ta đừng quên mục đích chính của Phật pháp là TOÀN GIÁC (mà có 2 chặng quan trọng phải vượt qua, đó là chứng Vô Ngã và chứng Pháp Không _ Vô Pháp) . Nếu Phật tử không phân biệt được cái nào là chính, cái nào là phụ, đem những điều phụ lên làm tiêu chí tu hành thì sẽ lạc vào Ma Nghiệp.
Ở đây "Làm điều lành, chăm việc Thiện" là tiêu chí sinh Thiên thứ nhất, ngoài ra còn rất nhiều tiêu chí khác, đơn cử như :
_ Thanh Tịnh.
_ Vô Vi.
_ "Thiểu dục tri túc" (ít muốn biết đủ)
_ Vô cầu.
_ Vô dục.
_ Buông xả.
_ Dừng đứng tâm ý.
_ Bất tranh.
_ Diệt trừ phàm tính, phiền não.
_ ......
_ ......
Còn rất nhiều tiêu chí khác, các bạn có thể xem lại Kinh Pháp Cú và nhiều nhất là ở Phẩm Bà La Môn.
Giáo Pháp của Phật thì từ đầu đến cuối đều LÀNH, chỉ có điều chư vị Giác Ngộ, Đại Giác Ngộ từ chỗ KHÔNG CHẤP PHÁP NÀO CẢ MÀ PHƯƠNG TIỆN BÀY RA 5 THỪA, còn chư vị Giảng sư ngày nay có những vị tâm đắc với Giáo Điều, Bài Pháp nào thì liền bảo thủ, đi đến đâu cũng ra rả nói theo CHẤP NHẤT của mình, mà không nhớ rằng đạo Phật xây dựng trên căn bản NHẤT THIẾT PHÁP KHÔNG.
Vì không được rõ lắm về lời giáo huấn của bác nguoi aolam, xin được đưa ra vài ý mong được giải đáp.
+ Nếu muốn sanh lên cõi trời thì ít ra cũng đã nhiều đời tu hành Phật Pháp mới lên được. vậy công phu tu hành khi lên trời đều bị mất hết cả hay sao. nếu thế nhân quả chỉ dừng lại ở chỗ thọ hưởng. còn cái phần mà gọi là chỗ chứa hình như là như Lai tạng thì phải. nó bị xóa rồi hay sao mà chủng tử tu hành chạy đâu mất? nếu còn thì vẫn có thể tu hành tiếp được chứ.
+ nếu nói như vậy thì tu hành được hay không là do hoàn cảnh chứ không thuộc về TÂM.
Mà nếu do TÂM thì có liên quan gì đến hoàn cảnh.
nếu nói chỉ có khổ mới tu hành được. mà nỗi khổ trần gian không ngoài miếng cơm , manh áo, danh vọng , nhục , vinh... nhưng chủ yếu là lo cơm ăn áo mặc là chính mới sinh đủ thứ khổ. vậy mà không thể tu hành được nên mới xuất gia. xuất gia rồi thì cũng như lên trời, không phải lo cái khổ nạn cơm áo
Như vậy liệu xuất gia khó tu hơn hay tại gia khó tu hơn( khó thành )
Hay là như ngày nay người thực hành Phật Pháp thì nghèo kiết mùng tơi chẳng có lấy miếng cơm còn phải nhờ vả người thân quen, không có lấy một xu để cúng dường bố thí. thì gọi là tu suông. còn những người giàu ,năng lên chùa bái lễ cúng dường tiền tỉ thì được gọi là chân chánh thực hành lời Phật dạy...
Vì còn u mê nên mở lời mong được chỉ bày.
Chào bạn homeless !
Mặc dầu câu hỏi của bạn không rõ ràng lắm, nhưng nguoi aolam cũng xin cố gắng trong khả năng :
Khi hành giả được sinh Thiên thì "công phu tu hành khi lên trời đều bị mất hết cả hay sao ?"
_ Được sinh Thiên là kết quả "công phu tu hành" đó ! Sao bạn lại cho là mất ? Ví như bạn đem một bao quặng vàng đến lò luyện kim, người ta đưa lại cho bạn 1 chỉ vàng, thì đó là kết quả của 1 ngày cực khổ đào quặng, chứ nào có mất đi đâu. (Không lẻ bạn còn hỏi "cái bao đất đá của tôi đâu ?").
còn cái phần mà gọi là chỗ chứa hình như là như Lai tạng thì phải. nó bị xóa rồi hay sao mà chủng tử tu hành chạy đâu mất? nếu còn thì vẫn có thể tu hành tiếp được chứ ?.
_ Giả sử có vị tu hành chăm chỉ 40 năm, rồi sau đó phạm vào Khẩu Nghiệp (nói một câu mà tội rất nặng) thì vị ấy sẽ đi Địa Ngục bằng "thẻ VIP", công phu 40 năm tu hành của vị ấy không mất, nhưng phải chờ cho hành giả trả xong cái Ác Nghiệp (Khẩu Nghiệp) kia, thì mới phục hồi (restore) lại.
Chắc bạn còn nhớ chuyện "bị đoạ 500 kiếp làm thân chồn chỉ vì một câu nói : Bậc Đại tu hành không lạc vào Nhân Quả", đó là vị Tăng này chưa bài bác Nhân Quả, mà chỉ do hiểu sai mà thôi.
+ nếu nói như vậy thì tu hành được hay không là do hoàn cảnh chứ không thuộc về TÂM.
Câu này là bạn suy luận sai, câu chuyện không phiến diện như thế !
Mà nếu do TÂM thì có liên quan gì đến hoàn cảnh ?.
"Tâm Cảnh bất nhị" bạn ơi !
Như vậy liệu xuất gia khó tu hơn hay tại gia khó tu hơn (khó thành) ?
Tuỳ căn cơ, với căn cơ Nhân Thiên Thừa và Nhị Thừa thì xuất gia dễ thành tựu đạo nghiệp hơn.
Hay là như ngày nay người thực hành Phật Pháp thì nghèo kiết mùng tơi chẳng có lấy miếng cơm còn phải nhờ vả người thân quen, không có lấy một xu để cúng dường bố thí. thì gọi là tu suông. còn những người giàu ,năng lên chùa bái lễ cúng dường tiền tỉ thì được gọi là chân chánh thực hành lời Phật dạy...
Chắc bạn dư biết Phước đức và Công Đức khác nhau chứ ?! Cúng dường bố thí tiền tỉ chỉ như bỏ tiền vào "Ngân Hàng Địa Phủ" kiếp sau rút ra xài, chứ cái "thẻ" này không dùng (không có giá trị) trong "Không môn".
nguoiaolam có đọc trong "84 vị Thánh Tăng Ấn độ" có một vị vốn là "Vương tôn công tử" phát tâm tu Phật. Vị ấy không mang hình thức tu sĩ "đầu tròn áo vuông" mà đóng vai người "vô gia cư" xin vào làm tạp dịch trong Kỹ Viện để kiếm chén cơm sống qua ngày. Bạn cũng biết rồi đó Kỹ Viện (nhà thổ, động mãi dâm) thì rất ô hợp, những Tú Bà hay gái điếm thì đa phần không có ăn nói lịch sự với người làm công bao giờ. Ấy vậy mà nhân vật của chúng ta vẫn kiên trì phục dịch, thậm chí còn phải "đổ bô" cho quý cô nương chảnh choẹ nữa chứ, chuyện nghe mắng chửi vào đầu thì "như cơm bữa".
Công việc nhẫn nhục phi thường ấy chính là Công đức đó, nhẫn nhục phi thường thì mới đạt thành tựu phi thường chứ, nhờ vậy mà 12 năm sau vị ấy THÀNH ĐẠO.
.
Kính chào các bạn ! Chào Hoàng Mai !
Vì Con đường Nhất Thừa dung thông các Thừa, cho nên không chỉ có khuyến tấn mà còn khắt khe với hành giả _ như khi thấy một người trình độ căn cơ Nhân Thiên Thừa mà đi lý luận những chuyện cao xa của Đại Thừa - Tối Thượng Thừa _ liền nhắc nhở là phải "giữ kỹ Thân Khẩu Ý", "nghiêm trì Giới Luật" chứ không bài bác Thừa nào cả.
Sở dĩ có vẻ như bài bác là vì muốn "nâng cấp" cho hành giả (khi thích hợp), muốn "nhổ đinh tháo chốt" cho hành giả (khi thích hợp _ tức là đã "chín mùi").
Đơn cử như bài kệ của Ngài Thần Tú :
"Thân như cây Bồ Đề,
Tâm là đài gương sáng
Phải thường xuyên lau chùi
Chớ để dính bụi dơ".
Ngủ Tổ thấy bài kệ bèn bảo chúng : "Bài này hay đấy ! Các Ông nên học thuộc lòng, ráng thực hành theo, ắt sẽ không bị đoạ vào 3 đường ác".
Bài kệ này khuyên ta nên tích cực "Diệt trừ phàm tính, phiền não" thì đúng nó là Phật pháp rồi, (nhưng lời lẻ vẫn còn vướng mắc trong Nhân Thiên Thừa) cho nên Ngũ Tổ kêu TT Thần Tú vào phòng riêng bảo rằng : "Bài kệ này chưa được, ông hãy về làm lại !". Các bạn thấy không, Tổ đâu có bài bác bài kệ ấy, mà còn khuyên mọi người nên thắp hương, học thuộc lòng và thực hành nữa kia, nhưng "nhổ đinh tháo chốt" cho người đệ tử "trưởng tràng" thân yêu của mình thì chưa phải lúc.
Một vị Quốc sư (TT Thần Tú) có đám tang lớn nhất lịch sử Trung Hoa, thì rõ ràng Ngài đã "lên Tiên" từ khi còn tại thế rồi còn gì !
Xin nhắc lại, những tiêu chí sinh Thiên vẫn là Phật pháp, nhưng chỉ là phương tiện "quá độ", với Phật tử có đủ duyên học Phật pháp, "trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu" mà, thì nên cố gắng "Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu", có như thế mới không phụ lòng đức Từ Phụ.
Mến !
Chào các bạn ! Chào Thế Hùng !
Người chuyên tu Bát Chánh Đạo cải thiện được hành vi bất chính, tạo cho tự thân một đời sống chân chánh ích lợi và thiện mỹ.
Thế giới quan bên ngoài được hình thành từ tâm niệm, là kết quả của hành vi. Do đó, nếu thực hành theo Bát Chánh Đạo thì có thể tạo cho ta một tâm hồn trong sáng, một môi trường lành mạnh, một bầu không khí yên bình (quanh hành giả), một cuộc sống hạnh phúc.
Bát Chánh Đạo gồm :
1. CHÁNH KIẾN : Có kiến thức chân chánh không bị mê hoặc và lôi cuốn bởi ngoại đạo tà giáo.
2. CHÁNH TƯ DUY : Suy nghĩ chơn chánh sẽ giúp ta tránh được những lỗi lầm không mong muốn.
3. CHÁNH NGỮ : Lời nói chân chánh lợi mình lợi người.
4. CHÁNH NGHIỆP : Hành động chân chánh có ích cho mình và không làm thương tổn người khác.
5. CHÁNH MẠNG : Đời sống chân chánh không bị khinh rẽ, chê bai, được mọi người mến mộ, kính trọng.
6. CHÁNH TINH TẤN : Siêng năng chơn chánh sẽ thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
7. CHÁNH NIỆM : Nhớ nghĩ chân chánh, không bị vương vấn những dằn vặt, ân hận, nuối tiếc, những nhớ nghĩ mông lung vô ích.
8. CHÁNH ĐỊNH : Thiền định chơn chánh là công cụ đắc lực bào mòn nghiệp chướng, giúp mở mang trí tuệ.
Thường khi tụng Kinh A Di Đà, chúng ta vẫn có nghe : Ngũ căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phận (Bát Chánh Đạo), ..v....v.... Bát Chánh Đạo nằm trong 37 phẩm trợ đạo, tức là những pháp môn trợ giúp vào cho cuộc đời tu hành, cho hành trình tìm về bến Giác của chúng ta được hanh thông, suông sẻ. Chớ không phải Bát Chánh Đạo là pháp môn "then chốt" để mở "cánh cửa" Phật pháp.
Hành giả nếu một đời chuyên tu Bát Chánh Đạo thì có thể nắm chắc phần "vãng sanh lên Thiên Đường".
Mến !
Kính chào nguoi ao lam ! chào các bạn.
Nhân tiện chủ để của bác Nguoi ao lam,minhdinh xin muốn được đặt ra một câu hỏi như thế này : "Cái gì hay điều gì là gốc,là cốt lõi,là cái hồn để giúp cho những Giáo lý của Đạo Phật có giá trị bền vững,giúp cho chúng ta,những Phật tử,khỏi bị lạc lối trong quá trình tu học của mình,không khiến chúng ta đánh mất bản thân mình,giúp chúng ta vững bước trên con đường tu tập lâu dài của mình."
Điều này chúng ta hay được nghe,hay được khuyến khích thực hiện nhưng đôi khi chúng ta hay quên mất tầm quan trọng của nó (hoặc chúng ta chưa thấy được ý nghĩa thực sự của nó).
Cám ơn minhdinh đã hỏi đúng lúc !
Thưa các bạn, có đôi khi người học Phật sơ cơ muốn có một cái nhìn khái quát về đạo Phật, liền được giới thiệu TỨ DIỆU ĐẾ (KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO).
Về chữ KHỔ, thì người đời ai cũng thấm đẫm nó rồi, nhưng không nhận rõ nó lắm, được quý Thầy quý Sư diễn giải ra thì thấy rõ hơn, thấy chán đời hơn. Ba chữ kế tiếp cũng được Giảng Sư triễn khai đầy đủ, nhưng cái đọng lại trong tâm hồn người mới là một "đống" những "Phải thế này, phải thế nọ", nào là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, ........tất cả Giáo lý Phật pháp được "nhét" vào lộn xộn.
Sao thế nhĩ ? Vì chính Giảng Sư cũng không xem trọng chuyện THÀNH ĐẠO, chuyện GIẢI THOÁT SINH TỬ LUÂN HỒI; vì chính Giảng Sư cũng nghĩ rằng "Thời buổi này, làm gì có chuyện THÀNH ĐẠO, chuyện GIẢI THOÁT SINH TỬ LUÂN HỒI". Mà G/s chỉ chú trọng : nói làm sao cho bài thuyết pháp của mình nó hoành tráng, nó bao quát (nó được dẫn chứng Tây Ta Tàu Pali Phạn ngữ đủ thứ), được nhiều người vỗ tay tán thưởng.
Cái Giáo lý "cốt lõi" nhất trong đạo Phật là gì ? Là VÔ NGÃ ! Cái VÔ NGÃ này là cái đức Phật đã chứng biết và khi "chuyển pháp luân" mục đích của đức Phật là muốn cho tất thảy những kẻ mê lầm Bản Ngã nhận ra Chân Lý này, để mà tự Giải Thoát Sinh Tử Luân Hồi (có thể nói là "không cần ai chứng minh cho sự tự Giải Thoát của hành giả").
Giáo Lý VÔ NGÃ gồm có 2 phần : Nhân vô ngã và Pháp vô ngã. Mà NHỊ THỪA là giúp đưa hành giả THỰC CHỨNG NHÂN VÔ NGÃ.
(Còn Đại Thừa sẽ giúp đưa hành giả THỰC CHỨNG PHÁP VÔ NGÃ).
Điều này là mục đích, là "cốt lõi" của đạo Phật, còn những Giáo Lý khác chỉ là trợ duyên, là Giáo lý Bổ Sung.
Cũng như vẽ tranh chân dung thì quan trọng nhất là bố cục, kế đến là cặp mắt truyền thần, nếu các bạn đã có bố cục và đã thể hiện được cặp mắt có thần thì có thể xem như là "tác phẫm" của bạn đã gần xong. (Phần còn lại chỉ là chuyện thời gian mà thôi).
Mến !
Kính chào quý đạo hữu !
Hôm nay chúng ta đi vào phần chính của NHỊ THỪA.
..........2. _ NHỊ THỪA gồm có 2 Thừa là Tiểu Thừa và Quyền Thừa.
Cả 2 Thừa này đều có điểm chung là :
a. Hướng "tiêu cực" :
Hành giả tu 2 thừa này đều có khuynh hướng không muốn đụng chạm với đời, cuộc sống càng đơn giản càng tốt, thích nơi vắng vẻ (thâm sơn cùng cốc), tránh nơi phồn hoa nào nhiệt, không hề mong muốn bả vinh hoa phú quý.
Chuyện độ sinh thì ai có duyên đến, cầu khẩn lắm, thấy căn cơ thích hợp thì mới được nhận làm đệ tử, nhận đệ tử rồi dạy dỗ được bao nhiêu thì dạy, không quan trọng cái chuyện đệ tử có thể thành tựu đạo nghiệp hay không ? Sư phụ biết được bao nhiêu dạy hết cho đệ tử trong một thời gian ngắn, rồi "đường ai nấy đi", "thân ai nấy giữ", "khôn sống mống chết".
b. Điểm đến :
Hành giả tu 2 Thừa này đều cùng đến đích cuối là Niết Bàn tịch tĩnh, vất bỏ phàm trần, nhân thế.
Nhưng phương tiện để đến Niết Bàn thì mỗi thừa mỗi khác :
a. Tiểu Thừa chủ yếu Quán Vô Ngã (không kể các pháp môn trợ đạo), mà nhận ra Bản Thể Tâm.
b. Quyền Thừa chủ yếu quán sự vận hành của các pháp từ sanh trụ đến di diệt _ Thập Nhị Nhân Duyên _ mà nhận ra "Cái không sanh trụ dị diệt".
-------------
A. _ Trước tiên chúng ta cùng khảo sát phương pháp quán Vô Ngã của Tiểu Thừa nhé :
Một đứa trẻ sơ sinh thì chưa biết gì, cái biết đầu tiên của nó là biết khóc để thở (theo nhu cầu của cơ thể), nếu không khóc đứa bé sẽ thiếu oxy mà chết, cái biết thứ hai là biết cái núm vú cung cấp sữa qua miệng làm cho bao tử cảm thấy dễ chịu (hết đói), rồi đứa bé lần lượt biết nhìn ngó, biết quơ quơ cử động tay chân. Tất cả mọi cái biết sẽ lần lượt được tiếp thu, tạo thành cái biết cá nhân : này mẹ này cha, này ông bà, này anh chị em, biết thương biết ghét biết thích thú biết giận hờn.
nguoiaolam gọi chung những tri thức _ cái biết này _ là CÁI BỊ BIẾT, tức là BIẾT có điều kiện _ sự tiếp xúc tương tác giữa lục căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý) và lục trần (sắc thinh hương vị xúc pháp) mà sinh ra, nhà Phật gọi là THỨC. Cái THỨC hay CÁI BỊ BIẾT là cái đi từ 0 đến CÓ, rồi phát triễn dần lên.
Vì sao nguoiaolam gọi THỨC là CÁI BỊ BIẾT ?
_ Vì muốn dọn đường cho vế thứ 2 là CÁI TỰ BIẾT (tức là CÁI BIẾT KHÔNG LỆ THUỘC ĐIỀU KIỆN GÌ CẢ, cái đó gọi là Trí (một tên khác của A Lại Da Tâm).
[ Xin chú ý CÁI BỊ BIẾT mà nguoiaolam nói khác với CÁI BỊ BIẾT mà vodanh hiểu. Phải chăng với vodanh : Đối tượng của CÁI BIẾT là CÁI BỊ BIẾT ? Phải chăng với vodanh CÁI BIẾT là chủ thể, là hữu tình; còn CÁI BỊ BIẾT là đối tượng (đối trọng, đối tác, ...) là vô tri ??? ]
CÁI BỊ BIẾT mà nguoiaolam nói vẫn là chủ thể, là cái THỨC (hay Thần Thức).
Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật phân tích cho Ngài A Nan biết : Cái Thấy thì phải có 3 điều kiện con mắt, ánh sáng, vật thể, không có 3 điều kiện đó thì Nhãn Thức không sinh; nhưng CÁI TÁNH THẤY thì không có điều kiện gì cả, không có ánh sáng, không có vật thể, không có mắt chúng ta vẫn thấy đó là "THẤY tối thui". CÁI TÁNH THẤY trong Kinh Lăng Nghiêm đức Phật dụ cho A Lại Da Tâm hay CÁI TỰ BIẾT (không cần điều kiện gì cả, không hề có sinh ra hay mất đi gì cả).
Cũng CÁI TỰ BIẾT này, trong bài này nó được gọi là A Lại Da Tâm, sau này lên cấp cao hơn, ở trình áp chót thì CÁI TỰ BIẾT này có tên gọi _tuỳ theo công năng _ là Diệu Quan Sát Trí, Bình Đẳng Tánh Trí hay là Nhất Thiết Chủng Trí.
Bài hôm nay tuy ngắn gọn nhưng nó bao quát lắm, là "then chốt" là "cốt tuỷ" của Nhị Thừa đó !
Để suy tư cho bài này, nguoiaolam có một bức ảnh :
Xin các bạn, bạn nào có thể cho nguoiaolam biết :
1. _ Bức ảnh trên nhằm diễn tả cái gì ?
2. _ Cái Trí (hay A Lại Da Tâm) nằm ở đâu trong bức ảnh trên ?
Mến !
Kính nguoiaolam !
Xin cho con hỏi : Khi đức Lục tổ Huệ Năng nói với Ngài Huệ Minh "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đương lúc đó là cái Bản lai diện mục của Minh thượng toạ đó !"
Thưa bác, phải chăng lúc đó Ngài Huệ Minh thấy được "Cái Tự Biết" rồi sinh ra vui mầng hoan hỉ ?
Trong bức ảnh của bác, con không thấy "Cái Tự Biết" hay cái Trí (hay A Lại Da Tâm) ở đâu hết, con chỉ thấy 2 con mắt tượng trưng cho cái Thức hay "cái Bị Biết" mà thôi.
Kính !
Chào minh thức !
Đúng vậy ! lúc đó Huệ Minh vui mừng vì đã "chạm mặt chủ nhân ông", tuy nhiên chuyện này khi kể lại đã làm cho vô số người hiểu lầm rằng cái "nhất thời hoang mang vô định" là Niết Bàn, là Bản Thể Tâm. Đây là cái sai lầm "chết người".
Không phải vậy đâu, cái "nhất thời hoang mang vô định" vẫn là CÁI SỐNG CỦA THỨC _ Ý Thức, sống với Thức thì chết mờ mịt, chứ nào phải chứng đắc gì.
Cái giây phút Huệ Minh "chạm mặt chủ nhân ông" là giây phút TẠM THỜI KHÔNG CÓ SỰ HIỆN DIỆN CỦA Ý THỨC _ VẮNG BẶT Ý THỨC (rồi sau đó Ý Thức trở lại vẫn là con người cũ). Đây mới là chứng ngộ, cái giây phút nghiêm trọng "bẻ ngoặc" cuộc đời của hành giả (hay còn gọi là "sang trang mới") ấy, có nhiều ấn tượng sâu sắc mà không nên kể ra (vì sẽ tạo nên vô số "chứng ngộ giả").
Huệ Minh chỉ nhất thời trải nghiệm khoảnh khắc "VẮNG MẶT Ý THỨC" là đủ để đi "hùng cứ" một phương.
Ở Việt Nam cũng có Ngài Minh Tịnh Thiền sư "nhất thời đắc pháp" như vậy ở Tây Tạng, về Việt Nam mở đạo tại Bình Dương (Tây Tạng Tự) là vị sơ Tổ.
Đúng vậy ! CÁI TỰ BIẾT (hay A Lai Da Tâm, cũng đã được gọi là Căn Bản Trí) thì vô hình vô tướng làm sao mà vẽ đây ?! Tuy nhiên bạn có thể chỉ định CÁI HÌNH NỀN (trắng xoá _ không màu) là ảnh minh hoạ của CÁI TỰ BIẾT.Quote:
Nguyên văn bởi minh thức
Mến !
Kính nguoiaolam !
Như bác nói : theo vodanh, đối tượng của cái biết chính là cái bị biết, cái biết là chủ thể hữu tình, còn cái bị biết là đối tượng (đối trong, đối tác...) nhưng không hẳn là vô tri. Vì cái bị biết bao gồm chính ta: thân thể của ta (bao gồm cả mắt mũi tai....), cảm xúc của ta, ý nghĩ của ta...
Tuy nhiên vodanh có thể biết cảm xúc của mình từ đâu ra, chứ suy nghỉ của mình từ đâu ra thì chịu, không thể biết nó từ đâu ra....Cái bị biết gồm cả chủ thể nhưng chỉ tới mức cảm xúc. Còn cái chủ thể sinh ra ý nghĩ như thế nào thì chịu. Đây là điểm mù của vodanh. Cái tự biết vodanh không mắm bắt được.
Khoa học ngày nay có thể giúp những người mù có trải nghiệm về sự thấy, họ quay phim cảnh vật và chuyển thành tín hiệu điện, truyển vào cơ quan cảm thụ sau điểm vàng, tín hiệu truyền lên não và người mù có trải nghiệm của sự thấy, như vậy tính thấy và con mắt không phải là một. Tuy nhiên tính thấy là như thế nào thì chưa được rõ.
Vì ý nghĩ sinh ra như thế nào, cái gì sinh ra ý nghĩ vodanh không hiểu được nên đề tài này đến đây đành đứng nhìn chứ không có ý kiến gì.
Kính!
Kính nguoiaolam !
CT tự thấy mình mình rất là non kém so với nhiều vị trong D Đ, nói chi đến Pháp Phật.
Để cùng tìm hiểu, CT xin được thưa thốt:
Bác viết : nguoiaolam gọi chung những tri thức _ cái biết này _ là CÁI BỊ BIẾT, tức là BIẾT có điều kiện _ sự tiếp xúc tương tác giữa lục căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý) và lục trần (sắc thinh hương vị xúc pháp) mà sinh ra, nhà Phật gọi là THỨC.
Theo CT thì:
Sáu căn tương tác với 6 trần chưa đủ đk sinh lục thức. Thức chỉ có khi mà đem so sánh cùng với bao thức khác trước đó đã lưu (save) và cố tình lưu.
Căn (1) + trần (1) = Ảnh (1), ảnh (1) nầy có trở thành thức (1) hay không khi ta só sánh với quá khứ (1') hoặc ta lưu giử nó để khi cần có cái mà đối chứng. Việc so sánh đối chứng hay lưu giữ, nhà Phật gọi là Hành
Bậc có chút đỉnh "Giác" bỏ túi thủ thân thì cũng so sánh, cũng đối chứng nhưng dừng việc lưu. Thủ diệt thì Hửu diệt, Hửu diệt thì Ái diệt, ...
Đó là chứng Vô ngã của nhị thừa vậy.
CT, nói không biết có đúng không, xin được lời chỉ giáo Giáo nghĩa Đại Thừa.
Kính.
Cám ơn những quan kiến rất hay của ct-02 !
Bài phát biểu của C/T làm cho nguoiaolam liên tưởng đến một bài thơ trong Thiền sử :
“Nhạn quá trường không.
Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý.
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”
(Chim bay ngang trời,
bóng chìm đáy nước.
Chim không cố ý để lại dấu trong nước,
Nước cũng chẳng quan tâm ghi lại bóng chim)
Nếu quả thật C/T có ý nghĩ đó "như tấm gương trong sáng, có ảnh thì hiện, không hình cũng chẳng sao" thì chuyện này ta hãy tạm gát lại, vì chưa phải lúc để bàn sâu vào chuyện này.
Bây giờ cho nguoiaolam hỏi ct-02 câu này nhé :
_ Giả sử điện thoại di động của C/T đã bị "bệnh nặng" (rất nhiều lỗi), C/T định thay cái máy mới, tiền thì đã sẵn (chỉ chưa đi mua mà thôi). Bây giờ có một tin nhắn rác xuất hiện, hỏi vậy ct-02 có cần thiết "save" hay xóa nó không ?
Mến !
Chào ct-02 ! Có phải bạn cho rằng :
_ Trong 12 nhân duyên (Vô minh - Hành - Thức - Danh Sắc - Lục nhập - Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Sanh - Lão Tử) như một sợi dây xích có 12 khoen liên tục kết nối, không đầu không đuôi, vì chúng làm nhân làm duyên cho nhau để thêu dệt nên vòng Sinh Tử Luân Hồi bất tận; bây giờ chúng ta chỉ cần phá vở một mắt xích "Hành" tức là nhìn ngó ghi nhận sự việc mà không "lưu trử" (save); thì sợi xích liền bị đứt đoạn, vô hiệu hoá chăng ?
Liệu có thật như vậy chăng ? Rằng chỉ cần "không lưu trử" gì thêm là hành giả đã chứng ngộ vô ngã rồi chăng ? Hay là "một sự trống rỗng vô nghĩa" mà Ý Thức (CÁI BỊ BIẾT) vẫn còn nguyên vẹn ở đó ?
Người chứng ngộ vô ngã là người biết rõ rằng "mình chỉ là khách trọ" tối đến xin ở trọ rồi sáng lại đi, cớ sao lại lo cho cái nền gạch bẫn hay không bẫn, gương mờ với gương trong ?
(Giai đoạn này chỉ mới nói người chứng ngộ Vô Ngã, chưa nói đến vị "hành Nguyện độ sinh").
Mến !
Đó chỉ là "Dục như ý túc".
Giống như một người dùng cưa mà muốn cưa núi Tu Di ra làm hai, một người dùng thùng bự nhất có thể tát cạn nước biển, chứ nói gì chuyện làm đứt xích, hay chặt đứt sên.
Nhưng Phật lại dạy "Thủ diệt tức hửu diệt, hửu diệt tức ái diệt, ái diệt tức sanh diệt, sanh diệt tức lảo bịnh tử diệt, lảo bịnh tử diệt tức vô minh diệt,..." để làm gì?
Theo CT là :
1/ Để làm mõng dần, làm cạn dần nghiệp lực của chúng sanh.
2/ Quá trình hành là quá trình "lột xác" từ phàm thành Thánh, đỉnh cao là A La Hán.
3/ Chỉ có chúng sanh mỏng nghiệp lực, hoặc hàng Thánh mới có thể dự vào nhất thừa pháp của Phật.
Kính.
Kính bác nguoiaolam !
Con có đọc đoạn văn bản này của Đại Đức Rahula trong quyển "Đức Phật đã dạy những gì ?" :
Trước khi thực sự đi vào vấn đề Vô ngã, ta nên có một ý niệm sơ qua về luật duyên khởi. Nguyên tắc của lý thuyết này được tóm tắt trong một công thức gồm 4 dòng:
Cái này có, thì cái kia có (imasmim sati idamhoti).
Cái này sinh, thì cái kia sinh (imassuppàda idam uppajjati).
Cái này không, thì cái kia không (imasmim asati idam na hoti).
Cái này diệt, thì cái kia diệt (imassa nirodhà idam airujjhata)[3].
Theo nguyên tắc điều kiện tính, tương đối tính và tính hỗ tương tùy thuộc ấy, sự tiếp tục của đời sống và sự chấm dứt của nó được giải thích trong một công thức chi tiết gọi là duyên khởi, (nghĩa là sự sinh khởi có điều kiện hay duyên) gồm 12 yếu tố:
1- Vô minh (làm) duyên (cho) hành (những hoạt động cố ý hay nghiệp) (avijjàpaccayà samkhàvà).
2- Hành (làm) duyên (cho) thức (samkhàrapaccayà vinnànam).
3- Thức (làm) duyên (cho) danh sắc (những hiện tượng tâm lý và vật lý) (Vinnànapaccayà nàmarùpam).
4- Danh sắc (làm) duyên (cho) lục nhập (5 giác quan và ý thức) (Nàmarùpapaccayà salàyatanam).
5- Lục nhập (làm) duyên (cho) xúc (động chạm, tiếp xúc) (salàyatanapaccayà phasso).
6- Xúc (làm) duyên (cho) thọ (cảm giác) (phassapaccayà vedanà).
7- Thọ (làm) duyên (cho) ái (khao khát ham muốn) (vedanàpaccayàtanhà).
8- Ái (làm) duyên (cho) thủ (bám víu, giữ lấy) (Tanhapaccayà upàdànam).
9- Thủ (làm) duyên (cho) hũu (quá trình sinh ra và trở thành) (upàdànapaccayà bhavo).
10- Hữu (làm) duyên (cho) sinh (sự sống, sinh ra) (Bhavapaccayà jàti).
11- Sinh (làm) duyên (cho)
12- Lão (già) tử (chết) ưu bi khổ não (buồn lo đau đớn) (Jàtipaccayà jaràm maranam).
Ðây là quá trình theo đó sự sống đã phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu ta đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của quá trình:
Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt v.v.. cho đến khi sinh lão, tử, ưu bi khổ não... diệt.
Cần nhớ rõ một điều rằng mỗi yếu tố trên đây đều vừa là nhân vừa là quả, nó vừa bị định đoạt bởi (paticcasamuppanna), và vừa làm điều kiện cho (paticcasamuppàda)[4]. Bởi thế chúng đều là tương đối, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan với nhau, không có cái gì là tuyệt đối hay biệt lập, do đó mà Phật giáo không công nhận có "nguyên nhân đầu tiên" như ta đã thấy trước kia[5]. Duyên khởi nên xem như một vòng tròn, chứ không nên xem là một sợi xích[6].
Con thắc mắc : Không biết đảo ngược công thức là làm sao ? Vì lý do nào đảo ngược lại chấm dứt được quá trình ? Trong khi câu cuối lại nói " Duyên khởi nên xem như một vòng tròn, chứ không nên xem là một sợi xích"
Kính !
Kính các bác, các anh chị !
Con mới vào diễn đàn, xin phép góp một bài hát.
Để thư giãn một chút, con xin cho phép đăng một bản nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, bài Cát Bụi, hình như tác giả cũng muốn nói TA CHẲNG LÀ CÁI GÌ HẾT !
Lấy ví dụ về Thức (thành lập như thế nào).
Tai ta nghe một đoạn nhạc, âm thứ 1 cho ra "thức 1" âm thứ 2 cho "thức 2" ... thứ "n" cho "thức n", nhạc hay, vì bởi là một chuổi kết hợp những "thức 1" + "thức 2" + "thức 3"+...+ "thức n" ... thành giai điệu , chứ thật ra tự nó "thức n" chẳng có gì là hay cả. Khi nào bạn đánh đờn chỉ một âm duy nhất bất kỳ (thức n) và nghe thử xem có "hay" không?
Và "cái hay" (hoặc dở) là THỨC UẨn.
Dỉ nhiên, thức uẩn còn có nhiều cách thành lập khác. Chúng ta cùng nhận xét một đoạn văn sau.
Quote:
Thức uẩn : Nếu bị các sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn chi phối thì nó sẽ biến thành thức uẩn không phải là thức như thật thức. Như vậy, thức như thật thức đó chính là đoạn diệt sự chồng lấp của thức uẩn trong thức. Đây cũng chính là chuyển thức thành trí, là sự nhìn nhận từ thấy nghe hay biết 5 giác quan của như lý tác ý ( thành sở tác trí ) cho ra chánh tri, chánh kiến và lúc này chẳng còn trở lại thức nữa. Nhiều người, cho rằng cứ nắm lấy niệm niệm tương tục mà chuyển thức thánh trí, đó là sai lầm, cứ 1 chút là thức tức chúng sanh rối chút trí tức Phật, cứ tương tục mãi như thế thành Phật có nghĩa gì ? khi mà tí chúng sanh rồi tí Phật.
Do đó, người kiến tánh hay thấy tánh < thấy nghe hay biết> đều giống người bình thường cả, biết tất cả sắc thanh hương vị xúc pháp như người bình thường, nhưng cái nghĩa không phân biệt bây giờ nó mới đúng nghĩa của không phân biệt.
Nhiều người tưởng tri rằng, nhìn con Gà mà chẳng cho đó là con Gà là sai, sự tưởng tri hoàn toàn lệch lạc, dối người dối mình. Người kiến tánh vẫn phân biệt được thiện ác xấu đẹp, nhưng họ là người vô sự, cái nghĩa của vô sự là chẳng dính mắc, đi trong sắc thanh hương vị xúc pháp mà chẳng bị sắc thanh hương vị xúc pháp cuộc hạng.
Nhiều người cho rằng, cái nghĩa của vô sự là bịt mắt, bịt tai, để tránh trần cấu, thì cho là tịnh tướng đã được lập thì đồng với kiến tánh, như thế là sai lầm? vì đó là kháng tâm mà quán tịnh, chẳng phải chơn tịnh, chư Phật, chư Bồ tát các ngài là chơn tịnh, cái tịnh không bị trói buộc, vô ngại tự tại, đây là cái tịnh chơn thường của tự tánh Phật, không phải cái tịnh của kháng tâm mà trụ tịnh, rồi sanh tướng tịnh, lập tất cả công phu để có tịnh, mà bị tịnh trói. Kháng được tâm thì cho rằng tịnh, tí hết kháng tâm được thì hết tịnh, vậy tịnh kiểu này vô nghĩa, rồi lại tinh tinh lịch lịch trong cái tịnh tướng, sanh tướng chướng đạo, một niệm vô minh vẫn hoàn nguyên vô minh.
Như vậy, kiến tánh là cái nhìn từ thấy nghe hay biết trong suốt nhất, chẳng có ái thủ trong đó, để thấy rỏ điều này tôi xin dẫn chứng kinh Phật để chỉ ra:
Tiểu Bộ Kinh thuộc kinh pali :
Có nói rằng : Lúc ấy, đức Phật rời khỏi tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana) đi trì bình khất thực tại Xá Vệ (Sāvatthi) thì có một vị bà-la-môn đã già, tên là Bāhiya Dāraciriva, đi tìm kiếm ngài để hỏi pháp. Khi ấy, đức Phật đang ôm bát đi vào giữa các xóm nhà thì Bāhiya Dāraciriva đến gần bên, cúi đầu xuống chân ngài:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.
- Nay là không phải thời, này Bāhiya! Ông không thấy là Như Lai đang đi trì bình khất thực đó sao?
- Con thấy, bạch Thế Tôn! Nhưng mạng sống của đức Thiện Thệ và mạng sống của chính con không biết là nó sẽ xảy ra lúc nào. Bởi vậy, mong Thế Tôn thuyết pháp cho con nghe.
Như thế, đức Phật đã từ chối lần thứ hai, lần thứ ba, sau đó, ngài đã thuyết ngắn gọn tinh yếu của giáo lý thoát khổ như sau:
“- Vậy này Bāhiya! Ông cần phải học tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri.
Như vậy, này Bāhiya! Nếu trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri – thì không có ông ở trong ấy, ông không là chỗ ấy (ý nói không có bản ngã của ông ở trong ấy, ví dụ khi một cảm thọ đau thì chỉ là một cảm thọ đau chứ không có cái gọi là “tôi đau” ở trong đó)! Do vậy, này Bāhiya! Ông không là đời này, ông không là đời sau, ông không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau”.
Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bāhiya Dāruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Đức Phật rời chân không bao lâu thì nghe tin có một con bò điên đã húc chết lão bà-la-môn già, ngài bảo với chư vị tỳ-khưu:
Này các thầy tỳ-khưu! Hãy đến đấy, lấy thân xác Bāhiya Dāruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Lão bà-la-môn kia là một vị đồng phạm hạnh với các thầy đã qua đời!
Và thế là đức Phật tuyên bố Bāhiya Dāruciriya đã nhập Niết-bàn!
Chào bạn Thế Hùng,Quote:
Nguyên văn bởi Thế Hùng
Trong khi chờ đợi bác Nguoiaolam giải thích câu hỏi của bạn,minhdinh không kìm được xin tham gia thảo luận câu hỏi này của bạn vì đây là phần minhdinh có thể nói là "thích" nhất trong các giáo lý của Đạo Phật.
Như bạn đã biết, lý Duyên Khởi nổi tiếng với bốn câu kệ trên,chỉ cần với bốn câu như vậy thôi là giáo lý của Đức Phật đã bao trùm và vượt lên tất cả các triết lý,tư tưởng của những vị khác,nó thậm chí bao trùm lên cả Khoa học nữa.
Cái này có thì cái kia có
Cái này không thì cái kia không
Cái này sanh thì cái kia sanh
Cái này diệt thì cái kia diệt
Bốn câu kệ này chính là tiêu biểu cho lý tưởng Trung Đạo mà Đức Phật đã tìm ra trong quá trình giác ngộ.Nó chỉ cho ta thấy rõ mối liên kết,sự tương hỗ,sự liên quan,sự tương tác của mọi sự vật và hiện tượng trên đời này.Từ vũ trụ vô cùng cho đến các hạt vật chất nhỏ nhất,từ những tư tưởng "phàm phu" cho đến những ý nghĩ của các Bậc Giải Thoát.Tất cả đều có liên quan và tác động qua lại với nhau để cùng tồn tại,cùng phát triển.Ví như có Ta Bà thì phải có Tịnh Độ,có Vọng Tâm thì phải có Chân Tâm,có Vô minh thì mới có Giải thoát,có phàm phu thì mới có Phật tánh...Những cái đó không phải là tư tưởng Nhị Nguyên mà đó chính là tư tưởng Trung Đạo vậy.Không có bất kỳ một sự vật-hiện tượng nào tự nhiên mà hình thành,tự nhiên mà tồn tại được một mình cả,tất cả đều có sự liên quan,tác động qua lại,là NHÂN_QUẢ của nhau,là Duyên Khởi của nhau.Chính vì thế mà Đức Phật mới nói : Trùng trùng Duyên Khởi.
Đó chính là cái vòng tuần hoàn lập đi lập lại bất tận ở bất cứ nơi nào,bất cứ thời gian nào.Nó không có điểm khởi đầu và kết thúc.Đó là qui luật,là NHÂN-QUẢ.
Công thức rất đơn giản :
Vì Vô minh(sinh)-->Hành -->Thức -->Danh sắc --> Lục căn -->Xúc -->Thọ -->Ái -->Thủ -->Hữu -->Sinh -->Lão tử -->Luân Hồi
Bây giờ,nếu muốn thoát khỏi Luân Hồi,thoát khỏi Sinh Tử thì chỉ cần làm ngược lại,tức là :
Vì Vô minh(diệt) --> Hành -->Thức --> Danh sắc --> Lục căn -->Xúc -->Thọ -->Ái -->Thủ -->Hữu -->Sinh -->Lão tử -->Giải Thoát
Nói đơn giản là như vậy cho dễ hình dung.Tức là nếu Vô minh không sinh ra thì một chuỗi những cái quả phía sau cũng không sinh ra.Hay có thể nói nếu ta diệt được Vô Minh thì tự nhiên chuỗi quả phía sau cũng bị diệt."Cái này sanh thì cái kia sanh,cái này diệt thì cái kia diệt" là vậy.
Và nó là một vòng tròn là vì :
Vì Vô minh(sinh)-->Hành -->Thức -->Danh sắc --> Lục căn -->Xúc -->Thọ -->Ái -->Thủ -->Hữu -->Sinh -->Lão tử -->Luân Hồi --> Vô minh(sinh) --> ....-->Luân Hồi...
Vì Vô minh(diệt) --> Hành -->Thức --> Danh sắc --> Lục căn -->Xúc -->Thọ -->Ái -->Thủ -->Hữu -->Sinh -->Lão tử -->Giải Thoát -->Vô minh(diệt) --> ... -->Giải Thoát ...
Đó chính là một vòng tuần hoàn bất tận,không có điểm khởi đầu và kết thúc.Cũng như vật chất cũng vậy,vật chất chịu sự vô thường do Thành-trụ-hoại-không,đó cũng là một vòng tuần hoàn bất tận,cứ sinh ra rồi lại diệt,diệt rồi lại sinh ra.
Ngày nay,các nhà Khoa học đã chứng minh vũ trụ của chúng ta được sinh ra từ một vụ nổ Big Bang.Và câu hỏi mà các nhà Khoa học đang thắc mắc,đang tìm kiếm là : trước Big Bang thì là gì ?
Hơn hai ngàn năm trước Đức Phật đã giải thích rất rõ :
Cái này Có thì cái kia Có
Cái này Không thì cái kia Không
Cái này Sanh thì cái kia Sanh
Cái này Diệt thì cái kia Diệt.
Thân.
Kính cám ơn sự góp bài nhiệt tình của các bạn !
Ở đây chúng ta có 2 vấn đề :
I .
Chúng ta thấy CT cho rằng chỉ cần nhìn và thấy, không so sánh hay lưu giữ, có so sánh lưu giữ thì mới trở thành Thức.Quote:
Nguyên văn bởi ct-02
Rồi cũng chính CT tìm ra lời giải của vị Đại Đức nào đó (vì không thấy ghi tên) rất hay :
Người kiến tánh vẫn phân biệt được thiện ác xấu đẹp, nhưng họ là người vô sự, cái nghĩa của vô sự là chẳng dính mắc, đi trong sắc thanh hương vị xúc pháp mà chẳng bị sắc thanh hương vị xúc pháp cuộc hạng.
Như vậy là CT đã tự phá mê cho mình rồi đấy nhé ! (?)
-----------
II . Vấn đề thứ 2 là Lý Nhân Duyên (hay Thập Nhị Nhân Duyên), chúng ta thấy có được gợi ý 2 cách giải quyết :
1. Xem 12 nhân duyên như 12 khoen xích không đầu không đuôi (một vòng tròn khép kín không lối thoát) nhưng nếu chặt đi một mắt xích thì tất cả sẽ vô hiệu (ta sẽ thoát ?)
2.
Cách thứ 2 là "đảo ngược công thức" : Cái này diệt thì cái kia diệt, diệt đến cái thứ 12 thì hết chuyện.Quote:
Nguyên văn bởi Thế Hùng
Ấy da ! Vấn đề này thì hơi đau đầu đấy ! nguoiaolam xin thành thật nghĩ không ra làm thế nào để diệt cái này cái kia, hay là đảo ngược cái công thức gì đó ?
Thôi thì nói hàm hồ rằng : "Ôi ! đau cái đầu quá" rồi ôm đầu bỏ chạy. Hề hề ....! Vậy là nguoiaolam đã thoát được rồi ! Ra quán ngồi "uống cà phê" được rồi (cũng là thoát vậy !).
Nói đùa cho vui, chứ thiễn ý nguoiaolam cho rằng 12 nhân duyên vốn là bài toán không có đáp án (nếu ta cứ luẫn quẫn với nó), do vì không có lối thoát cho nên nghi tình ngày càng "đóng khối" (đây là Định đó !) cộng thêm chữ Duyên (Công Đức tu hành) nữa thì cái "U nhọt" này vở ra, chứng Vô Ngã ! (Không biết có phải như vậy không nữa ?).
Tóm lại, theo nguoiaolam thì Hành giả phải thấy được cái Vô Ngã tướng (tức là không thật sự có) của bất kỳ một Nhân Duyên nào (Sanh hay Lão, hay Tử hay Hành hay Thức, .....) và từ đó mọi chuyện trở nên .....hết chuyện.
Kính nguoiaolam !
Con không dám nghi ngờ câu chuyện này :
"Tiểu Bộ Kinh thuộc kinh pali :
Có nói rằng : Lúc ấy, đức Phật rời khỏi tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana) đi trì bình khất thực tại Xá Vệ (Sāvatthi) thì có một vị bà-la-môn đã già, tên là Bāhiya Dāraciriva, đi tìm kiếm ngài để hỏi pháp. Khi ấy, đức Phật đang ôm bát đi vào giữa các xóm nhà thì Bāhiya Dāraciriva đến gần bên, cúi đầu xuống chân ngài:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.
- Nay là không phải thời, này Bāhiya! Ông không thấy là Như Lai đang đi trì bình khất thực đó sao?
- Con thấy, bạch Thế Tôn! Nhưng mạng sống của đức Thiện Thệ và mạng sống của chính con không biết là nó sẽ xảy ra lúc nào. Bởi vậy, mong Thế Tôn thuyết pháp cho con nghe.
Như thế, đức Phật đã từ chối lần thứ hai, lần thứ ba, sau đó, ngài đã thuyết ngắn gọn tinh yếu của giáo lý thoát khổ như sau:
“- Vậy này Bāhiya! Ông cần phải học tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri.
Như vậy, này Bāhiya! Nếu trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri – thì không có ông ở trong ấy, ông không là chỗ ấy (ý nói không có bản ngã của ông ở trong ấy, ví dụ khi một cảm thọ đau thì chỉ là một cảm thọ đau chứ không có cái gọi là “tôi đau” ở trong đó)! Do vậy, này Bāhiya! Ông không là đời này, ông không là đời sau, ông không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau”.
Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bāhiya Dāruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Đức Phật rời chân không bao lâu thì nghe tin có một con bò điên đã húc chết lão bà-la-môn già, ngài bảo với chư vị tỳ-khưu:
Này các thầy tỳ-khưu! Hãy đến đấy, lấy thân xác Bāhiya Dāruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Lão bà-la-môn kia là một vị đồng phạm hạnh với các thầy đã qua đời!
Và thế là đức Phật tuyên bố Bāhiya Dāruciriya đã nhập Niết-bàn!"
Nhưng con thắc mắc, vì sao lão bà-la-môn già, không kinh qua quá trình tu học Phật pháp gì cả, chẳng Giới Định Tuệ, Chẳng học Tứ Diệu Đế, Bát Thánh Đạo, Thập Nhị Nhân duyên gì cả, mà chỉ nghe đức Phật thuyết có mấy câu _ chỉ nghe qua một lần _ còn chúng con thì đọc đi đọc lại mãi mà "mèo vẫn hoàn mèo" hay nói rõ hơn là "mù vẫn hoàn mù" _ mà lão bà-la-môn già đã đắc quả A La Hán, nhập Niết Bàn ?
Trong chuyện này còn có điều gì sâu kín mà chúng con chưa biết, nếu bác có biết, kính xin bác giải thích cho.
Hi, thưa đạo hữu minhquang !
Đức Phật thuyết pháp cho vị Bà la môn kia, đức Phật muốn nói rằng bận tâm làm chi, cái thấy chỉ là cái thấy, cái thọ tưởng chỉ là cái thọ tưởng, đau chỉ là đau, ông không là đời này, ông không là đời giữa cũng chẳng là đời sau v.v Và vị này hiểu ra đã buông xuống và câu này quan trọng này bạn " Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bāhiya Dāruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ." Đó quan trọng đó, tu Phật cốt ở tâm, nhờ lời Phật giáo huấn vài câu, người đó đã lĩnh hội đưa vào cốt tuỷ của tâm và hiểu và buông xuống. Khi buông xuống rồi và không còn bất kỳ lưu luyến gì tức thành quả vị ngọt.
Còn chúng ta thì sao nhỉ ? Mãi chạy theo một thứ bên ngoài, và cố gắng đưa vào bên trong, trong khi bên trong thì chật ních vì vậy mà khó đắc. Đọc nhiều kinh sách, hiểu nhiều kinh điển để làm chi ? khi mà nổi cáu nổi quạo với điều chướng tai gai mắt.
Này đạo hữu minhquang, bạn còn nhớ bài hành này chứ ?
Các hành là vô thường
Là pháp sinh diệt
sinh diệt diệt rồi
Niết bàn làm vui
Chúng ta không việc gì phải buồn hay thắc mắc vì không được như bà la môn kia đâu. vì thấy cũng chỉ là thấy, nghe cũng chỉ là nghe, quan trọng là ta ý. Cứ bình tĩnh
Xin chào các bạn !
Theo ngu ý của nguoiaolam thì chuyện này không có gì khó hiểu :
1. _ Cùng một câu hỏi về Toán chẳng hạn, mà bạn hỏi bạn mình, cùng một câu đáp giống như bạn mình đã trả lời, nhưng từ miệng một vị Giáo Sư thì sự hiểu bài của bạn cũng khác nhau phải không ?!
Đây là vấn đề đặt niềm tin (không nghi ngờ).
2. _ Bạn có công nhận đức Phật là "biển Đại Công Đức" không ?! Bậc Đại Công Đức lời nói ra phải có trọng lượng khác chứ ?!
Ánh sáng của cây đèn lồng so với ánh sáng của tia laser, cái nào có tác dụng mạnh mẽ hơn ?
3. _ Sự thị hiện Hoá Thân Đức Phật Thích Ca là ảnh hiện của Viên Mãn Công Đức Báo Thân Đại Nhật Phật.
Nếu có chúng sinh nào may mắn đứng bên đường đưa ánh mắt ngưỡng mộ khi Hoá thân Phật đi khất thực ngang qua, chúng sinh ấy có thể tức khắc được sinh Thiên (không qua tu tập gì cả), trong tương lai sẽ gặp lại chánh pháp Phật và thành Chánh Giác. Sự gieo duyên kết duyên quan trọng lắm, bởi vậy cho nên đức Phật và Chư Tăng ngày ngày đi khất thực. Chuyện giải quyết cái ăn là chuyện nhỏ, mà chuyện gieo duyên lành mới là chuyện lớn.
Nếu có một chúng sinh nào khởi tâm cầu đạo, đến trước vị Hoá thân Phật, không nói gì chỉ im lặng, "tâm tâm tương ưng" và rồi chúng sinh ấy vẫn có thể đương nhiên rủ bỏ trần cấu, tất cả CÁI BỊ BIẾT nó rơi rụng đâu mất, chỉ còn lại CÁI BIẾT CHÂN NHƯ TÂM mà thôi. Đây là thần lực bất khả tư nghì của Chư vị Đại Giác Ngộ.
4. _ Chúng ta biết đạo Phật, chỉ là biết phần nổi của tảng băng (qua Giáo Hội nhân gian, qua Tam Tạng Kinh điễn) thực ra Đạo Phật còn phần không hiễn thị, không thể nói mênh mông gấp vạn triệu lần hiện tướng mà ta biết.
Chúng ta đều có biết, một lần đức Phật cầm một nắm lá rừng mà tuyên bố : "Điều mà ta đã dạy cho các Thầy chỉ như nắm lá trong tay, còn điều mà ta chứng biết như lá của rừng vô biên".
Thật vậy ! Chúng ta chỉ biết đạo Phật qua HIỄN GIÁO, chúng ta không biết ĐÀ LA NI TẠNG của đạo Phật (tạm gọi là Mật Giáo).
Đà La Ni Tạng có sức mạnh thu nhiếp (độ sinh) Bất khả tư nghì.
(Bất khả tư nghì nghĩa là Không thể nghĩ bàn, bởi cái nghĩ cái bàn của chúng ta chỉ dựa trên những suy nghĩ cạn cợt, những hiểu biết sai lầm, những định kiến, logic loằng ngoằng con đẻ của Vô minh mà thôi)
4. _ Chúng ta biết đạo Phật, chỉ là biết phần nổi của tảng băng (qua Giáo Hội nhân gian, qua Tam Tạng Kinh điễn) thực ra Đạo Phật còn phần không hiễn thị, không thể nói, mênh mông gấp vạn triệu lần hiện tướng mà ta biết.
Xin hỏi nguoiaolam, cùng các bậc trưởng bối, tiền bối hai câu hỏi "Thành Phật là thành gì? Thành Phật để làm gì?".
Kính bác nguoiaolam ! Những điều bác gợi ý hình như không "đả ngứa" cho bác duyngadocton cho nên bác ấy không hỏi, nhưng với chúng con thì như "nắng hạn chờ mưa" xin bác khai triễn giải thích dùm chỗ này :
"Thành A La Hán là thành gì ? Thành ra làm sao ? Thành A La Hán để làm gì ?"
Kính !
Chào quý đạo hữu và Thanh Trúc !
Các bạn cũng thấy rồi đó, vị Bà La Môn già không mất nhiều năm tháng tu học Tứ Diệu Đế, Bát Thánh Đạo gì cả, chỉ cần (dĩ nhiên có sự gia hộ của đức Phật) "thả trôi sông" những cái "không phải mình" (Kinh nói "không nhận giặc làm con nữa") thì cái còn lại "thật sự là mình" _ bản lai diện mục.
Đức Phật xác định "vị này đã nhập Niết Bàn", đồng nghĩa là đã đắc quả A La Hán. A La Hán thực chất chỉ là giả danh để chỉ vị không còn mê lầm "nhận giặc _ Ý Thức _ làm con nữa" mà thôi.
Vì vậy cho nên câu "Thành A La Hán là thành gì ?" là câu hỏi sai từ đầu. Bởi "Cái Ta giả" rơi rụng, "Cái Ta thật" còn lại; ta đâu thể nói cái Ta thật từ cái Ta giả mà thành, không có chuyện thành hay trở thành gì cả. Cũng như người mõi mắt thấy hoa đốm trôi nổi trước mặt, dụi mắt nhìn kỹ không thấy hoa đốm ở đâu nữa, ta không thể nói "Hoa đốm đã mất, hay hoa đốm đã tan biến vào hư không, hay hoa đốm trở thành hư không". Hoa đốm là cái giả sinh, cho nên nó không thể thành cái gì. Như khi có ánh sáng thì bóng tối mất, nhưng thực chất thì bóng tối nào có Có đâu mà mất.
"Thành ra làm sao ?"
Câu trên nói "không có chuyện thành kia mà !", nhưng an trụ hẵn trong tánh Giác là nhập Niết Bàn, còn khi chưa nhập Niết Bàn thì "Cái Ta giả" vẫn còn nhiều phiền toái vấn vướng, cái này gọi là "DƯ SINH", DƯ SINH là cái sống giả còn vương đọng nơi trần thế, nơi cõi mộng ảo này.
"Thành để làm gì ?"
Ở trên chúng ta đã nói "Thấy có Thành đã là một sự sai lầm rồi", cho nên câu hỏi này bây giờ trở nên ngớ ngẩn hết sức.
Các bạn có đồng ý như vậy không ?