Printable View
ĐỐN NGỘ NHẬP ĐẠO YẾU MÔN LUẬN
THIỀN SƯ TUỆ HẢI (Đại Châu)
(Soạn, dịch : H.t Thích Thanh Từ)
Cúi đầu đảnh lễ chư Phật khắp mười phương, các chúng Bồ-tát lớn. Nay con soạn luận này, sợ e không hợp tâm Phật, xin cho con sám hối; nếu hợp tâm Phật, trọn đem bố thí tất cả hữu tình, nguyện đời sau đều được thành Phật.
*
Hỏi: Phải tu pháp gì chóng được giải thoát?
Đáp: Chỉ có một môn đốn ngộ là chóng được giải thoát.
– Thế nào là đốn ngộ?
– Đốn là chóng trừ vọng niệm. Ngộ là ngộ không chỗ được.
– Từ cái gì mà tu?
– Từ căn bản mà tu.
– Thế nào từ căn bản mà tu?
– Tâm là căn bản.
– Làm sao biết tâm là căn bản?
– Kinh Lăng-già nói: “Tâm sanh thì các thứ pháp sanh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt.” Kinh Duy-ma nói: “Muốn được tịnh độ, phải tịnh tâm ấy, tùy tâm ấy tịnh là Phật độ tịnh.” Kinh Di Giáo nói: “Chỉ kềm tâm một chỗ không việc gì chẳng xong.” Kinh nói: “Thánh nhân cầu tâm chẳng cầu Phật, ngu nhân cầu Phật chẳng cầu tâm, trí nhân điều tâm chẳng điều thân, ngu nhân điều thân chẳng điều tâm.” Kinh Phật Danh nói: “Tội từ tâm sanh lại từ tâm diệt.” Thế nên biết, tất cả thiện ác đều do tâm mình, do đó nói tâm là căn bản.
Nếu người cầu giải thoát trước phải biết căn bản. Nếu chẳng đạt được lý này, luống uổng nhọc công, từ nơi tướng bên ngoài mà cầu, thật không thể được. Kinh Thiền Môn nói: “Từ nơi tướng bên ngoài mà cầu, dù trải qua nhiều kiếp trọn không thể thành. Từ giác quán (xét soi) bên trong mà tu, bằng khoảng một niệm liền chứng Bồ-đề.”
Dạ, con xin đối chiếu bản Hán văn và bản Hán Việt từ trang rongmotamhon.net :
何 知心為根本。 答。 楞伽 經云 。 心生即種種法生。 心滅
hà tri tâm vi căn bản ? đáp : Lăng Già Kinh vân "Tâm sinh tức chủng chủng pháp sinh, Tâm diệt
即種種法滅。 維摩經云 。 欲得淨土。 當淨其心。 隨其心
tức chủng chủng pháp diệt". Duy Ma Kinh vân "dục đắc Tịnh độ đương tịnh kì Tâm. tùy kì Tâm
淨。 即佛土淨。 遺教經云 。 但 制 心一 處。 無事 不辦。 經云 。
tịnh tức Phật độ tịnh. Di Giáo Kinh vân "đãn chế tâm nhất xứ vô sự bất biện". Kinh vân
聖人求心不求佛。 愚人求佛不求心。 智人調心不調
"Thánh nhân cầu Tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu Tâm; trí nhân điều Tâm bất điều
身。 愚人調身不調心。 佛名經云 。 罪從心生。 還從心滅。
thân, ngu nhân điều thân bất điều Tâm". Phật Danh Kinh vân "tội tùng Tâm sinh, hoàn tùng Tâm diệt
故知善惡. 一 切皆由自心。 所以 心為根本也。 若求解
cố tri thiện ác nhất thiết giai do tự Tâm. Sở dĩ Tâm vi căn bản dã, nhược cầu giải
脫者。 先須識根本。 若不達此理。 虗費功 勞 。 於外相求。
thoát giả, tiên tu Thức căn bản, nhược bất đạt thử lí, hư phí công lao, ư ngoại tướng cầu,
無有是處。 禪門經云 。 於外相求。 雖經劫 數。 終不能成。
vô hữu thị xứ. Thiền Môn Kinh vân "ư ngoại tướng cầu, tuy kinh kiếp số, chung bất năng thành,
於內覺觀。 如一 念頃。 即證菩提。
ư nội giác quan, như nhất niệm khuể, tức chứng Bồ đề.
– Tu căn bản phải lấy pháp gì để tu?
– Chỉ tọa thiền, thiền định liền được. Kinh Thiền Môn nói: “Cầu trí Thánh của Phật, cốt phải thiền định. Nếu không thiền định, thì niệm tưởng xao động, phá hoại căn lành kia.”
– Thế nào là thiền? Sao là định?
– Vọng niệm chẳng sanh là thiền. Ngồi thấy Bản tánh là định. Bản tánh là tâm vô sanh của ông vậy. Định là đối cảnh tâm không sanh, tám gió thổi chẳng động. Tám gió là: lợi (tài lợi), suy (suy hao), hủy (hủy nhục), dự (đề cao), xưng (khen ngợi), cơ (chê bai), khổ (đau khổ), lạc (vui vẻ). Nếu người được định như thế, tuy là phàm phu mà liền vào vị Phật. Vì sao? Vì kinh Bồ-tát Giới nói: “Chúng sanh thọ Phật giới, liền vào ngôi vị chư Phật.” Người được như thế gọi là giải thoát, cũng gọi đến bờ kia, hơn lục độ, vượt khỏi tam giới, là Bồ-tát đại lực, là bậc Tôn vô lượng lực, là đại trượng phu. (*)
– Tâm trụ chỗ nào là trụ?
– Tâm trụ chỗ không trụ là trụ.
– Thế nào là chỗ không trụ?
– Chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là trụ chỗ không trụ.
– Thế nào là chẳng trụ tất cả chỗ?
– Chẳng trụ tất cả chỗ là: chẳng trụ nơi lành dữ, có không, trong ngoài, chặng giữa, chẳng trụ không, cũng chẳng trụ chẳng không, chẳng trụ định, cũng chẳng trụ chẳng định, tức là chẳng trụ tất cả chỗ. Chỉ cái chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là chỗ trụ. Người được như thế, gọi là tâm không trụ. Tâm không trụ là tâm Phật. (**)
– Tâm ấy giống vật gì?
– Tâm ấy chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, chẳng phải dài ngắn tới lui, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng sanh chẳng diệt, yên tịnh thường lặng lẽ. Đó là hình tướng của Bản tâm, cũng là bản thân. Bản thân là thân Phật.
*
Vọng niệm bất sinh vi thiền, toạ kiến bản tính vi định. Bản tính giả thị nhữ vô sinh tâm.
Định giả đối cảnh vô tâm, bát phong bất năng động, bát phong giả : lợi, suy, huỷ, dự, xưng, ki, khổ, lạc
thị danh bát phong, nhược đắc như thị định giả, tuy thị phàm phu tức nhập Phật vị.
Hà dĩ cố ? Bồ tát giới kinh vân : chúng sinh thụ Phật giới, tức nhập chư Phật vị
đắc như thị giả, tức danh giải thoát; diệc danh đạt bỉ ngạn siêu lục độ việt tam giới
đại lực bồ tát, vô lượng lực tôn, thị đại trượng phu.
妄念不生為禪。坐見本性為定。本性 。是汝 無生心
定者。對境無心。八 風不能動 。八 風者。利 .衰.毀. 譽.稱.譏.苦.樂。
是名八 風。若得如是定者。雖是凡夫。即 入 佛位 。
何 以 故。菩薩戒經云 。眾生受佛戒。即入 諸佛 位 。
得如是者。即名解脫。亦名達彼岸。 六 度。越三界
大力 菩薩。無量力 尊。是大丈 夫。
**
Bất trụ nhất thiết xứ giả, bất trụ thiện-ác hữu-vô nội-ngoại trung gian, bất trụ không,
diệc bất trụ bất không, bất trụ định, diệc bất trụ bất định, tức thị bất trụ nhất thiết xứ
chỉ cá bất trụ nhất thiết xứ, tức thị trụ xứ dã. Đắc như thị giả, tức danh vô trụ tâm dã
vô trụ tâm giả thị Phật tâm.
不住 一 切處者。不住 善惡.有無.內外中間。不住空。
亦不住 不空。不住 定。亦不住 不定。即是不住 一 切處。
只箇不住 一 切處。即是住 處也。得如是者。即名無住 心也。
無住 心者是佛心。
– Thân tâm này lấy cái gì để thấy? Lấy mắt thấy, lấy tai, mũi và thân tâm v.v… để thấy chăng?
– Cái thấy này không phải như các thứ thấy đó.
– Đã không như các thứ thấy đó, là lấy cái gì thấy?
– Là Tự tánh thấy. Vì sao? Vì Tự tánh (tánh của mình) xưa nay trong sạch yên tịnh không lặng, chính trong cái thể không lặng ấy hay sanh cái thấy này.
– Chỉ như thể thanh tịnh còn không thể có, thì cái thấy này từ đâu mà có?
– Ví như trong gương sáng tuy không có hình tượng, mà có thể thấy tất cả hình tượng. Vì sao? Vì gương sáng không tâm. Người học đạo nếu tâm không có chỗ nhiễm, vọng tâm chẳng sanh, tâm ngã sở (tâm chấp mình và sự vật của mình) diệt, tự nhiên được thanh tịnh, vì thanh tịnh nên hay sanh cái thấy này.(*)
Kinh Pháp Cú nói: “Trong cứu kính không, rõ ràng dựng lập, ấy là thiện tri thức.”
(*)
Dụ như minh giám trung tuy vô tượng, năng kiến nhất thiết tượng.
Hà dĩ cố ? Vi minh giám vô tâm cố, học nhân nhược tâm vô sở nhiễm, vọng tâm bất sinh,
ngã sở tâm diệt, tự nhiên thanh tịnh, dĩ thanh tịnh cố, năng sinh thử kiến.
喻如明鑑中雖無像 。能見一 切像 。
何 以 故。為明鑑無心故。學人若心無所染 妄心不生。
我所心滅。自然清淨。以 清淨故。能生此見。
– Kinh Niết-bàn trong phẩm Kim Cang Thân nói: “không thể thấy mà thấy rõ ràng, không có biết mà không chẳng biết” là thế nào?
– Không thể thấy, vì cái thể của Tự tánh không hình tướng, không thể có, nên nói “không thể thấy”. Song cái thấy không thể được đó, thể nó yên tịnh lặng lẽ, không có tới lui, chẳng lìa dòng đời, mà dòng đời không lôi cuốn được nó, thản nhiên tự tại, tức là thấy rõ ràng.
Không có biết, vì Tự tánh không hình, vốn không phân biệt, nên nói “không có biết”. Không chẳng biết, vì trong cái thể không phân biệt ấy đầy đủ hằng sa diệu dụng. Hay phân biệt tất cả, thì không việc gì chẳng biết, nên nói “không chẳng biết”. Kệ Bát-nhã nói: “Bát-nhã không biết, không việc gì chẳng biết; Bát-nhã không thấy, không chỗ nào chẳng thấy.”
– Kinh nói: “Chẳng thấy có không là chân giải thoát.” Thế nào là chẳng thấy có không?
– Khi chứng được tâm thanh tịnh gọi là có, trong đó chẳng sanh cái tưởng được tâm thanh tịnh, gọi là chẳng thấy có. Được cái tưởng không sanh không trụ, mà không khởi tưởng được không sanh không trụ, gọi là chẳng thấy không, nên nói chẳng thấy có không. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Biết thấy lập biết là gốc vô minh, biết thấy không thấy, đây là Niết-bàn.” Cũng gọi là giải thoát.
– Thế nào là không có chỗ thấy?
– Nếu thấy kẻ nam người nữ và tất cả màu sắc hình tượng, mà ở trong đó không khởi tâm yêu ghét thì cùng không thấy chẳng khác, ấy là không có chỗ thấy.
(若見男子女人及一 切色像 。於 中不起愛憎與不見等。即是無所見也
Nhược kiến nam tử nữ nhân cập nhất thiết sắc tượng, ư trung bất khởi ái tăng dữ bất kiến đẳng, tức thị vô sở kiến dã.)
– Khi đối tất cả màu sắc hình tượng thì gọi là thấy, khi chẳng đối màu sắc hình tượng cũng gọi là thấy chăng?
– Gọi thấy!
– Khi đối vật là có thấy, khi không đối vật làm sao có thấy?
– Nay nói thấy, không luận đối vật cùng chẳng đối vật. Vì sao? Vì tánh thấy thường hằng, khi có vật thì thấy vật, khi không vật thì thấy không. Thế nên biết, vật tự có đi lại, tánh thấy không có đi lại, các căn (tai, mũi, lưỡi, thân…) cũng như vậy.
(今言見者。不論對 物與不對物。何 以 故。為見性常故。有物之 時即見。無 物之 時亦見也。故知物自有去來。見性無 去也。諸彼亦耳。
Kim ngôn kiến giả, bất luận đối vật dữ bất đối vật. Hà dĩ cố ? vi kiến tính thường cố, hữu vật chi thời tức kiến, vô vật chi thời diệc kiến dã, cố tri vật tự hữu khứ lai, kiến tính vô lai khứ dã, chư bỉ diệc nhĩ.)
– Ngay khi thấy vật, trong cái thấy có vật chăng?
– Trong cái thấy chẳng lập vật.
– Ngay khi thấy không vật, trong cái thấy có không vật chăng?
– Trong cái thấy chẳng lập không vật.
– Khi có tiếng là có nghe, khi không tiếng lại được nghe chăng?
– Cũng nghe.
– Khi có tiếng là từ tiếng có nghe, khi không tiếng làm sao được nghe?
– Nay nói nghe chẳng luận có tiếng không tiếng. Vì sao? Vì tánh nghe thường hằng. Khi có tiếng liền nghe, khi không tiếng cũng nghe.
– Người nghe như thế là ai?
– Là tánh nghe của mình, cũng gọi là người biết nghe.
-----------------
vấn : hữu thanh thời tức hữu văn, vô thanh thời hoàn đắc văn phủ ?
đáp : diệc văn !
vấn : hữu thanh thời tùng hữu văn, vô thanh thời vân hà đắc văn ?
đáp : kim ngôn văn giả bất luận hữu thanh vô thanh. Hà dĩ cố ? vi văn tính thường cố, hữu thanh thời tức văn, vô thanh thời diệc văn.
vấn : như thị văn giả thị thùy ?
đáp : thị tự tính văn diệc danh tri giả văn.
---------------
問。有聲時。即有聞。無聲時。還得 否 ?
答。亦聞。
問。有聲 時。從有聞。無聲時。云 何 得 ?
答。今言聞者。不論有聲 無聲。何 以 故。為聞性常故。有聲時即聞。無聲 亦聞。
問。如是聞者是誰 ?
答。是自性聞。亦名知者聞。
– Môn đốn ngộ này lấy gì làm Tông (chủ)? Lấy gì làm Chỉ (chỉ thú)? Lấy gì làm Thể? Lấy gì làm Dụng?
– Lấy vô niệm (tâm không dấy khởi) làm Tông. Vọng tâm chẳng khởi làm Chỉ. Lấy thanh tịnh làm Thể. Lấy trí làm Dụng.
– Đã nói vô niệm làm Tông, chưa biết vô niệm là vô niệm nào?
– Vô niệm là không tà niệm, chớ chẳng phải không chánh niệm.
– Thế nào là tà niệm? Thế nào là chánh niệm?
– Niệm có, niệm không là niệm tà, chẳng niệm có không là niệm chánh; niệm thiện, niệm ác là niệm tà, chẳng niệm thiện ác là niệm chánh; cho đến niệm khổ vui, sanh diệt, thủ xả, oán thân, yêu ghét thảy đều là niệm tà, chẳng niệm khổ vui… là niệm chánh. (*)
– Thế nào là chánh niệm?
– Chánh niệm là chỉ niệm Bồ-đề.
– Bồ-đề có thể được chăng?
– Bồ-đề không thể được.
– Đã không thể được làm sao chỉ niệm Bồ-đề?
– Bồ-đề chỉ là danh tự giả lập, thật không thể được. Cũng không có trước sau được. Vì không thể được nên không có niệm. Chỉ cái không niệm ấy gọi là chân niệm. Bồ-đề không có chỗ niệm. Không có chỗ niệm tức là tất cả chỗ không tâm, ấy là không có chỗ niệm.
Những lối giải vô niệm như trên, đều là tùy sự phương tiện giả lập danh tự, vẫn đồng một thể, không hai không khác. Cốt biết tất cả chỗ không tâm tức là “vô niệm”. Khi được vô niệm thì tự nhiên giải thoát. (**)
*
Niệm hữu niệm vô tức danh tà niệm, bất niệm hữu vô tức danh chính niệm; niệm thiện niệm ác danh vi tà niệm,
bất niệm thiện ác danh vi chính niệm; nãi chí khổ lạc sinh diệt thủ xả oán thân tăng ái,
tịnh danh tà niệm, bất niệm khổ lạc đẳng, tức danh chính niệm.
念有念無即名邪念。不念有無即名正 。念善念惡名為邪念。
不 念善惡名為正念。乃至苦樂.生滅. 捨.怨親.憎愛。
並 名邪念。不念苦樂等。即名正念。
------------
**
Chỉ như bồ đề giả lập danh tự thật bất khả đắc, diệc vô tiền hậu đắc giả,
vi bất khả đắc cố tức vô hữu niệm. Chỉ cá vô niệm, thị danh chân niệm,
bồ đề vô sở niệm, vô sở niệm giả, tức nhất thiết xứ vô tâm.
thị vô sở niệm, chỉ như thượng thuyết như hứa chủng vô niệm giả,
giai thị tùy sự phương tiện, giả lập danh tự, giai đồng nhất thể, vô nhị vô biệt,
đãn tri nhất thiết xứ vô tâm, tức thị vô niệm dã, đắc vô niệm thời, tự nhiên giải thoát.
只如菩提假立名字。實不可得。亦無 後得者。
為不可得故。即無有念。只箇無念。 名真念。
菩提無所念。無所念者。即一 切處無心。
是無所念。只如上說如許種無念者。
皆是隨事方便 。 假立名字。皆同一 體。無二 無別 。
但 知一 切處無心。即 是無念也。得無念時。自然解脫。
– Thế nào là hành hạnh Phật?
– Chẳng hành tất cả hạnh là hành hạnh Phật, cũng gọi là hạnh chánh, cũng gọi là hạnh Thánh. Như trước đã nói, chẳng hành có không, yêu ghét v.v… ấy vậy. Đại Luật quyển năm phẩm Bồ-tát nói: “Tất cả Thánh nhân chẳng hành hạnh chúng sanh, chẳng hành hạnh chúng sanh là hạnh Thánh.” (*)
*
– Thế nào là chánh kiến?
– Thấy mà không có chỗ thấy là chánh kiến.
– Thế nào thấy mà không có chỗ thấy?
– Khi thấy tất cả sắc không khởi nhiễm trước. Không nhiễm trước thì không khởi tâm yêu ghét, ấy là thấy mà không có chỗ thấy. Nếu khi được thấy mà không có chỗ thấy gọi là con mắt Phật, trọn không có con mắt khác. Nếu khi thấy tất cả sắc khởi yêu ghét, ấy là có chỗ thấy. Có chỗ thấy là con mắt chúng sanh, trọn không có con mắt khác làm con mắt chúng sanh, cho đến các căn cũng lại như thế. (**)
*
Bất hành nhất thiết hành, tức danh Phật hành, diệc danh chính hành, diệc danh Thánh hành.
Như tiền sở thuyết, bất hành hữu vô tăng ái đẳng thị dã.
Đại Luật quyển ngũ Bồ tát phẩm vân "nhất thiết Thánh nhân bất hành ư chúng sinh hành, chúng sinh bất hành như thị Thánh hành".
不行一 切行。即名佛行。亦名正行。亦名聖 。
如前 所說。不行有無憎愛等是也。
大律卷 五 菩薩品云 。一 切聖人不行於眾生行。眾生不行如 是聖行。
---------------
**
Kiến nhất thiết sắc thời bất khởi nhiễm trước bất nhiễm trước giả, bất khởi ái tăng tâm,
tức danh kiến vô sở kiến dã. Nhược đắc kiến vô sở kiến thời tức danh Phật nhãn,
canh vô biệt nhãn, nhược kiến nhất thiết sắc thời, khởi ái tăng giả, tức danh hữu sở kiến.
Hữu sở kiến giả, tức thị chúng sinh nhãn, canh vô biệt nhãn tác chúng sinh nhãn.
Nãi chí chư căn diệc phục như thị.
見一 切色時不起染著。不染著者。不起愛 憎心。
即名見無所見也。若得見無所見時。 名佛眼。
更無別眼。若見一 切色時。起愛憎者。即名有所見。
有所見者。即是眾生眼。更無別眼作 生眼。
乃至諸根亦復如是。
– Nói lấy Trí làm Dụng, thế nào là Trí?
– Biết hai tánh không tức là giải thoát. Biết hai tánh chẳng không, thì không được giải thoát. Ấy gọi là Trí, cũng gọi là rõ tà chánh, cũng gọi hiểu Thể Dụng. Hai tánh không là Thể, biết hai tánh không là giải thoát. Lại không sanh nghi gọi là Dụng. Nói hai tánh không là chẳng sanh tâm có không, lành dữ, yêu ghét vậy.
*
– Môn này từ đâu mà vào?
– Từ bố thí ba-la-mật mà vào.
– Phật nói sáu pháp ba-la-mật (đến bờ kia hay được cứu kính) là hạnh của Bồ-tát, tại sao ở đây chỉ nói riêng bố thí ba-la-mật thì đâu thể đầy đủ mà được vào?
– Người mê không biết năm độ kia (trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ) đều nhân bố thí mà sanh. Chỉ tu bố thí thì sáu pháp đều đầy đủ.
– Bố thí vật gì?
– Bố thí là bỏ hai tánh.
– Thế nào là hai tánh?
– Bố thí là bỏ tánh thiện ác, bố thí là bỏ tánh có không, tánh yêu ghét, tánh không chẳng không, tánh định chẳng định, tánh tịnh bất tịnh, tất cả đều cho bỏ hết thì được hai tánh không. Nếu khi được hai tánh không, cũng chẳng được khởi tưởng hai tánh không, cũng chẳng được khởi nghĩ tưởng có bố thí, tức là chân thật hành bố thí ba-la-mật, cũng gọi là muôn duyên đều bặt. Muôn duyên đều bặt, tức là tất cả pháp tánh không ấy vậy. Pháp tánh không là tất cả chỗ không tâm. Nếu khi được tất cả chỗ không tâm là không có một tướng có thể được. Vì sao? Vì Tự tánh không, nên không một tướng có thể được. Không một tướng có thể được là tướng thật. Tướng thật là tướng Như Lai diệu sắc thân. Kinh Kim Cang nói: “Lìa tất cả các tướng gọi là chư Phật.” (*)
*
Bố thí khước thiện ác tính, bố thí khước hữu vô tính, ái tăng tính, không bất không tính,
định bất định tính, tịnh bất tịnh tính, nhất thiết tất giai thí khước, tức đắc nhị tính không.
Nhược đắc nhị tính không thời, diệc bất đắc tác nhị tính không tưởng,
diệc bất đắc tác niệm hữu thí tưởng.
Tức thị chân hành, đàn ba la mật, danh vạn duyên câu tuyệt.
Vạn duyên câu tuyệt giả, tức nhất thiết pháp tính không thị dã,
pháp tính không giả, tức nhất thiết xứ vô tâm thị.
Nhược đắc nhất thiết xứ vô tâm thời, tức vô hữu nhất tướng khả đắc.
Hà dĩ cố ? Vi tự tính không cố, vô nhất tướng khả đắc,
vô nhất tướng khả đắc giả, tức thị thật tướng,
thật tướng giả, tức thị Như Lai Diệu Sắc Thân Tướng dã.
Niệm Cương Kinh vân : "Ly nhất thiết chư tướng, tắc danh chư Phật".
----------
布施却善惡性。布施却有無性.愛憎 .空不空性.
定不定性.淨不淨性。一 切悉皆施却。即得二 性空。
若 得二 性空時。亦不得作二 性空想。亦不得作念有施 想。
即是真行。檀波羅蜜。名萬緣俱 絕。
萬緣俱 絕者。即 一 切法性空是也。法性空者。即一 切處無心是。
若得 一 切處無心時。即無有一 相可得。
何 以 故。為自性空故。無一 相可得。
無一 相可得者。即是實相。
實相者。即 是如來妙色身相也。
念剛 經云 。離一 切諸相。則 名諸 佛。
– Phật nói sáu ba-la-mật, tại sao nay chỉ nói một, cho là đầy đủ, xin nói nguyên nhân một gồm đủ sáu pháp?
– Kinh Tư Ích nói: “Ngài Võng Minh gọi Phạm thiên nói: Nếu Bồ-tát bỏ tất cả phiền não gọi là Bố thí ba-la-mật. Nơi các pháp không có chỗ dính mắc gọi là Trì giới ba-la-mật. Nơi các pháp không có chỗ xâm phạm gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Nơi các pháp lìa tướng gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Nơi các pháp không có chỗ trụ gọi là Thiền định ba-la-mật. Nơi các pháp không hí luận (nói trò đùa vô nghĩa) là Trí tuệ ba-la-mật.” Đó gọi là sáu pháp. Nay nói sáu pháp này chẳng khác, vì tóm lược pháp thứ nhất là bỏ, thứ hai là không khởi, thứ ba là không niệm, thứ tư là lìa tướng, thứ năm là không trụ, thứ sáu là không hí luận. Sáu pháp như thế, tùy việc phương tiện tạm đặt tên, chớ đến chỗ diệu lý thì không hai không khác. Chỉ biết một bỏ thì tất cả đều bỏ, không khởi thì tất cả đều không khởi. Trên đường mê lầm không khế hội ắt cho có sai khác. Người ngu mắc kẹt trong pháp số, nên trôi lăn mãi trong sanh tử. Bảo cho các người học đạo, chỉ tu pháp Bố thí là tròn đầy muôn pháp, huống là năm pháp mà chẳng đủ sao? (*)
*
Nhược Bồ tát xả nhất thiết phiền não, danh đàn ba la mật,
tức thị bố thí ư chư pháp vô sở diên, danh thi ba la mật,
tức thị trì giới ư chư pháp vô sở thương, danh sạn đề ba la mật,
tức thị nhẫn nhục ư chư pháp li tướng, danh tì li da ba la mật,
tức thị tinh tấn ư chư pháp vô sở trụ danh thiền ba la mật,
tức thị thiền định ư chư pháp vô hí luận, danh ban nhược ba la mật,
tức thị trí tuệ thị danh lục pháp kim canh danh lục pháp bất dị,
nhất xả nhị vô khởi tam vô niệm tứ li tướng ngũ vô trụ lục vô hí luận,
như thị lục pháp tùy sự phương tiện, giả lập danh tự chí ư diệu lí,
vô nhị vô biệt, đãn tri nhất xả tức nhất thiết xả, vô khởi tức nhất thiết vô khởi, mê đồ bất khế, tất vị hữu sai, ngu giả trệ kì, pháp số chi trung,
tức trường luân sinh tử. Cáo nhữ học nhân, đãn tu đàn chi pháp, tức vạn pháp chu viên, huống ư ngũ pháp, khởi bất cụ da.
----------------
若菩薩 捨一 切煩惱。名檀波羅蜜。
即是布施。於諸法無所延。 名尸波羅蜜。即是持戒。
於諸法無所傷 。名羼提波羅 蜜。即是忍辱。
於諸法離相。名毗離耶波羅蜜。即是 進。
於諸法無所住 。名禪波羅蜜。即是禪定。於諸法無
戲論。名般若波羅蜜。即是智慧。是 六 法。今更名六
法不異。一 捨。二 無起。三無念。四離相。五 無住 。六 無戲
論。如是六 法。隨事 方便 。假立名字。至於妙理。無二 無
別 。但 知一 捨即一 切捨。無起即一 切無起。迷途不契。
悉謂有差。愚者滯其法數之 中。即長輪生死。告汝學
人。但 修 檀之 法。即萬法周圓。況於五 法。豈不具 耶。
– Tam học đẳng dụng, cái gì là tam học? Thế nào là đẳng dụng?
– Tam học là giới định tuệ.
– Nghĩa giới định tuệ thế nào?
– Thanh tịnh không nhiễm là Giới. Biết tâm chẳng động, đối cảnh vắng lặng là Định. Khi biết tâm chẳng động mà chẳng sanh tưởng chẳng động, khi biết tâm thanh tịnh mà chẳng sanh tưởng thanh tịnh, cho đến thiện ác đều hay phân biệt, mà ở trong ấy không nhiễm, được tự tại, ấy gọi là Tuệ.
Nếu khi biết thể của giới định tuệ đều không thể được, thì không phân biệt, là đồng một thể, ấy gọi là tam học đẳng dụng. (*)
*
– Nếu khi tâm trụ tịnh, chẳng phải chấp tịnh sao?
– Khi được trụ tịnh, mà chẳng khởi tưởng trụ tịnh, ấy là không chấp tịnh.
– Tâm khi trụ không, chẳng phải chấp không chăng?
– Nếu khởi tưởng không, gọi là chấp không.
– Nếu khi tâm được trụ chỗ không trụ, chẳng phải chấp chỗ không chỗ trụ sao?
– Chỉ cái khởi tưởng không là không có chỗ chấp. Nếu ông muốn thấu rõ, hiểu được tâm không có chỗ trụ, thì khi ngồi ngay thẳng chỉ biết tâm, chớ suy nghĩ tất cả vật, tất cả thiện ác đều chớ suy nghĩ, vì việc quá khứ đã đi rồi, chớ suy nghĩ, thì tâm quá khứ tự bặt, gọi là không việc quá khứ. Việc vị lai chưa đến, chớ mong chớ cầu, thì tâm vị lai tự bặt, gọi là không việc vị lai. Việc hiện tại đã hiện tại, đối tất cả việc chỉ biết không chấp, không chấp là chẳng khởi tâm yêu ghét, thì tâm hiện tại bặt, gọi là không việc hiện tại.(**) Không nhiếp thuộc ba thời, cũng gọi không ba thời. Nếu khi tâm khởi đi thì chớ theo đi, tâm đi tự bặt. Nếu khi tâm khởi đứng cũng chớ theo đứng, tâm đứng tự bặt. Ấy là tâm không trụ, là trụ chỗ không trụ vậy. Nếu tự biết rõ ràng khi trụ nơi trụ, chỉ có vật trụ cũng không có chỗ trụ, cũng chẳng không chỗ trụ.
*
Thanh tịnh vô nhiễm thị giới,
tri tâm bất động đối cảnh tịch nhiên thị định, tri tâm bất động thời bất sinh bất động tưởng,
tri tâm thanh tịnh thời bất sinh thanh tịnh tưởng, nãi chí thiện ác giai năng phân biệt, ư trung vô nhiễm, đắc tự tại giả, thị danh vi tuệ dã.
Nhược tri giới định tuệ thể câu bất khả đắc thời, tức vô phân biệt giả, tức đồng nhất thể, thị danh tam học đẳng dụng.
----------------
清淨無染是戒。
知心不動 。對境寂然是定。知心不動 時。不生不動 想。
知心清淨時。不生清淨想。乃至善惡 能分別 。於中
無染。得自在者。是名為慧也。
若知戒定慧體俱不可得時。即無分別 。即同一 體。是名三學等用。
**
Đãn tác không tưởng, tức vô hữu trước xứ, nhữ nhược dục liễu liễu thức vô sở trụ tâm thời.
Chính toạ chi thời, đãn tri tâm mạc tư lượng nhất thiết vật.
Nhất thiết thiện ác đô mạc tư lượng: quá khứ sự dĩ quá khứ nhi mạc tư lượng,
quá khứ tâm tự tuyệt, tức danh vô quá khứ sự; vị lai sự vị chí mạc nguyện mạc cầu, vị lai tâm tự tuyệt, tức danh vô vị lai sự; hiện tại sự dĩ hiện tại, ư nhất thiết sự đãn tri vô trước.
Vô trước giả, bất khởi tăng ái tâm, tức thị vô trước, hiện tại tâm tự tuyệt, tức danh vô hiện tại sự.
---------------
但作空想。即無有著處。汝若欲了了 識無所住心 時。
正坐之時。但 知心莫思量一 切物。
一 切善惡都莫思量。過去事 已過去而莫思量。
過去心自絕。即名無過去事 。未來事未至。莫願莫求。未來心自 。
即名無未來事 。現在事 已現在。於一 切事 但 知無著。
無著者。 不起憎愛心。即是無著。現在心自絕 即名無現在事 。
Nếu tự biết rõ ràng tâm chẳng trụ tất cả chỗ, gọi là rõ ràng thấy được Bản tâm, cũng gọi là rõ ràng thấy tánh vậy. Chỉ cái tâm chẳng trụ tất cả chỗ ấy, tức là tâm Phật, cũng gọi là tâm giải thoát, tâm Bồ-đề, tâm vô sanh, sắc tánh không. Kinh nói: “chứng vô sanh pháp nhẫn” đó vậy.
Nếu ông khi chưa được như thế, phải cố gắng! Cố gắng! Cần dụng công thêm, khi công thành thì tự hội. Nói hội, là tất cả chỗ không tâm, ấy là hội. Nói không tâm là không cái tâm giả chớ chẳng phải không Tâm chân. Tâm giả là tâm yêu ghét. Tâm chân thật là tâm không yêu ghét. Chỉ không tâm yêu ghét thì hai tánh không. Hai tánh không thì tự nhiên giải thoát.
Nhược liễu liễu tự tri trụ tại trụ thời, chỉ vật trụ diệc vô trụ xứ,
diệc vô vô trụ xứ dã. Nhược tự liễu liễu tri tâm bất trụ nhất thiết xứ,
tức danh liễu liễu kiến bản tâm dã, diệc danh liễu liễu kiến tính dã,
chỉ cá bất trụ nhất thiết xứ tâm giả, tức thị Phật tâm,
diệc danh giải thoát tâm, diệc danh bồ đề tâm, diệc danh vô sinh tâm,
diệc danh sắc tính không. Kinh vân : chứng vô sinh pháp nhẫn thị dã.
-----------------
若了 了自知住在住時。只物住 亦無住 處。
亦無無住處也。若自了 了 知心不住 一 切處。
即名 了 了 見本心也。亦名了 了 見性也。
只箇不住 一 切處 心者。即是佛心。
亦名解脫心。亦名菩提心。亦名無生 。
亦名色性空。經云 證無生法忍是也。
____________
Nhữ nhược vị đắc như thị chi thời, nỗ lực nỗ lực, cần gia dụng công,
công thành tự hội. Sở dĩ hội giả, nhất thiết xứ vô tâm, tức thị hội ngôn vô tâm giả.
Vô Giả bất Chân dã, Giả giả, ái tăng tâm thị dã, Chân giả, vô ái tăng tâm thị dã.
Đãn vô tăng ái tâm, tức thị nhị tính không.
Nhị tính không giả, tự nhiên giải thoát dã.
----------------
汝若未得如 是之時。努 力 。努 力 。勤 加 用功 。
功 成自會。所以 會者。一 切處無心。即是會言無心者。
無假不真也。假者。愛憎 心是也。真者。無愛憎心是也。
但 無憎愛心。即是二 性 空。
二 性空者。自然解脫也。
– Chỉ lúc ngồi thiền dụng công, khi đi có được dụng công chăng?
– Nay nói dụng công, chẳng riêng khi ngồi, cho đến đi đứng ngồi nằm, làm công việc, trong tất cả thời đều thường dụng công không gián đoạn ấy gọi là thường trụ.
*
– Kinh Phương Quảng nói năm thứ pháp thân:
1. Thật tướng pháp thân
2. Công đức pháp thân
3. Pháp tánh pháp thân
4. Ứng hóa pháp thân
5. Hư không pháp thân.
Ngay nơi thân mình là thân nào?
– Biết tâm chẳng hoại là Thật tướng pháp thân. Biết tâm bao gồm vạn tượng là Công đức pháp thân. Biết tâm không tâm là Pháp tánh pháp thân. Tùy căn cơ ứng nói là Ứng hóa pháp thân. Biết tâm không hình không thể được là Hư không pháp thân. Nếu người thấu rõ nghĩa này là biết không chứng. Người không đắc không chứng là chứng Phật pháp thân. Nếu có chứng có đắc, cho là chứng được ấy là người tà kiến tăng thượng mạn, gọi là ngoại đạo. Vì cớ sao? Kinh Duy-ma nói: “Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ: Ngươi đã được pháp gì, chứng được pháp gì, mà biện được như thế? Thiên nữ đáp: Tôi không được không chứng, mới được như thế; nếu có được có chứng thì ở trong Phật pháp là người tăng thượng mạn.” (*)
*
Tri tâm bất hoại thị thật tướng pháp thân, tri tâm hàm vạn tượng thị công đức pháp
thân, tri tâm vô tâm thị pháp tính pháp thân, tùy căn ưng thuyết thị ưng hoá pháp thân, tri
tâm vô hình bất khả đắc thị hư không pháp thân. Nhược liễu thử nghĩa giả, tức tri vô chứng
dã, vô đắc vô chứng giả, tức thị chứng Phật pháp pháp thân. Nhược hữu chứng hữu đắc dĩ vi
chứng giả, tức tà kiến tăng thượng mạn nhân dã, danh vi ngoại đạo. Hà dĩ cố ? Duy Ma Kinh
vân : Xá Lợi Phất vấn Thiên nữ viết : "Nhữ hà sở đắc, hà sở chứng, biện nãi đắc như thị ?"
Thiên nữ đáp viết : "Ngã vô đắc vô chứng, nãi đắc như thị, nhược hữu đắc hữu chứng, tức ư
Phật pháp trung vi tăng thượng mạn nhân dã".
----------------
知心不壞是實相法身。知心含萬像 是功 德法
身。知心無心是法性法身。隨根應說 應化法身。知
心無形不可得是虗空法身。若了 此義者。即知無證
也。無得無證者。即是證佛法法身。 有證有得以 為
證者。即邪見增上慢人也。名為外道 何 以 故。維摩經
云 。舍利 弗問天女曰。汝何 所得。何 所證辯。乃得如是。
天女答曰。我無得無證。乃得如是。 有得有證。即於
佛法中為增上慢人也。
– Kinh nói Đẳng giác, Diệu giác, thế nào là Đẳng giác? Thế nào là Diệu giác?
– Tức sắc tức không([1]) gọi là Đẳng giác. Vì hai tánh không, gọi là Diệu giác. Lại nữa không giác, không không giác, gọi là Diệu giác.
– Đẳng giác cùng Diệu giác là khác hay chẳng khác?
– Vì tùy sự phương tiện giả lập hai tên, chớ Bản thể là một không hai không khác, cho đến tất cả pháp đều như vậy cả.
*
– Kinh Kim Cang nói: “không pháp có thể thuyết, ấy gọi là thuyết pháp”, nghĩa đó thế nào?
– Thể của Bát-nhã cứu kính thanh tịnh, không có một vật có thể được, ấy gọi là “không pháp có thể thuyết”. Ngay trong thể không tịch của Bát-nhã, đầy đủ diệu dụng như hằng sa, tức là không việc gì chẳng biết, “ấy gọi là thuyết pháp”. Cho nên nói “không pháp có thể thuyết, ấy gọi là thuyết pháp”.
– Kinh nói: “có người thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, nếu bị người khinh chê, là người ấy tội nghiệp đời trước lẽ phải sa vào đường ác, do đời nay bị người khinh chê nên tội nghiệp đời trước liền được tiêu diệt, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, nghĩa đó thế nào?
– Như có người chưa gặp đại thiện tri thức chỉ tạo nghiệp ác, Bản tâm thanh tịnh bị ba độc vô minh che lấp không thể lộ bày, cho nên nói lẽ phải sa vào đường ác. Do đời nay bị người khinh chê, tức là hôm nay phát tâm cầu Phật đạo, khiến vô minh diệt hết, ba độc chẳng sanh, thì Bản tâm sáng suốt, lại không loạn niệm, các ác hằng dứt sạch nên đời này bị người khinh chê. Vô minh diệt hết, loạn niệm chẳng sanh, thì tự nhiên giải thoát, nên nói sẽ được Bồ-đề. Chính khi phát tâm gọi là đời này, chẳng phải cách đời.