Printable View
Kinh Hiền Ngu _ Phẩm 32: Tỳ khưu ni Vi Diệu - Quyển 7 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=4KVNn_YlIs0
Kinh Hiền Ngu _ 42/50, Phẩm 39: Đại Thí tát biển - Quyển 8 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=JyllEU4B97g
Kinh Hiền Ngu _ 43/50, Phẩm 39: Đại Thí tát biển (tt) - Quyển 8 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=Ys0qwYwVH4o
Kinh Hiền Ngu _ 44/50, Phẩm 40: A Nan tổng trì - Quyển 9 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=qPv-KpDYSUw
Kinh Hiền Ngu _ 46/50, Phẩm 42: Con ngộ sát cha - Quyển 9 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=lRB13FEKWDE
Kinh Hiền Ngu _ 47/50, Phẩm 43: Tu Đạt làm tịnh xá - Quyển 9 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=Ny1PcH1Zqjk
Kinh Hiền Ngu _ 48/50, Phẩm 44: Lặc Na Sà Gia - Quyển 9 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=3yuPVwkH3Y8
Kinh Hiền Ngu _ 49/50, Phẩm 45: Cá trăm đầu - Quyển 9 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=j2lz_S0hO-0
Kinh Hiền Ngu _ 50/50, Phẩm 46: Tịnh Cư Thiên - Quyển 9 (HQ)
https://www.youtube.com/watch?v=lCYFL5ioz3s
Kinh Hiền Ngu
Thích Trung Quán (Dịch)
Phẩm I. PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP
Chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại đạo tràng Thiện Thắng. Cũng do lòng bi thiết cứu thế, hoằng pháp độ sinh, đã mất bao công gian khổ tu tập. Khi mới thành Phật, thấy vấn đề trên đối với tất cả chúng sinh khó, nên Ngài tự nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh mê tối thâm độc qúa, lòng dạ đảo điên, kiến thức hẹp hòi, chỉ mê theo những lối tà đạo, rất khó giáo hóa, ta có ở đời cũng vô ích, chi bằng ta vào cõi Vô Dư Niết Bàn là hơn".
Khi đó ông vua cõi trời Phạm Thiên biết Ngài tự nghĩ như vậy, liền từ trên trời bay xuống tận nơi, tới trước làm lễ, rồi qùy gối chắp tay cung kính thưa với Ngài rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Vừa đây con được biết ý niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh điên đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn vào Niết Bàn, vậy con tới đây xin cầu thỉnh Ngài ở lại truyền Pháp cho đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn khắp cõi nhân gian thiên thượng muôn loài được thấm nhuần đức hóa, thoát qua khỏi luân hồi sinh tử trong sáu thú, đời đời được an vui tự tại nơi Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ nhận lời thành kính cầu thỉnh của con.
Phật dạy: - Ông có lòng vì tất cả chúng sinh vậy cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh bị trần cấu che tối, say mê, tài sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham dục, sân si, lòng dạ đen tối không có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở đời cũng chỉ luống công thôi! Nên tôi muốn vào Niết Bàn là một sự an vui hơn.
Ông lại thưa rằng: - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Xin Ngài nhủ lòng thương đến con và tất cả chúng sinh trong cõi trời, cõi người, đương bị màn vô minh che tối, tìm ra không biết lối, ngày nay biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã tới, những chúng sinh có thể độ được, con xem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy kính mong Ngài thi ân tế độ hoằng pháp lợi sinh.
Kính lạy Ngài! Con nhớ cách đây vô số kiếp, cũng vì lũ chúng con nên Ngài từng góp nhặt, một bài kệ, cho đến một câu đạo, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, hy sinh vì Phật pháp, một cách rùng mình sởn gáy, tất cả không ai làm nổi, được những hạnh của Ngài đã thực hiện, giờ đây Ngài đã thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải thoát, chúng sinh như những áng cỏ trên mặt đất bao la bị sương mù phủ đậy đã lâu năm đương ngóc ngó ánh thái dương phản chiếu, để biến thành những bông hoa tươi đẹp. Kính lạy Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào Niết Bàn.
Con lại nhớ kiếp qúa khứ cách đây đã khá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhân và một vạn quan Đại thần.
Đối với thời ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc thái bình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận!
Một hôm vua tự nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh, chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".
Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói cho ta hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".
Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui!
Sau đó ông Tỳ Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau.
Ông biến hình làm một con qủi Dạ Xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Các ông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảng cho.
Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vua rằng:
- Tâu bệ hạ ngoài thành có một người hình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thế nào xin cho hạ thần được rõ?
Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điệ? và nhường ngồi trên ngai vàng, thiết đãi một cách rất trọng hậu.
Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp, Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vua ra lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp.
Pháp sư nói:
- Học pháp rất khó, ông muôn được nghe không phải dễ.
Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Pháp sư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi được rõ.
Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.
Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:
- Tôi xin nói để các người hay: vợ chồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìm con đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũ ngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ?
Nghe xong hoàng hậu và thái tử liền quỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.
Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đem vợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đông người nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu, lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.
Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua qúa ư mê chấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làm được. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sự nhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.
Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ như sau:
Nhất thiết hành vô thường.
Sinh giả giai thị khổ!
Phẩm II. THÁI TỬ MA HA TÁT ĐÕA ĐEM THÂN CHO CỌP ĂN
Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.
Tới thời khất thực, Ðức Phật mặc áo mang bát và tôi (Át Nan) đi theo hầu. Khi vào tới thành gặp một bà lão và hai cậu con trai; hai cậu này trộm cắp ngang tàng, không có nhân cách. Giữa hôm ấy sa lưới chánh quyền bị đem đi xử tử.
Giờ phút hãi hùng này thì tôi và Phật vừa tới, ba mẹ con đều cúi đầu lễ Phật và kêu Phật cứu mạng. Phật bèn sai tôi (Át Nan) đến xin vua tha cho, sau khi tôi đến nói với nhà vua, vì có lời Phật đến để xin vua phóng thích cho ba mẹ con bà lão, nên nhà vua tuân lời dạy tha cho tội chết.
Mong ơn cao cả của Ðức Phật, ba mẹ con bà này đến tạ ơn, tới nơi cúi đầu làm lễ và bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Mong ơn sơn hải mẹ con được thoát chết, không biết lấy gì để đền đáp ơn đức cao dầy ấy. Kính lạy Ðức Thế Tôn, mẹ con một lònh thành kính cúi đầu bái tạ, xin từ bi hoan hỷ nhận tấm lòng thành kính của mẹ con chúng con.
Phật dạy: - Quý hóa! Tội phúc do mình tạo tác gây nhân kết qủa, từ nay chăm tu thiện nghiệp, lai sinh hưởng phúc lâu dài.
- Dạ, kính lạy Ðức Thế Tôn! Mẹ con xin tuân lời chỉ giáo! Và xin cho cả ba mẹ con chúng con được nhập đạo tu hành.
Phật dạy: - Quý hoá! Muốn trút bỏ những trần duyên ràng buộc của thế tục, để tìm đường giải thoát thì ta cũng cho.
Nói xong ngài gọi lên rằng: - Thiện Lai Tỳ Khưu!
Ngài gọi xong, cả ba mẹ con, tự nhiên rụng tóc, áo mặc tại mình biến thành áo cà sa, lòng tin vững chắc, sau khi nghe Phật thuyết pháp, những trần cấu phiền não đều tiêu mất, tâm ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo chân thật. Lúc đó hai người con được chứng quả A La hán, còn người mẹ chứng quả A Na Hàm.
- Thấy việc như thế tôi (A Nan) cũng khen ngợi, và cũng lấy làm kỳ ngộ, không biết nhân duyên của ba mẹ con người này, đời trước thế nào? Nên tôi quỳ xuống bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Không hay ba mẹ con người này, đời trươc có phước gì, nay được gặp Ngài cứu cho thoát nạn, hơn nữa lại được chứng đạo Niết bàn? Xin nói cho chúng con được rõ nguyên nhân.
Phật dạy: - A Nan! Ông hãy để ý nghe Ta nói.
Dạ, con xin chú ý nghe.
A Nan! Ông nên biết, cách đây đã vô số kiếp, ở Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua tên là Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba ngàn nước nhỏ, vua có ba người con trai, người thứ nhất tên là Ma Ha Phú Na Binh ; người thứ hai tên là Ma Ha Đề Bà ; người thứ ba tên là Ma Ha Tát Đỏa.
Người con thứ ba Ma Ha Tát Đỏa, có phúc đức lớn, lòng từ bi quảng đại, chí khí cao cả, nhân hiền hiếu thảo, có lòng thương dân giúp vật. Một hôm nhà vua đưa phu nhân thể nữ (nàng hầu ) và ba người con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dưới gốc cây, thì ba Hoàng tử đưa nhau đi chơi, đi tới rừng kia chợt gặp một con hổ mẹ và hai hổ con; con hổ mẹ nằm gục đầu vào tảng đá gầy còm, da sát xương, hơi thở thoi thóp, hai mép phung ra hai bãi bọt lớn, tựa như bọt xà bông, còn hai con nằm chui đầu vào hông mẹ, tuy nhìn thấy người nhưng không hề cử động, vì bị đói lâu ngày khí lực bạc nhược. Song có ý muốn ăn thịt con. Thấy thế, Thái tử Ma Ha Tát Đỏa nói với hai anh rằng:
- Thưa anh! Con hổ mẹ, em thấy đói khát quá, lại thêm nuôi hai con nhỏ, em xem ý nó muốn ăn thịt con, có phải chăng?
Đáp: - Phải! Anh cũng nghĩ thế.
- Thưa anh! Vậy nó hay ăn những thứ gì?
Đáp: - Nó hay ăn những thứ thịt tươi máu nóng.
- Thưa anh! Bây giờ phỏng có ai cứu được nó không?
Đáp: - Việc ấy khó lắm.
Khi đó Thái tử Ma Ha Tát Đỏa động lòng thương ! Thầm nghĩ rằng: - Ta bị sống thác trong bao kiếp tới nay, bỏ thân cũng đã nhiều, song những thân ấy chỉ gây thêm những tội nghiệp, tham, sân, si, chứ chưa từng đem thân ấy mà làm lợi ích cho nhân vật bao giờ; ta hãy bỏ thân tham, sân, si, này cho hổ ăn, để đổi lấy thân từ bi trí tuệ bất diệt.
Nghĩ xong rảo đi trước hai anh, đi chưa được bao xa, quay lại nói với hai anh rằng: - Hai anh hãy đi trước, em có chút việc riêng.
Nói rồi cứ nhắm thẳng con đường cũ, đi tới chỗ ba con hổ nằm, tới nơi gieo mình vào cho hổ ăn thịt. Hổ bị đói lâu ngày run rẩy không thể há mồm ăn được. Thái tử dùng cây nhọn đâm vào cổ họng cho phọt máu, hổ thấy máu lè lưỡi liếm, dần dần tỉnh táo, mới có sức ngồi dậy để ăn thịt, ăn xong thân thể được khoẻ mạnh, mẹ con dẫn nhau đi nơi khác trú ẩn, chỉ còn để lại đống xương trên mặt đất.
Hai người anh ngồi chờ mãi không thấy em về, tự nhiên ruột nóng như lửa đốt, nước mắt chảy dạt dào. Rồi đi tìm em và tự nghĩ rằng: "Em ta có ý định cứu hổ đói". Cứ thẳng lối tìm đến chỗ con hổ, quả nhiên không thấy hổ mà chỉ thấy đống xương và cái đầu nằm trơ trên bãi đất, quá thương em, nên hai người anh ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại!
Đoạn nầy nói đến nhà vua và Hoàng hậu nằm nghỉ mát dưới bóng cây, Hoàng hậu nằm chiêm bao thấy ba con chim cáp bay vào rừng, con chim thứ ba bị chim ưng bắt ăn thịt, sực tỉnh dậy bà sợ quá, liền đem chuyện đó nói với vua:
- Tâu Bệ Hạ tôi vừa mộng thấy ba con chim cáp bay vào rừng, con chim thứ ba bị chim ưng bắt ăn thịt, tôi nghe lời ngạn ngữ nói: Chim cáp thuộc con cháu, cáp nhỏ bị chết tất nhiên con yêu của tôi gặp sự bất tường.
Bà nói vừa dứt lời thì thấy hai cậu con lớn đã về, bà lật đật hỏi:
Em đâu? Em đâu? Hai con?
Hai cậu quỳ xuống thưa rằng:
- Thưa Phụ vương cùng Mẫu hậu! Em con bị hổ ăn thịt. Nhưng không biết bị hổ ăn, hay em con thương nó đói mà cho nó ăn, việc đó chưa tường.
Được tin như sét đánh bên tai; ông bà chết ngất giờ lâu mới tỉnh lại! Đồng thời vua cùng Hoàng hậu và quan quân đi đến chỗ thái tử, chao ôi! Chỉ còn đống xương trắng phơi dãi trên mặt đất, ai nấy đều than khóc tiếc thương! Hoàng hậu tự mang lấy cái đầu lâu, còn vua mang hai ống xương tay, trong lòng rầu rĩ xót đau, ngơ ngẩn! Tâm hồn như mơ như mộng, chứa chan rơi lệ!
Đoạn này nói đến thái tử, vì lòng từ bi cứu hổ đói, sau khi trút khỏi xác, được sinh về Trời. Tự nghĩ rằng:
- Ta được phép thiên nhãn, coi xa năm cõi như coi vật trên bàn tay, chắc đời trước đây ta làm phúc gì, nên mới được quả báo như vậy.
Nghĩ xong nhìn xuống nhân gian, thấy mình là thái tử, vì hy sinh cứu hổ đói, tử thi nằm ở rừng xanh, phụ mẫu hãy còn đương than khóc, Thái tử động lòng thương cha mẹ, ngu si mê muội, khóc thương quá chừng như vậy, hoặc nhân thế mà táng mất thân mạng, liền từ trên Trời bay xuống, đứng trên hư không thưa rằng:
- Kính thưa Phụ hoàng cùng Mẫu hậu! Xin hãy khoan tấm lòng, đừng quá thương Thái tử nữa! Nên trở về hoàng cung trị quốc an bang tu thiện nghiệp.
Thấy thế nhà vua liền hỏi rằng:
- Ông là vị thần nào xin chỉ bảo cho chúng tôi được rõ.
Đáp: - Con là Thái tử Ma Ha Tát Đỏa đây, bởi con xả thân cứu hổ nên con được sinh lên cõi trời Đâu Suất, kính thưa Phụ vương tất cả muôn vật cho đến nhân sinh, có hình tất có hoại, có sinh tất có tử, có rồi phải không, tạo ác thì sa địa ngục, làm lành được sinh lên Trời, sống chết là một luật nhất định cho tất cả chúng sinh, Phụ vương không lo buồn làm chi, cho tổn tâm can, nên tỉnh ngộ để tu đạo hạnh.
Nhà vua nòi: - Người làm hạnh đại từ tế độ cho khắp muôn loài, bỏ ta mà chết! Lòng ta thương nhớ, đến nỗi quặn lòng đứt ruột, đau đớn không tả xiết vậy người tu hạnh đại từ có xứng hay không?
Nghe nhà vua nói, Thái tử dùng vô ngại biện tài, đem những ý nghĩa nhiệm mầu thiện đức, cao siêu xuất phàm để báo tạ và khuyên vua.
Khi đó nhà vua mới nguôi nguôi tấm lòng, và tỉnh ngộ tâm thức, rồi sai người làm hòm thất bảo thu bỏ hài cốt làm lễ an táng và xây tháp cúng dàng.
Tới đây cha con từ biệt: Thái tử hóa thân về Thiên cung; vua, phu nhân và quan quân trở về kinh thành.
Phật nói tới đây rồi Ngài nhắc lại cho tôi:
- Này A Nan! Nhà vua thuở đó là cha của ta ngày nay, Hoàng hậu thuở đó, nay là mẫu thân ta bây giờ, ông Ma Ha Phú Na Ninh nay là ông Di Lặc, Thái tử Ma Ha Đề Bà, nay là ông Bà Tu Mật, còn Thái tử Ma Ha Tát Đỏa chính là ta đây. Hổ mẹ bấy giờ, nay là bà lão này, hai hổ con tức là hai người con trai nầy. Thời đó ta đã cứu sống cho ba mẹ con được an toàn tánh mạng, tới nay ta thành Phật ta lại cứu cho khỏi tội chết và được thoát sinh tử luân hồi.
Phật thuyết xong thì tôi và tất cả mọi người trong đại hội hoan hỷ kính mến đức cao cả của Ngài, ai nấy đều cúi đầu lễ tạ lui ra.
Phẩm III.
HAI NGƯỜI DÒNG PHẠM CHÍ THỤ PHÁP BÁT QUAN TRAI
Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Lúc đó trời vừa sẩm tối, có hai người cõi Trời vào yết kiến Phật, thân thể to lớn đẹp đẽ, người có hào quang, ánh sáng chiếu khắp rừng Kỳ Hoàn trở thành vàng ửng. Tới nơi họ cúi đầu lễ Phật nhiễu ba vòng, rồi lui đứng về một bên, và bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Đấng từ bi cao cả làm thầy cho hết thảy trời, người, hôm nay chúng con tới đây cúi xin Ngài chỉ dạy cho một lối tu hành thoát khổ trong sáu thú, được an vui đạo Niết Bàn?
Khi đó Ngài cũng tuỳ theo căn khí của họ, thuyết cho họ nghe những pháp thích hợp với tâm lượng của họ, nên hai người đều chứng được đạo quả rồi cúi đầu lễ tạ trở về Trời.
Sáng hôm sau buổi trà nước dâng Phật vừa xong, giữa lúc bầu trời êm dịu, thanh khí ôn hòa, trong cuộc thư nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) tới trước bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Tối hôm qua hai người cõi Trời, lại yết kiến Ngài, coi tướng mạo, và oai nghi tốt đẹp, ánh sáng chói loà, phúc đức đầy đủ, không rõ đời trước họ tu những hạnh gì, nay được kết quả tốt lành như vậy?
Phật bảo tôi rằng:
- Này A Nan! Ông lắng nghe tôi nói: Thuở xưa Ðức Phật Ca Diếp ứng thế độ sinh, sau khi Ngài đã diệt độ, bấy giờ pháp đã tới thời cuối rốt (thời mạt), thuở ấy có hai người tu theo dòng Bà La Môn, họ thấy công đức Pháp Bát quan trai cao cả, nên họ xin thụ trì (tu giữ ), người thứ nhất nguyện sinh lên Trời, người thứ hai nguyện làm Quốc vương.
Thụ rồi trở về nhà vào lúc đã quá giờ ngọ, người thứ nhất được vợ gọi ăn cơm; anh nói:
- Thôi, em ăn cơm đi, hôm nay anh đã thụ giới Bát quan trai của Phật dạy, cử quá giờ ngọ không ăn! Vậy anh không ăn đâu, em ăn đi, để cho sự trai giới của anh được hoàn toàn.
Cô vợ thấy chồng nói thế, bực bội cau mặt nghiến răng nói:
- Anh xưa nay thuộc dòng Phạm chí (đạo Bà La Môn) đã có đủ giới pháp, cớ sao hôm nay anh lại đi thụ trai giới của đạo Phật? Nếu anh không chịu bỏ trai giới ấy, mà ăn cơm với tôi, thì tôi đem chuyện này, nói cho tất cả mọi người trong đồng đạo họ biết, họ sẽ đuổi anh ra khổi bọn họ và chính tôi cũng không chung sống với anh nữa.
Cũng do lòng không vững chắc và nhất là nể vợ, sợ vợ! Nên anh thoái chí bỏ trai pháp, tức là phá giới "Bát quan trai", ngồi ăn cơm phi thời với vợ.
Hai người nguyện tu trai pháp ấy, tùy theo tuổi thọ dài vắn rồi cùng chết cả. Người nguyện làm vua thì được sinh vào nhà vua, vì giữ trai giới được hoàn toàn, sau sẽ được làm vua; người nguyện sinh lên Trời, vì phá trai giới phải đọa sinh trong loài Rồng.
Cũng do lòng tin vững chắc, trai giới hoàn toàn thanh tịnh, người làm vua nói trên được hưởng một cuộc đời vương giả trong boàng cung, đầy vẻ tôn sang, thỏa lòng vui sướng với năm cảnh dục lạc của thế gian! Ông vua này có một vườn cây, trong vườn trồng đủ các thứ quả, mùa nào thứ ấy; vườn nầy có một người trông nom, để hàng ngày dâng quả lên vua, gọi là Viên Giám, vua vẫn tin dùng anh là người có khả năng trồng cây coi vườn, tưới bón, tuỳ thời dâng các hoa quả. Một hôm Viên Giám ra giếng nước, quả nầy trên thế gian chưa từng có, sắc đẹp mùi thơm lạ thường, anh vớt lấy và đặt tên cho nó là quả nại, được quả quý này rồi thầm nghĩ rằng:
- Mỗi khi ta vào thành, quan Môn Giám đã chạy ra đón ta, đối với ta một cách thân mật, ta chưa có gì để đền đáp tấm lòng quý hóa ấy, vậy ta đem quả này biếu Ngài.
Nghĩ thế rồi đem quả ấy biếu Môn Giám. Quan Môn Giám được quả này cũng tự cho là một vật quý, nên không ăn, lại đem biếu ông bạn thân là quan Hoàng Môn, quan Hoàng Môn thấy quả quý cũng không ăn, lại dâng lên bà Hoàng hậu, để mua lấy tấm lòng ưu đãi của bà. Bà thấy quả đẹp lạ thơm khác đời, nên bà dâng lên vua dùng. Nhà vua dùng quả này thấy ý vị, mùi thơm từ thuở sinh đến nay chưa từng ăn thứ quả nào được ngon như vậy, liền gọi bà lên hỏi căn do:
- Này bà! Quả mà tôi vừa ăn xong, ngon lắm! Tôi chưa từng thấy quả nào quý như vậy, quả này ai cho?
Phu nhân đáp: - Tâu Bệ hạ! Qủa này do quan Hoàng Môn dâng.
Cho gọi Hoàng Môn.
Nhà vua hỏi: - Quả này mua tại xứ nào?
Đáp: - Tâu Bệ ha! Quả này nhà hạ thần không có, hôm qua quan Môn Giám cho con, xin bệ hạ khoan thứ.
Cho gọi Môn Giám, vua hỏi:
- Quả ngươi cho Hoàng Môn hôm qua là quả gì, mua ở đâu?
Đáp: - Tâu Bệ hạ quả đó nhà hạ thần không có, hôm qua quan Viên Giám cho, xin Bệ hạ lượng thương.
Cho gọi Viên Giám, hỏi:
- Viên Giám trong vườn của ta có những thứ quả ngon lành như thế, sao không đem dâng ta lại đem cho kẻ nào?
Đáp: - Tâu Bệ hạ quả này trong vườn không có giống trồng, hôm qua hạ thần ra giếng thấy nổi trên mặt nước, xin Bệ hạ thương xét.
Nhà vua nói: - Từ ngày mai trở đi ngày nào ngươi cũng phải đem quả này dâng cho ta, nếu không thì ngươi bị tử hình.
Viên Giám nghe xong chết điếng người, mắt xanh lè, run sợ toát mồ hôi lễ tạ, trở về vườn, tiu nghĩu một mình, sầu khổ một mình! Không biết kêu ai cho mình thoát được cái oan ức ấy? Anh òa lên khóc, đương khóc có người tới hỏi:
- Anh có việc chi lo sợ hãi hùng như vậy? Anh nói cho tôi biết, nếu có thể giúp được tôi sẽ giúp anh!
Đáp: - Thưa bác, tôi là một người coi vườn cho nhà vua, chịu trách nhiệm trông coi vườn quả và hàng ngày dâng quả cho nhà vua dùng, hôm qua tôi bắt được một quả nổi trên mặt giếng, vì thấy quả lạ, quý nên tôi không ăn, đem biếu quan Môn Giám, sau quả đó đưa tới vua; vua ăn thấy ngon lành, giờ đây bắt tôi ngày nào cũng phải dâng, nếu không dâng thì bị tử hình, tôi không biết tìm đâu ra được nên tôi khóc.
- Thôi anh khỏi lo nữa! Nhà tôi có rất nhiều, tôi sẽ cho anh một mâm dâng vua.
Nói xong từ biệt ra về. Viên Giám vui mừng an lòng đã có người cứu mình. Chính người này là con Rồng hóa hiện ra thân người để hỏi thử chơi đó thôi.
Một lát anh đã đội lên một mâm đầy quả ngon lạ dưới Long cung, thuần những quả trên thế gian không có, trao cho Viên Giám và dặn rằng:
- Khi anh dâng mâm quả này lên vua thì anh nói rằng: Tôi với nhà vua vốn là bạn thân với nhau, đời trước ở dòng Phạm chí, cùng nhau thọ pháp "Bát quan trai", mỗi người có một bản nguyện: Nhà vua tu hành giữ giới hoàn toàn được làm nhân vương, tôi không giữ được toàn, nên phải đọa sinh vào loài Rồng, chịu nhiều cực khổ, thân thể xấu xa, giờ đây tôi muốn tu theo Trai pháp, để cầu bỏ thân này sinh về cõi Trời. Vậy nhà vua tìm hộ cho tôi bài văn "Bát quan trai" ấy để tôi tu tập, nếu trái lời tôi, thì tôi sẽ lật đổ nước của nhà vua biến thành biển cả.
Viên Giám mừng rỡ; hai tay cất lấy mâm quả trịnh trọng cảm ơn dâng mâm quả ấy lên vua và trình bày những lời của Rồng dặn cho vua nghe.
Nhà vua nghe xong, trong tâm thổn thức không yên, trống ngực đập liên hồi, vẻ mặt mất vui tươi ! Tại sao thế? Là vì thời đó không có kinh của Phật. Nhà vua đêm ngày âm thầm lo nghĩ cho chính mình và tánh mạng cả một nước, nhưng không tìm được một phương tiện gì để giải quyết, trong lúc đương ngồi suy nghĩ, thì thấy một ông quan Đại thần vào chơi, ông này là một người quan trọng nhất thời đó. Nhà vua liền đem câu chuyện Rồng đòi xin văn "Bát quan trai", nói cho ông nghe và nhờ ông tìm hộ.
Ông thưa rằng: - Tâu Bệ hạ! Đời này không có Phật pháp, thì không thể tìm đâu ra được.
Nhà vua nói: - Việc này khanh phải chịu khó tìm cho bằng được, nếu không tìm được thì khanh cũng chết, ta cũng chết, cho đến toàn quốc cũng chết, vậy việc này ta giao cho khanh phải chịu trọng trách!
Theo lời vua truyền xong, ông bái tạ ra về. Ông là người rất có hiếu với cha già, mỗi khi ông đi đâu về, ông cũng làm ra vẻ mặt tươi, để cho cha ông yên lòng, mừng con được an lạc! Nhưng ngày hôm đó ông không thể nào làm nét mặt của ông tươi nữa! Cha ông thấy thế hỏi ông rằng:
- Hôm nay con vào chầu vua có việc gì bất trắc mà lo buồn như vậy, nói cho cha biết với!
Đáp: - Thưa cha! Hôm nay nhà vua truyền cho con phải tìm bài văn "Bát quan trai" của Phật giáo, nếu không tìm được thì nguy cả một nước nên con lo quá! Mà con không thể nào gượng sầu làm vui được!
Người cha nói: - Con ạ! Cái cột nhà ta, thường thường cha nhìn thấy có ánh hào quang hiện lên, con bảo người phá ra xem trong đó có vật gì ?
Nghe lời người cha nói, ông sai gia nhân lấy cây cột khác thay vào và bổ ra được hai quyển kinh: Một quyển nhan đề là "Thập Nhị Nhân Duyên", một quyển nhan đề là "Văn Bát Quan Trai". Thấy thế, ông vui mừng quá! Vội đem dâng vua, nhà vua cũng hoan hỷ cảm ơn, sai người chép lấy một quyển để lại, còn một quyển cho Viên Giám biếu Rồng. Rồng được kinh cũng rất hài lòng với nguyện ước! Trở về đem rất nhiều bảo vật dưới Long cung tạ ơn nhà vua.
Từ đó Rồng chuyên tu trai giới, lúc chết được sinh lên Trời, nhà vua cũng chăm tu trai giới, sau khi mạng chung cũng được sinh lên Trời, hai người này cùng ở với nhau một nơi. Nói tới đây Ngài lại nhắc cho tôi biết rằng:
Này A Nan! Hai người Trời đó, chính là hai người dòng Phạm chí thụ giới "Bát quan trai" thuở xưa ấy, hôm qua tới đây nghe ta thuyết pháp chứng quả Tu Đà Hoàn cắt đứt ba đường ác, là địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh, đời đời thường được sinh trong cõi Trởi, cõi người. Chẳng bao lâu hai người này sẽ được đạo Niết Bàn.
Phật thuyết nhân duyên của hai người xong, tất cả trong đại hội ai ai cũng vui mừng! Kính tin phúc tu của Bát quan trai giới, đều hoan hỷ phụng hành lễ tạ lui ra.
Phẩm IV. ĐI Ở LẤY CÔNG CÚNG DÀNG
Chính tôi được nghe: Một lần Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà.
Thuở đó nước Xá Vệ có một Trưởng giả, sinh được đứa con trai mặt mũi tốt tươi dáng người xinh đẹp; mới sinh đã biết nói ngay. Nó tự hỏi rằng:
- Thưa mẹ! Đức Phật có còn tại thế không?
Đáp: - Ôi! Sao con biết nói sớm thế? Ai dạy mà con đã biết nói? Con hỏi Phật làm chi? Phật hãy con ở đời con ạ!
Nó lại hỏi: - Thưa mẹ, Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả A Nan có còn không mẹ?
Đáp: - Các Tôn giả hãy còn đây con ạ!
Cả nhà họ thấy cậu bé biết nói ngay, ai cũng ồn ào hỏi nhau, nghi nghi hoặc hoặc, chắt môi chắt miệng cho là quái gở? Rồi ông bố cậu đi hỏi Phật; tới chốn Phật, làm lễ xong, quỳ xuống bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Con mới sanh được đứa cháu trai biết nói ngay, không hiểu hay dở thế nào? Kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được đoạn lòng nghi hoặc ấy?
Phật dạy: - Nhà ngươi có phúc đấy, đứa trẻ này có tướng tốt đẹp, sau sẽ làm cho gia đình được tôn vinh trên cõi nhân, cõi thiên nhiều lắm! Không nên hoài nghi làm chi, ngươi cứ an tâm, nuôi nó cho cẩn thận là hơn.
Theo lời Phật dạy ông rất vui mừng! Ông trở về, nó lại nói với ông ấy rằng:
- Thưa cha! Con rất muốn thỉnh Phật và chư Tăng tới nhà cúng dàng, vậy xin cha mẹ vì con sửa soạn giường tòa cho đẹp trang nghiêm, để ấn định ngày thỉnh.
Đứa trẻ nói: - Thưa cha! Các vật dụng về sự cúng dàng, cha không phải sắm chi hết, cha sai người quét dọn và bao sái nhà cửa cho sạch sẽ, bày bàn ghế tòa ngồi, giường chiếu cho trang nghiêm, bát đĩa cho trong sạch, mâm bàn dụng cụ về bữa ăn cứ sắp đặt sẵn, còn về món ăn con đã có đầy đủ. Hiện nay bà thân mẫu con hãy còn ở nước Ba La Nại, xin mời lại đây cho con, và bày cho con ba tòa cao đẹp.
Người cha nghe con nói lấy làm vui vẻ lắm! Ông sai người cỡi voi đi đón bà mẹ ở nước Ba La Nại về, trong nhà bày tòa trải chiếu trang nghiêm mâm bàn, bát đĩa, cốc chén bày trên sồi có thứ tự, bày xong các món ngon lạ, bao thứ ăn uống tự nhiên đầy đủ. Bày ba tòa cao đẹp, tòa thứ nhất để cúng Phật, tòa thứ nhì để bà mẹ ở nước Ba La Nại ngồi, tòa thứ ba để bà mẹ hiện tại ngồi, các việc được chu đáo ổn định rồi, người cha thân đi mời Phật, tới nơi lễ Phật và bạch rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Chúng con cả gia đình thành kính sửa soạn trai nghi, đúng giờ ngọ ngày mai, xin kính thỉnh Thế Tôn và các hàng Tăng Chúng tới nhà thụ trai và tác phước cho chúng con được ân triêm công đức.
Phật dạy: - Quý hóa! Có lòng cầu thỉnh ta sẽ nhận tâm thành ấy cho.
Ông vui vẻ ra về, ngày mai đúng giờ ngọ Phật và Tăng chúng đến đông đủ, thăng tòa ngồi yên tĩnh, ông ta và hai bà mẹ cậu bé ra lễ Phật, thỉnh Phật và chư Tăng thọ trai. Phật dùng trai xong thăng tòa thuyết pháp được thấm nhuần đức hóa của Phật, cả nhà đều chứng sơ quả, vui mừng tạ lễ lui ra.
Cậu bé nay sau lớn tuổi, cũng xin đi xuất gia tu đạo, cậu rất chăm chỉ tu hành không bao lâu đã chứng được quả A La Hán.
Thấy việc như vậy, tôi (A Nan) quỳ xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Cậu bé này vì duyên gì, được sinh vào nhà giàu có, tôn sang? Và biết nói ngay? Hơn nữa lại được đắc đạo quả? Kính xin Ngài chỉ giáo để chúng con được rõ !
Phật dạy: - Này A Nan! Cậu bé này, tiền thân ở nước Ba La Nại là con một ông Trưởng giả, sau khi cha chết, gia nghiệp bị suy tàn, ngày một nghèo thiếu. Tuy được gặp Phật tại thế, nhưng không có gì để cúng dàng vì thế nên anh ta lúc nào cũng buồn. Sau tự đi làm mướn được một năm, anh xin chủ một lạng vàng. Người chủ thấy anh xin vàng bèn hỏi:
- Anh lấy vàng để cưới vợ hay sao?
Đáp: - Thưa không!
Hỏi: - Anh lấy vàng làm gì?
Đáp: - Thưa! Để mua các món ăn, dâng Phật và các vị thánh Tăng.
Ông chủ nói: - Nếu anh muốn thỉnh Phật và chư Tăng, thì ta cũng ưng lắm! Ta sẽ làm những cỗ bàn, và ta đi mời Phật về nhà ta cho anh cúng, có ngại chi việc đó.
Đáp: - Dạ quý hóa lắm! Nếu ông bà có lòng vì tôi như vậy, thì phúc đức vô lượng vô biên!
Ông chủ sai người sắm lễ vật, sửa soạn trai nghi, trịnh trọng, rồi sai người đi thỉnh Phật và các vị thánh Tăng để cúng dàng.
Nói tới đây Phật lại nhắc lại cho tôi hay rằng:
- Này A Nan! Người nghèo đi làm mướn thuở đó, chính là cậu bé này, vì có lòng cúng Phật và Tăng một bữa cơm, sau khi chết được sinh làm con ông Trưởng giả, cũng nhân phúc đó nay đắc quả A La Hán, từ đây sẽ được cõi người, cõi trời cúng dàng.
Khi Phật nói xong câu chuyện này, tất cả mọi người trong đại hội ai ai cũng vui vẻ, tin kính sự cúng dàng được phúc vô lượng vô biên, thảy đều lễ Phật mà lui.
Phẩm V. THẦN BỂ VỚI NGƯỜI ĐI BUÔN
Chính tôi được nghe: Một lần Ðức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà.
Thuở đó trong nước có năm trăm người đi buôn, định ra biển tìm châu báu. Nhưng sự ra biển có rất nhiều hiểm trở khó khăn! Vì thế họ bàn nhau tìm một người đủ tài đức để dẫn đường cho họ. Sau họ tìm được người Ưu Bà Tắc ông này trì ngũ giới và có tài biện thuyết nhanh chóng.
Khi ra đến biển một trời, một nước, ông thần bể biến thành còn quỉ Dạ Xoa hình thể xấu xa, mắt xanh lè, răng chìa ra ngoài, trên đầu lửa cháy dữ dội, tới nơi nắm thuyền lại hỏi:
- Này các ông trong thuyền! Trên thế gian có người nào đáng sợ như tôi không?
Người Ưu Bà Tắc đáp: - Dạ! Thưa ông! Có rất nhiều người đáng sợ gấp trăm ngàn triệu ông, đối với ông có chi đáng sợ.
Dạ Xoa hỏi: - Kẻ đó sợ như thế nào?
Đáp: - Là những kẻ ngu si làm những việc bất thiện, nào sát sinh, hại mạng, trộm cướp, dâm dật vô độ, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói ác, nói đơm đặt, tham dục, giận tức, đắm chìm nơi tà kiến, những kẻ đó chết phải sa xuống địa ngục, chịu khổ muôn phần, quân ngục tốt bắt kẻ có tội ấy, đem ra nhiều thứ để hành phạt, hoặc lấy dao chém, hoặc lấy xe nghiền cho tan thân nát thể ra hàng ngàn vạn đoạn; hoặc bỏ vào cối giã, hoặc bỏ vào cối xay, còn có những hình phạt như: Núi dao, rừng kiếm, xe lửa, vạc nước giá lạnh. Tất cả những bình phạt nói trên, kẻ có tội ấy phải chịu trải qua vài ngàn muôn năm. Như thế mới đáng sợ hơn ông.
Quỉ Dạ Xoa nghe xong buông thuyền cho đi, rồi ẩn mình biến mất, thuyền tiếp tục đi được vài dặm, ông thần bể lại hóa ra một người hình thể gầy gò đen xấu, gân lộ, da sát xương tới nắm thuyền kéo lại hỏi:
- Này các ông trong thuyền, trên thế gian có kẻ nào xấu hơn tôi không?
Ông Ưu Bà Tắc đáp:
- Dạ thưa ông! Có rất nhiều người xấu gấp trăm ngàn vạn triệu ông, đối với ông chi đáng xấu!
Ông thần bể lại hỏi:
- Người đó xấu như thế nào?
Đáp: - Dạ thưa ông! Là những kẻ ngu si, lòng dạ ác độc, tham lam nịnh hót, ghen ghét, bợ đỡ, tích cóp, làm hạnh xấu không có thẹn hổ, có tiền của không nuôi cha mẹ vợ con, thậm chí thân mình cũng không dám ăn mặc, khinh mạn giáo pháp, không biết kính trọng đạo đức, không biết nghe theo lẽ phải, có tính gian lận và không có tâm thương những người đói khát, không biết làm hạnh bố thí, kẻ đó khi chết phải đọa làm loài quỉ đói, muôn ngàn vạn triệu năm đói khát, không biết miếng cơm ngụm nước ra sao! Thân thể hôi thối có những con vi trùng cắn rứt đau đớn suốt ngày đêm, lửa trong mồm phát ra dữ dội; trên đầu có những mụn nhọt luôn luôn chảy, tưới những máu mủ xuống mặt, mắt, mồm thè lưỡi liếm ăn. Kẻ đó mới xấu, mới đáng thương họ ngu si, còn như ông chưa phải là xấu.
Ông thần bể nghe xong, lại buông thuyền cho đi rồi ẩn mình biến mất. Thuyền đi chưa được bao xa, ông thần bể lại biến hình thành một người cực kỳ xinh đẹp. Nắm thuyền lại hỏi:
- Này! Các ông trong thuyền, trên thế gian có ai xinh đẹp bằng tôi không?
Đáp: - Dạ thưa ông! Có rất nhiều người đẹp, gấp trăm ngàn vạn triệu triệu ông, đối với ông có chi đáng đẹp.
Ông thần bể lại hỏi:
- Họ đẹp hơn tôi bằng cách nào?
- Dạ, thưa ông! Trên thế gian có những người thông minh trí tuệ, chăm làm các việc thiện: Thân, miệng, ý; ba nghiệp thường thường trong sạch, biết tôn kính ngôi Tam Bảo, tùy thời cúng dàng. Người ấy khi mạng chung được sinh lên trời, thân thể trong sáng tướng mạo oai nghiêm, phúc đức và thể lực đầy đủ, như thế mới là đẹp, đem cái đẹp của ông đối với họ cũng chẳng khác chi đem con khỉ mù mà ví với cô gái tươi trẻ vậy! Như ông đã lấy gì làm đẹp!
Ông thần bể lại bốc vốc nước bể hỏi:
- Nước trong bàn tay nhiều hay nước bể nhiều?
Đáp: - Dạ thưa ông! Nước trên bàn tay nhiều hơn!
Hỏi: - Vì lý do gì nước trong bàn tay nhiều, xin ông hãy giải đáp cho?
- Dạ thưa ông! Nước bể tuy nhiều nhưng rồi đây cũng có ngày khô cạn, khi trời tai kiếp đến bắt đầu hai mặt trời ra, thì ngòi lạch suối ao khô cạn! Ba mặt trời ra, thì các sông lớn và các bể nhỏ cạn! Năm mặt trời ra thì nước bể lớn đã giảm bớt! Sáu mặt trời ra, thì ba phần giảm hai! Bảy mặt trời ra, thì nước bể cạn hết tiếp đến núi Tu Di tan đổ cho đến đáy kim cương dưới quả địa cầu cũng đều cháy rụi. Nếu kẻ nào có tâm tin sự cúng dàng Phật! Hoặc các vị Sư Tăng, hay cha mẹ hoặc kẻ ăn xin hoặc cho loài cầm thú. Thì công đức ấy trải bao kiếp cũng không mất. Thưa ông, ý nghĩa nhiều ít là như vậy!
Ông thần bể nghe xong vui mừng khôn xiết! Đem tặng ông Ưu Bà Tắc một số châu báu ở long cung và gửi thêm một số báo vật về cúng Phật rồi ẩn hình biến mất.
Tới đây mọi người lái buôn thâu lượm vàng bạc trở về nước nhà, chia cấp cho gia đình rồi cùng nhau đi yết kiến Phật, đem châu ngọc của ông thần bể dâng cúng Phật, và chư Tăng rồi quỳ xuống bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thân người khó được, Phật Pháp khó gặp, chúng con sinh thời may mắn được gặp Thế Tôn, tới đây một lòng thành cầu xuất gia tu học để thoát khỏi sinh tử luân hồi, kính xin từ bi tế độ cho chúng con được ân triêm công đức.
Đức Phật Ngài hoan hỷ nói rằng:
- Thiện lai Tỳ khưu!
Phật nói dứt lời tóc của những người này đều rụng hết, áo trên mình tự nhiên biến thành áo Cà sa, sau nghe Phật thuyết Pháp, tâm dục nhiễm đều sạch không, ngay giờ phút đó họ chứng được quả La Hán.
Thấy thế mọi người trong đại hội ai ai cũng vui mừng, lòng tin kính cúng dàng lại thêm vững chắc, cúi đầu lễ tạ lui ra.
Phẩm VI. CẦU TỰ
Chính tôi được nghe: Một lần Phật ờ nước La Duyệt Kỳ, tại tịnh xá vườn Trúc.
Nước ấy có quan Phụ tướng, nhà rất giàu sang, nhưng không có con trai. Tại vùng đó có đền thờ thiên thần ở bên sông, gọi là Ma Ni Bạt La, nhân dân quanh miền ấy tin sùng lễ bái cầu sao được vậy. Hay tin thần thiêng, quan Phụ tướng tới đền làm lễ và cầu nguyện rằng:
- Thưa Ngài, tôi chưa có con trai, nghe biết thiên thần công đức cô lượng, cứu hộ quần sinh, ai cần gì cũng được như ý nguyện. Vậy tôi tới đây cầu xin thiên thần, năm nay sinh quý tử, nếu được như lời nguyện, tôi sẽ lấy vàng bạc để điểm tô thân Ngài, và các hương tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả, tôi sẽ phá miếu và lấy phân trát vào mình Ngài.
Quan Phụ tướng kêu xong lễ tạ ra về.
Khi đó quan Giám điện nghe xong, toát mồ hôi thầm nghĩ rằng: "Người này hào phú, thế lực hùng cường, tới đây cầu xin quý tử, ta thiếu đức làm sao cho đặng, nếu không giúp được hắn thì hắn làm ô nhục". Nghĩ rồi lên tâu với thần Ma Ni Bạt La:
- Kính tâu thiên thần chúng tôi vâng lệnh coi đền, hôm qua quan Phụ tướng nước La Duyệt Kỳ đến nói rằng: Xin thiên thần cho sinh quý tử, nếu được như lời, thì lấy vàng bạc điểm tô thân Ngài, và lấy các thứ hương tốt để bôi nơi miếu Ngài, bằng vô hiệu quả, sẽ phá miếu và lấy phân trát vào mình Ngài, việc đó hạ thần bất lực xin thiên thần chỉ giáo cho?
Nghe xong, thần Ma Ni Bạt La lên tâu với ông Tỳ Sa Môn Thiên vương.
Tỳ Sa Môn Thiên vương nói: - Việc này để ta lên tâu vua Đế Thích, chứ ta cũng bất lực. Nói rồi bay lên cung trời Đao Lợi tâu vua Đế Thích rằng:
- Kính tâu Thiên Đế ! Tôi có một hạ thần tên là Ma Ni Bạt La lên kêu rằng: Quan Phụ tướng tại thành Vương Xá cầu xin quý tử, và hẹn nếu được như lời thì xin cúng dàng trọng hậu, bằng không sẽ phá miếu, và hủy nhục, kính mong Thiên Đế cứu giúp.
Nhân lúc trên trời có người sắp tận số. Đế Thích cho gọi tới bảo rằng:
- Ta xem Khanh sắp tới ngày mệnh hết, hiện nay quan Phụ tướng ở thành Vương Xá đương cầu tự, vậy sau khi Khanh mệnh chung thì thác sinh vào nhà đó an hưởng sự vinh hoa phú quý.
Đáp: - Kính tâu Thiên Đế! Cái bả phú quý hay làm mê hoặc lòng người, nhân sự vinh hoa phú quý khiến bao người sa xuống hố sâu, ý định của hạ thần muốn sinh vào nhà dân thường, để dễ bề xuất gia tu đạo, cho thoát khỏi sinh tử luân hồi, là hơn nhất, xin bệ hạ tha thứ!
Đế Thích nói: - Không lo, Khanh hãy nghe ta sinh vào nhà đó, rồi ta giúp chớ ngại.
Đáp: - Dạ muôn tâu bệ hạ! Lời thánh chỉ hạ thần không dám trái, nhưng xin bệ hạ luôn luôn giúp đỡ cho, kẻo sợ tham về phú quí mà bỏ mất đại nguyện.
Đế Thích nói: - Khanh yên trí không sao.
Nói xong lễ tạ ra về, ít ngày mệnh chết, thần hồn thác thai vào nhà quan Phụ Tướng.
Đoạn này nói đến Phụ Tướng Phu nhân, sau ngày cầu tự trở về không lâu bà đã có thai, mãn tháng no ngày tới tuần hoa nở, sinh được cậu con trai đầy đủ tướng đức, ông bà yêu quý lắm. Từ khi sinh cậu trong nhà thấy nhiều điềm ứng cát tường, sự trông nom săn sóc một cách phi phàm, một hôm ông bà mời thầy đến xem tướng cho cậu và nhờ đặt tên giùm. Tướng sư đến căn do, rồi đặt cho cậu là Hằng Gia Đạt. Đến khi khôn lớn học hành thông sáng nhưng có một điểm cậu ham học đạo và ham nghe đạo các vị Sa môn giảng, được thấm nhuần đạo đức, thấy đời không có gì vững chắc như mây trôi, như bọt nổi nên cậu quyết tâm xuất gia tu đạo, để cầu giải thoát, rồi lên tâu với ông bà Phụ tướng rằng:
- Kính lạy song thân, được làm người là khó, được gặp Phật tại thế lại khó hơn nữa, hiện nay Ðức Phật ra đời, mục đích cứu người ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Vậy xin song thân cho con đi xuất gia tu đạo, được phúc vô lượng vô biên.
Đáp: - Con ơi! Việc tu đạo cũng tốt nhưng con khổ cực chi, mà đày thân hoại thể nơi chùa chiền, muối dưa khô quạnh, cha làm quan Phụ tướng quyền cao, giàu sang tội bực, quốc gia chưa ai sánh kịp, cha mẹ chỉ sinh được mình con, để nối nghiệp nhà, nay con đi xuất gia thì của này để cho ai, và nhất là cha mẹ già sớm hôm vò võ, lấy ai là người trông cậy lúc bình sinh cho vui ý chí.
Hằng Gia Đạt thấy ông bà không đồng ý với ý nguyện của mình, bèn lễ tạ lui ra, từ ngày đó ngày đêm âu sầu buồn bã! Rồi tự nghĩ rằng:
- Ta sẽ tự sát thân này đi, để sinh vào nhà thường dân đạt được chí nguyện xuất gia của ta.
Nghĩ rồi một mình ra đi, lên ngọn núi cao tự gieo mình lăn từ trên đỉnh núi xuống chân núi, tưởng làm thế cho chết, nhưng trái lại thân thể vẫn còn toàn vẹn không xây xát chút nào; lần này ra sông để tự vẫn, nhưng nhảy xuống không chìm, cuối cùng lấy thuốc độc uống, song cũng không chết, rồi dùng đủ cách để chết, nhưng cũng không chết được, sau định kế phạm quốc pháp cho vua giết. Một hôm Hằng Gia Đạt thấy hoàng hậu và mỹ nữ của nhà vua ra giếng nước giữa vườn tắm, họ cởi áo giắt trên cành cây rồi xuống giếng, anh lẻn vào trộm lấy quần áo và trang phục đem ra, người Môn giám bắt anh tâu vua A Xà Thế.
- Nhà vua nổi giận sai người đem ra pháp tràng xử tử, thoạt đầu sai người giương cung bắn, mỗi khi bắn thì cái tên quay đầu trở lại nhà vua, bắn luôn ba phát đều như thế cả. Nhà vua chột dạ hỏi rằng:
- Nhà ngươi là bộ Thiên, bộ Long hay Quỷ Thần mà có phép lạ như vậy?
Đáp: - Tâu Bệ hạ tôi có một việc riêng, nếu Bệ hạ giúp tôi được thì tôi xin nói.
Nhà vua hỏi: - Ngươi có việc gì cứ nói, nếu ta giúp được thì ta giúp.
Tâu Bệ hạ! Tôi chẳng phải là Thiên Long Quỷ Thần chi hết, chính tôi là con quan Phụ tướng bản triều, vì muốn xuất gia tu học nhưng cha mẹ tôi không cho, nên tôi muốn chết để sinh nơi khác, cho toại nguyện vọng ấy, vừa rồi tôi lên núi, gieo mình xuống vực sâu, và uống thuốc độc nhưng vẫn không chết, còn một kế là tôi phạm pháp để mong nhà vua xử tử thì mới đạt được nguyện vọng ấy, sự thể như vậy, kính xin bệ hạ lượng thương, truyền lệnh cho cha mẹ tôi, để tôi được xuất gia đầu Phật.
Đáp: - Việc ấy không khó con cứ an tâm, ta sẽ bảo Phụ tướng cho.
Qua thời gian sau nhân buổi đi thính pháp nhà vua dẫn cậu đến chốn Phật, tới nơi làm lễ xong nhà vua trình bày ý nguyện của Hằng Gia Đạt cho Phật nghe, Phật mỉm cười nói:
- Thiện lai Tỳ khưu !
Hằng Gia Đạt nghe dứt lời tự nhiên tóc rụng hết, áo trên mình biến thành áo Cà sa, thành tướng Tỳ khưu, sau nghe Phật thuyết pháp, tâm ý khai ngộ chứng La Hán quả, được ba phép "Minh", sáu pháp "thần thông", tám phép "giải thoát".
Thấy thế vua A Xà Thế quì xuống bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Hằng Gia Đạt trồng nhân lành gì, gieo đầu từ trên núi xuống mà không chết, nhảy xuống sông không chìm, uống thuốc độc không hại, tên bắn không trúng, hơn nữa lại gặp Thế Tôn được thoát khỏi sinh tử luân hồi đại khổ, xin nói cho chúng con được rõ?
Phật dạy: - Cách đây đời quá khứ đã vô số kiếp, có một nước lớn tên là Ba La Nại, vua nước ấy là Phạm Ma Đạt, một hôm đưa các người mỹ nữ trong cung vào rừng uống rượu ăn thịt, thưởng thức những khúc đàn hay, tiếng nhạc sáo, giọng hát cao, đương lúc các mỹ nữ cất tiếng ca khúc thì bên ngoài có người cất tiếng để họa lại. Nhà vua nghe thấy nổi giận sai người bắt rồi giao cho lính đem đi xử tử.
Vừa lúc ông quan đại thần đi chơi về bắt gặp, ông hỏi họ rằng: Người này tội gì?
Đáp: - Dạ bẩm quan lớn! Anh này bị tội họa lại giọng hát của các mỹ nữ.
Nghe xong ông thầm nghĩ: "Chà, có thế mà cũng giết người! Thực là vô lý quá". Ông nói:
- Hãy khoan để ta vào tâu vua đã.
Ông vào tâu rằng:
- Tâu Bệ hạ, kẻ kia chưa đến tội chết, vì chưa lấy gì làm nặng lắm, tuy có họa lại tiếng nhưng chưa thấy hình và cũng không có sự giao thông dâm dục, cúi xin Bệ hạ tha cho hắn tội chết.
Nghe nói có lý, nhà vua hạ lệnh tha cho người đó tội chết. Muốn đền đáp ân cao cả ông Đại thần, từ đó anh ta đến hầu hạ phụng sự một cách tôn kính đã lâu năm, giữ một lòng trung thành, trước sau như một, rồi thầm nghĩ như vậy:
Sự dâm dục giết người ta hơn dao kiếm sắc, trước đây ta suýt chết cũng do lòng dục vọng phát động. Rồi thưa với ông rằng:
- Kính thưa ông! Chúng tôi tự nghĩ sự sinh tử vô thường nhanh như chớp nhoáng, như đèn ở trước gió, như giọt sương trên đầu ngọn cỏ, sớm có chiều không, thân này chẳng lâu sẽ vào cửa chết. Vì vậy chúng tôi xin ông để đi tầm đạo giải thoát.
Đáp: - Việc ấy rất hay, nếu học đạo được thành công thì đến đây cho tôi gặp mặt một lần nữa.
Bắt đầu lên núi tu học, chuyên tâm suy xét đạo lý, không bao lâu tinh thần tự nhiên khai ngộ, hiểu thấu nguồn chân, thành ngôi Bích Chi Phật, và giữ lời hứa trước nên Ngài trở về nhà ông quan Đại Thần, và hiện ra mười tám pháp thần thông: bay trên hư không mình phun ra nước lửa, hoặc phóng đại quang minh chói lòa khắp trời đất, ông Đại Thần coi thầy phép thần cao siêu, trong lòng vui vẻ, kính trọng và khấn rằng:
- Kính lạy Ngài, tôi có phúc duyên được cứu Ngài năm trước, vậy xin cho tôi đời đời được phú quý tràng thọ cao đẹp hơn đời, và trí tuệ đức tướng của tôi cũng được như Ngài.
Nói tới đây Ðức Phật lại nhắc cho vua A Xà Thế biết rằng:
- Nhà vua nên biết quan Đại Thần cứu sống một người thuở đó, nay chính là Hằng Gia Đạt. Bởi duyên lành ấy nên sinh vào nơi nào cũng không bị chết yểu, và cũng do phúc duyên ấy mà nay được gặp ta chứng đạo giải thoát.
Phật nói xong, tất cả mọi người trong Đại Hội ai rấy đều kính tin vui mừng cúi đầu lễ tạ lui ra.
Phẩm VII. THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ
Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại Tinh Xá vườn Trúc.
Bấy giờ Ðức Phật và tôi (A Nan) vào thành khất thực gặp hai ông bà già đã lòa đôi mắt, nhà nghèo ở trú dưới cổng thành. Ông bà chỉ được một cậu con trai năm ấy mới lên mười tuổi, hàng ngày cậu phải đi xin để nuôi cha mẹ, được quả gì tươi chín, hoặc thức ăn ngon thì dâng cha mẹ, còn thứ gì không ngon thì mình ăn.
Tôi thấy đứa bé hiếu thảo với cha mẹ như vậy, động lòng thương và yêu nó lắm! Sau lúc về Tinh Xá tôi bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Vừa đây con đi theo hầu Ngài vào thành Xá Vệ, thấy một đứa bé con, biết báo hiếu, đi xin được món gì ngon thì để dâng cha mẹ, món gì dở để mình dùng, còn nhỏ dại mà đã có từ tâm hiếu kính như vậy, thực là hiếm có.
Phật bèn dạy rằng:
- Người xuất gia hoặc tại gia có từ tâm hiếu dưỡng với cha mẹ thì được phúc vô lượng vô biên, ta tự nhớ rằng thời quá khứ có một lần cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc đói khát nguy nan! Bởi công đức ấy ta sinh lên trời được làm Thiên Đế, sinh xuống nhân gian được làm Thánh Vương, cho đến nay được thành Phật, đặc tôn trong ba cõi cũng do phúc ấy.
Thấy Phật nói thế, tôi hỏi Phật rằng: - Kính lạy Ðức Thế Tôn! Thời quá khứ Ngài cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc nguy nan, việc đó thế nào xin nói chúng con được rõ?
- Này A Nan: Ông hãy đễ ý nghe! Cách đây vô lượng vô số kiếp, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một nước lớn tên là Đặc Xoa Thi Lợi. Ông vua nước ấy tên là Đề Bà, được mười con trai, mỗi người cai trị một nước, người con trai út tên là Tu Đề La Chi, (Tàu dịch là Thiện Trụ ) trị dân được an lạc, giàu thịnh mưa gió thuận hòa, thái bình thịnh trị nhân dân mến chuộng.
Thời đó ở nước vua cha có quan Đại Thần tên là La Hầu, tính hung ác tàn bạo, nổi dậy làm phản cướp ngôi giết vua rồi đem quân đi giết Thái Tử ở các nước nhỏ. Thái Tử ứt là người có đức lớn, nên các bộ quỉ thần thường hay ủng hộ, hôm ấy nhà vua ra vườn chơi chợt gặp một con quỉ Dạ Xoa, rẽ đất chui lên thưa rằng:
- La Hầu Đại Thần làm phản giết vua cha rồi, đương đem quân đi giết các anh của nhà vua, nay mai sắp tới đây để giết nhà vua đó, vậy mau mau sửa soạn lánh đi nơi khác. Nhà vua gật đầu cảm ơn trở về cung, không nói cho ai biết, nửa đêm lẻn ra đi một mình, đi chưa được bao xa, sực nhớ con yêu của mình là Tu Xà Đề mới bảy tuổi, tính rất thông minh khôn sáng, trở về ẵm đi vừa đi vừa sụt sùi rơi lệ chứa chan! Bà phu nhân thấy có vẻ lật đật lo sợ, ngạc nhiên hỏi:
- Nhà vua lo việc chi mà lật đật như vậy? Nói cho tôi biết với.
Đáp: - Việc chi bà không cần phải biết.
Bà bèn nắm vạt áo kéo lại hỏi: - Tôi với nhà vua hai thân như một, cam khổ cùng chung chịu, sống thác có nhau, điều chi xin nói cho tôi biết?
Nhà vua bất đắc dĩ nói rằng: - Hôm qua tôi ra vườn chơi gặp con quỉ Dạ Xoa bảo cho biết rằng: Hiện nay ở nước nhà La Hầu đại thần đã giết mất vua cha rồi, đang đem quân đi giết các anh ta, nay mai sắp tới đây giết ta, vì thế ta không kịp nói cho ai biết.
Hoàng Hậu nói: - Chao ôi! Một việc nguy như vậy mà ông nỡ bỏ tôi, chực đi một mình, thôi để tôi đi cùng, sống chết có nhau.
Nói rồi bắt đầu đi, mục đích sang nước láng giềng là một ông vua bạn thân, sang nước ấy có hai lối: Một lối đi bảy ngày, một lối đi mười bốn ngày, vì vội quá nên lúc ra đi không chuẩn bị lương thực, nhà vua chỉ đem lương đủ có một người ăn trong bảy ngày, nhưng không may đi phải con đường mười bốn ngày, đi được vài hôm lương thực đã hết, đói khát mê man giữa rừng thực vô phương kế! Vì sợ Thái tử chết nên nhà vua định giết Hoàng Hậu để cứu con, nghĩ rồi giục bà đi trước, rút dao định chém. Thái Tử thấy vậy chắp tay thưa rằng:
- Kính lạy cha, cha cầm dao để làm gì?
Đáp: - Ta giết mẹ để lấy thịt cho con ăn kẻo con chết mất.
Thái Tử thưa: - Kính lạy cha! Xin cha giết con, để ăn dùng cho qua lúc tai nạn này, cha chớ giết mẹ con, không bao giờ con lại ăn thịt mẹ, con tuy chết nhưng cha mẹ lại sinh được con khác, nếu mẹ con chết, thì không bao giờ có mẹ con lần thứ hai nữa, cứ mỗi ngày con xin cắt thịt con để dâng cha mẹ dùng cho tới nước kia.
Thấy Thái Tử nói thế, nhà Vua lòng đau như cắt không biết tính kế gì, nếu không ăn thịt chết cả ba người cũng vô ích, nếu ăn thịt thì thương con, và nhất là sự cứu vãn nước nhà là cần thiết hơn, nghe xong nhà Vua đành nhận lời của Thái Tử, cứ như thế mỗi ngày cắt hai miếng thịt ăn cho khỏi mệt mỏi, để lấy sức đi đường, đã gần hết mà chưa tới, sự đói thúc giục nghèo ngặt quá, nhà Vua cầm dao cắt thêm được chút thịt nữa, tới lúc cha con sắp chia tay thì Thái Tử thưa với cha rằng:
- Thưa cha, mạng con sắp chết, vừa rồi cha cắt được chút thịt xin cho con một phần.
Nhà Vua bèn phân số thịt đó ra làm ba, hai phần để ăn, còn một phần trao cho Thái Tử. Tới đây cha con từ giã nhau, nhà Vua và Hoàng Hậu hai người đi không lâu đã tới nước kia. Còn Thái Tử nằm trơ trên mặt đất giữa khoảng rừng xanh, khi đó Thái Tử nguyện rằng:
- Kính lạy Thập Phương đại giác Tam Hùng Sư chứng minh lòng thành kính của con cắt thịt dâng cha mẹ, xin đem công đức này để cầu thành Phật, tế độ mười phương chúng sinh, hết mọi sự đau khổ, đưa chúng sanh đến cõi Niết Bàn an lạc.
Phát nguyện xong ba ngàn thế giới chấn động sáu lần, cõi trời Dục Giới và Sắc Giới, ngạc nhiên không biết chuyện chi mà chuyển động cả cung điện, họ nhìn xuống nhân gian thấy Thái Tử Tu Xà Đề cắt thịt nuôi cha mẹ, vì lòng hiếu thảo làm chuyển động trời đất, họ bay xuống rất đông, vì lòng hiếu của Thái Tử làm cho mọi người rơi lệ thành mưa. Vua Đế Thích tự hóa thân làm đứa bé con lại xin Thái Tử trao cho miếng thịt đương cầm tay, Đế Thích lại hóa ra con sư tử chồm nhảy gào thét ý muốn ăn thịt, Thái Tử thầm nghĩ:
- Những loài muông thú kia, muốn ăn thịt ta thì cứ ăn, ta rất vui lòng có tiếc chi.
Vua Đế Thích thấy Thái Tử một dạ bền bỉ vững chắc, liền hiện lại nguyên hình, rồi thưa rằng:
- Thưa Thái Tử tôi đây là Thiên Đế, thấy Thái Tử có hiếu đối với cha mẹ một cách tuyệt đãi, tất cả trời người phàm thánh không ai làm nổi, xin hỏi, Thái Tử đem công đức ấy hướng về ngôi Đế Thích, Phạm Thiên, Ma Vương hay sao?
Đáp: - Thưa Ngài tôi đem công dức này hướng về cõi Phật, cầu thành Phật độ sinh, chứ không cầu làm những ông vua cõi Trời, cõi người như Đế Thích, Phạm Vương, Ma Vương hay Chuyển Luân Thánh Vương để hưởng những dục lạc trong ba cõi.
Đế Thích hỏi: - Thái tử đau đớn như thế thì tâm có hối hận gì không?
- Thưa không có hối gì?
- Thái Tử nói "không", chúng tôi không lấy gì để làm chứng tỏ.
- Nếu Ngài không tin thì tôi xin phát nguyện rằng: - Nếu tâm tôi không hối thì thân tôi lại được phục hồi như cũ.
Tuyên thệ xong, thân thể tự nhiên lại được lành mạnh như cũ, các vết thương biến mất, da dẻ tốt đẹp thân người rạng rỡ.
Thấy sự chứng tỏ có cụ thể như vậy, vua Đế Thích và tất cả mọi người cõi trời ai ai cũng vỗ tay vui mừng và khen Thái Tử chí thành, chí hiếu, rồi cùng nhau biến thân về Thiên cung.
Đoạn này nói đến nhà vua khi tới nước kia vào yết kiến vua nước ấy, hai người nói chuyện với nhau hồi lâu và trình bày công cuộc đi, sự hiếu của Thái Tử Tu Xà Đề cho vua láng giềng nghe, nhà vua láng giềng nghe xong, vừa thương vừa cảm động, đồng thời tất cả vua quan sĩ chúng đi thăm Thái Tử, đến nơi thấy Thái Tử được lành mạnh, tới trước chào mừng và thuật rõ câu chuyện để vua nghe. Thấy thế ai ai cũng vui mừng không tả xiết. Nhà vua láng giềng thấy Thái Tử có sự ly kỳ như vậy, lại càng thêm phần kính trọng rồi tất cả trở về kinh thành.
Sau thời gian ấy, vua láng giềng sửa soạn binh nhung xa quân, mã quân, bộ quân. Cùng với vua Thiện Trụ và Thái Tử Tu Xà Đề về bản quốc tiêu diệt bọn La Hầu, và lập Đại vương cho vua Thiên Trụ, từ đó trở đi trong nước lại được thái bình thịnh trị.
Phật nói tới đây lại nhắc cho tôi biết rằng: "Này A Nan vua Thiện Trụ thuở đó chính là tiền thân Phụ Vương của ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), bà mẫu lúc đó chính là tiền thân của mẹ ta bây giờ (Ma Gia), Thái Tử Tu Xà Đề chính là tiền thân của ta. Cũng do đời quá khứ ta có từ tâm hiếu hạnh, cắt thịt nuôi cha mẹ trong lúc nguy nan, bởi phúc ấy trên cõi nhân, cõi thiên ta thường được sinh vào nhà tôn quý hưởng phúc vô cùng vô tận, và nhân thế cho đến ngày nay ta được thành Phật, đặc tôn trên ba cõi.
Bấy giờ trong đại hội được nghe thuở tiền sinh của Phật, ai ai cũng cảm lòng hiếu hạnh của Ngài, thực là hiếm có. Ngay lúc ấy có người đắc quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm cho đến quả A La Hán, có người phát Bồ đề tâm, có người trụ ngôi bất thoái, mọi người đều vui vẻ cúi đầu tạ lễ mà lui.
Phẩm VIII. CÔ KIM CƯƠNG
Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.
Khi đó phu nhân của Vua Ba Tư Nặc là Mạt Lợi, sinh được cô con gái đặt tên là Ba Xà La, (Tàu dịch là Kim Cương). Tướng người rất xấu! Da sần sù hình như da ngựa, tóc tựa lông đuôi ngựa, hình vóc không giống người, chẳng khác gì quỷ Dạ Xoa, thực là trên đời chưa từng có một người thứ hai xấu như cô.
Nhà vua thấy Công chúa như vậy, lấy làm buồn giận! Nhưng, không biết làm thế nào phải giao cho một người nuôi riêng nơi nhà kín ngoài ra không dám cho ai biết.
Khi lớn tuổi nhà vua lại càng thêm khó nghĩ, chẳng lẽ nuôi con mãi, không lập gia đình, nếu gả chồng, thì sánh vào hạng người nào? Nhà vua và Hoàng hậu bàn nhau như vầy:
Vua nói: - Bây giờ Kim Cương đã lớn tuổi, bà tính sao, có gả chồng cho nó không?
Hoàng hậu nói: - Tậu Bệ hạ! Tôi nghĩ rất khó! Trong triều văn võ bách quan, ai là người lấy nó, nếu họ nhìn thấy nó họ cũng phải chết khiếp.
Vua nói: - Tôi tính như vầy: Bây giờ sẽ tìm cho nó một người dân thường, nhưng phải dòng quý phái và có học thức, bà nghĩ có được không?
- Vâng! Bệ hạ ! Tôi cũng đang nghĩ như vậy!
Ngày mai nhà vua gọi quan Lại thần vào nói rằng:
- Ta có một chút việc riêng. Khanh vào các thôn quê tìm cho ta một người học trò nhà nghèo, chừng hai mươi tuổi, nhưng phải dòng quý phái mới được!
Quan Lại thần đáp:
- Dạ! Hạ thần xin tuân mạng!
Cách ít bữa sau, ông tìm được một thanh niên khôi ngô tuấn tú, ra vẻ bút nghiên kinh sử, và cũng đúng như lời vua dặn. Cậu con nhà quý phái, nhưng chỉ một nỗi nghèo. Chàng được thấy vua triệu vào cung trong dạ mừng thầm và cũng lo thầm! Chưa biết cát hung thế nào? Rồi cùng ông quan này lên đường về kinh.
Tới kinh, Lại thần nói:
- Anh hãy đứng đây để tôi vào tâu vua trước.
- Dạ! Xin đứng đây chờ Ngài.
Lại thần vào trước sân rồng quỳ xuống tâu rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ! Theo thánh chỉ hạ thần đã đi tìm được một thanh niên hiện đương ở ngoài cổng thành!
Nhà vua nói: - Trẫm cho phép, khanh đưa nó vào đây!
Lại thần bái tạ, trở ra đưa chàng vào cung.
Vua hỏi chàng: - Anh năm nay bao nhiêu tuổi?
Đáp: - Kính tâu Hoàng thượng! Con năm nay hai mươi tuổi!
- Học hành thế nào?
- Dạ! Con đương theo học Tú tài!
- Cha mẹ còn sống hay chết?
- Dạ! Cha chết đã lâu, còn mẹ già hàng ngày làm mướn cho con đi học!
Vua nói: - Hôm nay kêu ngươi vào đây, vì trẫm có người con gái hình thù xấu xa, trong triều không thể sánh duyên cùng ai được, nghe biết ngươi tuy nghèo, nhưng dòng hào tộc, vậy ta gả con ta cho, ngươi có ưng thuận không?
- Dạ! Muôn tâu Thánh thượng, nhà con có đầy phúc đức nên nay mới được Hoàng thượng ngó tới, thực là "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" con xin tuân theo ngọc chỉ, không dám trái mạng. Tâu Thánh thượng! Con gái của Thánh thượng tuy xấu, nhưng dầu sao cũng là con của Thánh thượng, là khí huyết của Thánh thượng sinh ra, thực là phước đức cho con vô cùng vô tận, hôm nay nếu Thánh thượng có gả con chó cho con, thì con cũng không dám từ chối, nữa là được diễm phúc sánh hàng Phò mã.
Nhà vua nghe anh nói mỉm cười, rồi định ngày làm lễ đính hôn cho con gái.
Ngày lễ này nhà vua cũng giấu, không cho bá quan và nhân dân biết, chỉ trong hoàng cung làm lễ sơ sơ. Sau cuộc này nhà vua cho hai vợ chồng chàng rể ở riêng một tư thất nơi hậu viên bảy lần cửa khóa cây cối âm u, có vẻ kín đáo. Vua dặn riêng chàng: Luôn luôn để vợ trong cung cấm, nếu có đi đâu phải khóa cửa, và một điều ngặt nhất chớ cho ai ngó thấy, vì lỡ để thiên hạ chê cười!
Từ đó anh học trò nghèo vinh hạnh được nhà vua thâu nạp làm Phò mã, vinh hoa nhất mực lộc nước phấn vua, thoát khỏi nỗi cơ hàn bần khổ nơi hương thôn hủ tục, được dự với những hàng quan liêu trong triều chính, chẳng khác gì đại long thoát khỏi chốn ao tù ra nơi biển cả, phượng hoàng xổ cánh bay bổng chốn mây xanh.
Gặp thời buổi thanh bình bốn phương an lạc, nơi kinh thành những thú vui dồn dập. Khi ấy các quan triều và các nhà quý phái, kết hội với nhau, hàng tháng có những ngày họp mặt, để thưởng thức những thú vui! Ông Phò mã này cũng vào một chân. Khi tới hội ai cũng đem theo vợ, nhưng riêng ông Phò mã chỉ đi có một mình, nên một số người tò mò thắc mắc, tự nói với nhau rằng:
- Ông Phò mã này kỳ nào cũng đi một mình, không thấy vợ đi! Một là vợ đẹp, hai là vợ ông xấu, hôm nay chúng ta tìm cách để xem vợ hắn vì lý do gì mà không tới hội.
Mọi người đều thuận lời bàn ấy, hôm đó họ mời ông Phò mã uống rượu rất say, xong cuộc ăn uống, Phò mã bị say ngủ bất tỉnh, họ cởi trộm lấy chìa khóa rồi sai năm người tới nhà xem cô vợ của ông ra sao?
Giữa lúc Phò mã đi dự hội, cô Kim Cương một mình ngồi trong nhà, thơ thẩn buồn bực tự than rằng:
- Không biết kiếp trước ta tạo tội gì, kiếp này bị thân hình xấu ác, suốt tháng quanh năm vua cha giam giữ trong nhà kín, không nhìn ngó thấy bóng mặt trời mặt trăng cho đến một ai, là thân người không khác gì loài chim lồng cá chậu, thực là khổ quá không biết bày tỏ cùng ai!
Cô lại nghĩ như vậy:
- Hiện nay Ðức Phật ra đời cứu giúp quần sinh muôn loại, rất nhiều người được hàm ân thoát khổ, ta cũng không được tới nơi Ngài mà chiêm ngưỡng, để cầu Ngài cứu khổ ban vui!
Nói rồi cô lấy hương đốt, hướng về núi Linh Sơn nơi Ðức Phật ngự, một mình chí thành đảnh lễ khấn rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Mở lượng từ bi thương xót đến con, tới đây để con được cúng dàng, và giáo hóa cho con.
Vì lòng thành kính thiết tha cầu nguyện của cô, nên Ðức Phật dùng thần túc hiện bay đến chỗ cô ở, đầu tiên Ngài cho cô nhìn thấy tóc của Ngài xanh, nhỏ mềm, có ánh quang minh.
Cô quỳ xuống lễ lạy vui mừng! Nên bộ tóc đuôi ngựa của cô tư nhiên biến thành tóc xanh nhỏ mướt. Lần thứ hai Ngài cho cô nhìn thấy dung nhan như vầng mặt trăng đêm rằm, tươi đẹp siêu phàm. Thấy thế, cô vui mừng! Một lòng tha thiết lễ kính. Vì thế bộ diện xù xì của cô đã biến thành cô gái Tiên nga, mắt sáng tựa sao, mồm tươi hoa nở.
Lần thứ ba Ngài hiện toàn thân cho cô chiêm ngưỡng, thân tướng của Ngài như quả núi vàng, làm sáng rực cả căn nhà của cô. Cô sung sướng quá! Lễ kính dưới chân, ăn năn hối lỗi ! Vì thế nên những tướng xấu da thô, được tiêu tan, thân cô tự nhiên đoan chính, tươi đẹp siêu phàm.
Tới đây Ðức Thế Tôn thuyết pháp cho cô nghe. Những điều kiêu mạn sân si nên bỏ, lòng từ bi khiêm nhượng nên tu.
Cô nghe lời giáo hóa, như người được uống nước cam lồ, vội vàng thụp lạy xin thọ giáo. Cũng do lòng thành phát khởi, nên những nghiệp ác của cô đã tạo từ đời quá khứ được tiêu tan, ngay giờ phút ấy tự nhiên trí óc sáng tỏ, chứng được quả Tu Đà Hoàn.
Đức Phật nhận thấy cô đã thoát nghiệp, và chứng quả nên Ngài ẩn hình biến về Linh Sơn.
Đoạn này nói đến năm người, vừa lúc Ðức Phật ra về thì họ mở cửa bước vào. Nhìn thấy cô họ thưa rằng:
- Thưa cô! Xin lỗi cô, có phải cô là vợ Phò Mã không?
- Thưa phải, các ông tới đây có việc gì?
- Thưa, chúng tôi tới đây có chút việc tư, muốn gặp Phò Mã!
- Hôm nay Phò Mã đi chơi!
Năm người xin cáo lui, ra đường, họ nói cùng nhau rằng:
- Quả nhiên vợ anh đẹp nên anh không mang đi đấy thôi.
Trở về họ trả lại chìa khóa cho Phò Mã. Sau đó Phò Mã tỉnh rượu về nhà nhìn không thấy vợ, chỉ thấy cô gái đẹp!
Ông hỏi:
- Xin lỗi cô tới đây có việc gì?
- Thưa ông tôi là bạn của Kim Cương đây!
- Thưa! Kim Cương đi đâu cô biết không à?
Cô phì cười thưa rằng:
- Đố anh tìm thấy Kim Cương đấy?
Phồ Mã còn đương hoang mang, cô nói tiếp:
- Em chính là Kim Cương, không phải ai đâu? Anh đừng có lạ! Hôm nay em buồn vì sự xấu xa của em nên em đốt hương cầu nguyện Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từ tâm cứu tế, Ngài tới đây em được lễ kính nên những tội ác nhiều đời của em được tiêu tan, biến thân gái xấu, đổi thành đẹp, nên anh không nhận được, có phải ai đâu, cửa anh khóa còn ai vào được. Bây giờ anh đến tâu Phụ Vương và Mẫu Hậu để em lên yết kiến.
Phò Mã vui quá! Biết đích là vợ mình, vội lên vương cung tâu vua rằng:
- Tâu Phụ Vương, Kim Cương muốn lên để yết kiến Phụ Vương!
Đáp: - Thôi! Ta bận việc anh cẩn thận, chớ cho nó đi đâu để khi nào ta đến thăm!
Phò Mã tâu: - Tâu Phụ Vương! Kim Cương hôm nay được nhờ công Ðức Phật biến thân gái xấu đổi thành đoan chính tươi đẹp, giờ đây Phụ Vương có nhìn cũng không nhận được!
Vua nói: - Thế à! Quả như vậy thì anh về mau đem nó lại ta xem.
Phò Mã tất tưởi về đưa vợ lên yết kiến vua và Hoàng hậu, nhìn thấy Kim Cương tươi đẹp khác xưa trong tâm vui vẻ nói:
- Nam mô Phật! Đức Phật xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúnh sinh, con ta hôm nay được Ngài giải thoát tội lỗi, lại được đổi xấu thành đẹp, thực là phúc đức vô lượng! Biết lấy gì đền đáp được Ngài.
Sớm ngày mai, nhà vua sửa soan lễ vật, rồi cùng đi yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều lễ Phật rồi lui về một bên, vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Chẳng hay đứa con gái của con đời quá khứ làm phước gì, nay được sinh vào nhà tôn quý, và không rõ tạo tội gì, phải chịu thân gái xấu, da tóc thô kịch hình như súc sinh, kính xin Ngài chỉ bảo cho chúng con được biết nguyên do?
Phật nói: - Ông muốn biết tội căn và phước bào của Kim Cương tôi sẽ nói ông hay. Người ta ở trên đời đẹp tốt hay xấu xa cũng do nghiệp hành đời trước, tội hay phước cũng do báo ứng của trần thế.
Thuở đời quá khứ đã lâu lắm, bấy giờ có một nước lớn tên là Ba La Nại, nước ấy có ông Trưởng giả giàu có vô chừng, ông biết tôn kính ngôi Tam Bảo cúng dàng chư Tăng. Ông phát nguyện xin suốt đời cúng dàng một vị Bích Chi Phật, vị ấy thân thể thô kịch hình dáng nhem nhuốc xấu xa, ông có cô con gái còn nhỏ tuổi, khi thấy vị Bích Chi Phật lại nhà, thì sinh lòng khinh mạn rồi nói: Ông này thân thể thô kịch xấu xa, da dẻ sần sù, ghê tớm lắm như vậy. Song Ngài vẫn làm thinh, và thường thường đến nhận các món cúng dàng của ông trưởng giả.
Vị Bích Chi Phật khi sắp tịch diệt vào Niết Bàn, muốn để những người tin theo ngôi Tam Bảo phát khởi lòng tu cho bền chắc, cho tinh tiến; nên Ngài bay lên hư không để hiện các phép thần thông; trên mình Ngài phun ra lửa, dưới phun ra nước, đầy cả hư không rồi hiện bên Đông, lặn bên Tây, hiện bên Nam, lặn bên Bắc; hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng, trên hư không. Khiến cho cả nhà ông Tưởng giả coi thấy phép thần biến, rồi từ trên hư không bước xuống đi vào nhà ông Trưởng giả. Ông rất vui mừng và thận trọng kính mến. Người con gái nhỏ lúc đó tự biết mình có tội nói xấu Ngài, kiếp sau quyết bị quả báo, sợ hãi ăn năn, tới trước chắp tay quỳ thẳng thưa với Ngài rằng: "Muôn xin Tôn giả tha thứ, trước đây con không biết Ngài là bậc Thánh, đem lòng khinh mạn, ác tâm nói xấu tội con quá nặng, kính xin Tôn giả xá tội và chớ để tâm". Vị Bích Chi Phật cũng thể lòng từ bi cho cô sám hối.
Đại Vương nên biết, người con gái ấy nay là Kim Cương, con của ông, lúc đó ác tâm chê dèm bậc Thánh nhân, cho nên từ kiếp ấy đến nay, sinh vào thế giới nào cũng phải chịu thân hình xấu ác, vì biết hối lỗi, nên nay mới được đoan chính tốt tươi, anh tài vượt chúng, cũng do sự cúng dàng vị Bích Chi Phật nên đời đời thường được sinh vào nhà tôn quý hưởng sự giàu sang sung sướng, và cũng do nhân duyên này mà được giải thoát, như thế đó. Đại Vương! Tất cả chúng sinh phải nên gìn giữ thân, miệng, ý cho cẩn thận chớ nên càn dỡ khinh người chê bai mắng chửi, sau chịu quả báo đau khổ khó mà thoát khỏi.
Bấy giờ vau Ba Tư Nặc và quần thần cùng tất cả đại chúng, nghe Phật nói căn do quả báo của Kim Cương như vậy, ai nấy đều sợ hãi, và phát tâm tin kính, tự cảm thấy trước Phật, nhân sự tín tâm, nên có người chứng sơ quả cho đến tứ quả, cũng có người phát tâm Bồ đề và cũng có người trụ ngôi Bất thoái, ai nấy đều khát ngưỡng lời giáo hóa của Phật, vui vẻ tuân theo cúi đầu tạ lễ lui ra.
Phẩm IIX. TỲ KHƯU KIM TÀI
Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng các vị tôn đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người ở đó.
Trong thành này có ông Đại Trưởng Giả, bà phu nhân của ông khi đó sinh được một cậu con trai hình dáng tốt đẹp, trên đời hiếm có, đặt tên là Kim Tài. Nhưng lạ thay, từ lúc cậu lọt lòng ra, đã thấy hai tay nắm chặt, tròn như quả thủ, bà mẹ mở tay cậu xem thấy mỗi tay nắm một đồng tiền vàng, bà liền nhặt lấy hai đồng này lại có hai đồng khác ở tay cậu, bà mẹ lượm mãi, đến nỗi đầy một kho tiền vàng mà tay cậu vẫn có không hết. Nhà ông Trưởng Giả đã giàu, sinh cậu ra lại giàu thêm, thực là một việc kỳ lạ nhất thời đó.
Sau khi lớn tuổi, cậu rất thông minh nghe thấy Phật xuất thế độ sinh, nhiều người theo Ngài tu đạo đều được đắc quả giải thoát, cậu vui mừng và để ý xuất gia theo Phật, nên không lập gia đình. Một hôm cậu lên thưa với cha mẹ rằng:
- Kính thưa song thân! Ở đời tuy giàu có sung sướng, gia đình hạnh phúc vui tươi, nhưng chỉ có tạm thời, không bao lâu đã thấy cảnh già chết đưa lại, nước mắt khóc lẫn nhau, kẻ tham tình ân ái ở thế gian khác chi đứa trẻ con tham mật trên lưỡi dao, đầu tiên liếm thấy ngon ngọt, nhưng đứt lưỡi lúc nào không biết, chỉ có xuất gia tu đạo tìm đường giải thoát là an vui hơn. Vậy cúi xin cho con theo Phật xuất gia tu hành.
Đáp: - Ừ, con nói có lý, việc đó cha mẹ không cấm đoán, cho con được tuỳ ý muốn, cha mẹ vui lòng.
Sau khi được sự đồng ý của ông bà. Kim Tài tìm đến chốn Phật, thấy Phật đoan nghiêm tướng hảo, sinh lòng tin kính vui mừng, sụp lễ trước Phật rằng?
- Kính lạy Ðức Thế Tôn không biết phúc duyên gì, sinh thời gặp Phật, con tới đây cầu xin Ngài từ bi tế độ, cho con nương dưới bóng Ngài, được tu hành, tìm đường giải thoát!
Đức Phật nhìn thấy Kim Tài có đủ duyên lành, quả Bồ đề sắp được phát sinh, nên Ngài nhận cho nhập đạo rồi nói:
- Kim Tài! Ngươi có túc duyên nên nay được gặp ta, muốn theo giáo pháp của ta, cần phải chăm chỉ tu hành mới chóng được khai ngộ.
Kim Tài thưa: - Dạ! Kính lạy Ðức Thế Tôn, con xin thọ giáo.
Đức Phật sai ông Thượng Túc đệ tử cạo đầu may áo, và làm lễ truyền giới Sa di, từ đó Kim Tài được theo hầu Phật tu hành.
Trải qua thời gian lâu năm, Kim Tài đã hai mươi tuổi. Đức Phật và các vị Đại Đức đăng đàn truyền giới Cụ Túc. Trước khi truyền giới, Kim Tài phải đi đỉnh lể các vị Hòa Thượng, A Xà Lê, mỗi khi lễ xuống đất hai tay rơi ra hai đồng tiền vàng, cứ thế, lễ vị nào cũng nẩy ra hai đồng tiền vàng, tùy theo lễ nhiều thì rơi nhiều, lễ ít thì rơi ít. Sau khi được nhận lãnh giới Cụ Túc, Kim Tài chăm chỉ tu hành không bao lâu đã chứng quả A La Hán.
Thấy việc lạ! Nên tôi (A Nan) quỳ xuống bạch Phật rằng:
- Lạy Ðức Thế Tôn! Không hay Tỷ Khưu Kim Tài trước đây tạo phúc gì lúc mới sinh ra đã có tiền vàng nắm trong tay, kính xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ.
Phật nói: - A Nan! Ông muốn biết nguyên do hãy bình tĩnh để ta kể chuyện cho ông và đại chúng hay!
- Dạ chúng con xin lắng nghe.
Phật nói: - A Nan, ông nên biết, đời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, Có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi, Phật lấy pháp giáo hóa thế gian, độ thoát chúng sinh nhiều không tính xuể. Lúc ấy Phật và Tăng chúng du hành trong nước, các nhà hào phú trưởng giả nhân dân sửa soạn cỗ bàn các món ăn, dùng thuốc thang, chăn áo, đệm gối, mùng màn, đem dâng cúng cầu phước, thuở ấy có một người nhà nghèo hàng ngày phải ra những nơi đồng hoang kiếm củi để độ nhật, vừa lúc anh bán củi được hai đồng tiền, thấy nhà vua thỉnh Phật và Tăng vào cung cúng dàng. Anh tự hận mình thuở tiền sinh không biết cúng dàng cầu phước, nay bị nghèo khổ; nhà vua phước đức lớn lao mà còn ham phước như vậy, huống ta làm kẻ bần tiện lại không biết cúng dàng hay sao? Nghĩ xong dốc lòng lễ kính dưới chân Phật dâng hai đồng tiền lên cúng Ðức Phật, thương anh Ngài nhận rồi làm phép chú nguyện cho.
A Nan ông nên biết người nghèo thuở đó do phát tâm cúng hai đồng tiền cho nên từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp sinh vào thế giới nào cũng được hưởng giàu sang và có hai đồng tiền vàng nằm trong tay; người nghèo nay chính là Tỷ Khưu Kim Tài, ví nay chưa được đạo quả, thì đời vị lai còn được rất nhiều phước báu.
A Nan! Tất cả chúng sinh nên lấy sự cúng dàng bố thí làm sự nghiệp, kẻo kiếp sống dễ qua, khó lại, mà không có chút duyên lành gì làm tư lương cho hậu thế.
Khi bấy giờ tôi (A Nan) và tất cả mọi người trong đại hội nghe Phật nói xong, ai cũng tin kính và phát tâm cúng dàng bố thí, rồi đó, có người được quả Tu Đà Hoàn, người phát ý vô thượng cầu đạo chánh chân, lại cũng có người trụ ngôi bất thoái, mọi người đều tôn kính tuân theo phụng hành, cúi đầu lễ tạ lui ra.
Phẩm X. HOA THIÊN
Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại rừng cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà, cùng với những vị Tỷ Khưu lớn, cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị tại đó.
Nước Xá Vệ khi ấy có một người Hào Trưởng, bà vợ của ông năm đó sinh được cậu con trai, đầu tròn, mặt vuông, khôi ngô tuấn tú tươi đẹp. Giữa lúc sinh cậu, trên trời tự nhiện hoa rơi xuống đầy sân, nhân điềm tướng này ông bà đặt tên cho cậu: Phất Ba Đề Bà. Tàu dịch "Hoa Thiên".
Dân làng ai cũng khen ông bà nhiều phúc đức, sinh được người con quý. Hào Trưởng vui mừng! Nuôi cậu một cách sung sướng, hy vọng sau này làm nên danh giá cho gia đình chủng tộc, nên ông bà không lúc nào rời lòng yêu dấu cậu, luôn luôn làm những phúc lành để hướng cho cậu. Song tính nết cậu cũng ngoan ngoãn hiếu kính cha mẹ, lại có trí óc minh mẫn và hiền hậu. Đối với mọi người trong nhà như hàng xóm, không làm mất lòng ai bao giờ, lại hay có tâm giúp đỡ người, nên được nhiều người kính mến, xa gần đều cảm phục.
Sau khi lớn tuổi học hành tiến đạt, một hôm theo người thân tín đi cúng dàng Phật. Tới chốn Phật, nhìn thấy Ngài có oai đức phi thường đầy đủ tướng từ bi, quan minh chói sáng, tự phát lòng kính ngưỡng, vui mừng hớn hở rồi thầm nghĩ rằng:
- Người ta sinh trên đời, được gặp Phật là một sự khó, những người được hạnh ngộ, là túc duyên lắm.
Nghĩ xong cậu tới trước Phật, thụp lạy thưa rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Chúng con không biết có phước lành gì hôm nay được tới đây chiêm ngưỡng Ngài, cúi xin Ngài từ bi giáo hóa cho chúng con được biết lối tu hành thoát khổ, đời đời được an vui sung sướng.
Phật nói: - Hay lắm! Ngươi có duyên lành, muốn được an vui lâu kiếp, hãy ghi nhớ những lời ta nói:
- Con người phú quý hoặc bần tiện, cũng do tự mình tạo tác, gây nhân ngũ giới được sinh làm người, tạo mười điều lành được sinh thiên, tham xẻn đọa làm quỷ đói, sát hại sinh mạng sân si phải đọa địa ngục, tà kiến vô nhân đạo làm loài súc sinh v.v…
Cậu nghe xong như người đói được ăn, khát được uống, bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn, ngày mai chúng con thành kính sửa trai nghi, cúi xin Ngài và các vị Thánh Tăng dời gót ngọc tới nhà con dùng ngọ và thuyết pháp để cho cha mẹ con, họ hàng con, được ân triêm công đức.
Phật nói: - Con có lòng thành kính Ta và Tăng chúng sẽ chứng lòng cho.
Cậu ta lễ tạ lui ra, về nhà trình bày cùng cha mẹ công việc mời Phật ngày mai, thì hai ông bà rất vui vẻ! Đêm ấy cả nhà đều tấp nập bày tòa trải chiếu tới sáng mới xong, trong nhà chưa sửa soạn được các món ăn, ông bà liền hỏi cậu:
- Bây giờ phải làm những món gì con?
Cậu đáp: - Thưa mẹ! Việc ấy để con lo liệu, mẹ không phải lo!
Khi Ðức Phật tới, do phúc đức của Hoa Thiên hóa hiện ra những tòa ngồi, bằng thất bảo, nơi nằm, nơi nghỉ, trang nghiêm vô cùng tốt đẹp. Phật và Tăng chúng thăng tòa ngồi yên tĩnh, thì các món ăn ngon lành tự nhiên đầy đủ hiện ra.
Sau khi dùng cơm xong, Ðức Phật thuyết Pháp nói về "Tứ Diệu Đế". Hoa Thiên và cả nhà được chứng quả Tu Đà Hoàn.
Sau khi Ðức Phật về Tịnh Xá. Hoa Thiên xin cha mẹ theo Phật xuất gia cầu đạo giải thoát, vì ông bà đã hiểu đạo, nên thuận lòng cho cậu đi theo Phật tu hành, cậu từ tạ cha mẹ đến Tinh Xá cúi đầu lễ Phật xong thưa rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Xin Ngài từ bi hoan hỷ cho con được xuất gia nhập đạo tu hành, vì đã được sự đồng ý của cha mẹ con.
Phật nói: - Thiện Lai Tỷ Khưu.
Ngài nói dứt lời, tóc trên đầu Hoa Thiên tự nhiên rụng hết, áo mặc tại mình biến thành áo cà sa, thành một hình tướng Sa Môn, tu hành gắng gỏi chẳng bao lâu đã chứng quả A La Hán.
Thấy việc của Hoa Thiên, tôi (A Nan) lấy làm lạ, nên tôi tới trước Phật làm lễ bạch rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Tỷ Khưu Hoa Thiên thuở quá khứ làm phước gì, lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, khi cúng dàng Phật tự nhiên lại có giường tòa và các món ăn, cúi xin Ngài chỉ giáo để chúng con được rõ.
Phật nói: - A Nan ông muốn biết chuyện của Hoa Thiên hãy lắng nghe ta nói cho ông hay.
Dạ! Chúng con xin chú ý nghe!
Đời quá khứ cách đây đã quá xa xưa, thuở đó có Ðức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi. Phật ứng thế độ sinh, thường thường cùng Tăng chúng vào các làng ấp để giáo hóa, những nhà tôn quý và nhân dân đem các món ăn và dụng cụ ra cúng dàng. Lúc ấy có một người nhà nghèo thấy họ sùng kính cúng dàng cầu phước trong lòng tuy hoan hỷ, nhưng hận mình nghèo, không có gì dâng cúng để làm duyên cho tương lai, anh liền hái hoa cỏ bên lề đường, một lòng thành kính lễ lạy tung lên trên chư Tăng rồi đi.
A Nan chính người nghèo cúng hoa thuở đó, nay là Tỷ Khưu Hoa Thiên, đấy cũng do đời quá khứ có lòng tin kính cúng hoa chí tâm cầu nguyện từ đó tới nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp. Hoa Thiên được phước báu sinh vào thế giới nào thân thể cũng tốt đẹp, ý muốn dùng gì cũng được đầy đủ; thức ăn uống giường tòa các dụng cụ nghĩ đến thì tự nhiên có, và lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống, do phước duyên đó mà nay được đắc đạo.
A Nan! Tất cả chúng sinh chớ coi sự cúng dàng nhỏ mọn mà khinh thường, xem Hoa Thiên thì tự biết.
Bấy giờ tôi và tất cả đại chúng nghe Phật nói xong ai nấy đều vui mừng tạ lễ mà lui.
Phẩm XI. TỶ KHƯU BẢO THIÊN
Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà. Ở thành này có ông Trưởng giả, bà vợ sinh được cậu con trai mặt mũi đầy đặn xinh đẹp, giữa lúc sinh, trên trời tự nhiên châu bảo rơi xuống như mưa: Vàng, bạc, nhọc lưu ly, ngọc xa cừ, ngọc mã não, ngọc san hô, ngọc phách; nơi vườn, ngoài sân, đầy dẫy.
Dân làng hàng xóm xúm đến xem và lượm châu bảo giùm. Họ lại ca tụng ông bà có nhiều phúc đức, và người con quý, nên trời ban thưởng những châu bảo này ư.
Trưởng gia vui mừng vừa được quý tử, lại được châu bảo, tự nghĩ: "- Việc này từ cổ đến kim chưa từng thấy." Hồ nghi không biết tốt hay xấu, nên sai người đi tìm thầy tướng đến xem hung cát thế nào.
Thầy tướng tới nhà, ông nói:
- Thưa ngài nhà tôi mới sinh được một mụn con trai, lại thấy có châu bảo rơi xuống nhiều, không biết hay dở thế nào, xin Ngài xem giùm và coi tướng cháu có thể nuôi được nên người không?
Thầy tướng nói: - Dạ! Ngài ẵm cháu ra đây!
Bà Trưởng giả nghe thầy nói vội bế con ra. Thầy ngắm nghía hồi lâu rồi nói:
- Thưa Trưởng giả cháu có nhiều tướng quý: Đầu tròn, mũi thẳng, tai dầy và trán vuông, mặt dầy, bàn chân bàn tay đầy, sau này có thể làm ích cho gia đình, xã hội. Nếu xuất gia sẽ được chứng quả giải thoát, ông bà cứ yên trí nuôi cháu cho cẩn thận, không còn nghi ngờ gì nữa.
Nghe tướng sư nói ông rất lấy làm hoan hỷ và nói:
- Xin phiền thầy đặt tên cho cháu.
Tướng sư nói: - Theo điềm có châu bảo rơi xuống, đặt tên cho cháu là Lặc Na Đề Bà (Tàu dịch là Bảo Thiên).
Nói rồi tướng sư đứng lên cáo lui ra về, ông Trưởng giả thận trọng cám ơn và tạ lễ.
Quả như lời tướng sư nói, Bảo Thiên khi lớn tuổi học hành, thông minh tài năng lỗi lạc, nhưng rất ham đạo đức và có trí suy tầm đạo giáo. Một hôm cậu sang chơi nhà thân quen tỉnh khác, họ đưa cậu đến yết kiến Phật, tới nơi mọi người đều nhiễu Phật ba vòng, cậu cũng theo như họ lễ và nhiễu, rồi lui ngồi một bên, nhìn thấy Phật oai đức phi thường khắp trời đất không ai sánh kịp, sinh lòng mến mộ, phát ý xả tục nhập đạo nối chí như Phật.
Tới đây Ðức Phật thăng tòa thuyết pháp cho đại chúng nghe nói về mười hai nhân duyên, chúng sinh bị luân chuyển trong sáu đạo, xong cuộc thuyết pháp mọi người tạ lễ lui ra.
Bảo Thiên được nghe lời vàng ngọc của Phật giáo hoá, lấy làm sung sướng định tâm lần này quyết xuất gia tu đạo.
Khi về tớí nhà cậu quỳ xuống thưa cha mẹ rằng:
- Kính lạy song thân! Được làm người là khó, được gặp Phật tại thế lại khó hơn, hôm qua con được yết kiến Thế Tôn, lại được nghe chánh pháp con nhận thấy ngoài đạo Phật ra không còn đạo nào có thể giải thoát cho con người, vậy kính xin song thân cho con xuất gia học đạo.
Ông bà thấy cậu hướng việc tu hành, vui vẻ nói:
- Cha mẹ sinh người chứ không sinh được tánh, ý con muốn xuất gia thì cha mẹ cũng vui lòng.
Được sự đồng ý của cha mẹ rồi lễ tạ ra đi, tới nơi cúi đầu lễ Phật thưa rẳng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn, chúng con từ vô thủy kiếp, bị nổi chìm trong biển sinh tử, không người cứu vớt, Ngài như một chiếc thuyền từ cứu người giải thoát, hôm nay chúng con tới đây một lòng thành kính cầu xuất gia học đạo, để lên nơi giác ngạn, cúi xin Ngài từ bi tiếp hóa.
Phật nói: - Thiện Lai Tỳ Khưu.
Nói dứt lời tóc trên đầu Hoa Thiên rụng hết, áo trên mình biến thành áo Cà Sa, từ đó theo Phật tu hành, vốn có trí óc thông minh sẵn, nên không bao lau đã chứng được quả A La Hán, cắt đứt đường sinh tử, không phải thụ sinh trong ba cõi.
Nhân buổi thư nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) muốn biết rõ câu chuyện này nên bạch Phật rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Không hay Tỳ Khưu Bảo Thiên đời trước làm phước gì lúc sơ sinh lại có châu bảo trên trời bay xuống. Và những món ăn dùng tự nhiên biến hiện tuỳ theo ý muốn, xin Ngài nói cho chúng con được rõ.
Phật dạy rằng: - A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi tế độ cho quần sinh được giải thoát rất nhiều không tính xuể. Một hôm các vị Tăng đi vào các thôn xóm khất thực, người dân chen nhau mang các món ăn ra cúng dàng. Lúc ấy có một người nghèo, phát sinh lòng hoan hỷ! Muốn cầu phước cúng dàng, nhưng không có tiền của, cùng bất đắc dĩ, lấy một nắm đá tròn như hạt châu với một lòng thành kính thiết tha, tung nắm đá ấy lên các vi Tăng và khấn nguyện rằng: - Nguyện cho con đời đời phú quý trường thọ và được đạo giải thoát như các ngài.
A Nan ông nên biết! Người nghèo cúng đá thuở đó, chính nay là Tỷ Khưu Bảo Thiên, cũng do đời quá khứ có lòng kính tin ngôi Tam bảo, đem đá cúng chư Tăng cho nên từ đó tới nay trải qua chín mươi mốt kiếp, được hưởng vô lượng phước báu, sinh về xứ nào, cũng an hưởng tự nhiên, cũng bởi duyên ấy nay được gặp Ta và đắc đạo quả.
Bấy giờ tất cả mọi người trong đại hội, nghe Phật nói xong ai nấy đều phát tâm cung kính sự cúng dàng, rồi có người đắc sơ quả, cho đến tứ quả, cũng có người được ngôi bất thoái, vui mừng tạ lễ mà lui.
Phẩm XII. SÀN ĐỀ BÀ LA
Chính tôi được nghe: Một thời Ðức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại rừng Trúc khi Ngài mới thành Phật bắt đầu độ nhóm ông Kiều Trần Như cả thảy năm người, sau độ cho anh em ông Uất Tỳ La Ca Diếp, ngàn người, độ người đã nhiều được thoát khổ cũng lắm.
Bấy giờ nhân dân nước La Duyệt Kỳ vui mừng được bậc đại Thánh Nhân xuất thế, ai ai cũng ca tụng khen ngợi Ðức Thế Tôn: Một đấng cứu thế, biết bao chúng sinh được hàm ân thoát khổ, hơn nữa Ngài còn nhiếp phục được những tà đạo trở lại theo Ngài, thực là một việc lại còn khó hơn. Họ lại khen nhóm ông Kiều Trần Như và anh em ông Uất Tỳ La Ca Diếp với các vị đại đức Tỷ Khưu khác, đối với Ðức Thế Tôn chẳng hay đời trước có duyên gì? Trống pháp mới đánh đã được nghe trước, nước cam lồ được uống trước.
Các Tỳ Khưu thấy họ ca tụng như vậy liền đem chuyện ấy lên thưa với Phật.
Phật nói: - Đó không chi lạ đâu! Ta với các ông ấy đã có lời thệ nguyện từ đời quá khứ: Nếu Ta được thành Phật, Ta sẽ độ cho các ông ấy trước.
Các Thầy thưa rằng: - Kính lạy Ngài! Thuở xưa Ngài thệ nguyện thế nào, cúi xin nói cho chúng con được rõ.
Phật dạy: - Muốn biết sự tích Ta với các ông ấy đời quá khứ, hãy để ý nghe cho kỹ Ta sẽ nói cho hay: Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm có đến vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể dùng tâm suy nghĩ và lời nói mà tính được. Cũng Châu Diêm Phù này, có một nước lớn gọi là Ba La Nại, ông vua nước ấy tên là Ca Lợi cũng thời đó có một vị đại tiên tên là Sàn Đề Bà La và cả thảy năm trăm đệ tử ở trên một quả núi tu theo phép nhẫn nhục.
Một hôm nhà vua nước ấy cùng với phu nhân, thể nữ, quần thần vào núi để du ngoạn: Săn bắn các thú vật, bày các cuộc vui, uống rượu, ăn thịt, các thể nữ múa hát, làm cho nhà vua vui tai, thích mắt, thỏa thích với dục lạc, tàn tiệc rượu, nhà vua nằm nghỉ nhọc dưới gốc cây, thừa cơ ấy các cô rủ nhau đi hái hoa trong rừng, tới một hang núi, thấy ông Sàn Đề Bà La đương ngồi yên tĩnh có vẻ trầm tư suy xét, các cô này thấy ông đạo mạo với nét mặt siêu phàm, ngoài cuộc trần tục, nên các cô sinh lòng kính trọng! Dùng các thứ hoa tung lên cúng dàng rồi ngồi xúm lại xung quanh để nghe thuyết pháp.
Khi hết hơi men nhà vua thức dậy, nhìn xung quanh không thấy một người con gái nào hầu cạnh, ông nổi giận quá đứng phắt dậy, cùng với bốn ông quan đại thần đi tìm, một lát tới chỗ ông Tiên, thấy bọn các cô đang ngồi vây quanh trước sau, nhà vua cất tiếng la lớn, các cô này sợ hãi chạy dạt ra, nhà vua tới trước chỗ ông Tiên hỏi rằng:
- Nhà ngươi đã đắc định Tứ Không chưa?
- Thưa chưa được.
- Nhà ngươi đã được Tứ Vô lượng Tâm chưa?
- Thưa chưa được.
Nhà vua lớn tiếng nạt rằng:
- Từng ấy công đức đều nói chưa được, như vậy, nhà ngươi có hơn gì kẻ phàm phu, thế mà dám ngồi chung với những đứa con gái này ở nơi vắng vẻ tin sao được?
Ông Tiên lặng yên không đáp lời nào hết, nhà vua lại hỏi:
- Ở đây người là người thế nào? Tu đạo gì?
- Thưa! Tôi tu theo hạnh nhẫn nhục!
Nhà vua có vẻ tức giận rút kiếm ở sau lưng ra nói:
- Nhà ngươi tu nhẫn nhục ư! Nhẫn nhục để ta thử xem ngươi có nhẫn nhục đựợc không?
Nói xong chém phắt hai cánh tay ông Tiên rơi xuống đất, rồi hỏi tiếp:
- Đã nhẩn nhục được chưa?
Tiên đáp: - Nhẫn nhục được!
Ông laị chém phát hai nhát vào hai vế đùi nhả ra, rồi hỏi tiếp:
- Đã nhẫn nhục được chưa?
- Nhẫn nhục được!
Nhà vua lại xẻo hai tai và mũi trông rất ghê sợ. Tất cả quan quân thể nữ, nhìn thấy nhà vua quá ư ác nghiệp với ông Tiên ai cũng xám đen mặt lại, nhưng không dám can ngăn, vì sợ cơn ghen của ông đương bộc phát, song họ nhìn thấy ông Tiên nét mặt bình tĩnh không chút biến đổi.