-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kim cương man? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, tuy có thể thông đạt tất cả pháp nhưng không thấy có tướng thông đạt. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Kim cương man.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Trụ tâm? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, tâm không lay động, không xoay chuyển, không chiếu soi, cũng không tổn giảm, không nghĩ có tâm. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Trụ tâm.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phổ minh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể quán chiếu rõ khắp các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phổ minh.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thiện trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể khéo an trụ các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Thiện trụ.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bảo tích? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, quán các đẳng trì (định) đều như châu báu nhóm lại. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bảo tích.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu pháp ấn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể ấn chứng các đẳng trì (định), vì đem không ấn mà ấn chứng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Diệu pháp ấn.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy có pháp nào lìa tánh bình đẳng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Xả ái lạc? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp xả bỏ các ưa thích. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Xả ái lạc.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp có thể đoạn trừ các chướng ngại, mê mờ, cũng hay đứng đầu trong các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phiêu tán? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thổi tan tất cả chấp định, chấp pháp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phiêu tán.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, hay khéo phân biệt cú pháp các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bình đẳng tự tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, được tự tướng bình đẳng của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bình đẳng tự tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly văn tự tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) không đắc một chữ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly văn tự tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đoạn sở duyên? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đoạn tuyệt cảnh tướng sở duyên của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đoạn sở duyên.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biến dị? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không đắc tướng biến dị của các pháp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô biến dị.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô phẩm loại? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy tướng phẩm loại sai biệt của các pháp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô phẩm loại.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tướng hành? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tướng các định đều vô sở đắc. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tướng hành.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly ế ám? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, diệt trừ hết bóng tối của các định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly ế ám.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ hạnh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với hạnh các định đều không có kiến chấp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ hạnh.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất biến động? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) không thấy biến động. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bất biến động.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Độ cảnh giới? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, vượt qua cảnh giới sở duyên của các đẳng trì (định). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Độ cảnh giới.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể nhóm hợp các công đức của định, đối với tất cả pháp đều không còn tập tưởng (nhớ tưởng). Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các định tâm tuy quyết định trụ, nhưng biết rõ tướng nó bất khả đắc. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quyết định trụ.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tâm trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, tâm không lay chuyển, không đọa lạc. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tâm trụ.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) đều được thanh tịnh, ánh sáng rực rỡ trang nghiêm như hoa đẹp. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ giác chi? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho việc tu tập bảy giác chi của tất cả định mau viên mãn. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ giác chi.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên đăng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp đều có thể chiếu rõ giống như đèn sáng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô biên đăng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên biện? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp được vô biên kiến giải. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô biên biện.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) được tánh bình đẳng, cũng làm cho các định thành vô đẳng đẳng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể vượt qua các pháp khắp ba cõi. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các định thù thắng và tất cả pháp, hay vì hữu tình phán quyết như thật. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tán nghi võng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp mọi nghi ngờ đều được tiêu trừ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tán nghi võng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô sở trụ? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp có chỗ trụ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô sở trụ.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp có hai tướng có thể nắm bắt. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp, tuy hay hướng đến các hành tướng nhưng đều không thấy người hay hướng đến. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy hành tướng các đẳng trì (định) không có hai. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhất hành tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì (định) đều không có hành tướng. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly hành tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) phát sanh hành tướng vi diệu. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Diệu hành tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đạt chư hữu để tán hoại? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp được trí thông đạt ngộ nhập như thật; đã ngộ nhập rồi, đối với các pháp hữu phá tan hoàn toàn không để sót lại. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đạt chư hữu để tán hoại.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập thi thiết ngữ ngôn? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, ngộ nhập tất cả pháp Tam-ma-địa, trình bày lời nói không vướng mắc, không chướng ngại. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhập thi thiết ngữ ngôn.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, thấy các tướng giải thoát tất cả âm thanh văn tự, của các đẳng trì (định) tịch diệt. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cự xí nhiên? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) oai quang chiếu sáng rực rỡ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cự xí nhiên.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, hay làm nghiêm tịnh tướng các đẳng trì (định), nghĩa là đối với các tướng đều có thể diệt trừ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tiêu xí? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) không thấy nêu cờ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tiêu xí.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đầy đủ các diệu tướng của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất hý nhất thiết khổ lạc? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các tướng khổ vui của đẳng trì (định) không ưa thích quán sát. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Bất hý nhất thiết khổ lạc.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tận hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các hành tướng của định có cùng tận. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô tận hành tướng.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ Đà-la-ni? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, có thể đảm nhiệm hết các việc thù thắng của định. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ Đà-la-ni.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các kiến chấp về chánh tánh tà tánh của các đẳng trì (định) đều nhiếp phục làm cho không phát sanh. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh tức nhất thiết vi thuận? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp đều không thấy có tướng nghịch thuận. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Tịnh tức nhất thiết vi thuận.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly tắng ái? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp đều không thấy có tướng thương ghét. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly tắng ái.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu minh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) đều không thấy có tướng trong trong sạch, tướng cấu uế. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô cấu minh.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ kiên cố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) đều được kiên cố. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Cụ kiên cố.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Mãn nguyệt tịnh quang? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) tăng thêm công đức như mặt trăng tròn sáng thì nước biển dâng lên. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Mãn nguyện tịnh quang.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đại trang nghiêm? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) thành tựu các việc đại trang nghiêm, hy hữu, vi diệu. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Đại trang nghiêm.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Chiếu nhất thiết thế gian? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, chiếu soi các đẳng trì (định) và tất cả pháp, làm cho các loại hữu tình đều được khai sáng, hiểu rõ. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Chiếu nhất thiết thế giam.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy đẳng trì định hay tán loạn sai khác. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, không thấy các pháp và tất cả định có tranh không tranh tánh tướng sai khác. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, phá trừ các sào huyệt, xả bỏ các cờ xí, đoạn trừ các ưa thích mà không chấp trước. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì (định) và tất cả pháp thường không xả bỏ thật tướng chơn như. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly thân uế ố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) phá hoại thân kiến. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly thân uế ố.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly ngữ uế ố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) diệt trừ nghiệp ác về lời nói. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly ngữ uế ố.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly ý uế ố? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm cho các đẳng trì (định) diệt trừ nghiệp ác về ý. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Ly ý uế ố.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Như hư không? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình tâm bình đẳng như hư không rộng lớn. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Như hư không.
Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không? Nghĩa là khi an trụ Tam-ma-địa này, quán tất cả pháp đều vô sở hữu như hư không trong sạch, không ô nhiễm, không chấp trước. Vì thế gọi là Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không.
Này Thiện Hiện! Có vô lượng trăm ngàn các Tam-ma-địa thù thắng hy hữu vi diệu như vậy. Nên biết đó là tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát .
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
XVII. PHẨM NIỆM TRỤ ĐẲNG 01
Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn niệm trụ. Thế nào là bốn? Một là thân niệm trụ; hai là thọ niệm trụ; ba là tâm niệm trụ; bốn là pháp niệm trụ.
Thân niệm trụ nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thân quán theo thân, hoặc trụ ở ngoại thân quán theo thân, hoặc trụ ở nội ngoại thân quán theo thân nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.
Thọ niệm trụ nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thọ quán theo thọ, hoặc trụ ở ngoại thọ quán theo thọ, hoặc trụ ở nội ngoại thọ quán theo thọ nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thọ, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.
Tâm niệm trụ nghĩa là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội tâm quán theo tâm, hoặc trụ ở ngoại tâm quán theo tâm, hoặc trụ ở nội ngoại tâm quán theo tâm nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo tâm, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.
Pháp niệm trụ ấy là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội pháp quán theo pháp, hoặc trụ ở ngoại pháp quán theo pháp, hoặc trụ ở nội ngoại pháp quán theo pháp nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo pháp, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.
Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu?
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình khi đi biết đi, khi đứng biết đứng, khi ngồi biết ngồi, khi nằm biết nằm. Oai nghi thân mình sai khác như vậy, như vậy, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình chánh tri (như thật) đi lại, chánh tri (như thật) nhìn tới, nhìn lui, chánh tri (như thật) cúi xuống ngước lên, chánh tri (như thật) co duỗi, mặc Tăng-già-chi, đắp y cầm bát, hoặc ăn hoặc uống, nghỉ ngơi kinh hành, ngồi dậy, đón rước, thức ngủ nói năng im lặng, nhập xuất các định, đều chánh niệm tỉnh giác. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có trụ nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình, lúc thở vào biết thở vào, khi thở ra biết thở ra, khi thở hơi dài biết thở hơi dài, khi thở hơi ngắn biết thở hơi ngắn. Như thợ quay bánh xe hoặc đệ tử người ấy, khi bánh xe quay nhiều biết bánh xe quay nhiều, khi bánh xe quay ít biết bánh xe quay ít. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, biết rõ các hơi thở khi vào hoặc ra, dài ngắn khác nhau. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình, với các giới sai khác. Nghĩa là địa giới, thủy, hỏa, phong giới. Như người đồ tể khéo léo hoặc học trò người ấy giết chết bò rồi, lại dùng dao bén phân chia thân bò ra làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng quán biết như thật. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, quán sát thân mình với bốn giới địa, thủy, hỏa, phong sai khác. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 414
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán sát kỹ thân mình từ chân đến đầu có các thứ bất tịnh đầy nhẫy trong ấy, bên ngoài được lớp da mỏng bao bọc. Gọi là thân này chỉ có các thứ: Tóc, lông, móng, răng, da dày, da mỏng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, tim, gan, phổi, thận, mật, lá lách, dạ dày, ruột già, ruột non, phẩn, nước tiểu, nước dãi, nước mắt, mồ hôi, đất bẩn, đàm, mủ, mỡ lá, óc, màng, ghèn, cứt ráy. Những thứ bất tịnh như thế đầy nhẫy trong thân. Như trong kho của người nông phu hoặc các trưởng giả có chứa đầy các loại ngũ cốc như là: Nếp, mè, lúa, đậu, bắp v.v... Có người mắt sáng mở kho đó ra xem có thể biết như thật trong đó chỉ có các loại ngũ cốc như: Nếp, mè, lúa v.v... Đại Bồ-tát này cũng như vậy, quán sát kỹ thân mình từ chân đến đầu đầy nhẫy bất tịnh không thể ưa thích. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, thi thể ấy sình trướng chuyển sang màu xanh bầm, hôi thối, da nứt, máu mủ chảy ra. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, bị các loài cầm thú: Diều hâu, quạ, chim khách, cú mèo, cọp, beo, chồn, sói, chó, dã can v.v... Hoặc mổ, hoặc xé, làm cho xương thịt rơi rớt ngổn ngang, mà tranh giành ăn nuốt. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn (nổ lực tinh tấn), chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu.