-
師。錢塘夏侯氏子。慧林懷深禪師法 。僧問。飛來山色。示清淨法身。合 溪聲。演廣長舌相。正當恁麽時。如 何是雲門一曲。師曰。芭蕉葉上三更 。曰。一向全提超佛祖。滿筵朱紫盡 音。師曰。逢人不得錯舉。上堂不用 求真。何須息見。倒騎牛兮入佛殿。 笛一聲天地空。不知誰識瞿曇面。
贊曰
雲門一曲 夜雨彈蕉 逢人錯舉 滴水難消
瞿曇面目 不打自招 山色飛來 仰止迢迢
-------------
sư。 tiền đường hạ hầu thị tử。 tuệ lâm hoài thâm thiền sư pháp tự。 tăng vấn。 phi lai san sắc。 kì thanh tịnh pháp thân。hợp giản khê thanh。 diễn quảng trường thiệt tướng。 chánh đương nhẫm ma thì。 như hà thị vân môn nhất khúc。 sư viết。 ba tiêu diệp thượng tam canh vũ。 viết。 nhất hướng toàn đề siêu phật tổ。 mãn diên chu tử tận tri âm。 sư viết 。 phùng nhân bất đắc thác cử。thượng đường bất dụng cầu chân。 hà tu tức kiến。 đảo kị ngưu hề nhập phật điện。 khương địch nhất thanh thiên địa không。 bất tri thùy thức cù đàm diện。
tán viết:
vân môn nhất khúc
dạ vũ đạn tiêu
phùng nhân thác cử
tích thủy nan tiêu
cù đàm diện mục
bất đả tự chiêu
san sắc phi lai
ngưỡng chỉ điều điều
-----------
Sư họ Hạ Hầu, người đất Tiền Đường, kế thừa pháp của thiền sư Tuệ Lâm Hoài Thâm. Một vị tăng hỏi: “Sắc núi Phi Lai biểu thị pháp thân thanh tịnh, hòa hợp với âm thanh khe suối diễn tấu tướng lưỡi rộng dài. Chính vào lúc ấy thì thế nào? Thế nào là một khúc của Vân Môn?” Sư nói: “Mưa canh ba dội trên tàu lá chuối”. Hỏi: “Một hướng đưa ra siêu Phật Tổ, một buổi tiệc đỏ tía đều là tri âm là sao?”. Đáp: “Gặp người không được nêu ra điều sai lạc, thượng đường không cầu chân thực, không cần thấy người cưỡi trâu ngược vào Phật điện, một tiếng sáo trời đất đều không, không rõ ai biết mặt ngài Cù Đàm".
Bài tán:
Một khúc hát Vân Môn
Mưa đêm trên tàu chuối
Gặp người nói lỗi lầm
Giọt nước khó mà tan.
Diện mục ngài Cù Đàm
Không đánh mà tự khai
Màu sắc núi Phi Lai
Ngưỡng trông lên cao vút.
-
師。除州吳氏子。兒時。母為洗手瘍 因曰。是甚麽。對曰。我手似佛手。 失怙恃。依真歇於長蘆。時大休首眾 器之。後遯迹象山。百怪不能惑。深 開悟。復見休。蒙印可。住後上堂。 尊有密語。迦葉不覆藏。一夜落花雨 。滿城流水香。
贊曰
我手佛手 阿師多口 遯迹象山 痴狂外走
機契天童 百怪潛匿 達磨不識 世尊無密
-------------
sư。 trừ châu ngô thị tử。nhi thì。 mẫu vi tẩy thủ dương。 nhân viết。 thị thậm ma。đối viết。 ngã thủ tự phật thủ。 trường thất hỗ thị。 y chân hiết ư trường lô。 thì đại hưu thủ chúng khí chi。 hậu độn tích tượng san。 bách quái bất năng hoặc。 thâm dạ khai ngộ。 phục kiến hưu。 mông ấn khả。 trụ hậu thượng đường。 thế tôn hữu mật ngữ。 già diệp bất phúc tàng。 nhất dạ lạc hoa vũ。 mãn thành lưu thủy hương。
tán viết :
ngã thủ phật thủ
a sư đa khẩu
độn tích tượng san
si cuồng ngoại tẩu
ki khế thiên đồng
bách quái tiềm nặc
đạt ma bất thức
thế tôn vô mật
-----------
Sư họ Ngô, người đất Trừ Châu. Lúc còn bé một hôm mẹ rửa tay sư có mụt nhọt nên hỏi: “Tay này là gì?”. Đáp: “Tay con như tay Phật”. Lớn lên cha mẹ đều qua đời, theo sư Chân Hiết tại Trường Lô xuất gia. Bấy giờ sư Đại Hưu làm thủ chúng biết sư là hàng pháp khí. Sau đó sư ẩn tu nơi núi Tượng Sơn, trăm quái đều không thể làm cho mê hoặc. Một đêm khuya nọ thì khai ngộ, liền đến gặp sư Đại Hưu, được ấn chứng. Sau làm trụ trì, thượng đường nói: “Đức Thế Tôn có mật ngữ, Ca Diếp không che đậy. Một đêm mưa hoa rụng. Nước trôi hương khắp thành.”
Bài tán:
Tay con như tay Phật
A, sư thật lắm lời!
Ẩn tông tích Tượng sơn
Si cuồng chạy bên ngoài.
Cơ khế hợp Thiên Đồng
Trăm quái yêu trốn tránh
Ngài Đạt Ma không biết
Thế Tôn chẳng dấu kín.
-
師。婺州王氏子。靈隱慧禪師法嗣也 僧問。如何是截斷眾流句。師曰。佛 開口無分。曰。如何是函蓋乾坤句。 師曰。匝地普天。曰。如何是隨波逐 句。師曰。有時入荒草。有時上孤峯 上堂。黃昏雞報曉。半夜日頭明。驚 起雪獅子。瞠開紅眼睛。上堂。去年 。今年柳。顏色馨香。喝一喝。良久 。若不得這一喝。幾乎道著依舊。且 道。道著後如何。眼睛突出。
贊曰
雲門三句 何勞下註 把定世界 亦趨亦步
雪獅眼紅 野狐尾露 梅柳馨香 令人仰慕
-------------
sư。 vụ châu vương thị tử。linh ẩn tuệ thiền sư pháp tự dã。 tăng vấn。như hà thị tiệt đoạn chúng lưu cú。 sư viết。phật tổ khai khẩu vô phân。 viết。 như hà thị hàm cái càn khôn cú。 sư viết。 táp địa phổ thiên。 viết。 như hà thị tùy ba trục lãng cú。 sư viết。hữu thì nhập hoang thảo。 hữu thì thượng cô phong。 thượng đường。 hoàng hôn kê báo hiểu。 bán dạ nhật đầu minh。 kinh khởi tuyết sư tử。 sanh khai hồng nhãn tình。thượng đường。 khứ niên mai。 kim niên liễu。 nhan sắc hinh hương。hát nhất hát。 lương cửu viết。nhược bất đắc giá nhất hát。 cơ hồ đạo trứ y cựu。 thả đạo。đạo trứ hậu như hà。 nhãn tình đột xuất。
tán viết:
vân môn tam cú
hà lao hạ chú
bả định thế giới
diệc xu diệc bộ
tuyết sư nhãn hồng
dã hồ vĩ lộ
mai liễu hinh hương
lệnh nhân ngưỡng mộ
-----------
Sư họ Vương, người Vụ Châu, kế thừa pháp của sư Tuệ chùa Linh Ẩn. Một vị tăng hỏi: “Một câu dứt dòng luân chuyển của chúng sinh là câu gì?” Sư nói: “Phật Tổ mở miệng đều không nói lời phân biệt”. Hỏi: “Một câu gồm thu cả càn khôn là câu gì?”. Sư đáp: “Vòng khắp đất trời”. Hỏi: “Một câu theo đuổi làn sóng gợn* là câu gì?”. Đáp: “ Khi thì vào rừng hoang, khi thì lên đỉnh vắng”. Sư thượng đường, nói: “Gà báo sáng lúc hoàng hôn, nửa đêm mặt trời mọc trên đầu. Sư tử trắng vùng đứng dậy. Con mắt mở rộng”. Sư thượng đường, nói: “Năm ngoái cây mai, năm nay cây liễu. Sắc diện thơm tươi.” Sư quát lớn, sau đó lại bảo: “Nếu không có tiếng quát này thì dường như đạo lại nêu ra lối cũ. Mà cái đạo hiển hiện ấy sau sẽ ra sao? con mắt sáng đột nhiên xuất hiện”.
……..
*ba lãng 波浪: Tỉ dụ dòng tâm tư, suy tưởng lên xuống như thủy triều.
Bài tán:
Ba câu tại Vân Môn
Sao khổ nhọc chú giải
An định bầu thế giới
Cứ từng bước mà làm.
Sư tử trắng mắt đỏ
Cáo hoang để lộ đuôi
Mai liễu hương thơm ngát
Khiến người người tấm tắc.
-
師。生而歧嶷。不類常童。長學出世 。參足庵於雪竇。庵令看柏樹子話。 省。呈頌曰。西來祖意庭前柏。鼻孔 寥寥對眼睛。落地枯枝纔 跳。松蘿亮槅笑掀騰。庵頷之。出世 童。六坐道場。兩奉天旨。法道之盛 可想見也。示寂說偈曰。六十六年。 罪犯彌天。打個 跳。活陷黃泉。塔全身於本山。
贊曰
從來無名 喚作庭柏 白日見鬼 受趙州惑
末後拈出 秤錘是鐵 淵源有自 知恩報德
-------------
sư。 sanh nhi kì nghi。 bất loại thường đồng。 trưởng học xuất thế pháp。 tham túc am ư tuyết đậu。 am lệnh khán bách thụ tử thoại。 hữu tỉnh。 trình tụng viết。tây lai tổ ý đình tiền bách。tị khổng liêu liêu đối nhãn tình。lạc địa khô chi tài khiêu。tùng la lượng cách tiếu hiên đằng。am hạm chi。 xuất thế thiên đồng。 lục tọa đạo tràng。 lưỡng phụng thiên chỉ。 pháp đạo chi thịnh。khả tưởng kiến dã。 kì tịch thuyết kệ viết。 lục thập lục niên。tội phạm di thiên。 đả cá khiêu。 hoạt hãm hoàng tuyền。 tháp toàn thân ư bổn san。
tán viết:
tòng lai vô danh
hoán tác đình bách
bạch nhật kiến quỷ
thụ triệu châu hoặc
mạt hậu niêm xuất
xứng chùy thị thiết
uyên nguyên hữu tự
tri ân báo đức
-----------
Sư từ thuở nhỏ đã khác lạ, không giống những đứa trẻ khác, lớn lên học pháp xuất thế. Tham kiến sư [Túc] Am tại Tuyết Đậu, sư Am ra lệnh sư khán thoại đầu “cây bách trước sân” khiến sư có chỗ tỉnh ngộ, liền trình kệ:
Ý tổ Tây lai, bách trước sân
Lổ mũi cao xa đối nhãn quang
Cành khô rơi xuống văng trên đất
Cao vút tùng xanh bật tiếng cười.
Sư Am gật đầu. Sư đến Thiên Đồng, trụ trì sáu đạo tràng, hai lần sư phụng sắc chỉ ban khen cho thấy rằng đạo pháp hưng thịnh. Lúc sắp thị tịch sư nói kệ:
Sáu mươi sáu năm
Phạm tội đầy trời
Một đập nhảy tung
Vùi sống suối vàng
Tháp dựng tại núi xưa, táng toàn thân.
Bài tán:
Từ không tên mà đến
Gọi người quét sân tùng
Ban ngày lại thấy quỷ
Thật nhận lầm Triệu Châu.
Chỗ tột cùng nắm mở
Quả cân sắt kiên cố
Tự có gốc có nguồn
Tri ân và báo đức.
-
師。溫州人。中竺元妙禪師法嗣。上 。龍生龍。鳳生鳳。老鼠養兒沿街棟 達磨大師不會禪。歷魏遊梁乾打閧。 上堂。風蕭蕭。葉飄飄。雲片片。水 茫。江干獨立向誰說。天外飛鴻三兩 。師品行高卓。每與同參靈隱蘊衷禪 師往來酬唱。深歎末法難乎其人。勘 諸方。並無當意衲子。遂不付法嗣。 門一宗自師而止矣。
贊曰
龍生龍子 法承中竺 沿棟拋磚 引來無玉
同道唱酬 狂歌當哭 稽首金貂 狗尾連續
-------------
sư。 ôn châu nhân。 trung trúc nguyên diệu thiền sư pháp tự。thượng đường。 long sanh long。phụng sanh phụng。 lão thử dưỡng nhi duyên nhai đống。 đạt ma đại sư bất hội thiền。 lịch ngụy du lương can đả hống。 thượng đường。 phong tiêu tiêu。 diệp phiêu phiêu。 vân phiến phiến。 thủy mang mang。 giang can độc lập hướng thùy thuyết。 thiên ngoại phi hồng tam lưỡng hành。 sư phẩm hành cao trác。 mỗi dữ đồng tham linh ẩn uẩn trung thiền sư vãng lai thù xướng。 thâm thán mạt pháp nan hồ kì nhân。 khám nghiệm chư phương。tịnh vô đương ý nạp tử。 toại bất phó pháp tự。 vân môn nhất tông tự sư nhi chỉ hĩ。
tán viết:
long sanh long tử
pháp thừa trung trúc
duyên đống phao chuyên*
dẫn lai vô ngọc*
đồng đạo xướng thù
cuồng ca đương khốc
kê thủ kim điêu
cẩu vĩ liên tục
-----------
Sư người đất Ôn Châu, thừa pháp sư Trung Trúc Nguyên Diệu. Sư thượng đường, nói: “Rồng sinh rồng, phụng sinh phụng. Con chuột nọ nuôi con trên nóc nhà ở ngoài đường. Tổ Đạt Ma chẳng rõ thiền, đến Lương qua Ngụy nhiều chỗ ồn náo”. Sư thượng đường nói: “Gió hiu hiu, lá rơi rơi, mây giăng giăng, nước mênh mông, bên sông đứng nhìn ai mà thuyết, ngoài trời ba con chim Hồng bay thành hai hàng”. Phẩm hạnh sư cao thượng, mỗi khi cùng đồng đạo tham kiến sư Linh Ẩn Uẩn Trung, xướng đối, than thời mạt pháp, tìm khắp các phương khó thấy người thực chứng, cũng không có kẻ xuất gia xứng ý nên không trao truyền pháp. Tông Vân Môn từ đời sư ngừng phát triển.
Bài tán:
Rồng lại sinh rồng con
Trung Hoa nối Thiên Trúc
Chỉ là gạch ngói thôi
Không tìm đâu ra ngọc.
Cùng đồng đạo xướng họa
Khóc than bài cuồng ca
Khấu đầu trước kim điêu**
Đuôi chó liên tục vẩy.
..............................
* phao chuyên dẫn ngọc 拋磚引玉 đưa ngói lấy ngọc.
** Lối phục sức nhà Hán, mũ của quan Thị-trung thường-thị đều cắm đuôi con điêu, đúc con ve vàng đeo vào cho đẹp, vì thế gọi các kẻ quyền quý là nhị điêu 珥貂
-
師參長翁淨。值淨上堂。舉靈雲見桃 悟道因緣。頌曰。一個烏梅似本形。 蛛結網打蜻蜓。蜻蜓落了兩邊翅。堪 笑烏梅齩鐵釘。師不覺失笑曰。早知 是火。飯熟幾多時。沒承印記。出世 門。示眾曰。盡大地是學人一卷經。 盡乾坤是學人一隻眼。以這個眼。讀 是經。千萬億劫。常無間斷。諸人還 得讀得麽。如看讀得。老僧請他喫個 無米油糍。
贊曰
燈原是火 日月同明 失聲一笑 鼻直眼橫
無米油糍 覿面相呈 畢竟如何 梅齩鐵釘
-------------
sư tham trưởng ông tịnh。 trị tịnh thượng đường。 cử linh vân kiến đào hoa ngộ đạo nhân duyên。 tụng viết。 nhất cá ô mai tự bổn hình。 tri chu kết võng đả tinh đình。 tinh đình lạc liễu lưỡng biên sí。 kham tiếu ô mai giảo thiết đinh。 sư bất giác thất tiếu viết。tảo tri đăng thị hỏa。 phạn thục cơ đa thì。một thừa ấn kí。 xuất thế lộc môn。 kì chúng viết。 tận đại địa thị học nhân nhất quyển kinh。 tận càn khôn thị học nhân nhất chích nhã。 dĩ giá cá nhãn。 độc như thị kinh。thiên vạn ức kiếp。 thường vô gián đoạn。 chư nhân hoàn khán đắc độc đắc ma。 như khán độc đắc。lão tăng thỉnh tha khiết cá vô mễ du chi。
tán viết:
đăng nguyên thị hỏa
nhật nguyệt đồng minh
thất thanh nhất tiếu
tị trực nhãn hoành
vô mễ du chi
địch diện tương trình
tất cánh như hà
mai giảo thiết đinh
-----------
Sư tham kiến sư Trưởng Ông Như Tịnh. Sư Tịnh thượng đường đưa ra nhân duyên sư Linh Vân thấy hoa đào ngộ đạo. Nói kệ rằng:
Hình dáng ô mai giống in khuôn
Nhện kia giăng lưới bắt chuồn chuồn
Hai cánh chuồn chuồn sa vướng lưới
Nực cười mai nọ ngoạm chiếc đinh.
Sư chợt nín cười, thưa: “Sớm biết đèn là lửa, cơm nấu bao lâu mới chín”. Sư Như Tịnh theo đó ấn chứng cho sư. Sư khai pháp tại Lộc Môn, nói với đồ chúng: “Khắp cùng đại địa người học một quyển kinh. Tận càn khôn người học đều có mắt như nhau. Dùng mắt ấy đọc kinh ấy trong thiên vạn ức kiếp không gián đoạn. Các vị có xem được, đọc được chăng?. Nếu như xem và đọc được thì lão tăng mời người ấy ăn thứ bánh trộn dầu không làm bằng gạo này.
Bài tán:
Đèn vốn từ lửa có
Nhật nguyệt cùng chiếu sáng
Cười lớn đến khan giọng
Mũi dọc mắt thì ngang.
Bánh dầu không bột gạo
Cùng đến để gặp nhau
Cứu cánh như thế nào?
Cây mai cắn đinh sắt.
-
師。洪州黃氏子。年十一。丁父憂。 出家。十八納戒。參鹿門。問。如何 盡乾坤是學人一隻眼。門曰。汝被一 卷遮却也。師擬對。門搖手曰。不。 漆桶去。師於言下有省。出住青州普 。遷東都萬壽。室中三百問。戡驗學 者。聲被大河南北。師示微疾。說偈 逝。壽六十九。塔分仰山栖隱。陽臺 水院。
贊曰
以如是眼 讀如是經 窮未來際 徹底惺惺
百問雲興 幾能折合 麟趾振振 神駒馺馺
-------------
sư。 hồng châu hoàng thị tử。niên thập nhất。 đinh phụ ưu。toại xuất gia。 thập bát nạp giới。 tham lộc môn。 vấn。 như hà thị tận càn khôn thị học nhân nhất chích nhãn。 môn viết。 nhữ bị nhất quyển già tức dã。 sư nghĩ đối。 môn diêu thủ viết。bất。 khoái tất dũng khứ。 sư ư ngôn hạ hữu tỉnh。 xuất trụ thanh châu phổ chiếu。 thiên đông đô vạn thọ。 thất trung tam bách vấn。 kham nghiệm học giả。 thanh bị đại hà nam bắc。 sư kì vi tật。 thuyết kệ nhi thệ。 thọ lục thập cửu。 tháp phân ngưỡng san tê ẩn。 dương đài thanh thủy viện。
tán viết:
dĩ như thị nhãn
độc như thị kinh
cùng vị lai tế
triệt để tinh tinh
bách vấn vân hưng
ki năng chiết hợp
lân chỉ chấn chấn
thần câu cập cập
-----------
Sư họ Hoàng, người Hồng Châu. Năm 11 tuổi mồ côi cha liền xuất gia. Năm 18 tuổi thọ giới cụ túc, tham vấn sư Lộc Môn, hỏi: “ Học nhân trong khắp trời đất chỉ có một thứ mắt là thế nào?”. Sư Lộc Môn nói: “Ông vướng vào một quyển sách rồi đó”. Sư định đối đáp nhưng sư Lộc Môn vẫy tay nói: “Hãy mau đi sơn lại cái thùng gỗ”. Sư nghe vậy có chỗ tỉnh ngộ. Sư trụ tại chùa Phổ Chiếu ở Thanh Châu, lại dời về chùa Vạn Thọ ở Đông Đô. Sư từng ở trong thất đưa ra 300 câu hỏi cho người tu xét nghiệm, tiếng tăm vang dậy Nam Bắc Đại Hà. Sư có bệnh nhẹ, nói bài kệ mà hóa, thọ 69 tuổi. Tháp dựng tại Ngưỡng Sơn Thê Ẩn, Dương Đài, viện Thanh Thủy.
Bài tán:
Lấy con mắt như thị
Đọc trang kinh như thị
Cùng tận đến vị lai
Quán thấu triệt thông minh.
Trăm câu hỏi mây nỗi
Thời cơ phân rồi hợp
Đạo trường đồng phát triển
Vó ngựa thần qua mau.
-
師。參辯公於青州。問。離四句。絕 非。請師直指西來意。辯曰。昨日有 恁麼問。打出去也。師曰。今日又如 何。曰。你得恁麼不識痛癢。師禮拜 辯曰。可惜許棒折也。師直得汗下。 初出住青州真堂靈塔。金貞元三年乙 亥。遷滏陽大明。當南宋高宗紹興二 五年。師為少林二十一世也。
贊曰
四句百非 通身白汗 直下知歸 鐵鑄生漢
橫抽寶劍 梵天血濺 凜凜寒光 高著眼看
-------------
sư。 tham biện công ư thanh châu。 vấn。 li tứ cú。 tuyệt bách phi。thỉnh sư trực chỉ tây lai ý。 biện viết。 tạc nhật hữu nhân nhẫm ma vấn。 đả xuất khứ dã。 sư viết。 kim nhật hựu như hà。 viết。 nhĩ đắc nhẫm ma bất thức thống dưỡng。 sư lễ bái。 biện viết。 khả tích hứa bổng chiết dã。 sư trực đắc hãn hạ。 sư sơ xuất trụ thanh châu chân đường linh tháp。 kim trinh nguyên tam niên ất hợi。 thiên phũ dương đại minh。 đương nam tống cao tông thiệu hưng nhị thập ngũ niên。sư vi thiểu lâm nhị thập nhất thế dã。
tán viết:
tứ cú bách phi
thong thân bạch hãn
trực hạ tri quy
thiết chú sanh hán
hoành trừu bảo kiếm
phạm thiên huyết tiễn
lẫm lẫm hàn quang
cao trứ nhãn khán
-----------
Sư tham kiến sư Biện tại Thanh Châu. Hỏi: “Lìa tứ cú, tuyệt bách phi, xin thầy chỉ thẳng ý nghĩa việc Tổ từ Tây Trúc đến đây?”. Sư Biện nói: “Ngày hôm qua có người hỏi như vậy, ta đã đánh cho và đuổi ra ngoài”. Hỏi: “Ngày nay thì sao?”. Đáp: “Ông được cái là không bi ết đau”. Sư lễ bái. Sư Biện nói: “Đáng tiếc là gậy đã gãy”. Sư trực ngộ, toát mồ hôi. Sư lần đầu trụ tại tháp Chân Đường, Thanh Châu. Năm Ất Hợi Trinh Nguyên thứ ba dời về chùa Đại Minh bên sông Phủ Dương. Đời vua Tống Cao Tông, niên hiệu Thiệu Hưng thứ 25 sư trụ trì đời thứ 21 tại chùa Thiếu Lâm.
Bài tán:
Tứ cú bách phi
Thân toát mồ hôi
Biết ngay đường về
Sắt đúc hảo hán.
Rút ngang kiếm báu
Phạm thiên đẫm máu
Ánh thép lạnh lùng
Mắt nhìn sáng tỏ.
-
師。一日。侍大明次。偶於生臺。見 拾食。乃拍手。雀飛去。大明向師背 打一掌。師驚顧之。明曰。若是雀子 。我孤負你。不是雀子。你孤負我。 罔測。明曰。幸是可憐生。互相孤負 。師因有省。師侍大明十載。深加秘 重。一日。抽單。罔不疑怪。或問。 侍者何往。明曰。諸方來。諸方去。 介意哉。曰。參學何如。明曰。道有 參學。栽他頭角。道無參學。減他威 。
贊曰
生臺雀子 一彈便起 負汝負吾 得皮得髓
秘重深加 殷勤十載 如珪如璋 花開碓嘴
-------------
sư。 nhất nhật。 thị đại minh thứ。 ngẫu ư sanh đài。 kiến tước thập thực。 nãi phách thủ。tước phi khứ。 đại minh hướng sư bối thượng đả nhất chưởng。 sư kinh cố chi。 minh viết。 nhược thị tước tử。 ngã cô phụ nhĩ。bất thị tước tử。 nhĩ cô phụ ngã。 sư võng trắc。 minh viết。 hạnh thị khả liên sanh。 hỗ tương cô phụ khứ。 sư nhân hữu tỉnh。 sư thị đại minh thập tái。 thâm gia bí trọng。 nhất nhật。 trừu đan。 võng bất nghi quái 。 hoặc vấn。 thể thị giả hà vãng。 minh viết。 chư phương lai。 chư phương khứ。 hà giới ý tai。 viết。 tham học hà như。 minh viết。 đạo hữu tham học。 tài tha đầu giác。 đạo vô tham học。 giảm tha uy quang。
tán viết:
sanh đài tước tử
nhất đạn tiện khởi
phụ nhữ phụ ngô
đắc bì đắc tủy
bí trọng thâm gia
ân cần thập tái
như khuê như chương
hoa khai đối chủy
-----------
Sư một hôm đang hầu sư Đại Minh chợt thấy có một con chim sẻ trên sảnh đường đang mổ thức ăn liền vung tay khiến chim sợ bay lên. Sư Đại Minh đến gần đập tay vào lưng sư. Sư giật mình quay lại. Sư Đại Minh nói: “Nếu là con chim thì tôi phụ lòng ông. Nếu không phải là con chim thì ông phụ lòng tôi”. Sư suy nghĩ. Sư Đại Minh lại nói: “May mà còn có lòng thương người. Bỏ qua cái chuyện phụ lòng nhau”. Sư nhân đó có tỉnh ngộ. Sư theo hầu sư Đại Minh 10 năm, lòng càng kính trọng. Một hôm sư rút được cái thăm trống không nhưng lòng chẳng lấy làm quái lạ. Có người hỏi: “Cái Thể đi về đâu?”. Sư Đại Minh nói: “Các phương đến, các phương đi, đâu có ý giới hạn”. Hỏi: “Tham học thì như thế nào?”. Sư Đại Minh nói: “Nói là có tham học tức mang thêm sừng trên đầu. Nói là chẳng tham học tức giảm uy quang.”
Bài tán:
chim ở trên đài
đánh liền đứng dậy
phụ anh phụ tôi
được da được tủy
càng ngày càng trọng
mười năm ân cần
ngọc khuê ngọc chương
hoa nở miệng chày
-
師。初謁普照寶公。公曰。兄弟年俊 正宜扣參。老僧當年。念念常以佛法 事。師避席曰。和尚而今何如。曰。 如生冤家相似。師曰。若非此語。幾 我枉行千里。寶下禪床。握師手曰。 家。次造玉山。山舉洞山覩影話。師 置疑。山曰不。疑言句是為大病。子 疑矣。則病發也。子知此病。則子藥 。一日。讀五位頌。至拆合旋歸炭裏 坐。忽悟。曰。今日方知。病即藥也 白山。山曰。料掉沒交涉。師曰。和 此回瞞我不得也。師禮拜而去。
贊曰
瞞我不得 更不瞞人 藏身炭裏 擲地金聲
縱橫拈出 宇宙魂驚 新豐曲調 日午三更
-------------
sư。 sơ yết phổ chiếu bảo công。 công viết。 huynh đệ niên tuấn。 chánh nghi khấu tham。 lão tăng đương niên。 niệm niệm thường dĩ phật pháp vi sự。 sư tị tịch viết。 hòa thượng nhi kim hà như。viết。 như sanh oan gia tương tự。 sư viết。 nhược phi thử ngữ。 cơ lụy ngã uổng hành thiên lí 。 bảo hạ thiền sàng。 ác sư thủ viết。 tác giả。 thứ tạo ngọc san。 san cử đỗng san đổ ảnh thoại。 sư trí nghi。 san viết bất nghi ngôn cú thị vi đại bệnh。 tử kí nghi hĩ。tắc bệnh phát dã。 tử tri thử bệnh。 tắc tử dược dã。 nhất nhật。 độc ngũ vị tụng。 chí sách hợp toàn quy thán lí tọa。 hốt ngộ。 viết。 kim nhật phương tri。 bệnh tức dược dã。 bạch san。 san viết。 liệu điệu một giao thiệp。 sư viết。 hòa thượng thử hồi man ngã bất đắc dã。sư lễ bái nhi khứ。
tán viết:
man ngã bất đắc
canh bất man nhân
tàng thân thán lí
trịch địa kim thanh
túng hoành niêm xuất
vũ trụ hồn kinh
tân phong khúc điều
nhật ngọ tam canh
-----------
Lần đầu sư tham yết sư Phổ Chiếu Bảo Công. Sư Bảo Công nói: “Anh còn trẻ trung, nên gõ cửa tham kiến [thiện tri thức]. Lão tăng tuổi này mà vẫn không quên lấy Phật pháp làm sự nghiệp”. Sư liền rời chỗ ngồi, thưa: “Hòa thượng hiện nay như thế nào?”. Đáp: “Tương tự như sinh oan gia”. Sư hỏi: “Nếu chẳng phải lời ấy thì tôi đã uổng công gian khổ ngàn dặm để đến nơi này”. Bảo Công bước xuống thiền sàng, nắm tay sư nói: “Người làm”. Sau sư đến tham kiến sư Ngọc Sơn. Sư Ngọc Sơn nêu thoại đầu: “Động Sơn thấy bóng”. Sư khởi nghi. Sư Ngọc Sơn nói: “Không khởi nghi ngôn cú thì đó là kẻ mắc bệnh nặng. Khi nghi thì bệnh phát khởi. Biết bệnh thì [cái biết bệnh] đó chính là thuốc. Một hôm, sư đọc tụng Ngũ Vị, đến câu: “tán ra hợp lại ngồi trong đám tro” thì tỉnh ngộ, nói: “Hôm nay mới rõ biết bệnh tức là thuốc”. Sau đó trình với sư Ngọc Sơn, sư Ngọc Sơn nói: “Liệu mà giảm bớt sự giao tế”. Sư nói: “Hòa thượng lại dối tôi nhưng không dối được”. Nói xong sư lễ mà lui ra.
Bài tán:
Lừa tôi chẳng được
Lại chẳng lừa người
Dấu thân trong than
Kim thanh* gieo xuống.
Dọc ngang buông nắm
Hồn vũ trụ kinh
Tân Phong** hợp khúc
Đoan ngọ canh ba.
.............
*Tiếng kim, một thứ tiếng trong bát âm. ◎Như: tiếng cái kiểng, cái thanh la gọi là tiếng kim. Ngày xưa thu quân thì khoa chiêng, nên gọi là minh kim thu quân 鳴金收軍.
**Hán Cao Tổ đóng đô ở Trường An. Thái thượng hoàng muốn về đất Phong là quê cũ. Nhà vua liền cho sửa sang cảnh Trường An cho giống đất Phong, xây chùa, và cho di dân ở đất Phong đến, gọi là Tân Phong. (Tự điển Hán Việt Từ Nguyên)