-
126. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc cái bụng?
Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp:
- Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy nên siêng năng trì bình khất thực nuôi mạng,chẳng nên giải đãi quên mình; phải nên thu thúc cái bụng, chẳng nên thọ thực quá độ." Vậy thì việc thu thúc cái bụng quả là rất quan trọng phải không đại đức?
- Tâu, đúng vậy. Câu Phật ngôn ấy là lời dạy phổ thông không những cho các hàng tỳ khưu hữu học mà còn cho các bậc Thinh văn, Độc giác và cả đấng Tòan Giác nữa, tâu đại vương!
- Nó quan trọng đến độ như vậy sao? Nguyên nhân là vì sao, thưa đại đức?
- Bởi vì với cái trí thấy rõ thế gian, Đức Thế Tôn thấy rằng, do nguyên nhân cái bụng mà chúng sanh giết hại mạng sống của nhau. Vì nguyên nhân vị ngon, ngọt, béo, bùi của khẩu dục và no đầy cái bụng mà con người cướp đoạt tài sản của nhau. Cũng từ cái bụng mà sinh ra không biết bao nhiêu tội lỗi, khổ đau; bao nhiêu giới phạm như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, uống rượu, v.v... Thậm chí, có chúng sanh vì cái bụng mà giết cha mẹ mình, giết hại A-la-hán, chia rẽ Tăng, chích máu Phật... Gương Đề-bà-đạt-đa cũng vì lợi dưỡng, không thu thúc cái bụng mà hại Phật, phá hoại sự hòa hợp của Tăng-già, đến nỗi bị quả đất rút, bị lửa địa ngục a-tỳ thiêu đốt đến một kappa!
Tâu đại vương! Các hàng xuất gia nhờ thu thúc cái bụng nên ngăn ngừa được tất cả các tội lỗi, khổ đau nêu trên. Ngoài ra, nhờ sống đời biết tri túc cái bụng nên họ dễ dàng thấy rõ Khổ Đế, thấy rõ Tập Đế, thực hành Đạo Đế để thành tựu Diệt Đế là cứu cánh của Sa-môn hạnh. Lại nữa, không những họ viên thành các Sa-môn quả mà còn dễ dàng chứng đắc bốn tuệ phân tích, tám định và sáu thần thông...
Lại nữa, tâu đại vương! Lợi ích thù thắng của sựthu thúc cái bụng không những dành cho con người, các bậc xuất gia phạm hạnh, mà còn cho các loài động vật nữa. Ví như trong tích truyện tiền thân Phật, có con chim két tên là Suvanna Otaka, thu thúc cái của bụng mình mà làm cảm động cả thế gian, rung động đến cõi trời Đao-lợi, khiến cho vua trời Đế thích nóng nảy, ngồi đứng không yên, phải hiện xuống trần gian hộ độ cho chim két.
Tâu đại vương! Đức Thế Tôn vì thấy rõ nhân quả, ai không thu thúc cái bụng thì sẽ bị đau khổ; ai thu thúc cái bụng thì được an vui, nên Ngài giáo giới điều ấy là vì xuất phát từ tâm bi mẫn với hằng muôn sanh loại!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Quả thật là chí lý khi biết thu thúc cái bụng...! Cái lợi ích của nó thật không ai dám bàn cãi nữa. Thế nhưng tại sao, một lần nọ, Đức Thế Tôn có nói với tỳ kheo Udàyi rằng: "Này Udàyi, có khi Như Lai độ vật thực chừng bằng miệng bát, có lúc lại đầy hơn".Đừng nói rằng cái bát khất thực thời Phật tại tiền nhỏ hơn cái bát bây giờ! Cái bát vào thời nào cũng có thể làm no hai hoặc ba vị tỳ khưu cả!
Thưa đại đức! Đức Thế Tôn thọ thực như thế là đầy căng cái bụng rồi, chẳng biết thu thúc cái bụng rồi! Thế mà đại đức dám bảo rằng thu thúc cái bụng là lời giáo giới phổ thông, không những cho các hàng tỳ khưu hữu học mà còn dành cho các bậc Thinh văn, Độc giác và cả Tòan Giác nữa. Liệu đại đức sẽ bênh vực ra sao cho Đức Bổn Sư đây? Hay là đoạn văn kia được kết tập lầm lẫn, ngoại đạo xen câu đó vào để phá hoại niềm tin của các hàng cận sự nam nữ?
-
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Không đâu, chính Đức Thế Tôn có thuyết lời ấy với tỳ kheo Udàyi!
- Thế là đại đức xác nhận rằng Đức Thế Tôn không biết thu thúc cái bụng rồi!
- Tâu Đại vương! Trước khi đả thông vấn đề, bần tăng xin được hỏi đại vương vài điều?
- Vâng, đại đức hãy tùy nghi!
- Thu thúc cái bụng có được lợi ích gì?
- Thưa, để ngăn ngừa tội lỗi, khổ đau; để tiêu diệt phiền não; để thành tựu dễ dàng Sa-môn quả cùng những năng lực thù thắng khác!
- Đúng vậy - đại đức Na-tiên nói - Thế Đức Thế Tôn đã tiêu diệt khổ đau phiền não ấy chưa? Ngài đã thành tựu Sa-môn quả, tuệ phân tích và các thần thông thắng trí chưa, thưa đại vương?
- Dĩ nhiên, Đấng Toàn Giác đã thành tựu trọn vẹn và viên mãn tất cả những điều trên.
- Nói cách khác, Đức Thế Tôn là người đã tiêu diệt tất cả mọi nguyên nhân gây bệnh, là người không còn bệnh, trái lại là người có sức khỏe rất kiện toàn, phải không đại vương?
- Đúng vậy.
- Người bệnh thì phải uống thuốc, người vô bệnh, sức khỏe hoàn hảo thì có cần uống thuốc không, hở đại vương?
- Vô bệnh thì uống thuốc làm gì!
Đại đức Na-tiên chợt cười nhẹ:
- Cảm ơn Đại Vương! Chính Đại vương đã tự "biện hộ" cho Đức Tôn Sư! Đại vương đã biện hộ rằng "Đức Thế Tôn là người dã tiêu diệt hết phiền não rồi, đã thành tựu trọn vẹn Sa-môn Quả, tuệ phân tích cùng những năng lực thù thắng khác - nên Ngài thu thúc để làm gì - như người vô bệnh thì uống thuốc để làm gì!"
- Trẫm hiểu.
- Đại vương đã "biện hộ hơi quá" khi bảo rằng Đức Thế Tôn không cần phải thu thúc - nhưng thật ra, một đôi khi thôi (appekadà)! Theo ý bần tăng thì Đức Thế Tôn luôn luôn thu thúc. Vì thật ra, thu thúc hoặc không thu thúc, bao giờ Ngài cũng vắng lặng tham sân, phiền não, bao giờ Ngài cũng với tâm giải thoát, tuệ giải thoát viên minh, vô thượng! Ví như ngọc mani không tỳ vết, ánh sáng rực rỡ, hào quang chói lọi... thì ai lại mất công vô ích khi ngồi cặm cụi mà lau chùi, mài giũa, đánh bóng, phải vậy không đại vương?
- Vâng - đức vua Mi-lan-đà gật đầu - Trẫm rất bằng lòng và hoan hỷ về lời giải đáp của đại đức. Đối với bậc đã giải thóat, vô nhiễm rồi thì họ không còn bị ràng buộc bởi sự thu thúc hoặc không thu thúc ấy nữa. Tuyệt diệu lắm!
-
127. Đức Phật muốn che dấu Pháp?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Pháp và Luật nếu được công khai thuyết dạy đến đâu thì sẽ làm cho Chánh Pháp được hưng thịnh và rực rỡ đến đấy. Nếu Pháp và Luật bị che dấu, không được thuyết ra thì đến lúc nào đó, Chánh Pháp sẽ lu mờ, bị tiêu hoại...". Điều ấy có đúng chăng, đại đức?
- Tâu, rất đúng ạ!
- Thế sao trong tạng Luật, Đức Thế Tôn lại giáo giới rằng: "Các thầy tỳ khưu khi tụng giới bổn Pàtimokkha trong ngày phát lồ (uposatha), phải tụng nơi kín đáo, có Sìma ngăn, không được cho các hàng sa di và cận sự nam nữ hai hàng bước vào trong địa giới hoặc trong phạm vi nghe được"? Tại sao lại cố ý che dấu, không mở rộng việc truyền tụng giới luật cho tất thảy cùng nghe để được tăng trưởng kiến thức, phát khởi và củng cố đức tin? Như thế, rõ ràng Đức Thế Tôn đã cố ý khuyên Chư Tăng che dấu Pháp và Luật, không cố ý mở mang giáo pháp để lợi lạc cho những người học Phật được nếm ý vị, pháp vị, giải thóat vị của Đạo Giác Ngộ.
Vậy xin đại đức bi mẫn giải thích khúc mắt ấy cho trẫm được tỏ tường.
- Chẳng phải là che dấu Pháp và Luật đâu, tâu đại vương. Đức Thế Tôn bao giờ cũng thuyết pháp với bàn tay mở ra chứ không phải với bàn tay nắm lại. Bao giờ Ngài cũng muốn cho giáo pháp được mở rộng, phát triển, hưng thịnh; được quảng bá sâu rộng giữa nhân gian để cứu độ cho nhiều người.
Riêng về giới bổn Pàtimokkha mà chư tỳ khưu Tăng đọc tụng trong các ngày phát lồ, sở dĩ phải tụng nơi kín đáo, có Sìma ngăn, không thể cho các người chưa tu lên bậc trên bước vào hay nghe được, là bởi những lý do sau đây:
Một là, truyền thống của chư Phật từ ngàn xưa truyền lại cho đến ngày nay, bao giờ giới bổn Patimokha cũng chỉ được phép đọc tụng giữa chư tỳ khưu Tăng với nhau mà thôi.
Hai là, cần phải tỏ ra tôn trọng luật, cung kính giới bổn, không để cho những sa di và cư sĩ xem thường, xem nhẹ.
Ba là, phải tôn trọng phẩm mạo và địa vị của tỳ khưu trong giới luật của bậc Thánh.
Vì ba lý do như vậy nên phải đọc tụng giới bổn nơi kín đáo, có Sìma ngăn - tâu đại vương rõ.
- Thế nào là do dòng giống của Chư Phật truyền thừa hở đại đức?
-- Ví như đại vương là dòng dõi vua chúa, thái tử của đức vua tương lai cũng sẽ được làm vua. Nếu có trường hợp là đại vương phải giáo giới, la rầy thái tử về một vài tư cách, hạnh kiểm không tốt của thái tử thì đại vương sẽ dạy bảo thái tử nơi kín đáo, hay là đại vương sẽ giáo giới thái tử giữa chỗ tai mắt bá quan cùng dự bàn hay cho bá tánh cùng nghe?
- Dòng vua thì phải biết bảo vệ dòng vua chứ! Làm sao chuyện giáo giới thái tử lại mang ra chỗ tai mắt đông người!
- Tâu, phép của Phật từ ngàn xưa cũng như thế ấy. Khi chư tỳ khưu Tăng tụng đọc giới bổn Pàtimokkha với nhau, đó chính là lúc họ sửa sai, sám hối, kiện toàn những học giới cho nhau. Chuyện ấy làm sao lại đem ra chỗ tai mắt đông người mà phẩm bình, phê bình được? Dòng dõi, tông chủng tỳ khưu thì phải biết bảo vệ giống dòng, tông chủng của tỳ khưu chứ?
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Có lý lắm!
- Ví như những tay đô vật nhà nghề, họ thường giữ riêng những ngón nghề không truyền cho kẻ khác; những người thợ vàng, thợ bạc, thợ ngọc, thợ làm dây chuyền giữ riêng bí quyết cho gia đình mình, dòng họ mình; những người có tài nghệ đặc biệt thường dấu tài nghệ không bao giờ phổ biến ra giữa đám đông - thủ tục ngàn xưa của Chư Phật để tỳ khưu chỉ đọc tụng giới bổn với tỳ khưu cũng như thế ấy, tâu đại vương!
-
- Vâng, trẫm hiểu rồi. Còn lý do thứ hai: tôn trọng luật, cung kính giới bổn, chẳng nên để cho những người khác xem thường, xem nhẹlà sao ạ?
- Giới bổn Pàtimokkha là giới bổn cao thượng, làm cho những người thọ trì được cao đẹp, thánh thiện và tôn quý. Người thực hành giới bổn Pàtimokkha trong sạch và viên mãn sẽ dễ thành tựu các tầng thánh quả và chứng ngộ Niết-bàn. Sự thu thúc giới bổn là pháp căn bản, giềng mối cho những hạnh phúc siêu thê; chỉ riêng tỳ khưu tăng mới thọ trì, y chỉ, thực hành. Nó giống như cái lõi chiên đàn quý báu, chỉ thích đáng dành cho các hàng vua chúa, hoàng hậu, công chúa sử dụng. Người dân thường không dễ gì biết lõi chiên đàn là quý; nếu họ nắm trên tay họ cũng xem như que củi, chẳng giá trị gì. Giới bổn Pàtimokkha cũng quý báu như lõi chiên đàn kia vậy, chỉ có chư tỳ khưu Tăng mới biết thọ trì, đọc tụng; còn các hàng sa di, cư sĩ hai hàng cũng sẽ xem thường, xem nhẹ như người dân thường đối với lõi chiên đàn kia thôi!
Do vậy, vì tôn trọng, cung kính giới bổn cũng như tôn trọng, cung kính cái gì thiêng liêng, cao đẹp nên việc không để cho sa di, cư sĩ dự thính khi đọc tụng là điều hoàn toàn cần thiết.
- Trẫm lãnh hội được rồi, vậy còn lý do thứ ba:tôn trọng phẩm mạo và địa vị của tỳ khưu trong giới luật của bậc thánh là thế nào?
- Tâu, phẩm mạo tỳ khưu, tức là phẩm mạo của bậc xuất gia, nó cao thượng như thế nào thì đại vương đã biết rồi. Là cái gì không thể độ chừng được, so sánh được, đo lường được; chẳng có cái gì tương tợ, ngang bằng được. Ví như biển sâu chưa ai đo lường, ví như ngọc mani vô giá chẳng có vật báu thế gian nào so sánh - giới bổn Pàtimokkha hằng tạo nên phẩm mạo của bậc xuất gia, cũng y như thế đó. Nó là tài sản riêng của Tăng, đồ dùng riêng của Tăng, nó sanh ra chỉ để dành riêng cho Chư Tăng - không có ai khác sử dụng được. Ví như thảm trải giường, các đồ ngự dụng, vật thoa, vật thơm, voi báu, ngựa báu, ngọc nữ,, hầm bạc, hầm vàng... được sanh lên là do nhờ công đức, phước báu của Chuyển luân Thánh vương! Chỉ có Đức vua Chuyển luân mới thích đáng quản thủ, sử dụng tài sản ấy; những vị vua ít phước báu, những người địa vị thấp thỏi đâu có xứng đáng dự phần, phải vậy không đại vương?
- Thưa, đúng thế!
- Giới bổn Pàtimokkha cũng như thế ấy, chẳng thể để cho những người ít học giới, ngoài chư tỳ khưu Tăng xen vào, dự phần được. Đức Thế Tôn điều chế giới bổn để cho chư tỳ khưu đọc tụng với nhau ở trong Sìma ngăn, không cho sa di và cư sĩ dự thính là còn để cho thế gian biết tôn trọng, cung kính tỳ khưu; vì tỳ khưu Tăng là ruộng phước vô giá, là nơi cho chư thiên và nhân loại cung kính, lễ bái, cúng dường... Sự tôn trọng phẩm mạo và địa vị của chư tỳ khưu Tăng còn là sự bảo lưu Chánh Pháp, lưu hậu Chánh Pháp tồn tại nhiều ngàn năm về sau nữa, tâu đại vương!
- Quả thật là thích đáng. Cảm ơn đại đức đã mở sáng con mắt cho trẫm nhìn xa trông rộng hơn.
Đại đức Na-tiên kết luận ý nhị:
- Vậy là Đức Thế Tôn che dấu giáo pháp mà lại làm cho giáo pháp hưng thịnh dài lâu đấy, tâu đại vương!
- Rõ là trẫm sử dụng ngôn lời chưa chính xác, trẫm hiểu tội của mình rồi!
- Nhờ cái tội của đại vương mà các thế hệ mai sau chấm dứt được hoài nghi, như thế cũng nên làm tội lắm!
Đức vua Mi-lan-đà bất giác cười xòa.
-
128. Lý do nặng nhẹ của tội nói dối!
- Bạch đại đức! Trẫm có đọc sơ về tạng Luật, không thông suốt lắm, nếu Trẫm nhớ không lầm thì Đức Thế Tôn có thuyết rằng: Thầy tỳ khưu nói dối, nói dối do cố ý, có hiểu, có biết (sampajàna) thì phạm tội bất cọng trụ (pàràjika)! Ở một chỗ khác, ngài lại chế định rằng: Điều nói dối dầu cố ý, có hiểu, có biết (sampajàna) chỉ phạm tội nhẹ, không phạm tội nặng; là tội có thể trị được, tha thứ được, có thể cứu chữa được (satekicchà), có thể sám hối được (desanapatti)! Tại sao hai điều chế định ấy lại mâu thuẫn nhau, nghịch nghĩa nhau hở đại đức?
- Tâu đại vương! Về chuyện đúng hay sai, chính xác hay chưa chính xác của điều mà Đại Vương vừa dẫn chứng, bần tăng sẽ bàn sau. Bây giờ chúng ta chỉ nói đến tội nói dối. Quả thật, có tội nói dối mà thầy tỳ khưu nào đã phạm rồi thì bị "bất cọng trụ" (pàràjika); nhưng cũng có tội nói dối dẫu đã phạm rồi, nghĩa là nói dối do cố ý, do có hiểu, có biết - vẫn chỉ phạm tội nhẹ, là tội có thể trị được, tha thứ được, cứu chữa được, sám hối được!
- Trẫm nghe chưa lọt tai, thưa đại đức!
- Bần tăng có thể nói điều ấy bằng ví dụ. Ví như có người phạm tội giết vua, một người khác phạm tội giết dân thường. Hai tội giết người ấy đều phạm án giống nhau phải không đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:
- Chẳng thể giống nhau được, thưa đại đức! Người giết hại dân thường tùy theo mức độ, có thể định án là ở tù chung thân, bị phạt hoặc bị tử hình. Còn người giết vua thì bị đại tội. Kinh khiếp lắm! Luật nhà vua về tội giết vua thật là nghiêm trọng: người ấy sẽ bị chặt bỏ cả tay cả chân, tịch thu gia sản, của cải nhập công khố; sẽ bị giết chết dần dần rất thê thảm; giết luôn cả thân quyến của người ấy, phía họ cha giết đến bảy đời và phía họ mẹ cũng giết đến bảy đời...!
- Tâu đại vương! Tại sao cũng là tội giết người, tự tay giết, cố ý, cố tình giết mà một bên nặng, một bên nhẹ khác nhau một trời, một vực như thế?
- Tội nặng nhẹ khác nhau, lý do như thế nào chắc đại đức đã hiểu rồi: Đức vua là đấng chí tôn của một nước, còn người dân thường là kẻ ở trong các địa vị thấp hèn. Khinh, trọng thế nào thì pháp luật thế gian không có nơi nào biệt lệ!
- Tội giết người có khinh trọng thì tội nói dối cũng có khinh trọng như thế, tâu đại vương! Bần tăng sẽ kể sơ lược ra đây một số tội nói dối tùy theo mức độ nặng, nhẹ của nó:
Thầy tỳ khưu chưa đắc pháp bậc cao nhơn[*] mà nói dối để cho kẻ hiểu biết tin rằng mình đắc pháp bậc cao nhân là tội nói dối nặng, bị phạt "bất cọng trụ", tức là bị đuổi ra khỏi hàng ngũ Tăng già, suốt đời không còn có thể "cọng trú" với Tăng được nữa. Nhưng nếu nói đến người không hiểu, không biết thì chỉ phạm "trọng tội". Nói mé, nói ngụ ý hoặc ám chỉ mình có đắc pháp cũng phạm "trọng tội"; nhưng nếu nói ám chỉ, nói mé dến người không hiểu, không biết thì chỉ phạm "tác ác".
[*] Các pháp bậc cao nhơn: 4 thiền hữu sắc, 4 thiền vô sắc, lục thông, 4 đạo, 4 quả và Niết bàn.
Thầy tỳ khưu nói dối vô cớ, cáo gian tỳ khưu khác phạm "bất cọng trụ"thì phạm "Tăng tàn". Nói dối vô cớ, cáo gian tỳ khưu khác phạm "Tăng tàn" thì phạm "ưng đối trị". Nói dối, cáo gian kẻ khác làm quấy thì phạm "tác ác"... v.v...
Nói tóm lại là các tội nói dối thuộc bất cọng trụ là tội rất nặng, phải xả giới hoàn tục. Tội nói dối thuộc Tăng tàn phải trình Tăng để xử theo luật định. Các tội nói dối khác thuộcưng đối trị, trọng tội hoặc tác áclà những tội nhẹ, có thể trị được, tha thức được, có thể cứu chữa được (satekicchà), có thể sám hối được (desanapatti).
Tâu Đại Vương! Các tội nói dối có khinh, có trọng như thế, nhưng vì Đại Vương đã không nắm rõ, biết chắc nên sinh ra ngộ nhận đấy thôi!
- Rất cám ơn đại đức!
-
129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử của mình?
- Thưa đại đức! Rất nhiều lần Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Như Lai là bà-la-môn cao quý, xứng đáng cho chư thiên và nhân loại đảnh lễ, xứng đáng để cho kẻ khác xin rửa tay dâng phẩm vật cúng dường; là bậc tối thượng trong tam giới, là bậc chỉ còn kiếp sống cuối cùng, không còn quẩn quanh trở lại trong tam giới nữa; là bậc tôn quý, vô thượng... không ai sánh bằng.". Câu Phật ngôn ấy có chính xác không?
- Tâu, khá chính xác!
- Thế sao ở một chỗ khác, khi khen ngợi tỳ khưu Bàkula, Đức Thế Tôn có tuyên bố như sau: "Trong hàng thinh văn đệ tử của Như Lai, tỳ khưu Bàkula là người thiểu bệnh, có phước báu tuyệt đỉnh, là đệ nhất ưu hạng, là người cao quý không ai sánh bằng...". Câu thuyết ngôn này có chính xác không, thưa đại đức?
- Tâu, cũng rất đúng.
- Và chính xác nữa! Vì Đức Thế Tôn bị bệnh đến bốn lần, còn tỳ khưu Bàkula suốt cả cuộc đời dường như vô bệnh. Như thế có nghĩa là, phước báu của tỳ khưu Bàkula là tối thượng, ưu hạng, là tuyệt đỉnh không ai sánh bằng, kể cả Đức Tôn Sư!
- Sao có thể lý luận như vậy được, đại vương!
- Vậy thì đại đức có thể minh giải điều ấy được chăng?
- Vâng, dễ dàng thôi. Chẳng cần phải giải minh, bần tăng chỉ nói lên sự thật thì đại vương có thể hiểu rõ cách khen ngợi của Đức Thế Tôn. Khi một vị tỳ khưu giỏi, thông suốt một lĩnh vực nào thì Đức Thế Tôn thường khen ngợi vị ấy là tối thượng, là đệ nhất ưu hạng về lĩnh vực ấy. Chẳng hạn, Đức Thế Tôn khen ngợi đại đức Upàlì là ưu hạng đệ nhất về tạng Luật, đại đức Mahà Kassapa đặc biệt ưư hạng về Vi-diệu tạng, đại đức Ànanda thì tối thắng, ưu hạng đệ nhất về tạng Kinh, v.v... Từ đó, ta có thể hiểu rõ, tại sao có vị Đức Thế Tôn khen ngơi là đệ nhất về thuyết pháp, có vị được khen là đệ nhất về thiền định, đệ nhất về tinh tấn, đệ nhất về khổ hạnh, đệ nhất về hạnh độc cư, thanh tịnh v.v... Nói tóm lại, Đức Thế Tôn khen ngợi, tán dương các đệ tử của Ngài là cao quý, cao thượng, là ưu hạng, là đệ nhất... không có nghĩa là họ cao quý, cao thượng, tối thắng hơn cả Đức Tôn Sư!
- Như thế có nghĩa là, Đức Thế Tôn chỉ ca ngợi phước báu của tỳ khưu Bàkula về phương diện "vô bệnh" mà thôi?
- Vâng, chỉ riêng có lĩnh vực ấy, bởi chẳng ai có thể so sánh với Đức Tôn Sư ở nhiều phương diện khác. Họ chỉ là đệ nhất ở trong hàng thinh văn đệ tử của Ngài! Làm thế nào mà trong hàng ngũ của chư thiên, loài người, phạm thiên, sa-môn, bà-la-môn... lại có kẻ cao quý, ưu hạng, tối thượng bằng một vị Chánh Đẳng Giác? Ai mà có thể so sánh về giới, định, tuệ, giải thóat và giải thóat tri kiến với Đức Tôn Sư? Liệu ai có thể có mười sức mạnh tuệ giác, mười tám tuệ dũng mãnh vượt qua sinh tử ái hà như Bậc Vô Thượng? Quả thật, chẳng ai có thể so sánh được với Đức Đại Giác.
- Đại đức cho nghe ví dụ được chăng?
- Vâng. Ví như trong quốc độ của đại vương, vốn có nhiều giai cấp, nghề nghiệp, dòng họ, thiên tư, hiểu biết, trí tài, khả năng khác nhau... Có người là đệ nhất về vàng bạc châu báu, tài sản. Có người là đệ nhất về đất đai, ruộng vườn. Có người là đệ nhất về kiến thức, hiểu biết... Đệ nhất về các học nghệ... Đệ nhất về tinh thông văn học, cú pháp, văn phạm... Đệ nhất về bùa chú, ngải nghệ... Đệ nhất về chế tạo cung tên, khí giới v.v... Ở mỗi lĩnh vực, trí tài nào đó, họ là đệ nhất; tuy thế, họ đều là thần dân của đại vương, phục vụ cho đại vương, phải tôn trọng, cúi đầu, thuần phục đại vương; chẳng ai có thể so sánh bằng đại vương, bởi đại vương mới chính là người ở trên hết, tối thượng tôn, cao quý nhất ở trong quốc độ của đại vương. Đức Thế Tôn so với hội chúng của Ngài, với các hàng thinh văn đệ tử cũng y như thế. Đừng nói chỉ một phước báu của Bàkula, mà hàng trăm phước báu của Bàkula... cho chí hai vị thượng thủ, đại đệ tử của Ngài, dẫu là những bậc cao quý vô song... cũng chẳng thể đem ra so sánh với Đức Thế Tôn được!
Đức vua Mi-lan-đà im lặng giây lâu rồi hỏi:
- Trẫm đã hiểu rồi. Nhưng về phương diện vô bệnh thì phước báu của tỳ khưu Bàkula vẫn là đệ nhất chứ? Không rõ do nhân duyên quá khứ như thế nào mà tỳ khưu Bàkula được hưởng quả thù thắng như thế?
- Tâu đại vương, quả là có nhân duyên thù thắng nên mới hưởng được quả thù thắng. Số là vào thời xưa, tỳ khưu Bàkula đã từng làm thầy thuốc, đã cúng dường y dược đến cho Đức Phật Anomadassì, Đức Phật Vippassì và luôn cả tỳ khưu Tăng sáu ngàn tám ức vị. Do duyên lành ấy nên đã rất nhiều đời, tỳ khưu Bàkula chẳng hề có bệnh tật hay đau ốm gì cả. Bởi vậy, Đức Thế Tôn mới khen ngợi, tán dương tỳ khưu Bàkula là cao quý, là ưu hạng không ai sánh bằng! Đại vương đã hiểu tự sự, đầu đuôi gốc ngọn rồi chứ?
- Vâng, vâng! Trẫm rất hoan hỷ, hoan hỷ đệ nhất!
-
130. Thần thông của đức Mục-kiền-liên không đương cự nổi thần lực của kẻ giết ngài?
- Bạch đại đức! Trẫm có nghe rằng, Đức Thế Tôn thường tán dương thần thông của đức Mục-kiền-liên là tối thượng, là vô thượng, là bất khả tư nghì, chẳng ai trong hàng Thinh văn đệ tử có thể so sánh được, điều ấy đúng chăng?
- Tâu, rất đúng ạ!
- Vậy thì thần lực của bọn cướp giết ngài chắc phải tối thượng hơn thế? Nếu không, sao ngài lại để cho bọn cướp giết, băm vằm xác thân ngài hằng trăm mảnh như thế? Lúc ấy, thần thông bất khả tư nghì của ngài đâu mà không mang ra để đương cự với bọn ấy? Trẫm hoài nghi là đức Mục-kiền-liên chẳng có thần thông gì ráo? Hoặc nếu có cũng thua gươm, đao, đùi, gậy của bọn cướp? Xin đại đức bi mẫn giảng cho trẫm thông điều ấy.
- Đại vương! Thần thông có năng lực bất khả tư nghì mà nghiệp quả cũng có năng lực bất khả tư nghì!
- Đại đức có lạc đề không đấy?
- Không lạc đề đâu, đại vương hãy nhẫn nại.
- Vậy thì xin đại đức giảng rộng cho nghe.
- Vâng, đại vương hãy nghe đây. Có hai loại bất khả tư nghì (dve-acinteyya), đó là thần thông xuất thế gian (lokuttara iddhi), và năng lực của nghiệp quả (kamma vipàka iddhi). Thần thông xuất thế gian là thần thông của Phật Toàn Giác, của Phật Độc Giác và của Phật Thinh Văn Giác. Chỉ riêng thần thông của Phật Toàn Giác là không một năng lực nào có thể xâm phạm được dù là năng lực bất khả tư nghì của nghiệp quả. Thần thông của Phật Độc Giác và Phật Thinh Văn Giác còn non yếu, chưa toàn hảo nên khi nghiệp quả đến, sức mạnh bất khả tư nghì của nó có thể phá vỡ xâm phạm được. Đấy là trường hợp của Đại Mục-kiền-liên. Ngài dù có thần thông đệ nhất trong hàng Thinh Văn, thần thông ấy vẫn còn non yếu, chưa toàn hảo nên đã bị năng lực của quả nghiệp xâm phạm, phá vỡ. Chẳng hay đại vương đã thấy rõ điều ấy chưa?
-
- Ngài Mục-kiền-liên tạo tội gì mà quả nghiệp lại kinh khiếp, cường liệt như thế?
- Một kiếp quá khứ, ngài nuôi một bà mẹ mù lòa. Người vợ của ngài thấy bà mẹ chồng là một gánh nặng nên tìm cách hãm hại. Ngày này sang ngày khác, bà tìm cách ly gián, đâm thọc, vu cáo, xúc xiểm... rất là cay chua và độc ác. Bà đã biến mẹ của chồng từ một người hiền lành trở thành một bà già khó tính, ác đức trong mắt của chồng. Đến một lúc, vì tin vợ, ngài đã không còn chịu nỗi mẹ nữa, theo lời vợ, bỏ mẹ lên xe đem thả giữa rừng. Cũng theo kế của vợ, cả hai vợ chồng bèn giả kẻ cướp đón đường la hét, đánh đập rất là hung dữ. Người mẹ mù lòa trong cơn sợ hãi, không nghĩ đến bản thân mình, chỉ nghĩ đến đứa con, thương con bị đánh giết, nên đã la lớn lên rằng: "Tàta con ơi! Hãy chạy thoát thân đi, mẹ già rồi, hãy bỏ mặc mẹ, để mẹ đi theo nghiệp của mình. Con hãy chạy đi!". Xúc động trước tấm lòng của mẹ, ngài hối hận, đem mẹ về nuôi dưỡng như trước để đáp đền ân đức.
Vì nguyên nhân của ác nghiệp ấy mà Đại Mục-kiền-liên phải trả quả báo bị kẻ cướp đánh chết liên tục bốn trăm chín chín kiếp. Đến kiếp cuối cùng này, mặc dù đã đắc quả Thánh và có thần thông đệ nhất, vẫn không ngăn chặn nổi sức mạnh của nghiệp ác thuở trước còn dư sót.
Đức vua Mi-lan-đà bất giác thốt lên:
- Thật là khiếp!
- Vâng, thật là kinh khiếp. Ví như đức vua chí tôn trong một nước, oai lực bao trùm khắp quốc độ, bao trùm cả văn võ triều thần, quan quân, muôn dân bá tánh. Chẳng ai trong nước có oai lực bằng đức vua như thế nào thì thần thông xuất thế gian cũng có oai lực như thế ấy, chẳng có sức mạnh thế gian nào so sánh được. Tuy nhiên, khi đức vua ấy hết phước, nghiệp đến, thì oai lực của đức vua chẳng thể nào đương cự được với tử thần. Sức mạnh của tử thần phá vỡ, xâm phạm oai lực của đức vua như thế nào, thì sức mạnh của quả nghiệp cũng phá vỡ, xâm phạm năng lực thần thông y như thế đó, tâu đại vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Ví như có một tên cướp hung dữ, đã mất hết thiện tâm, nó giết người, cướp của, phá xóm, phá làng, chẳng ai có khả năng làm cho nó sợ hãi. Bà con, quyến thuộc, cha mẹ, anh chị, cô bác, xóm giềng không ai có thể khuyên răn, giáo dục cho nó cải ác tùng thiện được. Tuy nhiên, quan quân và pháp luật của đức vua có một oai lực lớn hơn, chẳng ai có thể ngăn cản đức vua bắt giữ và trị tội tên cướp ấy. Năng lực thần thông của Đại Mục-kiền-liên so với năng lực quả nghiệp hung dữ mà ngài đã tạo cũng y như thế đó, tâu đại vương!
- Năng lực của quả nghiệp hay là thần lực của bọn cướp, tâu đại vương?
- Khi nghiệp trổ quả, bọn cướp mới ra tay được, khi nghiệp chưa trổ quả thì một vạn lần như bọn cướp ấy có thể làm gì trước thần thông bất khả tư nghì của ngài?
- Vâng, trẫm rõ rồi!
-
131. Kiếp áp chót, tại cung trời Đẩu suất, Đức Bồ-tát quán xét thế gian để làm gì?
- Bạch Đại đức! Một bậc Toàn Giác sau khi công hạnh ba la mật sắp viên mãn, kiếp áp chót tại cung trời Đâu-suất-đà sanh xuống thế gian, có lẽ ngài đã biết rõ: Phật phụ và Phật mẫu do nhân duyên nhiều đời đã chờ đợi sẵn?
- Tâu, vâng!
- Các bậc tối thượng Thinh Văn cũng y như thế?
- Tâu, vâng!
- Các vị đại thí chủ trong hàng vua chúa, triệu phú... cũng đã được nhân duyên sắp đặt?
- Tâu, vâng!
- Thế là các vị đại bồ-tát cái gì cũng biết trước do công hạnh ba la mật và nhân duyên nhiều đời. Nhưng sao trong kinh có nói rằng: Đức đại bồ-tát kiếp áp chót tại cung trời Đẩu-suất-đà trước khi giáng thế, ngài phải quán xét thế gian xem thử có hội đủ tám điều kiện như sau không:
Một là, Kàlamviloketi: xem xét thời kỳ thích hợp.
Hai là, Dìpam viloketi: xem xét trong bốn châu xem thử châu nào thích hợp (Nam Thiện bộ châu).
Ba là, Desam viloketi: xem xét quốc độ thích hợp (Trung Ấn độ).
Thứ tư, Kulam viloketi: xem xét giòng họ, gia tộc thích hợp.
Thứ năm, Janettim viloketi: xem xét Phật mẫu thích hợp (có phải là người mẹ nhiều đời đã có lời nguyện thành Phật mẫu hay không).
Thứ sáu, Ayum viloketi: tuổi thọ của chúng sanh thích hợp (khoảng một trăm tuổi thọ).
Thứ bảy, Màsam viloketi: ngày tháng giáng sinh thích hợp.
Và thứ tám, Nekkhamma viloketi: rừng núi nào sẽ xuất gia, tu tập thích hợp
Đức đại bồ-tát đã biết trước rồi, thế thì tại sao lại còn quán xét tám điều kiện như đã nêu trên? Việc làm ấy có thừa không? Có vô ích không?
Đại đức Na-tiên đáp:
- Mặc dầu đại bồ-tát biết trước nhưng vẫn quán xét, tâu đại vương! Sự quán xét ấy là việc làm bình thường. Ví như một người bán hàng, vốn biết rõ trong gian hàng của mình còn những thứ gì, nhưng khi bán cũng phải xem xét, cẩn thận coi lại một lượt nữa. Ví như loài voi, biết và thấy rõ đường đi của nó, nhưng khi đi phải đưa cái vòi xem xét, rà soát lại. Ví như viên thuyền trưởng dong thuyền ra khơi, mặc dù dạn dày kinh nghiệm nhưng khi đi cũng phải xem xét phương hướng, luồng lạch cẩn thận. Ví như một người lái buôn vận chuyển hằng chục xe bò đường xa, qua sông nào, bến xuống, bến lên như thế nào, y nắm rất vững nhưng không phải vì thế mà không xem xét lại. Ví như vị lương y tài giỏi kia, sau khi hỏi về bệnh trạng, quan sát người bệnh; đã nắm chắc được bệnh tình, nhưng khi bốc thuốc cũng phải xem mạch lại mới quyết định. Ví như một con rắn độc từ hang bò đi, nó biết rõ miệng hang, nhưng khi đi, vẫn quay lại nhìn miệng hang một lần nữa. Ví như một vị tỳ khưu khi sử dụng tứ sự là vật thực, y phục, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vốn biết rõ chúng chỉ là vật tạm dùng, chỉ là phương tiện để tu tập, nhưng cũng phải tụng kinh quán tưởng v.v...
Tâu đại vương! Qua những ví dụ như trên để biết rằng, sự quán xét tám điều của đức bồ-tát là việc làm bình thường, cần thiết, chẳng phải vô ích, vô bổ như đại vương nghĩ đâu!
- Thưa vâng, cảm ơn trí tuệ quảng bác của đại đức!
-
132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?
-Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy đừng nên để cho thân các thầy rơi đi bằng phi pháp, nếu có rơi thì cũng nên để cho rơi bằng pháp". Lời tuyên bố ấy có đúng chăng? Và nghĩa của nó là thế nào?
- Tâu đại vương! Lời tuyên bố ấy chính là của Đức Tôn Sư. Và nghĩa của nó là như sau: rơi đi, té xuống, rơi xuống (pàtana) là câu nói thuộc về pháp ngữ; hàm chỉ cái thân của chúng sanh phải sanh lại, phải tái sanh! Nghĩa là nếu có sanh trở lại thì nên sanh bởi pháp chứ không nên sanh trở lại bằng phi pháp!
- Thế nào là không nên sanh lại bằng phi pháp, và nên sanh lại bằng pháp?
- Tâu, có pháp, bằng pháp nghĩa là có giới; phi pháp, không có pháp nghĩa là không có giới. Nói cách khác, Đức Thế Tôn muốn giáo giới chư tỳ khưu hãy tinh tấn hộ trì giới bổn, thu thúc lục căn, làm cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh - thì các đời sống trong tương lai sẽ được an vui, hạnh phúc; ấy là cách nói: "nên rơi đi bằng pháp". Nếu trái lại, sống mà không hộ trì giới bổn, không thu thúc lục căn; thân, khẩu, ý buông lung, phóng dật thì các kiếp hậu lai sẽ gặt lấy kết quả đau khổ, phiền não. Ấy là cách nói: "đừng rơi đi bằng phi pháp"!
- Giới quan trọng như vậy sao?
- Tâu, quả đúng như vậy! Giới có công năng diệt trừ tất cả mọi đau khổ phiền não của chúng sanh. Rải rác trong kinh, chỗ này chỗ kia, Đức Phật thường ví giới như một loại thuốc có thể diệt trừ tất cả mọi loại độc, nhất là độc phiền não. Giới như một loại thuốc trị bệnh, có công năng đối chứng trị liệu tất cả tâm bệnh phiền não của chúng sanh. Giới ví như một loại nước trong mát, có thể rửa sạch mồ hôi, bụi đất, đồ dơ bẩn dính ở nơi thân, tức là bụi bặm dơ uế của phiền não. Giới ví như ngọc ma-ni có tên gọi là ngọc như ý, có thể làm cho thành tựu tất cả mọi nguyện vọng, mong mỏi của chúng sanh. Giới ví như chiếc thuyền lớn, có thể vượt qua khỏi bốn dòng nước cuồng lũ - tức là sanh, già, đau, chết. Giới ví như chiếc xe lớn có khả năng đi qua được bốn con đường hiểm trở cam go - tức là sanh, già, đau, chết. Giới ví như một trận gió lớn có thể thổi tắt tức khắc ba loại lửa là lửa tham, lửa sân và lửa si. Giới ví như một đám mưa lớn có thể thỏa mãn được cho dân chúng trong mùa hạn hán. Giới ví như một bậc thầy sáng suốt, hiền đức luôn dạy học trò những việc thiện, những điều lành, tốt. Giới ví như một người chỉ đường có đầy đủ lương năng và tâm từ ái, luôn luôn vui vẻ đối với kẻ lạc đường; chỉ cho họ bỏ đường mê về với nẻo sáng, đường tà trở lại với đường chánh.
Tâu đại vương! Công năng của giới là vô lượng, vô hạn, bất khả tư nghì. Không những giới sẽ thành tựu những đức tính cao quý tốt đẹp cho con người, tạo nên y báo, chánh báo mỹ toàn và sang cả; mà còn giúp cho chúng sanh vượt thoát bốn nỗi sợ hãi to lớn của đời người tức là sanh, già, bệnh, chết nữa!
Đấy là những lợi ích của giới, tức là lợi ích của những người "hãy nên rơi đi bằng pháp" đấy, tâu đại vương!
- Thưa đại đức! Đức Đại Bi cấm chế giới luật vì những lợi ích thiết thực và thù thắng như thế, trẫm đã hiểu rồi. Có rơi đi, có chết đi, có sanh lại cũng bằng pháp chứ không phải bằng phi pháp. Cũng có nghĩa là các thầy tỳ khưu hãy hộ trì giới, nâng đỡ giới, đừng để cho giới hư hỏng, tiêu hoại; đúng như lời của Đức Ca-diếp đồng tử (Kumàra Kassapa) đã thuyết: "Các bậc sa-môn, bà-la-môn thực hành giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp hằng sống trong thế gian vì lợi ích cho mình và cho người khác".
- Đại vương đã hiểu rất đúng đắn.
- Nếu như có giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp, lợi ích cho mình và tha nhân như thế; tại sao Đức Thế Tôn lại còn thuyết về "cắt đứt sự rơi đi", nghĩa là cắt đứt sự sanh, già, đau, chết; nghĩa là chấm dứt sự tái sanh, sự trở lại thế gian dù sự trở lại ấy là tốt đẹp, là lợi ích cho mình và người?
- Đức Thế Tôn đã thuyết với pháp tuần tự, thứ lớp. Đầu tiên, ngài dạy chư tỳ khưu đừng cho rơi đi bằng phi pháp, sau đó là nên rơi đi bằng pháp. Rơi đi bằng pháp có lợi ích cho mình và tha nhân như đại vương đã hiểu. Tuy nhiên, cứu cánh của sa môn hạnh không phải dừng lại ở đó, vì "rơi đi bằng pháp" vẫn còn đau khổ, phiền não. Muốn được an vui tuyệt đối thì cần phải "cắt đứt luôn sự rơi đi"; nghĩa là không còn cả sự sanh kia nữa, tâu đại vương!
-
- Xin đại đức hãy giảng rộng điều ấy.
- Vâng. Còn rơi đi, còn sanh lại, là còn biết bao nhiêu cái khổ mà chúng sanh phải gánh chịu như là một cái gì tất yếu, lắm nghiệt ngả. Đại vương hãy nghe một số khổ kéo theo "Khổ sanh" (Jàtipi dukkhà):
Sự khổ do thân thể suy nhược, già yếu.
Sự khổ do bệnh hoạn, ốm đau.
Sự khổ do thân thể tan rã, hủy diệt, tử vong.
Sự khổ do sầu khổ, thương nhớ.
Sự khổ do khóc than, uất ức, yêu thương, chia lìa v.v...
Sự khổ do trái ý, nghịch lòng v.v...
Ở một chỗ khác, Đức Thế Tôn lại nói đến những cái khổ khác, theo cách khác:
Sự khổ do phải gần gũi, thân cận người mà mình không thích, tức là kẻ mà mình oán thù, kẻ nghịch hoặc người mình ghét (oán tăng hội khổ).
Sự khổ do xa cách, biệt ly người mình yêu thương ví như cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc (ái biệt ly khổ). Hoặc có sự não hại, hư hại, tai ương, hoạn nạn đến cho những người mình yêu thương cũng phát sanh sự khổ.
Vật sở hữu, của cải, tài sản, vật thực bị hư hao, mất mát... cũng phát sanh khổ.
Ngoài ra, còn rất nhiều sự khổ phát sanh do sợ hãi:
Sợ hãi do giới đã thọ trì bị hư hoại, sợ sẽ tái sanh trong khổ cảnh.
Sợ hãi vi phạm luật vua, phép nước mà bị trọng tội, tù ngục, tử hình.
Sợ hãi kẻ trộm cắp, cướp của, giết người.
Sợ hãi nạn lửa.
Sợ hãi nạn nước lũ phá nát ghe thuyền, nhà cửa ngập lụt, ruộng vườn tiêu hoại hoa màu ...
Sợ hãi sóng to, thuyền đắm chìm mất của cải, hàng hóa.
Sợ hãi cá sấu dữ.
Sợ hãi chỗ nước xoáy.
Sợ hãi cá đao, cá mập có răng dài.
Sợ hãi vì lỡ nói lời sái quấy, xằng bậy, không chính đáng, phi pháp.
Sợ hãi chấm dứt mạng sống.
Sợ hãi bốn đường dữ.
Rồi còn những sợ hãi do bị cắt tay chân, bị nhục hình, tật nguyền... thật là vô số kể ở các kiếp sống trả vay, nhân quả trong sáu đường.
Tâu đại vương! Nói tóm lại, không biết bao nhiêu là thống khổ khi còn phải tái sanh trong thế gian này. Ví như dòng chảy từ Hy-mã-lạp sơn của con sông đại Hằng đã cuốn theo mình nó không biết bao nhiêu đất đá, cát sỏi, cành cây, rễ cây, gốc cây, rác rều, gỗ mục, xác chết sinh vật ... Cũng vậy, dòng sinh tử ái hà cuồng lưu chảy xiết ấy nó cũng đầy rẫy những nỗi thống khổ không thể đếm được. Chính những thứ sợ hãi lớn và vô lượng quả báo nghiệp mà chúng sanh phải gánh chịu khi còn phải quẩn quanh trong vòng luân hồi, nó tạo ra các sự thống khổ kia!
Tâu đại vương! Còn sanh, già, đau, chết là còn đau khổ, phiền não. Muốn chấm dứt đau khổ, phiền não, để đạt được hạnh phúc siêu thế là đạo quả Niết bàn thì phải cắt đứt sự sanh, diệt tắt sự tái sanh. Đức Thế Tôn dạy cho chư tỳ khưu Tăng, các hàng Thinh Văn vượt qua sanh, già, đau, chết là vì lẽ ấy.
Đại vương đã hiểu rõ tại sao lại "cắt đứt sự rơi" chưa?
- Thưa, rất rõ ạ! Như thế, Đức Thế Tôn đã thuyết về lý "vô sanh" theo cách khác, phải chăng?
- Tâu, vâng!
- Cảm ơn đại đức!
-
133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại?
- Thưa đại đức! Có phải từ vô lượng tâm có một oai lực rất to lớn?
- Tâu, vâng!
- Có phải Đức Thế Tôn có thuyết rằng: Thầy tỳ khưu thực hành tâm từ, làm cho sung mãn tâm từ ... sẽ có được mười một quả báo sau đây:
Thứ nhất, ngủ được an vui.
Thứ hai, thức được an vui.
Thứ ba, không nằm thấy ác mộng.
Thứ tư, được mọi người thương yêu.
Thứ năm, phi nhân quí mến.
Thứ sáu, thường được chư thiên hộ trì.
Thứ bảy, lửa, thuốc độc, khí giới không làm hại được.
Thứ tám, tâm nhập thiền một cách mau lẹ.
Thứ chín, sắc mặt trong sáng, tươi tỉnh.
Thứ mười, được bình tĩnh lúc lâm chung.
Và thứ mười một, nếu chưa đắc đạo quả, lúc chết được sanh về cõi trời Phạm thiên
Điều ấy có chắc thật không, thưa đại đức?
- Tâu, đúng thật là vậy.
- Thế sao có một lần, bồ-tát Suvanna Sàma ở trong Hy-mã-lạp sơn, tu tập từ vô lượng rất tinh tấn. Một hôm, đức bồ-tát đi múc nước dưới suối về nuôi cha mẹ, bị mũi tên độc của đức vua Kapila bắn trúng, đau đớn gần như chết rồi ngã ra bất tỉnh.
Thưa đại đức! Người niệm tâm từ vô lượng, lý ra có thể ngăn ngừa được mọi điều họa hại, nhưng ở đây, rõ ràng là tâm từ không có tác dụng, vô hiệu quả, không thể bảo vệ được sự an toàn sanh mạng. Vậy tu tập từ vô lượng xem ra không lợi ích gì cả.
- Xin đại vương hãy kham nhẫn, bần tăng sẽ giải thích. Trước đây đại vương là một vị danh tướng đã nhiều lần xông pha trận mạc, chắc đại vương thường hay mặc áo giáp chứ?
- Vâng, trước mũi tên hòn đạn, không có áo giáp làm sao bảo vệ mình được?
- Thế đại vương có thường xuyên măc áo giáp không?
- Chỉ khi ra trước trận mà thôi, còn khi ngủ nghỉ, ăn cơm... nghĩa là trong doanh trại của mình thì không cần thiết.
- Khi ấy nếu có kẻ địch bắn lén đại vương, chắc đại vương sẽ gặp nguy hiểm tánh mạng chứ?
- Vâng, chắc chắn là sẽ nguy.
Đại đức Na-tiên chậm rãi nói tiếp:
- Tâm từ cũng như mặc áo giáp vậy, tâu đại vương. Khi mặc áo giáp thì có thể bảo vệ được sự an toàn, nhưng khi không mặc áo giáp thì có thể bị hiểm nguy.
Bồ-tát Suvanna Sàma tu tập từ vô lượng, có thể tâm từ ấy rất sung mãn; nhưng khi ngài xuống suối múc nước, lối đi cheo leo hiểm trở, hũ nước lại nặng nên thân thể sẽ bị mệt mỏi, đau nhức. Và khi mà mệt mỏi, đau nhức khởi sanh thì tránh sao khỏi sự lơ là, thất niệm không còn an trú ở tâm từ vô lượng nữa? Như vậy, mũi tên độc của đại vương Kapila bắn ra khi bồ-tát Suvanna Sàma đã cởi "áo giáp tâm từ" nên bị họa hại là điều dĩ nhiên, tâu đại vương!
- Có thể là vậy lắm!
- Lại nữa, ví như tương truyền rằng ở cõi trời có một loại rễ cây kỳ lạ. Ai có rễ cây ấy thì biết tàng hình, đi giữa đám đông người không ai phát giác. Nó có công năng che mắt mọi người. Nếu khi không có rễ cây thì không thể tàng hình được.
Lại nữa, ví như một cái hang, một cái động có thể che mưa, đỡ nắng cho các hàng tu sĩ, đạo sĩ; nhưng nếu lìa khỏi hang động, ngồi giữa trời thì làm sao lại có thể tránh nắng, tránh mưa?
Tâm từ phải thường xuyên được tu tập, làm cho sung mãn, thường được an trú bất luận ngày hay đêm thì chắc chắn mười một quả báo thù thắng như đại vương nêu trên, nhất định sẽ trổ quả cho hành giả. Và những họa hại do lửa, thuốc độc, khí giới ... sẽ được bảo vệ, ngăn chặn. Công năng của tâm từ vô lượng ví như áo giáp ngăn tên, như rễ cây tàng hình, hang động che nắng mưa, chắc đại vương không còn hoài nghi nữa?
- Thưa vâng!
-
134. Quả của thiện và ác nghiệp rất lạ lùng
- Thưa đại đức! Một nhóm người tạo thiện nghiệp, một nhóm người tạo ác nghiệp, khi lâm chung, quả báo của họ như thế nào? Bằng nhau, khác nhau, nhiều ít ra sao, đi chung đường hay khác đường? Xin đại đức bi mẫn chỉ giáo cho trẫm!
- Tâu! Người tạo thiện nghiệp, khi lâm chung thì hướng mặt đi đến cõi trời. Người tạo ác nghiệp, khi lâm chung thì rớt xuống bốn con đường đau khổ, nhất là địa ngục. Quả báo khác nhau rất rõ ràng, kẻ đi lên, người đi xuống, làm sao lại có thể chung đường được hở đại vương?
- Có thật vậy không, đại đức? Đọc kinh truyện, trẫm thấy quả của thiện, ác nghiệp ấy rất lạ lùng, không giản đơn như đại đức nghĩ đâu!
- Xin đại vương hãy dẫn chứng.
- Vâng! Chỉ nói riêng về Đức Phật và Đề-bà-đạt-đa thôi, cũng đã không thể hiểu rồi. Đức Phật và Đề-bà-đạt-đa là đại biểu cho hai thái cực: một bên đại thiện, một bên đại ác; một bên trong sáng cao đẹp, thanh khiết, một bên bụi bặm, xấu xa, dơ uế ... Theo lý nhân quả thì ai xuống, ai đi lên đã rõ ràng; ai được an vui, ai bị khổ thật không cần thiết phải đem ra minh chứng nữa. Nhưng ...
- Xin đại vương cứ tiếp tục!
- Vâng! Trong rất nhiều kiếp, Đề-bà-đạt-đa lại có chức phận lớn hơn Đức Phật; y báo, chánh báo đều tốt đẹp và sang cả hơn Đức Phật, có quyền hành, địa vị, sanh thú cao hơn Đức Phật ... là nghĩa làm sao? Có lạ lùng không chứ? Chẳng lẽ nhân quả thiện ác có chỗ bất minh?
- Xin đại vương cho ví dụ!
- Ví dụ như có kiếp Đề-bà-đạt-đa làm quân sư cho đức vua xứ Bàrànasì, bồ-tát của chúng ta sanh ở trong giai cấp hạ tiện Candàla, làm nghề trồng cây, có tài làm cho xoài có trái sái mùa. Vậy thì thiện nghiệp của bồ-tát ở đâu mà sanh thú lại thấp thỏi hơn Đề-bà-đạt-đa tạo ác nghiệp?
- Vâng, quả thật là có kiếp ấy.
- Vậy mà kiếp sau, Đề-bà-đạt-đa làm vua xứ Bàràn-asì, bồ-tát của chúng ta sanh làm con voi trắng có tên là "Hạnh phúc" để cho Đề-bà-đạt-đa cỡi trên lưng! Như thế đó!
- Tâu, quả có như vậy.
- Lại nữa, kiếp sau nữa, Đề-bà-đạt-đa sanh làm người, bồ-tát sanh làm con khỉ chúa!
- Vâng!
- Kiếp khác nữa, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, còn bồ-tát sanh làm con voi chúa, có sáu ngà, tên là Chaddanta. Đề-bà-đạt-đa lại săn đuổi, bắn giết con voi chúa ấy để lấy ngà!
- Quả đúng vậy.
-
- Chưa hết đâu! Kiếp sau đó nữa, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, bồ-tát sanh làm con chim đa-đa, bị Đề-bà-đạt-đa giết chết!
- Tâu, vâng!
- Kiếp nữa, Đề-bà-đạt-đa làm vua xứ Kàsì tên là Kalàbu, bồ-tát là một đạo sĩ tu hạnh nhẫn nhục, sau bị đức vua ấy giết!
- Đại vương nhớ túc sanh truyện vậy thay!
- Vâng, còn nữa. Đề-bà-đạt-đa tuy giết bồ-tát mãi như thế, nhưng sanh lại vẫn làm người, tu đạo lõa thể có tên là Korambhira. Còn bồ-tát thiện nghiệp tốt đẹp đâu không thấy, lại sanh làm long vương có tên là Candaraka!
- Xin đại vương cứ cho nghe tiếp.
- Vâng! Sau đó, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm đạo sĩ, có tên là Jalita, bồ-tát làm con heo lớn có tên là Dacchaka!
- Tâu, vâng!
- Một kiếp nữa, Đề-bà-đạt-đa làm vua, có tên là Uparipa, bồ-tát của chúng ta may mắn được làm người, dòng dõi bà-la-môn, có tên là Kapila.
- Tâu, vâng.
- Đề-bà-đạt-đa vẫn được làm người, có tên là Sàma, bồ-tát làm chúa loài thú có tên là Uru!
- Quả đúng vậy.
- Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, là thợ săn tên là Surà-ma. Bồ-tát sanh làm tượng vương? Tên thợ săn kia đã theo cưa sừng bồ-tát tới bảy lần!
- Thật là độc ác!
- Độc ác vậy nhưng kiếp sau Đề-bà-đạt-đa vẫn được làm vua, có tên là Lingàla. Bồ-tát may mắn được làm người trí thức trong quốc độ ấy, có tên là Vidhura!
- Bần tăng biết!
- Còn nữa. Sau đó, không biết tại sao Đề-bà-đạt-đa sanh làm voi, dẫm chết bồ-tát là con chim cút (đẻ trứng dưới đất).
- Tâu, vâng!
- Kiếp nọ, Đề-bà-đạt-đa lại làm vua xứ Brahmadatta, bồ-tát là hoàng tử, con của đức vua ấy, có tên là Paduma. Đức vua Brahmadatta đã quăng hoàng tử Paduma xuống hố sâu cho chết.
- Vâng!
- Đề-bà-đạt-đa ác độc thế nhưng tiếp tục làm vua có tên là Mahàpatàpa. Đức vua ấy lại tìm cách giết con mình, là đông cung thái tử, có tên là Dhammapàla, tức là bồ-tát của chúng ta.
- Vâng!
Đến đây, đức vua Mi-lan-đà chậm rãi nói:
- Người làm thiện được vui, người làm ác bị khổ - là hoàn toàn sai lầm. Qua mười sáu ví dụ trên, rõ là bồ-tát luôn luôn bị quả báo đau khổ hơn dù ngài làm việc đại thiện; còn Đề-bà-đạt-đa tuy làm ác nhưng vẫn nhởn nhơ sung sướng, vẫn ở trên bồ-tát, nắm quyền sinh sát bồ-tát! Đại đức nghĩ thế nào?
-
- Chắc vẫn có kiếp hai người sanh thú bằng nhau, địa vị ngang nhau chứ?
- Vâng. Một kiếp Đề-bà-đạt-đa làm dạ xoa có tên là Adhamma. Bồ-tát cũng làm dạ xoa, có tên là Sudhamma! Cái tên dẫu khác nhau, một bên là phi pháp (Adhamma), một bên là thiện pháp (Sudhamma) nhưng cũng chỉ là thân dạ xoa thôi!
- Tâu, vâng!
- Có kiếp Đề-bà-đạt-đa làm người chủ thuyền có năm trăm tùy tùng, bồ-tát của chúng ta cũng y như thế.
- Tâu, vâng.
- Kiếp kia Đề-bà-đạt-đa làm chúa đàn nai có tên là Sàkha, bồ-tát của chúng ta cũng là chúa đàn nai có tên là Nigrodha!
- Tâu, vâng!
- Kiếp nọ, Đề-bà-đạt-đa là chủ buôn xe bò có năm trăm tùy tùng; Bồ-tát cũng y như thế.
- Tâu, vâng!
- Thưa đại đức! Trẫm nghiên cứu tiền thân Phật không nhiều, nhưng chỉ đếm được bốn kiếp ấy là quả báo bằng nhau mà thôi. Quả báo bằng nhau trong lúc thiện và ác nghiệp khác nhau, không là điều đáng nghi vấn sao?
- Vâng, thế có kiếp nào đức Bồ-tát hơn Đề-bà-đạt-đa chăng?
- Không kể kiếp chót thành Phật - thì chỉ có hai kiếp.
- Cho xin nghe, tâu đại vương!
- Đó là một kiếp Đề-bà-đạt-đa làm tay thủ lãnh tên là Alàta, còn đức Bồ-tát làm vị Phạm thiên tên là Nàrada!
- Tâu, vâng!
- Và kiếp áp cuối khi Bồ-tát đại thí bổ túc ba-la-mật làm thái tử Vessantara thì Đề-bà-đạt-đa làm lão bà-la-môn ăn xin đến xin hai trẻ!
- Tâu, vâng!
- Còn kiếp cuối thì tương tự nhau thôi. Bồ-tát làm thái tử Siddhattha con vua Suddhodana, Đề-bà-đạt-đa làm hoàng tử con vua Suppabuddha. Đề-bà-đạt-đa xuất gia trong giáo hội của Đức Tôn Sư, đắc thế gian thiền, được ngũ thông, lại còn tìm cách giết Đức Phật, chia rẽ tăng già nữa.
Như vậy, rõ ràng Bồ-tát sinh ở đâu, Đề-bà-đạt-đa cũng sinh ra ở đó. Và chức phận, địa vị, sanh thú, tiền bạc, của cải, quyền lực của Đề-bà-đạt-đa luôn luôn là ở trên Bồ-tát, luôn tìm cách giết hại Bồ-tát, làm khổ Bồ-tát! Còn các kiếp Đề-bà-đạt-đa phước báu ít hơn hoặc ngang bằng thật không đáng kể. Nhưng các kiếp ấy bồ-tát cũng có ở yên với Đề-bà-đạt-đa đâu, vẫn bị Đề-bà-đạt-đa làm hại, làm khổ, bằng cách này hay cách khác!
Xin thưa, đại đức hãy giải nghi cho trẫm?
-
- Tâu, vâng! Đại vương, nếu đại vương có ở trên tay vài chục hạt cát, thì vài chục hạt cát ấy so với cát ở sông Hằng thì thế nào?
- Không thể so sánh được, vì cát của sông Hằng là vô lượng, vô biên không thể đếm được.
- Cũng thế là vài chục kiếp sống mà đại vương đưa ra so với vô lượng vô biên kiếp sống mà bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa trải qua. Đề-bà-đạt-đa không phải chỉ có làm ác ở trong các kiếp mà đại vương nêu ra, ông cũng làm thiện rất nhiều. Có nhiều kiếp ông làm kẻ thiện tâm, hằng giúp đỡ đến cho những người đói khổ. Vài kiếp, ông làm chức xã trưởng đạo đức, hiền thiện... đã giúp cho địa phương ấy phồn thịnh và hạnh phúc an vui. Đôi kiếp, ông cũng làm cầu, làm đường, làm nhà nghỉ tạm cho thập phương, lập bệnh xá từ thiện, đào hồ nước và làm giếng nước ở nơi công cộng. Lại còn biết cúng dường đến sa môn, bà-la-môn và bố thí cơm nước, vật thực đến người hoạn nạn, cơ bần ... nữa.
Như vậy, các kiếp mà đại vương nêu ra, không phải là những kiếp nối liền, nhân của kiếp này làm quả cho kiếp kia; ấy chỉ là một số kiếp hy hữu mà bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa gặp nhau, tạo oan trái với nhau. Như một con rùa mù ở giữa biển khơi, lâu lâu, trăm năm, ngàn năm mới gặp được một phiến gỗ nổi, một bọng cây nổi... Sự gặp gỡ giữa bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa cũng hy hữu như thế. Bồ-tát gặp Đề-bà-đạt-đa chỉ có vài chục kiếp, trong lúc bồ-tát gặp đức Xá-lợi-phất đến hằng ngàn hằng vạn kiếp; khi thì làm cha con, anh em, ông cháu, bạn bè, thân quyến ... thật không thể đếm hết được. Như thế, bồ-tát trong các kiếp sinh tử quẩn quanh, không những chỉ gặp Đề-bà-đạt-đa mà còn gặp Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, các vị trưởng lão ... nói chung, là cả hội chúng của ngài nữa. Ở đây gồm người tốt, người xấu, kẻ thương yêu vừa lòng, người ngỗ nghịch ghét bỏ, hạng độc ác khó dung, bậc thiện hiền đáng kính. Đủ cả. Ví như dòng nước từ non cao chảy xuống biển khơi, đâu phải dòng nước ấy chỉ gặp những xác chết sinh vật hôi thối, mà còn gặp đá sạn, củi rều, trầm hương, gỗ mục, cành lá, trái cây, chùm hoa, rong rêu ... đủ thứ, đủ loại.
Làm thiện được quả báo tốt lành, làm ác bị quả báo hung dữ, ấy là định luật nhân quả tất yếu không sai trật. Vì ta không thấy hết, không biết hết nên sinh ra hoài nghi. Ví như kiếp Đề-bà-đạt-đa làm dạ-xoa tên là Adhamma mà đại vương đã nêu ở trên. Dạ-xoa Adhamma là kẻ không trú trong pháp, là phi pháp (Adhamma), hành trược hạnh và ác đức; tuyên truyền, hướng dẫn kẻ khác thực hành trược hạnh và ác đức sái quấy như mình; hết kiếp ấy, dạ-xoa đọa địa ngục a-tỳ đến năm bảy koti và sáu vạn năm. Cùng kiếp ấy, bồ-tát làm dạ-xoa có tên là Sudhamma, là người trú trong pháp, khéo thực hành pháp (Sudhamma), làm việc thanh hạnh và thiện đức; rồi khuyên răn, hướng dẫn kẻ khác thực hành thanh hạnh và thiện đức như mình; hết kiếp ấy, dạ-xoa Sudhamma hưởng quả thiện báo ở cõi trời lâu chừng năm bảy koti và sáu vạn năm.
Đại vương! Đơn cử một ví dụ như thế để đại vương thấy rằng: đã vô lượng kiếp sau khi làm ác, Đề-bà-đạt-đa phải bị trả quả hung dữ, đau khổ như thường, nhưng Đức Phật không thể kể hết đó thôi. Đừng vì không thấy hết, không biết hết mà đại vương nghi ngờ định luật nhân quả rất công bằng và rất phân minh kia vậy!
Đức vua Mi-lan-đà im lặng giây lâu:
- Thế đức bồ-tát chuyên hành thiện mà sao vẫn bị quả dữ, thưa đại đức?
- Không, không phải vậy đâu. Bồ-tát tất là còn vô minh, phiền não. Còn vô minh, phiền não thì tránh sao được những hành động sai lầm? Do vậy, ngài phải bị trả quả đau khổ tương ứng với hành động sai lầm của mình. Đấy cũng là điều tất yếu.
- Đã rõ, thưa đại đức!
-
135. Sự tà hạnh của người nữ?
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết với đại ý rằng: "Những người nữ trên thế gian này dễ làm điều đê hèn, thấp thỏi, tà hạnh nếu như họ có đủ điều kiện là thời gian, nơi kín đáo, có người đàn ông dụ dỗ, chọc ghẹo họ. Đừng nói là người trai có sắc đẹp, khỏe mạnh mà người trai xấu xí, tầm thường, người nữ vẫn bị quyến dụ như thường!". Có phải có điều ấy không ạ?
- Tâu, vâng!
- Nhưng khi thuyết về bổn sanh, nói về người vợ của bồ-tát Mahosatha là bà Amaràdevi, lại không phải thế. Bà Amaràdevi dầu không có mặt chồng ở trong phòng kín với người đàn ông dụ dỗ mình - theo kế thử lòng của bồ-tát Mahosatha - bà vẫn không tà hạnh. Xem thế, lời tuyên bố ở trên của Đức Thế Tôn có quá đáng chăng? Có hạ giá phẩm hạnh của người nữ chăng? Có đưa tay ra mà nắm cả bó đũa hay chăng? Có nghiêng lệch về một phía bởi định kiến của mình hay chăng? Mong đại đức giải nghi cho trẫm điều này?
- Tâu đại vương! Quả là Đức Thế Tôn có dạy rằng người nữ hành động xấu xa, thấp thỏi khi hội đủ ba điều kiện: thời gian, nơi kín đáo và có người đàn ông dụ dỗ, chọc ghẹo. Nhưng các điều kiện đưa đến phạm tội ấy cũng phải được hiểu cho chính xác, nếu không đại vương sẽ hiểu lầm lời tuyên bố của Đức Đạo Sư!
- Xin đại đức giảng cho nghe?
- Tâu, vâng! Ví như điều kiện thứ nhất là "thời gian"! Đại vương hiểu như thế nào về chữ "thời gian"?
- Có thể hiểu ngay! ví dụ như lúc rảnh việc, lúc không có ai thấy, lúc người khác không nghi ngờ, lúc người chồng đi vắng, lúc ban đêm hoặc lúc có thể dễ dàng nêu lý do vắng mặt v.v... nghĩa là vào lúc mà thời gian thuận tiện nhất. Có phải "thời gian" là vậy không đại vương?
- Rất chính xác. Nhưng nếu có người nữ không cung kính chồng, không tốt với chồng, không hề sợ chê bai, không sợ địa ngục, không biết thế nào là đúng pháp, thế nào là phi pháp, không có tàm quý thì họ có cần điều kiện "thời gian" như đại vương nêu ở trên không?
- Đối với hạng nữ nhân ấy thì lúc nào, thời gian nào họ cũng có thể tà hạnh!
- Vâng! vậy thì đối với hạng nữ nhân đầu, thời gian nghĩa là có lúc, có khi thuận tiện; đối với hạng nữ nhân sau, thì thời gian dường như lúc nào cũng được. Tất cả đều là nghĩa về "thời gian", tâu đại vương!
- Nó rộng nghĩa như vậy sao đại đức! Nếu thế thì có yếu tố "tâm" xen dự vào đấy rồi!
- "Thời gian" đầu, ám chỉ cho hạng nữ nhân có tâm xấu ít. "Thời gian" sau, ám chỉ cho hạng nữ nhân có tâm xấu nhiều, tâu đại vương!
- Thế còn "nơi kín đáo" là chỗ khuất mắt, khuất tai, không ai thấy biết, phải thế không đại đức?
- Cũng không đơn giản như đại vương hiểu đâu. Chỗ mọi người không thấy, không biết thì đúng rồi; nhưng nếu phi nhơn, chư thiên, quỷ thần hay biết thì sao?
- A! Té ra còn điều này nữa!
-
- Rồi lại còn các bậc đắc thắng trí thần thông, họ có tha tâm thông nên thấy, biết thì sao?
- Vâng, vâng!
- Trở lại vấn đề. Bà Amàradevi, vợ của bồ-tát Mahosatha dẫu bị người đàn ông dụ dỗ, có thời gian, trong phòng kín - kín với mọi người, nhưng không kín đối với bà - nên bà không thể tà hạnh được, tâu đại vương!
- Bà còn là người tốt chứ không phải là người xấu như hai hạng nữ nhân ở trên, thưa đại đức.
- Lại nữa, bà Amàradevi lại còn có người chồng tốt, trên thế gian không ai bằng được, cũng là lý do chính đáng để bà không tà hạnh, tâu đại vương!
- Xin đại đức kể rõ cho nghe?
- Vâng, đức bồ-tát Mahosatha có đầy đủ hai mươi tám pháp ưu thắng sau đây:
Một là, dũng cảm, nhiệt thành.
Thứ hai, có sự hổ thẹn tội lỗi.
Thứ ba, có sự ghê sợ tội lỗi.
Thứ tư, có nhóm thiện hữu của mình.
Thứ năm, có sự thương yêu của bạn bè.
Thứ sáu, đức nhẫn nhục.
Thứ bảy, có giới hạnh.
Thứ tám, nói lời chân thật.
Thứ chín, có năng lực tâm lành bảo hộ.
Thứ mười là, không sân hận.
Mười một, không biết khinh bỉ người khác.
Mười hai, không ganh gỗ với người.
Mười ba là tinh tấn.
Mười bốn, vun bồi ba-la-mật.
Mười lăm, là người tế độ đại chúng.
Mười sáu, biết chia phần của cải cho mọi người.
Mười bảy, nói lời tử tế, hòa hợp.
Mười tám, thân hành dịu dàng.
Mười chín, nói lời nhỏ nhẹ, dịu ngọt.
Hai mươi, không kiêu căng, không khoe khoang.
Hai mươi mốt, không lường gạt, giả dối, không làm bộ làm tịch.
Hai mươi hai, hiểu biết các định luật tiến hóa.
Hai mươi ba, thông hiểu nhiều lĩnh vực (nghề nghiệp, làm ra của cải, biết ngăn ngừa tai họa v.v...)
Hai mươi bốn, có thanh danh.
Hai mươi lăm, biết ban phúc cho người - nhất là biết săn sóc, chăm lo cho những người đang nương tựa mình.
Hai mươi sáu, là người mà đại chúng mong mỏi, tin cậy.
Hai mươi bảy, có nhiều tài sản.
Hai mươi tám, nhiều chức phận cao quý trong xã hội.
Tâu đại vương! Với hai mươi tám phẩm chất cao quý ấy, bậc trí thức, hiền đức là bồ tát Mahosatha là người tuyệt hảo của một ông chồng trong gia đình; là người tuyệt hảo trong thôn lân, xã hội, quốc độ, không một người nữ nào không coi là bậc lang quân lý tưởng; lại nữa, yếu tố "thời gian" và yếu tố "chỗ kín đáo" không hội đủ, thì làm sao bà Amàradevi có thể bị dụ dỗ tà hạnh đươc, hở đại vương?
- Đúng vậy, dẫu đàn bà xấu tâm, xấu nết cũng không thể phạm tội, huống hồ bà Amàradevi là người đàn bà tốt, lại có được một người chồng như thế!
-
136. Các vị A la hán còn sợ hãi?
- Thưa đại đức! Trẫm có nghe đại đức nói nhiều lần rằng bậc A-la-hán không còn một sự sợ hãi nào trên thế gian này, kể cả sợ hãi sự chết! Vì các nguyên nhân của sợ hãi các ngài đã chấm dứt, đã tuyệt diệt, có phải thế không ạ?
- Tâu, vâng!
- Trẫm có đọc một đoạn kinh, đại ý rằng: khi Đức Thế Tôn, năm trăm vị A-la -hán cùng đại đức Ànanda đi vào thành Vương-xá để khất thực, Đề-bà-đạt-đa với ác tâm, bèn thả con voi dữ uống rượu say cố ý giết Phật. Năm trăm vị A-la-hán thấy con voi như điên cuồng lao tới, các ngài sợ hãi quá bỏ trốn hết; chỉ có đại đức Ànanda là không sợ hãi gì cả, bước đến, đứng chắn phía trước, cố ý thà chết để bảo vệ cho Đức Thế Tôn! Phải vậy không, thưa đại đức?
- Tâu, vâng!
- Sao kỳ lạ như thế! Năm trăm vị A-la-hán đều là bậc vô lậu, đã chấm dứt mọi nguyên nhân của sợ hãi; lại tham sống sợ chết, thấy voi dữ, bỏ trốn hết, để Đức Thế Tôn đứng đấy một mình! Còn đại đức Ànanda là bậc hữu học, phiền não còn nhiều, nguyên nhân của mọi sợ hãi chưa được cắt đứt; thế mà ngài lại không hề sợ hãi, chẳng tiếc sanh mạng của mình, hy sinh cái thân giả tạm để che chắn cho Đức Đạo Sư? Hay năm trăm vị A-la-hán ấy tò mò, muốn biết, muốn thấy Đức Thế Tôn sử dụng thần thông, phép lạ ra sao? Lý nào lại thế được?
- Vâng, chẳng có lý nào mà năm trăm vị A-la-hán còn tò mò, khởi tâm muốn thấy, muốn biết phép lạ, thần thông của Đức Thế Tôn. Quả thật không hề có chuyện đó xảy ra!
- Nếu là không có lý thì đại đức phải giải thích cho minh bạch chứ?
- Vâng! Quả đất hoặc như tối đại sơn là đỉnh Sineru có khi nào lay động, sợ hãi bởi điều gì không, hở đại vương?
- Dĩ nhiên là không! dù cho ai cuốc, ai đào, ai đánh, ai đập, ai dùng lửa đốt, thì quả đất hoặc núi Tu-di vẫn không lay động, không sợ hãi bao giờ.
- Quả đất hoặc núi chúa không lay động, không xao động, không sợ hãi bất cứ một điều gì; cũng giống như tâm bất động, trạm nhiên của các bậc A-la-hán vậy, tâu đại vương. Dù có một số đông người, tay nắm xà-mâu sắc bén, vây quanh một vị A-la-hán với thái độ rất hung dữ, đằng đằng sát khí, muốn giết vị A-la-hán ấy; cũng không vì vậy mà vị A-la-hán tỏ ý khiếp sợ hoặc có một sự dao động, xao động nào ở trong tâm. Đại vương nên hiểu như vậy.
- Nói thế cũng không biện hộ được cho thái độ hèn nhát, khiếp nhược của các vị A-la-hán khi họ tham sống, sợ chết, bỏ trốn lấy thân mình mà bỏ mặc Đức Đạo sư ở lại đấy với voi dữ!
- Đại vương nói như vậy hơi nặng lời! Đại vương hãy sám hối đi là vừa! Đại vương có biết khi ấy các vị A-la-hán suy nghĩ gì không?
- Thưa, không biết!
- Không biết thì đừng võ đoán! Hoặc chỉ nhìn thấy bên ngoài, chưa thấy sự thật ở bên trong thì đừng vội quy kết! Năm trăm vị A-la-hán đều là bậc lậu hoặc đã tận, mọi nguyên nhân của cái gọi là hèn nhát, khiếp nhược gì đó đã chấm dứt. Khi thấy voi dữ xông đến, các vị ấy tâm ý tương thông, đồng khởi niệm như sau: "ĐứcÀnanda suốt đời tận tụy, kính cẩn, thương yêu phục vụ, hầu hạ Đức Thế Tôn, thật trong hàng đệ tử chẳng ai dám sánh. Rõ là đức Ànanda sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình để bảo vệ cho Đức Thế Tôn mà chẳng khởi lên một tí sợ hãi nào. Vậy tất cả chúng ta hãy lánh đi, để bố cáo những đức tính cao quý sáng rỡ như mặt trời, mặt trăng của đức Ànanda; cho tứ chúng cùng tất thảy mọi người trong nhiều quốc độ được thấy, được biết! Còn việc đối trị với voi dữ chỉ là trò trẻ con đối với Đức Tôn sư! Chỉ có Đức Tôn sư mới biết rõ ngài nên làm gì!"
Đức vua Mi-lan-đà giật mình, kinh sợ:
- Quả các ngài ấy đã nghĩ như vậy sao?
- Quả đúng thế, đại vương!
- Vậy là trẫm có tội rồi! Làm sao sám hối cho hết cái tội võ đoán, loạn ngôn, lộng ngữ của trẫm đây, đại đức?
Đại đức Na- tiên mỉm cười:
- Nói thế chứ đại vương không có tội! Bần tăng hiểu rõ tâm ý của đại vương, là chẳng có sự khi mạn nào đối với các bậc Thánh Tăng! Sở dĩ đại vương lập ngôn, lập ngữ như thế là lợi ích cho phần đông, có vậy mới lột tả được cái "phản diện" của vấn đề!
Đức vua chợt thốt "Sàdhu, lành thay" rồi quỳ xuống đảnh lễ thật cung kính:
- Chỉ có sự thông tuệ của đại đức mới hiểu đượcdụng tâm sâu kín cuả trẫm!
- Không dám!
-
137. Đức Phật dạy cắt đứt sợ hãi? (Tương tự câu hỏi 125)
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn dạy chư tỳ kheo chấm dứt nguyên nhân của sợ hãi, rồi sau đó, dạy cho hai hàng cận sự nam nữ đem nguyên nhân sợ hãi đến cho chư tỳ kheo là nghĩa làm sao?
- Đại vương nói gì bần tăng không hiểu?
- Thưa, đây là câu hỏi đã hỏi rồi, nhưng trẫm đã lý giải để hỏi theo cách khác.
- Đại vương cứ dẫn chứng cho đầy đủ.
- Vâng. Có lần Đức Bổn Sư thuyết rằng: "Này các thầy tỳ kheo! Sự sợ hãi chỉ xảy đến cho các thầy khi các thầy còn tham luyến chỗ ở, quyến niệm trú xứ của mình. Vậy muốn chấm dứt sợ hãi, các thầy phải sống đời không dính mắc, như hươu nai được tự do đi lại trong rừng sâu!"
- Quả đúng thế!
- Nhưng khi dạy cho cận sự nam nữ, Đức Tôn Sư lại thuyết rằng: "Người nào cúng dường, tôn tạo chùa, thất, liêu, chỗ ngự cho tỳ khưu Tăng sẽ có phước báu lớn, lợi ích lớn.Tại sao vậy? Vì rằng các ngài là con mắt sáng của thế gian, là bậc đa văn, quảng kiến; là người thông suốt tam tạng, là người hằng đem đến lợi ích, phước báu cho chư thiên và loài người."
- Cũng đúng như thế!
- Một bên thì dạy đừng nên có chỗ ở, một bên thì dạy nên tạo chỗ ơ ? Tham luyến chỗ ở đem đến sợ hãi, thế mà còn dạy người ta nên tôn tạo chùa, thất, liêu; điều ấy không phải là sự mâu thuẫn lạ lùng sao, hở đại đức?
Đại đức Na- tiên im lặng một lát rồi hỏi:
- Đại vương có thấy, là nếu chư tỳ khưu sống hạnh không dính mắc chỗ ở, sống đời ta-bà vô trú như hươu nai tự do, tự tại giữa rừng sâu có lợi ích chăng?
- Dĩ nhiên là lợi ích.
- Còn nếu các hàng cư sĩ phát tâm cúng dường, tôn tạo chùa thất đến cho tỳ khưu Tăng, thì có lợi ích chăng?
- Dĩ nhiên là lợi ích.
- Xin đại vương cho nghe tôn ý? Chúng có những lợi ích gì?
- Thứ nhất là giúp cho chư Tăng có nơi để hành đạo. Thứ hai là cận sự nam nữ dễ dàng lui tới học đạo, nghe pháp, làm phước cúng dường, thọ trì quy giới v.v... Thứ ba là có nơi để cho chư Tăng học hành, nghiên cứu, trao đổi kinh, luật, luận. Thứ tư là để cho kẻ ngoại giáo, vua chúa, quan lại... có chỗ lui tới để vấn đạo, học đạo...
- Đúng vậy. Và những lợi ích ấy có thiết thực, hữu ích cho nhân quần, xã hội không hở đại vương?
- Rất thiết thực. Tuy nhiên, nó vẫn là nguyên nhân đem đến sự sợ hãi trong hàng tăng lữ, thưa đại đức?
- Nguyên nhân ấy là gì?
- Là sự tham luyến chỗ ở.
- Vậy thì vấn đề là sự tham luyến và không tham luyến, tâu đại vương!
- Ồ! trẫm đã sai rồi!
-
138. Cái gì nơi Đức Thế Tôn là cao quý không ai sánh bằng?
- Thưa đại đức! Trẫm còn thắc mắc về một câu hỏi trước đây, khi Đức Thế Tôn khen ngợi rằng tỳ khưu Bàkula cao quý không ai sánh bằng... Đại đức có thể trả lời cho trẫm những câu hỏi liên quan đến vấn đề ấy chăng?
- Tâu, vâng, đại vương cứ hỏi.
- Đức Thế Tôn là vị lương y, chữa trị tất cả mọi căn bệnh cho chúng sanh; nhưng chính ngài là người lại đau ốm luôn, ít ra là bốn lần. Trị bệnh cho chúng sanh mà chính mình lại bị bệnh, đấy không là điều đáng ngạc nhiên sao?
- Đại vương lầm rồi, hay chính đại vương giả vờ đặt ra câu hỏi ấy? Những căn bệnh thống khổ của chúng sanh là tham sân, phiền não, luân hồi tử sinh... chứ không phải là bệnh tật thông thường, tâu đại vương! Ngài đã thuyết pháp, giảng giải con đường đi đến Niết bàn, nơi diệt tận những điều thống khổ ấy nên thế gian tôn ngài là vị lương y. Còn sở dĩ tỳ khưu Bàkula cao quý không ai sánh bằng là do vị ấy thiểu bệnh hơn các vị Thanh văn khác, chỉ có thế thôi.
- Vậy thì Đức Tôn Sư ám chỉ sự cao quý gì trong lời thuyết: "Như Lai là bậc bà-la-môn tối thượng, xứng đáng để cho kẻ khác xin rửa tay dâng vật phẩm cúng dường, không có ai sánh bằng!"? Trong lúc vô bệnh thì ngài không bằng tỳ khưu Bàkula, phước vật thực thì không bằng đại đức Sìvali, đầu đà khổ hạnh thì không bằng ngài Mahà Kassapa v.v... Ngoài ra, các vị Thinh văn đệ tử Phật, thọ thực ngày một lần, có vị dù chết cũng không thọ thực hai lần một ngày; còn Đức Tôn Sư thọ thực ngày một lần, ngày hai lần hoặc ngày ba lần cũng có. Vậy thì trẫm e rằng phẩm hạnh của Đức Thế Tôn không cao quý bằng chính đệ tử của mình rồi.
- Tâu đại vương! Như bần tăng đã trình bày hôm trước, Đức Thế Tôn cao quý không ai sánh bằng ở phương diện tâm, phương diện tuệ và phương diện giải thoát. Tức là những pháp mà ngài đã chứng đạt và chứng ngộ. Cụ thể hơn, Đức Thế Tôn có những pháp tối thượng sau đây:
Thứ nhất, giải thoát tri kiến (Vimutti nànadassana);
Thứ hai, thập lực tuệ và bốn tuệ dũng cảm (Vesàvajjanàna);
Thứ ba, mười tám pháp Phật (Buddha Dhamma);
Thứ tư, sáu tuệ không phổ thông (Àsàdhàranàna);
Thứ năm, tất cả pháp trình độ của Phật (Buddhavisaya Dhamma).
Cho nên, dù Đức Thế Tôn có bệnh hay không bệnh, thọ thực một bát hay thọ thực hai bát, thọ đầu đà hay không thọ đầu đà; thì tất cả chíng sanh trong tam giới, chúng sanh không chân hay hai chân, có bốn chân hay nhiều chân, có thân hình hoặc không có thân hình, có tâm tưởng hoặc không có tâm tưởng v.v..., chẳng chúng sanh nào có thể cao thượng, cao quý để so sánh với Đức Tôn Sư!
- Thưa đại đức! Trẫm không còn nghi ngờ gì về điều ấy nữa.
-
139. Đức Thế Tôn là người khai sáng Đạo hay Đạo có sẵn từ ngàn xưa?
- Thưa đại đức! Đạo vốn có sẵn tự ngàn xưa phải chăng?
- Vâng, có tự ngàn xưa, do chư Phật quá khứ đã khai sáng, đã tìm ra.
- Thế sao Đức Thế Tôn của chúng ta lại nói rằng "Như Lai là người làm cho Đạo chưa phát sanh được phát sanh"? Vậy ra lời nói sau lại nghịch ngôn, mâu thuẫn với lời nói trước.
- Chẳng có hai lời sái nghĩa đâu, tâu đại vương! Đạo xưa ấy là nói về Bát chánh đạo, con đường có tám chi; đấy là con đường đi đến giải thoát, chấm dứt sinh tử luân hồi. Chính chư Phật quá khứ sau khi giác ngộ con đường, đã tán dương, tuyên thuyết con đường ấy cho chúng sanh thực hành, noi theo. Nhưng khi các ngài nhập diệt, Bát chánh đạo ấy cũng theo thời gian mà khuất lấp đi, chẳng còn ai biết đến để tu tập nữa. Đến thời Phật Thích Ca, do công hạnh ba-la-mật sâu dày, ngài đã vén mở con đường xưa cũ; đã phát hiện lại con đường, đã phát quang lại con đường, tu tập theo con đường, giác ngộ con đường... cho nên gọi là làm cho con đường được phát sanh! Lý nghĩa ấy thì có gì mâu thuẫn đâu, tâu đại vương?
- Thưa đại đức! Phát sanh là chưa có mà bây giờ lại có, lại sanh ra. Còn Đạo vốn là cái có sẵn nên không thể lập ngôn như vậy được!
- Đại vương nói rất có lý. Nhưng đại vương nghĩ thế nào trong trương hợp viên ngọc mani với đức Chuyển luân Thánh Vương? Phước đức của đức Chuyển luân Thánh Vương từ ngàn xưa có công năng làm cho ngọc mani xuất hiện, gọi là ngọc mani phát sanh đến cho đức Chuyển luân Thánh vương. Nhưng đến khi đức Chuyển luân Thánh vương mãn tuổi thọ, ngọc mani ấy cũng bị biến mất, đến trú ẩn nơi đỉnh núi Vikula. Nhiều đời sau, đức Chuyển luân Thánh vương khác lại ra đời trên thế gian, ngọc mani xuất hiện, lại tìm đến cho đức vua ấy. Thế có thể lập ngôn là ngọc Mani phát sanh đến cho đức Chuyển luân Thánh vương không hở đại vương?
- Có thể được.
- Nghĩa là đức vua ấy không thể tạo ra ngọc mani mà mani ấy vốn có sẵn?
- Đúng vậy.
- Chữ "phát sanh" mà Đức Thế Tôn dùng cũng nằm trong ngữ nghĩa ấy. Đức Thế Tôn không tạo ra Đạo mà Đạo vốn là có sẵn.
- Trẫm hiểu rồi.
- Ngọc mani xưa thần bí, ẩn tàng không ai có thể thấy được, chẳng ai có khả năng làm cho nó lộ diện, chỉ có công năng phước báu của đức Chuyển luân Thánh vương mới làm cho nó phát sanh. Tương tự như thế, Bát chánh đạo sâu kín, mầu nhiệm, khó thấy, khó tìm; chẳng ai trong tam giới có khả năng làm cho Bát chánh đạo hiện hữu; chỉ có công hạnh ba-la-mật sâu dày, trí tuệ vô thượng của Đức Phật mới có công năng làm cho Bát chánh đạo phát sanh giữa cuộc đời.
- Trẫm đã hiểu.
- Lại nữa, ví như người nữ sanh con. Trong bụng người nữ có con mới gọi là người nữ sanh con. Nếu trong bụng người nữ không có con thì người nữ có sanh con được không hở đại vương?
- Chẳng thể nào.
- Đức Phật giác ngộ Bát chánh đạo từ ngàn xưa, ở trong tâm, rồi nói ra bát chánh đạo ấy; cũng như người nữ có con trong bụng, rồi sanh đứa con ấy ra, tâu đại vương!
- Hay lắm!
- Lại nữa, ví như một người đàn ông giàu có, của cải tài sản, châu báu được chôn giấu nhiều nơi; do chiến tranh, loạn lạc, vật đổi, sao dời, người đàn ông không tìm ra tài sản ấy nữa. Sau đó, do cố gắng, do kiên trì, do trí nhớ, ông ta đã tìm lại được. Ấy có thể gọi là làm cho tài sản phát sanh trở lại không, hở đại vương?
- Có thể được.
- Lại nữa, ví như một người đàn ông nọ tự ý vào rừng, nhắm hướng đông tây nam bắc rồi chặt bỏ bụi bờ, gai góc, làm sạch một con đường, thì tình cờ phát hiện một con đường xưa cũ bộ hành qua lại. Tương tự như thế, Đức Thế Tôn cũng là một người đi vào một khu rừng, phát quang bụi bờ gai góc, chợt tìm ra con đường Bát chánh đạo mà chư Phật quá khứ đã đi qua, vốn đã bị thời gian khuất lấp. Trường hợp ấy cũng cùng một ý nghĩa cả, tâu đại vương!
- Trẫm đã hết nghi ngờ rồi, thưa đại đức!
-
140. Đức Phật từ bỏ sự tinh tấn, lại khuyên đệ tử nên tinh tấn?
- Thưa đại đức! Có phải Đức Thế Tôn đã tinh tấn thực hành khổ hạnh để diệt trừ phiền não, hủy diệt ma quân? Và sự tinh tấn thực hành khổ hạnh ấy trên thế gian không ai bằng được?
- Tâu, vâng!
- Cũng do sự tinh tấn thực hành khổ hạnh ấy mà thân thể ngài trở nên suy nhược, gầy yếu...; nếu tiếp tục, có thể đưa đến tử vong, nên ngài đã cương quyết từ bỏ, trở lại ăn uống bình thường. Nhờ vậy mà ngài đã đắc vô thượng Bồ đề tuệ! Có đúng thế chăng?
- Tâu, vâng!
- Thế sao ở một chỗ khác, khi thuyết giáo cho chư đệ tử, Đức Thế Tôn lại khuyên nên thực hành hạnh tinh tấn, tức là con đường sai lầm mà trước đây ngài đã chán nản, từ bỏ?
- Đại vương nói thế có chứng cứ gì không?
- Có chứ! Đức Thế Tôn có thuyết với đại ý như vầy: "Này chư tỳ khưu! Các ngươi hãy tinh tấn, hãy ra khỏi phe nhóm, đừng ở trong phe nhóm. Hãy là người tri túc, sống đời nhẹ nhàng. Hãy đi vào rừng, thọ đầu đà ở trong rừng hay tìm đến một cội cây nào đó. Hãy tinh tấn tiến tu chỉ tịnh, quán minh. Hãy dứt bỏ quân binh của diêm chúa. Hãy như voi chúa lớn sổ mạch (dậy tình) phá đổ tất cả nhà cửa, dũng mảnh tinh tấn để đạp nát thành lũy của ma quân. Dẫu trường hợp nào cũng phải thực hành tinh tấn, đừng bỏ tinh tấn cho đến lúc giác ngộ, giải thóat hẳn thôi!"
- Đúng là Đức Tôn Sư đã có thuyết như vậy.
- Cái đại nguyện tinh tấn ấy, cái siêng năng mãnh liệt ấy, khi hành đại khổ hạnh, chính Đức Thế Tôn đã thấy rõ nó có hại, không đưa đến yểm ly, ly tham, giác ngộ, Niết bàn nên ngài đã chán nản và từ bỏ. Vậy mà bây giờ ngài lại khuyên đệ tử nên thực hành theo sự sai lầm của mình! Than ôi!
- Đại vương đã hiểu sai đoạn kinh ấy rồi!
- Trẫm chưa hiểu ý của đại đức.
- Đại vương chưa hiểu thế nào là khổ hạnh, thế nào là tinh tấn! Chẳng lẽ nào tinh tấn và khổ hạnh lại giống nhau, hở đại vương?
-- Xin đại đức giải thích cho!
- Tâu đại vương! Tinh tấn dõng mãnh, cường liệt để thực hành chỉ tịnh và quán minh, nó rất khác biệt so với sự tinh tấn, dõng mãnh, cường liệt để thực hành khổ hạnh! Cũng là đại tinh tấn, nhưng hai sự tinh tấn ấy, dù có sự quyết tâm hạ thủ công phu tương tợ nhau, nhưng đối tượng thì lại hoàn toàn khác biệt nhau!
- Trẫm chưa hiểu.
- Tâu, khi tinh tấn để thực hành khổ hạnh, trong sáu năm lầm lạc, Đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: "Ta phải thực hành khổ hạnh cho thế gian này không ai có thể thực hành bằng ta, hơn ta! Ta phải phát nguyện cho đại tinh tấn tốt hơn nữa, bằng cách cương quyết thọ thực ngày một ít dần đi, phải giảm thiểu cho đến lúc không cần cả ăn, cả uống, cả đại tiểu tiện... và cả hơi thở nữa!". Và chính do đại tinh tấn khổ hạnh ấy mà Đức Thế Tôn sút giảm sức khỏe, tiều tụy thân thể... cho đến lúc mạng sống sắp lâm nguy! Sự hành thân hoại thể ấy chỉ đưa đến việc chấm dứt sự sống chứ không thể chấm dứt phiền não, giải thoát sinh tử khổ đau!
-
- Điều ấy thì trẫm đã có nghe.
- Sau khi từ bỏ đại tinh tấn khổ hạnh, Đức Phật thọ thực ngày một bữa, rồi khởi tâm đại tinh tấn quay sang đề mục chỉ tịnh và quán minh. Nhờ vậy ngài mới chứng đắc vô thượng Bồ đề tuệ. Nói cách khác, ngài từ bỏ khổ hạnh ép xác, chứ không phải từ bỏ đại tinh tấn, tâu đại vương! Với đại tinh tấn thì ai muốn chấm dứt khổ cũng phải thực hành y chỉ, tuân theo ! Vật thực nuôi mạng chúng sanh trong các cõi như thế nào, thì đại tinh tấn cũng nuôi mạng tuệ giác cho tất cả Chư Phật quá khứ, hiện tại , vị lai cũng y như thế ấy.
- Xin đại đức cứ giảng thêm.
- Vậy, tội không phải là tội của sự tinh tấn, mà là tội của khổ hạnh, ép xác, tâu đại vương!
- Vâng!
- Đức bồ tát muốn mau đắc thành Chánh Đẳng Giác mà ép xác khổ hạnh, cũng tương tợ như người đi đường muốn đến đích nhanh, cố gắng chạy, rán sức chạy cho đến lúc kiệt quệ. Muốn nhanh lại trở thành chậm vậy.
- Tại sao?
- Vì rằng, đến lúc kiệt lực, chân tay rã rời, nhấc không nổi thì làm sao mà đi được? Trái lại, có kẻ chạy bình thường, liên tục, đều đặn, biết duy trì hơi thở; thì tuy thấy chậm, còn ở đằng sau, nhưng sẽ đến đích nhanh hơn. Có phải thế không, đại vương?
- Vâng!
- Trường hợp người kia đến đích chậm hoặc kiệt lực nằm dài ở dọc đường... thì lỗi ở đôi chân, lỗi ở con đường, lỗi ở mặt đất hay lỗi ở đâu, đại vương?
- Thưa, lỗi do tâm nóng nảy muốn mau đến đích mà sanh ra. Lỗi do không biết duy trì sức lực mà làm cho kiệt lực.
- Đức bồ tát sáu năm khổ hạnh do thiếu trí tuệ mà ép xác cho đến kiệt lực cũng y như thế. Tội là do si mê ép xác khổ hạnh chứ không phải do tinh tấn, tâu đại vương!
- Thưa, vâng!
- Ví như một người mặc áo quần quá dơ bẩn, không biết cách giặt, không có thuốc tẩy lại đổ lỗi cho nước, có được không, đại vương?
- Nước vốn không có lỗi như thế nào thì tinh tấn cũng không có lỗi như thế ấy, đại đức!
- Một người nấu cơm bị khê, bị cháy, lại không tự trách mình mà đi đổ lỗi cho lửa, có được không, đại vương?
- Không thể do lửa được.
- Cũng là đại tinh tấn, nhưng biết sử dụng đại tinh tấn cho chỉ tịnh, quán minh thì được tuệ giác; còn sử dụng đại tinh tấn cho ép xác, khổ hạnh thì si mê chồng chất si mê, có được gì đâu! Đại vương đã thấu đáo vấn đề chưa?
- Bây giờ thì trẫm đã hoàn toàn lãnh hội rồi.
-
141. Tại sao có sự đắc quả nhanh, chậm khác nhau?
- Thưa đại đức! Đức Toàn-thắng-ma có dạy rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy phải biết sợ hãi luân hồi, phải thoát ra khỏi sự ràng buộc của cấu uế, dơ bẩn, phiền não. Phải thỏa thích trong pháp xa lánh cấu uế, tìm an lạc trong pháp xa lánh cấu uế!". Pháp ấy được gọi là Nippapanca. Trẫm không hiểu Nippapanca là gì?
- Tâu đại vương! Nippapanca dhamma là pháp nhằm thoát ly ra khỏi mọi nhơ bẩn, cấu uế của tâm; hàm chỉ bốn quả vị của bốn bậc thánh: Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na- hàm và A-la-hán quả.
-Thế Đức Đạo Sư muốn dạy bảo đệ tử phải tu tập để chứng đắc tứ quả thánh?
- Tâu, vâng.
- Nhưng rải rác chỗ này, chỗ kia, Đức Thế Tôn không dạy chứng quả ngay như thế; mà ngài dạy phải bố thí, cúng dường..., dạy phải học kinh, học kệ thi, học văn phạm, học túc sanh truyện, học phi thường pháp v.v..., thế là sao nhỉ?
- Tâu đại vương! Chư tỳ khưu phải học và hành tuần tự thứ lớp cho đầy đủ như thế, nhưng mục đích cuối cùng cũng đều phải đắc pháp Nippapanca giống nhau. Người đắc pháp Nippapanca ngay, thoát ly mọi cấu uế nhơ bẩn, được trong sạch không phải là một cái gì chợt đến một cách tức khắc; mà là do sự huân tu lâu đời, duyên ba-la-mật già dặn từ nhiều kiếp trước. Những kẻ ấy, trong đời này, sẽ đắc quả nhanh, không chậm trễ, chỉ một sát na tâm là họ nhập vào dòng thánh rồi. Trường hợp trái lại, những tỳ khưu đang còn phàm, chưa có huân tu sâu dày, duyên ba-la-mật chưa đủ, muốn đắc Nippapanca cũng phải học và hành tuần tự thứ lớp, tinh tấn mỗi khi mỗi ít, đến một lúc nào đó, dù chậm trễ, họ cũng sẽ đắc quả Thánh!
- Trẫm hiểu rồi, nhưng đại đức có ví dụ cụ thể nào về hai trường hợp ấy chăng?
- Tâu, vâng! Ví dụ có người nông dân cần mẫn, chăm lo làm ăn. Mấy năm trước ông ta khai phá một mảnh ruộng, làm hàng rào rất chắc chắn. Ngoài ra, ông ta còn siêng năng nhổ cỏ, thêm phân, thêm nước thường xuyên cho đám ruộng của mình. Đến mùa, đám ruộng ấy được bội thu, nuôi sống mình và gia đình... Tâu đại vương! Hạt gạo của người nông phu ấy, tức khắc được làm ra, nó có ngay, hay phải trải qua thời gian lâu dài?
- Thưa, họ phải tốn biết bao công sức, thời gian cùng sự chăm chuyên cần mẫn mới có được !
-
- Đúng là vậy. Lại có một người nông dân khác, quanh năm đói nghèo do tính chậm lụt, thiếu quyết tâm, ít siêng năng, chịu khó; luôn luôn than thở mình thiếu phước, đến nhà người ""nông dân giàu"" để vay gạo, nói rằng: ""Tôi thiếu gạo, anh dư gạo, hãy cho tôi vay gạo!"" Người kia đáp: ""Không ai là người thiếu gạo cả, chỉ tại anh làm biếng, không có chí, không có đầu óc, không biết siêng năng, chịu khó mà thôi!". "Vậy anh hãy dạy tôi!". "Hãy cầm lấy cái cuốc, vào ven suối làm một đám ruộng, rồi tuần tự làm những việc như tôi đãlàm, thời gian sau sẽ có gạo ăn!". Nguời nông dân nghèo nghe lời bạn dạy bảo, quyết tâm khởi lên, cầm lấy cái cuốc, chí thú, tinh cần...; thời gian sau, anh ta có đủ gạo ăn! Tâu đại vương! Người nông dân này cho ta một ví dụ về sự đắc quả chậm, người nông dân trước cho ta ví dụ về sự đắc quả nhanh; nhưng ai cũng phải trải qua thời gian khởi tâm, quyết tâm, chí thú, tinh cần cày bừa và gieo hạt. Có gạo ăn được ví cho Nippapanca, các công đoạn làm ruộng thì ví cho sự học và hành tuần tư, thứ lớp, tinh tấn mỗi ngày một ít, tâu đại vương!
- Vâng, thế đại đức còn ví dụ nào nữa không?
- Tâu, vâng. Ví như có hai người đi vào rừng để kiếm trái cây. Một người gan dạ dũng cảm, có trí. Một người nhác nhớm, lề mề, chậm chạp, không có gan lại thiếu trí. Người đầu tiên nhanh tay nhanh mắt, xông xáo tìm ra một cây nhiều trái ngon; bèn xắn gọn quần áo, lựa thế leo lên. Thế là anh ta hái được rất nhiều trái cây. Người thứ hai rất lâu sau mới tìm được cây có trái, thấy cây cao và thân cây to quá, anh ta sợ hãi không dám leo. Sau một hồi suy nghĩ bèn chặt cây rừng làm thang, bắt thang vào khi ấy mới leo lên được. Thế là anh ta cũng hái được trái nhưng mất thời gian hơn anh thứ nhất rất nhiều. Phàm việc tu hành, đắc quả nhanh chậm cũng y như thế. Người có trí, nhậm lẹ, chịu khó, có sức mạnh nội tâm, tinh cần, nhiều nỗ lực bao giờ cũng đắc quả sớm hơn người thiểu trí, người yếu đuối, đầy mặc cảm sợ hãi, thiếu tinh cần, chuyên niệm, thiếu nỗ lực huân tu, tâu đại vương!
- Vâng, trẫm rõ rồi.
- Lại nữa, ví như hai người cùng làm một việc giống nhau. Một người tự nguyện làm, hiểu công việc của mình. Một người thiếu tự nguyện, không biết rõ công việc của mình, nên phải được nhắc nhở, khuyên bảo; đôi khi phải cho họ bạc tiền, lắm lúc còn la mắng, đánh đập, kẻ kia mới thành tựu công việc được, nhưng lại chậm hơn rất nhiều. Tương tự như thế, kẻ có căn cơNippapanca và kẻ có căn cơ anavajja - tuần tự thứ lớp - giống như những ví dụ trên, không hai, không khác.
- Cảm ơn đại đức.
-
142. Về cư sĩ A-la-hán
- Thưa đại đức! Dường như đại đức có nói với trẫm rằng, một vị cư sĩ đắc quả A-la-hán trong ngày nào thì phải xuất gia ngay trong ngày ấy; nếu trong ngày ấy [Đôi nơi bảo là một tuần lễ.], vì một lý do nào đó mà không xuất gia được, thì vị ấy bắt buộc phải nhập Niết bàn. Điều ấy có đúng thế không ạ?
- Tâu đại vương! Hoàn toàn đúng như vậy.
- Họ có thể tự cạo bỏ râu tóc, mặc y cà sa, nghĩa là tự tu lấy; hay là phải cần có thầy tiếp dẫn, thầy hòa thượng tế độ, chứng minh?
- Không thể tự ý được, mà phải có thầy, tâu đại vương! Tự tu là trộm phẩm mạo, tăng tướng, cách tu ấy không có mặt trong giáo pháp của Đức Tôn sư!
- Thế có nghĩa là sau khi người cư sĩ đắc quả, các vị thầy tiếp dẫn, tế độ là những bậc có thần thông, tức khắc hiện đến và làm lễ xuất gia ngay cho người cư sĩ ấy chăng?
- Có thể có trường hợp ấy, tâu đại vương!
- Giả dụ họ đến muộn một, hai ngày không được sao?
- Dĩ nhiên là không được! Chính vị cư sĩ đắc quả phải đi tìm vị thầy tế độ cho mình ở trong vùng, ở trong trú xứ ấy. Nếu tìm không ra, đến lúc mặt trời lặn của ngày ấy, vị cư sĩ phải nhập Niết bàn.
- Đã đắc quả rồi mà tại sao còn nôn nóng chấm dứt sinh mạng như thế? Hay có lý do bí ẩn nào chăng?
- Tâu đại vương! Chẳng phải do nôn nóng, cũng chẳng phải có lý do bí ẩn nào. Phẩm mạo cư sĩ thấp thỏi quá, thật không xứng đáng với quả vị A-la-hán mà người ấy đã đắc, do vậy phải thay đổi phẩm mạo xúất gia. Chính phẩm mạo xuất gia mới tương ứng, xứng đáng với quả vị A-la-hán.
- Về lý do thì tạm thời trẫm chấp nhận kiến giải của đại đức, nhưng nếu có những ví dụ cụ thể để chứng minh, có lẽ dễ thuyết phục trẫm hơn, thưa đại đức.
- Vâng, bần tăng sẽ đưa ví dụ. Ví như có người vào buổi đói kém chẳng có vật thực để nuôi mạng, phải nhịn đói lâu ngày. Hôm kia có vị bá hộ thương tình cho người ấy ăn thỏa thích những món ăn thượng vị. Do không biết tiết độ, người ấy ăn một bụng căng, chất lửa không có đủ để tiêu hóa, cơ thể nhịn đói lâu ngày không chịu đựng nổi, người ấy bội thực mà chết. Tâu đại vương! Trường hợp ấy có nên bắt tội "vật thực" không?
- Vật thực không có tội gì, thưa đại đức!
- Thế sự chấm dứt sanh mạng của người kia là do nguyên nhân nào?
- Thưa, do nhịn đói lâu ngày, cơ thể quá suy yếu, không đủ lửa để tiêu hóa.
- Cũng vậy, tâu đại vương! Phẩm mạo cư sĩ tại gia quá suy yếu, quá thấp thỏi, thật không đủ sức tiêu hóa món ăn thượng vị - là quả vị A-la-hán tối thượng - nên bắt buộc người ấy phải xuất gia; nếu không xuất gia kịp thời, phải chấm dứt mạng sống bằng cách nhập Niết bàn thôi.
-
- Hay lắm! Ví dụ ấy có hình ảnh cụ thể, dễ nắm bắt lý nghĩa hơn.
- Ví như một lùm cỏ nhỏ, thật không đủ sức chịu đựng nổi một tảng đá lớn dằn lên trên.
- Vâng!
- Quả vị A-la-hán là tảng đá mà phẩm mạo cư sĩ chỉ là lùm cỏ nhỏ.
- Trẫm đã hiểu.
- Ví như một người bần tiện, hạ liệt, ngu si, mà người ta đặt để cho y một quả lớn - ngôi vua chí tôn chẳng hạn - thì sẽ xảy ra chuyện gì hở đại vương?
- Thưa, không khốn đốn, nguy hại đến cho y thì thế gian cũng loạn lạc. Không phát sinh lo âu, sợ hãi... thì kẻ khác cũng giết y, chấm dứt mạng sống của y để chiếm ngôi. Thiếu đức, thiếu tài, thiếu phước mà an ngự ở địa vị quá lớn là mầm mống của họa hại, diệt vong... thôi, thưa đại đức!
- Không phải lỗi do vương vị chứ?
- Vương vị không có tội gì! Chỉ tội do kẻ không xứng đáng với vương vị!
- Cũng thế, tâu đại vương! Quả A-la-hán không có tội gì, chỉ tội cho phẩm mạo cư sĩ không tương xứng, không xứng đáng với quả vị A-la-hán đó thôi!
- Hay lắm!
- Chính phẩm mạo xuất gia như kẻ có đức, có trí, có tài, nhiều phước báu, mới xứng đáng với quả vị A-la-hán. Phẩm mạo xuất gia có thể được ví như một bảo cái lớn rộng, có khả năng che chở cho quả vị A-la-hán, tâu đại vương!
- Sàdhu, lành thay! Thật chẳng có chỗ nào để mà hoài nghi nữa.
-
143. Tại sao bồ tát Loma Kassapa giết hại chúng sanh để tế lễ?
- Thưa đại đức Na-tiên! Có lần Đức Thế Tôn thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Vào thời quá khứ, Như Lai hành trì ba-la-mật không mệt mỏi, luôn luôn tinh cần, nỗ lực để bổ khuyết ba-la-mật cho chính mình. Một kiếp nọ, dù năng lực ba-la-mật của Như Lai còn non yếu, còn khiếm khuyết, đấy là kiếp làm người có tên là Avihe Dhaka - nhưng Như Lai cũng đã không lấn hiếp, đe dọa hoặc cướp đoạt mạng sống của bất cứ chúng sanh nào." Lời tuyên bố ấy của Đức Đạo Sư có đúng chăng, đại đức?
- Đại vương có trí nhớ rất tốt.
- Không dám. Bồ tát kiếp làm người có tên là Avihe Dhaka, tuy ba-la-mật còn non yếu, lại không hề giết một sanh mạng nào; nhưng sau đó, nhiều kiếp về sau, dĩ nhiên là ba-la-mật sung mãn hơn, lại đang tâm giết rất nhiều sanh mạng để cúng dường đại tế, là nghĩa làm sao, thưa đại đức?
- Xin đại vương nói cho rõ hơn.
- Vâng, đấy là kiếp bồ tát làm vị đạo sĩ tên là Loma Kassapa. Đạo sĩ vì nghe lời nàng Cinda Vatì đã giết hại rất nhiều chúng hữu tình dùng cho việc tế lễ. Điều này chứng tỏ gì? Chứng tỏ rằng, lời Đức Thế Tôn không như một. Đã không như một lại phơi bày sự thật hiển nhiên, rằng là, ba-la-mật ít lại không sát sanh, ba-la-mật nhiều lại sát sanh? Sự mâu thuẫn không thể lý giải này làm cho người học Phật đời sau như rơi vào mê lộ tối tăm, chẳng tìm đâu ra ánh sáng nữa. Mong đại đức chỉ giáo cho.
Đại đức Na tiên chợt mỉm cười:
- Câu hỏi của đại vương như một cái thòng lọng, nhúc nhích một cái là bị siết chặt vào cổ ngay! Hay lắm, chúng ta sẽ cố gỡ xem sao.
- Tất cả chỉ nhờ vào trí tuệ của đại đức.
- Không dám, bần tăng sẽ cố gắng cùng với đại vương xem thử lý do nó nằm ở đâu. Chắc đại vương biết rõ là bồ tát Loma Kassapa thuở ấy chưa đắc quả Thánh chứ?
- Dĩ nhiên là chưa đắc.
- Thế có nghĩa là vẫn còn dục ái chứ?
- Vâng.
- Và dục ái thì cho chí bậc thánh Tu-đà-huờn, Tu-đà-hàm vẫn còn bị chi phối, đến bậc thánh A-na-hàm dục ái mới hoàn toàn yên lặng.
- Vâng.
- Thế thì bồ tát Loma Kassapa bị dục ái chi phối mà sát sanh thì cũng là chuyện không lạ lùng lắm. Năng lực của dục ái, luyến ái đến độ cường liệt thì nó che mờ tất cả mọi thiện pháp, làm nguội tắt tất cả năng lực ba-la-mật! Vì yêu nàng Cinda Vatì, vì luyến ái, mê đắm nàng Cinda Vatì mà bồ tát Loma Kassapa đã phạm tội sát sanh, tâu đại vương!
-
- Trẫm nghe rằng, sát sanh có tám lý do:
Sát sanh do năng lực dâm dục;
Sát sanh do sân hận;
Sát sanh do si mê;
Sát sanh do ngã chấp;
Sát sanh do tham lam;
Sát sanh do nuôi mạng;
Sát sanh do ngu si, không có trí tuệ, không thấy tội, phước, lợi, hại v.v...;
Sát sanh do các quy luật tự nhiên.
Vậy thì bồ tát Loma Kassapa sát sanh là do một trong tám lý do thông thường ấy chăng?
- Nó là một trong tám lý do ấy nhưng cũng ở ngoài tám lý do ấy!
- Tại sao?
- Tâu, cũng là luyến ái nhưng luyến ái ấy quá cường liệt, quá mạnh mẽ đã che mờ hết tâm trí; hành động do năng lực luyến ái ấy chẳng khác gì hành động của người điên, tâu đại vương!
- Xin đại đức giải thích cho trẫm nghe.
- Vâng. Một người điên thì có dẫm chân lên một đống than đỏ rực cũng không sợ hãi, bắt rắn độc bỏ lên tay cũng không ngán, dù gặp voi sổ mạch (voi động dục) hung dữ hắn ta cũng có thể liều mạng bắt cỡi được. Biển cả sâu và lớn rộng không thấy mé bờ, người mất trí ấy cũng có thể nhảy ùm xuống và lội qua. Đối với các loại thú dữ như cọp, beo, tê giác, trâu rừng v.v..., y cũng có thể đến gần đùa chơi mà không sợ nguy hiểm. Cả một rừng cây gai chằng chịt hắn cũng có thể ung dung đi vào! Nói tóm lại, người điên chẳng sợ núi cao, vực sâu; chẳng hề thấy vật đáng nhờm gớm; chẳng hề biết mắc cở, hổ thẹn khi trần truồng trước mắt mọi người. Việc gì y cũng có thể làm được. Trong đầu người điên không có chuyện thiện ác, phải trái, an nguy, lạnh nóng, khôn dại, đúng sai, xấu đẹp, được mất, hơn thua, khen chê v.v...
Đạo sĩ Loma Kassapa của chúng ta khi thấy sắc thân nàng Cinda Vatì, tâm luyến ái phát sanh, lửa dục thiêu đốt; nên hành động của vị ấy chẳng khác gì hành động của người điên, tâu đại vương! Vậy đối với người điên hư hỏng tâm tính, đánh mất nhân cách; nếu có hành động nào sái quấy xâm phạm đến pháp luật quốc gia, đại vương sẽ xử tội như thế nào?
- Thưa đại đức, người điên nếu phạm tội tử hình, luật pháp của trẫm cũng không thể giết được. Dẫu phạm tội nặng thế nào, vì an nguy cho mọi người xung quanh, trẫm cũng chỉ bắt trói hoặc nhốt y lại là cùng.
- Đại vương không ghép vào tội tử hình, chỉ bắt trói hoặc nhốt lại thôi! Nhưng sau đó? Giả dụ người điên kia tỉnh lại thì đại vương làm sao nhỉ?
- Thì phải thả người ta ra.
- Thế đại vương có xét lại những tội lỗi mà y đã làm từ trước?
- Thưa, không thể xét lại được, hoàn toàn tha bổng.
Đại đức Na-tiên chậm rãi nói:
- Trường hợp đạo sĩ Loma Kassapa cũng y như thế đó, tâu đại vương! Khi lửa dục thiêu đốt, đạo sĩ làm những điều sai lầm, càn quấy giết hại loài hữu tình do năng lực nàng Cinda Vatì xúi giục. Đại vương không bắt tội người điên như thế nào thì cũng không nên luận tội đạo sĩ Loma Kassapa theo lý giải thường tình. Người điên sau khi hết điên, đại vương tha bổng, cho người ấy trở lại đời sống bình thường. Tương tự thế, đạo sĩ Loma Kassapa sau khi " hết điên", có "trí nhớ" trở lại, "tỉnh táo" trở lại; đã trở về với sinh hoạt tâm linh bình thương, đã tiến tu, đãđắc thiền và đắc ngũ thông, hết tuổi thọ được sanh vào cõi Phạm thiên.
- Ồ! hy hữu vậy thay!
- Người điên khôngthể luận phải trái, thiện ác, đúng sai... như thế nào, thì đạo sĩ Loma Kassapa khi bị lửa dục thiêu đốt, cũng không thể luận ba-la-mật non hay già, tâm từ ít hay nhiều, sát hay không sát...; chỉ coi là sự đột khởi điên loạn nhất thời, chẳng thể xác định phẩm hạnh hoặc tư cách trọn vẹn của một con người được.
- Vâng, vâng!
- Hãy dùng tuệ giác mà ngắm nhìn vấn đề, đại vương! Dùng đạo đức, luân lý của thế gian hay tôn giáo mà nhìn ngắm vấn đề sẽ đưa đến cục bộ, giới hạn. Dùng tuệ giác mà soi chiếu, đại vương sẽ tỏ tường, thông suốt, xuyên thấu vấn đề hơn, tâu đại vương!
- Thật là tri ân đại đức!
-
144. Tượng vương Chaddanta thì cung kính y cà sa - mà bồ-tát Jotipàla lại nhiếc mắng "sa môn trọc đầu"?
- Đại đức chắc nhớ chuyện voi chúa Chaddanta, là tiền thân của Đức Phật Thích Ca chứ?
- Đấy là chủ đề "cung kính y cà sa" mà đại vương sẽ nói chuyện hôm nay?
- Vâng.
- Vậy thì xin đại vương hoan hỷ kể chi tiết câu chuyện cho nghe, bần tăng chỉ nhớ đại lược.
- Cung kính chẳng bằng tuân mệnh, trẫm sẽ kể đây:
Bồ tát của chúng ta, một kiếp kia sinh làm Tượng vương, có tên là Chaddanta, ngài là voi chúa cai quản một đàn voi, thường gặp những sa môn mặc y cà sa đang hành thiền định hoặc lui tới trong khu rừng. Thấy màu vàng của y cà sa, tượng vương Chaddanta với trí nhớ tiền kiếp, biết đây là những bậc tu hành cao thượng nên hết sức cung kính. Tượng vương Chaddanta dạy bảo đàn voi, theo gương mình, quỳ xuống đảnh lễ.
Ngày qua tháng lại, có người thợ săn theo dấu đàn voi để săn ngà, thấy voi chúa và cả đàn voi cung kính lễ bái những vị sa môn mặc y cà sa vàng. Mưu kế nảy sinh, người thợ săn kiếm vải nhuộm vàng bằng nước chát, trùm lên người giả làm sa môn rồi tập ngồi thiền định dưới một cội cây to.
Hôm nọ, voi chúa và đàn voi đi qua, thấy vị "sa môn", đồng quỳ xuống đảnh lễ rất cung kính, cúi đầu, thụt lùi mấy bước mới tiếp tục lộ trình. Khi cả đàn voi đi khuất, chỉ còn con voi chậm chạp sau cùng; người thợ săn tay nhanh như điện, lấy ngọn giáo sắt, tẩm độc cực mạnh đâm chết con voi, thiêu hủy thịt, lấy ngà đem bán. Hành động ấy của gã thợ săn kéo dài chưa được bao lâu thì voi chúa đã khởi tâm nghi ngờ: "Dường như có sự thiếu vắng của một số con voi quen thuộc? Vậy thì một số voi đã mất, bị giết hại ở đâu và do đâu? Trên lộ trình kiếm tìm thức ăn, sự nguy hiểm có thể xảy ra tại nơi nào? Chỗ kiếm tìm thức ăn không có, những chỗ bước đi không có! Vậy thì phải bắt đầu từ chỗ quỳ xuống đảnh lễ các vị sa môn rồi bước đi! Sự nguy hiểm phải được quan sát từ đó!"
Sau khi suy nghĩ chu đáo, buổi sớm, tượng vương cho cả đàn voi đi trước, mình đi sau cùng. Trên đường đi, gặp sa môn y cà sa màu vàng, voi chúa và đàn voi đều quỳ xuống cung kính đảnh lễ như mọi hôm, nhưng không có gì xảy ra. Đến chỗ "sa môn" giả dạng, sau khi đảnh lễ, voi chúa cảnh giác đi sau cùng. Thấy voi chúa với sáu chiếc ngà vàng to lớn, thợ săn rất sung sướng nghĩ mình sắp giàu có đến nơi. Với động tác quen thuộc và rất chính xác, gã thợ săn nhích tay lao ngọn sắt tẩm độc ra. Lạ lùng làm sao, y đã nhanh mà chiếc vòi của voi chúa còn nhanh hơn. Khi mũi giáo vừa thò ra khỏi chiếc y màu vàng thì trọn vẹn thân thể và hai tay của tên thợ săn đã bị vòi voi quấn chặt rồi nhấc lên cao!
Giữa sát na ấy, khi voi chúa định quật nát thân thể gã thợ săn, màu vàng của chiếc y đã làm cho tâm của voi chúa chùn lại. Voi chúa nghĩ: "Y cà sa màu vàng là lá cờ chiến thắng, quý báu, cao thượng của chư vị A-la-hán, chư vị Chánh Đẳng Giác! Tuyệt đối ta không thể xâm phạm. Dẫu tên thợ săn này đã có tâm ác độc, đã giết hại đồng loại của ta, nhưng tội y làm thì y sẽ lãnh chịu. Một ngàn lần sanh mạng của ta dầu bị phanh thây, chặt đầu..., ta cũng không dám đụng chạm đến chiếc y cà sa màu vàng linh thiêng ấy."
Ý nghĩ đi liền theo hành động, voi chúa thay vì quật nát tên thợ săn, đã nhẹ nhàng đặt y xuống, thò vòi lấy ngọn giáo sắt bẻ vụn, quăng ra xa. Voi chúa nhìn tên thợ săn đang co rúm, da mặt tái xanh đầy sợ hãi, bằng cái nhìn nghiêm khắc, rống to một tiếng đầy uy vũ, vang động cả rừng già rồi bỏ đi!
-
Chuyện voi chúa cung kính y cà sa là vậy đó, tâu đại đức. Khi kể, trẫm có thêm bớt một tí cho nó liền lạc câu chuyện.
Nghe xong, đại đức Na-tiên nói với giọng cảm khái:
- Thật là một bài thơ đẹp và hùng tráng biết bao!
- Quả là vậy! Nghĩa cử ấy thật là tuyệt vời!
- Tâu, từ câu chuyện ấy, đại vương sẽ dẫn đến nội dung gì?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười:
- Vâng! Cũng là bồ tát mà kiếp ấy voi chúa kính trọng y cà sa, kính trọng phẩm mạo xuất gia của các bậc sa môn; nhưng kiếp khác, khi làm thanh niên bà-la-môn, có tên là Jotipàla, lại nói lời thô bỉ xâm phạm đến Đức Phật Kassapa, như nguyền rủa Đức Phật Kassapa là "sa môn đầu trọc". Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ hai khía cạnh và hai ý nghĩa khác nhau, chỗ thì tôn trọng, chỗ thì phỉ báng trong hai tiền thân của Đức Phật. Xin đại đức giải minh mối nghi cho!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Vâng, nhưng xin đại vương vui lòng cho bần tăng nghe câu chuyện "sa môn đầu trọc" ấy chứ? Ít ra cũng có hoàn cảnh, bối cảnh như thế nào? Nhân và quả của sự việc như thế nào chứ?
- Vâng, trẫm sẽ kể đây:
Thuở Đức Phật Kassapa tại thế, ngài có một Thánh đệ tử cư sĩ làm nghề thợ gốm. Ông ta có đức tin bất động với Tam Bảo, thường hay cúng dường đến Đức Phật Kassapa và Tăng chúng. Ông ta cũng thường hay dẫn dắt ngoại đạo đến nghe Pháp, quy y với Đức Phật. Trong số ấy có thanh niên Jotipàla, là một thanh niên có học thức, có trí nhưng cứng đầu. Không biết bao nhiêu lần, người thợ gốm tìm cách dẫn thanh niên Jotipàla đi nghe thuyết pháp, nhưng thanh niên ấy đều từ chối, nói rằng: "Đến sa môn trọc đầu xấu xa ấy mà làm gì, ta không đi."
Hôm kia, rủ bạn đi tắm sông, gần tịnh xá của Đức Phật Kassapa; người thợ gốm lựa thế nắm chỏm tóc của thanh niên Jotipàla, kéo và lôi bằng sức mạnh, buộc Jotipàla đến chỗ Đức Phật nghe pháp cho bằng được. Thanh niên Jotipàla, ban đầu, chưởi toáng lên, luôn miệng phỉ báng "sa môn đầu trọc" và người bạn thợ gốm; nhưng sau đó, y chợt tỉnh: "Bạn ta vốn là người từ tốn, ôn nhu, đức hạnh; chưa bao giờ bạn ta có lời nói hay hành động thất lễ với một đứa con nít, mà sao bây giờ lại tỏ thái độ như vậy đối với ta? Lại nữa, bạn ta biết rõ ta là dòng dõi bà-la-môn cao quý, thượng đẳng; còn bạn ta thuộc vào giai cấp thợ thuyền, hạ liệt? Chắc phải có lý do gì bức thiết, quan trọng, bạn ta mới nắm chỏm tóc ta, kéo và lôi bằng sức mạnh, vô lễ đối với ta như vậy."
Thưa đại đức! Đấy là câu chuyện, là lý do, là bối cảnh phát sanh từ lời phỉ báng. Như vậy chứng tỏ gì? Chứng tỏ những câu nói rải rác trong kinh điển: "Hễ vị bồ tát sinh trong kiếp nào cũng đều cung kính Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng"... là sai! Câu chuyện kia quả là một minh chứng hùng hồn vậy.
- Đại vương kết luận hơi sớm. Câu chuyện thanh niên Jotipàla dường như chưa chấm dứt mà.
- Vâng. Sau khi nghe pháp xong, trí tuệ phát sanh, thanh niên Jotipàla quay sang bạn, cất giọng ngạc nhiên: "Với những thời pháp cao siêu, vi diệu như thế này, tôi không hiểu tại sao, cho đến bây giờ bạn chưa xuất gia trong giáo pháp của Đức Đạo Sư!" Rồi sau đó thanh niên Jotipàla xuất gia, không bao lâu, đắc thiền và thắng trí, cuối đời, mãn thọ, hóa sanh vào phạm thiên giới.
Đại đức Na-tiên chợt nói:
- Như vậy, chứng tỏ gì? Chứng tỏ từ thâm sâu, thanh niên Jotipàla đã có sẵn căn cơ vững chắc, có đức tin, sự kính trọng Tam Bảo không chỉ ở bình diện cạn cợt của năm bảy kiếp sống. Còn sự phỉ báng ở đầu môi, như "sa môn đầu trọc, xấu xa đê tiện v.v..." thì còn phải xét ở thói quen, sự tạp nhiễm, truyền thống gia tộc, phương cách giáo dục...; nghĩa là trong bối cảnh toàn diện mà thanh niên Jotipàla đang sống, khi ấy may ra mới đủ thẩm quyền xác định tư cách trọn vẹn của một con người. Tâu đại vương! Đại vương đã có cái nhãn quan tổng thể ấy chưa?
-
Đức vua Mi-lan-đà cảm thán:
- Đại đức quả là thông tuệ, mở rộng tầm nhìn cho trẫm. Tuy nhiên, lập ngôn của đại đức quá cô đọng, hãy từ từ mở phơi vấn đề cho trẫm thấy, thì trẫm cảm ơn lắm vậy!
- Thật là hân hạnh khi được bậc chí tôn tán thán. Bần tăng xin mạo muội đưa ra vài câu hỏi, đại vương hiểu như thế nào thì xin đáp cho thế ấy.
- Thưa, vâng!
- Một gia đình bà-la-môn giàu có, sang trọng như gia đình thanh niên Jotipàla thời đó, sẽ nói về giòng giống của mình, sẽ dạy cho con cái của họ như thế nào?
- Thưa, sẽ nói rằng, họ là chủng tộc cao quý, thượng đẳng, sanh ra từ miệng đấng Phạm thiên; là người cầm muỗng trong các chiếu tiệc tùng, là con mắt sáng của thế gian; là tập cấp tôn quý đứng đầu xã hội, cho chí giai cấp quý tộc, vua chúa cũng phải cúi đầu, cung kính, lễ bái, cúng dường. Các tập cấp trong xã hội phải có bổn phận cung phụng tất cả mọi nhu cầu ăn ở cùng tiện nghi sinh hoạt. Họ là trí tuệ, là tri thức của loài người; chỉ có họ mới đủ tư cách thiêng liêng nói chuyện, trao đổi với thần linh v.v...
Với truyền thống như thế, với sự giáo dục như thế, thanh niên Jotipàla hít thở, ăn nói, đi đứng... mang sự hãnh diện và tự hào của một tập cấp cao quý lâu đời. Vậy thì từ cửa miệng của thanh niên Jotipàla, khinh chê tập cấp khác, hoặc phát ngôn câu "sa môn đầu trọc, xấu xa, đê tiện" là lời phát ngôn bình thường hay do ác khẩu, ác ngữ?
Đức vua Mi-lan-đà có vẻ suy nghĩ mới đáp:
- Nói rằng "ác khẩu, ác ngữ" thì hơi vội quy kết, võ đoán. Có lẽ là do thói quen, tự hào của tập cấp mình mà sinh ra thế!
- Vậy là đại vương đã tự trả lời. Cái tâm của Jotipàla có lẽ không do định kiến sâu dày, không do ác kiến, chỉ là sự phát ngôn bừa bãi ở bên ngoài mà thôi.
- Vâng!
- Nước của trái amata vốn ngọt, nhưng nếu trộn với nước rau má nhiều, nước ngọt kia sẽ trở nên đắng. Nước rau má đắng, nhưng nếu trộn nhiều nước amata ngọt, nước đắng kia sẽ trở thành ngọt. Thanh niên Jotipàla bản chất tốt, hạt giống Bồ đề lâu đời ở trong tâm, nhưng một mình sống giữa tập cấp bà-la-môn, sự lây nhiễm hoặc mất cả mùi vị cũng là điều dĩ nhiên vậy.
- Vâng!
- Nước nhiều, lửa phải thua nước. Lửa nhiều, nước phải thua lửa.
- Vâng!
- Người có tâm lành, nhưng thường hay thân cận, giao tiếp quá nhiều với bạn ác, thì tâm lành, tốt kia lần hồi sẽ bị biến chất. Người có tâm ác, nhưng bạn bè, gia đình, quyến thuộc đều là người hiền lương, thì không bao lâu, kẻ có tâm ác kia sẽ được cảm hóa.
- Thưa, vâng!
- Thanh niên Jotipàla dẫu tu tập nhiều đời, nhưng trí tuệ chưa già dặn, chàng lại còn non trẻ; nói năng đi đứng, hiểu biết... đều bị uốn nắn theo đức tin của ngoại giáo, tà kiến. Chúng ta có thể nào quy chụp thanh niên Jotipàla là ác khẩu, ác ngữ, sân tâm, ác tâm, nói lời thô bỉ, mạ lỵ với định kiến sâu dày được chăng?
- Thật không thể.
- Khi thanh niên Jotipàla còn một mình, nghe pháp, chàng tức khắc xuất gia, như vậy chứng tỏ gì? Chứng tỏ rằng trái amata ngọt đã trở lại nguyên trạng trái amata ngọt; chàng đã trở lại với căn cơ, tâm tuệ vốn có sẵn từ nhiều kiếp trước.
- Vâng!
- Đến đây ta có thể kết luận rằng: tự thâm sâu, chàng Jotipàla vẫn cung kính, tôn trọng Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, được không hở đại vương?
- Kết luận ấy không hời hợt, không vội vã, không nông cạn chút nào!
- Cảm ơn đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà sảng khoái, cười ha hả.
-
145. Về cái nhà không mái của người thợ gốm?
- Thưa đại đức! Chuyện của người thợ gốm, Thánh đệ tử cư sĩ của Đức Phật Kassapa vẫn chưa xong ạ!
- Đại vương cứ hỏi! Chẳng lẽ đại vương có những hoài nghi nào đó liên quan đến vị Thánh cư sĩ này chăng?
- Thưa, vâng!
- Chuyện ấy ra sao, đại vương cứ kể ra và cứ đặt câu hỏi, hy vọng rằng bần tăng sẽ góp được một vài ý kiến chăng!
Đức vua Mi-lan-đà bắt đầu kể:
- Trẫm có nhớ rằng, người thợ gốm có tên là Ghàtikàra, sống đời cư sĩ nhưng giữ giới luật của bậc Thánh. Vị ấy tuy làm thợ gốm nhưng không dám tự tay đào đất lấy sét vàng, sét trắng. Vị ấy đã phải bỏ nhiều thời gian đi từ cánh đồng này sang cánh đồng khác tìm những hang, những lỗ do chuột, chồn, cáo đào, bới vương vãi ra. Vị ấy chỉ dùng loại đất sét ấy về lọc mịn, nhồi, nắn thành thau, chậu, nồi, chén, bát... rồi đặt vào lò nung, sau đó đem bán cho mọi người. Vì giữ giới luật của bậc thánh, vị ấy không nhận tiền, vàng, bạc hoặc cất giữ tiền, vàng và bạc; chỉ nhận và trao đổi theo giá trị của mặt hàng để lấy ngũ cốc, rau cải, muối, vải vóc v.v... Bằng cách sống và làm việc như vậy, vị ấy nuôi mình, nuôi cha mẹ mù lòa cùng hộ độ Đức Phật Kasspa và Tăng chúng. Đặc biệt, vị Thánh cư sĩ luôn đặt bát cho Đức Phật Kassapa vào mỗi buổi sáng.
Hôm kia, vì công việc đi tìm đất sét khó khăn, xa xôi, vị Thánh cư sĩ phải đi rất sớm. Từ khi sao mai còn tinh rạng trên bầu trời, vị Thánh cư sĩ đã lo cơm canh và nước uống cho cha mẹ, lại còn chuẩn bị chu đáo phần để bát cho Đức Phật theo lệ thường.
Vị Thánh Ghàtikàra dặn lại với cha mẹ mù lòa:
- Thưa cha mẹ! Sáng nay con không thể tự tay đặt bát cho Đức Thế Tôn, thật là có lỗi, nhưng con tin là Đức Thế Tôn hiểu lòng dạ của con. Vậy thì khi cha mẹ nghe tiếng "đằng hắng" ở nơi cửa - nhất định đấy là Đức Phật - thì cha mẹ sẽ thưa lại với ngài như sau: "Bạch Đức Thế Tôn! Con trai của con đã đi vắng, nhưng đứa con trai của con vẫn mong muốn cúng dường vật thực vào mỗi buổi sáng. Vậy xin Đức Thế Tôn hoan hỷ, hãy tự ý đi vào bếp; thức ăn khô, thức ăn nước, con của con đã đậy đằng sẵn ở trong cũi, cơm trộn sữa, con của con đang để sẵn ở trong chảo."
Và quả đúng, sau đó, chuyện xảy ra y như vậy. Đức Thế Tôn Kassapa chẳng chấp nhất gì, đi vào bếp và tự tay đổ cơm và canh vào bát cho mình. Người cư sĩ thánh thiện cùng cha mẹ mù lòa của vị ấy sung sướng, hỷ lạc vô cùng.
Lại hôm khác, mưa xuống, tịnh thất của Đức Phật bị dột rất nặng, chẳng có chỗ nào khô ráo để Đức Thế Tôn an ngự. Ngài nói: "Này chư tỳ kheo! Hãy đi tìm tranh hoặc cỏ để lợp lại cốc cho Như Lai. Hãy đến nhà cư sĩ Ghàtikàra xem sao!" Khi các vị tì kheo đi về, Đức Phật hỏi: "Thế nào, ở đấy có tranh hoặc cỏ không?" Chư tỳ kheo thưa: "Dạ có, nhưng nó ở trên mái!" Đức Thế Tôn phán: "Cứ có tranh là được, bất kỳ ở đâu, hãy lấy tranh ấy về!"
-
Vâng lời Đức Phật, chư tỳ kheo đến nhà cư sĩ Ghàtikàra, leo lên mái và gỡ tranh ra. Hôm ấy, cư sĩ đi vắng. Cha mẹ mù lòa của ngài cư sĩ, nghe tiếng người xôn xao, với tiếng tranh bị gỡ ở trên mái, bèn ngạc nhiên hỏi: "Các người là ai?" "Thưa, chúng tôi là tỳ kheo!" "Các vị làm gì vậy?!" "Thưa, cái cốc của Đức Thế Tôn bị mưa dột, chúng tôi gỡ tranh này về lợp lại cái cốc cho Đức Thế Tôn!"
Cha mẹ mù lòa của cư sĩ Ghàtikàra nghe vậy, hỷ lạc dâng khắp đầy người, rối rít nói: "Vậy là tốt, vậy là có phước báu lắm, vậy các ngài hãy gỡ đi, cứ gỡ hết đi, về lợp lại tịnh thất cho Đức Thế Tôn".
Người cư sĩ thánh thiện đi công việc về, thấy nhà trống không, chẳng có mái che, bèn hỏi: "Tại sao cái nhà toang hoác, thấy trời vậy, thưa cha mẹ?" Cha mẹ cư sĩ kể lại. Thế là hỷ lạc dâng khắp đầy trong tâm vị cư sĩ suốt một tuần mới chịu tan đi.
Câu chuyện kể đến ngang đây, Đức vua Mi lan đà ngưng hơi nghỉ một lát. Đại đức Na tiên tiếp lời:
- Thế là bắt đầu hôm ấy, cái mái nhà trống không ấy của ngài cư sĩ, mưa nắng gì cũng không lọt vào được, suốt ba tháng như thế?
Đức vua gật:
- Đúng vậy. Và các vấn đề, những mối nghi cũng bắt đầu từ đấy.
- Đại vương cứ nói!
- Nước mưa hoặc nắng không thể lọt vào nhà suốt trong ba tháng hẳn là điều phi thường, nhiệm mầu, lạ lùng! Ôi! oai lực của vị cư sĩ kia quả là to lớn! Cũng phải thôi! Người cư sĩ kia có ngũ giới trọn vẹn, có bát quan trai giới tuyệt hảo, lại còn có thêm giới luật của bậc thánh. Ngoài ra, ông ta có thiện căn sâu dày, hiếu thảo phụng sự nuôi dưỡng cha mẹ mù lòa, hộ độ Đức Phật và Tăng chúng, có đức tin trong sạch, bất thối với Tam Bảo, với thiện pháp... Người như thế thì phước báu như thế. Nhân như vậy thì quả phải thù thắng. Nhà không phải lợp bằng cỏ tranh bình thường mà rõ ràng là được lợp bởi giới, bởi đức tin thuần khuyết, bởi công đức cao vợi, bởi tâm hiếu thảo, bởi sự cúng dường không mệt mỏi! Trên thế gian này chẳng ai có oai lực để so sánh bằng...
- Đại vương cứ nói tiếp.
- Vâng, cho chí Đức Thế Tôn Kassapa cũng chẳng có oai lực được như thế, mưa dột mái phải kiếm tranh lợp lại như mọi người trong thế gian này? Thưa đại đức! Đấy là những câu hỏi của trẫm, những mối nghi của trẫm vậy!
- Nói tóm lại, đại vương muốn hỏi: "Tại sao oai lực của Đức Thế Tôn không bằng oai lực của vị Thánh đệ tử?"
- Vâng, vâng!
- Và, tại sao, Đức Phật Kassapa lại vô ngại đến độ, đi vào bếp nhà người ta, tự ý lấy cơm canh đổ vào bát của mình?
- Vâng, vâng!
Đại đức Na-tiên im lặng giây lát:
- Tâu đại vương! Về oai lực chư Phật thì quả là vô biên giới, vô hạn lượng, vô hạn định, không có mé bờ. Đức Phật là tối thượng trong tam giới, là thầy của chư thiên và nhân loại, không có oai lực nào trên thế gian khả dĩ so sánh với oai lực của ngài được. Cốc của Đức Phật bị dột, thế ra ngài sợ bị dột ư? Ngài sợ nước ư? Không phải thế đâu! Hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn nước ấy; hằng ngàn hằng triệu mưa, nắng, gió ấy... cũng chẳng thể làm gì ngài được đâu! Núi Tu di vẫn bất động trước cơn gió hung bạo, cuồng nộ thổi trăm chiều và cho dù sức mạnh của trăm ngàn cơn gió ấy cọng lại, núi Tu di vẫn không lay chuyển.
-
Ví như biển cả sâu thẳm và mênh mông, hằng trăm hằng ngàn con sông Hằng tuôn đổ vào, không vì thế mà biển cả đầy hơn. Trái lại, hằng trăm, hằng ngàn con sông Hằng, hằng ngày rò rỉ nước, không vì vậy mà biển cả vơi đi chút nào. Núi Tu di và biển cả được ví như đức lớn của Đức Phật vậy, nó ở ngoài và ở trên mọi oai lực, không có oai lực phi thường nào đụng đến ngài được. Huống hồ là oai lực của vị cư sĩ! Huống hồ là các oai lực của tự nhiên như nắng, mưa, gió, bão... tâu đại vương! Có lẽ là đại vương chỉ giả vờ hỏi khó bần tăng đấy thôi!
- Không dám! Cách giải thích của đại đức như thế đã tạm ổn, tuy chưa có minh chứng cụ thể. Đức Phật nhập diệt lâu rồi, chúng ta chỉ còn thấy oai lực ấy hiện hữu trên ngôn ngữ và lý luận. Ở đấy cần phải có đức tin mới giải tan vấn đề được, phải vậy không, đại đức?
- Đúng thế. Và bần tăng biết, bần tăng có đức tin ấy.
Đức vua Mi lan đà cười xòa:
- Trẫm cũng có, đại đức chớ có lo! Vậy còn mối nghi thứ hai và thứ ba?
- Tâu, việc dâng cúng vật thực thành tựu là do ở tâm, ở tác ý quyết định. Chính Đức Phật Kassapa biết tác ý kính thành, trong sạch của người cư sĩ, nên đã vô ngại đi vào bếp. Nhờ vậy, người cư sĩ và cha mẹ của người cư sĩ sẽ hoan hỷ hơn. Vì hoan hỷ nên phước báu sẽ lớn hơn. Giúp cho chúng sanh nhiều phước báu, tạo thêm duyên cho chúng sanh biểu hiện tấm lòng, tăng trưởng đức tin, không là việc đáng làm sao, hả đại vương!
- Trẫm đồng ý với kiến giải này.
- Việc gỡ mái nhà cũng y như thế. Đức Thế Tôn biết gia đình ấy sẽ sung sướng, hỷ lạc; và niềm hỷ lạc sẽ đến cho họ cả tuần lễ, nên ngài mới làm. Chuyện ấy là thường tình thôi. Ví như đại vương là bậc cao quý, tự đến nhà một bề tôi trung thành, thân tín, là niềm hãnh diện cho người bề tôi ấy. Giả dụ đại vương lấy ở nhà ấy một vật gì, người bề tôi ấy hẳn là sung sướng lắm. Có phải thế không ạ?
- Vâng.
- Có người còn hỏi: "Tại sao Đức Phật không sử dụng oai lực thần thông để che kín mái nhà của mình? Thảng hoặc, sai Đế thích hoặc Tứ đại thiên vương bảo thần mưa, thần nắng đừng có phạm đến mái nhà?" Đại vương có muốn trả lời điều này chăng?
- Thưa, không cần thiết. Thần thông là thế gian pháp, bất đắc dĩ chư Phật mới sử dụng. Khi các câu hỏi ở trên đã thông rồi thì các điều còn lại, trẫm sẽ tự giải nghi cho mình. Làm phiền đại đức vậy là đã quá nhiều. Chư Phật độ người là quan trọng, biểu diễn thần thông phép lạ là việc làm không thích đáng vậy.
- Cảm ơn đại vương đã thông hội vấn đề nhặm lẹ.
- Thưa, cũng thường thôi!
-
146. Tại sao có lúc Đức Phật xưng mình là bà-la-môn, có khi xưng mình là vua?
- Thưa đại đức! Bà-la-môn là giai cấp tu sĩ ngoại đạo, tôn thờ thần linh, có gia đình hoặc xuất gia, thuộc về giáo phái tà kiến... có phải thế không ạ?
- Tâu, vâng!
- Thế sao Đức Đạo Sư tối thượng của chúng ta, đôi chỗ lại tự xưng mình là bà-la-môn, ví dụ như ngài nói: "Như Lai là một bà-la-môn, cũng đi trì bình khất thực, xin cơm của thí chủ để nuôi mạng...", điều ấy có đúng chăng? Có cần thiết phải hạ mình như thế chăng? Ngài không ngại thế gian hiểu lầm chăng?
- Tâu đại vương! Đức Phật tự xưng mình là bà-la-môn, điều ấy có thật, chẳng phải là sự hạ mình, chẳng phải là đề cao một giáo phái ngoại đạo. Đấy là cách nói chuyện thân mật, gần gũi của Đức Phật nhằm hóa độ có hiệu quả mọi tầng lớp trong xã hội.
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Khi nói chuyện với người nông dân, Đức Đạo Sư của chúng ta sẽ nói: "Này người nông phu! Như Lai cũng là một nông dân, Như Lai cũng cày, cũng cuốc, cũng bừa, cũng gieo mạ! Cày bừa ấy là đức tin, tinh tấn, gieo mạ ấy là những hạt giống thiện pháp. v.v..." Khi nói chuyện với một thương gia, Đức Thế Tôn sẽ nói: "Này người thương gia, Như Lai cũng làngười đi buôn, Như Lai có tiền bạc, Như Lai duỗi ngựa đường xa, Như Lai mua những món hàng chỗ này chỗ kia! Tiền bạc của Như Lai là tín, là giới; ngựa của Như Lai là tinh tấn v.v..."
Đại vương nghĩ thế nào, với cách nói chuyện như vậy, dẫn đề như vậy, sự thuyết phục, hóa độ cụ thể, có dễ dàng, có tạo thêm sức mạnh hay chăng?
- Chắc chắn thế rồi!
- Lại nữa, tâu đại vương! Trường hợp ngài xưng mình là bà-la-môn còn có tính hóa độ sâu sắc hơn thế!
- Trẫm xin rửa tai để lắng nghe.
- Đại vương nên hiểu rằng, bà-la-môn vào thời Đức Phật tại tiền, đã thoái hóa, đã biến chất, đã suy đồi, đã phản bội lý tưởng ngàn xưa của tiền nhân họ. Kinh sách cổ xưa của bà-la-môn nói về giới hạnh, tu tập, thiền định... là để thực hành con đường nhằm có thể đến cọng trú với phạm thiên. Phạm thiên là cảnh giới cao quý, thanh tịnh, chói sáng; nơi đã thoát ly mọi ô nhiễm, cấu uế của ngũ trần dục giới. Đại phạm thiên, vị vua của cõi trời này có rất nhiều oai lực nên bà-la-môn giáo rất ngưỡng vọng, tôn thờ.
Đại vương nên biết rằng, trong tiếng Phạn, phạm thiên là brahmà, và bà-la-môn là brahamano (brahamana). Vậy một brahmano muốn đuợc gọi là một brahmano thì phải thực hành con đường đi đến cõi brahmà; con đường ấy được gọi là brahmacariya, tức phạm hạnh. Chữ "phạm hạnh" mà Đức Phật thường dùng là để chỉ đến giới hạnh cao thượng của hàng ngũ xuất gia.
Tâu đại vương! Vậy một bà-la-môn chơn chính vốn rất cao quý, cao thượng chứ không phải tầm thường đâu. Đức Phật rõ là muốn hóa độ những người bà-la-môn trở về với ý nghĩa bà-la-môn đích thực của mình, chứ không phải bà-la-môn thoái hóa, nhãn hiệu, thiếu thực chất, xa cội nguồn, sống đời lợi dưỡng, xa hoa trong truyền thống tập cấp của họ.
-
- Hay lắm! Bây giờ trẫm mới được hiểu. Khi Đức Phật nói: "Như Lai cũng là một bà-la-môn..." tức là muốn nói đến bà-la-môn chơn chính ấy.
- Vâng!
- Xin đại đức cho nghe thêm một số đức tính cao thượng của bà-la-môn!
- Như đại vương đã hiểu, một người bà-la-môn xuất gia chơn chính phải lấy việc khất thực làm phương tiện nuôi mạng, không được nuôi mạng bằng buôn bán, các nghề nghiệp, xem thiên văn, địa lý, bói toán, tử vi, bốc xăm, xem hướng nhà... để lấy tiền của thiên hạ. Khi đi khất thực phải giữ tâm bình đẳng, thanh tịnh trước người giàu, kẻ nghèo, vật thực ít hay nhiều, ngon hay dở. Phải chánh niệm, tỉnh giác, khoan thai; nuôi dưỡng tâm từ, tâm xả v.v... Tâu đại vương, đi khất thực nuôi mạng như vậy có được gọi là cao thượng chăng?
- Rất là cao thượng.
- Thứ hai, nếu được gọi là bà-la-môn thì bà-la-môn ấy phải nuôi dưỡng đức tin trong sáng cho mọi người bằng cách sống đời xuất gia phạm hạnh; phải có kiến thức về pháp học để tiêu trừ nạn vấn, nghi nan cho nhiều người. Đức Thế Tôn là bậc thầy trong tam giới, ngài phải phá nghi cho nhân loại, Đế thích, phạm thiên, diêm chúa, dạ xoa, a tu la. v.v...
- Ôi! Cao quý thay!
- Thứ ba, bà-la-môn phải sống đời dứt bỏ, xả ly mọi bất tịnh trần cấu dục uế; phải cô đơn một mình như loài tê giác trên lộ trình ấy, chẳng có ai là bạn, chỉ có mình tự giải quyết vấn đề của chính mình. Đức Thế Tôn cũng chỉ đơn độc một mình, dứt bỏ, xả ly mọi bất tịnh trần cấu của cả ba cõi; giải thoát sanh già bệnh chết, tận tuyệt vô minh, phiền não; chiến thắng tất cả ma quân để đến nơi vô sanh bất diệt!
- Trẫm hiểu rồi.
- Thứ tư, một bà-la-môn chơn chính luôn luôn nuôi dưỡng thiện pháp, sống và hành theo thiện pháp, còn Đức Thế Tôn thì đã đạt đến nơi toàn thiện.
Thứ năm, một bà-la-môn chơn chính phải thông hiểu Tam phệ đà, giữ gìn truyền thống tốt đẹp lâu đời về giới hạnh, về kỷ luật, về kinh điển, về giáo dục... rồi truyền lại cho thế hệ hậu lai. Đức Thế Tôn cũng y như thế... trong việc dạy dỗ pháp học, pháp hành đến cho tứ chúng; chế định luật giới cho mỗi chúng, không mệt mỏi giáo huấn người, trời, Đế thích, phạm vương, a tu la, dạ xoa v.v...
Thứ sáu, bà-la-môn chuyên tâm về thiền định, Đức Phật cũng chuyên tâm về thiền định. Khi muốn nghỉ ngơi, Đức Phật thường trú định phạm thiên, tịnh cư!
Thứ bảy, bà-la-môn hằng biết rõ sự thực hành để đi đến các cảnh giới cao cả; đâu là cõi nhỏ cảnh giới cao cả, đâu là cõi lớn cảnh giới cao cả. Đức Thế Tôn cũng hằng biết như thế, nhưng lại mênh mông và vô lượng hơn nhiều.
- Trẫm biết rõ.
- Vậy, danh hiệu bà-la-môn ấy chẳng phải do sự tôn xưng của Phật phụ, Phật mẫu, thượng tộc Thích ca vương, đại thần, quân binh, bằng hữu v.v... cũng chẳng phải do sự tôn xưng của chư thiên, long vương, dạ xoa... Đức Đạo Sư là bậc Toàn thắng ma, là bậc Thập lực tuệ, có sức mạnh vô úy, tối thượng, ở trên và ở ngoài ba cõi, thật chẳng có sự tôn xưng nào xứng đáng hoặc xứng danh được. Chí đến mười hồng ân tôn xưng ngài cũng chưa đủ, huống hồ là danh hiệu bà-la-môn, dẫu là cao quý nhưng cũng chỉ thực hành con đường phạm hạnh (brahmacariya) để đi đến cõi phạm thiên, đại phạm thiên - là cảnh giới nhỏ, là học trò của ngài mà thôi vậy.
-
- Vâng, quả đúng như vậy! Bà-la-môn là danh hiệu khả dĩ để đối thoại, đàm thoại... với chúng bà-la-môn để họ trở về được với phẩm hạnh bà-la-môn chơn chính của mình.
- Đúng thế! Là phương tiện giáo hóa ở một xã hội bà-la-môn giáo thịnh hành.
- Thưa, vâng! Vậy danh hiệu ấy trẫm đã hiểu rồi, nhưng còn danh hiệu vua? Có lần Đức Thế Tôn nói rằng: "Này đại vương, Như Lai cũng là vua, cũng là người nâng đỡ mười vương pháp." Điều này được hiểu ra sao? Trong mười hồng ân không có, vậy ta phải hiểu cách hiểu bà-la-môn sao?
- Đúng thế! Đại vương là bậc thông tuệ, ngài có thể từ danh hiệu bà-la-môn mà giải thích về danh hiệu vua do Đức Phật tự xưng, về nhân và quả của nó, được chăng?
- Có thể được. Nhưng có chỗ nào không khế hợp hoặc thiếu sót, xin đại đức bổ thuyết cho!
- Đại vương không cần phải tự khiêm!
Đức vua cười cười trong mắt, rồi nói:
- Thưa đại đức! Từ xưa tới nay được làm vua do nhiều nguyên nhân khác nhau. Có kẻ do cha truyền con nối. Có kẻ do đầu óc, có chí lớn, có tài làm tướng, đánh bại và chinh phục đất đai, lãnh thổ thiên hạ mà xưng làm vua. Có kẻ do có tài, có đức được dân chúng tôn phục, kính mến mà suy cử lên ngôi vua. Có kẻ do soán đoạt, giết cha, giết anh mà chiếm vương vị. Có kẻ do sự bất công xã hội, sự áp bức của giới cầm quyền mà nổi dậy đánh bại kẻ ác mà xưng làm vua v.v... Tuy nhiên, dẫu làm vua kiểu nào, vị vua ấy cũng có các quan tham mưu đưa ra một chính sách để cai trị muôn dân; có một đường lối giáo dục theo kiến thức, quan niệm và chủ trương của vị vua ấy để tuyên dương, quảng bá chế độ của mình đến cho bá tánh. Đức Thế Tôn cũng y như thế, ngài tu tập nhiều đời kiếp, đạt quả vị Chánh Đẳng Giác, làm vua một quốc độ lớn rộng mênh mông, ở ngoài giới hạn của ba cõi; ngài cũng có một chính sách, ấy là kinh luật luận, hằng tuyên dương, quảng bá, giáo dục tất cả chúng sanh trời, người, Đế thích, phạm thiên, long vương, dạ xoa v.v... biết quay về với chánh pháp, sống và hành theo chánh pháp.
Thưa đại đức! điều thứ nhất ấy trẫm vụng về đưa ra, ngài đừng chê cười nhé!
- Chẳng dám đâu, đại vương! Nó rất hay là khác, lỗ tai của bần tăng rất hoan hỷ và mát mẻ.
Rất hùng hồn, đức vua Mi lan đà tiếp:
- Điều thứ hai, đức vua khôn khéo áp dụng vương pháp, tuy cũng là pháp luật nhưng pháp luật này mềm dẻo, thấu tình đạt lý để cai trị muôn dân. Người trong hoàng tộc không thể ỷ y mình là lá ngọc cành vàng để sống đời vinh hoa phù phiếm. Vương pháp sẽ không tha cho họ. Bọn phản nghịch, nổi loạn sẽ có tinh binh uy dũng đánh phạt; tùy theo tội nặng nhẹ mà tử hình, chung thân, phạt tiền, phạt trượng, cảnh cáo hoặc tha bổng. Kẻ trộm cắp, giết người, bất chánh, lừa đảo v.v... đều có chung hình phạt tương tự. Người có công được khen thưởng rất xứng đáng. Người tài hiền được nâng đỡ, đón mời, thỉnh vào triều với chức cao trọng vọng cho bá tánh y chỉ, nương nhờ. Các ngành nghề lao động, thủ công... được khuyến khích, đề cao, hỗ trợ. Kinh thư thánh hiền được dạy dỗ cho muôn dân v.v...
Nói tóm, đức vua tối thượng ấy ngồi dưới chiếc lọng trắng tinh sạch, trang nghiêm, uy vũ - tượng trưng cho quyền lực của vương pháp - luôn thương yêu và chăm lo cho dân, làm cho dân giàu nước mạnh, sống thuận hòa, ấm áp, chứa chan tình người và đạo nghĩa.
-
Đức Tối thượng sư của chúng ta cũng y như thế và còn hơn thế nữa. Vương pháp tức là chánh pháp. Kẻ trong hoàng tộc chính là thân tộc Thích ca vương, cũng phải được dạy dỗ nghiêm khắc, giúp họ biết bố thí, cúng dường, nghe pháp; cho xuất gia kể cả hoàng tử, thái tử, hoặc ngay cả con ruột của mình. Muôn dân chính là tứ chúng, bá tánh chính là chúng sanh ba cõi. Kẻ sái quấy, thực hành không đúng pháp thì đã có giới luật định tội, trục xuất hoặc khinh trọng tùy theo giới phạm mà răn dạy. Tất cả đều phú túc, phú cường trong một giáo pháp toàn hảo ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối. Vô lượng kẻ đạt ngộ đạo quả bốn bậc. Vô lượng kẻ giải thoát tử sanh. Vô lượng kẻ thuyết pháp, đầu đà, tinh thông một tạng, hai tạng, ba tạng. Vô lượng kẻ phước báu trời, người. Cõi trời thênh thang mở rộng cho tất cả mọi người một cách đồng đẳng, vô phân biệt. Đức Tối thượng sư ngồi dưới chiếc lọng trắng thanh khiết - tượng trưng cho pháp mầu giải thoát - điều ngự và sách tấn ba cõi, bốn loài đồng đăng giác ngạn.
Nghĩa lý thứ hai ấy, thưa đại đức kính mến, lỗ tai nghe của ngài có nóng nảy, khó chịu không?
- Tâu, nó nổi da gà và rần rần hỷ lạc; như ru võng êm, như tẩm nước mát. Thật là toàn hảo vậy.
- Cảm ơn đại đức!
- Xin đại vương cho nghe thêm điều thứ ba?
- Đức vua được dân chúng tôn trọng, cung kính, thương yêu, ngưỡng mộ, thì Đức Phật cũng được chư thiên và nhân loại cung kính, lễ bái, cúng dường...
- Đúng thế!
- Người tốt, người hiền, kẻ có công thì đức vua ban thưởng chức tước, lộc hàm, phẩm vị, vàng bạc v.v... , việc này đối với Đức Phật cũng y như thế. Trong tứ chúng, người nào có sự tu tập tinh cần, đúng đắn; giữ gìn thân khẩu ý thanh tịnh, nỗ lực xa lìa chấp thủ, tham đắm; Đức Phật sẽ lần lượt ban cho từng quả vị như Tu đà huờn, Tư đà hàm, A na hàm, A-la-hán v.v... Ấy là những phần thưởng cao quý nhất, tối thượng nhất. Bằng không được vậy, mà ai đó chỉ có đức tin, biết giữ giới cấm, biết bố thí, xả ly... thì người ấy, cũng được khen thưởng những phước báu trời, người hạnh phúc, sang cả.
Trái lại, người xấu ác, kẻ phạm luật, phạm pháp bị đức vua xử theo pháp luật quốc gia, thì Đức Phật cũng thế; ngài xử theo giới luật đã được chế định, đồng thời định luật nhân quả còn làm việc một cách công minh, không bao giờ thiên vị.
Ngoài ra, đức vua ban hành mười vương pháp để cho quốc độ được hạnh phúc và trường tồn, thì Đức Phật cũng hằng giáo hóa tứ chúng làm lành, tích trữ điều lành, sống theo chánh pháp để chánh pháp được tồn tại dài lâu trên thế gian này!
Thưa đại đức! Đó là trẫm chỉ nêu đại lược những điểm then chốt, cơ bản;... chứ thật ra còn rất nhiều oai đức, sự ích lợi tại thế và xuất thế, những pháp tương tự giữa đức vua và Đức Phật. Nhưng kiến thức trẫm có hạn, thời gian cũng không cho phép, mong đại đức thông cảm cho.
Đại đức Na tiên tán thán:
- Vậy là đã quá đủ. Vậy là đã quá vi diệu. Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Này tỳ kheo! Thật là vô số, vô số nguyên nhân về bà-la-môn, về vua chúa; cho dẫu có một tỳ kheo thông minh, thông tuệ, có ngôn ngữ lưu loát, kiến thức thâm sâu, diễn đạt nhanh nhạy... nói về điều ấy trong suốt một kiếp cũng không thể nói hết". Vậy thì đại vương tự khiêm mà làm gì. Chúng ta chỉ cần nghe và hiểu những cái chính mà thôi, có phải thế không ạ?
- Thưa, vâng!