Kinh Duy Ma Cật48__________________________________________________ _____________________________________
Printable View
Kinh Duy Ma Cật48__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................48
__________________________________________________ _____________________________________
Bất Tư Nghị Phẩm
Đệ lục
Nhĩ thời, Xá-lỵ-phất kiến thử thất trung, vô hữu sàng tọa, tác thị niệm: Tư chư Bồ Tát, đại đệ tử chúng đương ư hà tọa?
Trưởng giả Duy-ma-cật, tri kỳ ý, ngứ Xá-lỵ-phất ngôn: Vân hà nhân giả vị pháp lai da? Vị sàng tọa da?
Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã vị pháp lai, phi vị sàng tọa.
Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Phù cầu pháp giả, bất tham xu mạng, hà huống sàng tọa?
Phù cầu pháp giả, phi hữu sắc, thọ, tưởng, hành, thức chi cầu. Phi hữu nhập, giới chi cầu. Phi hữu dục, sắc, vô sắc chi cầu.
Duy, Xá-lỵ-phất! Phù cầu pháp giả, bất trước Phật cầu. Bất trước Pháp cầu. Bất trước Chúng cầu.
Phù cầu pháp giả, vô kiến khổ cầu. Vô đoạn tập cầu. Vô tạo tận chứng, tu đạo chi cầu. Sở dĩ giả hà? Pháp vô hý luận. Nhược ngôn: Ngã đương kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Thị tắc hý luận, phi cầu pháp dã.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................48
__________________________________________________ _____________________________________
VI PHẨM BẤT TƯ NGHỊ (1)
Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất thấy trong nhà ông Duy Ma Cật không có giường ngồi (bàn ghế) chi hết, mới nghĩ rằng : các Bồ Tát và hàng Đại đệ tử đây sẽ ngồi nơi đâu ?
Trưởng giả Duy Ma Cật biết được ý đó , liền nói với Ngài Xá Lợi Phất rằng :
- Thế nào, Nhân giả vì pháp mà đến, hay vì giường ngồi mà đến ?
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Tôi vì Pháp mà đến, chớ không phải vì giường ngồi.
Ông Duy Ma Cật nói :
- Ngài Xá Lợi Phất ! Vả chăng người cầu pháp, thân mạng còn không tham tiếc, huống chi là giường ngồi.
Vả người cầu pháp không phải có sắc, thọ, tưởng, hành, thức (năm uẩn) mà cầu; không phải có giới (18 giới), nhập (12 nhập) mà cầu; không phải có dục giới, sắc giới, vô sắc giới (ba cõi) mà cầu.
Ngài Xá Lợi Phất ! Vả chăng người cầu pháp không đắm trước nơi Phật mà cầu, không đắm trước nơi Pháp mà cầu, không đắm trước nơi chúng (tăng) mà cầu.
Vả người cầu Pháp không thấy khổ mà cầu, không đoạn tập mà cầu, không đến chứng diệt, tu đạo mà cầu. Vì sao ? – Vì pháp không hý luận(2). Nếu nói : ta phải thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, đó là hý luận không phải cầu pháp.
Kinh Duy Ma Cật49__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................49
__________________________________________________ _____________________________________
Duy, Xá-lỵ-phất! Pháp danh tịch diệt. Nhược hành sinh diệt, thị cầu sinh diệt, phi cầu pháp dã.
Pháp danh vô nhiễm. Nhược nhiễm ư pháp, nãi chí Niết-bàn, thị tắc nhiễm trước, phi cầu pháp dã.
Pháp vô hành xứ. Nhược hành ư pháp, thị tắc hành xứ, phi cầu pháp dã.
Pháp vô thủ xả. Nhược thủ xả pháp, thị tắc thủ xả, phi cầu pháp dã.
Pháp vô xứ sở. Nhược trước xứ sở, thị tắc trước xứ, phi cầu pháp dã.
Pháp danh vô tướng. Nhược tùy tướng thức, thị tắc cầu tướng, phi cầu pháp dã.
Pháp bất khả trụ. Nhược trụ ư pháp, thị tắc trụ pháp, phi cầu pháp dã.
Pháp bất khả kiến văn giác tri. Nhược hành kiến văn giác tri, thị tắc kiến văn giác tri, phi cầu pháp dã.
Pháp danh vô vi. Nhược hành hữu vi, thị cầu hữu vi, phi cầu pháp dã.
Thị cố Xá-lỵ-phất! Nhược cầu pháp giả, ư nhất thiết pháp, ưng vô sở cầu.
Thuyết thị ngữ thời, ngũ bá thiên tử, ư chư pháp trung đắc pháp nhãn tịnh.
Nhĩ thời, Trưởng giả Duy-ma-cật vấn Văn-thù-sư-lợi: Nhân giả du ư vô lượng thiên vạn ức a-tăng-kỳ quốc.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................49
__________________________________________________ _____________________________________
Ngài Xá Lợi Phất ? Pháp là tịch diệt, nếu thật hành pháp sanh diệt là cầu pháp sanh diệt, không phải cầu pháp.
Pháp là không nhiễm, nếu nhiễm nơi Pháp cho đến Niết bàn, đó là nhiễm đắm, không phải cầu Pháp.
Pháp không chỗ làm, nếu làm nơi pháp, đó là chỗ làm không phải cầu Pháp.
Pháp không thủ xả, nếu thủ xả pháp, đó là thủ xả, không phải cầu pháp.
Pháp không xứ sở, nếu chấp trước xứ sở, đó là chấp trước nơi xứ sở không phải cầu Pháp.
Pháp không có tướng, nếu nhân tướng mà biết, đó là cầu tướng không phải cầu pháp.
Pháp không thể trụ, nếu trụ nơi Pháp, đó là trụ nơi pháp không phải cầu Pháp.
Pháp không thể thấy, nghe, hay, biết, nếu làm theo thấy, nghe, hay, biết, đó là thấy nghe hay biết không phải cầu pháp.
Pháp là vô vi, nếu làm hữu vi là cầu hữu vi không phải cầu pháp.
Vì thế, Ngài Xá Lợi Phất, nếu người cầu pháp, đối với tất cả pháp, không có cầu đến.
Khi ông Duy Ma Cật nói lời ấy rồi, năm trăm vị Thiên tử ở trong các pháp được Pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ Trưởng giả Duy Ma Cật hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Thưa Ngài, Ngài dạo đi trong vô lượng nghìn muôn [ức a tăng kỳ (3) (vô số) quốc độ]
Kinh Duy Ma Cật50__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................50
__________________________________________________ _____________________________________
Nhân giả du ư vô lượng thiên vạn ức a-tăng-kỳ quốc. Hà đẳng Phật độ hữu hảo thượng diệu công đức thành tựu sư tử chi tòa?
Văn-thù-sư-lợi ngôn: Cư sĩ, Đông phương độ tam thập lục Hằng hà sa quốc, hữu thế giới danh Tu-di Tướng. Kỳ Phật hiệu Tu-di Đăng Vương kim hiện tại. Bỉ Phật thân trường bát vạn tứ thiên do-tuần. Kỳ Sư tử tòa cao bát vạn tứ thiên do-tuần, nghiêm sức đệ nhất.
Ư thị, Trưởng giả Duy-ma-cật hiện thần thông lực. Tức thời, bỉ Phật khiển tam vạn nhị thiên sư tử chi tòa, cao quảng nghiêm tịnh, lai nhập Duy-ma-cật thất. Chư Bồ Tát, đại đệ tử, Thích, Phạm, Tứ thiên vương đẳng, tích sở vị kiến. Kỳ thất quảng bác, tất giai bao dung tam vạn nhị thiên sư tử tòa, vô sở phường ngại. Ư Tỳ-da-ly thành cập Diêm-phù-đề, Tứ thiên hạ, diệc bất bách trách, tất kiến như cố.
Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Văn-thù-sư-lợi: Tựu sư tử tòa, dữ chư Bồ Tát thượng nhân câu tọa. Đương tự lập thân như bỉ tòa tượng. Kỳ đắc thần thông Bồ Tát tức tự biến hình vi tứ vạn nhị thiên do-tuần, tọa Sư tử tòa. Chư tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử giai bất năng thăng.
Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Xá-lỵ-phất: Tựu Sư tử tòa.
Xá-lỵ-phất ngôn: Cư sĩ, thử tòa cao quảng, ngô bất năng thăng.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................50
__________________________________________________ _____________________________________
[Ngài dạo đi trong vô lượng nghìn muôn] ức a tăng kỳ (3) (vô số) quốc độ, thấy cõi Phật nào có những tòa Sư tử tốt đẹp thượng diệu do công đức tạo thành ?
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói :
- Cư sĩ ! Về phương đông cách đây khỏi ba mươi sáu số cát sông Hằng(4) cõi Phật, có thế giới tên Tu Di Tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu Di Đăng Vương, hiện vẫn còn. Thân Phật cao tám muôn bốn nghìn do tuần(5), tòa Sư tử cũng cao như thế, trang nghiêm tốt đẹp bực nhứt.
Lúc ấy, Trưởng giả Duy Ma Cật hiện sức thần thông, tức thời đức Phật ở cõi nước kia điều khiển ba vạn hai nghìn tòa Sư tử cao rộng nghiêm sạch đến trong nhà ông Duy Ma Cật. Các Bồ Tát, Đại đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương tất cả đều thấy việc xưa nay chưa từng thấy.
Nhà ông Duy Ma Cật rộng rãi trùm chứa cả ba vạn hai nghìn tòa Sư tử không ngăn ngại, mà ở nơi thành Tỳ Da Ly cho đến bốn thiên hạ cõi Diêm Phù Đề cũng không bị ép chật, tất cả đều thấy y nguyên như thế.
Ông Duy Ma Cật mời Ngài Văn Thù Sư Lợi và các Bồ Tát thượng nhơn ngồi nơi tòa Sư tử, song phải hiện thân mình đứng cao bằng tòa kia. Tức thời các Bồ Tát có thần thông liền biến hiện thân hình cao bốn muôn hai nghìn do tuần đến ngồi nơi tòa Sư tử, còn các Bồ Tát mới phát tâm và hàng Đại đệ tử đều không lên được.
Lúc đó, ông Duy Ma Cật mời Ngài Xá Lợi Phất lên tòa Sư tử ngồi.
Ngài Xá Lợi Phất đáp :
- Thưa Cư sĩ ! Tòa này cao rộng quá tôi không lên được.
Kinh Duy Ma Cật51__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................51
__________________________________________________ _____________________________________
Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Vị Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, nãi khả đắc tọa.
Ư thị, tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử tức vị Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, tiện đắc tọa sư tử tòa.
Xá-lỵ-phất ngôn: Cư sĩ, vị tằng hữu dã! Như thị tiểu thất nãi dung thọ thử cao quảng chi tòa! Ư Tỳ-da-ly thành, vô sở phường ngại. Hựu ư Diêm-phù-đề tụ lạc thành ấp, cập Tứ thiên hạ chư thiên, long vương, quỷ thần cung điện, diệc bất bách trách.
Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Chư Phật, Bồ Tát hữu giải thoát, danh Bất khả tư nghị. Nhược Bồ Tát trụ thị giải thoát giả, dĩ Tu-di chi cao quảng nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm. Tu-di sơn vương bổn tướng như cố. Nhi Tứ thiên vương, Đao-lỵ chư thiên bất giác bất tri kỷ chi sở nhập. Duy ứng độ giả nãi kiến Tu-di nhập giới tử trung. Thị danh Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn.
Hựu dĩ tứ đại hải thủy nhập nhất mao khổng, bất nhiễu ngư, biết, nguyên, đà thủy tánh chi thuộc. Nhi bỉ đại hải bổn tánh như cố. Chư long, quỷ, thần, a-tu-la đẳng bất giác bất tri kỷ chi sở nhập. Ư thử chúng sinh, diệc vô sở nhiễu.
Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, đoạn thủ tam thiên đại thiên thế giới như đào gia luân, trước hữu chưởng trung, trịch quá Hằng sa thế giới chi ngoại. Kỳ trung chúng sinh bất giác bất tri kỷ chi sở vãng. Hựu phục hoàn trí bổn xứ, đô bất sử nhân hữu vãng lai tưởng.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................51
__________________________________________________ _____________________________________
Ông Duy Ma Cật nói :
- Ngài Xá Lợì Phất, phải đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai mới có thể ngồi được.
Khi ấy, các vị Bồ Tát mới phát tâm và hàng Đại đệ tử đều đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai, rồi ngồi được ngay nơi tòa Sư tử.
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Thưa Cư sĩ ! Thật chưa từng có. Như cái nhà nhỏ tí này mà dung được các tòa cao rộng như thế, mà nơi thành Tỳ Da Ly không có ngăn ngại, các tụ lạc, thành ấp, cũng những cung điện chư Thiên, Long Vương, quỉ thần trong bốn thiên hạ ở cõỉ Diêm Phù Đề cũng không ép chật.
Ông Duy Ma Cật nói :
- Ngài Xá Lợi Phất ! Chư Phật và chư Bồ Tát có Pháp “giải thoát” tên là “bất khả tư nghị”. Nếu Bồ Tát trụ nơi pháp giải thoát đó, lấy núi Tu Di rộng lớn nhét vào trong hột cải vẫn không thêm bớt, hình núi Tu Di vẫn y nguyên, mà trời Tứ Thiên vương và Đạo Lợi thiên vương không hay không biết đã vào đấy, chỉ có những người đáng độ được mới thấy núi Tú Di vào trong hột cải, đó là Pháp môn “bất khả tư nghị giải thoát”. Lại lấy nước bốn biển lớn cho vào trong lỗ chưn lông, không có khuấy động các loài thủy tộc như cá trạnh, ngoan đà(8), mà các biển lớn kia cũng vẫn y nguyên. Các loài rồng, quỉ thần, A Tu La v.v... đều không hay không biết mình đi vào đấy, và các loài ấy cũng không có loạn động.
Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất ? Bồ Tát ở nơi Pháp bất khả tư nghị giải thoát, rút lấy cõi tam thiên đại thiên thế giới nhanh như bàn tròn của thợ gốm, rồi để trong bàn tay hữu quăng ra ngoài khỏi những thế giới như số cát sông Hằng, mà chúng sanh trong đó không hay không biết mình có đi đâu, lại đem trở về chỗ cũ, mà người (không biết có qua có lại.)
Kinh Duy Ma Cật52__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................52
__________________________________________________ _____________________________________
.....đô bất sử nhân hữu vãng lai tưởng. Nhi thử thế giới bổn tướng như cố.
Hựu, Xá-lỵ-phất! Hoặc hữu chúng sinh nhạo cửu trụ thế nhi khả độ giả, Bồ Tát tức diễn thất nhật dĩ vi nhất kiếp, linh bỉ chúng sinh vị chi nhất kiếp. Hoặc hữu chúng sinh bất nhạo cửu trụ nhi khả độ giả, Bồ Tát tức xúc nhất kiếp dĩ vi thất nhật, linh bỉ chúng sinh vị chi thất nhật.
Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, dĩ nhất thiết Phật độ nghiêm sức chi sự, tập tại nhất quốc, thị ư chúng sinh. Hựu, Bồ Tát dĩ nhất thiết Phật độ chúng sinh, trí chi hữu chưởng, phi đáo Thập phương, biến thị nhất thiết, nhi bất động bổn xứ.
Hựu, Xá-lỵ-phất! Thập phương chúng sinh cúng dường chư Phật chi cụ, Bồ Tát ư nhất mao khổng, giai linh đắc kiến. Hựu, thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng, phổ sử kiến chi.
Hựu, Xá-lỵ-phất! Thập phương thế giới sở hữu chư phong, Bồ Tát tất năng hấp trước khẩu trung, nhi thân vô tổn. Ngoại chư thọ mộc diệc bất tồi chiết.
Hựu, thập phương thế giới kiếp tận thiêu thời, dĩ nhất thiết hỏa nạp ư phúc trung, hỏa sự như cố, nhi bất vi hại. Hựu, ư hạ phương, quá Hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới, thủ nhất Phật độ, cử trước thượng phương, quá Hằng hà vô số thế giới, như trì châm phong cử nhất táo diệp, nhi vô sở nhiễu.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................52
__________________________________________________ _____________________________________
[.....lại đem trở về chỗ cũ, mà người] không biết có qua có lại, và thế giới ấy cũng vẫn y nguyên.
Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất ? Hoặc có chúng sanh nào ưa ở lâu trong đời mà có thể độ được. Bồ Tát liền kéo dài bảy ngày ra làm một kiếp (7) để cho chúng sanh kia gọi là một kiếp; hoặc có chúng sanh nào không ưa ở lâu trong đời mà có thể độ được, Bồ Tát liền thâu ngắn một kiếp lại làm bảy ngày, để cho chúng sanh kia gọi là bảy ngày.
Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát trụ nơi pháp bất khả tư nghị giải thoát, đem những việc tốt đẹp của tất cả cõi Phật gom về một nước chỉ bày cho chúng sanh. Lại nữa, Bồ Tát đem tất cả chúng sanh ở tất cả cõi Phật để trên bàn tay hữu của mình rồi bay đến mười phương bày ra cho ai cũng thấy tất cả mà bản xứ không lay động.
Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất ! Những đồ cúng dường chư Phật của chúng sanh trong mười phương, Bồ Tát làm cho tất cả đều thấy nơi một lỗ chơn lông. Lại nữa, bao nhiêu nhựt nguyệt, tinh tú trong các cõi nước ở mười phương, Bồ Tát đều làm cho mọi người thấy rõ nơi một lỗ chưn lông.
Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất ! Bao nhiêu thứ gió ở các cõi nước trong mười phương, Bồ Tát có thể hút vào trong miệng mà thân không hề tổn hại, những cây cối ở bên ngoài cũng không xiêu, ngã, trốc, gảy. Lại khi kiếp lửa cháy tan cõi nước ở mười phương, Bồ Tát đem tất cả lửa để vào trong bụng, lửa cũng vẫn y nguyên mà không chút gì làm hại. Lại quá số cát sông Hằng thế giới Phật về phương dưới, lấy một cõi Phật đem để cách khỏi số cát sông Hằng thế giới ở phương trên như cầm mũi kim nhọn ghim lấy một lá táo mà không có tổn hại.
Kinh Duy Ma Cật53__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................53
__________________________________________________ _____________________________________
Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, năng dĩ thần thông hiện tác Phật thân, hoặc hiện Bích chi Phật thân, hoặc hiện Thanh văn thân, hoặc hiện Đế-thích thân, hoặc hiện Phạm vương thân, hoặc hiện Thế chủ thân, hoặc hiện Chuyển luân Thánh vương thân. Hựu, thập phương thế giới sở hữu chúng thanh, thượng, trung, hạ âm, giai năng biến chi, linh tác Phật thanh, diễn xuất vô thường, khổ, không, vô ngã chi âm. Cập thập phương chư Phật sở thuyết chủng chủng chi pháp, giai ư kỳ trung, phổ linh đắc văn.
Xá-lỵ-phất! Ngã kim lược thuyết Bồ Tát Bất khả tư nghị giải thoát chi lực. Nhược quảng thuyết giả, cùng kiếp bất tận.
Thị thời, Đại Ca-diếp, văn thuyết Bồ Tát Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, thán vị tằng hữu, vị Xá-lỵ-phất: Thí như hữu nhân, ư manh giả tiền, hiện chúng sắc tượng, phi bỉ sở kiến. Nhất thiết Thanh văn, văn thị Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, bất năng giải liễu, vi nhược thử dã. Trí giả văn thị, kỳ thùy bất phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm? Ngã đẳng hà vi vĩnh tuyệt kỳ căn, ư thử Đại thừa, kỷ như bại chủng? Nhất thiết Thanh văn, văn thị Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, giai ưng hào khấp, thanh chấn tam thiên đại thiên thế giới! Nhất thiết Bồ Tát ưng đại hân khánh, đảnh thọ thử pháp! Nhược hữu Bồ Tát tín giải Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn giả, nhất thiết ma chúng vô như chi hà!
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................53
__________________________________________________ _____________________________________
Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát trụ cảnh “bất khả tư nghị giải thoát” hay dùng thần thông hiện làm thân Phật hoặc hiện thân Bích Chi Phật, thân Thanh Văn, thân Đế Thích, thân Phạm Vương, thân Thế chúa (8), hoặc thân Chuyển luân Thánh vương. Các thứ tiếng to, tiếng vừa; tiếng nhỏ ở các cõi nước mười phương đều biến thành tiếng Phật diễn nói pháp vô thường, khổ, không, vô ngã và những pháp của chư Phật ở mười phương nói ra làm cho khắp tất cả đều được nghe.
Ngài Xá Lợi Phất ! Nay tôi chỉ nói qua thần lực giải thoát bất khả tư nghị của Bồ Tát như thế, nếu nói cho đủ đến cùng kiếp cũng không hết được.
Khi đó Ngài Đại Ca Diếp nghe nói pháp môn “Bất khả tư nghị giải thoát” của Bồ Tát, ngợi khen chưa từng có, mới bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: “Ví như có người ở trước người mù phô bày các thứ hình sắc, người mù kia đâu thể thấy được. Nay tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn “Bất khả tư nghị giải thoát” này cũng đâu thể hiểu được. Người trí nghe pháp môn này ai mà chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tại sao chúng ta mất hẳn giống ấy, đối với Pháp Đại thừa này đã như hột giống thúi ? Tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn “Bất khả tư nghị giải thoát” này đều phải than khóc tiếng vang động cõi Tam thiên Đại thiên Thế giới, còn tất cả Bồ Tát nên hết sức vui mừng mà vưng lãnh pháp ấy. Nếu có Bồ Tát nào tin hiểu pháp môn “Bất khả tư nghị giải thoát” này thời tất cả chúng Ma không thể làm gì được.
Kinh Duy Ma Cật54__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................54
__________________________________________________ _____________________________________
Đại Ca-diếp thuyết thử ngữ thời, tam vạn nhị thiên thiên tử giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.
Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Đại Ca-diếp: Nhân giả! Thập phương vô lượng A-tăng-kỳ thế giới trung, tác Ma vương giả, đa thị trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát. Dĩ phương tiện lực cố giáo hóa chúng sinh, hiện tác Ma vương.
Hựu, Ca-diếp, thập phương vô lượng Bồ Tát, hoặc hữu nhân tùng khất: thủ túc nhĩ tỷ, đầu mục tủy não, huyết nhục bì cốt, tụ lạc thành ấp, thê tử nô tỳ, tượng mã xa thặng, kim ngân lưu ly, xa cừ mã não, san hô hổ phách, chân châu khoa bối, y phục ẩm thực. Như thử khất giả, đa thị trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát. Dĩ phương tiện lực nhi vãng thí chi, linh kỳ kiên cố. Sở dĩ giả hà? Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, hữu oai đức lực, cố hành bức bách, thị chư chúng sinh như thị nan sự. Phàm phu hạ liệt, vô hữu lực thế, bất năng như thị bức bách Bồ Tát. Thí như long tượng xúc đạp, phi lư sở kham. Thị danh trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát trí huệ phương tiện chi môn.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................54
__________________________________________________ _____________________________________
Khi Ngài Đại Ca Diếp nói như thế rồi có ba vạn hai nghìn vị Thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với Ngài Đại Ca Diếp rằng :
- Ngài Đại Ca Diếp ! Các vị làm Ma vương trong vô lượng vô số cõi nước ở mười phương phần nhiều là bực Bồ Tát trụ nơi pháp Bất khả tư nghị giái thoát, vì dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sanh nên thị hiện làm Ma vương.
Lại nữa, Ngài Ca Diếp ! Vô lượng Bồ Tát ở mười phương, hoặc có người đến xin tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy não, huyết, thịt, da xương, xóm làng, thành ấp, vợ con, tôi tớ, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, đồi mồi, y phục và các món ăn uống, mà người xin đó phần nhiều là bực Bồ Tát trụ pháp Bất khả tư nghị giải thoát dùng sức phương tiện đến thử thách để làm cho các Bồ Tát kia thêm kiên cố. Vì sao ? Bồ Tát trụ pháp Bất khả tư nghị giải thoát có thần lực oai đức nên mới dám làm việc bức ngặt để chỉ bày cho chúng sanh những việc khó làm như thế. Còn kẻ phàm phu hạ liệt không có thế lực, không thể làm bức ngặt được Bồ Tát, ví như con long tượng dày đạp, không phải sức lừa kham chịu nổi. Đó là môn trí tuệ phương tiện của Bồ Tát ở nơi pháp “Bất khả tư nghị giải thoát” vậy.
Chú thích của phẩm VI
1. Bất tư nghị : Coi theo nghĩa số 3 ở phẩm I.
2. Hý luận : Những lời biện luận vô nghĩa, không đúng lý như thật. Trong Trung Luận nói : “Hý luận có 2 cách : 1) Ái luận, nghĩa là : Đối với tất cả pháp có tâm chấp đắm; 2) Kiến luận, là đối với tất cả pháp, khởi ra tri kiến cho là quyết định đúng lý”. Do ái kiến như thế làm mê mờ tâm tánh, mà sanh ra các thứ ngôn luận bất chánh gọi là hý luận.
3. A tăng kỳ : (Asamkhya) Tàu dịch là vô số, nghĩa là một số rất nhiều không tính đếm đặng. A tăng kỳ là số đứng đầu trong 10 số lớn : 1) A tăng kỳ, 2) Vô lượng, 3) Vô biên, 4) Vô đẳng, 5) Bất khả sổ, 6) Bất khả xưng, 7) Bất khả tư, 8) Bất khả lượng, 9) Bất khả thuyết, 10) Bất khả thuyết Bất khả thuyết.
4. Hằng hà sa : Cát sông Hằng, dụ cho số rất nhiều không thể lường tính đặng. Sông Hằng (Gange) là một con sông rất lớn ở nước Thiên Trúc, phát nguyên từ ao vô nhiệt não ở Hy mã lạp sơn bên Ấn độ chảy ra Ấn Độ dương (Océan Indien). Lòng sông và hai bên bờ có cát rất nhiều và mịn. Đương thời đức Phật nói pháp, gặp số gì quá nhiều đều mượn đó mà thí dụ.
5. Do tuần : Có 3 hạng : 1) 40 dặm tàu, 2) 60 dặm, 3) 80 dặm.
6. Ngoan Đà : Ngoan là con giải. Đà là một loại cá sấu dài hơn hai trượng, bốn chân, da nó dùng dể bịt trống.
7. Một kiếp : Nghĩa là một khoảng thời gian rất lâu dài. Một kiếp lớn có 4 kiếp trung, 1 kiếp trung có 20 kiếp nhỏ. Trong một kiếp nhỏ có 16.800.000 năm; một kiếp trung có 16.800.000 x 20 = 336.000.000 năm. Một kiếp lớn có 336.000.000 x 4 = 1.344.000.000 năm.
8. Thế chúa : Có chỗ chỉ Tứ Thiên Vương, hay là vị Phạm Thiên, hoặc là vị Đại Tự Tại Thiên, tức là vị làm chủ trong cõi thế gian.
Kinh Duy Ma Cật55__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................55
__________________________________________________ _____________________________________
Quán Chúng sinh phẩm
Đệ thất
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát vân hà quán ư chúng sinh?
Duy-ma-cật ngôn: Thí như ảo sư kiến sở ảo nhân. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Như trí giả kiến thủy trung nguyệt. Như kính trung kiến kỳ diện tượng. Như nhiệt thời diệm. Như hô thinh hưởng. Như không trung vân. Như thủy tu mạt. Như thủy thượng bào. Như ba tiêu kiên. Như điện cửu trụ. Như đệ ngũ đại. Như đệ lục ấm. Như đệ thất tình. Như thập tam nhập. Như thập cửu giới. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Như vô sắc giới sắc. Như tiều cốc nha. Như Tu-đà-hoàn thân kiến. Như A-na-hàm nhập thai. Như A-la-hán tam độc. Như đắc nhẫn Bồ Tát tham nhuế hủy cấm. Như Phật phiền não tập. Như manh giả kiến sắc. Như nhập diệt tận định xuất nhập tức. Như không trung điểu tích. Như thạch nữ nhi. Như hóa nhân phiền não. Như mộng sở kiến dĩ ngộ. Như diệt độ giả thọ thân. Như vô yên chi hỏa. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Văn-thù-sư-lợi ngôn: Nhược Bồ Tát tác thị quán giả, vân hà hành từ?
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................55
__________________________________________________ _____________________________________
VII PHẨM QUÁN CHÚNG SANH (1)
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng :
- Bồ Tát quán sát chúng sanh phải thế nào ?
Ông Duy Ma Cật đáp :
- Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra, Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như người trí thấy trăng dưới nước, thấy mặt trong gương, như ánh nắng dợn, như vang của tiếng, như mây giữa hư không, như bọt nước, như bóng nổi, như cây chuối bền chắc, như chớp dừng lâu, như đại thứ năm (2), như ấm thứ sáu (3), như tình (căn) thứ bảy (4), như nhập thứ mười ba (5), như giới thứ mười chín (6). Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế.
Như sắc chất cõi vô sắc (7), như mộng lúa hư, như thân kiến của Tu đà hoàn (8), như sự nhập thai của A na hàm (9), như tam độc của A la hán (10), như tham giận phá giới của Bồ Tát chứng Vô sanh nhẫn, như tập khí phiền não của Phật, như người mù thấy sắc tượng, như hơi thở ra vào của người nhập Diệt tận định (11), như dấu chim giữa hư không, như con của đàn bà không sanh đẻ (Thạch nữ) (12), như phiền não của người huyễn hóa, như cảnh chiêm bao khi đã thức, như người diệt độ thọ lấy thân, như lửa không khói. Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế đó.
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi :
- Nếu Bồ Tát quán sát như thế phải thật hành lòng từ thế nào ?
Kinh Duy Ma Cật56__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................56
__________________________________________________ _____________________________________
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát tác thị quán dĩ, tự niệm: Ngã đương vị chúng sinh, thuyết như tư pháp, thị tức chân thật từ dã. Hành tịch diệt từ, vô sở sinh cố. Hành bất nhiệt từ, vô phiền não cố. Hành đẳng chi từ, đẳng tam thế cố. Hành vô tranh từ, vô sở khởi cố. Hành bất nhị từ, nội ngoại bất hiệp cố. Hành bất hoại từ, tất cánh tận cố. Hành kiên cố từ, tâm vô hủy cố. Hành thanh tịnh từ, chư pháp tánh tịnh cố. Hành vô biên từ, như hư không cố. Hành A-la-hán từ, phá kết tặc cố. Hành Bồ Tát từ, an chúng sinh cố. Hành Như Lai từ, đắc như tướng cố. Hành Phật chi từ, giác chúng sinh cố. Hành tự nhiên từ, vô nhân đắc cố.
Hành Bồ-đề từ, đẳng nhất vị cố. Hành vô đẳng từ, đoạn chư ái cố. Hành đại bi từ, đạo dĩ Đại thừa cố. Hành vô yếm từ, quán không, vô ngã cố. Hành pháp thí từ, vô di tích cố. Hành trì giới từ, hóa hủy cấm cố. Hành nhẫn nhục từ, hộ bỉ ngã cố. Hành tinh tấn từ, hà phụ chúng sinh cố. Hành thiền định từ, bất thọ vị cố. Hành trí huệ từ, vô bất tri thời cố. Hành phương tiện từ, nhất thiết thị hiện cố. Hành vô ẩn từ, trực tâm thanh tịnh cố. Hành thâm tâm từ, vô tạp hạnh cố. Hành vô cuống từ, bất hư giả cố. Hành an lạc từ, linh đắc Phật lạc cố. Bồ Tát chi từ vi nhược thử dã.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Hà vị vi bi?
Đáp viết: Bồ Tát sở tác công đức, giai dữ nhất thiết chúng sinh cộng chi.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................56
__________________________________________________ _____________________________________
Ông Duy Ma Cật đáp rằng :
- Bồ Tát quán sát như thế rồi phải tự nghĩ rằng : “Ta phải vì chúng sanh nói pháp như trên, đó là lòng từ chân thật. Thật hành lòng từ tịch diệt, bởi vì không sanh. Thật hành lòng từ không nóng bức, bởi không có phiền não. Thật hành lòng từ bình đẳng, bởi ba đời như nhau. Thật hành lòng từ không đua tranh, bởi không có khởi. Thật hành lòng từ không hai, bởi trong ngoài (căn trần) không hiệp. Thật hành lòng từ không hoại, bởi hoàn toàn không còn. Thật hành lòng từ kiên cố, bởi lòng không hủy hoại. Thật hành lòng từ thanh tịnh, bởi tánh các pháp trong sạch. Thật hành lòng từ vô biên, vì như hư không. Thật hành lòng từ A la hán, vì phá các giặc kiết sử (13). Thật hành lòng từ Bồ Tát, vì an vui chúng sanh. Thật hành lòng từ Như Lai, vì đặng tướng như như. Thật hành lòng từ của Phật, vì giác ngộ chúng sanh. Thật hành lòng từ tự nhiên, vì không nhơn đâu mà đặng.
Thật hành lòng từ Bồ Đề, chỉ có một vị. Thật hành lòng từ vô đẳng (không chi sánh bằng), vì đoạn các ái kiến. Thật hành lòng từ đại bi, dẫn dạy cho pháp Đại thừa. Thật hành lòng từ không nhàm mỏi, quán không, vô ngã. Thật hành lòng từ pháp thí, không có luyến tiếc. Thật hành lòng từ trì giới, để hóa độ người phá giới. Thật hành lòng từ nhẫn nhục, để ủng hộ người và mình. Thật hành lòng từ tinh tấn, để gánh vác chúng sanh. Thật hành lòng từ thiền định, không thọ mùi thiền. Thật hành lòng từ trí tuệ, đều biết đúng nhịp. Thật hành lòng từ phương tiện, thị hiện tất cả. Thật hành lòng từ không ẩn dấu, lòng ngay trong sạch. Thật hành lòng từ thâm tâm, không có hạnh xen tạp. Thật hành lòng từ không phỉnh dối, không có lừa gạt. Thật hành lòng từ an vui, làm cho tất cả được sự an vui của Phật. Lòng từ của Bồ Tát là như thế đó.
Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi :
- Sao gọi là lòng bi ?
- Bồ Tát làm công đức gì cốt để cho chúng sanh.
Kinh Duy Ma Cật57__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................57
__________________________________________________ _____________________________________
Hà vị vi hỷ?
Đáp viết: Hữu sở nhiêu ích, hoan hỷ vô hối.
Hà vị vi xả?
Đáp viết: Sở tác phước hữu, vô sở hy vọng.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Sinh tử hữu úy, Bồ Tát đương hà sở y?
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát ư sinh tử úy trung, đương y Như Lai công đức chi lực.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Bồ Tát dục y Như Lai công đức chi lực, đương ư hà trụ?
Đáp viết: Bồ Tát dục y Như Lai công đức lực giả, đương trụ độ thoát nhất thiết chúng sinh.
Hựu vấn: Dục độ chúng sinh, đương hà sở trừ?
Đáp viết: Dục độ chúng sinh, trừ kỳ phiền não.
Hựu vấn: Dục trừ phiền não, đương hà sở hành?
Đáp viết: Đương hành chánh niệm.
Hựu vấn: Vân hà hành ư Chánh niệm?
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................57
__________________________________________________ _____________________________________
- Sao gọi là lòng hỷ ?
- Có lợi ích đều hoan hỷ, không hối hận.
- Sao gọi là lòng xả ?
- Những phước báu đã làm, không có lòng hy vọng.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi :
- Sự sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải y nơi đâu ?
Ông Duy Ma Cật đáp :
- Bồ Tát ở trong sanh tử đáng sợ đó, phải y nơi sức công đức của Như Lai.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi :
- Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi đâu ?
- Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi chỗ độ thoát tất cả chúng sanh.
Lại hỏi :
- Muốn độ chúng sanh phải trừ những gì ?
- Muốn độ chúng sanh phải trừ phiền não.
- Muốn trừ phiền não phải thật hành những gì ?
- Phải thật hành chánh niệm.
- Thế nào là thật hành chánh niệm ?
Kinh Duy Ma Cật58__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................58
__________________________________________________ _____________________________________
Đáp viết: Đương hành bất sinh bất diệt.
Hựu vấn: Hà pháp bất sinh? Hà pháp bất diệt?
Đáp viết: Bất thiện bất sinh. Thiện pháp bất diệt.
Hựu vấn: Thiện bất thiện, thục vi bổn?
Đáp viết: Thân vi bổn.
Hựu vấn: Thân, thục vi bổn?
Đáp viết: Dục tham vi bổn.
Hựu vấn: Dục tham, thục vi bổn?
Đáp viết: Hư vọng phân biệt vi bổn.
Hựu vấn: Hư vọng phân biệt, thục vi bổn?
Đáp viết: Điên đảo tưởng vi bổn.
Hựu vấn: Điên đảo tưởng, thục vi bổn?
Đáp viết: Vô trụ vi bổn.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................58
__________________________________________________ _____________________________________
- Phải thật hành pháp không sanh không diệt.
- Pháp gì không sanh, pháp gì không diệt ?
- Pháp bất thiện không sanh, pháp thiện không diệt.
- Pháp thiện và pháp bất thiện lấy gì làm gốc ?
- Thân là gốc.
- Thân lấy gì làm gốc ?
- Tham dục là gốc.
- Tham dục lấy gì làm gốc ?
- Hư vọng phân biệt là gốc.
- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc ?
- Tưởng điên đảo là gốc.
- Tưởng điên đảo lấy gì làm gốc ?
- Không trụ (14) là gốc.
Kinh Duy Ma Cật59__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................59
__________________________________________________ _____________________________________
Hựu vấn: Vô trụ, thục vi bổn ?
Đáp viết: Vô trụ tắc vô bổn.
Văn-thù-sư-lợi! Tùng vô trụ bổn lập nhất thiết pháp.
Thời, Duy-ma-cật thất, hữu nhất Thiên nữ, kiến chư Thiên nhân, văn sở thuyết pháp, tiện hiện kỳ thân. Tức dĩ Thiên hoa, tán chư Bồ Tát, đại đệ tử thượng. Hoa chí chư Bồ Tát, tức giai đọa lạc, chí đại đệ tử, tiện trước bất đọa. Nhất thiết đệ tử thần lực khử hoa, bất năng linh khử.
Nhĩ thời, Thiên nữ vấn Xá-lỵ-phất: Hà cố khử hoa ?
Đáp viết: Thử hoa bất như pháp, thị dĩ khử chi.
Thiên viết: Vật vị thử hoa vi bất như pháp. Sở dĩ giả hà? Thị hoa vô sở phân biệt. Nhân giả tự sinh phân biệt tưởng nhĩ. Nhược ư Phật pháp xuất gia sở hữu phân biệt vi bất như pháp. Nhược vô sở phân biệt, thị tắc như pháp. Quán chư Bồ Tát, hoa bất trước giả, dĩ đoạn nhất thiết phân biệt tưởng cố. Thí như nhân úy thời, phi nhân đắc kỳ tiện. Như thị đệ tử úy sinh tử cố, sắc, thanh, hương, vị, xúc đắc kỳ tiện dã. Dĩ ly úy giả, nhất thiết ngũ dục vô năng vi dã. Kết tập vị tận, hoa trước thân nhĩ. Kết tập tận giả, hoa bất trước dã
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................59
__________________________________________________ _____________________________________
- Không trụ lấy gì làm gốc ?
- Không trụ thì không gốc.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi, ở nơi “gốc không trụ mà lập tất cả pháp”.
Bấy giờ trong nhà ông Duy Ma Cật có một Thiên nữ thấy các vị trời, người đến nghe pháp, liền hiện thân ra tung rải hoa trời trên mình các vị Bồ Tát và Đại đệ tử. Khi hoa đến mình các vị Bồ Tát đều rơi hết, đến các vị Đại đệ tử đều mắc lại. Các vị Đại đệ tử dùng hết thần lực phủi hoa mà hoa cũng không rớt.
Lúc ấy, Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất :
- Tự sao mà phủi hoa ?
Xá Lợi Phất nói :
- Hoa này không như pháp nên phủi.
- Chớ bảo hoa này là không như pháp. Vì sao ? Hoa này nó không có phân biệt, tự Nhân giả phân biệt đó thôi ! Nếu người xuất gia ở trong Phật pháp có phân biệt là không như pháp, nếu không phân biệt là như pháp. Đấy, xem các vị Bồ Tát, hoa có dính đâu ? Vì đã đoạn hết tưởng phân biệt. Ví như người lúc hồi hộp sợ, thời phi nhơn mới thừa cơ hại đặng. Như thế, các vị Đại đệ tử vì sợ sanh tử nên sắc thinh, hương, vị, xúc mới thừa cơ được, còn người đã lìa được sự sợ sệt thì tất cả năm món dục không làm chi đặng. Do tập khí kiết sử chưa dứt hết nên hoa mới mắc nơi thân thôi, còn người kiết tập (15) hết rồi, hoa không mắc được.
Kinh Duy Ma Cật60__________________________________________________ _____________________________________
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................60
__________________________________________________ _____________________________________
Xá-lỵ-phất ngôn: Thiên chỉ thử thất, kỳ dĩ cửu như?
Đáp viết: Ngã chỉ thử thất, như kỳ niên giải thoát.
Xá-lỵ-phất ngôn: Chỉ thử cửu da?
Thiên viết: Kỳ niên giải thoát, diệc hà như cửu?
Xá-lỵ-phất mặc nhiên bất đáp.
Thiên viết: Như hà kỳ cựu đại trí nhi mặc?
Đáp viết: Giải thoát giả, vô sở ngôn thuyết. Cố ngô ư thị bất tri sở vân.
Thiên viết: Ngôn thuyết, văn tự giai giải thoát tướng. Sở dĩ giả hà? Giải thoát giả, bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian. Văn tự diệc bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian.
Thị cố, Xá-lỵ-phất! Vô ly văn tự thuyết giải thoát dã. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết chư pháp thị giải thoát tướng.
Xá-lỵ-phất ngôn: Bất phục dĩ ly dâm, nộ, si vi giải thoát hồ?
Thiên viết: Phật vị tăng thượng mạn nhân, thuyết: ly dâm nộ si vi giải thoát nhĩ. Nhược vô tăng thượng mạn giả, Phật thuyết: dâm nộ si tánh, tức thị giải thoát.
Kinh Duy Ma Cật.................................................. .................................................. ......................60
__________________________________________________ _____________________________________
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Thiên nữ ở nhà này đã được bao lâu ?
- Tôi ở nhà này như Ngài được giải thoát.
- Ở đây đã lâu ư ?
- Ngài giải thoát cũng lâu như thế nào ?
Ngài Xá Lợi Phất nín lặng không đáp.
Thiên nữ nói :
- Tại sao bực kỳ cựu (16) đại trí lại nín lặng ?
- Giải thoát không có ngôn thuyết, nên ở nơi đó ta không biết nói làm sao !
Thiên nữ nói :
- Ngôn thuyết văn tự đều là tướng giải thoát. Vì sao ? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên, văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên. Thế nên, Ngài Xá Lợi Phất, chớ rời văn tự mà nói giải thoát. Vì sao ? Vì tất cả pháp là tướng giải thoát.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi :
- Không cần ly dâm, nộ, si, được giải thoát ư ?
Thiên nữ nói :
- Phật vì kẻ tăng thượng mạn nói lìa dâm, nộ, si là giải thoát thôi, nếu kẻ không tăng thượng mạn thời Phật nói tánh của dâm, nộ, si là giải thoát.