-
aaaaMột học viên tên Yamato đã biện luận việc chểnh mảng tọa thiền của mình bằng giai thọai về thiền như sau :
- Khi còn tu tại núi Hoành Nhạc, Mã Tổ chăm chỉ tọa thiền ngày đêm không mỏi mệt. Một hôm thầy ông là hòa thượng Nam Nhạc hỏi : «Con tọa thiền như thế để làm gì?». Mã Tổ trả lời: «Con cố gắng ngồi để được thành Phật». Nam Nhạc không nói gì, chỉ lấy một miếng ngói rồi mài đi mài lại trên hòn đá gần đó. Thấy lạ, Mã Tổ bèn hỏi: «Thầy mài ngói để làm gì vậy?». Nam Nhạc thản nhiên trả lời: «Để làm gương soi mặt». Mã Tổ lắc đầu: «Làm sao mài ngói mà có thể thành gương được!» Nam Nhạc cũng nói ngay: «Làm sao ngồi mãi mà có thể thành Phật được?».
Nghe Yamato nói vậy, vị trụ trì đã trả lời :
- Các ông chỉ ham thích những lý luận suông mà không hiểu Nam Nhạc biết rõ căn cơ của Mã Tổ lúc đó đang bị mê hoặc, cho rằng Phật tánh là một cái gì ở bên ngoài mà ông có thể tìm được qua việc tọa thiền, nên mới dạy như vậy để ông này tỉnh ngộ. Thật ra Nam Nhạc đâu có nói việc tọa thiền là vô ích như mài ngói không thể thành gương mà chỉ nhấn mạnh rằng làm sao Mã Tổ có thể thành Phật qua việc ngồi, nếu ông không bắt đầu là một ông Phật trước đã. Nói một cách khác, tọa thiền không mang đến cho ta Phật tánh, nó chỉ giúp cho tâm ta tĩnh lặng để ý thức được rằng Phật tánh vốn hiện hữu trong ta. Nếu tâm ta hoàn toàn an tĩnh thì một phút ngồi thiền chính là một phút làm Phật, còn như ngồi mà tâm vọng động, mong cầu thì có ngồi bao lâu cũng chỉ là vô ích thôi. Nếu lúc tọa thiền thì các ông ngủ gật nhưng sau buổi tọa thiền lại hăng say lý luận giảng giải lung tung như thế này thì đừng nói tu một kiếp, nếu có tu hành hàng trăm kiếp cho đến ngày đức Phật Di Lặc ra đời vẫn chẳng hiểu được gì hết. Các ông phải cố gắng công phu, chớ sinh tâm nghi ngờ hay chấp vào những giai thoại thiền mà các ông chưa hiểu rõ, để rơi vào ma đạo, trôi nổi trong sinh tử luân hồi, không giải thoát được.
Nghe vị trụ trì nói vậy, tôi cảm thấy yên tâm và cố gắng chăm chỉ tọa thiền theo phương pháp chỉ dẫn.
Trước khi đi xa hơn, tôi muốn nhắc qua về lịch sử Thiền tông Nhật Bản. Thiền tông du nhập vào xứ tôi từ lâu, có lẽ từ khi đạo Phật truyền vào đây. Lịch sử ghi nhận vào năm 552, quốc vương xứ Triều Tiên đã cho người mang triều cống Nhật Bản một số kinh sách, tượng Phật và sau đó Hoàng đế Nhật đã gửi người qua Triều Tiên, Trung Hoa để hỏi thêm về Phật pháp. Vào năm 654, ngài Đạo Chiêu (Dosho), một đệ tử của ngài Huyền Trang bên Trung Hoa, đã qua Nhật giảng dạy về thiền tại thành phố Nara. Sau đó các thiền sư khác như Đạo Tuân (Dosen), Nghĩa Không (Giku), Đạo Long (Doryu), Tố Nguyên (Sogen), Nhật Ninh (Ichinei) đều lần lượt được mời sang giảng dạy về thiền nhưng lúc đó Thiền tông vẫn chưa phát triển được bao nhiêu. Có người cho rằng các thiền sư trên chỉ đến giảng dạy một thời gian rồi trở về nước chứ không có ý định xây dựng, phát triển Thiền tông tại đây. Cũng có dư luận cho rằng phương pháp giảng dạy của các thiền sư Trung Hoa lúc đó không phù hợp với phong hóa Nhật Bản nên không được quần chúng đón nhận nhiệt thành. Phải chờ đến khi hai vị sáng tổ của Thiền tông Nhật Bản là ngài Vinh Tây (Eisai) và Đạo Nguyên (Dogen) qua Trung Hoa tu học, trở về hoằng pháp thì thiền tông mới phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người dân xứ này.
-
Tổ Vinh Tây (Eisai Myoan 1147 – 1215) là một vị cao tăng tu ở núi Hiei, một trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Nhật Bản lúc đó. Trước khi qua Trung Hoa ông đã là một luận sư rất giỏi. Ông nghiên cứu nhiều kinh điển nhưng không thỏa mãn với lời giải thích của các danh sư đương thời nên qua Trung Hoa tìm thầy học thêm. Ông du hành nhiều nơi, theo học với các cao tăng của Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Tịnh Độ Tông, nhưng vẫn không thỏa mãn cho đến khi gặp các thiền sư thuộc dòng Lâm Tế tại núi Thiên Đồng thì bao nghi ngờ đều được giải đáp cả. Ông sống tại đây nhiều năm để học hỏi thêm, hàng ngày theo chư tăng làm các công việc thường nhật như chẻ củi, giã gạo, canh tác theo đúng tinh thần thiền môn là «một ngày không làm là một ngày không ăn». Núi Thiên Đồng còn là nơi nổi tiếng sản xuất các loại trà (hai loại trà Long Tỉnh và Thiết Quan Âm đều phát xuất từ đây) nên hiển nhiên ông đã học được cách trồng trà. Khi trở về Nhật, ngoài việc giảng dạy thiền, Vinh Tây còn mang hạt giống trà về trồng và khởi xướng nghệ thuật uống trà tại đây, do đó người Nhật đã coi ông như tổ sư khai sáng dòng Lâm Tế Nhật Bản và cha đẻ ra nghệ thuật trồng trà, uống trà.
Vinh Tây là người có công rất lớn trong việc phát triển thiền học tại Nhật. Ông chủ trương thiền học chính là phương pháp khai phóng sức mạnh của dân tộc. Ông soạn thảo bộ Hưng thiền hộ quốc để làm tài liệu giảng cho học trò. Theo ông thì đạo Phật không giới hạn trong phạm vi của các tu viện mà phải thể nhập vào đời sống của đại chúng. Một quốc gia sở dĩ hưng thịnh được là nhờ những người trong đó biết tu tỉnh, biết sống trong tỉnh thức, biết ý thức tinh thần trách nhiệm và đạo đức. Ông chủ trương từ giai cấp lãnh đạo cho đến thứ dân đều phải thực tập thiền định, ngay các hiệp sĩ (Samurai) cũng phải biết tự chủ qua phương pháp thiền tập. Ông viết : «Nhờ làm chủ được mình mà mọi ý nghĩ, hành động của họ đều phản ảnh phần nội tâm phong phú, nhân cách điềm đạm, đo đó người hiệp sĩ có thể tìm thấy ‘hành trong vô hành, động trong bất động’, ung dung tự tại trước ngoại vật, ngay cả cái chết cũng không thể làm họ nao núng được ». Cuốn Hưng thiền hộ quốc trở nên cuốn sách gối đầu giường của giai cấp hiệp sĩ lúc đó và mở đường cho phong trào võ sĩ đạo (Bushido) sau này. Ngoài ra người ta còn thấy ảnh hưởng của Vinh Tây trong văn học, thi ca, kịch nghệ, hội họa, nghệ thuật cắm hoa, uống trà nữa. Chính nhờ Vinh Tây mà Thiền tông đã gắn liền với đời sống của người dân xứ này và chính nhờ biết thực tập thiền định mà người dân xứ này đã hun đúc được một lý tưởng quốc gia dân tộc mạnh mẽ đến ngày nay.
-
Tổ Đạo Nguyên (Dogen 1200 – 1253) xuất thân trong một gia đình quí tộc. Khi nhỏ, ông đã tỏ ra là người thông minh dĩnh ngộ. Lúc lên bốn tuổi đã đọc được thơ văn Trung Hoa và năm lên chín đã bắt đầu soạn thảo tài liệu về Phật học bằng tiếng Trung Hoa. Vì cha mẹ mất sớm khi ông còn nhỏ nên ông đã sớm suy gẫm về lý vô thường của cuộc đời. Các tác phẩm ông viết năm lên mười tuổi đã phản ảnh rõ ràng tâm trạng này. Năm mười hai tuổi, ông thọ giới xuất gia tại một ngôi chùa ở núi Hiei. Mặc dù còn nhỏ nhưng ông đã có những nhận xét xác đáng. Khi thấy phần lớn các tăng sĩ chỉ chú trọng vào việc cầu siêu, cầu an hoặc ủng hộ các gia đình thế gia vọng tộc chứ không chú tâm vào việc tu hành để giải thoát, ông đã đặt những câu hỏi mà các tăng sĩ lớn tuổi trong tu viện không thể trả lời. Năm mười lăm tuổi, ông thắc mắc: «Nếu như kinh đã nói, nếu chúng sinh đều sẵn tánh Bồ Đề, thì tại sao chư Phật phải nỗ lực mới đạt ngộ?» Vì không một vị sư nào ở núi Hiei lúc đó có thể giải thích thỏa đáng câu hỏi trên nên Đạo Nguyên lên đường đi khắp Nhật Bản tìm các danh sư khác để tham vấn. Lúc đó Tổ Vinh Tây ở Trung Hoa trở về, đang truyền bá giáo lý Lâm Tế ở chủa Kenninji nên ông tìm đến. Cuộc gặp gỡ giữa hai vị tổ Thiền tông của Nhật Bản diễn ra như sau :
Đạo Nguyên bước vào xin gặp Vinh Tây và đặt ngay câu hỏi. Vừa nghe xong, Vinh Tây ung dung trả lời: «Không Phật nào biết, chỉ có hàng thô lậu biết mà thôi », ngụ ý chư Phật không còn nghĩ đến có hay không có bản tánh Bồ Đề, chỉ có hạng người mê hoặc mới nghĩ đến những điều như thế. Vừa nghe xong, bao thắc mắc từ bấy lâu nay đều tiêu tan cả nên Đạo Nguyên sụp xuống lạy và xin được ở lại chùa Kenninji tu học dưới sự hướng dẫn của Vinh Tây. Cuối năm đó tổ Vinh Tây qua đời, Đạo Nguyên tiếp tục tu học dưới sự hướng dẫn của các đệ tử lớn của Vinh Tây. Ông đã hoàn tất một số công án và được thiền sư Myozen, vị kế nghiệp của Vinh Tây, ấn chứng cho. Mặc dù được thế, Đạo Nguyên vẫn cảm thấy trong lòng có nỗi bất an nên ông tìm đường qua Trung Hoa học hỏi thêm.
Ông đi khắp Trung Hoa, dừng chân ở các thiền viện nổi tiếng, tu tập dưới sự dẫn dắt của rất nhiều vị thầy nhưng vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn cho đến khi ông gặp Thiền sư Như Tịnh (Nyojo) thuộc dòng Tào Động chỉ cho ông phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa (Shikan – Taza), một hình thức tọa thiền không tham công án cũng không theo dõi hơi thở. Ông chăm chỉ thực hành phương pháp này ngày đêm không mệt mỏi. Một hôm trong buổi thiền tập, Như Tịnh bắt gặp một vị tăng đang ngủ gật, ông bèn quở trách vị này không hết lòng cố gắng rồi quay qua tăng chúng trong thiền đường, khuyên: «Các ông phải dùng tất cả sức mạnh của mình, ngay cả hy sinh mạng sống nữa, muốn giác ngộ hoàn toàn, các ông phải xả bỏ thân tâm». Khi nghe đến cuối câu này, Đạo Nguyên bỗng liễu ngộ. Ông cảm thấy trong lòng sảng khoái, hoan hỉ lạ thường; bao thắc mắc, các nỗi bất an đều tiêu tan cả. Hôm sau, ông bước đến phòng thầy đốt một nén nhang và quì lạy. Như Tịnh vốn đã biết rõ căn cơ Đạo Nguyên, nay nhìn thấy học trò mình đã đại ngộ qua cách đi đứng, quì lạy nên giả vờ hỏi: «Tại sao con lại thắp nhang?» Đạo Nguyên đáp:«Kính thưa thầy, con đã xả bỏ thân tâm». Như Tịnh bèn lập lại: «Con đã xả bỏ thân tâm. Thân tâm thực đã xả bỏ». Đạo Nguyên bèn trách: «Xin thầy đừng ấn chứng cho con một cách dễ dàng như vậy». Như Tịnh thản nhiên: «Ta có ấn chứng dễ dàng thế đâu». Đạo Nguyên lắc đầu: «Xin thầy chỉ cho con thầy không ấn chứng dễ dàng». Như Tịnh đáp: «Đây là xả bỏ thân tâm». Đạo Nguyên cảm động quì sụp xuống lạy thầy một lần nữa. Như Tịnh hài lòng gật đầu và nói: «Đó là xả bỏ cái xả bỏ». Mặc dù đã được thầy ấn chứng nhưng Đạo Nguyên vẫn tiếp tục tu học với Như Tịnh thêm hai năm nữa trước khi từ giã thầy lên đường về nước.
-
Tuy được coi là người đã mang giáo lý Tào Động từ Trung Hoa về truyền bá tại Nhật nhưng thật ra Đạo Nguyên không hề có ý định thành lập môn phái. Nếu nghiên cứu kỹ các bài giảng của ông, người ta thấy ông không hề bị ràng buộc vào giáo lý Tào Động. Ông đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, và nếu cần, sẵn sàng vay mượn phương pháp của các dòng khác như Lâm Tế, Hoàng Bá, Ngưu Đầu. Ông chủ trương «tùy bệnh cho thuốc», tùy căn cơ học trò mà giảng dạy. Ông cho rằng người tu thiền có thể tạm chia ra làm bốn loại. Loại thứ nhất là những người không có lòng tin tưởng sâu xa nhưng nhờ duyên nghiệp mà đến với thiền. Loại thứ hai là những người chỉ mong nhờ tu thiền mà cải thiện sức khỏe, cả thể xác lẫn tinh thần. Loại thứ ba là những người có lòng tin, muốn đi theo con đường của đức Phật, và loại thứ tư là những người không những đã có lòng tin mà còn có tinh thần dũng mãnh, quyết tâm thực hiện chân ngã của mình, để đạt đến giác ngộ giải thoát. Tùy học trò thuộc loại nào mà ông giảng dạy cho họ phương pháp tọa thiền nào thích hợp nhất cho từng người.
Đạo Nguyên là một trong những thiền sư siêu việt nhất của Nhật Bản. Ông dạy đạo một cách mãnh liệt nhất bằng chính thái độ sống của mình. Ông viết bộ Chánh pháp nhãn tạng (Shobogenzo) đề cập quan niệm sống, từ những việc nhỏ nhặt, giản dị nhất như cách thực hiện phương pháp vệ sinh trong tu viện đến những quan niệm lớn lao, trừu tượng hơn như sự tương quan giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Khi được triều đình mời vào giảng dạy, ông hăng say cổ súy việc tu tập thiền định tại đây. Khi thấy những người cầm quyền chỉ coi thiền như một thứ giải trí, ông lập tức bỏ đi và than: «Phật pháp là thực hành, không phải để nói suông». Vào lúc đó, phần lớn các tăng sĩ đều dựa vào thế lực của triều đình, việc được mời đến giảng dạy cho vua chúa là một vinh dự rất lớn, có thể đưa đến việc triều đình cấp ruộng nương, đất đai để lập tu viện. Thái độ bất khuất, thẳng thắn của ông đã khiến cho các tu viện lúc đó ngần ngại không dám chứa chấp ông. Một số tăng sĩ còn lên tiếng chỉ trích ông nữa nhưng người ta càng chỉ trích ông bao nhiêu, danh tiếng của ông lại càng nổi lên như cồn bấy nhiêu. Ông đến tỉnh Echizen, đích thân quyên góp tiền bạc của dân chúng để dựng một cảnh chùa riêng, không cần đến sự giúp đỡ của triều đình. Số người kéo đến xin tu học với ông rất đông. Ông thường nói: «Đừng chờ lúc khát mới đào giếng, đừng chờ lúc già mới học đạo, mà phải nỗ lực tinh tấn tu hành ngay trong lúc này. Nếu kiếp này không ngộ thì còn chờ đến kiếp nào?» Thấy uy tín của ông mỗi ngày một lớn, triều đình cho người cầm chứng thư đến phủ dụ, trong thư hứa sẽ cấp rất nhiều đất đai, ruộng nương cho ông nhưng ông từ chối. Nhờ thế danh tiếng của ông lại càng nổi hơn, số người kéo đến xin xuất gia với ông rất đông nhưng ông nói: «Không phải vào chùa mới là tu mà phải biết tu trong mọi hoàn cảnh». Cũng như Vinh Tây, Đạo Nguyên chủ trương thiền phải được thể hiện ngay trong đời sống hàng ngày và trong kinh nghiệm cá nhân. Khi sứ quân Tokiyori hỏi ông có cách nào giảng về thiền một cách thật ngắn và thật dễ hiểu không, ông đã trả lời: «Đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền cả». Có thể nói nhờ Đạo Nguyên mà sự giản dị, thanh khiết và thành thật đã ảnh hưởng rất nhiều đến người dân xứ này.
-
Ngày nay một số người thường phân biệt phương pháp giảng dạy giữa hai dòng Tào Động và Lâm Tế. Họ cho rằng Tào Động chú trọng về tọa thiền trong khi Lâm Tế chủ trương tham công án. Thật ra cả hai phái đều chú trọng đến sự tọa thiền cũng như tham công án. Tổ Đạo Nguyên trước khi qua Trung Hoa đã từng tu học với Tổ Vinh Tây, đã từng tham công án trong tám năm và được ấn chứng bởi các thiền sư Lâm Tế. Sau khi học được phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa của phái Tào Động tại Trung Hoa, ông đã trở về Nhật giảng dạy cho các môn đệ của mình nhưng ông đã mang theo bộ Bích Nham Lục, gồm một trăm công án làm tài liệu giảng dạy thêm. Ngoài ra ít lâu sau ông còn soạn thêm cuốn Niêm bình tam bách tắc (Nempyo Sambyaku Soku) gồm ba trăm công án nữa để làm sáng tỏ phương pháp giảng dạy của mình. Ngay trong bộ sách Chánh pháp nhãn tạng của ông cũng chứa đựng rất nhiều công án, do đó không thể nói phái Tào Động chỉ chú trọng đến tọa thiền mà thôi. Có lẽ vì phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa là một phương pháp rất cao, thuộc Tối Thượng Thiền (Saijojo), những kẻ thiếu nhiệt tâm khó lòng tu tập nên các thiền sư dòng Tào Động đã phương tiện dẫn dắt người mới nhập môn tập đếm hơi thở (sổ tức) để cho tâm được hợp nhất, sau đó họ giảng dạy cách tham công án để phá tung các vướng mắc của lý trí, tư tưởng, quan niệm, thành kiến, và sau cùng mới dạy Chỉ Quán Đả Tọa để kiến tánh.
Chỉ Quán Đả Tọa (Shikan Taza) là một phương pháp thực hành của phái Tào Động mà tổ Đạo Nguyên đã mang từ Trung Hoa về. Đây là cách tọa thiền không đếm hơi thở cũng như không tham công án, mà chỉ tập trung nỗ lực vào việc ngồi mà thôi (đả tọa). Dĩ nhiên điều này rất khó vì tâm dễ bị xao lãng nếu không được tập trung vào sự đếm hơi thở hay vào công án. Đả tọa là cách ngồi sao cho thật ung dung, không vội vã, ngồi thoải mái vững vàng như núi và linh mẫn như nước. Nói một cách khác, đó là một tâm trạng tập trung cao độ nhưng không quá căng thẳng và dĩ nhiên không giải đãi. Tổ Đạo Nguyên đã diễn tả tâm trạng này như sau: «Đó là tâm trạng của một kiếm sĩ đang thủ thế trước một địch thủ lợi hại, ông ta phải hết sức đề cao cảnh giác, không ngừng theo dõi từng bước đi, từng cử động nhỏ của đối thủ. Mỗi người đều chuẩn bị xuất chiêu và sự thiếu cảnh giác, dù chỉ trong giây phút thôi, cũng đem lại cái chết. Trong lúc đó có một đám đông người tụ tập theo dõi cuộc đấu kiếm. Dĩ nhiên vì mắt không mù nên kiếm sĩ nhìn thấy họ rất rõ; vì tai không điếc nên kiếm sĩ nghe rõ những lời khen chê của họ, nhưng ông ta phải biết làm chủ tâm mình, không để ngoại cảnh chi phối dù chỉ trong phút chốc, vì sai một giây thôi cũng đủ mất mạng rồi. Do đó một kiếm sĩ phải biết sử dụng kiếm một cách ung dung, không quá gắng sức, chỉ khi cần thiết mới nỗ lực xuất chiêu thôi. Chỉ Quán Đả Tọa là thế đó. Lúc mới tập ai cũng gắng sức và căng thẳng nhưng khi công phu đã chín muồi thì sự căng thẳng từ từ biến đi và thay bằng sự ung dung thoải mái, dĩ nhiên vẫn có sự chú tâm đầy đủ. Giống như bực kiếm sư sử dụng kiếm không hề gắng sức, không hề suy tính chiêu thức vì kiếm và người đã là một, thân và tâm đã nhất như thì Chỉ Quán Đả Tọa cũng như thế, không còn phương tiện, không còn cứu cánh mà tất cả chỉ là một. Do đó chư Phật quá khứ cũng như vị lai đều thực hành phương pháp này vì nó biểu lộ sự sống tuyệt đối, sự sống trong các hình thức tinh khiết nhất. Nó không dính dáng gì đến việc phải nỗ lực, cố gắng để đạt ngộ giải thoát hay bất cứ một đối tượng nào khác. Nó hoàn toàn vô cầu, vô niệm. Thực hành thiền như thế chính là thể hiện Chân tánh không hề ô nhiễm của mình và đó chính là Thiền Tối Thượng Thừa ».
-
Vì chùa Chuoji chỉ mở các khóa tu thiền vào lúc cuối tuần nên một người bạn đã nói với tôi rằng người ta không thể tiến bộ gì nhiều nếu chỉ tu một cách «tài tử» vào lúc cuối tuần như vậy. Theo bà, muốn tiến nhanh hơn, người ta cần phải tham dự những tuần lễ Nhiếp Tâm (Zazen Sessin) vì trong tuần lễ này, thiền sinh phải nỗ lực công phu, ngày cũng như đêm, vượt qua những trở ngại để chứng ngộ. Tôi được biết tại Maruyama có một thiền viện thuộc dòng Lâm Tế, thường mở những tuần lễ nhiếp tâm mỗi năm hai lần. Trong tuần lễ này, thiền sinh nỗ lực tham cứu công án và được Thiền sư Joten, một trong những thiền sư nổi tiếng của phái Lâm Tế lúc đó, hướng dẫn. Có ba cách tu tập : Thính tham (Sosan) là những buổi giảng chung mà các thiền sinh phải tham dự để nghe các thiền sư dạy về phương pháp tu tập. Độc tham (Dokusan) là sau khi nỗ lực tu tập, thiền sinh được đưa đến gặp riêng các thiền sư vào những giờ phút qui định trước, để trình bày kiến giải của mình cho thầy nghe. Đặc tham (Naisan) là bất cứ lúc nào học trò cần trình bày kiến giải hay có những nghi tình, thắc mắc khẩn cấp cần phải vào gặp riêng thầy vào những giờ phút không qui định trước. Mùa thu năm ấy, tôi ghi tên tham dự tuần lễ nhiếp tâm tại chùa Zuryuji thuộc tình Maruyama.
Đó là một ngôi chùa cổ nằm ở ngoại ô thành phố, mái phủ đầy rong rêu, trước cổng có treo một tấm bảng gỗ nét chữ đã phai mờ, phải nhìn kỹ mới thấy được chữ « Zuryuji ». Thiền đường trần thiết giản dị với một tượng Phật bằng gỗ, nét khắc đơn sơ một mạc, trên vách có một bức tranh lớn vẽ tổ Bồ Đề Đạt Ma đang quảy chiếc dép đi về phương tây. Quanh vách là những bục gỗ được đóng cao lên để thiền sinh tọa thiền. Chúng tôi được vị tri khách tăng chỉ dẫn cẩn thận về cách thức đi đứng, sinh hoạt trong tuần lễ nhiếp tâm:
- Quí vị nên biết, đây là một cơ hội hiếm có mà trong đó quí vị sẽ cố gắng để đạt đến giác ngộ (Satori). Thời gian sắp đến rất quan trọng và đòi hỏi nỗ lực phi thường, do đó tôi yêu cầu quí vị hãy nghỉ ngơi sớm để sáng mai khi khóa nhiếp tâm bắt đầu, quí vị sẽ có đủ sức theo đuổi. Nếu quí vị không cố gắng trong khóa tu này thì quí vị còn chờ đến bao giờ? Trong tuần lễ này, tất cả mọi người phải tuyệt đối giữ im lặng, không được nói chuyện hay gây tiếng động, làm phiền người khác. Thời khóa tu tập đã được ấn định, giờ giấc ăn ngủ, nghỉ ngơi đều có ghi rõ trong lịch trình tu học và sẽ có chuông báo, quí vị phải tuyệt đối tuân lệnh những vị tăng phụ trách...
Khóa Nhiếp Tâm (Zazen Sassin) bắt đầu từ sáng sớm với nghi thức phổ thông trước khi chuyển qua phần thính tham (Sosan). Thiền sư Joten, người hướng dẫn khóa tu, là một vị tăng có nét mặt oai nghi và nghiêm khắc. Ông im lặng chờ mọi người an tọa rồi mới đưa mắt nhìn quanh thiền đường như để nhận diện từng người một trước khi lên tiếng :
- Trong khóa tu này quí vị phải cố gắng tìm hiểu về thiền. Có lẽ quí vị đã từng nghe, từng đọc, từng đàm luận về thiền rồi nhưng cái thứ thiền trên sách vở, trên đầu môi chót lưỡi đó chẳng có ích lợi gì cho quí vị cả. Càng nói nhiều về thiền, quí vị càng dễ đắm đuối. Càng nghe nhiều về thiền, quí vị càng thêm nhức óc nếu quí vị không thực sự tự mình cố gắng tìm hiểu xem thiền là gì. Người ta không thể hiểu Phật pháp qua kiến văn quảng bác hay các lý luận cao siêu được. Nếu lý luận có thể giải thích được thì đó chỉ là một mớ kiến thức chứ chắng phải Phật pháp. Nếu quí vị không nhất quyết một lòng tu tập thì chẳng bao giờ quí vị có thể giải thoát được.
-
Ông im lặng một lúc như để lời nói ăn sâu vào tâm thức mọi người rồi mới tiếp tục :
- Trong tuần lễ Nhiếp tâm này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng công án «Vô» của Triệu Châu như sau: Một tăng sĩ đến gặp Triệu Châu và hỏi: «Thưa thầy, con chó có Phật tánh không?» Triệu Châu trả lời: «Vô». Bây giờ quí vị hãy chuyên tâm vào chữ «Vô» này và tìm hiểu xem ý nghĩa của nó như thế nào. Dĩ nhiên nghĩa đen của nó là «không» nhưng thực ra lời giải đáp của Triệu Châu không nằm ở chỗ đó. Quí vị phải cố gắng tham cứu công án để tìm ra cái cốt tủy của chữ “Vô” này. Quí vị sẽ thấy rằng mọi lý luận, phân tích bằng lý trí đều vô hiệu vì ý nghĩa đích thực của nó không thể tìm kiếm được bằng lý trí. Quí vị hãy xếp bằng, thở hít thật đều đặn và thầm đọc chữ «Vô» ở trong tâm. Hãy cố gắng tập trung mọi năng lực trong người vào chữ «Vô» này, đừng nghĩ đến ý nghĩa của nó, đừng tìm hiểu bằng lý luận, hãy tập trung nỗ lực để trở thành một với nó đã.
Chỉ khi nào hòa nhập được với «Vô» rồi thì quí vị mới bắt đầu tự hỏi : «Vô là gì hay nó có thể là cái gì?» và sau đó tập trung mọi năng lực trong người vào câu hỏi đó cho đến khi nó bùng vỡ ra và từ đó mọi sự sẽ tự nó giải quyết. Khi đó quí vị sẽ vào độc tham với tôi để chứng minh một cách đích thực rằng quí vị đã hiểu «Vô» là gì. Trong khi tu tập, điều quan trọng nhất là quí vị phải giữ công án này trong tâm, ngày cũng như đêm, sáng cũng như tối, đi, đứng, nằm, ngồi đều phải chú tâm nơi công án, không được nghĩ bất cứ một điều gì khác. Phải sử dụng tất cả mọi năng lực trong người để giữ nó trong tâm, tuyệt đối không được xao lãng vì một phút ngập ngừng là hỏng hết công phu rồi. Chỉ một giây lơ đễnh quí vị có thể đi xa cả ngàn dậm, do đó trong việc tham công án, quí vị phải hết sức đề cao cảnh giác. Phải biết gạt bỏ mọi vọng niệm mà chỉ chuyên nhất vào chữ «Vô» mà thôi.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu phần thính tham đã chấm dứt. Các thí sinh xếp bằng quay mặt vào vách và bắt đầu việc tham công án. Vì đã từng tọa thiền từ trước nên tôi cảm thấy thoải mái ngay với cách ngồi này nhưng không phải ai cũng như vậy. Nhiều người không quen cứ phải thay đổi cách ngồi, co chân duỗi tay, gây trở ngại không ít cho việc tập trung của người khác. Sau khi hơi thỏ đã điều hòa, tôi bắt đầu tập trung tư tưởng vào công án. Vì đây là lần đầu tham công án nên trí óc của tôi chưa thuần thục, nó cứ xoay chuyển tìm đủ mọi cách để giải công án này qua sự suy luận quen thuộc của nó nhưng vì đã được cảnh cáo trước nên tôi cố gắng loại bỏ những tư tưởng xáo trộn này.
Thoạt nghe thì tưởng dễ nhưng thật ra đâu là việc không dễ chút nào, tôi cứ phải phấn đấu để loại bỏ những lý luận này mãi nên chỉ một lúc sau mồ hôi của tôi đã toát ra như tắm. Bình thường tôi có thể ngồi thiền khá lâu, nhưng lần này chỉ khoảng tàn một nén nhang tôi đã cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Tôi cố gắng tập trung định lực vào chữ «Vô» nhưng không hiểu sao đầu óc của tôi cứ muốn nổ tung lên. Mọi ngày khả năng tập trung của tôi rất mạnh, nhưng lần này nó không theo mệnh lệnh của tôi nữa. Hơi thở của tôi tự nhiên tán loạn, đầu óc của tôi trở nên mơ hồ. Đúng vào lúc tôi cảm thấy gần như không kiểm soát nổi thì có tiếng gió rít ngang tai và chiếc Tỉnh Thức Côn bằng gỗ đã đập mạnh vào lưng tôi. Tiếng vị tăng kiểm soát (Godo) vang lên :
- Hãy cố gắng tập trung, đừng tách rời công án dù chỉ một thoáng giây.
-
Lạ lùng thay, cái đánh bằng Tỉnh Thức Côn có một mãnh lực kỳ lạ làm tôi như thoát khỏi cơn mê. Tôi vội ngồi thẳng người lên, hít một hơi dài để lấy sức rồi tiếp tục tập trung tư tưởng vào chữ «Vô». Về sau này tôi nghe nhiều người phàn nàn về việc bị đánh bằng chiếc gậy này khi họ ngủ gật hay xao lãng tâm thân, có người đã tỏ ra bất mãn khi bị đánh như vậy. Theo tôi thì đây là một phương pháp rất hay nhằm mục đích làm thức tỉnh những năng lực đang bị tán loạn hoặc hôn trầm khiến người tu tích cực trong việc tu tập hơn. Một số nhà phê bình người Âu cho việc đánh bằng Tỉnh Thức Côn là dã man, hung bạo, không hợp với tinh thần từ bi của Phật giáo, nhưng thật ra điều này không đúng.
Tỉnh Thức Côn chỉ là cây gậy gỗ dài khoảng một thước, một đầu dẹp trông giống như mái chèo, được chế tạo bằng gỗ mềm nên dù có đánh mạnh cũng không thể gây thương tích cho ai được. Nên nhớ mục đích của cây gậy này không phải để trừng phạt mà chỉ để thức tỉnh người đang buồn ngủ, khuyến khích kẻ đang mệt mỏi, và cảnh tỉnh một người đang xao lãng thân tâm. Vị tăng sử dụng Tỉnh Thức Côn thường là một người nhiều kinh nghiệm, được huấn luyện cẩn thận để làm việc này và ông rất ý thức mỗi khi vung gậy lên đánh chứ không hung hăng gây bạo hành như nhiều người thường nghĩ. Thông thường người bị đánh chắp tay giơ lên để tỏ lòng biết ơn và vị tăng đi kiểm soát cũng cúi đầu đáp lễ trong tinh thần tương thân tương kính.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi thiền tập đầu tiên đã chấm dứt, tôi nghe có nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm. Theo sự hướng dẫn của vị tăng, mỗi người thong thả xoa nắn chân tay cho đỡ mỏi một lúc rồi sắp hàng để đi kinh hành (Kihin) quanh thiền đường. Sau buổi kinh hành, chúng tôi được nghỉ ngơi khoảng nửa giờ trước khi vào thiền đường tiếp tục tham cứu công án. Vì là tuần lễ Nhiếp Tâm nên mỗi ngày có tất cả bảy buổi thiền tập như vậy từ sáng đến khuya, trong khi các khóa thiền tập khác thường chỉ có khoảng ba hay bốn buổi thiền tập là nhiều. Ngoài các thời khóa công phu, mọi người được nghỉ ngơi, ăn uống hay tắm rửa nhưng họ được căn dặn phải giữ tuyệt đối yên lặng và chú tâm vào công án.
Trong ngày đầu đa số chưa quen nên ai nấy đều mệt lả nhưng bước sang ngày thứ hai, tôi thấy nhiều người đã cố gắng tu tập một cách kiên trì và đến ngày thứ ba thì thiền sinh chia làm hai nhóm rõ rệt, một nhóm chăm chỉ gắng sức tham công án bất kể mệt mỏi và một nhóm chỉ cố gắng làm sao để có thể theo kịp các thời khóa mà thôi. Về phần tôi tuy không gặp khó khăn trong tư thế ngồi nhưng lại gặp trở ngại trong việc tham công án, hàng trăm ý tưởng kỳ lạ cứ nảy sinh trong đầu óc khiến nhiều lúc tôi cảm thấy mệt mỏi, chỉ muốn bỏ cuộc. Đây là một sự lạ vì tôi là một người đã có khả năng tập trung khá cao nhưng có lẽ cũng chưa quen với lối tọa thiền tham công án này. Việc đưa ra một đề tài đã kích thích khả năng lý luận của tôi, khiến đầu óc tôi cứ khổ công phấn đấu để loại bỏ các tạp niệm này. Sự tranh chấp giữa các ý niệm lăng xăng khiến tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi, nhưng lần nào cũng thế, mỗi khi sắp sửa xao lãng thì vị tăng cầm tỉnh thức côn đã bước đến đập nhẹ vào vai tôi :
- Bà phải cố gắng chiến đấu mãnh liệt thêm nữa.
-
Tôi thầm nghĩ tại sao tọa thiền lại là một sự chiến đấu? Người ta há chẳng nói thiền là ngồi yên tĩnh hay sao? Tôi đã từng ngồi yên tĩnh lặng được kia mà, tại sao trong lối tu này lại phải chiến đấu như thế? Đang mải mê suy nghĩ thì vị tăng bước lại ghé sát vào tai tôi nói lớn:
- Đừng mất thì giờ thắc mắc làm gì, hãy tập trung vào «Vô» thôi. Đó là điều duy nhất cần làm lúc này, chỉ vậy thôi.
Cứ thế mỗi ngày chúng tôi tiếp tục tham công án như vậy nên đầu óc của tôi mỗi lúc một căng thẳng, hơi thở của tôi không còn nhẹ nhàng thoải mái mà trở nên hổn hển gấp rút khác thường. Tuy nhiên tôi không phải là người duy nhất vì hầu như ai nấy đều gặp khó khăn tương tự. Khắp thiền đường đầy những hơi thở dồn dập nặng nề, thỉnh thoảng lại có người kêu lớn «Vô», «Vô» như mê sảng. Vị tăng cầm tỉnh thức côn càng ngày càng mệt nhọc hơn trước, ông đi hết chỗ này đến chỗ khác để nhắc nhở và tùy hoàn cảnh mà ông nhắc mỗi người một cách khác nhau. Có khi ông nói nhẹ nhàng nhưng cũng có khi ông quát lớn và đến những ngày cuối thì gần như ai nấy đều mệt lả, không thể kiểm soát được nữa.
Thiền đường trở nên một «bãi chiến trường» với những tiếng kêu gần như tuyệt vọng: «Vô», «Vô»... Ai nấy đều cố gắng giữ tư thế để tránh khỏi gục xuống sàn vì kiệt sức. Tôi cố gắng tập trung tư tưởng nhưng không thể bám víu vào chữ «Vô» được vì hầu như nó và tôi vẫn còn một khoảng cách kỳ lạ nào đó. Tôi nắm chặt hai tay lại, vận dụng tất cả sức bình sinh để giữ công án trong tâm nhưng càng cố gắng bao nhiêu nó càng tuột ra bấy nhiêu. Mồ hôi toát ra như tắm, tôi nghiến chặt răng lại nhưng năng lực trong người tôi dường như biến đâu mất hết. Tôi cảm thấy như đang rơi vào một trạng thái kỳ lạ, không còn kiểm soát được mình nữa.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi tập thiền đã chấm dứt, mọi người vội vã xoa bóp chân tay và chuẩn bị cho phần độc tham (Dokusan). Vì là lần đầu còn bỡ ngỡ, tôi không biết phải làm gì hay thu xếp để trình bày sự hiểu biết của mình như thế nào. Chúng tôi đi dọc theo hành lang ra hậu liêu rồi chắp tay chờ đến lượt vào độc tham với thiền sư Joten. Tôi chẳng biết mình đã chờ đợi bao lâu vì lúc đó đầu óc tôi hết sức mệt mỏi vì tập trung quá độ, thân thể kiệt quệ thiếu điều đứng không nổi nữa. Vị tăng phụ trách ra hiệu cho tôi bước vào một căn phòng nhỏ ở cuối dãy. Dưới ánh nến leo lét, tôi thấy thiền sư Joten đang ngồi yên lặng chờ đợi. Lúc đó tôi không biết phải làm gì hay tuân theo một nghi thức nào. Bao nhiêu điều được dặn dò trước khi vào độc tham tôi đều quên hết nhưng dường như có một động năng nào đó thúc giục, tôi thu hết can đảm bước thẳng đến chỗ thiền sư Joten ngồi và nói lớn:
- Bạch thầy, tâm chính là đạo.
Vừa thốt xong câu đó tôi bỗng giật mình không hiểu tại sao mình lại nói như vậy. Đó không phải là một câu nói ngẫu nhiên, nhưng là điều mà tôi đã cảm nhận được khi thực hành những nghi thức tẩy uế bằng nước lạnh (Misogi) ở Hokkaido. Tôi nghĩ rằng đó là một kinh nghiệm về sự giác ngộ (Satori) qua công phu tu tập nhiều năm mà tôi vẫn ấp ủ trong đáy lòng nhưng chưa có dịp bày tỏ. Không hiểu sao trong giây phút bất ngờ, tôi lại thốt ra như vậy. Vừa nghe tôi nói thế, thiền sư Joten đã nghiêm nghị trả lời ngay:
- Đó là một lý thuyết sai lầm.
-
Câu nói lạnh lùng làm tôi chưng hửng như vừa bị dội một gáo nước lạnh lên người. Có thể như vậy sao? Tôi toan cãi rằng đó không phải là một lý thuyết nhưng là sự cảm nhận, trực ngộ qua công phu tu tập từ trước của tôi nhưng trước ánh mắt nghiêm trang của thiền sư Joten, không hiểu sao tôi lại giữ thái độ im lặng. Thiền sư chăm chú nhìn tôi như chờ đợi phản ứng nhưng không thấy tôi nói gì, ông khoát tay ra hiệu cho tôi lui ra. Tôi đã thất bại trong việc trình bày kiến giải của mình về công án «Vô». Tôi bước trở về thiền đường trong một tâm trạng chán nản và tuyệt vọng cùng cực. Tôi không biết phải làm gì hay thế nào nữa đây. Công phu tu tập và sự cảm nhận vẫn ấp ủ trong lòng từ trước đến nay bỗng dưng bị gạt bỏ một cách phũ phàng không thương tiếc.
Tại sao thiền sư Joten không an ủi hay ban cho tôi một câu nói khích lệ hơn? Phải chăng thiền sư Joten, giống vị lão sư của Thần Đạo chỉ là những người ích kỷ, lạnh lùng đầy những mưu toan, tính toán? Tôi cảm thấy mệt mỏi rã rời, mọi sinh lực trong người gần như mất hết. Tôi cố gắng không lộ vẻ xúc động, bước về chỗ ngồi của mình và giữ im lặng nhưng không hiểu sao công án «Vô» lại tiếp tục ám ảnh đầu óc tôi. Hình như có một cái gì đang phát triển trong tôi, một cảm giác rất vi tế mà tôi không thể hiểu. Tuần lễ nhiếp tâm chấm dứt với một khóa lễ phổ thông. Sau khóa lễ, thiền sư Joten kết thúc bằng một buổi nói chuyện ngắn:
- Trong tuần lễ nhiếp tâm này, một số lớn quí vị chưa nắm vững được ý nghĩa của công án «Vô». Có lẽ quí vị chưa cố gắng hết sức, chưa một lòng một dạ để sống chết với công án này. Một vài người trong quí vị đã tỏ ra hài lòng với kinh nghiệm nhỏ nhặt đạt được trong lúc tu tập nhưng đó chỉ là những chướng ngại mà thôi. Tu thiền phải biết đi đến chung cuộc, phải đạt chứng ngộ mới được chứ không thể có việc đi nửa chừng. Một là quí vị ngộ, hai là không ngộ chứ không thể lưng chừng ở giữa được. Do đó quí vị phải biết chuyên tâm vào công án, dù các vọng niệm nổi lên cứ mặc nó mà chỉ chú tâm vào công án thôi. Một số quí vị đã mắc lỗi lầm thông thường là cố gắng đè nén các vọng niệm đó xuống, quí vị sẽ không thể thành công như vậy được. Chư tổ đã dạy «Cố đạt đến cái tĩnh bằng cách dẹp cái động thì cái tĩnh lại càng quấy động hơn nữa, càng nỗ lực đè nén cái động bao nhiêu thì kết quả lại càng ngược lại bấy nhiêu». Cái «Vô» của Triệu Châu đối với người chưa quán triệt là một bức tường dày bằng sắt nung đỏ, không ai dám đâm đầu vào đó nhưng nếu dũng mãnh, cố gắng tham công án ngày này qua ngày khác không một phút ngưng nghỉ, thì quí vị sẽ thấy nó chẳng có gì ghê gớm cả...
Vừa nghe đến đó tôi bừng tỉnh và nghĩ rằng có lẽ thiền sư Joten đã nói riêng cho tôi về phương pháp tham công án. Suốt mấy ngày qua tôi chẳng đã nỗ lực đè nén những vọng niệm xuống hay sao, có lẽ vì thế nên tôi rất mệt, nhưng hiện nay tôi đã hiểu và biết đâu tôi chẳng chứng ngô được trong một thời gian ngắn. Tự nhiên tôi nghĩ việc gì phải chờ đợi đến khóa nhiếp tâm sang năm như vậy, tôi sẽ về nhà tập trung năng lực để giải công án này rồi tới độc tham với thiền sư Joten để vị này ấn chứng cho.