-
Kinh :
“Thần thông : nhân đời trước
“Quan (hệ) gì pháp phân biệt
“Duyên niệm chẳng lìa vật
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng:
Thần thông Tiểu Thừa đều là tác ý. Duyên với vật thì có, lìa vật thì không, chẳng phải lìa vật mà có thể hiển hiện, cho nên duyên với hữu niệm vậy. Đấy là hệ thuộc cái thần lực thành tựu của đời trước, chứ chẳng liên quan với diệu pháp phân biệt mà được hiển hiện. Đã chấp trước vào thần thông, nên chẳng thế nói chỗ Viên Thông được.
Tổ Hoàng Bá ban đầu đi thăm núi Thiên Thai, gặp một nhà sư như đã từng quen, bèn cùng nhau đi. Đến khe suối nước đầy chảy mạnh, Tổ Bá chống gậy mà nghỉ. Nhà sư thúc Tổ Bá cùng qua.
Tổ Bá nói: “Mời huynh qua trước”.
Nhà sư liền để nón nổi trên mặt nước mà qua.
Tổ Bá nói: “Ta lại cùng với một anh nhãi kết đoàn, tiếc là chẳng đập cho một gậy chết phứt”.
Nhà sư ấy, còn ở giữa dòng nước, từ xa làm lễ, ca ngợi rằng: “Quả thật là Pháp Khí Đại Thừa, ta chẳng theo kịp”.
Đây là thần thông của Tiểu Thừa, bị Ngài Hoàng Bá quở trách.
Ngài Ma Cốc, Nam Tuyền... hai ba vị qua ra mắt Tổ Kính Sơn, giữa đường gặp một lão bà, mới hỏi: “Đường đi lối nào?”
Đáp : “Cứ thẳng mà đi”.
Ngài Cốc nói: “Phía trước nước sâu, qua được chăng?”
Đáp : “Chẳng ướt chân”.
Ngài Cốc lại hỏi: “Bờ trên lúa được gì mà tốt, bờ dưới lúa được gì mà xấu?”
Đáp : “Đều bị cua cắn chân”.
Ngài Cốc nói : “Lúa thơm ngát”.
Đáp : “Mất hơi thở”.
Ngài Cốc lại hỏi : “Bà trụ nơi nào?”
Đáp : “Chỉ tại Trong Ấy”.
Ba vị đến quán.
Lão bà nấu một bình trà, đem đến cái chén, bảo rằng: “Hòa Thượng có thần thông thì uống trà”.
Ba vị cùng ngó nhau.
Bà nói : “Hãy xem lão già vô dụng này tự bày thần thông đây vậy!”
Ngay đó nâng chén rót trà, rồi đi.
Các thần thông này, chẳng thể đồng với các thứ thần thông nhỏ hẹp, nên Ngài Ma Cốc, Nam Tuyền cũng chẳng thể dò nổi bờ bến.
Ở trên là theo Sáu Thức mà vào, người Sơ Tâm chẳng dễ ứng hợp.
-
Kinh :
“Nếu quán tánh Địa Đại
“Cứng đọng không thông suốt
“Hữu vi, chẳng Thánh tánh
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng :
Đất là cứng đọng, vốn chẳng phải tánh thông suốt, nên trì giữ Địa Đại, là pháp hữu vi. Đã chẳng phải quả vô vi, nên chẳng thích hợp với Viên Thông. Bậc Tiên Đức nói “Như người rõ được Tâm, địa đại không tấc đất”. Thấy được như thế, còn chỗ nào ngại?
Tổ Bửu Phước nhân có vị tăng đứng hầu, nói: “Ông được cái tâm thô đấy”.
Vị tăng nói : “Đâu là chỗ tâm thô của con?”
Tổ Phước cầm lên một cục đất, đưa cho vị tăng, nói: “Quăng ra ngoài cửa đi!”
Vị tăng ném xong, vào lại, hỏi: “Đâu là chỗ tâm thô của con?”
Tổ Phước nói: “Ta thấy có tiếng đá chạm nhau đó, nên nói ông là thô tâm”.
Nếu vị tăng này bừng tỉnh ngộ, liền thông suốt Thánh Tánh, tức được Viên Thông vậy.
-
Kinh :
“Nếu quán tánh Thủy Đại
“Móng tưởng, chẳng chân thật
“Như như, chẳng thể quán
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng :
Quán Nước là trong mười Pháp Quán Tưởng. Chỗ thành tựu của móng tưởng, há đồng Chân Thật ư? Cái lý chân thật, như như chẳng động, chẳng mượn đến tạo tác, nên chẳng phải là chỗ để quán tưởng đến được.
Nhà sư hỏi Tổ Tuyết Phong: “Suối xưa nguồn lạnh thì thế nào?”
Tổ Phong đáp: “Trừng mắt chẳng thấy đáy”.
Hỏi : “Người uống thì sao?”
Tổ Phong đáp: “Chẳng theo miệng vào”.
Nhà sư nói y lại với Tổ Triệu Châu.
Tổ Châu nói: “Chẳng thể theo trong lỗ mũi vào”.
Nhà sư lại hỏi: “Suối xưa nguồn lạnh thì thế nào?”
Tổ Châu nói: “Khổ”.
Hỏi : “Người uống thì sao?”
Tổ Châu nói: “Chết”.
Tổ Tuyết Phong nghe được, bèn nói: “Triệu Châu là Cổ Phật”; ở xa hướng vọng làm lễ.
Từ ấy chẳng có lời đối đáp.
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Dựng lập Tông Thừa, cần tay tuyệt diệu! Tuyết Phong biện luận thân tâm bậc thiện tri thức của một ngàn năm trăm người. Triệu Châu dùng thủ đoạn của lão già một trăm hai mươi tuổi, chẳng ngại kỳ quái. Như nay trong chúng, tùy theo lời định ý chỉ, chê bai bác bỏ loạn xạ, vùi lấp người xưa! Nhưng gặp nhau han hỏi, hình như có tri âm, khắc cốt ghi lòng, ít gặp gương soi tỏ sáng!”
Chỗ thấy của nhà sư kia vướng trệ ở chỗ trong lặng không động lay. Triệu Châu là kìm dùi, thì Tuyết Phong là kim chỉ. Sao nói là chẳng đồng ư?
-
Kinh :
“Nếu quán tánh Hỏa Đại
“Chán tướng, chẳng (phải) thật lìa
“Chẳng (phải) phương tiện Sơ Tâm
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng:
Ngài A La Hán Hỏa Đầu nghe nói đến lửa dục mà sanh chán ghét lìa bỏ, đó là chán tướng hữu vi. Đã có ưa, chán, thì chẳng phải là Chân Giải Thoát. Vả lại, người Sơ Tâm nhập đạo, kiềm chế dục chẳng bằng cùng tột cái lý. Lý càng sáng thì Dục càng tiêu. Như muốn cùng lý, thử quán xem Lửa là vật gì?
Tổ Triệu Châu nhân có nhà sư hầu bên, bèn chỉ lửa hỏi rằng: “Cái ấy là Lửa, ông không được gọi là Lửa, lão tăng nói rồi vậy”.
Nhà sư không đáp được.
Tổ Châu lại gắp lửa lên, hỏi: “Hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội”.
Tổ Châu nói: “Ở Thơ Châu có Hòa Thượng Đầu Tử, ông sang làm lễ mà hỏi, chắc sẽ vì ông nói ra. Nhân duyên khế hợp nhau, chẳng cần trở lại, chẳng khế hợp nhau, thì hãy trở về”.
Nhà sư đến Tổ Đầu Tử.
Tổ Tử hỏi: “Vừa lìa chốn nào?”
Đáp: “Triệu Châu”.
Tổ Tử hỏi: “Triệu Châu có lời nói gì?”
Nhà sư nêu ra lời trước.
Tổ Tử nói: “Ông hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội, xin thầy bày dạy”.
Tổ Tử bèn xuống thiền sàng, đi ba bước, ngồi lại, hỏi: “Hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội”.
Tổ Tử nói: “Ông về nói y lại với Tổ Triệu Châu”.
Nhà sư trở lại nói y thế với Tổ Triệu Châu.
Tổ Châu nói: “Vậy hội chăng?”
Đáp: “Chẳng hội”.
Tổ Châu nói: “Đầu Tử như vậy cũng chẳng qua loa lắm đâu”.
Ôi, hai vị lão túc, phương tiện đến như thế, còn chẳng chịu ngộ, luống là ai khác?
-
Kinh :
“Nếu quán tánh Phong Đại
“Động, tĩnh là đối đãi
“Đối, chẳng (là) Vô Thượng Giác
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng:
Tánh của các thứ động này, đến không từ đâu, đi không về đâu, nguyên chẳng có chỗ đối đãi. Quán sát sức Gió không chỗ nương, ngộ Bồ Đề Tâm tức là Vô Thượng Giác, nào đến đỗi có hai tướng động tĩnh gì đâu? Chỉ vì người sơ cơ, ở trong cái động, biết cái Tánh chẳng động, phân ra động với bất động, hai tướng đã có, tức là có đối đãi. Đã là đối đãi, tức sanh diệt pháp, thì xa Bồ Đề Vô Thượng lắm vậy.
Tổ Thứ Mười Bảy, Ngài Tăng Ca Nan Đề, độ cho Đồng Tử Trì Giám, đặt tên lại là Già Da Xá Đa. Một hôm, nghe tiếng linh [Chuông nhỏ] gió thổi rung trên điện.
Tổ hỏi rằng: “Linh kêu ư, gió kêu ư?”
Xá Đa nói: “Chẳng phải gió, linh kêu, tâm mình kêu vậy”.
Tổ nói: “Tâm là chi vậy?”
Xá Đa nói: “Đều tịch tĩnh vậy”.
Tổ nói: “Hay thay, hay thay! Kế tục đạo ta, không ông thì ai”.
Về sau, Lục Tổ nhân hai nhà sư bàn luận nghĩa gió với phướn.
Một người nói: “Gió động”.
Người kia nói: “Phướn động”.
Định luận chẳng dứt.
Tổ bước tới nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm các vị động”.
Cùng với lời Ngài Xá Đa, như từ một miệng.
Tổ Tuyết Phong nêu lên lời của Lục Tổ “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm quý vị động”. Bèn nói: “Tổ Sư lớn bé, đầu rồng đuôi rắn, đáng cho hai mươi gậy!”
Khi ấy, Thượng Tọa Đại Nguyên Phu đứng hầu bất giác nghiến răng.
Tổ Phong nói: “Vừa rồi tôi nói thế cũng đáng ăn hai mươi gậy!”
Thiều Quốc Sư thượng đường: “Phương tiện cổ Thánh dường như hà sa. Tổ Sư nói “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm quý vị động”. Đây mới là pháp môn tâm ấn vô thượng.
“Bọn chúng ta là khách môn hạ của Tổ Sư, liệu làm sao am hiểu ý Tổ Sư? Chớ nói: Gió, phướn chẳng động, tâm ông vọng động! Chớ nói : Chỗ động của gió phướn là ở đâu? Hoặc nói: Nương vật rõ Tâm, chẳng cần nhận vật. Hoặc nói: Sắc tức là Không. Hoặc nói: Chẳng phải gió, phướn động; phải nên nhiệm mầu am hiểu. Am hiểu như thế thì cùng với ý Tổ Sư có gì giao thiệp? Chẳng thể chịu cho kiểu am hiểu như thế.
“Các vị Thượng Tọa, nên biết rốt ráo. Như ở Trong Ấy tỏ ngộ rốt ráo, thì pháp môn nào chẳng rõ? Trăm ngàn phương tiện của Chư Phật nhất thời hiểu suốt, còn có chút nghi tình nào. Bởi thế, cổ nhân nói “Một rõ ngàn thông, một mê muôn lầm”. Này các Thượng Tọa, đâu phải là ngày nay hiểu được một đoạn, ngày mai lại hiểu nữa. Chẳng phải là có một phần chuyện hướng thượng khó hiểu, có một phần phàm phu yếu kém chẳng hiểu được. Cái kiến giải như vậy thì có trải qua số kiếp nhiều như bụi cũng chỉ tự mệt thần khổ trí. Làm gì có chuyện ấy!”
Thiều Quốc Sư nói thế, sánh với Tổ Tuyết Phong ít nhiều, cũng nên cho ăn hai chục gậy!
-
Kinh :
“Nếu quán tánh Không Đại
“Không-trơ, chẳng phải Giác
“Không biết, khác Bồ Đề
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng:
Nghiêng về cái không ắt trơ độn chẳng phải Giác. Cái Chơn Không thì tức Giác, tức Không. Người sơ cơ định luận cái Không thật dễ lầm đường, nên cần phải xét biện.
Tổ Huyền Sa thượng đường: “Người đời nay chẳng tỏ ngộ cái lý Trung Đạo, vọng tự kết dính với sự, kết dính với trần, chốn chốn nhiễm trước, mỗi mỗi buộc trói. Dầu có chỗ tỉnh ngộ, mà trần cảnh phân vân, danh tướng chẳng thiệt. Bèn định ngưng tâm thâu niệm, nhiếp sự về không, nhắm con mắt, chứa tinh thần, vừa có khởi niệm, lập tức phá trừ, mống tưởng vừa sanh, bèn liền đè tiệt. Như kiến giải này tức là rơi vào cái Không-trơ của ngoại đạo, người chết mà hồn chẳng tan, mờ mờ mịt mịt, vô giác vô tri, bịt tai mà trộm chuông, uổng tự khinh, dối.
“Trong Ấy rõ ràng thì chẳng như vậy, chẳng cà rà ngoài cửa, chẳng lẩn lút bên song. Lời lời hiện tiền, không có chỗ để thương lượng, chẳng quan hệ đến văn tự. Vốn tuyệt trần cảnh, vốn không vị thứ: tạm gọi là kẻ xuất gia, rốt ráo không tung tích. Nào là Chân Như, phàm Thánh, địa ngục, trời người, chỉ là phương thức chữa bệnh cho gã cuồng. Hư không còn chẳng cải biến, Đại Đạo há có thăng trầm? Ngộ thì dọc ngang chẳng rời Bổn Tánh. Đến vào Trong Ấy, phàm Thánh cũng chẳng có chỗ lập. Nếu hướng trong câu khởi ý, ắt chìm đắm chết người. Nếu hướng ngoài rông cầu, lại sa vào Ma cõi. Như như hướng thượng, tuyệt dấu an bài. Vừa vặn lò lửa, chẳng chứa muỗi mòng.
“Cái Ấy xưa nay vốn bằng phẳng, nào dùng sự tỉa trừ. Động tĩnh, nhướng mày chính là Chân Giải Thoát Đạo. Chẳng gượng suy tính, dựng lập là trái Chân. Như đến vào Trong Ấy, mảy lông chẳng thọ, bày ý tức sai. Dầu cho ngàn Thánh ra đời, bày ra một chữ cũng chẳng được. Trân trọng”.
Như rõ được lời Huyền Sa tức thấu đạt ý chỉ Chân Không. Cái Vô Thượng Bồ Đề cũng gượng đặt tên đó thôi. Há chẳng Viên Thông hiện tiền ư?
-
Kinh :
“Nếu quán tánh Thức Đại
“Thức chẳng phải thường trụ
“Giữ tâm là hư vọng
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng:
Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh tức là Đệ Bát Thức, vốn chẳng phải là hư vọng. Người chưa thấy Tánh chẳng thể chuyển Thức, chỉ bị Thức chuyển, bèn dùng sự quán tưởng soi xét, thì quán cũng là Thức, niệm niệm sanh diệt, chẳng phải thường trụ. Dầu cho có thể giữ tâm lắng trong chẳng động, ấy là do lực quán tưởng trì giữ, cũng thuộc về hư vọng. Há cái Diệu Trạm Tổng Trì, vốn tự vô tâm, chẳng đợi giữ cho còn mà tự không đâu chẳng còn đấy ư?
Tổ Thứ Mười Sáu, Ngài La Hầu Đa La đến chỗ Ông Tăng Già Nan Đề, gặp ông nhập định. Tổ cùng chúng chờ xem, trải qua hai mươi mốt ngày mới từ định dậy.
Tổ hỏi rằng: “Thân ông định hay tâm ông định?”
Thầy Đề đáp: “Thân tâm đều định”.
Tổ nói: “Thân tâm đều định, sao có vào ra?”
Thầy Đề đáp: “Tuy có ra vào, chẳng mất định tướng, như vàng trong giếng, thể vàng thường tịch”.
Tổ nói: “Như vàng trong giếng, như vàng khỏi giếng, vàng không động tĩnh, thì vật gì ra vào?”
Thầy Đề nói: “Chỉ có lời nói vàng là động tĩnh, đâu có vật ra vào. Chỉ có lời nói vàng ra vào, mà vàng chẳng phải động tĩnh”.
Tổ nói: “Nếu vàng trong giếng, thì ra khỏi giếng là vàng nào? Vàng nếu ra khỏi giếng, thì ở lại là vật gì?”
Thầy Đề đáp: “Vàng như khỏi giếng, ở giếng chẳng phải vàng. Như vàng ở giếng, khỏi giếng chẳng phải vật”.
Tổ nói: “Nghĩa này chẳng phải”.
Thầy Đề nói: “Nghĩa kia chẳng rõ”.
Tổ nói: “Nghĩa này phải rớt”.
Thầy Đề nói: “Nghĩa kia chẳng thành”.
Tổ nói: “Nghĩa kia chẳng thành, nghĩa cái ta thành vậy”.
Thầy Đề nói: “Nghĩa cái Ta tuy thành, pháp chẳng phải cái Ta vậy”.
Tổ nói: “Nghĩa Ta đã thành, Ta không Ta vậy.
Thầy Đề nói: “Ta không ta thì lại thành nghĩa gì?”
Tổ nói: “Ta mà không ta, nên thành nghĩa của ông”.
Thầy Đề nói: “Thầy nhân giả là ai, mà đắc vô ngã ấy?”
Tổ nói: “Thầy ta là Già Na Đề Bà, chứng Vô Ngã ấy”.
Thầy Đề dùng kệ ca ngợi rằng:
“Kính lễ Đề Bà sư
Nhân giả ra từ đó
Nhân giả vô ngã vậy
Tôi muốn người làm thầy”.
Tổ dùng kệ đáp rằng:
“Bởi vì ta vốn là vô ngã
Ông cần thấy cái Ngã của ta
Ông nếu muốn coi ta là Thầy
Biết ta chẳng phải Ngã của ta”.
Thầy Nan Đề tâm ý rỗng nhiên, bèn cầu độ thoát.
Tổ nói: “Tâm ông vốn tự tại, chẳng ràng buộc Ngã-Sở”.
Rồi phó bài kệ Chánh Pháp Nhãn rằng:
“Trong Pháp, thật không chứng
Chẳng giữ cũng chẳng lìa
Pháp chẳng tướng Hữu Vô
Trong ngoài chỗ nào khởi”.
Thế nên, biết chuyển Thức thành Trí thì trong khoảng mảy tơ. Còn không thấy cái Chân Thật, rốt cũng là hư vọng.
-
Kinh:
“Các hành đều vô thường
“Tưởng niệm vốn sanh diệt
“Nhân quả nay khác biệt
“Làm sao được Viên Thông?
Thông rằng:
Căn cứ theo pháp môn niệm Phật thì niệm tức là Phật, hành tức là Phật, độc chỉ Tâm là Phật, độc chỉ Tâm làm Phật. Quả và Nhân là một. Vốn chẳng phải khác biệt. Nay Ngài Văn Thù chỉ quy về một đường hướng thượng, nên cho hành là vô thường, niệm thuộc sanh diệt, lấy đó mà cầu quả Phật thường trụ, chắc chẳng thể được.
Thiền sư Tề Kỷ nhân đạo hữu của Hội Liên Xã mời, thượng đường, nói: “Dần dần tóc bạc da mồi, cha trẻ mà con già! Xem coi bước đi suy yếu, nghi chết Thượng Tọa ngốc! Dầu cho vàng ngọc đầy nhà, coi chừng giặc vô hình! Há khỏi suy tàn, già bệnh, hãy nên rất lưu ý! Mặc ngươi ngàn chuyện khoái vui, hắn ta vẫn được tự do! Vô thường rốt cuộc lại đến, về nhà uống trà đi thôi. Chỉ có nẻo tắt tu hành, y cũ đi vòng quanh! Chỉ niệm A Di Đà Phật, niệm được chẳng nên chuyện!”
Lại nói : “Ái chà! Cái con đường sống ấy đã bị Thiện Đạo Hòa Thượng chỉ thẳng rõ ràng ra rồi vậy. Chính các ông sáng tối qua lại trong con đường tắt, vì sao ngay trước mặt mà lầm đi qua A Di Đà Phật. Trong ấy tiến cử được, bèn hay trừ cái chướng mê mờ điên đảo, nhổ mũi tên dụ dự, cắt lưới nghi lầm, dứt sông si ái, chặt phá rừng tâm rậm, rửa tâm uế trược, làm thẳng ngay tâm tà vạy, dứt tuyệt tâm sanh tử. Rồi sau chuyển nhập mé kia, dỡ cao chân, hướng về chỗ Phật Tổ dẫm bước chẳng tới mà tiến một bước! Mở miệng ra, hướng về chỗ Phật Tổ dạy dỗ chẳng tới mà nói một câu! Gọi trở lại Thiện Đạo Hòa Thượng, riêng cầu nẻo tắt tu hành! Nếu mà cứ y theo trước, bỏ cha chạy trốn, lưu lạc phương người, đụng Đông chạm Tây, khổ thay A Di Đà Phật!”
Lại còn Tổ Huỳnh Long Tân, thượng đường rằng: “Ngọc Thanh Châu bỏ vào nước đục, nước đục chẳng thể chẳng trong. Niệm Phật để vào trong tâm rối loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng Phật. Phật đã chẳng loạn, nước đục tự trong. Nước đục đã trong, công quy về đâu?”
Chập lâu, nói: “Mấy độ hắc phong tràn biển lớn, chưa từng nghe nói lật thuyền câu!
“Phàm trọn thu nhiếp sáu Căn, tu pháp môn niệm Phật, là còn dùng nẻo đường công cán. Một phen lột thoát, nơi cái Thấy này xoay cái Nghe thẳng thấu nguồn Tánh, bèn xa lầm lỗi”.
Thật là cái cơ tu chứng Viên Thông Tối Thượng vậy.
-
IV. NHĨ CĂN VIÊN THÔNG HƠN HẾT
Kinh:
“Tôi nay bạch Thế Tôn
“Phật xuất cõi Ta Bà
“Phương này, chân giáo thể
“Thanh tịnh tại nghe thanh
“Muốn vào Tam Ma Đề
“Thật do cái Nghe nhập
Thông rằng:
Thánh nhân thiết lập giáo pháp, tùy chốn chẳng đồng. Hoặc có chỗ dùng ánh sáng mà làm Phật sự, hoặc có chỗ dùng cây Bồ Đề của Phật mà làm Phật sự, cho đến dùng vườn rừng đài cao, hoặc dùng hư không, hoặc dùng sự lặng lẽ không nói, không chỉ bày, như ở cõi Phật Hương Tích, không có lời nói văn tự, chỉ lấy hư không, khiến cho người-trời được vào Luật, Hạnh. Cái giáo thể ở phương này, độc tại chỗ Nghe tiếng. Chẳng lẫn lộn với trần cấu, cực kỳ trong sạch. Thuần là trong sạch nên dễ dàng khế nhập Tam Ma Đề. Thế giới Ta Bà này dùng cái Nghe làm đương cơ vậy.
Nhà sư hỏi Tổ Huyền Sa: “Kẻ học nhân mới vào rừng Thiền, xin thầy chỉ con đường vào”.
Tổ Sa nói: “Có nghe tiếng nước suối Yển chăng?”
Đáp: “Nghe”.
Tổ Sa nói: “Theo trong ấy vào”.
Đáng gọi là chỉ bày thẳng suốt vậy.
Kinh:
“Lìa khổ được Giải Thoát
“Lành thay Quán Thế Âm
“Trong hằng sa số kiếp
“Vào cõi Phật vi trần
“Đắc sức đại tự tại
“Vô Úy Thí chúng sanh
“Diệu Âm, Quán Thế Âm
“Phạm Âm, Hải Triều Âm
“Cứu thế, yên lành thảy
“Xuất thế, hằng thường trụ
Thông rằng:
Lành thay Đức Quán Thế Âm, đã lìa khổ não nên hay cứu đời ắt thảy yên lành, đã giải thoát đó nên hay khiến cho người xuất thế được thường trụ. Trong hằng sa kiếp vào cõi nước nhiều như số bụi nhỏ, ba mươi hai Ứng Thân không đâu chẳng khắp. Bố thí mười bốn pháp Vô Úy, đắc lực Đại Tự Tại, thì bốn diệu Đức không thể nghĩ bàn. Tâm Nghe chí diệu, như tiếng qua vách, thảy hóa thành một Diệu Âm vậy. Diệu ở chỗ Thanh Tịnh, tức gọi là tiếng Phạm Âm, Diệu ở chỗ Hưởng Ứng, tức gọi là Triều Âm, Diệu ở chỗ Tìm Thanh (Cứu Khổ), tức gọi là Quán Thế Âm, âm thanh thế gian chẳng thể so sánh, mà là âm thanh mầu nhiệm của Tự Tánh vậy.
Có nhà sư hỏi Tổ Quy Tông: “Như thế nào là Huyền Chỉ?”
Tổ Tông nói: “Không người hiểu được”.
Hỏi: “Hướng đến thì thế nào?”
Tổ Tông nói: “Có hướng liền sai”.
Hỏi: “Không hướng đến thì thế nào?”
Tổ Tông nói : “Ai cầu Huyền Chỉ?”
Lại nói: “Đi đi! Không có chỗ cho ông dùng tâm”.
Hỏi: “Há không có cửa phương tiện khiến học nhân được vào?”
Tổ Tông nói: “Quán Âm trí lực mầu. Hay cứu thế gian khổ”.
Hỏi: “Như sao là Quán Âm trí lực mầu?”
Tổ Tông gõ nắp đỉnh lư ba cái, hỏi: “Ông có nghe chăng?”
Đáp : “Nghe”.
Tổ Tông nói: “Sao ta chẳng nghe?”
Nhà sư không có lời đáp.
Tổ Tông dùng gậy đuổi xuống.
Hôm khác, thượng đường : “Hôm nay ta muốn nói Thiền!”
Các đệ tử đều đến gần phía trước.
Tổ Tông nói: “Hãy nghe hạnh Quán Âm ứng khắp các nơi chốn!”
Hỏi: “Như sao là hạnh Quán Âm?”
Tổ Tông liền khảy móng tay, nói : “Các ông lại nghe chăng?”
Đáp rằng: “Nghe”.
Tổ Tông nói: “Cái lũ này, hướng Trong Ấy kiếm cái gì?”
Tổ Quy Tông thấy rõ, một đoạn diệu âm an nhiên thường trụ của mọi người, chẳng tiếc mà trùng trùng chỉ ra, thật quá đổi từ bi.
-
Kinh :
“Nay kính bạch Như Lai
“Như Quan Âm đã nói
“Ví như người ở yên
“Mười phương đều nổi tiếng
“Mười chốn đồng thời nghe
“Đó là Viên Chân Thật
Thông rằng:
Tam Muội vẹn tròn soi chiếu của Đức Quán Âm không khởi không làm, nên như người ở yên lặng, mười phương đánh trống, mười chốn đều nghe. Đâu phải bốn phần thiếu mất nửa phần. Đây là ở cảnh hiện bày đầy đủ cái Viên này vậy.
Thiền sư Hoàng Bá Duy Thắng ngẫu nhiên dùng cây quạt vỗ vào song cửa thành tiếng, bỗng nhớ lại trong kinh nói, “Mười phương đều nổi trống. Mười chốn đồng thời nghe”, nhân đó đại ngộ.
Về sau, Thái Thú Thoại Châu phó thác cho Tổ Hoàng Long chọn lựa người trụ trì chùa Hoàng Bá.
Tổ Long nhóm chúng, nói rằng: “Lên lầu chuông niệm tán [Ca ngợi]. Dưới chân sàng trồng rau”. Người nào nói được, sang đấy trụ trì”.
Ngài Duy Thắng bước ra nói rằng: “Mãnh hổ giữa đường ngồi”.
Tổ Long rất khoái ý, bèn khiến sang đó.
Như Ngài Duy Thắng, có thể nói là tự thân chứng cái Viên Chân Thật vậy.
Kinh:
“Tánh âm thanh, động tĩnh
“Trong (cái) Nghe là có, không
“Không tiếng, gọi (là) không nghe
“Chẳng thật không Tánh Nghe
“Không tiếng, đã không diệt
“Có tiếng cũng chẳng sanh
“Sanh diệt đều trọn lìa
“Đó là Thường Chân Thật
“Dầu cho trong mộng tưởng
“Không nghĩ nhưng chẳng không
“Tánh Nghe ngoài suy nghĩ
“Thân tâm không bằng được
Thông rằng:
Âm thanh có động có tĩnh, nên sự Nghe khi có khi không. Tánh Nghe thì thường trụ, chẳng do tiếng mà có sanh, chẳng phải không tiếng mà diệt mất. Lấy đâu mà nghiệm xét? Trong mộng tưởng nghe tiếng chày giã gạo mà cho là tiếng chuông trống, khi ngủ cũng như khi thức, chẳng có mượn đến nghĩ suy. Cái Biết này đối với cái biết chẳng thường hằng có khác, nên trong sự ghi nhớ có thể thấy là nó thường hằng. Năm Căn kia ở trong mộng cũng thấy cảnh rõ ràng, nhưng chưa chắc đối với cảnh trước mắt mà biết, phải có suy nghĩ mới kết thành. Nên năm Căn kia suy nghĩ thì có, không suy nghĩ thì không, khi thức tỉnh đối cảnh ắt có, khi ngủ mộng đối cảnh ắt không, vướng trệ nơi thân tâm, bị Căn Trần trói buộc. Độc chỉ Tánh của Nhĩ Thức chẳng đợi khi thức rồi suy nghĩ mới có, chẳng chờ khi mộng mà chẳng suy nghĩ thì không. Tánh ấy siêu việt khỏi ngoài sự suy nghĩ và chẳng suy nghĩ. Bởi thế, Tánh Giác Quán của sự xoay lại cái Nghe lìa ngoài nghĩ suy và chẳng nghĩ suy, khác hẳn với cái quán chiếu thông thường sử dụng đến suy nghĩ. Đã ra ngoài cảnh giới của nghĩ suy, nên nơi Căn mà lìa Căn, nên thân chẳng đến được vậy. Ở nơi Thức mà lìa Thức, nên tâm chẳng đến được vậy. Đây là “Sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền”, chẳng gọi cái ấy là Phật Tánh Chân Thường sao?
Ông Trương Vô Cấu nói với Tổ Đại Huệ rằng: “Con mỗi khi trong mộng thì thấy đọc Luận Ngữ, Mạnh Tử, như vậy là sao?”
Tổ Huệ lấy từ kinh Viên Giác, nói: “Do bởi lặng dứt, nên Tâm Chư Như Lai mười phương thế giới trong đó hiển hiện, như bóng trong gương”.
Ông Vô Cấu nói: “Chẳng phải là lão sư thì không thể nghe được luận này”.
Ông Vô Cấu trong chiêm bao dường như tập khí chưa trừ. Tổ Đại Huệ chỉ ra Đại Viên Cảnh Trí chẳng ngại gì tập khí lăng xăng khởi diệt. Đáng gọi là thấu suốt rốt ráo cái “Một đường chân thường”.