Printable View
Quyển luận này chẳng truyền cho người không tin, chỉ truyền cho người đồng kiến đồng hạnh. Phải xem xét người đối trước có tâm thành tín, kham lãnh thọ không lui sụt, người như thế mới nên vì họ mà nói, chỉ dạy khiến cho họ được ngộ. Tôi làm quyển luận này là vì người hữu duyên, chẳng phải cầu danh lợi.
Chư Phật nói ra ngàn kinh muôn luận, chỉ vì chúng sanh mê muội, tâm hạnh chẳng đồng, tùy chỗ tà chấp của họ mà nói pháp đối trị, nên có sai biệt. Nếu luận về lý giải thoát cứu kính chỉ là việc đến chẳng nhận, tất cả chỗ không tâm, hằng lặng lẽ như không, cứu kính thanh tịnh tự nhiên giải thoát.
Ông chớ cầu hư danh miệng nói Chân như, mà tâm tợ khỉ vượn, tức lời nói việc làm trái nhau, gọi là dối mình, sẽ sa vào đường ác. Chớ cầu cái khoái lạc hư danh nhất thời, mà chẳng biết nhiều kiếp phải chịu họa ương. Cố gắng! Cố gắng! Chúng sanh phải tự độ, Phật không thể độ được. Nếu Phật hay độ chúng sanh, thì chư Phật thời quá khứ số nhiều như cát bụi, lẽ ra tất cả chúng sanh đều được độ hết, vì sao chúng ta đến ngày nay vẫn còn trôi lăn trong sanh tử, không được thành Phật? Thế nên biết, chúng sanh phải tự độ, Phật không thể độ được. Cố gắng! Cố gắng! Tự mình lo tu hành, chớ ỷ lại vào sức Phật khác. Kinh nói: “Phàm người cầu pháp chẳng chấp trước Phật mà cầu.” (*)
*
Nhữ mạc cầu hư danh, khẩu thuyết Chân như, tâm tự viên hầu, tức ngôn hành tướng vi, danh vi tự cuống, đương đoạ ác đạo, mạc cầu nhất thế hư danh khoái lạc, bất giác trường kiếp thụ ương.
Nỗ lực ! nỗ lực ! Chúng sinh tự độ, Phật bất năng độ. Nhược Phật năng độ chúng sinh thời, quá khứ chư Phật như vi trần số, nhất thiết chúng sinh tổng ưng độ tận, hà cố ngã đẳng chí kim lưu lang sinh tử, bất đắc thành Phật. Đương tri chúng sinh tự độ, Phật bất năng độ. Nỗ lực ! nỗ lực ! tự tu mạc ỷ tha Phật lực. Kinh vân : Phu cầu pháp giả, bất trước Phật cầu.
----------------
汝莫求虗名。口說真如。心似 猿猴。即言行相違。名為自誑。當墮 道。莫求一 世 虗名快樂。不覺長劫 受殃。
努 力 。努 力 。 眾生自度。佛不能度。若佛能度眾生 。過去諸佛如微塵數。一 切眾生總應度盡。何 故我等至今流浪生死。不得成佛。當 眾生自度。佛不能度。努 力 。努 力 。自修 莫倚他佛力 。經云 。夫求法者。不著佛求。
– Ở đời sau, có những nhóm tạp học, làm sao cùng ở chung?
vấn : Ư lai thế trung đa hữu tạp học chi đồ, vân hà cộng trụ ?
問。於來世 中多有雜學之 徒。云 何 共住
– Chỉ hòa ánh sáng kia, chẳng đồng nghiệp kia, đồng chỗ mà chẳng đồng ở.
Kinh nói: “Tùy lưu (trôi theo) mà tánh thường vậy.” Người học đạo cần yếu phải nghĩ “mình vì đại sự nhân duyên là việc giải thoát, thảy đều chẳng dám khinh người chưa học, kính người mình học như Phật, chẳng đề cao đức của mình, chẳng đố kỵ điều hay của người, tự xét nét hạnh của mình, chẳng dòm dõ lỗi của người”, thì ở tất cả chỗ đều không bị chướng ngại, tự nhiên được khoái lạc.
đáp : Đãn hòa kì quang, bất đồng kì nghiệp, đồng xứ bất đồng vị.
Kinh vân : Tùy lưu nhi tính thường dã. Chỉ như học đạo giả tự vi đại sự
nhân duyên giải thoát chi sự, câu vật khinh vị học, kính học như Phật,
bất cao kỉ đức, bất tật bỉ năng, tự sát ư hành, bất cử tha quá,
ư nhất thiết xứ tất vô phương ngại, tự nhiên khoái lạc dã.
答。但 和其光 。 不同其業。同處不同位 。
經云 隨流而性常也。只如學道者自為大事
因緣解脫之事 。俱勿輕未學。敬學如佛。
不高己德。不疾彼能。自察於行。不 他過。
於一 切 處悉無妨礙。自然快樂也。*
Lặp lại kệ rằng:
trùng thuyết kệ vân :
重說偈云
Nhẫn nhục đạo thứ nhất,
Trước phải trừ ngã nhân,
Việc đến không thọ nhận,
Là thân chân Bồ-đề.
Nhẫn nhục đệ nhất đạo,
tiên tu trừ ngã nhân,
sự lai vô sở thụ,
tức chân Bồ đề thân.
忍辱第一道
先須除我人
事來無所受
即真菩提身
Kinh Kim Cang nói: “Người thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi là Bồ-tát chân thật.”
Lại nói: “Chẳng thủ lại chẳng xả, hằng đoạn được sanh tử, tất cả chỗ không tâm, gọi là con chư Phật.”
Kinh Niết-bàn nói: “Như Lai chứng Niết-bàn hằng đoạn dứt sanh tử.”
Kim cương kinh vân : Bồ tát vô ngã pháp giả, Như lai thuyết danh chân thị Bồ tát.
Hựu vân : Bất thủ tức bất xả, vĩnh đoán ư sinh tử, nhất thiết xứ vô tâm, tức danh chư Phật tử
Niết bàn Kinh vân : Như lai chứng niết bàn vĩnh đoán ư sinh tử.
金剛 經云 。菩薩無我法者。如來說名真是菩薩
又云 。 不取即不捨。永斷於生死。一 切處無心。即名諸佛子。
涅槃經云 。如來證涅槃。永斷於生死。
Kệ rằng:
Nay ta ý thật rất tốt,
Khi người chê mắng chẳng buồn,
Không lời chẳng nói phải quấy,
Niết-bàn sanh tử đồng đường.
Hiểu thấu bản tông nhà mình,
Vẫn là không có xanh đen,
Tất cả vọng tưởng phân biệt,
Vả biết người đời chẳng rõ.
Gởi lời phàm phu đời sau,
Dẹp hết trong tâm rơm cỏ,
Nay ta ý rất thênh thang,
Chẳng nói, không việc, tâm an.
Thong dong, tự tại, giải thoát,
Đông tây dời đổi dễ dàng,
Trọn ngày không nói lặng yên,
Niệm niệm hướng lý nghĩ xét.
Tự nhiên tiêu dao thấy đạo,
Sanh tử quyết chẳng liên quan,
Nay ta ý thật lạ kỳ,
Chẳng đến trên đời luống dối.
Vinh hoa thảy là giả tạm,
Áo rách cơm hẩm đủ no,
Đi đường gặp người biếng nói,
Người đời đều gọi ta ngu.
Ngoài hiện ngu ngơ ám độn,
Trong tâm sáng tợ lưu-ly,
Thầm hợp La-hầu mật hạnh,
Chẳng phải phàm phu kham biết.
Tôi e các ông chẳng hội thấu lý chân giải thoát nên lại chỉ bày các ông.
Kệ viết :
Ngã kim ý huống đại hảo,
tha nhân mạ thời vô não
vô ngôn bất thuyết thị phi
Niết bàn sinh tử đồng đạo
thức đạt tự gia bản tôn
do lai vô hữu thanh tạo
nhất thiết vọng tưởng phân biệt
tương tri thế nhân bất liễu
kí ngôn phàm phu mạt đại
trừ khước tâm trung cảo thảo
ngã kim ý huống đại khoan
bất ngữ vô sự tâm an
tùng dong tự tại giải thoát
Đông Tây khứ dị bất nan
chung nhật vô ngôn tịch mịch
niệm niệm hướng lí tư khán
tự nhiên tiêu dao kiến đạo
sinh tử định bất tướng can
ngã kim ý huống đại kì
bất hướng thế thượng xâm khi
vinh hoa tổng thị hư cuống
tế y thô thực sung cơ
đạo phùng thế nhân lại ngữ
thế nhân hàm thuyết ngã si
ngoại hiện trừng trừng ám độn
tâm trung minh nhược lưu li
mặc khế la hầu mật hành
phi nhữ phàm phu sở tri.
Ngô khủng nhữ đẳng bất hội liễu chân giải thoát lí, tái kì nhữ đẳng.
---------------
偈曰。
我今意況大好 他人罵時無惱
無言不說是非 涅槃生死同道
識達自家本宗 猶來無有青皁
一切妄想分別 將知世人不了
寄言凡夫末代 除却心中藁草
我今意況大寬 不語無事心安
從容自在解脫 東西去易不難
終日無言寂寞 念念向理思看
自然逍遙見道 生死定不相干
我今意況大奇 不向世上侵欺
榮華總是虗誑 弊衣麤食充飢
道逢世人懶語 世人咸說我癡
外現瞪瞪暗鈍 心中明若瑠璃
默契羅睺密行 非汝凡夫所知
吾恐汝等不會了真解脫理。再示汝等
Sống với vô tư
– Kinh Duy-ma nói: “Muốn được Tịnh độ phải tịnh tâm ấy.” Thế nào là tịnh tâm?
(vấn : Duy Ma Kinh vân "Dục đắc Tịnh độ đương tịnh kì tâm", Vân hà thị tịnh tâm ?
問。維摩經云 。欲得淨土。當淨其心。云何是淨心 )
– Dùng cái tịnh cứu kính làm tịnh.
(đáp : Dĩ tất cánh tịnh vi tịnh.
答。以畢竟淨為淨。)
– Thế nào là dùng cái tịnh cứu kính làm tịnh?
(vấn : Vân hà thị tất cánh tịnh vi tịnh ?
問。云 何 是畢竟淨為淨。)
– Không tịnh cũng không không tịnh, tức là tịnh cứu kính.
(đáp : Vô tịnh vô vô tịnh, tức thị tất cánh tịnh.
答。無淨無無淨。即是畢竟淨。)
– Thế nào là không tịnh cũng không không tịnh?
(vấn : Vân hà thị vô tịnh vô vô tịnh ?
問。云何是無淨無無淨。)
– Tất cả chỗ không tâm là tịnh, khi được tịnh mà chẳng khởi tưởng tịnh, gọi là không tịnh. Khi được không tịnh cũng không được khởi tưởng không tịnh, gọi là không không tịnh.
(đáp : Nhất thiết xứ vô tâm thị tịnh, đắc tịnh chi thời bất đắc tác tịnh tưởng, tức danh vô tịnh dã. Đắc vô tịnh thời diệc bất đắc tác vô tịnh tưởng, tức thị vô vô tịnh dã.
答。一 切處無心是淨。得淨之時不得作淨想 即名無淨也。得無淨時亦不得作無淨 。即是無無淨也。)
– Người tu hành lấy cái gì làm chứng?
(vấn : Tu đạo giả dĩ hà vi chứng ?
問。修 道者以 何 為證。)
– Lấy cái chứng cứu kính làm chứng.
(đáp : Tất cánh chứng vi chứng.
答。畢竟證為證。)
– Thế nào là cái chứng cứu kính?
(vấn : Vân hà thị tất cánh chứng ?
問。云何是畢竟證。
– Không chứng cũng không không chứng, gọi là chứng cứu kính.
(đáp : Vô chứng vô vô chứng thị danh tất cánh chứng.
答。無證無無證是名畢竟證。)
– Thế nào là không chứng và không không chứng?
(vấn : Vân hà thị vô chứng, vân hà thị vô vô chứng ?
問。云何是無證。云何是無無證。)
– Ở ngoài không nhiễm sắc, thanh v.v… bên trong tâm không khởi vọng niệm, được như thế gọi là chứng. Khi được chứng mà không khởi tưởng chứng, gọi là không chứng. Khi được không chứng cũng không khởi tưởng không chứng, gọi là không không chứng.
(đáp : Ư ngoại bất nhiễm sắc thanh đẳng, ư nội bất khởi vọng niệm tâm, đắc như thị giả tức danh vi chứng. Đắc chứng chi thời bất đắc tác chứng tưởng tức danh vô chứng dã đắc thử vô chứng chi thời diệc bất đắc tác vô chứng tưởng thị danh vô chứng, tức danh vô vô chứng dã.
答。於外不染色聲等。於內不起妄念 。得如是者。即名為證。得證之 時不得作證想。即名無證也。得此無 之 時亦不得作無證想。是名無證。即名 無證也。)
– Thế nào là tâm giải thoát?
(vấn : Vân hà giải thoát tâm ?
問。云 何 解 脫 心。)
– Không tâm giải thoát, cũng không không tâm giải thoát, gọi là chân giải thoát. Kinh nói: “Pháp còn phải xả, hà huống phi pháp.” Pháp là có, phi pháp là không, chỉ chẳng chấp có không, là chân giải thoát.
(đáp : Vô giải thoát tâm, diệc vô vô giải thoát tâm, tức danh chân giải thoát dã. Kinh vân "Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp dã. Pháp giả thị hữu, phi pháp thị vô dã, đãn bất thủ hữu vô, tức chân giải thoát.
答。無解脫心。亦無無解脫心。即名 解脫也。經云 。法尚應捨。何 況非法也。法者是有。非法是無也。 不取有無。即真解脫。)
*
– Thế nào đắc đạo?
(vấn : Vân hà đắc đạo ?
問。云 何 得道。)
– Dùng cái đắc cứu kính làm đắc.
(đáp : Dĩ tất cánh đắc vi đắc.
答。以 畢竟得為得。)
– Thế nào là cái đắc cứu kính?
(vấn : Vân hà thị tất cánh đắc ?
問。云 何 是 畢 竟 得。)
– Không đắc cũng không không đắc, gọi là đắc cứu kính.
(đáp : Vô đắc vô vô đắc, thị danh tất cánh đắc.
答。無得無無得。是名畢竟得。)
*
– Thế nào là Không cứu kính?
(vấn : Vân hà thị tất cánh không ?
問。云 何 是 畢 竟 空。)
– Chẳng Không cũng chẳng chẳng Không gọi là Không cứu kính.
(đáp : Vô không vô vô không, tức danh tất cánh không.
答。無空無無空。即名畢竟空。)
– Thế nào là Chân như định?
(vấn : Vân hà thị Chân như định ?
問。云 何 是 真 如 定。
– Không định cũng không không định gọi là Chân như định.
Kinh nói: “Không có pháp định gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không pháp định Như Lai có thể nói.” Kinh nói: “Tuy tu Không mà chẳng lấy Không làm chứng, cũng chẳng được khởi tưởng Không. Tuy tu Định mà chẳng lấy Định làm chứng, cũng chẳng được khởi tưởng Định. Tuy được Tịnh mà chẳng lấy Tịnh làm chứng, cũng chẳng được khởi tưởng Tịnh.”
Nếu khi được định, được tịnh, được tất cả chỗ không tâm, liền khởi tưởng được như thế, đều là vọng tưởng, liền bị ràng buộc không thể nói là giải thoát. Nếu khi được như thế, rõ ràng tự biết, được tự tại, mà chẳng được cho thế là chứng, cũng chẳng được khởi tưởng như thế là được giải thoát.
Kinh nói: “Nếu khởi tâm tinh tấn là vọng không phải tinh tấn. Nếu người hay trong tâm chẳng vọng là tinh tấn không có bờ mé.”
(đáp : Vô định vô vô định, tức danh Chân như định.
Kinh vân "Vô hữu định pháp danh A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề, diệc vô định pháp Như lai khả thuyết".
Kinh vân "Tuy tu không, bất dĩ không vi chứng, bất đắc tác không tưởng, tức thị dã; tuy tu định, bất dĩ định vi chứng bất đắc tác định tưởng, tức thị dã; tuy đắc tịnh, bất dĩ tịnh vi chứng, bất đắc tác tịnh tưởng, tức thị dã".
Nhược đắc định, đắc tịnh, đắc nhất thiết xứ vô tâm chi thời, tức tác đắc như thị tưởng giả, giai thị vọng tưởng tức bí hệ phọc, bất danh giải thoát. Nhược đắc như thị chi thời liễu liễu tự tri đắc tự tại, tức bất đắc tương thử vi chứng, diệc bất đắc tác như thị tưởng thời đắc giải thoát.
Kinh vân "Nhược khởi tinh tấn tâm, thị vọng phi tinh tấn dã, nhược năng tâm bất vọng, tinh tấn vô hữu nhai".
答。無定無無定。即名真如定。
經云 。無有定法名阿耨多羅三藐三菩提。 無定法如來可說。
經云。 雖修 空。不以 空為證。不得作空想。即是也。雖修 定。不以 定為證。不得作定想。即是也。雖得 。不以 淨為證。不得作淨想。即是也。
若得定。得淨。得一 切處無心之時。即作得如是想者。皆 妄想。即被繫縛。不名解脫。若得如 之 時。了了自知得自在。即不得將此為 。亦不得作如是想時得解脫。
經云 。若起精進心。是妄非精進也。若能 不妄。精進無有涯。
– Thế nào là trung đạo?
(vấn : Vân hà thị trung đạo ?
問。云 何 是中道。)
– Không khoảng giữa cũng không hai bên là trung đạo.
(đáp : Vô trung gian diệc vô nhị biên tức trung đạo dã.
答。無中間。亦無二 邊。即中道也。)
– Thế nào là hai bên?
(vân hà thị nhị biên ?
云 何 是二 邊。)
– Có tâm kia, có tâm này là hai bên.
(đáp : Vi hữu bỉ tâm, hữu thử tâm tức thị nhị biên.
答。為有彼心。有此心。即是二 邊。)
– Thế nào là tâm kia tâm này?
(vân hà danh bỉ tâm thử tâm ?
云 何 名彼心。此心。)
– Bên ngoài dính với sắc thanh gọi là tâm kia. Bên trong khởi vọng niệm là tâm này. Nếu bên ngoài không nhiễm sắc, gọi là không tâm kia. Bên trong không khởi vọng niệm, gọi là không tâm này. Thế nên không phải hai bên. Tâm đã không hai bên thì giữa cũng đâu có được. Được như thế gọi là trung đạo. Thật là Như Lai đạo. Như Lai đạo là tất cả người giác được giải thoát. Kinh nói: “Hư không chẳng giữa chẳng hai bên, thân chư Phật cũng vậy.” Nhưng tất cả sắc không, là tất cả chỗ không tâm vậy. Tất cả chỗ không tâm tức tất cả sắc tánh không. Hai nghĩa chẳng khác, cũng gọi sắc không, cũng gọi pháp sắc không.
Nếu ông lìa “tất cả chỗ không tâm” mà được Bồ-đề giải thoát, Niết-bàn tịch diệt, Thiền định kiến tánh, thì không thể nào có. “Tất cả chỗ không tâm” tức là được Bồ-đề giải thoát, Niết-bàn tịch diệt, cho đến lục độ đều là chỗ kiến tánh. Vì cớ sao? Kinh Kim Cang nói: “Không có một chút pháp có thể được, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
(đáp : Ngoại phọc sắc thanh, danh vi bỉ tâm, nội khởi vọng niệm, danh vi thử tâm. Nhược ư ngoại bất nhiễm sắc, tức danh vô bỉ tâm; nội bất sinh vọng niệm, tức danh vô thử tâm. Thử phi nhị biên dã, tâm kí vô nhị biên, trung diệc hà hữu tai. Đắc như thị giả, tức danh trung đạo, Chân Như lai đạo. Như lai đạo giả, tức nhất thiết giác nhân giải thoát dã. Kinh vân "Hư không vô trung biên, chư Phật thân diệc nhiên". Nhiên nhất thiết sắc không giả, tức nhất thiết xứ vô tâm dã. Nhất thiết xứ vô tâm giả, tức nhất thiết sắc tính không. Nhị nghĩa vô biệt, diệc danh sắc không, diệc danh sắc vô pháp dã.
Nhữ nhược li nhất thiết xứ vô tâm, đắc Bồ đề giải thoát, Niết bàn tịch diệt, Thiền định kiến tính giả, phi dã. Nhất thiết xứ vô tâm giả,tức tu Bồ đề, Giải thoát, Niết bàn, Tịch diệt, Thiền định, nãi chí lục độ, giai kiến tính xứ.
Hà dĩ cố ? Kim Cương Kinh vân "vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề dã".
答。外縛色聲。名為彼心。內起妄念 名為此心。若於外不染色。即名無彼 。內不生妄念。即名無此心。 此非二 邊也。心既無二邊。中亦何有哉。得 是者。即名中道。真如來道。如來道 。即一切覺人解脫也。經 云 。虗空無中邊。諸佛身亦然。然一 切色空者。即一切處無心也。一切處 心者。即一切色性空。二 義無別 。 亦名色空。亦名色無法也。
汝若離一切處無心。得菩提解脫。涅 寂滅。禪定見性者。非也。一 切處無心者。 即修菩提.解脫.涅槃.寂滅.禪定 乃至六 度。皆見性處。
何 以 故。金剛 經云 無有少法可得。是名阿耨多羅三藐三 提也。)
– Nếu có tu tất cả hạnh đầy đủ thành tựu được thọ ký chăng?
– Chẳng được.
– Nếu không tu tất cả pháp thành tựu, được thọ ký chăng?
– Chẳng được.
– Nếu thế ấy, phải do pháp gì được thọ ký?
– Chẳng do có hành, cũng chẳng do không hành, là được thọ ký. Vì cớ sao? Kinh Duy-ma nói: “Các hạnh tánh tướng đều vô thường.” Kinh Niết-bàn nói: “Phật bảo Ca-diếp, các hạnh là thường, không có lẽ phải.” Ông chỉ tất cả chỗ không tâm, là không có hạnh, cũng không không các hạnh, gọi là thọ ký. Nói tất cả chỗ không tâm, là không tâm yêu ghét vậy. Nói không yêu ghét, là thấy việc tốt chẳng khởi tâm yêu; thấy việc xấu cũng chẳng sanh tâm ghét.
Không yêu gọi là không tâm nhiễm, chính là sắc tánh không. Sắc tánh không tức là muôn duyên đều bặt. Muôn duyên đều bặt thì tự nhiên được giải thoát. (*)
Ông phải xét kỹ đó, nếu khi chưa được tỉnh sáng thấu rõ, thì phải hỏi sớm chớ có bỏ qua. Các ông nếu y theo lời dạy đây tu, mà chẳng được giải thoát, tôi xin trọn đời thay các ông chịu tội trong đại địa ngục. Nếu tôi lừa dối các ông, sau này tôi sanh nơi nào sẽ bị sư tử, cọp, sói ăn thịt. Các ông nếu chẳng y theo lời dạy đây siêng năng tu hành thì không bảo đảm. Một phen mất thân này muôn kiếp khó được lại. Phải cố gắng! cố gắng! Cần phải tự biết.
*
Bất dĩ hữu hành, diệc bất dĩ vô hành, tức đắc thụ kí. Hà dĩ cố ? Duy Ma Kinh vân "Chư hành tính tướng, tất giai vô thường", Niết bàn Kinh vân "Phật cáo Ca Diếp, chư hành thị thường, vô hữu thị xứ. Nhữ đãn nhất thiết xứ vô tâm, tức vô chư hành, diệc vô vô hành, tức danh thụ kí. Sở ngôn nhất thiết xứ vô tâm giả, vô tăng ái tâm, thị ngôn tăng ái giả kiến hảo sự bất khởi ái tâm, tức danh vô ái tâm dã, kiến ác sự diệc bất khởi tăng tâm, tức danh vô tăng tâm dã. Vô ái giả tức danh vô nhiễm tâm, tức thị sắc tính không dã. Sắc tính không giả tức thị vạn duyên câu tuyệt. Vạn duyên câu tuyệt giả, tự nhiên giải thoát.
不以 有行。亦不以 無行。即得受記。何 以 故。維摩經云 。諸行性相。悉皆無常。涅槃經云 。佛告迦葉。諸行是常。無有是處。 但 一 切處無心。即無諸行。亦無無行。即 受記。所言一 切處無心者。無憎愛心。是言憎愛者 好事 不起愛心。即名無愛心也。見惡事 亦不起憎心。即名無憎心也。無愛者 即名無染心。即是色性空也。色性空 。即是萬緣俱 絕。萬緣俱 絕者。自然解脫。