-
Ngày 20 Juin 1936 – mùng 2-5-â.l.
Thức sớm, huynh đệ sửa soạn hành lý. Tám giờ có ngựa lại, hai con gác hành lý đi trước với hai huynh Khampa, đoạn 8 giờ rưỡi ăn bột và thịt nấu bún, bần đạo ăn với nước muối rồi 9 giờ Issê, Isess lên ngựa đi trước. Samden, Choundouss, Sonnam và bần đạo, ngày mai mới có bốn con ngựa lên đường. Ngày nay không ăn ngọ, 4 giờ chiều cô chủ gia đem hộ một chén nổ (né) dùng đỡ bữa cũng qua ngày. Đoạn lúc 5 giờ có một vị tiểu lama lại chơi, Samdhen bảo bần đạo ở nhà, huỷnh cùng Lama khách đi thăm người quen và mướn may lá lót yên ngựa. Hai người ra đi, bần đạo một mình ở nhà, kế một lát có huynh Lama Lađặt lại ngồi ngoài với Choundouss cùng nhau uống xăng, lối 6 giờ Samdhen về với tiểu lama, huỷnh bị uống rachi say mèm, vào phòng ngụ kêu Choundouss bảo đãi xăng cho bạn đồng hương. Huỷnh kêu Lama đồng hương và nói và khóc, tỏ ý lâu ngày gặp nhau, nay gặp mừng lắm. Huynh đồng hương có ý cằn-rằn quở trách tiểu lama, sao đi với Samdhen lại để Samdhen uống quá chén. Tiểu lama nói tỏ ý, huỷnh bị Babon ép uống, nhưng không bao nhiêu, bị huỷnh yếu nên say. Bảy giờ rưỡi thì huỷnh ngủ. Huynh đồng hương lúc 8, 9 giờ mãn tiệc về.
Đêm nay Choundouss sanh dâm tâm, mượn bần đạo 4 cắc Tây-tạng cho tình nhơn. Huỷnh làm cho Issê Sonnam cũng ngủ không đặng cứ vô ra hoài. Tiểu lama cũng không ngủ. Bần đạo dòm tình hình lấy làm thương ôi cho thế tục, vì dâm mà phải trầm luân nơi khổ bể. Bần đạo tư duy thị sự, đoạn niệm Phật rồi nghỉ.
-
Ngày 21 Juin 1936 – mùng 3-5-â.l.
Sớm mơi thức dậy, Samdhen có hơi bẽn lẽn cùng cô chủ gia, song cũng rán giả lả hỏi han chuyện vãn, rồi lấy 3 R đền đáp tiền phòng. Bần đạo có viết thơ gởi về Nam Việt. Samdhen mượn cô chủ cho người bỏ thùng giùm có đưa vài cắc tiền nước.
Đoạn 8 giờ điểm tâm vì có mã tử đem bốn con ngựa lại rồi, ấy là ngựa hộ tống, vì Samdhen có quen với Bơda-Alessir Trấn quan nguyên nhung tại Giăng-sê, nên có xin trát quan, đặng đến các trạm trình cho quan, làng sở tại đặng mướn ngựa giùm, chỗ nào ở ngụ đêm thì có chỗ ăn nằm tử tế và có củi nước đủ lẽ, nếu không có trát ấy, dầu có tiền cũng khó kiếm chỗ ngụ, khó mướn ngựa, khó có củi nước.
Thiệt cũng đáng kính tánh ý lanh lợi xử thế của huynh Samdhen, lấy tép nhử tôm, đem cơm đổi gạo. Làm quen các nơi danh tộc hào phú, quan dân, nhờ vậy mà đi tới đâu cũng đặng người kính mến và nội bọn an ổn, bần đạo dựa chút hơi ấy mà đặng trải qua các hiểm trở đất Tây-tạng.
9 giờ ngựa gác yên xong, bốn huynh đệ đồng tạm biệt Yangksê thành, chào chủ gia, xuống lầu lên ngựa. Đường đi cũng dễ, chỉ có một cái đèo cao mà thôi, còn bao nhiêu đều là đường bằng. Các huynh quen theo phong thổ, cả thảy nhơn dân đều biết cỡi ngựa làm chưn, nên lên lưng ngựa giục sải, tế như bay. Còn bần đạo mẹ đẻ đến lớn không biết cỡi ngựa, vì xứ Việt-nam, đường sá thông thương, xe hơi, xe ngựa hằng dùng, nên không biết cỡi ngựa, ngựa đi thủng thẳng thì đặng, bằng nhảy sải, thì hỏng đít hòng té xuống đất, nên đi sau chót, cho nhảy cà xọt, đau đít đau hông, nhưng cũng rán mà theo họ, nếu không thì lạc đường. Niệm Phật mà đi. Tới một khoảng đường kia, mấy huỷnh dừng ngựa chờ, khi bần đạo tới thì Samdhen nói : Sao lâu vậy, đường xa mà đi vậy thì không tới sớm đặng. Bần đạo có ý buồn lòng, trả lời rằng : Mới lần thứ nhứt bần đạo cỡi ngựa, cỡi đi lung quá không đặng, mấy huynh cứ việc đi trước, bần đạo lần hồi theo sau, nói rồi họ đi. Coi ý huynh Samdhen giận, bần đạo nhẫn nhục đi sau 10 giờ rưỡi thì họ đã tới làng Guôi-si, ghé đổi ngựa. Bần đạo bị đi sau, nên lúc qua cầu Guôi-si thì cho ngựa đi thẳng, vì ngỡ mấy huynh đã đi xa rồi. Bỗng có một cô Tây-tạng chạy sau kêu ngừng ngựa, bần đạo bèn quày ngựa lại, tới cô Tây-tạng xuống ngựa, cô dắt ngựa vào nhà trạm, bần đạo theo sau, khi vào đó thì thấy mấy huỷnh đã ăn bột uống trà rồi.
Choundouss mời ngồi rồi bảo dùng bột và trà, rồi đổi ngựa đi nữa. Samdhen ngồi trong đơn ở trong phòng yên ổn không quở tới bần đạo, nhưng bần đạo an lòng nhẫn nhục, vui cười với Choundouss và nói : Con ngựa đi không đặng, bần đạo bị nó nhảy cà xọt nên mệt quá, và nói và cười, ăn sơ sài bột, uống sơ vài chén trà, đoạn Samdhen trong đơn bước ra, bần đạo dã lã cười nói, hỏi : huynh trà rồi sao ? Đoạn huỷnh thấy bần đạo tươi cười thì huỷnh ăn năn bèn nói : Thầy hãy dùng bột cho khá vì đường còn xa. Bần đạo nói : ăn rồi, ăn rồi, bèn đứng dậy ra giúp người gác yên ngựa. Cô chủ nhà cầm cái trát xem rồi, trao lại cho Samdhen. Ngựa xong rồi 11 giờ rưỡi lên đường, chuyến nầy đặng con ngựa đi chạy, êm ái, bần đạo không sút tấc đường cũng đồng với các huỷnh. Hai giờ tới làng, trình trát xin đổi ngựa, nhưng có một cô chủ gia kia đứng dưới ngựa xá Samdhen xin tạm nghỉ mai lên đường vì ngựa ở xa đổi không kịp. Huynh Samdhen cũng hoan hỉ vì tiếng nài nỉ. Cô nọ bèn dắt thẳng về nhà, đơn tợ tử-tế. Không có đồ ăn chay, nên Samdhen mượn cô chủ gia mua hột gà ăn đỡ.
-
Ngày 22 Juin 1936 – mùng 4-5-â.l.
2 giờ sáng thức, trà nước xong, 4 giờ lên ngựa 9 giờ tới làng Gialum đổi ngựa, ăn bột ngọ rồi 10 giờ rưỡi lên ngựa lối 1 giờ tới một chỗ núi trùm tuyết trắng phao, huynh đệ đồng xuống ngựa nghỉ đoạn thấy cảnh tốt, bèn chụp hình rồi trà nước nghỉ một chập lên đường. Ba giờ chiều tới xóm Gia-ra, xuống ngựa vào nhà trạm cận đường nghỉ ngựa, thì đã gặp các huynh đi trước với toán la chở hành lý. Cùng nhau xăng, trà, bột rồi hỏi thăm làng Năng-cann-sê đường còn bao xa, thì chủ gia nói còn xa lắm, nếu đi bây giờ thì khuya mới tới, tốt hơn là nghỉ đây sáng đi. Nghe qua, Samdhen bảo các huynh Isess, Issê và hai huynh Khampa lo đi trước với hành lý. Bốn huynh đệ ở lại nghỉ, mua cỏ cho ngựa ăn, nghỉ đêm tại đây. Thương thay Samdhen cả buổi chiều cho tới khuya bị kiết, đi ngoài liền đeo. Phần chốn nầy núi tuyết tứ phía bao quanh, thêm gió thổi nên lạnh lẽo hết sức, huỷnh đi hoài mệt lắm, lạnh lắm. Khuya huỷnh nghỉ êm. Bần đạo bốn lớp mền còn lạnh, phần bị ngủ dưới đất không đơn, giường chi hết, phần vách đá không tô, hơi lạnh càng thêm. Đêm nay bần đạo không ngủ.
Ngày 23 Juin 1936 – 5-5-â.l.
Sáng trà nước xong, Samdhen hết kiết. Sáu giờ rưỡi lên ngựa đi, ngựa chạy, gió dồi, tuyết lạnh, đi tới làng Năng-cann-sê đã 10 giờ rưỡi. Lúc ấy thì đã có chư huynh đệ đi trước hôm qua, đứng chực đón. Xuống ngựa vào nhà của một vị chủ gia quan lại nghỉ. Làng nầy đông đảo, có hồ nước chạy dài theo chưn núi, đây có đài quan cất trên đảnh xem ra cũng oai nghi. Isess xầm xì to nhỏ, ý nói nhà quan trang nghiêm, giàu có. Samdhen nghe qua, sắp đặt đơn tề chỉnh, chủ gia có cho một cô tiểu nữ hầu trà nước. Isess vào ra, dường như làm chim mồi nói năng cùng chủ nữ, nên chi chủ nữ mới xin coi quẻ. Isess vào nói nhỏ với Sam-dhen, huỷnh lại càng khoái ý nói : Đặng. Họ xầm xì, nhưng cử chỉ ấy bần đạo đều thấu đáo. Isess đi hỏi tuổi, chập lâu vào nói : Samdhen xủ quẻ, làm mặt. Xem quẻ rồi viết các việc trao cho Isess đem cho chủ nữ. Lạ chi cái thói đờn bà ham điều dị đoan, và buộc đờn ông cũng thuận theo họ. Đoạn một chập chủ gia vào ra mắt Samdhen tỏ ý cám ơn và xin phái quy y nội nhà. Samdhen càng khoái ý, làm mặt làm mày, lấy phái đã làm sẵn, đem ra làm đủ lễ, niệt, chú đủ điều, Isess làm sứ đệ đi. Chừng ông chủ gia mới đem thịt dê khô và tiền lễ vào dưng, huynh đệ họ coi bộ khoái lắm. Biết đặng một nhà thì ra quen cả xóm, bọn con cái và bà chủ nhà đi cùng các nhà hào hộ trong làng đồn nói rủ ra, nên cả buổi chiều sáu, bảy cô ăn mặc tử tế, đầu cung diện ngọc tới xin xem quẻ, xin phái, xin niệt, thi lễ cúng dường, Samdhen càng bày vẽ linh đình. Kế kẻ ít tiền đem chút ít tiền thỉnh niệt, tới khuya rồi việc. Huỷnh còn phòng hờ giờ sáng, lấy vải vàng vải đỏ xé làm niệt, hỏi bần đạo có vải vàng, cho huỷnh. Bần đạo nói có cái y ngũ điều đó huynh dùng thì dùng. Huỷnh lè lưỡi, rằng không dám. Đoạn ngủ.
-
Ngày 24 Juin 1936 – mùng 6-5-â.l.
6 giờ uống trà, huỷnh nghe ở ngoài có tiếng, hay tiếng giày thì ngóng cổ qua cửa sổ dòm chừng ấy là tưởng cho còn ai tới xem quẻ hay cần thọ phái hoặc xin niệt. Vì ngày hôm qua tiền công quả trên 1 rupee.
Ngóng không ai, 7 giờ xứ nầy mặt trời lên cao bằng xứ ta 10 giờ, vì 4 giờ sáng đã có mặt trời lên cả sào. Đoạn ngựa gác yên rồi, đồng lên đường, ngựa không mấy mạnh, xấu mã lắm, đi lối sáu, bảy cây số thì mã tử vào làng đổi ngựa, không vào xóm, ngồi đỡ ngoài bờ lộ chờ. Đoạn có ngựa, đồng đi tới 12 giờ rưỡi thì tạm ghé làng Pê-tê, đổi ngựa và ăn ngọ luôn và nghỉ luôn đêm tại trạm nầy.
Ngày 25 Juin 1936 – mùng 7-5-â.l.
Sáng thức sớm, 5 giờ lên ngựa đi, ngựa lên đảnh núi Nhaip-xốc-la (nhaip là đất, xốc là lưng) lên đèo nầy ước vài giờ mới tới đảnh, xuống ngựa, vì xuống cái dốc ải nầy, ngựa dắt đi còn trợt lên trợt xuống, hà huống là cỡi. Đi bộ trút 3 giờ đồng hồ mới tới triền bình địa, mệt ngất lên ngựa đi tới 10 giờ rưỡi tới làng Dum-bô-chê xóm Nhaip-xốc. Vào xóm trình trát, có quan lại tiếp trát xem, đoạn mời vào căn nhà có đơn tợ tử tế, uống trà đợi đổi ngựa. Đoạn 11 giờ rưỡi ngọ bột rồi lên ngựa đi, 12 giờ rưỡi thì tới bến đò. Mã tử dắt ngựa về. Samdhen nói : Thầy ở đây ngủ một đêm với Issê và hai người Khampa, còn tôi cùng Choundouss, Isess và Sonnam qua đò vào làng xin mướn ngựa rồi đi luôn đàn bộ đến Xú-xuol, còn thầy sáng đi đường thủy với ba huynh đệ kia. – Đặng. Đoạn ba huỷnh xuống đò bằng da đi qua bến bên kia xóm. Trên núi mà có ngọn hồ nầy, hỏi ra giòng 50, 60 cây số. Khi họ xuống đò, bần đạo có chụp hình. Chừng họ qua bển rồi, thì bần đạo lại bến đò cùng hai huynh Khampa đem hành lý lại chỗ bến chất đồ gần đó mà nghỉ. Chập lâu thì người ngựa Issê đã đến, toán la chở 12 bao da gạo và rương với hành lý đã đến, chất các vật trên bến, mã-tử và la-tử trở về, có huynh Tanzine Guêgane cũng tới, năm người đồng tạm nghỉ nơi bến. Sẵn nước bần đạo bèn giặt áo, khăn, vớ, mũ, đoạn tắm sơ. Nước ngọn hồ nầy có chỗ chảy mạnh có chỗ ương, chỗ bến nầy nước rỉ rả chảy, nước hơi đứng. Nước cũng lạnh như đồng, tắm sơ lược thôi. Chiều lại đồ khô, mặc vào, kế gió thổi cát bay lấp đầu cổ, quần áo trắng phao. Issê bàn lấy vải che sơ gần đống thùng chất của bọn Népal chỗ khuất gió, lấy đồ ngủ của bần đạo trải rồi mời lại tạm ngồi trốn gió. Cám ơn huỷnh, lại đó ẩn gió đỡ quá. Mấy huỷnh bèn lấy đá làm táo nấu trà uống và nấu ăn chiều. Các huỷnh đi rảo trên bến lượm phân bò khô đem lại lò lấy ống bễ da thổi lửa nấu ăn. Cách nầy cũng ngộ, nhờ ống bễ, phân bò cháy có ngọn không sợ gió, lại mau sôi mau chín, bần đạo ngồi xem cách họ cực lực vì bữa ăn chiều cũng khá thương. Họ ăn uống rồi thì kế trời có hơi muốn mưa, vừa rớt hột thì họ lấy vải căng che chỗ bần đạo ngồi, song mưa vừa ướt áo rồi thôi. Cả buổi tối tới khuya mới hết gió. Năm huynh đệ chèo queo ngủ. Bần đạo ngủ gần huynh Tanzine Guêgane, khuya thức giấc thì trăng đã gần chen lặn. Chung ra ngoài, hết gió, ít lạnh, ngồi ngoài hút tàn một điếu thuốc, chun vào nghỉ.
-
Ngày 26 Juin 1936 – mùng 8-5-â.l.
4 giờ sáng thức dậy, lo nấu trà uống, uống chừng hai giội trà, kế bọn đò tới, chất hành lý vào hai chiếc đò da, chất rồi đồng xuống đò chèo đi. Trải qua nhiều khúc rạch hồ nước bị hàn ngăn chảy ồ ào như xối, có nhiều khúc rộng lớn mênh mông, hai bên mé nhà cửa xóm làng cũng đông đảo. Trên đảnh cây mọc không nổi vì tuyết, nhưng theo bến có chỗ xóm ở có trồng cây cối sum sê. Đi tới 8 giờ, thấy một cảnh chùa cất dựa hông núi, ngó xuống ranh hồ xem qua đẹp đẽ. Bần đạo muốn chụp hình, nhưng trời u ám chụp không đặng. Đi một đỗi nữa trời thanh tỏ lại, gặp một cảnh bến có nhà, có cù lao, có miễu, bần đạo bèn chụp ảnh cảnh ấy. Đò da lúc chậm lúc mau vì ngọn nước, hai con đò (đờn ông) hò hát u ơ chèo rỉ rả 9 giờ rưỡi tới làng Xú-soul. Đò ghé bến, chất đồ lên, Guêgane đi dọ coi Samdhen tới chưa, dọ xong trở xuống bến, vác đồ hành lý ngủ của bần đạo và dắt bần đạo đi đến chỗ ngụ, đến nơi thấy một mình Samdhen ngồi chong ngóc, thấy hai huynh đệ vào, bèn chào hỏi, đoạn hỏi bần đạo hôm qua ở tại bến đò Cô-trúc Nhaip-xốc-la tốt chăng, đêm ngủ đặng chăng ? – Ôi ! cực vì gió lung quá, cát bụi đầy mình, thêm tối trời mưa, chỗ ngủ ngắn chẳng đầy thước, cả đêm chèo queo mà chịu. Huỷnh cười rằng : Tôi hôm qua vào xóm, tới chiều mới có ngựa, ngựa lại xấu mã, cà xọt tới Xú-soul nầy cùng Choundouss 10 giờ. Isess 11 giờ, Sonnam 12 giờ khuya mới tới, tôi tới trước, xóm đóng cửa ngủ hết, kêu rát cổ mới đặng nổi chỗ ngụ lôi thôi, tôi rầy la đưa trát ra, họ mới nhúc nhích, cực quá. – Đoạn 10 giờ ăn bột với nước muối rồi 10 giờ rưỡi lên ngựa đi tới làng kia… gặp Choundouss và Isess ở dưới bóng cây chực đón, có người trong xóm cũng sẵn đó. Xuống ngựa, uống trà, uống xăng, đổi ngựa xong rồi đi, chỉ có con ngựa của bần đạo, không đổi, để đi tới Lhassa. Mười hai giờ rưỡi đi, ngựa lúc đi mau lúc chậm. Hai giờ rưỡi đã tới Giăng-mạch, huynh đệ đồng xuống ngựa vào nhà trạm nghỉ luôn đêm.
Ngày 27 Juin 1936 – mùng 9-5-â.l.
Sáng 6 giờ lên ngựa. 9 giờ tới Nhê-thăng, nghỉ luôn sáng sẽ lên đường, bần đạo mừng vì ngựa còn đi xa đường, nghỉ vậy tốt lắm.
Samdhen nói : Còn 30.000 thước tới Lhassa, vậy ngày mai sẽ tới nơi rồi, bần đạo rất mừng, mấy tháng mệt mỏi, nay nghe mai tới Lhassa mừng hết mệt. Đoạn 11 giờ rưỡi ăn ngọ bột với canh cải. Đường đi từ Yangk-sê tới Nhê-thăng, khó ít vì đèo dốc ít, đường bằng lung, nên ngựa cũng dễ đi. Bần đạo nói với Samdhen đổi giùm 2 rupee tiền Tây-tạng đặng bần đạo cho huynh đệ 1 rupee ăn uống tự tứ cho vui, vì mai tới Lhassa, trải mấy ngày đường cực nhọc, nhưng Samdhen đưa 15 trăng-nga nói : ít, ít tốt hơn, nhiều quá họ ăn uống say sưa. Đoạn bần đạo lấy tiền ấy đem xuống lầu vào chỗ phòng ngụ mấy huỷnh, nói với Choundouss, bần đạo cho huynh đệ vui một bữa vì mai tới Lhassa, họ mừng rỡ tiếp lấy tiền rồi ăn uống cùng nhau, bần đạo cũng đồng ngồi hoan hỉ ít chén xăng. Tới tối khuya họ mới rã tiệc. Đêm nay ngủ êm ả.
-
Ngày 28 Juin 1936 – mùng 10-5-â.l.
5 giờ sáng, trà nước xong lên ngựa, đi tới 8 giờ rưỡi tới làng Đung-gar, bốn huỷnh đổi ngựa rồi đi, 10 giờ rưỡi tới chùa tên Dzêss-bung, chùa lớn có tới 7.700 tăng chúng, có một cảnh nhỏ cận bên, hằng ngày có 100 tăng sư lo cúng dường, ấy là Tăng sư chùa lớn thay đổi lo việc. Chùa nhỏ nóc vàng chói rực. Đoạn huynh đệ đến nhà quen ngoài xóm nghỉ uống trà nghỉ ngựa, chập lâu có một vị lama đồng hương Samdhen đến, chào nhau rồi uống vài chập trà, đoạn dẫn nội bọn đi viếng chùa nhỏ. Chùa nầy là chùa Tổ, thờ các vị Lama Tổ sư tịch diệt, có cốt có y mão Quốc Vương, gươm vía, giáp sắc, mão sắc treo đầy cột hàng ba. Đoạn đi lễ bái đủ chỗ rồi thì Samdhen có cúng dường chút ít, bần đạo không tiền lẻ, nên xuôi qua. Về chỗ ngụ 1 giờ rưỡi lên đường.
3 giờ tới Kinh-đô Tây-tạng là thành Lhassa, ngựa đi ngang đảnh núi nhỏ trên có cất nhà, xem ra tốt đẹp, dãy dọc, dãy ngang, hỏi ra là nhà dưỡng bịnh của đức Boda Lama Quốc Vương, kế đó là cửa thành, vào cửa thành thì trước hết đi ngang qua Quốc-tự của Quốc Vương Lama, cất trên đảnh núi, xem ra không biết mấy nóc, khảm vàng rực rỡ năm, sáu từng lầu. Lúc còn đi đường xa xa lối ba, bốn cây số đã thấy phía hậu Đền chùa rồi. Kêu là Đền vì phần riêng của Quốc Vương, song Quốc Vương là một vị Đại-đức Lama nên gọi Chùa. Một mình làm vua sãi mà cũng vua toàn quốc cai trị quan dân. Lần lượt nẻo quẹo đường quanh, người ngựa đã tới chỗ ngụ, có người chực sẵn rước vào một căn phòng sẵn có đơn tợ. Ấy là nhà trong vòng thành Dinh-quan Tứ-trụ Thừa-tướng nước Tây-tạng. Samdhen đã có quen trước và cũng có thơ từ trước. Căn nhà ở gần bên tên Đầu bếp của Thừa-tướng. Người đầu bếp cũng vui vẻ, tiếp rước chỉ phòng sắp đặt hành lý, an đơn rồi, thì vợ chồng đầu bếp hộ củi phân bò, cà ràng, nước cho tổng khậu Isess nấu trà giải lao. Tối lại họ ăn chiều, rồi lo nghỉ ngơi. Huynh Samdhen nói : đây là nhà cửa trong vòng thành Quan Thừa-tướng. Dinh Ngài ở gần đây phía tả phòng nầy, mai huynh đệ mình sẽ ra mắt ngài.
[Hai hình dán tại đây đã hư.]
-
Ngày 29 Juin 1936 – 11-5-â.l.
Sớm mơi thức sớm, 7 giờ trà, bột điểm tâm, đoạn đổi giấy bạc 2 rupee ra tiền Tây-tạng, hườn cho Sam-dhen 15 trăng-nga lấy bữa 27 Juin. Trưa lại ăn ngọ bột với cải củ trắng nấu cà-ri (bần đạo 9 giờ đi chợ mua). Qua 11 giờ 20 có người ở đằng Dinh-quan Thừa-tướng lại nói : Giờ nầy Quan tiếp khách, thì ba huynh đệ Samdhen, Choundouss và Bần đạo liền theo chơn tiểu-lại-quan. Mấy huynh kia khuân lễ vật : 2 bao gạo, vải Bhutan và các vật hình Bodhgaya tháp, nước sông Gange, trái ngâu tại tháp Phật-đà-gia, lá Bồ-đề, đất nền Nalanda, đem lại Dinh. Lên lầu, vào phòng khách, thì đã có Quan-lớn và Bà-lớn ngồi tại phòng. Các quan lại đem lễ vật vào, ba huynh đệ theo chơn, đến phòng bèn chào Quan và bà lớn. Đoạn ba huynh đệ đem vải, anh lạc tặng ngài. (Trước khi đi, thì tên đầu bếp có cho hay rằng : Quan lớn muốn cho Bần đạo đắp y phục Bí-sô ra mắt ngài, chớ không muốn bần đạo mặc đồ Tây-tạng ra mắt ngài.) Đoạn hai ông bà ngó trân bần đạo, chấp tay xá đáp lễ, rồi mời ngồi trên đơn. Tục người Tây-tạng nhà nào cũng có đơn tợ sẵn sàng, vì đất Phật, chư tu hành hằng hay đến nhà nên phải có đơn tợ, chớ không ghế ván như xứ khác. Kẻ thấp hèn thì ngồi trên rầm trên đất, chẳng đặng ngồi đơn. Đoạn an đơn rồi, thì Quan đàm đạo cùng Samdhen, kế bà-lớn kiếu vô, truyền quan lại sắm sửa trà bánh. Bà-lớn bèn vào phòng kế đó, một chập bước ra, bần đạo xem qua thì bà-lớn trang điểm, cài tóc, đeo ngọc, châu cách lạ lùng con mắt bần đạo. Tại Yank-sê chỉ thấy đầu cung gắn ngọc thạch. Đến đây lại thấy đầu cột ngôi sao ba chuôi gắn ngọc, tóc rẽ làm hai treo trên hai góc ngôi sao bỏ xả hai bên tai khỏi vai, đoạn dưới vóc bính rồi đâu hai bính ra sau lưng, có một sợi ngọc điệp cột hai bính ấy. Hai bên tai đeo hai tấm ngọc thạch xung quanh cẩn vàng lớn lấp tai, mặc áo vận tả hàng tử tế, liền có thế nữ bưng một cái bàn nhỏ sơn phết để vòng trước cái nệm vuông áo gấm. Bà lại nệm ấy ngồi, bà kêu thế nữ nói nhỏ, thế nữ bèn bưng một cái plateau(1) bạc có bình trà bình sữa, bình đường bằng bạc trên ấy, đoạn quan lại bưng để trước tợ mỗi người. Choundouss ngồi trên khảm nhỏ trải trước đơn, chớ không đặng ngồi đơn. Đoạn thế nữ bưng bình sữa và đường đem lại tợ Quan-lớn trước. Quan rót sữa bỏ đường vào trà rồi, thì kế Samdhen, Bần đạo và Choun-douss. Quan lớn và bà mời xơi trà, đoạn trà xong, thế nữ dưng bánh thuẫn, nhưng ba huynh đệ không ăn, thế nữ rót trà thêm, nhưng ba huynh đệ dự kiếu. Trà rồi, bèn thấy một người trai ốm cao, ăn mặc đồ âu-phục bước vào ngồi tại chiếc nệm của bà lớn ngồi làm trà khi nãy. Đầu tóc vóc hai bính rồi thắt như hình bánh neo ngay trên xoáy thượng, giữa bánh neo có giắt ngọc thạch xanh, y như Quan-lớn. Quan-lớn nói tiếng Tây-tạng cùng người trai ấy, thì người trai ấy bèn nói tiếng Ăng-lê hỏi bần đạo quê hương xứ nào ? – Thưa Annam quốc. Quan lớn nghe thông ngôn lại thì nói Annam, Annam, hai, ba lần thì bần đạo nói, ừ, ừ, tỏ ý biết và có thấy trong họa đồ.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Người trai bèn hỏi, từ xứ của thầy đến Ấn-độ, đi bằng chi ? – Đi tàu 10 ngày tới Madras, ngồi xe lửa từ Madras đến Bérarès ba ngày ba đêm. Đoạn quan lớn cùng Samdhen chuyện vãn một chập rồi ba huynh đệ từ kiếu về chỗ ngụ. Mười hai giờ rưỡi Samdhen thuật lại rằng : Huỷnh học với Quan rằng : Bần đạo chịu cực khổ tới Lhassa, trải bốn tháng trời theo huynh đi các nơi. Tại xứ đường xá xe cộ chớ không từng cỡi ngựa trèo non lên đèo xuống ải. Quan khen ngợi và huỷnh nói bần đạo ăn chay ngọ. Quan nghe khen nói : Biết kinh kệ nhiều rồi nên mới đặng bực ngọ trung. Quan hỏi huỷnh sao chư Lama không ngọ trung chay lạt. Huỷnh nói còn bực thấp và còn lập công quả nên ăn chưa đặng. Qua 1 giờ rưỡi huynh đệ kéo nhau đi viếng chùa Kinh đô tại thành phố. Chùa nầy tên Lhassa Chô-khăng (Sakia muni), rộng lớn, không biết mấy cung điện Phật và Tổ-sư, mỗi điện lễ bái cúng dường 1 trăng-nga. Bốn giờ mà chưa tất, bèn kéo về, hẹn ngày khác sẽ viếng nữa, lúc về ghé chùa nhỏ tên Chomi-chúchđorgiê hành hương và cúng tiền. Chùa lớn và nhỏ không có tăng chúng ở, chỉ để cho chư tăng các tự xa tới viếng Kinh đô, ở kinh-kệ. Tối lại họ ăn đêm, bần đạo cứ lệ cũ, ngồi thiền, niệm Phật tới giờ ngủ.
-
Ngày 30 Juin 1936 – 12-5-â.l.
Nhựt thường lệ, trưa dùng ngọ cốm dẹp với cải củ kho, vì hết bột cà-ri. Trọn ngày nghỉ mệt không đi đâu. Bần đạo nói với Samdhen, bần đạo muốn mua chút ít đồ Ăng-lê, đem tết Quan Thừa-tướng. Huỷnh bèn bàn luận cùng huynh đầu bếp, thì người nói để mua bánh biscuit, beure và trà ăng-lê tết tốt.
Học thêm tiếng Tây-tạng.
Ngày 1er Juillet 1936 – 13-5-â.l.
Nhựt thường lệ, điểm tâm trà bột rồi, thì Samdhen nói : Bữa nay ăn một bữa cơm, bèn bảo tổng khậu nấu cơm cho bần đạo ăn ngọ. Xứ Lhassa củi quế gạo châu. Hơn mươi ngày mới ăn một bữa cơm. Mười một giờ bần đạo ăn cơm ngọ với cải kho hôm qua. Các huỷnh lo kết cờ và giấy in thần chú, gọi ngày mai đem cúng chùa. Kế 1 giờ Quan lớn sai người đem beurre Tây-tạng, cải bẹ trắng và bột né hộ. Đầu bếp nói Quan hộ hai thầy, Samdhen cho người bưng đồ vài cắc Tây-tạng. Hai giờ đầu bếp lấy 12 rupee của bần đạo đi chợ mua đồ tết, đem về hai hộp bánh lạt và hai chai nước xì yểu, nói beurre và trà không có. Vậy hai chai xì yểu cũng quí quá giá 9 rupee ngoài. Bốn giờ đem lễ vật cùng Samdhen đi viếng Quan lớn. Chào xong, mời ngồi, quan lớn bữa nay bật tiếng Hindou với Bần đạo, chuyện vãn trút giờ, trà Tây-tạng cạn chén rút về. Kế tối Quan sai người lại mời hai huynh đệ lại dinh xem hát bóng. Tám giờ tối, hai huynh đệ theo chơn sai nha, đến phòng khách dinh Thừa tướng, thì đã thấy có đông người khán giả tựu đông rồi. Quan lớn bận áo nhỏ ngồi ghế đẩu (tabouret) gần bàn để máy chớp bóng. Ông bà mời huynh đệ tọa đơn rồi thì Quan bèn tắt đèn khí, đoạn mở máy chớp bóng, hình rọi vào tấm vải lớn một thước bề dài, tám tấc bề ngang. Hình rọi hát toàn bản Tây-tạng, du hồ thuyền da, chúng dân thầy thợ làm cầu, đúc trụ, hát rằm mang mặt nạ, đức Quốc Vương Lama dạo thành. Lớp chót hát bản Anglais giễu. Chín giờ hết bản, bà lớn đãi trà, thuốc, lúc vặn đèn thì thấy có Quan sứ Népal và toán quan lại quân lính của ngài lối mười người đồng có dự khán, đoạn hát một lớp nữa, hết lớp ấy hai huynh đệ kiếu về là 10 giờ. Bà lớn cách niềm nở với Bần đạo, tỏ ý thương người tuổi tác, xa phương cực khổ đến Tây-tạng, nên bà niềm nở, nói với Samdhen, bảo bần đạo có buồn thì lại chơi đừng ngại. Bà mời hút thuốc rồi chính tay bà quẹt cho bần đạo đốt thuốc.
-
Ngày 2 Juillet 1936 – 14-5-â.l.
Sớm điểm tâm trà sữa, ấy nhờ đầu bếp mua giùm sữa tươi, 9 giờ ăn bột không ăn ngọ kịp, vì cùng huynh đệ đi dạo Thành phố. Phố xá cất y như kiểu Yanksê, không có nóc, cất rầm ở trên như plafond, sạch sẽ hơn các quận đã trải qua, nhưng cũng có sự dơ dáy, không có chợ chỉ che giại theo lề đường bán và bán trong phố. Có chợ riêng bán thịt lối vài chục thớt. Đồ bán phần nhiều đồ Anglais-Calcutta đem đến, có dân Népal qua buôn bán, có người đạo Dehamoden ở cũng bộn. Đi giáp khắp chỗ buôn bán rồi về 12 giờ rưỡi tới nhà.
Ngày 3 Juillet 1936 – 15-5-â.l.
Bữa nay điểm tâm cải salade chấm muối, không có giấm mà trộn salade. Đoạn 9 giờ Quan Thừa tướng cho người lại bảo, giờ nầy đi đảnh lễ Quốc Vương Bơda Lama(1) đặng. Bảo rằng : Bần đạo phải đắp y Bí-sô, chớ không nên bận đồ Tây-tạng đi yết kiến Quốc Vương. Y theo lời dạy, rồi cùng huynh đệ của Samdhen bốn người khuân lễ vật y như đồ lễ dưng Thừa tướng ngày nọ, đi ra đường thành phố, cả người đi đường đều dòm bần đạo, ấy là lạ mắt họ lắm. Bần đạo chỉ cứ đi không chút ngại ngùng. Khi đến nhà Thiền Lama-Quốc, nghĩa là chư tăng sư của Quốc Vương Lama, thì huynh đệ đem lễ vật vào đó, lên lầu thì có một vị lama ra chào và mời vào liêu một vị lama gần đó tạm ngồi uống trà đặng chờ vị lama hầu cận Quốc Vương đến dẫn lộ. Đồng đi lên lầu ngự điện Ratrinh Labrăng Dziđê, trụ tại căn phòng quan hoàng môn để lễ vật trên bàn trình cho hoàng môn xem xét sắp đặt rồi, đoạn mới cho vào. Mở cửa Ngự điện, huynh đệ đồng bước vào. Samdhen đi trước, kế bần đạo, Choundouss, Issê và Sonnam. Lét ngó, thấy đại đức Bơda Lama Quốc Vương tác còn thơ (hỏi lại thì mới 27 tuổi, thế ngôi Tả-lê Lama(2) Quốc Vương tịch, đặng bốn năm), mặt mày sáng láng, ngồi nơi long đơn, trước có tợ sơn son phết vàng. Trên đơn trải gấm Tây-tạng. Nội bọn chỉ bần đạo đắp y vàng rực từ trên sấp dưới, làm cho Quốc Vương chăm chỉ ngó ngay, các Lama và quan nội điện đều để mắt. Đoạn Samdhen đảnh lễ, bần đạo y theo, rồi Samdhen đem anh lạc lại long tợ dưng và cúi đầu ngay Quốc Vương. Đại đức bèn tay mặt (thủ ma kỳ đầu) rờ đầu Samdhen, đoạn có vị Lama cầm một nắm niệt lụa điều đứng kế long tợ, lấy một sợi niệt ấy giắt lên cổ Sam-dhen, rồi huỷnh bèn thối lui đứng chấp tay hầu, bần đạo cũng y theo huỷnh, rồi thối lui lại đứng chấp tay gần huynh. Lét xem chung quanh Long-điện, chỗ cất riêng cho ngài ngự nghỉ khỏe lúc ít việc nước, chớ thường ở tại Tapola(1) Quốc tự, có Long điện chánh thì cách sơn vẽ rất thiện nghệ, có điện Phật cùng điện tiền Tả-lê Lama Quốc Vương. Xem ra cũng nguy nga rực rỡ. Ba huynh kia đều y theo tiền bối mà đảnh lễ Quốc Vương. Đoạn Đại đức Tả-lê Lama chỉ cái đơn phía hữu trước Long-đơn, bảo Samdhen tọa đơn, còn bốn huynh đệ tôi, quan hầu cận bèn mời xuống lầu vào một căn phòng khách thết trà Tây-tạng. Phòng có đơn tợ đẹp đẽ, tapis hàng màu trải trên đơn, tợ cũng sơn vẽ rực rỡ. Quan hầu mời bần đạo ngồi nơi đơn cao, tợ lớn hơn các chỗ kia, đoạn bảo ba huynh đệ kia ngồi đơn thấp tợ nhỏ, rồi giao việc cho quan phòng trà. Người bèn đặt chén trà (tàu) trước mỗi người, rót trà mời giải lao. Hai chập trà, chừng 20 phút, thì huynh Samdhen trên Long điện xuống bước vào phòng trà nói : Xong rồi các việc, vậy huynh đệ mình lui. Đồng kiếu quan phòng trà ra về. Về dọc đường cả người bổn quốc nam nữ đại tiểu trên đường và hai bên phố đều dòm ngó bần đạo xầm xì. Huynh Samdhen nói, họ xúm xem thầy và nói : Cha chả vàng lườm. Bần đạo tươi cười vững lòng vững bước như không người và nói với Samdhen rằng : Tốt lắm, tốt lắm, tôi muốn cả xứ Lhassa đều biết y phục của nhà Phật là vậy. Chừng bần đạo phút nhớ tới huynh Dammajoti và Samdhen đã có nói : Có Bikku Rahula (Patna) đi Tây-tạng hằng niên. Dhammajoti có nói tại Bodh Gaya với bần đạo, trước khi đi Lhassa rằng : Năm nay Rahula Bikku sắm sửa đi Tây-tạng và ở lại ít năm học tiếng Tibet. Tôi muốn viết thơ cho thẩy, gởi huynh đi với thẩy. Nhưng bần đạo nói : Tôi không muốn vì thẩy dầu có đi rồi biết đường đi nước bước xứ Tibet mặc dầu, chớ gẫm cũng không bằng người Tây-tạng, vậy nên tôi muốn đi cùng Samdhen Lama dễ hơn, có lẽ người thạo hơn Rahula. Khi nghĩ nhớ sự ấy, thì và đi và hỏi Samdhen rằng : Ủa, vậy chớ người bổn quốc không từng thấy y phục phật pháp của tôi mặc đây sao ? Vậy chớ Rahula bí-sô ở Patna thường đi Lhassa, nhơn dân xứ nầy không thấy sao ? Samdhen rằng : Rahula bí-sô đâu dám mặc y phục vàng như thầy vậy, người mặc y phục theo Lama sư và y phục người thế Tây-tạng. Nếu thẩy mặc đồ vàng thì phải bị bắt và đánh đuổi ra khỏi nước, vì xứ Lhassa trọng sắc vàng lắm. Sắc Phật chỉ đặng làm y, làm áo, làm mão thì đặng, còn ai dùng làm chăn, làm quần, làm vớ, làm giày bằng sắc vàng ấy thì bị phép nước bắt đánh đòn, lột đồ ấy rồi đuổi ra khỏi nước. Nhơn dân quăng đá mắng chưởi. Ấy là tục lệ xứ nầy vậy.
Còn thầy lại là khác, chỉ có một mình thầy đặng ân huệ ấy. Vì khi thầy đi tới xứ Lhassa, mặc đồ Tây-tạng, đặng ở trong vòng thành dinh Thừa tướng. Đến bữa ra mắt Quan, quan lại muốn cho thầy đắp y phục Bí-sô theo xứ thầy, ấy là ngài đặng thơ trước và biết thầy là Bí-sô của hội Maha-Bodhi-Sociéty, thảy đều mặc trên dưới y phục sắc vàng. Vì ngài có đi Bodh Gaya, Calcutta và Sarnath cúng dường, nên biết y phục ấy. Nay ngài lại muốn thấy, nên không phải tự ý thầy. Lúc đến viếng Quan, cả người trong dinh đều thấy, và đã đồn rân khắp thành thị, phần đông đều hiểu trước thầy là người quen của nhà Thừa-tướng quốc. Đến nay đi ra mắt Quốc Vương thì Thừa tướng đã có tâu trước, lại đi với bọn tôi, đi con đường đến Ngự điện, ai ai thấy cũng biết, lại thêm lúc đi có Lama quan cận sự đem đường, nào ai không biết, nào ai dám nói. Lại thêm lúc về tuy nội bọn đi không có Lama quan dẫn đường, nhưng nhơn dân quan-lại xem thấy cái niệt điều trên cổ cũng đủ biết ở trong Ngự điện, hoàng thiền mà ra. Bần đạo nghe qua, niệm Phật và cảm đức oai linh Phật lực ủng hộ làm cho bần đạo an ổn các nơi vô chướng ngại. Về đến nhà ngụ đã 11 giờ rưỡi nghỉ ngơi rồi ăn ngọ bột với canh cải bẹ trắng. Chiều y lệ.
-
Ngày 4 Juillet 1936 – 16-5-â.l.
9 giờ ăn bột với cải chua xào. Đoạn 9 giờ rưỡi có một vị Lama ở dinh Thừa tướng lại mời đi hành hương, nơi Quốc tự Hoàng thành Tapola. Huynh đệ đồng đi với Lama dẫn lộ. Khi đến trước Quốc tự thì Bần đạo có chụp ảnh chùa. Qua cầu, vào cửa chùa lần bước lên không biết mấy cấp thang, mệt ngất, chùa cất trên đảnh, lên cao chừng nào dòm xuống thành thị như thấy bàn cờ. Hôm qua có đưa cho Samdhen 2 rupee mua beurre cúng đèn trong chùa, ấy là tiền dầu. Beurre thắng đổ vào bình, bưng vào chùa, Lama dẫn lộ, bèn kêu ông từ chùa đi theo đặng chế beurre trong các đèn lưu ly các điện, chùa rộng lớn nhiều lầu nhiều nóc, nóc nào cũng thếp vàng. Hành hương đủ các điện, đều có cúng tiền cầu chúc phước cho Đàn na tín thí, vì bần đạo ít đức, e không đủ chia cho đàn na.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Rốt chói mắt vì thấy nhiều điện Phật toàn bằng vàng ròng, lư, đèn, lục bình các món làm bằng vàng. Rồi việc cúng dường, đến cúng dường tháp của chư Tả-lê Lama Quốc vương tịch diệt. Ôi đến nơi : thấy tháp (cũng trong Quốc tự) cao lớn, cả trên dưới đều thếp bọc vàng ròng, chạm trổ, ngọc thạch xanh, đỏ, vàng, trắng, lưu ly, pha lê, trân châu, thủy xoàng của Quan dân cúng dường gắn cùng tháp, trước tháp trên bàn để lư hương, đèn lưu ly toàn bằng vàng, lớp dọc lớp ngang, châu ngọc kết thành, có cây vàng, lá bạc, trái ngọc bông châu, bần đạo chưa từng thấy. Ấy là tháp Tả lê Lama Quốc Vương tân tịch đã bốn năm rồi. Còn 12 cái tiền Quốc Vương cũng tốt đẹp, lớn nhỏ không đồng, nhưng cũng toàn thếp vàng gắn ngọc gắn châu, có liễn theo biên chạm, tràng phan, phướng của người Tàu đến cúng dường. Có một vị từ tháp dắt chỉ, cắt nghĩa châu ngọc cái nào giá quí báo thế nào. Có chỉ một cây cột cận tháp trổ bông, ấy là tai nấm lạ lùng mọc một chùm như bông đá dưới biển (corail) bông nấm ấy có làm thùng bao kiến chụp và khóa lại.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Người nói : trước khi Quốc Vương tịch, thì chỉ chỗ cất tháp và nói chỉ cột sẽ trổ bông, chỉ đương kim Tả lê Lama nối ngôi. – Xong việc cúng tháp, sang qua nơi phòng kinh. Kinh chất đầy kệ không biết mấy ngàn mà kể. Một căn phòng lớn chung quanh làm kệ để những bản khắc kinh, rộng lớn hơn cái Bibliothèque Saїgon. Xong rồi, tiền nước cho ông từ rồi ra về, quận xuống núi chùa khỏe ru, không mệt như lúc đi lên, thở ra khói. Vị Lama dẫn lộ (ấy là Lama đồng hương của Thừa tướng và ở trong nhà Thiền của Thừa tướng cất đặng nuôi người tu đồng hương cũng trong chùa, chư tăng đồng hương lối 300 sư) cũng đưa huynh đệ về nơi liêu ngụ, khi ra về Samdhen có hộ chút ít tiền.
-
Ngày 5 Juillet 1936 – 17-5-â.l.
Nhựt thường lệ. Điểm tâm rồi, huynh Samdhen mượn viết thơ gởi cho ông Liu Ming ở Calcutta, bần đạo viết chữ Anglais còn thô tháo quá, song cũng rán lật tự điển viết toàn bức thơ, thuật việc đi qua Bhutan, đi đến Lhassa, quan Nguyên Nhung ải Yanksê có giúp trát dễ mướn ngựa, nên đi mau. Đoạn Bần đạo cũng luôn dịp tả ít hàng cho Thiên-chơn đạo tràng, cho chư huynh đệ trong ngoài rõ bần đạo đã tới Lhassa. Đợi qua ngày mai sẽ đem đến nhà thơ gởi recommandeé…
Trưa ngọ với cốm dẹp, cải chua sống. Chiều lệ thường.
Ngày 6 Juillet 1936 – 18-5-â.l.
Nhựt thường lệ, trà sữa điểm tâm, trưa ăn ngọ bột với cải và khoai um. Trọn ngày ở nhà nghỉ ngơi. Samdhen lo đi viếng hào tộc, quan lại có quan lớn. Lễ vật tốn kém cũng bộn.
Học thêm tiếng Tây-tạng.
Ngày 7 Juillet 1936 – 19-5-â.l.
Điểm tâm với khoai lang tây luộc. Trưa ngọ cốm dẹp cải asperge Tây-tạng trộn salade với cải chua. Trọn ngày nghỉ, dạo chợ chơi và học thêm tiếng Tây-tạng.
-
Ngày 8 Juillet 1936 – 20-5-â.l.
Sớm trà cốm dẹp điểm tâm. Sáu giờ rưỡi đi hành hương nơi chùa Kinh đô tục kêu là chùa chợ, đi với Choundouss, Issê, Isess, còn Samdhen ở nhà đặng đem lễ viếng hào tộc quen. Đến chùa đi cúng cùng các điện, cùng chư Lama đang tụng kinh. Đoạn xong việc ra về, lại dãy hàng bông mua thêm khoai lang, cải củ. Isess và bần đạo về trước, hai huynh kia còn đi dạo chợ. Về đến nhà 8 giờ rưỡi, vào đơn ngồi, phút thấy vị Lama dẫn lộ đi Quốc tự ngày nọ bước vào, lại có hai vị Lama một già một trẻ theo chơn. Mời ngồi, vị Lama dẫn lộ ngồi trên đơn của bần đạo còn hai vị kia ngồi nơi tapis dưới đất. Có một mình bần đạo nên nói bập lếu một, hai tiếng Tây-tạng với Lama quen ngồi gần. Còn Isess mắc ở ngoài chuyện chi với cô đầu bếp. Lúc huỷnh vào, bần đạo bảo lấy chén đãi trà, huỷnh y lời. Đoạn trà một chập thì Choundouss với Issê về, bước vào chào hỏi, chuyện vãn với ba vị rồi thông ngôn lại rằng : Ba sư đây tới thăm thầy chẳng phải thăm anh em tôi. Ấy là Quan Thừa tướng bảo họ ra mắt thầy, vì họ là Lama chùa Quốc tự ở nhà thiền của Quan lớn tên là Trzăngpá Khâmtrzanh, ấy là lama đồng hương với Thừa tướng sai đến. Nói rồi, thì vị Lama già và trẻ bèn đứng dậy lấy anh lạc hàng rộng dài, một ổ beurre Tây-tạng, một gói tiền (50 yô-vang) đem lại để trên tợ trước bần đạo. Huynh Lama quen trước bèn đứng dậy chấp tay xá nói : Ấy là lễ huynh đệ tôi ra mắt mừng thầy tới Lhassa. Đoạn lấy anh lạc choàng trên cổ Bần-đạo, tỏ kỉnh mừng. Chuyện vãn một chập, kế Samdhen đi viếng hào gia về, thấy tự sự và ba vị Lama học chuyện, huỷnh mừng quá và nói với bần đạo rằng : Ba vị Lama nầy là người của Thừa tướng, ở nhà thiền Thừa tướng đến rước thầy, vì Thừa tướng có nói với tôi rằng : Thừa tướng xem thầy như người đồng hương, sau đây ít bữa thầy sẽ đến ở nhà thiền của Thừa tướng tại chùa cùng 300 chư tăng sư cúng dường. Tôi ban đầu nói đem thầy đến nhà thiền đồng hương của tôi, nhưng Thừa tướng dành thầy và nói : Phần tôi thì cúng dường tại nhà thiền chư sư Lađặt, còn phần thầy thì cúng dường nơi nhà thiền của Thừa tướng. Tôi phải chịu. Bần đạo nói tốt lắm, tốt lắm. Quan lớn tỏ lòng thương đến rất tốt. Đoạn ba vị kiếu về. Samdhen nói, thầy bây giờ như người tu đồng hương cùng Thừa tướng, ước thầy muốn ở lại Lhassa mấy năm tu hành cũng có ẩm-thực y phục của Thừa tướng bao bọc cả thảy. Bần đạo rằng : Ấy cũng nhờ đi cùng chư huynh mới đặng tử tế, nếu đi một mình hay cùng kẻ khác cũng bơ vơ, có ai ngó đến. Nghe qua, các huỷnh vui lòng. Bần đạo rằng : Huynh Samdhen đây, Quan dân hào gia phú tộc đều biết danh, nhờ vậy mà tôi đặng hạnh phúc. Ngày nay, tôi đặng cung kỉnh như vầy quí quá, tốt tôi ấy là tốt huynh đệ, ấy tôi là người của Lama và chư huynh, ai nấy nghe qua cũng mừng. Choun-douss rằng : Bây giờ thầy như ghe bị cột đỏi, như xe lửa đã cột wagon, lễ mừng chút đỉnh, lễ đáp phải to. Bần đạo cười rằng : Sự cúng dường dầu tốn bao nhiêu cũng không sợ, chỉ đặng phúc hạnh an ổn xứ nầy là quí. Xong việc, Samdhen bàn luận lễ vật cúng dường tại nhà thiền Thừa tướng, tốn hao lối 50 rupee. – Đặng, đặng, tốt, tốt. – Kế đến ngọ trung. Nay ăn cơm cùng cải xào. Chiều lại Samdhen rủ đi chùa chợ với huỷnh. – Đặng. – Theo chơn đi hành hương, các điện cũng cúng tiền như sớm mơi. Khi đến cúng dường nơi chư Lama hành kinh, thì các huynh ngó trân vì sớm mơi đã có cúng. Rồi về tới nhà gặp Thừa tướng ông bà đứng hóng mát với người con trai. Samdhen khóm róm xá, bần đạo cúi đầu chào, đoạn Quan bảo con đem bần đạo vào thơ phòng chỉ xứ sở trên carte.
-
Ngày 9 Juillet 1936 – 21-5-â.l.
Sớm trà sữa cốm dẹp điểm tâm. Đoạn Samdhen bảo đi chợ đặng mua đồ sắm lễ cúng dường, bần đạo rằng hết tiền lẻ, còn có 8 rupee, vậy huynh đổi giùm giấy 100 rupee. Lấy giấy cent(1) trao cho huỷnh, bèn kêu Choundouss đi đổi giùm. Huỷnh bảo ăn ngọ sớm chút đặng rồi Choundouss đem bạc về thì đi chợ. – Đặng. – Chín giờ lo cúng dường ăn ngọ luôn, cốm dẹp cùng cải xào đủ bữa. Một chập lâu, Choundouss đem giấy bạc đổi về. Samdhen đếm rồi giao lại bần đạo 50 rupee, còn giao cho Choundouss 50 rupee, đổi giùm 30 rupee ra tiền nhỏ và mua beurre, trà, cùng vật khác. Đoạn huỷnh cùng cô bạn của đầu bếp đi chợ, bần đạo chẳng đi theo làm gì. Bèn rủ Sonnam đi xuống sông đặng tắm giặt. Tới bến đò, thấy tại bến nam nữ lớn nhỏ tắm giặt đông đảo, bèn đi dọc theo bờ đê kiếm nơi vắng tắm. Xuống một chỗ chỉ có một người đang giặt đồ, bèn giặt đồ rồi tắm. Sonnam giặt giùm cái áo, tuy không mấy sạch, nhưng cũng cám ơn. Khi về đến nhà, một lát có người đằng dinh Thừa tướng đem 30 rupee tiền nhỏ lại. Ấy là đổi bạc đàng Quan lớn, chớ ai có lung mà đổi. Choundouss đếm và thâu số tiền. Samdhen bèn chỉ beurre mua 8 rupee và trà đã mua rồi. Đoạn còn chờ Quan lớn mua giùm một cái đèn đặng cúng vào chùa, chiều y lệ.
Ngày 10 Juillet 1936 – 22-5-â.l.
Nhựt thường lệ, điểm tâm rồi, 8 giờ bèn sắm sửa đi chợ. Samdhen hỏi thầy muốn đi đâu ? – Đi dạo chợ, ngồi hoài mỏi mê quá. Đoạn ra đi, đến trước chùa Chô Khăng, ghé Chùa vào điện Lama Tổ sư đảnh lễ và sang qua Điện Phật-tổ lễ bái, rồi quày trở ra đi dạo phường phố. Thấy quán có hột thơm (cà-ri) mua ít món hột rồi đi đến chỗ bán hàng bông mua ba cây cải asperge đoạn về. Các huỷnh đi xóm, một mình Issê ở nhà với Bần đạo, Bần đạo đâm hột ngò, quế, nghệ (bột cà-ri), đoạn nấu cà-ri cải chua với cải măng, chiên khoai. Mười hai giờ thiếu 15 ăn ngọ bột với đồ ăn ấy. Đoạn chiều có hai vị Lama quen bữa nọ, ở Trzăngpá Khâm trzanh đến viếng và hỏi thăm Samdhen chừng nào bần đạo đi hành hương nơi Trzăngpá Khâm trzanh. Ba người đàm đạo, Lama mập quen trước ngồi nơi đơn của bần đạo, tay vò tay bần đạo một cách trìu mến, quyến luyến. Cứ một chập lâu ngó Bần đạo cười và nói một, hai tiếng dễ hiểu. Bần đạo cũng đáp lại. Mãn hai từng trà, hai huỷnh kiếu về. Samdhen rằng : họ đến hỏi ngày thầy đi hành hương nơi nhà thiền Thừa-tướng. Tôi cũng nói với họ, đã sắm sửa lễ vật rồi, mốt sẽ đi. Tôi nói : Thầy đã đi nhiều chỗ và đã ba, bốn tháng trời rồi, tiền hao tốn phí lộ lung, nên đến đây tiền cũng còn không đủ xây. Sự cúng dường nầy, tôi cho mượn sắm lễ, sau về Calcutta trả lại. Nói như vậy với họ, họ mừng quá, và như thế họ ít đèo bồng, chừng đi hành hương lễ vật đủ lẻ, họ mới kiêng thầy. Bần đạo chỉ cười.
Chiều đi dạo phường xá với Sonnam, đi thẳng đến chợ thịt đặng huỷnh mua thịt, vào đó cũng có ít chục thớt toàn thịt trâu-ly. Mua rồi ra quán mua một cục savon 7 trăng nga rồi về. Tối họ ăn đêm, bần đạo ra ngoài ngồi niệm Phật.
-
Ngày 11 Juillet 1936 – 23-5-â.l.
Nhựt thường lệ, lúc đang dùng trà, tên thợ may đem áo lại cho Choundouss. Huỷnh bèn bảo Bần đạo đưa giùm cuốn vocabulaire(1) của bần đạo cho huỷnh đặng lấy tấm giấy bạch của huỷnh để trỏng hôm qua. (Bần đạo có thấy huỷnh để và có ý không đẹp, vì xấp giấy cộm sách e hư sách, nên chi lúc huỷnh đi, thì bần đạo lấy xấp giấy bạch xếp nhỏ bỏ túi, ý làm vậy cho sau huỷnh hết để vào sách và giấy bạch sẽ dùng đi ngoài.) Khi huỷnh lật sách đặng lấy giấy ấy thì không có, bèn kiếm táo tát nói : Tấm giấy ấy mất rồi, bèn kêu Sonnam hỏi có thấy chăng ? – Không ? – Samdhen cũng kiếm giùm, tốc đồ của Bần đạo kiếm không có. Bần đạo hỏi kiếm thứ chi, Samdhen rằng : một tấm giấy bạch có gói ở trỏng một tấm giấy 2 rupee của Choundouss để trong cuốn sách của thầy. Bần đạo nói : Ôi thôi ? hôm qua cuốn sách ấy lấy ra nhiều người xem đọc, đem ra ngoài xem đọc, thì tấm giấy ấy còn đâu. Choundouss rằng : Tối tôi mới để, không ai thấy. Bần đạo nói : Sao không bỏ túi lại bỏ trong sách. Không tiền trả cho thợ may, nên coi bộ buồn xo, Samdhen lấy giấy 2 rupee đưa cho huỷnh, Bần đạo bèn nói : Không bao nhiêu, để tôi đưa cho huỷnh 2 rupee và nói và móc túi lấy một tấm giấy bạc 2 rupee đưa cho Choundouss (không dè trong tấm giấy bạch ấy có giấy bạc, té ra có, vậy làm bộ cho huỷnh đặng trả bạc ấy lại cho huỷnh, ấy cũng một sự dạy người đừng hơ hỏng). Chín giờ điểm tâm bột, khoai chiên. Mượn cô đầu bếp mua sữa (2 trăng nga), đường cát 5 trăng nga, 2P. Nấu trà sữa. Isess lo quảy đồ đi trước với một ông Lama (Lađặt), bần đạo thấy mang quảy (beurre, trà, bột vân vân…) đi bộ cực, bèn hộ mỗi vị ít trăng nga. Rảnh học thêm tiếng Tây-tạng.
-
Ngày 12 Juillet 1936 – 24-5-â.l.
Nhựt thường lệ. Điểm tâm rồi, sửa soạn đồ hành lý, đợi đem năm con ngựa tới sẽ đi cúng dường tại chùa Dzêsbung. Xuất 2 rupee cho Choundouss mua bánh in lạt china, đường cát, nho khô và táo khô đặng đem theo dùng tại Chùa, mua hết 1 rupee ngoài. Quan Thừa tướng bảo huynh đầu bếp đem lại một cái đèn bạc kiểu Tây-tạng, thứ thắp bằng tô dầu (beurre), đèn ấy của ngài, ngài nhượng lại cho tôi cúng dường tại nhà Tăng-già của ngài là Trzăng pá khâm trzanh, ngài bảo cúng dường rồi đem về mướn khắc tên bần đạo, xứ sở rồi sẽ gởi về Tăng-già để làm dấu tích. Mười giờ rưỡi có ba ông Lama (Lađặt) ở tại chùa Dzêsbung nhà Sangha Lađặt là Pithu Khâm trzanh đem năm con ngựa tới, các huỷnh lo gác yên đoạn 11 giờ thì năm huynh đệ lên ngựa, ba vị Lama quảy giùm hành lý Samdhen, còn bần đạo y theo lời Samdhen bảo, đem đồ ngủ và y phục Bí-sô theo. Mười hai giờ rưỡi tới Chùa, vào Tăng già Lađặt đỗ ngụ, chư Lama Lađặt tiếp rước tử tế, ấy là đồng hương cùng Samdhen. Samdhen và Choun-douss đã sắm đủ lễ đặng cúng dường, tục của họ, người xứ nào thì cúng dường tại Tăng già xứ nấy. Thấy hai huỷnh bàn tính lăng xăng, lễ vật sắp đặt bàn luận cùng huynh chủ liêu, tiền cúng dường cho chư Lama, tiền và anh lạc cho Hòa thượng và Yết ma, giáo thọ, lúc họ bàn luận rồi, thì Bần đạo bèn nói với Samdhen rằng : Tôi muốn cúng dường tại nhà thiền Tăng già Lađặt, vậy huynh sắm giùm lễ vật y như huynh đặng mai cúng dường một lượt. Nghe bần đạo nói, huỷnh vui lòng đẹp ý, bèn trăm tiếng Tây-tạng lại cho các Lama có mặt tại đó nghe, ai nấy cũng tỏ lòng mừng. Samdhen bảo vậy thầy xuất ra 8 rupee đặng đổi tiền, mai hộ cúng chư Lama. Bần đạo rằng : còn beurre, trà cúng dường y như huynh nữa, huỷnh nói : thầy muốn vậy càng tốt, vậy phải 8 rupee nữa là 16 rupee. Tôi sẽ mượn người mua beurre và trà. Các huỷnh trăm nhau, coi ý mừng rỡ lắm, vì tưởng việc ấy tôi không để ý, vì lễ cúng dường tại Tăng già đồng hương của Thừa tướng tốn nhiều lắm. Đến nay nghe qua và thấy bần đạo xuất y số 16 rupee theo lời Sam-dhen bảo, thì họ trầm trồ lắm. Chừ coi bộ họ trọng đãi bần đạo lắm, lo trà sữa dưng cho bần đạo. Bần đạo nói với Samdhen rằng : Sự cúng dường đằng Trzăng pá khâm trzanh tôi không ngờ mà Thừa tướng chiếu cố đến tôi, chớ sự cúng dường tại Tăng già Lađặt thì tôi để ý đã lâu, vì tôi đi với huynh, nhờ huynh, biết huynh, huynh là người Lađặt, thì tôi cũng như người xứ Lađặt. Nay đã đến nhà Thiền Lađặt thì toại ý tôi lắm, nên muốn y như huynh cúng dường. Huỷnh thông ngôn lại, các huỷnh đồng vui cười mừng rỡ. Bần đạo nghĩ vì, tu hành không bao nhiêu đức hạnh, kém phước, mỏng đức, nên phải cầu chút ít phước thiện đặng chia Đàn na tín thí có lòng hộ trợ cho Bần-đạo đi đến Tây-tạng. Nên chi tới các cảnh chùa đều cúng dường ít nhiều. Tưởng Phật nên trọng Tăng, xuất huyết mạch cho bần tăng đi đến đất Phật, thiệt Phước bất đường quyên, nhưng bần đạo xét mình “Thổn kỳ đức hạnh”, thọ tiền hộ phí cúng dường, không đành ăn ngon, mặc ấm, tiếc từ đồng để đến Tây-tạng đặng đi hành hương cầu phước cho Đàn na. Nay gặp sự cúng dường thì đẹp ý lắm. Choundouss ăn năn lời kiêu ngạo khi nãy.
-
2 giờ có hai vị Lama Tăng già Thừa tướng tới thăm, có đem bình trà lễ mừng và sau đem cơm hộ mỗi vị một chén. Bần đạo quá ngọ không dùng, nhưng cũng cúng dường lục đạo, đoạn các huỷnh cũng ăn mỗi người chút đỉnh, rồi xin hồi, nhưng hai Lama để lại ba chén phần Samdhen, Choundouss và bần đạo, còn mấy chén kia bưng về. Lúc họ về rồi Choundouss cợt rằng : Nhà Thiền của thầy không có beurre, nên cơm khô rang. Cái tiếng Choundouss ngạo cơm không beurre khi nãy thì không lạ chi cái tánh ganh gổ, vì nhà thiền cúng nhiều mà tiếp đãi không đúng. Ôi ! đời phải biết nghe tiếng, biết cử chỉ tốt xấu, mà làm cho hòa hảo, vậy mới ăn vào lời Phật nói : Đắp y của Phật thì phải ở cùng người một cách hòa hiệp, nhịn nhục, rộng rãi, hoan hỉ cho vui dạ người, an ổn phận mình, trúng với câu : Nhu hòa nhẫn nhục y. Nên chi Bần đạo thừa dịp mà bòn phước cho đàn na, cúng dường chung cùng các huỷnh tại nhà thiền Pi-thu La-đặt cho vui lòng hai bên, thà nhịn ăn, thiếu mặc để tiền mà làm việc phải, thì đồng tiền đàn-na không chết. Tỉ dụ như hột giống gieo vào ruộng tốt, cho nên Phật nói : Nhử đẳng thị chúng sanh chi lương phước điền. Thì làm sao cho phải Phật đệ tử cho chúng sanh nhờ phước đức thì làm… Nghĩ vậy mà bần đạo cứ xửcùng nội bọn, không dám làm phiền lòng người mà cũng không để cho người sanh tâm tội lỗi…
Từ ngày theo chơn cùng Samdhen nội bọn, đến ngày nhập thành Lhassa, thì trải qua biết mấy phen, ôm lòng nhẫn nhục, chịu sút, chịu thua, lời nói năng, sự ăn uống, cử chỉ động tịnh, đi đứng nằm ngồi, cho đến chỗ muốn của người cũng kiếm thế làm cho toại ý của họ, không chao không mích. Hòa lòng người cũng an lòng mình chút ít, có khi giọt lụy nước phiền tràn đổ, vì sự quá ép tánh tình, quá khổ tâm thức, nhưng trong cơn Thiền định, lộ hiện chơn tâm, trưng cuộc đời giả hiệu, dường như kép hát đóng tuồng, buồn, vui, mạnh, yếu, chẳng qua là nội sân khấu giả trang đó thôi, vào cửa buồng hết lớp, đồng nhau không râu, không mão, không ghét, không thương, thể tánh đồng nhứt. Nhờ vậy mà bần đạo biết mấy phen đánh đổ tâm trần cạnh tranh, biết mấy phen lấy Phật cam lồ ba giọt mà tưới tắt lửa lòng, xác tục. Sự qua Trung thiên Ấn-độ cùng đi Tây-tạng nầy, nhờ trải qua mấy chỗ mích lòng phàm, động tánh tục, mà bần đạo mới biết cái nhẫn nhục Phật dạy là thuốc hay trị phiền não, làm cho bần đạo tự thắng mấy phen, hòa bình mấy trận, làm cho biết mấy kẻ ăn năn, thức đạo.
-
Tự thắng đạo thường tồn…
Thối tha pháp năng một.
Phải quá, có tu mới biết thương người tu, thử đi ra chịu cùng thế tục, như Phật và chư Tổ sư thuở xưa, mới biết cái Pháp cao thượng của Phật đánh đổ cả nhân duyên của Phật là đúng đắn. Nhưng, chư tu hành có mấy sư đắc Vô sanh pháp nhẫn, trong muôn một mà vẫn còn e chưa đặng. Phàm-tâm, huyết tâm, sắc tâm, tam hỏa nội ứng, khó mà tắt nó cho tiêu tận, hằng nung nấu sôi nổi trào ao ba cái nghiệp xấu là : tham, sân, si, hằng ẩn núp trong u toái tam tâm, chờ ngoại hiệp thì nội ứng, muôn điều không sai một, y như điện khí, dây văn dây võ hòa hiệp thì sanh lửa, như lôi khí, âm dương hòa hiệp thì nổi tiếng ầm ì. Những bực tu hành trong đạo Phật, mấy ai biết làm người can hai đàng khắc nghịch cho hòa hảo. Phật đạo là thủ trung, vậy muốn can hai bên thì phải đứng chính giữa (trung gian) mà biện lẽ phải chẳng đặng tắt lửa lòng sôi nổi hai bên, thế phải có đủ phương tiện thiện xảo ngôn từ biện luận mới đặng.
Cái thí dụ trên đó tỉ như : Trong lòng người tu hành tam hỏa hằng ẩn, gặp nhân ngoại thì sanh duyên nội nghĩa là : Tỉ như : Lửa hờn giận ẩn trong, chờ gặp kẻ thù nghịch thì nổi dậy, hoặc gặp tiếng nghịch, tiếng hiếp, thì huyết tâm sôi nổi, hỏa huyết phừng nóng thức não, chúa soái (động ổ) thì ngã tướng phát xung, rung động cả chư thức căn : nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Mắt trợn, tai dảnh, mũi phì, môi bậm, lưỡi cong, tay chơn cả thân cử động run rẩy, ý tánh lừng-lẫy liệu luận, cự cùng chẳng kháng cự tùy sức. Tỉ một sự đó đủ biết, làm một vị Phật đệ tử, gặp cơn nội ứng ngoại hiệp thì điều đình làm sao ? Tắt lửa hay vùi lửa ?…
-
Ngày 13 Juillet 1936 – 25-5-â.l.
Sớm điểm tâm trà bánh. Đoạn Samdhen hỏi tên bần đạo đặng viết sớ lại, ba người cúng dường. Sam-dhen, Choundouss và bần đạo để vào sớ là Annam Gơ-long Nguyễn Văn Tạo. Rảnh, bèn bước lên rầm nhà thiền xem cảnh chùa. To tát rộng lớn, nhà thiền các xứ cất dầy đeo. Một cảnh chùa lớn, ba cảnh chùa nhỏ. Lời Samdhen cắt nghĩa rằng : Chùa lớn, chùa nhỏ đều có phần, mấy nhà tăng già đậu cất. Nên mỗi ngày đều có phần cắt mỗi tăng già là mấy vị Lama cúng dường, không lộn xộn. Kế 11 giờ rưỡi nhà tăng già hộ cơm chay, trộn đường và beurre mỗi vị một chén chung, cúng ngọ rồi ăn. Một giờ có Hòa thượng đến, thiền chủ mời huynh đệ đi dự sự cúng dường. Một trăm mấy vị Lama tăng đồng tựu, khởi sự tụng kinh cúng dường. Ba chập trà xong, tụng kinh rồi đọc sớ. Kế dùng bột nấu với thịt. Đoạn thiền chủ mời huynh đệ vào. Samdhen đi trước vào Đạo tràng đảnh lễ Phật, pháp, tăng rồi đi thẳng lại Thượng tọa Lama cả dưng anh lạc và cúi đầu lãnh niệt, kế bần đạo, kế Choun-douss và Issê Sonnam. Xong rồi lui ra đơn ngồi, thiền chủ dưng bột thịt, các huỷnh đồng ăn lấy lễ rồi Lama đạo bưng về liêu ngụ. Bần đạo có đưa thêm 2 rupee cho Samdhen vì huỷnh nói còn thiếu. Lúc cúng dường, Samdhen chụp ảnh hai lần. Gần hườn kinh thì Choun-douss đem tiền vào cúng dường chư sư. Ba giờ rưỡi lễ tất, huynh đệ về liêu. Bần đạo hộ cho hai người đạo trù phòng tại ngụ liêu mỗi người ít trăng nga, họ rất mừng vui. Thiền chủ có đem anh lạc và tiền 5 trăng nga đáp lễ, bần đạo hiến lại cho Samdhen. Chiều tối các huỷnh dùng bột thịt rồi nghỉ.
-
Ngày 14 Juillet 1936 – 26-5-â.l.
Sáu giờ trà bánh điểm tâm. Sáu giờ rưỡi có vị Lama thiền chủ (chef du Sangha) ở nhà thiền Trzăng-pá Khâm-trzanh lại rước, thì Samdhen bảo Choundouss đi trước với bần đạo, huỷnh còn mắc việc sẽ đi sau. Hai huynh đệ đi, khi đến cửa nhà thiền Trzăng-pá, thì thiền chủ sẵn chực rước lên lầu mời lại tọa đơn. Liếc sơ thấy mười phần đẹp đẽ, đơn trải gấm tàu, tợ son sơn phết vàng, chỗ Bần đạo ngồi nệm cao gấm tốt, tợ lớn chưng dọn sạch sẽ, vách treo phan hàng tòng tụi, gần bên có tiểu tọa cho Đại tăng sư (cai quản 4000 tăng chúng) ngồi tiếp chuyện cùng Đàn na. Trà ba từng, thiền chủ mời vào nhà thiền lễ Phật và xem Đạo tràng. Cùng Choundouss vào lễ Phật, Tổ sư Lama, Talê Lama. Đoạn đi xem từ điện, từ tả chí hữu, rốt đó là vị Hộ pháp, Thiên long : Mặt rồng mình người, cúng dường chút ít. Xong việc ra ngoài, Choundouss chụp hình Bần đạo đứng trước nhà thiền rồi vào đơn nghỉ. Một chập có Samdhen lại với ba huynh kia, thiền chủ mời tọa đơn kế Bần đạo, coi bộ huỷnh dường có nét xẻn lẻn, vì thấy sự tiếp đãi cách long trọng và nhà thiền mười phần đẹp đẽ…, song chập lâu bần đạo bảo huỷnh ra chụp hình chơi dã lã cho vui lòng, thiền chủ thiết đãi bánh trái cũng trọng. Đoạn đạo bưng bột và đồ xào chay cho bần đạo, còn bột và đồ mặn cho năm huỷnh. Huỷnh bảo bần đạo ăn ít ít vì một lát còn dưng cơm nữa, ăn rồi chuyện vãn, đoạn 11 giờ rưỡi hộ cơm với lạc (dehi). Kế 1 giờ chư tăng tựu trên 400 chư sư. Samdhen bèn chụp ảnh chư tăng hai lần hết film.
Khởi sự cúng dường, tụng kinh, cúng trà, đoạn có đạo đem trà cúng dường ra đãi. Samdhen rằng : trà cúng dường, âm phước. Sự cúng dường chỉ có Đại lão quản chúng thượng tọa, chẳng có Hòa thượng, 2 giờ đọc sớ rồi, Thiền chủ mời vào, bần đạo vào lễ Phật Pháp tăng rồi ra. Tụng kinh một chập nữa, kế 2 giờ rưỡi hườn kinh. Choundouss lãnh phần hộ tiền cho chư sư. Samdhen bảo đưa thêm 4 rupee. Xong việc hộ tăng, thiền chủ mời vào đơn, an tọa, trà một chập, kế đạo bưng lên cho bần đạo một mâm đồ chay, các huỷnh đồ mặn, thịt dê khô, sườn, đùi để y trong dĩa cổ, cách trọng đãi hơn Lađặt nhà Thiền. Ăn xong, chuyện vãn một chập, Samdhen nói cùng Bần đạo. Quan Thừa tướng có gởi đến hai cái thơ cho thiền chủ, bảo chưng dọn tử tế, cũng như cuộc cúng dường Đại thí-chủ, vì thầy là ngoại quốc đến cúng dường, tuy ít mà quí lắm, nên Quan Thừa tướng ân cần căn dặn Thiền chủ, nếu sơ lược có lỗi, vì vậy mới gấm trải phan phướng chưng dọn rình rang. Chuyện xong huynh Samdhen bèn lấy ra một gói tiền một sợi anh lạc đáp lễ (phần riêng của huỷnh). Song thiền chủ hồi gói tiền lại…
Đoạn huynh đệ từ kiếu lui về Lađặt Sangha. Chiều lại bần đạo lấy ra 2 rupee trao cho Samdhen rằng : Tiền nầy Bần đạo xin đáp tạ chủ liêu ngụ, tiền củi nước chút ít và nói và vui cười với huỷnh rằng : Nay rồi các việc, Bần đạo giao số tiền nầy cho huynh đền đáp giùm, Bần đạo như rồi việc, không còn biết chi nữa, mọi việc gì nữa huynh lo lấy, bần đạo hết rồi.
-
Ngày 15 Juillet 1936 – 27-5-â.l.
Trà sữa điểm tâm cùng bánh China xong. Sam-dhen trao một sợi anh lạc rằng : Bây giờ huynh đệ ta lo đi viếng Hòa thượng Lađặt. Đi quanh co lên đảnh xa bộn, mệt điếng, đến liêu đại đức. Samdhen có đem lễ vật theo : một bao gạo, hàng Bhutan một xấp và các hình Phật Bodhgaya, nước sông Gange, bưng vào liêu, đảnh lễ dưng anh lạc, cúi đầu trước Đại đức, hai tay rờ đầu và cụng đầu, kế bần đạo cũng vậy, còn mấy huynh kia tay rờ đầu chớ không cụng đầu. Đoạn ngài mời ngồi nơi đơn, đạo đãi trà. Ngài cùng Samdhen với Isess chuyện trò, còn Choundouss cùng bần đạo ngồi kề, cứ phẳng lặng. Bần đạo lét mắt ngó đại đức chán chường, còn nhỏ tuổi lối 25, mặt mày sáng sủa, nói năng đề đạm, chập lâu xá kiếu về, vừa bước ra cửa liêu thì Lama đầu bếp mời nán ngồi đợi dùng bánh canh thịt rồi về. Từ chối hết sức không đặng phải hầu đãi thực. Bần đạo chỉ vớt bột ăn lấy lễ, đoạn ăn xong kiếu về, thì Đại đức sai đạo hộ mỗi vị một cái niệt. Xuống lầu, vào điện Tổ sư Lama cúng dường chút ít, lễ bái rồi lui ra về. Tám giờ tới ngụ liêu. Đoạn có Đạo đằng chùa nhỏ của huynh đồng hương cùng Samdhen sai lại rước huynh đệ đi nghỉ mát dưới cội cây tại rừng chồi chùa nhỏ. Đến nơi thấy cây cối bộn bàn, tàng lớn cội to xem ra cũng đẹp. Thì huynh đồng hương với Samdhen đem tapis hai tấm tợ ra trải dưới cội cây cho huynh đệ tạm ngồi, đoạn có người đem bình xăng đến cho các huỷnh dùng, chỉ Samdhen và bần đạo xin kiếu, uống trà. Bần đạo vì không hợp ý vui chơi, nên giả đau răng đi kiếm nơi khác ngồi, nằm trên thạch bàn riêng nghĩ tư duy. Nội khóm rừng ấy cũng có đông người tới nghỉ mát uống trà, đổ hột chơi giỡn, thảy đá, hò hát. Phần đông là chư Lama, phe nào chơi theo phe nấy, không ai trà trộn khác phe. Người tu hành mà vui chơi đổ hột thật cũng kỳ, nhưng ấy là tục xứ đã quen. Mười hai giờ ăn ngọ dưới bóng cây với một cái bánh in lạt với một chén trà, rồi đi nằm riêng nơi thạch bàn, tới 4 giờ về liêu ngụ, nằm nơi đơn tới giờ đi ngủ, ngậm ngùi đời mạt pháp.
Đêm nay trời mưa dầm.
-
Ngày 16 Juillet 1936 – 28-5-â.l.
7 giờ ăn bột cùng cải xào, 8 giờ rưỡi có ông sư Lama già đến rước đi hành hương mấy chùa, bởi ông thạo các nơi nên lãnh dẫn lộ. Đến chùa lớn, trước khi tới chùa lớn, ghé một chỗ điện Phật khác và đóng dấu niêm. Sandhen rằng : Chìa khóa điện nầy Quan Thừa tướng giữ, mỗi ba tháng có cúng dường mới mở cửa. Trước điện có Lama thủ thiền, sắm sửa cúng nước tụng kinh. Samdhen dưng nơi cửa điện một sợi anh lạc rồi cúng tiền cho vị Lama ấy. Bần đạo cũng y theo lấy tiền cúng dường. Lama bèn nổi chập-chỏa, trống, tụng kinh cúng tịnh bình. Đoạn huynh đệ kiếu đi đến chùa lớn, Lama lão dẫn đi các điện cúng dường lễ bái. Khi đến một cái điện Phật Thích Ca, thì thấy trước cửa điện có một tấm bảng chạm sơn son phết vàng, huyền chính giữa cửa điện chạm bốn chữ : thiện chi giáng hoàng , vào cúng dường lễ bái, thì Lama lão nói với Lama từ tại điện giây lâu, thì Lama từ đi theo nội bọn, mở cửa cho lễ bái hành hương xem viếng các điện, đến nhà thiền thì hết. Nhà thiền rộng lớn, nệm trải khắp nơi, đầu nầy ngó qua đầu kia xa lắc ước trên một trăm thước. Chạm trổ sơn vẽ xem nguy nga. Nhà thiền thờ chư Tả lê Lama tổ sư, có tháp để cốt của chư Tổ sư. Ôi nói không cùng, mỗi chỗ chút ít tiền dầu cúng dường. Qua chùa nhỏ, đi cúng các điện, các nơi xong tới nhà thiền chạm vẽ sơn phết rực rỡ, nhưng nhỏ, Samdhen khoe rằng : Đây là chùa của chúng tôi Lađặt, thầy xem tốt không ? Hai bên nhà thiền có tủ kê sơn son phết vàng, mỗi bên 500 cốt Phật đủ thứ… Khi ra nhà thiền, đi vòng qua xem nhà bếp, người đầu bếp dắt chỉ, phần nào của chùa nào. Chỉ cái nồi phần chùa của Thừa tướng chùa lớn. Hai cái nồi bề ngang ba thước bề sâu một thước rưỡi, nói rồi trà và trôi nước cho chư sư ăn khi cúng dường. Ra về còn hai chùa nữa, Samdhen nói thôi để khi khác, nay mệt quá. Về ăn ngọ cơm đường với dehi. Đền ơn cho Lama lão ít yoyăng.
Tiếp điển Tổ sư.
-
Ngày 17 Juillet 1936 – 29-5-â.l.
Điểm tâm bột với cải xào, trưa ngọ bột chiên với đường. Mười hai giờ rưỡi có ngựa tới, gác yên, đoạn tạm biệt chùa Dzêsbung và chư Lama Lađặt, đi về Lhassa. Một giờ 45 tới nhà ngụ, liền đó có huynh đầu bếp mừng hỏi. Samdhen thuật sự bần đạo cúng dường hai nhà thiền, tốn kém cũng bộn. Đầu bếp day qua Bần đạo nói : Lama chef nhiều tiền quá. Đáp rằng : Bần đạo là người tu hành, tiền không có, ấy là tiền của Đàn na hộ phí bần đạo để cúng dường. Chuyện vãn vui vẻ rồi. Đầu bếp ra về. Mượn Isess cạo đầu. Tối lại trời mưa, đã hai đêm mưa dầm, núi đóng tuyết trắng phao, lạnh lẽo rồi đêm nay còn mưa nữa, nên lạnh thêm.
Ngày 18 Juillet 1936 – mùng 1-6-â.l.
Sớm mơi thức ra trước tiểu, thấy nước ngập lai láng, ngọn nước rạch nhỏ gần chợ tràn trề, ngó xung quanh núi tuyết đóng trắng phích. Điểm tâm rồi cùng Isess đi chợ, mua ít trăng nga hàng bông, bữa nay nấu chay cho các huỷnh xơi. Tối các huỷnh cũng ăn bột với đồ chay còn dư. Tối ngủ, khuya 11 giờ trời mưa, phòng ngụ dột ướt khắp nơi, bần đạo nổi đèn, Issê Sonnam thức, ôi thấy dột ướt cùng, lấy dù che mấy chỗ có đồ. Bần đạo cũng che dù nơi đầu đơn dột ướt, ngủ thì sáng thức mền ướt ráo.
Samdhen dường đã muốn hết tiền, nên coi ý đã hà tiện.
-
Ngày 19 Juillet 1936 – mùng 2-6-â.l.
Điểm tâm, phơi đồ, lên rầm nhổ cỏ, sửa soạn mướn gánh đất bồi bổ. Lúc bần đạo xơi ngọ rồi, nằm nghỉ, thì nghe la chở đất tới, Issê và Sonnam đem lên bồi bổ, Samdhen cũng nghỉ trưa, khi thức dậy lên xem đoạn xuống kêu bần đạo thức dậy, bảo lên rầm xem, bảo đôi ba lần, bần đạo cũng thuận tình lên xem, trở xuống vào liêu nói : Tốt quá. Huỷnh nói đất đó mua hết 24 trăng nga, nói hai lần, bần đạo hiểu ý, bèn nói : Tiền đất ấy để tôi trả cho, coi bộ huỷnh hơi thẹn, nói không, không, để tôi trả. Bần đạo vui cười rằng : Vậy thôi phần huynh nửa tôi phân nửa và nói và móc túi lấy ra một tấm giấy bạc 2 rupee để trên tợ của huỷnh, rồi lên đơn ngồi. Huỷnh dường thẹn mặt vì biết Bần đạo đoạt ý của huỷnh, huỷnh nói trưa sao buồn ngủ quá, rồi nhắm mắt. Bần đạo thấy vậy, thấy tấm giấy còn trên tợ, bước lại lấy giấy bạc đem qua cô đầu bếp mượn đổi giùm tiền lẻ. Huỷnh hay, hỏi Isess, Isess nói bần đạo mượn đổi tiền. Huỷnh làm thinh, bần đạo vào đơn ngồi viết nhựt ký…
Tình đời theo lối thế kỷ mạt pháp nầy, tăng tục đều sống bằng tiền, bạn bằng tiền, thương ghét tùy tiền. Ôi ! Ôi ! đời kim tiền, có chi lạ cho cái máu tham lam, nghe hơi đồng thì vui thì cung phụng, vắng hơi đồng thì mặt mày đổi sắc, bạc đãi, thô lời… Chán biết cái tâm đời…
Đoạn 4 giờ có một Lama tới viếng huỷnh, rốt chuyện rồi huỷnh nói với bần đạo : Vị Lama đây là tăng-sư tại nhà thiền Thừa tướng Trzăng-pá Khâm-trzanh, hỏi thầy đến cúng dường tại đó ra thế nào ? Đạo chúng cúng dường thế nào, nhà thiền ra sao ? Bần đạo rằng : Sự cúng dường tốt lắm. Cả thảy đều tốt, không chi lạ. Huỷnh thông ngôn lại, đoạn Lama khách kiếu về. Mấy huỷnh rủ đi chợ, bần đạo chối từ, ở nhà nấu trà sữa uống chơi. Chợ búa đường xá ướt át, bữa trước đi rồi, sình nẩy ngập dày, nay còn đi chi, để cho họ đi cho biết…
Luận : nghĩ mình Thích-tử, chữ nhẫn làm đầu, nên chi muôn điều ngàn việc đều phải nhẫn nhục. Đất khách, người lạ, ta là kẻ tha phương, mọi lời xuất khẩu phải dè dặt, nhu hòa, nhỏ nhẹ, cho ngoan lời nói, nơi xứ người như nước chìu lòng sông rạch, thì muôn việc dễ dàng, xuôi xếp. Vì xét vậy, mà từ ngày cùng bọn Samdhen theo chưn đi Tây-tạng, bốn nguyệt dư không một mảy mích lòng. Ở ăn đều dè dặt, đến sự họ cợt diễu lời nói, bần tăng cũng phuôi pha hoan hỉ nhẫn nhục cho qua ngày. Cho đến đồng tiền, bần đạo cũng chịu thua sút, chìu ý mà xuất phát ít nhiều. Đời mạt pháp, người Tăng kẻ tục đồng tánh, máu tham tài nung nẩy, nghe hơi đồng tâm ý khoái nhiên, đã đạt được đặng tâm người mà còn để cho mích dạ, phiền lòng, nghịch ý, thì không đáng mặt Phật đệ tử. Khắp hoàn vũ, có nơi nào mà chẳng sống vì tiền tài, tranh, đấu, cấu xé, chẳng thương nhau, giết lẫn nhau, binh đao dấy động, đống chiến-thi chất-ngất thành non, máu tử-trận tràn-lan như biển cả, cũng vì cái huyết tham tài. Gặp đời mạt-pháp, bần-đạo hổ vì đức bạc phước mỏng, không dùng đặng cái đức hạnh của nòi Thích-tử mà phục lòng người, lại buộc phải dụng tiền tài mà thắng thói đời, thật cho là thậm-sỉ cho con nhà Phật đạo. Song nhớ câu Phật dạy chư Bồ-tát, Thinh-văn đệ tử rằng : “Hành Bồ-tát đạo, đạt pháp-giới tánh thiên nhiên, tùy thuận chúng sanh : thân, ngữ, ý, bất trụ tâm, bất trước pháp, vô phước đức tánh, như như bất động, thị danh Phật đệ tử.” – Vì vậy mà Bần đạo vui lòng tùy thuận, cùng bọn Samdhen không ai cấm trách đặng, mấy tháng trời nương gót tới Lhassa. Tới đây cùng Quan trong xứ cũng chìu ý thuận lòng, làm cho người người vui thấy, đường đường vô chướng ngại. Mấy cảnh chùa đại chúng hoan nghinh, tiếng đồn khắp vui nghe tên Bần đạo là thầy tu Nam-việt tới Lhassa. Vua quan dân cùng cả tăng sư mới lần nhứt biết người cõi Việt Annam…
-
Ngày 20 Juillet 1936 – 3-6-â.l. Tibet 1er6.
Sớm trà sữa điểm tâm, đoạn xuất tiền chợ mua hàng bông nấu chay đãi các huỷnh. Hao của tốn công cho vui lòng người cho an thân mình nương trong đất khách. Nay ăn ngọ sớm, rồi mượn Choundouss đem film ra tiệm chụp hình mướn rửa. Chập lâu về, đem film về nói nhà chụp hình đòi ăn mắc quá 6 rupee 3 film. Samdhen rằng : Thôi để đó, Quan Thừa tướng có hứa sẽ chụp ảnh bọn mình và nói sẽ rửa film giùm cho mình, đợi ít lâu sẽ rửa. Bữa nay không ăn ngọ vì 9 giờ ăn bột với đồ xào cùng các huỷnh rồi thôi. Chiều lúc 5 giờ rưỡi đang ngồi lần chuỗi một mình nơi đơn bỗng có Quan lớn và bà lớn lại viếng nội bọn, bần đạo ra chào. Quan hỏi thăm Samdhen vậy Bần đạo đi viếng các cảnh và hành hương mấy chùa rồi ý tứ và nói thế nào ? Sam-dhen rằng : Khen tốt đẹp và chùa rất lớn tốt. Quan mặc đồ âu phục nỉ rằn và bà mặc trong đồ Tây-tạng ngoài áo mát Âu châu. Vào liêu dòm cùng rồi khen sạch sẽ, đoạn chừng 15 phút, hai ông bà kiếu về. Samdhen nhái bần đạo cách chào Quan lớn theo cách Tây-tạng. Đêm nay lạnh lẽo vì cả đêm mưa dầm y như mấy đêm trước. Nghĩ mình ăn gởi ở nhờ, muôn bề phải hạ mình chiều lụy.
Ngày 21 Juillet 1936 – 4-6-â.l.
Sớm trà điểm tâm rồi, đoạn huynh Samdhen bảo tổng khậu hấp cơm cho nóng cho Bần đạo dùng, vì chiều hôm qua ăn cơm có để dành cho Bần-đạo. Đồ chay xào hôm qua cũng còn. Cơm và đồ ăn đổ trộn lộn, hấp, đến chừng bưng lên bần đạo thấy nhão nhẹt như cháo đặc, vị tình ăn chút ít, còn lại bao nhiêu các huỷnh chia nhau ăn hết. Mười giờ rưỡi, bần đạo ăn bột với cải xào rồi sắm sửa. Mười một giờ cùng huynh đệ đi hành hương tại chùa Séra, cách thành phố lối 3.000 thước. Lúc đi sẵn tiện đường quanh lại nẻo nhà đúc bạc in giấy xem. Nhà đúc bạc ở gần trại lính, vào trại lính xem trước, rộng rãi, trại cất ba bên, đoạn Samdhen hỏi thăm một cô đứng trước cửa rằng : Nhà đúc bạc chỗ nào ? Cô bèn chỉ ở phía tả trại lính nầy. Huynh đệ đồng đi, đến nơi sẵn có thầy làm việc biết nội bọn vì người vô ra chơi nơi nhà Đầu bếp và có mượn Bần đạo xem tay, người là quan lại của Thừa tướng. Thầy dắt xem chỗ đúc bạc, sous, rồi đi qua chỗ khác, lại có thầy khác đem đi xem chỗ in giấy bạc, máy móc đều mua của Anglais, xứ nhỏ, nên xưởng công nghệ nhỏ nhen, nhưng cũng là quá, máy chạy điển khí vì có nhà đèn khí. Xem xong bèn kiếu thầy đi ra cửa thẳng qua Chùa cách 1.500 thước. Đường xá dễ đi nhưng phải cởi giày đi qua mấy ngọn suối nhỏ, phải chi không mưa mấy đêm rồi, thì suối cũng không tràn láng, đường xá khô ráo. Đến chùa thẳng đến nhà liêu của Bơda Lama là anh của Choundouss đỗ ngụ sáng sẽ hành hương. Đến nơi Samdhen và bần đạo tọa đồng đơn một liêu, còn bốn huynh kia tọa đơn nơi nhà trù. An tọa trà ít từng, bèn sắm sửa anh lạc và gói tiền đặng ra mắt Bơda Lama. Phần bần đạo 10 yôgăng. Samdhen vào liêu đảnh lễ trước kế bần đạo, lễ rồi đem anh lạc và gói tiền dưng tại tợ Đại đức, Đại đức bèn lấy anh lạc choàng cổ và hai tay rờ đầu và cụng đầu mỗi người. Samdhen và Bần đạo thì ngài mời tọa đơn trước đơn của ngài. Bốn huynh đệ kia thối lui qua bên trù phòng. Ngài và Samdhen chuyện vãn và hằng liếc ngó bần đạo, hỏi thăm xứ Bần đạo. Trà ba từng, hai huynh đệ đồng xá kiếu về ngụ liêu. Samdhen rằng : Đại đức là anh ruột của huynh Choundouss. Tôi nghe qua bèn hỏi : Sao chư Bơda Lama đều còn nhỏ tuổi hết vậy. Huỷnh rằng : Đó là chư tiền bối Tả lê Lama Hòa thượng, truyền y bát trước khi tịch diệt. Chư tăng sư đều có thiệt nghiệm. Chư đại lão thọ ký các ổng lúc còn nhỏ và truyền y bát trước ngày tịch. Đoạn bần đạo bước ra đi ngoài, gặp Choundouss bèn hỏi Bơda Lama là chi của huynh ? – Nói : là anh ruột của tôi. Tôi 31 tuổi, huỷnh 32 tuổi, còn một người em nữa của lama ở tại nhà thiền người Khampa ở trước kia, vừa nói vừa chỉ cho bần đạo cái nhà thiền ấy. Bần đạo nói : Cha mẹ huynh lấy làm có phước mới đặng con là Đại đức Lama. Nội dòng họ có hai người tu hành, thì phước hưởng cả họ không hết. Đoạn vào liêu ngồi nghỉ kế 4 giờ Lama trù phòng dưng thực. Samdhen dùng, bần đạo xin kiếu. Xuất 1 rupee mua beurre, mai cúng đèn.
Tối ngủ dưới hàng ba từng hạ, đêm nay cũng còn mưa dầm, nhờ mền nhiều lớp, nệm mền của nhà ngụ phụ giúp, nên ấm áp ngủ yên. Khuya một mình thức, ngồi định tư duy.
-
Ngày 22 Juillet 1936 – 5-6-â.l.
Sớm cùng Isess đi lên mạch nước rửa mặt rồi về ngụ liêu cùng Samdhen đồng tọa. Trà ít từng, kế trên phòng dưng bột và cải xào thịt. Ăn cải còn thịt gắp bỏ vào đĩa huynh Samdhen, ăn rồi, trà nước, đợi chư Lama cúng dường rồi mới đi hành hương đặng. Nội chùa Séra có năm cảnh chùa, chia ra mỗi cảnh là mấy chỗ ngồi cho đủ 5.500 vị Lama. Mười giờ, có tiểu Lama về, thì Samdhen rằng : huynh Lama đó về, thì sự cúng dường đã rồi, mình sắm sửa đi hành hương, huỷnh sẽ dẫn đường và theo chế dầu các điện. Đoạn chập lâu, huynh đệ đồng đi cảnh chùa lớn trước, cúng dường các điện rồi tới nhà thiền 2.500 chỗ ngồi. Gần đó có điện Phật tổ, thấy có bảng của China cúng treo trước có bốn chữ : “Phước-trường-hằng-hộ”, đi cúng dường đủ mấy cảnh rồi 1.500 chỗ ngồi, chỗ 1.000, rốt hết tới chùa của Quan Absơre. Đến nơi cửa chùa còn bế vì chư Lama còn tụng kinh. Thấy nam nữ đứng chực trước hàng ba chùa cũng đông. Sáu huynh đệ dừng bước cũng chờ chừng 5 phút, bỗng cửa chùa mở, có một vị Lama trung niên, mặc đồ Lama hàng, choàng flanelle điều, tay cầm biểu hiệu, bước ra ngoài hàng ba đứng, đoạn quơ biểu hiệu, chư lama chen nhau đi ra cửa, đông như kiến cỏ, lớn nhỏ kéo ra. Đoạn thấy có đôi ba tiểu niên (10, 11, 12) tiểu Lama bước ra, thì Samdhen nói : Đó là Bơda Lama đã thọ ký rồi sẽ là Đại đức Thượng tọa hay đã là Thượng tọa. Lúc 1.500 lama ra rồi hết, thì những thiện nam tín nữ đều kéo vào, huynh đệ chúng tôi đi sau rốt. Vào nhà thiền lễ bái đại điện Phật tổ và Tổ sư rồi, đồng đi cúng dường Phật và Tổ sư các điện, mỗi chùa nơi điện nào cúng tiền thì trên điện có để mâm cỗ đổ gạo tràn cho Đàn na biết mà tùy hỉ. Có chỗ cúng tiền trong bình bát Phật tổ. Rốt việc về, đi qua nhiều cảnh vườn cây, thấy chư lama đang ngồi dưới bóng tụng tập kinh kệ, có giáo-thọ, yết-ma làm đầu. Về tới ngụ liêu, đã 12 giờ. Từ phòng dưng đồ ăn ngọ. Trên mâm để một dĩa bàn bánh bao thịt, hai dĩa cải chua Samdhen bảo ăn, bần đạo ăn cải chua, huỷnh ăn bánh bao, kế huỷnh bẻ bánh bao lấy nhưn thịt bỏ vào chén huỷnh còn bao bột ngoài bỏ vào chén bần đạo, thôi cũng hoan hỉ ăn bột gởi gần thịt. Ăn uống rồi, hộ huynh hướng đạo ít trăng nga và Trù phòng Lama ít trăng nga, rồi sáu huynh đệ đồng kiếu từ đi về. Bốn giờ tới nhà ngụ, một đêm không ngủ, rệp đói, đêm nay cắn liền đeo, mòn rồi cũng ngủ tới sáng.
-
Ngày 23 Juillet 1936 – 6-6-â.l.
Nhựt thường lệ. Sớm điểm tâm trà bột. Trưa ngọ bột và cải xào. Samdhen đi viếng Quan lớn trở về nói : Bữa nay trả tiền đèn cho Quan lớn. Bần đạo bèn lấy ra 16 rupee 4 anna trao cho Samdhen. Chiều huỷnh đem trả cho quan lớn. Tổng cộng sự cúng dường tại Dzêsbung, hai nhà thiền là 104 rupee. Nữ nam đi ăn uống dưới bóng cây cả ngày, chiều về ca lý dọc đường inh-ỏi. Samdhen mua lò, y muốn Bần đạo hùn tiền nên nhắc hoài số tiền mua.
Trời mưa đêm từ hôm ở Dzêsbung tới nay còn mưa đêm. Tối nay cũng còn mưa dầm, lạnh, song ngủ đặng vì có phơi nệm và bỏ cái đơn cây ra ngoài sân phơi, nên rệp không chích, ngủ êm.
Ngày 24 Juillet 1936 – 7-6-â.l.
Sớm điểm tâm trà sữa, Samdhen bảo Isess hấp cơm nguội chiều hôm qua các huỷnh ăn còn dư với đồ xào cho bần đạo dùng. Nhưng bần đạo không ăn. Các huỷnh ăn bột. Bần đạo rằng : 11 giờ sẽ ăn. Sớm ăn đồ dư không cúng dường đặng, nên không muốn dùng. Lâu lâu có một bữa cơm, ăn vào khó chịu, chi bằng ăn bột quí hơn vì hằng ngày ăn đã quen ruột, còn cơm năm, mười bữa mới có một bữa, thì có ích chi. Xứ nầy có kẻ cả năm chưa biết hột cơm là gì, chỉ ăn bột mà thôi. Như huynh đầu bếp ở gần, từ ngày đến Lhassa tới nay không thấy huỷnh và vợ con ăn cơm. Samdhen có cho hai lần gạo thì vợ con và huỷnh mới có ăn. Thiệt củi quế gạo châu, củi cứt bò, mà từ hôm đến đây tới nay mà huynh Samdhen nói mua hết 9 rupee. Nên chi phải mua cái lò đất thổi ống bễ cho ít hao củi phẩn. Huỷnh nói mua hết vài đồng rupee cái lò đất ấy…
Thôi mình lo đi mua hàng bông. Choundouss bảo Sonnam đi mua giùm. Mười một giờ ăn ngọ bột với cải xào và cải chua. Đoạn huynh Choundouss rủ đi chơi, đi một vòng chợ, mua một xâu chuỗi Tibet 2 trăng nga. Về ghé nhà quen của huỷnh, cô chủ gia mời uống xăng, hoan hỉ uống ba chén, in như nước cơm thiu, rồi coi tay giùm cho cổ và một cô ở gần. Đoạn kiếu về, thấy Isess sửa soạn mang đồ bên vai, hỏi đi đâu ? – Đi chùa Dzêsbung vì tên thợ may Lama chùa ấy đến nói : Lama già mà Bần đạo đã coi mạch định chết, nay đã chết, nên Isess đi thăm và cúng. Ôi, người đời mới thấy đó nay đà mất đó. Thân giả hiệp, có bao lâu. Chiều nay Bần đạo bần thần quá đỗi, mê mệt vì trời mưa dầm luôn mười đêm, mưa dầm, ban ngày khá bữa mưa bữa không. Bị xứ lạnh, chanh phong thổ là một, thêm sự lạnh một ngày một tăng thêm, nên khó chịu, khí thở lạnh lẽo bắt ho. Ngủ ít, khuya Samdhen kêu mượn hộp quẹt vì trời mưa dột chỗ huỷnh nằm. May chỗ Bần đạo ít dột.
-
Ngày 25 Juillet 1936 – 8-6-â.l.
Sáng thức thường lệ. Điểm tâm bột với cải chua, 8 giờ trời còn mưa rầm rỉ, đường xá khắp thành Lhassa, lầy lút chưn, nước ngập linh láng. Bữa nay không đi mua hàng bông. Mười một giờ ăn ngọ bột với cải bẹ của mấy huỷnh xào với thịt, dưng cho bần đạo một dĩa cải không có thịt. Ấy là rau gởi gần với thịt đó…
Chiều 3 giờ trà sữa xong, huynh Samdhen kêu bảo coi tay giùm con trai của Thừa tướng, 13 tuổi, kế đi hành hương chùa chợ : chùa lớn Chôkhăng (Thích Ca) với Samdhen. Đã mấy lần đi mà bất ý xem tại cửa chánh có treo một tấm biển của Tàu cúng có bốn chữ : tây trúc chánh tông , hèn chi huynh Samdhen trước nói : Tibet gọi Chôkhăng Gompa, nghĩa là Thích-Ca-Mưu-Ni tự, là trọn thờ chánh pháp của đức Thế-tôn. Hai huynh đệ vào đi cúng các điện từ từng dưới cho tới từng thứ ba như mấy lần trước, đoạn cùng nhau đi về gặp một vị Lama người xứ Lhassa mà ở nhà thiền Lađặt, đến xin coi tay. Hoan hỉ coi giùm. Kế vợ huynh Đầu bếp đem ra hai bắp cải nói hộ cho Bần đạo. Hồi nãy đã gặp Đầu bếp trước cửa có nói rồi. Tôi hỏi mua bao nhiêu, Samdhen rằng : của Quan lớn, gần nhà có vườn trồng hàng bông. Bần đạo cám ơn cô Đầu bếp và nói : Quí lắm, đất nầy trồng được thiệt quí quá. Samdhen nói : Hôm qua huỷnh hộ thịt cho chúng tôi, còn thầy không dùng thịt, nên Đầu bếp hộ hai bắp cải ấy, một bông cải và một bắp cải. Lúc nghèo gặp bạc, lúc khát gặp nước.
Ngày 26 Juillet 1936 – 9-6-â.l.
Điểm tâm cải bắp ăn sống với muối. Trưa ngọ bột với cải bông chấm nước muối ớt. Samdhen và Sonnam cũng xề lại ăn ít lá cải bắp chấm muối hột. Mười hai giờ có vị Lama mập quen (của Quan) lại thăm và dưng một sợi anh lạc. Đàm đạo vui cười, huỷnh xề lại ngồi gần Bần đạo, nắm lấy tay bần đạo vào lòng bàn tay huỷnh một cách thâm mến. Samdhen thông ngôn rằng : Lama đây muốn thầy ở lại Lhassa chung liêu cùng huỷnh một năm. Bần đạo nói : Bất tiện ! (theo lời tiên tri của Đại đức Quốc Vương gởi ý điển vào trí-não bần-đạo), nay bần-đạo lớn tuổi, ở lại học hành không bao nhiêu mà làm cho mất ngày giờ của huynh, lại mất ngày giờ độ Thiện nam tín nữ tại bổn-quốc-độ đang trông đợi. Để sau về Đạo tràng, như có đạo đồng nào có tín lực mộ Đại đạo Tây-tạng Pháp môn, thì Bần tăng sẽ cho đi ở tại Lhassa nầy mười năm học đạo, tả kinh, như vậy sau về truyền bá lâu dài. Còn Bần đạo tuổi cao, ngày tịch gần, truyền đạo có bao lâu đâu. Nghe lời Samdhen thông ngôn thì Lama nói : Phải, phải vậy ngày nào thầy cho Đạo đến, tôi xin bảo lãnh dạy dỗ. Đoạn hỏi thăm sự cúng dường và nhà thiền ra thế nào ? Tốt lắm, cách cúng dường tinh khiết và nhà thiền đẹp đẽ huyền vũ tinh anh. Chuyện vãn khắn khít, đoạn Isess sửa soạn đi chợ, hỏi bần đạo đi không ? Samdhen vui miệng bảo bần đạo đi chơi cho khoảng khoát. Lama nói : Tốt lắm, tôi cũng đi với, nói rồi huỷnh kiếu Samdhen đi cùng bần đạo có Choundouss theo. Bốn người ra đi, thì lama cặp kè nắm tay bần đạo cách yêu thiết mà đi. Giáp vòng chợ không hở tay, cùng cực chẳng đã, gặp mấy chỗ sình nẩy lầy án buộc huỷnh phải buông tay bần đạo một cách tiếc rời trong lúc đàng hẹp. Lúc về tới nhà quen của Choundouss thì huỷnh trẽ vào đó cùng Isess. Lama nắm tay đi thẳng cùng Bần đạo tới ngõ Quan Thừa-tướng, dừng bước ý không muốn rời tay, nhưng một chập lâu, huỷnh nói : Sérang phết, rồi buông tay bần đạo, hai đàng ngó nhau rồi phân nhau về nghỉ. Vá dù, may sổ. Tối nay lại thiền tụng rồi ngủ, khuya trời mưa rỉ rả. Samdhen nói : Có hai Lama Dzesbung đến lúc thầy nghỉ trưa, tôi không cho kêu, họ mời huynh đệ mình đến ngày hát rằm, đến xem.
-
Ngày 27 Juillet 1936 – 10-6-â.l.
Nhựt thường lệ, sáng có hai vị Lama đến ở đàng trước đơn cùng Samdhen tụng kinh (bị mưa liêu dột, nên Samdhen che vải trước sân liêu, đem đơn ra ngoài nghỉ ba, bốn ngày rày, có một mình chỗ bần đạo không dột, nếu trời mưa to thì có chút ít, nên một mình bần đạo ở trong liêu). Bần đạo còn ngồi trong đơn lần chuỗi, nghe tụng kinh chớ không thấy mặt, đến lúc rồi sự, ra ngoài mới thấy hai vị Lama, một vị là chủ liêu ngụ khi nọ tại Pithu Khampa và một vị nhỏ. Thấy bần đạo liền mừng chào, bần đạo cũng mừng đáp lễ cách yêu thiết. Mời ngồi, bần đạo kiếu đi ngoài, ra gặp Samdhen cũng đi ngoài, rồi đi vô, huỷnh thấy hai con cẩu phải lẹo, liền chỉ và hỏi Bần đạo thấy cái chi không ? Và hỏi và cười. Bần đạo rằng : Cả thảy chúng sanh (nhơn vật) trên mặt đất Diêm-phù nầy, vì có bao nhiêu đó mà phải khổ sở, mà ham sống, và nói và đi. Tiểu rồi vào, tới đơn Samdhen, bèn kêu huỷnh mà nói : Huynh thấy không ? Rõ không ? Biết không ? Cả thảy chúng sanh loại, vì đó mới có sanh, sanh ra mới có khổ, lão, bịnh. Người như thú, thượng cầm, hạ thú đến loài cá, côn trùng, ham sống cũng vì tham dục. Cái khổ nhân, tham dục vi bổn. Lama khách hỏi, Samdhen thông ngôn. Lama gật đầu khen phải. Bần đạo rằng chỉ có Phật đệ tử biết cái dâm dục là nguồn cội sự sanh, nên lánh đó cho tuyệt sanh, hễ sanh tuyệt thì lão dứt, lão tuyệt, bịnh đoạn, bịnh tuyệt thì tử vô do nhi hữu, thì ưu bi khổ não đâu còn theo. Lama khách nghe thông ngôn, lắc đầu, ngó bần đạo rồi nói phải quá…
Sẵn đó, một đám nam nữ gia quyến của Đầu bếp và người sai nha của quan lớn với các huynh nội bọn đứng nghe. Bần đạo thừa thử nói : Loài người hiếm kẻ biếm nhẻ chư Lama (thầy tu) rằng : ăn no, mặc ấm, không làm gì hết, ngồi chờ của tín thí đàn na. Đó là họ ngạo báng Phật đệ tử làm biếng, ấy họ không biết kinh Phật bảo, chư đệ tử y Pháp tu hành mà làm ruộng tốt cho chúng sanh gieo giống lành mà họ không rõ lại chê cười, mà họ có ngờ rằng họ không phải chê cười chúng tăng, ấy là chê cười Phật đó… Đến lúc họ đau ốm, nằm rên siết, nhớ tới lời chúng tăng y lời Phật giảng thuyết, họ ăn năn lắm, khi bịnh hành quá nhức đau thì họ kêu Phật trời ôi cứu tôi, thương tôi. Miệng kêu réo liền đeo. Đến lúc hết đau, ngũ dục dập dồi, họ quên hết lúc đau lúc khổ. Cả thảy nghe lời thông ngôn, lắc đầu, ngó bần đạo, dường có vẻ lạ lùng như vẹt mây thấy trời xanh. Cười cười mà có ý tỏ nơi mặt chút nét hổ ngươi. Đoạn Bần đạo tiếp : Nầy huynh Samdhen, bần đạo thấy hiếm người chết vì đờn bà, nghèo khổ vì đờn bà, cũng như một ngày kia bần đạo gặp một người ăn mày đui hai con mắt, người vợ dắt đi xin, bần đạo bảo : Thôi hai ông bà vào chùa của tôi mà ở thọ tam qui ngũ giới tu hành, cơm sẵn ăn, quần áo sẵn bận, chết chôn cất tử tế. Nhưng người khất cái ấy lắc đầu nói : Tôi tu không đặng, nói rồi dìu dắt nhau đi. Đó huynh có đến đỗi mù quáng, ăn mày, lúc đói, lúc lạnh mà không rời đờn bà, thà cùng nhau ngày bò mo, lết mủng xin ăn, miễn tối cùng nhau đặng gần gũi. Nghe thông ngôn, ai nấy đều cười rộ mà có vẻ hổ ngươi, dòm Bần đạo và đi dang hết. Sam-dhen gục đầu nói : A băng Losang. Bần đạo rằng : A băng Losang ninh done. Cười xòa. Samdhen rằng : Thầy không rõ : A băng Losang là một vị Đại lão Lama tại Dzêsbung tu hành kiên cố, mấy ngàn Đại chúng kính phục, thuyết-pháp như lưu, nghe qua ai cũng nhờ đó mà tỏ đạo mầu. Nên gọi là Thiện xảo thuyết. Kiếu vào đơn, ngồi trà nước một chập, huynh Choundouss hộ một chén cơm đường và một chén trà dehi chế beurre đặng điểm tâm. Hoan hỉ… Đoạn 11 giờ rưỡi ăn ngọ bột và bông cải với nước muối. Ăn rồi, có cô bạn của lại quan đàng dinh quan lại xin xem tay. Samdhen dắt vào, xem rồi dưng 2 trăng nga. Bần đạo hiến lại Sam-dhen rằng tiền nhang (cũng như lúc ở Pithu Kham trzanh, tiền xem tay của một vị Lama dưng, bần đạo hiến lại Choundouss, bảo huỷnh đem hộ cho các Lama nghèo, vì có một lúc một vị Lama có tiền, đến xem tay, dưng tiền thì bần đạo không lấy, Choundouss và Samdhen rằng : Thầy lấy rồi cho Đạo nghèo hay cúng chùa tốt hơn, vì họ có tiền. Nếu người nghèo đến coi tay thì thôi, còn người có tiền phải lấy), vì lời ấy mà bần đạo giao tiền xem tay cho các huỷnh. Chiều lệ thường. Học thêm tiếng Tây-tạng.
-
Ngày 28 Juillet 1936 – 11-6-â.l.
Nhựt thường lệ. Trưa ngọ bột với bắp cải nấu cà-ri. Chiều y lệ, học, không chi lạ. Đổi 2 rupee, đếm lại thiếu 7 yôgăng. Ấy là Sonnam đi mua thịt về, Choun-douss đếm đưa cho bần đạo, song thôi cũng hoan hỉ. Cho họ ăn xôi chùa cho êm.
Ngày 29 Juillet 1936 – 12-6-â.l.
Hai huynh Lađặc về Dzêsbung. Sớm điểm tâm bột khô với trà Tây-tạng. Đoạn cùng Samdhen đi chợ, mua một cục savon thơm 6 trăng nga (4 annas) một cục savon đá 5 yôgăng 2 sous (5A), một cái hộp quẹt, một bắp cải bông 4 trăng nga (2A.3P) sữa 1 trăng nga. Đi chợ, có hơi lâu vì Sonnam đi cùng phường phố, lại lúc về gần tới nhà còn trở ra mua savon đá. Khi về, họ ở nhà ăn cơm với thịt xào rồi, Sonnam về, không ai bảo ăn cơm, nên huỷnh ăn bột với nước trà, cách buồn xo. Isess kêu Bần đạo rằng : Cơm còn hiếm, thầy ăn ngọ tốt lắm. Bần đạo rằng : Cám ơn, bần đạo không dùng cơm, để dùng bột vì lâu ngày không ăn cơm, nay ăn e đau bụng, để đó các huynh ăn. Đoạn tới ngọ, nhồi bột với nước trà cúng dường rồi dùng với cải chua mua sớm mơi 2 trăng nga. Ngọ rồi nghỉ một chập, rồi thẳng xuống bến sông, giặt áo quần rồi tắm.
Đêm nay ra ngoài sân ngủ với Samdhen vì ở trong liêu rệp lung quá, ai nấy ngủ ở ngoài, một mình chịu không nổi rệp ở quanh vách, chấu lại cắn quá ngủ không đặng. Khuya lại trời mưa, có che vải, nhưng vải mỏng ré và gió tạt, ướt lớp mền ở ngoài hết. Tuy mưa nhưng mền nhiều lớp (bốn lớp) ba lớp mền và Choundouss cho mượn một cái áo bố Tây-tạng, dày lắm, đắp ngoài nên ấm áp và nhờ có tắm đặng hồi trưa, nên khỏe xác ngủ êm đềm. Sáng còn mưa rỉ rả.
Ngày nay cũng gặp Tổ sư dạy bảo tại góc núi gần mé sông…
-
Ngày 30 Juillet 1936 – 13-6-â.l.
Sáng thức dậy, trời còn mưa rỉ rả. Điểm tâm trà Tây-tạng, ăn bột khô rồi, 8 giờ rưỡi có nắng. Mền, áo ướt át, các huỷnh lấy trọn cả đồ ngủ ấy đem lên rầm phơi giùm.
Đoạn có một vị Lama ở Galden đến viếng, ngựa chở một bao bột đem hộ Samdhen. Samdhen hộ lại một bao gạo và đãi cơm. Sonnam xin 2 trăng nga đặng mua savon đặng mai đi chùa Galden dưng cho Lama thiền chủ của huỷnh. Hoan hỉ, và cho luôn ba huynh kia 4 trăng nga, tùy ý ăn uống.
Trưa ngọ bột với cải bông nấu cà-ri. Đoạn Choun-douss rủ đi chợ, lúc vào phường phố, tới sở tuần cảnh, gặp Isess đang đứng xem đám đông người, dừng bước một chập rồi đi, đoạn gặp người quen bảo huynh Choundouss nán xem lịnh Thừa tướng phán xử đòn hai người tù nhơn đờn ông với một người tội đờn bà, tại trước sân sở Tuần cảnh. Thiên hạ lao xao, già trẻ nữ nam nhóm đông dày. Choundouss nói với Bần đạo sự ấy, đoạn rủ lại hè phố ngồi chờ. Lâu hoắc mà không tới giờ phạt, Isess, Choundouss và bần đạo thả đi dạo phường hai vòng mà cũng chưa thấy lịnh quan đến, nên đồng về. Lúc về tới nhà quen Choundouss thì hai người quen khi nãy cũng đồng theo sau, nói chi không rõ, Choundouss rủ bần đạo vào nhà quen chơi. Bần đạo rằng : Không, tôi về luôn, huynh ghé chơi với Isess. Isess cũng nài bần đạo ghé chơi. Chối từ đôi ba quận rồi Choundouss rằng : Có hai người hồi nãy muốn mời thầy vào chơi. Nói quá cũng xuôi lòng, vào đó, thì hai người đờn ông khi nãy đứng dậy mời lại đơn ngồi, đoạn cô tình của Choundouss đi mua xăng đem về rót mời uống. Bần đạo biết thứ ấy uống không ra chi hết, uống trà còn quí hơn. Song các huỷnh mời quá thôi cũng thuâïn tình, vài từng xăng, thì huynh già đi theo đó, xin coi giùm tay, coi rồi, thì bần đạo muốn về, bỗng có Issê lại kêu hai huỷnh rằng Samdhen quở trách. Hai huỷnh về cùng bần đạo, tới cửa, họ sợ, bảo bần đạo đi trước. Samdhen thấy bần đạo bèn nói : Thầy theo họ không tốt, và nhà ấy không nên lại đó chơi. Đoạn rầy hai huynh kia bằng tiếng Tibet. Kế sai Issê và Choundouss đi chùa Séra, không rõ đi chi. Trời mưa rỉ rả, hai huynh ra đi. Bần đạo lấy mủng bánh của huynh nhỏ xem tay sớm mơi mua dưng cho bần đạo cho huynh Samdhen ăn, ban đầu huỷnh từ chối không xơi, nhưng bần đạo giả đò không rõ rằng huỷnh từ chối, bảo Isess đi lấy dĩa nhỏ đặng sắp bánh ra tử tế.
Isess không rõ, bần đạo bèn đi lấy rồi sắp bốn bánh bốn thứ để trên tợ của huỷnh. Huỷnh trăm với Isess và huynh Lađặc ở Dzêsbung mới đến lúc vắng mặt mấy huynh đệ tôi, rằng : Cách của thẩy nghiêm trang vậy. Đoạn huỷnh ăn bánh, còn bánh trong mủng thì cho Isess và huynh Lađặc. Lúc chiều tối, bần đạo trong đơn bước ra thấy huynh Lađặc kiếu về, còn Isess thì ngồi trong bếp, bần đạo hỏi Samdhen rằng : Trời đã tối mà chưa dùng bột sao ? Samdhen rằng : Bữa nay không có mua thịt đặng, nên không có đồ ăn. Bần đạo nói : Vậy huynh muốn ăn bắp cải bông chăng ? Tôi sẽ nấu cháo bắp cải bông theo kiểu China cho huynh ăn. Huỷnh rằng : Tôi ăn bột chớ không ăn cơm, bần đạo tưởng huỷnh từ chối cháo bông cải, bèn vào đơn ngồi, chập lâu, huỷnh kêu bần đạo rằng : Thầy không nấu bắp cải sao ? – Ủa huynh muốn ăn sao ? Bần đạo ngỡ huynh nói ăn bột với trà. Thôi để bần đạo nấu. Đoạn lấy cải bông xắt rồi nấu cà-ri, khi cải gần chín bần đạo đổ nước lung và đi lấy bột mì con chút đỉnh trong thau, bảo Isess nhồi nấu bánh canh. Huỷnh nhồi rồi lăn con bột bỏ vào, lúc chín múc cho Samdhen ăn, huỷnh đói quá mà gặp bánh canh, ngon ăn no cành, mỗi người kia Isess và Sonnam đều một chén. Đoạn trời còn mưa rỉ rả, Samdhen ra ngoài ngủ, bần đạo nói lạnh lắm không ngủ. Huỷnh bảo Sonnam trải đồ ngủ giữa liêu cho bần đạo ngủ, vì tại đơn nhiều rệp. Kế Issê về còn Choundouss ngủ tại nhà quen.
-
Ngày 31 Juillet 1936 – 14-6-â.l.
Sớm điểm tâm trà rồi ăn bột với cải chua rồi uống một ca trà sữa của Đầu bếp hộ. Mượn cô Đầu bếp mua sữa và đường. Samdhen rằng : Mua đường đừng mua sữa vì bữa nay đi Galden. Hôm qua đã mua một bắp cải kế đầu bếp cho một bắp nữa, nên hôm qua nấu một bắp, sáng nầy còn một bắp, nấu cà-ri nửa bắp chia nhau ăn, còn nửa bắp cất đó. Đậy điệm dọn dẹp hẳn hòi, chừa hai cái mền đặng đem theo đắp. Chín giờ cùng các huỷnh lên đường, lội bộ đi, lội qua không biết mấy bàu(1) mấy suối, ướt át quần áo, nước lạnh như đồng, tê tái hai chưn. Mười một giờ rưỡi tới bến đò, ngồi đợi ước 1 giờ, con đò đôi, đò da tới, xuống đò đi qua sông, lên đi riết 1 giờ rưỡi đã tới xóm nhà gần đường, các huỷnh vào hỏi chỗ tạm nghỉ, song không nhà nào có chỗ tử tế, nên họ từ khách, huynh đệ đành trải lá lót ngủ ngoài sân (cũng có bộn khách đi đường ngồi trước uống trà uống xăng) cùng nhà xúm xích ngồi nghỉ, đợi Isess đi mướn nấu trà (trà, beurre, muối của mình) đem ra dùng. Chập lâu trà xong, Isess đem ra, đồng uống trà ăn bánh bột chiên (hình như chiếc dép) của Issê hôm qua đi chùa Séra đem về. Ăn rồi trả tiền nấu trà 1 yôgăng, đoạn 2 giờ 15 lên đường, trải qua khe suối, lúc 4 giờ rưỡi bần đạo đuối giò, hết gân hết cốt, cẳng hết muốn bước, song cứ niệm Phật mà đi theo họ. Họ đi bộ giỏi lắm, song cũng ráng bước, lúc tạm nghỉ xả hơi, thì lo bóp cẳng o bế, rốt việc cũng kịp bước như họ. Năm giờ rưỡi, phút tới làng Đê-xanh, còn chừng ngàn thước tới chợ, thì cho Sonnam đi trước hỏi nhà ngụ. Huynh đệ đi sau, lần lượt đã tới chợ, thì Sonnam hỏi chỗ ngụ đặng, bèn đứng nơi đường đón rước. Vào nhà ngụ, thẳng lên lầu vào phòng đã dọn dẹp sẵn. Tạm nghỉ uống trà ăn bột rồi mượn chủ nhà mướn giùm hai con ngựa. Mướn đặng, đỡ quá. Samdhen rằng : Tôi mỏi cẳng quá lẽ, nếu không ngựa thiệt khổ lắm. Thầy cũng mỏi như tôi.
-
Ngày 1er Aouât 1936 – 15-6-â.l.
5 giờ thức, Samdhen kêu huynh đệ, bảo Sonnam đi hối ngựa, Sonnam đi vừa khỏi ngõ, thì gặp chủ ngựa, đem hai con ngựa vào, lên lầu lấy hành lý xuống gác yên, đoạn trả tiền phòng cho chủ nhà rồi xuống hai huynh đệ lên ngựa đi, cách chợ 100 thước thì có ba cái suối nước chảy như cắt, hai con ngựa qua suối nước tới gối, qua rồi, dòm lại bốn huynh kia đang xăn quần túm áo, cởi giày, bần đạo động lòng thương xót, trời còn sa mù lạnh lẽo mà băng qua ba cái suối và mấy đầm nước linh láng ấy, lạnh hai chơn lắm. Các huỷnh lần lượt đi sau, hai huynh đệ đi ngựa tới trước, trải qua khe suối mấy lần, phút tới xóm đã 8 giờ. Tạm ghé, sai Sonnam đi hỏi chỗ tạm nghỉ mướn nấu trà (lúc đi còn chừng ít ngàn thước) thì Samdhen bảo Sonnam lên ngựa ngồi sau huỷnh. Hai người một ngựa thấy thương con loại vật, miệng đổ bọt, trời lạnh mà đổ mồ hôi, vì vậy mới có Sonnam đi một lượt. Hỏi đặng chỗ rồi, vào nhà ấy tạm ngồi, đợi nấu trà, chập lâu trà sôi thì bốn huynh kia đã tới. Muối, beurre bỏ vào ống, cô chủ nhà thục xong, đổ vào bình đem lên, huynh đệ đồng uống điểm tâm và ăn bột, các huỷnh uống xăng trước, hai huynh đệ tôi uống trà. Xong trả 1 trăng nga tiền nấu trà, 9 giờ rưỡi lên ngựa. Lúc khi nãy đã thấy phan lọng của Đại đức Lama hòa thượng Galden, đi Lhassa về, còn đi sau xa, khi tạm dùng trà thì toán Đại đức đã đi qua khỏi trước. Lên ngựa đi ước nửa giờ, ngó tới trước thấy toán của Hòa thượng Lama, đóng liêu vải gần mé đường tạm nghỉ. Samdhen nói rằng : Thôi xuống ngựa, đợi các huỷnh tới giao ngựa cho mã tử rồi đi bộ qua khỏi toán của Đại Lama rồi sẽ lên ngựa. Đồng xuống ngựa, ngồi nghỉ một chập, phút mã-tử tới. Samdhen trăm với người một hồi, mã-tử quần ngựa theo lề ruộng cho ăn, kế bốn huynh kia tới, cùng nhau đi bộ qua khỏi trại liêu Thượng tọa cách 500 m ngồi nghỉ chờ mã-tử. Samdhen nói với Bần đạo rằng : Lama cả đây thiệt một vị Đức hạnh tu hành, ngài quản xuất 3.300 Lama tại Galden, trên Quốc Vương Lama dưới là ngài. Ngài đi yết lễ vua tại Lhassa nay về Galden. Bần đạo thấy toán hành khách và các lama khác đi ngang qua đó đều sập dù xuống ngựa cả, khen thay ! Đoạn mã-tử tới, hai huynh đệ lên ngựa, bốn huynh kia cùng mã-tử lần lượt đi bộ theo sau. Từ đây, ngựa lần hồi từ bước lên dốc núi, ngựa thở ra khói, còng xương sống phình hông chỏi cẳng, ngồi trên lưng ngựa, những thảm thương thân loại vật, nhưng nếu không cậy sức đó, thì bữa nay chỉ nằm dọc đường, chớ chắc đi không nổi vì ngày hôm qua đi cả ngày hết gân cẳng. Tuy mượn lưng ngựa mà lòng vẫn đáo đáo niệm Phật và chú nguyện cho hai con ngựa nầy, kiếp nầy hết nghiệp, kiếp tới nguyện đó tái sanh vi nhơn, độ đó tam qui ngũ giới cho khỏi thân anh phụ trọng. Lần lượt lúc nghỉ lúc đi, phút tới đảnh núi, khúc đường bình địa, ngựa đỡ chưn ước 1.000 thước, phút tới xóm đảnh.
-
Xuống ngựa, trả tiền mã tử, vì tới đây còn 1.000 thước nữa sẽ tới chùa ở phía bên kia đảnh, ấy là địa phận của chùa, bất câu vua, quan, dân, tăng chúng, tới đây cũng phải xuống ngựa, dắt ngựa đi bộ, chớ không đặng ngồi trên lưng ngựa. Đợi chập lâu các huynh đệ tới, Samdhen bèn bảo Isess đi vào xóm đảnh gởi con dê con mượn nuôi ít bữa sẽ trở lại trả tiền công (ấy là lúc dưới chơn núi trẻ nhỏ đôi ba la lối đuổi quạ và ó bay đáp trên lưng một con dê lạc mẹ, cắn mổ, lúc Samdhen đi bộ vừa tới hỏi cái chi, trẻ bé chỉ con dê con và quạ ó mà thuật việc ấy, rồi cho tiền trẻ bé, bảo Sonnam ẵm dê con đi tới xóm trước gởi nuôi, sau đem về Calcutta). Bần đạo lần hồi đi xuống dốc núi tới đường bằng qua đảnh bên chùa, bèn ngồi nơi thạch bàn chờ các huỷnh. Biết phận mình đi dở, nên lo đi trước cho đỡ chưn, nếu để đi một lượt thì đi không lại họ vì họ quen chưn đi núi, đi mau lắm. (Tiếp điển tại Galden trên Thạch bàn.) Nghỉ chừng 1 giờ, kế các huỷnh tới. Issê Sonnam trễ ở lại đặng chờ thay y phục lama mới dám vào chùa vì trước huỷnh có ở Đạo tu tập tại Galden tự nơi nhà thiền, đồng hương của huỷnh là : Sêconn-Khâm-trzanh của người Khâm-pá, nhưng khác quận với Choundouss. Mấy huynh đệ đi vòng qua đường đi đến chùa, trải qua mấy cấp nhà thiền trên đảnh ước 500 thước mới tới nhà thiền người Khampa đồng quận cùng Choundouss, lên mấy cấp mệt le lưỡi, vào liêu của huynh Guêgam đỗ ngụ. Guêgam mừng rỡ chào hỏi, lo sắp đặt đơn tợ mời ngồi. Đoạn huynh lo thục(1) trà cho chư huynh giải lao. Bần đạo ngồi nghỉ một chập, ngó qua đồng hồ reo của Samdhen thì đã 1 giờ rưỡi. Trà rồi, bần đạo nằm vì bị răng cùng chuyển, chửa(2) chưn nướu nên nhức nổi hạch cổ, nuốt nước miếng đau thấu óc. Nóng lạnh, trùm nằm mê mết, còn Samdhen lo mượn một vị Lama đem y phục lama cho Sonnam thay. Tuy nằm mà nghe các huỷnh bàn luận sự cúng dường và hành hương ngày mai. Bần đạo bèn chỗi dậy, Samdhen hỏi bớt nhức răng không ? Còn nhức lắm. Huỷnh bảo nằm nghỉ và bảo hút thuốc cho đỡ nhức, nhưng đau quá bần đạo cứ trùm mà nghỉ. Qua 5 giờ rưỡi các huỷnh ép ăn bột với nước trà, bần đạo ráng nuốt vài muỗng bột cho đỡ đói, dường nuốt đá, bột qua mụt hạch cổ, nhức đau quá lẽ. Đoạn trùm nữa, 8 giờ tối đi tiểu rồi vào đơn nói với Samdhen rằng : Mai sẽ hết đau, huỷnh rằng : Xem thầy đau lung quá, e mai không hết, nếu đặng y lời thầy nói, thì rất quí và đáng kính lời tiên tri. Bần đạo cười và nói : Chắc lắm, sẽ hết đau, vì ngày mai là ngày hành hương, Phật sẽ cho hết đau. Nằm ngủ thẳng ống tới sáng.
-
Ngày 2 Aouât 1936 – 16-6-â.l.
Sáng thức sớm, ngồi niệm Phật, kế Samdhen thức cùng các huỷnh hỏi hết nhức chăng ? Hết rồi, khi qua đã nói bữa nay hết đau, thì đâu còn nhức. Đoạn huynh đệ lo điểm tâm, rồi Samdhen bảo Bần đạo trao 4 săng (40 yogăng = 1R.10A.2P) đặng đưa cho Choundouss đem đi qua Điện thiền cúng dường tiền trà cho chư Lama Khampa. Ba huynh đệ Samdhen, Choundouss và bần đạo mỗi người y số chung đậu cúng tiền trà. Choun-douss lấy tiền lo đi đưa trước cho Thiền chủ mua trà, beurre đặng 3 giờ cúng dường. Xẩn bẩn tới ngọ, ăn bột với nấm mèo xào, đoạn tới 3 giờ, Choundouss mời Samdhen và bần đạo qua Điện thiền cúng dường. Samdhen bảo một huỷnh đi đủ, mời bần đạo thì Bần đạo cũng nói y vậy. Choundouss đi rồi, Samdhen nói rằng : Mình cúng dường chút ít, qua đó làm rộn cho họ phải đãi trà nước không ích. Đoạn Sonnam bước vào, mặc đồ lama, ngồi nói chi lăng xăng với Samdhen, 4 giờ Choundouss cúng rồi về liêu ngụ thuật việc cho Samdhen rõ. Huỷnh bèn nói với Bần đạo rằng : Tôi cúng rồi và nói với Thiền chủ rằng : Để sau sẽ cúng tiền cho chư Lama, lúc nầy còn nghèo cúng không nổi. Nhà thiền Khampa Lama có trên bốn trăm lama tăng, y như nhà thiền Trzăngpá Khâmtrzanh của của thầy tại Dzêsbung. Nếu cúng y như thầy thì tôi không có tiền, nói rồi cười xòa. Samdhen bèn sửa soạn đi hành hương ba chùa, đem bình tô-du theo (bần đạo có mượn của Samdhen 2 rupee vì hết tiền lẻ, hùn 1 rupee tiền tô-du cúng dường, còn 1 rupee để cúng dường và trong lưng cũng còn một mớ). Có một vị lama theo dẫn lộ, huynh đệ cùng đi, qua tới khúc quẹo, Sonnam chạy vào đường hẻm trốn và nói Bơda Lama đi gần tới kia, Samdhen cũng đứng ẩn cùng các huynh đệ, thấy cách họ cung kính chư Đại đức như thế cũng đáng khen và mừng cho Phật đạo xứ nầy còn thạnh hành. Kế Đại đức đi ngang qua, bần đạo xem hình mạo cũng chưa mấy già, tuổi lối năm mươi, ngài đi thẳng với một tiểu Lama bưng một mâm lễ vật trên trùm vải trắng. Khi ngài qua khỏi rồi, huynh-đệ bước ra chỗ ẩn, đồng đi. Samdhen rằng : Thượng tọa nầy cai quản hai chùa bốn nhà thiền. Đoạn đi tới chùa lớn trước vào lễ bái cúng dường các điện, mỗi điện đều chút ít tiền nhang khói cầu phúc cho đàn-na. Trước cửa chánh chùa lớn có treo một tấm biển của China cúng, có bốn chữ vàng : tuyên từ phu phúc . Đi cúng đủ bốn cảnh tự, trải qua các điện, xem nguy nga rực rỡ, tượng Phật đồ sộ, tượng Tổ sư Lama cũng to tát, các tháp Tổ sư rực rỡ, trân châu mã não, gắn mấy từng, thiệt Đàn-na cúng dường rất long trọng, đất Phật phải lắm. Khi đi cúng các điện, thì mỗi điện huynh Samdhen đều có cắt nghĩa cho Bần đạo rõ. Khi vào Điện Phật tổ Thích Ca rồi qua điện Hậu tổ Sungapa,(1) thì Samdhen rằng : Đây là Sungapa Buddha oanh ấp tari nghĩa là Phật Thích Ca niết-bàn tại Kusinara rồi, sau đến Tây-tạng tới xứ Khampa giáng sanh vào một nhà phước-đức thường nhơn, tên là Sungapa. Ngài tu và tịch tại Galden đại già lam nầy. Hậu tổ để dấu tích tại núi nầy nhiều lắm. Ngày mai sẽ dẫn thầy đi kỉnh xem các nơi cổ tích của Hậu-tổ, theo chung quanh triền núi. Tuy có chùa, nhưng bình sanh của ngài, tối không ngủ trong chùa, cứ ra ngoài ngồi theo các thạch đơn mà thiền định, nên để nhiều cổ tích chung quanh. Trời chen lặn về tới ngụ liêu, cùng nhau trà giải lao. Kế các huỷnh ăn tối, phận bần đạo y lệ lần chuỗi thiền định rồi nghỉ.
-
Ngày 3 Aouât 1936 – 17-6-â.l.
Sớm điểm tâm trà bột, kế 9 giờ rưỡi có một vị Lama già đến làm hướng đạo đem đi nhiễu Thánh-địa cổ tích của Hậu tổ Sungapa. Ban đầu viếng chỗ Thạch bàn, Lama hướng đạo chỉ và nói cắt nghĩa sử tích chỗ ấy. Samdhen thông ngôn lại cho bần đạo rằng : Đây là chỗ Sungapa, Tổ sư hay ngồi thiền định lúc đêm tốt trời. Ngài lúc đại định một đêm kia, biết thành Lhassa phải bị lụt, bèn ấn chú lấy đá thạch bàn quăng qua hướng nguồn nước chảy về Lhassa thành mà cản ngọn nước đặng cứu thành Lhassa khỏi lụt. Thầy dòm xuống triền thì biết, bần đạo y lời dòm xuống triền, hằng thấy không biết mấy nguồn suối chấu chảy về hướng Lhassa, trông xa cái hẻm hai đảnh núi còn cổ tích Thạch bàn cản ngang đã trải qua 2.000 năm rồi, nay thành hòn núi nhỏ băng ngang hẻm núi lớn, nằm cản ngọn nước. Bần đạo bèn thầm vái ngài và xin thỉnh một cục đá nhỏ tại đó làm kỷ niệm. Kế sang qua chỗ ngài nhập định bị người phá, ma-vương hóa mưa đá, đến đỗi chung quanh chỗ ngồi đá bị nước mưa xoi lủng như mặt rây, lỗ lớn và tròn bằng đầu ngón tay út, thấy lấy làm lạ quá. Kế đến chỗ ngài để xâu chuỗi, còn dấu hột chuỗi mòn lủng mặt đá và láng cuộn, bần đạo bèn đảnh lễ và để xâu chuỗi của bần đạo trên dấu cổ tích, đoạn thỉnh một miếng đá mẻ tại đó làm kỷ niệm. Kế đó, có một vừng đá lớn có ba lỗ lở mỗi lỗ bằng miệng thúng giạ. Samdhen thông ngôn rằng : Một ngày kia đức Ca-diếp, từ Nalanda thần thông đi một ngày tới núi nầy, lấy tay xoi đá để vào lỗ ấy một cái ốc-lị-pháp, rồi trở về Nalanda mà hội chư La hán đặng chép tam tạng kinh. Lúc sau Hậu tổ Sungapa tới núi nầy, bèn đến tại chỗ nầy nói với chư tăng chúng rằng : Đức Ca-diếp trao ốc-lị cho ta, đặng xuy pháp lị tại xứ Tibet nầy, sau trong lục thú chúng sanh ai nghe đặng tiếng Pháp lị nầy đều đặng phước cả. Nói rồi bèn lấy tay đập vào đá, đá giăng ra lòi ba lỗ, mỗi lỗ là một con ốc, ngài lấy ba ốc lị ấy vuốt ra dài thành ba cây kèn, để vào ba cảnh đại tự là : Dzêsbung, Séra và Galden. Kế đến chỗ, ngày kia ban ngày Hậu tổ ngồi nhập định, có một con quạ bay lại đậu trên vai kêu, thì ngài nói ấy là tin mẹ ngài đến viếng, bèn lấy tay chỉ trên đảnh núi thành hang có thạch bàn cho mẹ ngồi. Ông Lama già chỉ chỗ ấy trên cao, ai ai đều ngó theo ngón tay lama thì thấy chỗ ấy, có hang cạn có hình một vị đờn bà ngồi, chung quanh đá dựng như vách không đường lên đặng. Kế tới chỗ ngài ăn bột ngọ, xem chỗ ngồi láng cuộn chung quanh đá cục lòn hòn dính nhau màu như bột sadou xám xám, thật lạ quá, bột rớt thành đá… Kế đến chỗ hai cục đá nằm dài hình như trâu li, nói rằng cặp trâu của ngài lúc từ giã Khampa qua Lhassa. Sử tích ấy sau sẽ thuật. Kế đến chỗ ngài thiền định, bị ma vương xô đá, xeo đá ngã lăn, nhưng không chận ngài đặng, ngài biết nếu để tới cục đá lớn nhào xuống triền, thì mất chỗ trụ các đá trên đảnh phải nhào theo thì chùa sập ngã theo phía bắc đó. Ngài bèn chú niệm dĩ Phật lực kề vai chỏi tay chống ngăn cục đá đó lại, dấu bụng và tay còn y đó, sau tăng chúng lập miễu nhỏ trên cục đá ấy làm kỷ niệm, huynh đệ đồng theo chơn hướng đạo vào miễu đảnh lễ và cúng tiền dầu, có hai ông đạo lama thường ở đó. Có lên cốt ngài để thờ tại miễu.
-
Rốt rồi, Samdhen chỉ hai lỗ tại cục đá phía trong miễu cho bần đạo xem và nói : hai tay Hậu tổ quấu vào đá kéo lại. Bần đạo bèn rờ hai lỗ ấy, lạ thay còn dấu bốn ngón tay ở trong lỗ, còn một dấu ngón cái ở ngoài, trải 2.000 năm mà còn y nguyên. Bần đạo ngẩn ngơ tư tưởng rằng : Đá cứng mà sao có dấu đặng, y như tay thọc vào đất mềm vậy. Đoạn hướng đạo đi ra, huynh đệ đồng theo, đến chỗ ngài lấy đá làm thuyền đi khi nước ngập, cục đá vẫn giống như chiếc đò da đời giờ tại xứ Tây-tạng, tới chỗ ngài chỉ cho chư lama rằng : Đó là tam tạng kinh ngài làm rồi sắp đó. Xem ra đá chồng in như kinh Tây-tạng trong một tấm vách đá cao ước 100 thước, lớn ngang ước vài trăm thước, đá nứt từ lớp từ chặn y như từ cuốn kinh sấp chồng nhau vậy. Samdhen rằng : Ngài có mắt thánh, xem là kinh, còn chúng ta còn phàm tục, tu chưa thành thục nên xem ra là đá. Ông lama hướng đạo nói : Nơi nào ngài ngồi cũng có sử tích, ngài biên vào lịch sử của ngài, di tại đại điện. Đoạn đi thẳng qua xóm con buôn, quẹo lại chỗ miễu nhỏ, ngó ngay qua chùa. Trong có ba tượng rằng : Sơn thần miếu, nói trước khi đức Sungapa tịch diệt ba ngày, thì ngày đêm phía nầy có luồng gió thổi qua chùa, trong gió có tiếng nói : Thượng-tọa Thánh-tổ tiền Thích Ca hậu Sungapa sẽ tịch diệt. Đoạn lên theo đường hẻm cách 100 thước tới đường bằng, con buôn che trại vải buôn bán đủ vật, nội hóa và ngoại hóa. Đi dọc xem, Sonnam đi sau với Bần đạo bỗng gặp lama quen dừng bước nói chuyện, lâu quá, bần đạo thừa dịp chờ huỷnh xem họ buôn bán, thấy phần nhiều đồ Anglais lung, còn nội hóa chỉ có vải sồi chút ít. Kế mượn Sonnam mua một cái hộp quẹt. Huỷnh vát hất tuông vào trại quán, đi đá nọc cột dây chằn, trại tróc lên, làm xê một mé trại vải, cô chủ quán cự và bắt đóng nọc lại. Bần đạo đứng xem và than : tiểu nhơn láo táo vô ý dường ấy thiệt khổ quá, đã mặc áo Lama mà không đĩnh đạt, để cho đờn bà không cung kỉnh y phục nhà đạo. Đóng nọc thẳng dây chằng rồi, huynh ra trao hộp quẹt cho Bần đạo rồi đi thẳng lại chỗ Samdhen đang đứng chờ. Sonnam tới, huỷnh rầy quở rồi cùng nhau đi thẳng về liêu ngụ. Đến nơi thì 12 giờ rưỡi, trà bột ăn ngọ rồi lo sắp đặt hành lý đặng về Lhassa. Ba giờ trời mưa đi không đặng. Sai Isess che dù đi bắt con dê con và trả tiền công nuôi mấy ngày. Bốn giờ có một vị lama đưa đi và mang giùm valise. Đi qua khỏi chùa 100 thước, tới đường quẹo dưới triền, dừng bước cho Sonnam thay y phục thế gian, trả đồ lama cho huynh đi đưa đó. Kế Isess đi tới, bọc con dê con trong áo, kế Choundouss xách bình Lạc nhũ tới, hiệp nhau đi qua chùa nhỏ cách đây sáu ngàn, bảy ngàn thước, 7 giờ mới tới chùa, bần đạo hỏi tên thì Isess rằng Lốt-trắc Bumpa, 7 giờ nhưng ở núi trời vẫn như 6 giờ còn sáng, xem ra là cái Tháp xây bằng đá, chớ không phải chùa, cận bên đó cất nhà cho lama ở giữ tháp. Vào đó, thì lama từ tiếp rước trải đơn đặt tợ mời ngồi, một cô đầu bếp đem trà cho huynh đệ giải lao. (Lúc dọc đường trời mua rỉ rả, Isess cằn rằng và nói với Bần đạo rằng : Samdhen gấp đi quá, để sáng đi cũng đặng. Ngủ nghỉ trà nước tại Galden tốt quá, tối niệm kinh cũng quí, qua chùa nhỏ làm gì bây giờ cực khổ, có đờn bà chớ có cái gì quí.) Khi thấy cô đầu bếp thì bần đạo trực nhớ những lời Isess nói. Thiệt vậy, tới nơi, hai huynh đệ tôi dùng trà, còn bốn huỷnh ở dưới bếp uống xăng, nhứt là Choun-douss và Issê mê mết với cô đầu bếp ấy, uống xăng tới khuya, mới hết cười giỡn. Đồng ngủ thẳng giấc.
-
Ngày 4 Aouât 1936 – 18-6-â.l.
Thức sớm ra suối nhỏ rửa mặt, đoạn vào điểm tâm trà vài chén rồi đi nhiễu tháp. Thấy một tháp lớn ở giữa, còn hai tháp nhỏ bên tả, hai cái nhỏ bên hữu, trước tháp lớn có xây một tấm tường đá, giữa tường có xây cái điện nhỏ, có chạm hình Tổ sư vào đá. Samdhen rằng : Tổ sư khi còn sanh tiền tên là Nămkhá Gialsanh, ngài tu hang khi tới đây áo không bâu, ngồi đây mà tịch diệt. Chỗ nầy thường chư Lama các chùa thường đến nhiễu tháp, có kinh của ngài để lại. Chốn nầy linh lắm. Tổ sư phù hộ kẻ nhiễu tháp, trong kinh nói, đau thứ bịnh chi đến đây cũng thuyên giảm. Trong tháp có hộp đựng tóc, xương và y phục của ngài. Nhiễu bảy vòng, vào điểm tâm thì lúc ấy Lama từ lên mời ở lại một ngày, thuận tình. Tám giờ có hai cô tới, một cô Kalimpong chủ tiệm bánh quen trước, còn một cô cao lớn đen đúa ở Calcutta mới biết lần nhứt nầy. Vào chỗ ngụ, Samdhen tiếp rước nhượng đơn nhượng tợ phía Isess nằm ngồi cho hai cô, trà nước giải lao rồi, hai cô đi lễ tháp, cách họ lạy nằm dài dưới đất, giáp vòng rồi vào nghỉ. Trưa ngọ bột với canh rau, ăn rồi ra ngoài kiếm đặng một tấm bảng đá ardoise,(1) bèn đem vào lấy mũi dao chạm tên tự di lưu tại tháp. Chiều nhiễu tháp rồi tối nghỉ. Không chi lạ hơn là các huỷnh cả ngày ở nhà bếp uống xăng, Sonnam say xiêu tó ngả ngớn. Samdhen cùng hai cô đàm đạo, lo làm quen cùng cô Calcutta vì cô là người hào hộ, phòng ngày về Calcutta tạm ngụ nương cậy… Tối lại huynh Samdhen muốn nhượng đơn cho hai cô và gia quyến cô nghỉ. Song hai cô từ rằng : Thầy và ông sư (là bần đạo) cứ việc nghỉ đó, chị em tôi nội đơn nầy đủ rồi và bọn tùy tùng đều có chỗ, không hệ chi.
Ngày 5 Aouât 1936 – 19-6-â.l.
Sớm điểm tâm rồi 7 giờ từ giã Lốt-trắc tháp, kỉnh tiền cho Lama từ rồi ra lễ tháp từ biệt lên đường, hai cô đi ngựa, còn đang gác yên, bọn tôi thả bộ đi trước. Hôm qua đi giày cao-su, cấn đá, nên đau cái gót bàn chơn mặt, bần đạo ráng đi cà nhắc theo họ, đường đi cũng dễ, nhờ qua ít cái suối, nước lạnh quá làm cho cẳng bớt đau, lần hồi tới 10 giờ, thì hai cô đi ngựa đã đi kịp, bèn chào và đi trước. Bọn gia quyến đi bộ sau với huynh đệ tôi. Tội nghiệp có một con nhỏ con của cô ở theo, đi đường rên mỏi như séo, réo kêu má mãi. Lần lượt cà nhắc, nhiều lúc vấp đá đau thấu ruột, ráng theo các huynh, lên đèo xuống ải, trải suối qua đầm 4 giờ đi tới Đê xanh vào nhà ngụ, cô chủ chào rước vào đơn. Isess lo nấu trà, mua trước một bình xăng, các huỷnh giải lao. Trà thục rồi, Samdhen và bần đạo mới uống và ăn bột với lạc khô. Tối nghỉ vì mỏi mê, cẳng ê đầu nhức, trọn đêm bần đạo ngủ vùi.
Hai cô Kalimpong và Calcutta cùng gia quyến cũng đồng đi Lhassa. Hai cô cỡi ngựa đi trước, tới Lổ-trắc ở nhà ngụ khác.
-
Ngày 6 Aouât 1936 – 20-6-â.l.
Sáng thức sớm điểm tâm trà bột rồi 6 giờ rưỡi mang hành lý đến bến đò cách chợ 2.000 thước. Đến bến chờ đến 8 giờ rưỡi mới xuống đò da, đi về Lhassa, đò trải qua chỗ cạn chỗ sâu, chỗ nước chảy như cắt, chỗ nước vận bình bòng, chỗ hẹp như rạch nhỏ, chỗ hà lản như sông to, chỗ bị hàn nước đổ ầm ào, nổi sóng thấp cao. Lần theo dòng nước, đò lần lượt xuôi dòng. Mười hai giờ đã tới bến đò Lhassa. Đường bộ đi hôm nọ cả ngày, nay về đường thủy trong ít giờ đã tới, đó là nhờ nước xuôi đổ về Lhassa. Lên bến về nhà ngụ, Choundouss đã đi đò về trước nên sửa soạn rồi. Có huynh đầu bếp giúp nấu trà rồi. Về tới tọa đơn uống trà giải lao rồi ăn ngọ bột với cải bông trộn salade, cải chua của đầu bếp hộ, rồi tráng trà ngọt. Đầu bếp lăng xăng han hỏi, chùa Galden thế nào ? – Rằng, tốt lắm, quí lắm. Tối nghỉ, ra ngoài ngủ vì ở trong bỏ mấy ngày, rệp đói chích quá, cả đêm tuy lạnh mà không hay ngủ vùi tới khuya, thức tiểu, thì rờ lớp mền ngoài sương sa ướt mẹp. Ngủ đến sáng.
Ngày 7 Aouât 1936 – 21-6-â.l.
Điểm tâm bột và cải bông xào rồi. Trời mưa rỉ rả, Samdhen bị dột mưa, chạy vào liêu tạm nghỉ, đọc kinh mơi, bần đạo ra ngoài ngồi, huynh đệ họ chuyện vãn lăng xăng, bỗng kêu bần đạo rằng : Thầy cho tôi mượn 15 rupee đặng tôi có việc dùng đem lại Quan lớn, đặng chăng ? Bần đạo rằng : Tốt đặng. Trời cứ mưa riết cứ mưa hoài Samdhen sắm sửa hoài mà đi không đặng. Vào đơn ngồi tụng kinh. Choundouss và Isess lấy kinh ngồi trước cửa sổ tụng reo tuồng như tụng kinh cầu bớt mưa vậy. Kế chập lâu, tụng kinh rồi Samdhen nhắc sự mượn tiền, bần đạo nói, tiền lẻ không còn, bèn móc giấy 100 rupee trao cho huỷnh, huỷnh bảo Choun-douss đem đổi… Huynh trăm lia với bần đạo rằng : Để sau tôi mua y phục lama, bình bát, trượng mão, giày cho thầy, tôi lo đủ món cho thầy, đoạn hối Sonnam kêu Isess, Issê rót trà cho bần đạo lăng xăng ân cần. Hai lần rồi, bần đạo biết ý, lúc ở Ghoom hết tiền cũng vậy, lúc ở Bhutan cũng vậy, hết tiền thì tỏ lòng ân cần thết đãi đặng mượn bạc. Bần đạo thấy vậy cũng thương đời sống vì tiền. Trưa bần đạo lo trộn salade, nửa cái bông cải còn lại hôm tuần rồi của Đầu bếp hộ, lúc đi Galden cất trong nồi nhôm. Nay về lấy ra còn tươi chong nhờ xứ lạnh, trộn với cải chua ăn ngọ. Các huỷnh đồng ăn hùn, bần đạo hộ mỗi vị một dĩa nhôm nhỏ. Ăn khen đẹp miệng. Lúc Choundouss đổi bạc về thì bần đạo còn đang xắt cải. Samdhen sai đi mua đồ. Ăn ngọ rồi, Sam-dhen trao cho bần đạo 40 rupee giấy bạc Tây-tạng, gói trong giấy, bạch rằng : Đây thầy cất 40 rupee nầy đừng xài tới, còn 10 rupee là năm tấm giấy bạc 2R Tây-tạng đây thầy bỏ túi xài. Trăm lia, ân cần căn dặn như lời bảo trẻ nhỏ, bần đạo nực cười trong dạ, ừ chừng. Huỷnh nói còn 30R nữa mai sẽ đem lại đưa cho thầy. Đoạn Choundouss đem beurre về, hai thầy trò chuyện vãn rồi nói với tôi rằng : 4 rupee beurre đó. Samdhen nói : Chiều nay đi chùa có beurre sẽ đổ vào đèn đem vào chùa chế mỗi điện cúng dường. Bần đạo trả cho huỷnh 4 rupee mượn đi Galden. Đoạn 4 giờ rủ đi hành hương. Bữa nay đi tới cửa chánh chùa, để ý dòm lên mới thấy tấm biển chữ Tàu treo trên, đề bốn chữ : phước tư vạn hữu , vào tới cửa nhì là biển : “Tây Trước Chánh Tông” thấy lúc trước. Lúc mới đến ngốp mặt đi cứ ngó ngay nên không thấy, nay quen mặt dòm cùng. Vào cúng dường các điện y như mấy kỳ trước, tiền dầu cầu phúc cho Đàn-na trong các điện. Trở về tới khúc quẹo mua 1 trăng nga bánh bột-chiên, Choundouss nói, thầy thấy bánh cũng mua in như con nít nhỏ đòi ăn, bần đạo rằng : Không hiểu bánh ra sao, mắc rẻ, mua cho biết. Đem về tới nhà ngụ chia cho các huỷnh và vợ chồng đầu bếp với hai con của huỷnh, bần đạo còn tấm giấy không… Cười ngất. Đầu bếp mời uống trà. Hoan hỉ ! Tối nay ngủ trong, trải lá lót trên hai cánh cửa làm đơn ngủ, bỏ chỗ cũ trống, khá, rệp không có nghỉ êm. Khuya thức đi tiểu thì trời mưa rỉ rả. Samdhen ngủ lì mặc tình dột ướt.
-
Ngày 8 Aouât 1936 – 22-6-â.l.
Sớm lo điểm tâm, sữa nấu với đường đỏ mượn mua hôm qua, ăn bột khô. Bữa nay Isess thức trưa kêu ba quận mà còn dụ dựa, nên nấu trà trễ vì bần đạo đợi lò trống đặng nấu sữa đường, bỗng có đầu bếp qua thấy sữa trong xon nhôm với đường đỏ, ngỡ trà sữa, hỏi trà ngon không ? Thừa dịp, ý muốn đã lâu nên trả lời : Tôi không biết cách nấu trà sữa nên chi bữa ngọt bữa lạt, bữa hôi khói nên không bằng trà của huynh. Đoạn nói : Ý tôi muốn gởi tiền cho cô nấu trà giùm cho tôi uống mỗi ngày. Đầu bếp vui lòng nói đặng. Bần đạo bèn bước qua nhà lấy một tấm giấy bạc Tây-tạng 2 rupee trao cho cô đầu bếp nói : Tiền nầy cô cất mỗi ngày mua sữa, đường nấu giùm trà. Cô nghe tiếng đặng tiếng mất, huynh đầu bếp nói lại, cô bèn hiểu, vui lòng cất tiền. Trưa lại ăn ngọ, bần đạo có mượn Issê Sonnam mua cải chua về chiên ăn với bột nhồi. Ngọ rồi, lo nghỉ trưa vì xác tục bị mấy ngày đi đường mỏi mê, 2 giờ thức dậy lo viết nhựt ký. Trọn ngày lo viết. Bốn giờ huynh Samdhen lên rầm nhà kêu bần đạo lên xem chư Lama cúng dường ngoài đồng cỏ gần đó. Bần đạo ngừng viết, chìu ý lên rầm xem, một tốp Lama đứng một hàng, có Lama cả tụng kinh chú niệm đứng trước, chư Lama sau cầm trống và chập chỏa với hai cây kèn dài. Inh ỏi trống kèn cúng dường, ấy là một cuộc xô giàn vì thấy một cỗ bánh sadou dựng trước đó, cúng rồi bó rơm nổi lửa đốt. Samdhen nói : Quan Thừa tướng cúng dường và Lama cả đó ở nhà gần bên dinh quan, là em của tiền Quốc Vương Tả-lê Lama. Hèn chi hổm rày nghe đàng dinh Quan kèn trống chập chỏa inh-ỏi, trước khi đi Galden, lúc về hôm qua còn nghe cúng dường, bữa nay xô giàn rồi việc. Y như Nam Việt cúng dường làm chay nhỏ. Xem lối năm phút thì rồi. Xuống thang, vào đơn lo viết nhựt ký. Samdhen khi qua nói còn 30 rupee, bữa nay sẽ có, mà cả ngày không thấy, nhưng cũng không nói tới. Bần đạo cũng không nhắc để xem cử chỉ tình ý cư xử của huỷnh thế nào.
Sai-nha đằng dinh Quan lớn sai đem beurre và trà hộ nội bọn.
-
Ngày 9 Aouât 1936 – 23-6-â.l.
Sớm điểm tâm trà sữa và bột khô, đoạn đi theo Issê hành hương nơi chùa Chô-khăng. Y lệ như mấy lần trước vào lễ bái các điện và dưng tiền dầu chút ít, nghĩ vì mình ít đức nên cầu ở nơi Phật cho Đàn-na có phúc hậu. Lúc trở về ghé mua một cây cải bẹ xanh đặng về nấu canh, qua 11 giờ cúng ngọ và ngồi tợ luôn. Lúc đang ăn ngọ, Choundouss đi chợ về, có mua củi phân bò ít bao, nhưng Samdhen cũng đi chợ chưa về nên không tiền trả phải hỏi bần đạo. Bần đạo bèn luôn dịp ấy xuất 32 trăng nga mua phân củi ấy. Lúc Sam-dhen về trả tiền lại cho bần đạo, nhưng bần đạo từ rằng : phân củi ấy tôi mua. Nghĩ vì mình cũng có nấu chút đỉnh, xử thế cho tròn cho sạch nghiệp trần duyên.
Ngọ rồi nghỉ mùi chút ít, thức dậy Samdhen nói sáu bữa nữa sẽ đi chùa Dzêsbung dự cuộc hát rằm. Bần đạo cũng ừ ừ hoan hỉ. Ôi ! nhập giang tùy khúc chớ biết sao, phận nước lòng sông, lớn ròng cong quẹo, tùy hỉ cho qua. Kế huỷnh khoe hai chai xì yểu mới mua đặng Tết quan Thừa tướng. Còn 50 rupee trong số đổi bạc giấy cent hôm kia thì huỷnh mượn luôn vì không thấy nói tới. Hoan hỉ, để đó còn đó, còn ngày đối đãi hậu lai…
Nghĩ vì, bần tăng lắm nhờ Phật lực, xuôi cho huỷnh đem đi Tây-tạng, muôn điều xuôi xếp, lại đặng nhập Long-thiền đảnh lễ Lama Quốc Vương, đặng vào các tự hành hương, đặng gần Quan tứ trụ, thong thả vào ra, phố phường biết mặt, không trở ngại một điều chi, không bị nhục ném đá quăng gạch như người Anglais kia tự thuật trốn đi Lhassa cực khổ thân hình, tốn bạc ngàn mà làm đầy tớ cho kẻ tùng nhơn Hindou, mướn làm hướng đạo. Cực lực mà lúc đến tới Lhassa chỉ dừng bước đặng có một ngày, rồi sáng ra phải theo vòng binh xuất ngoại. Nghĩ vậy, bần-đạo so lại thân nầy hèn mọn, nhờ Phật lực nên đặng vua quan dân-giả, tăng tục đều hỉ kiến, cho phép các chùa hành hương, khắp nơi thăm viếng. Thì dầu cho tốn hao chút ít thật chẳng phiền, vui lòng nhịn ăn, nhịn mặc để tiền cúng dường cầu phúc cho Đàn-na và xử sự cùng người thi ân cho mình, dường ấy mới sạch nghiệp hậu lai, mới giũ trần bất nhiễm. Có câu : Nhất trần bất nhiễm hà tham hà thọ. Đều có sự bắt buồn cười là : Huynh Sam-dhen đã ra công khó đi đến Lhassa đặng cầu Quốc Vương Lama giúp sức đặng cất nhà Thiền tại Phật-đà-gia, kẻ công người của, phước hậu hưởng chung, nhưng huỷnh còn đắm sự ăn, mặc quá, thấy vậy cũng thương tâm cho kẻ tiểu-thừa. Tu hành không nên quá bảo trọng kỳ thân, vừa đủ nuôi sống đặng bòn công đức, nhược hữu chư phước thiện hồi hướng chúng sanh đồng cộng thành Phật đạo, ấy mới phải Phật đệ tử. Phật tử chẳng nên môi miếng, tỉ như huỷnh mấy bữa hết tiền, tiện tặn và coi cử chỉ đối đãi với bần đạo rất ân cần bù bặt, bảo uống trà ăn bột, ăn lung, ngủ thì bảo lấy thêm vải đắp lăng xăng, ấy là ý muốn cậy mượn. Làm như vậy một hai ngày trước khi hỏi cậy. Đến bữa hỏi đặng tiền, thì ăn uống phủ phê quên mình là thầy tu… tội nghiệp.