-
[B]師。漢州綿竹人。俗姓上官。參雲門 在眾時。一僧曰。看俗家失火。師曰 那裏火。曰。不見那。師曰。不見。 曰。者瞎漢。時一眾皆言。遠敗闕。 明教寬。聞舉歎曰。須是我遠兄始得 後出世青城香林院。僧問。如何是衲 衣下事。師曰。臘月火燒山。師將示 。辭知府宋公璫曰。老僧行腳去也。 判曰。者風狂僧。八十歲行腳去那裏 。宋曰。大善知識去住自由。師謂眾 。老僧四十年方打成一片。言訖而逝 塔於本山。
贊曰
一語驚群 杜撰罔測 幸有同參 霜上加雪
四十年來 未免饒舌 打成一片 子規蹄血
-------------
sư。 hán châu miên trúc nhân。tục tính thượng quan。 tham vân môn
。 tại chúng thì。 nhất tăng viết。khán tục gia thất hỏa。 sư viết。 na lí hỏa。 viết。bất kiến na。 sư viết。 bất kiến。 viết。 giả hạt hán。thì nhất chúng giai ngôn。viễn bại khuyết。hậu minh giáo khoan。 văn cử thán viết。 tu thị ngã viễn huynh thủy đắc。hậu xuất thế thanh thành hương lâm viện。 tăng vấn。như hà thị nạp y hạ sự。sư viết。 lạp nguyệt hỏa thiêu san。 sư tương kì tịch。 từ tri phủ tống công đang viết。 lão tang hành cước khứ dã。 thông phán viết。 giả phong cuồng tăng。 bát thập tuế hành cước khứ na lí。tống viết。đại thiện tri thức khứ trụ tự do。 sư vị chúng viết。lão tăng tứ thập niên phương đả thành nhất phiến。ngôn cật nhi thệ。tháp ư bổn san。
tán viết:
nhất ngữ kinh quần
đỗ soạn võng trắc
hạnh hữu đồng tham
sương thượng gia tuyết
tứ thập niên lai
vị miễn nhiêu thiệt
đả thành nhất phiến
tử quy đề huyết
-----------
Sư họ Thượng Quan người đất Miên Trúc, Hán Châu. Lúc còn ở trong chúng đến tham kiến sư Vân Môn. Một vị tăng hỏi: “Nhìn kìa, một căn nhà của dân bị cháy”. Sư hỏi: “Cháy ở đâu?”. Đáp: “Không thấy a?”. “Không thấy”. Vị tăng nói” “Ôi, đồ mù”. Lúc đó mọi người trong chúng đều cho rằng sau sư cũng sẽ chẳng làm nên việc gì. Lúc bấy giờ có một người tên là Giá Khoan nghe chuyện liền than rằng: “Người này thật đáng là sư huynh của ta, sau tất được đạo vậy.” Sau đó sư đến làm phương trượng tại Hương Lâm viện ở Thanh Thành Tứ Xuyên. Một vị tăng hỏi: “Phận sự của người tu là gì?” Đáp: “Tháng chạp lửa thiêu núi”. Lúc sắp thị tịch sư gởi lời từ biệt tri phủ Tống Công Đang, nói: “Lão tăng sắp đi đây”. Vị thông pháp hỏi: “Ông cuồng sư này, đã 80 tuổi còn đi đâu nữa?” . (Sư) lại nói: “Bậc thiện tri thức thì đi hay ở đều tự tại”. Sư nói với đồ chúng:“Lão tăng tứ thập niên phương đả thành nhất phiến.” Nói xong thì hóa, tháp dựng tại núi nơi sư tu hành.
Bài tán:
Một câu kinh người
Đặt bày khôn lường
Thêm bạn đồng học
Thêm tuyết trên sương.
Bốn mươi năm đi qua
Vẫn chưa hết lắm lời
Công tựu thành một phiến
Chim Quy hót ra máu.
-
師。常山李氏子。參玄沙。沙問。三 惟心。汝作麼生會。師指椅子曰。和 喚者個作甚麼。沙曰。椅子。師曰。 和尚不會三界惟心。曰。我喚者個作 木。汝喚作甚麼。師曰。桂琛亦喚作 木。曰。盡大地覓一個會佛法底人不 可得。師自爾無惑。開法地藏院。後 天成三年戊子秋。示疾數日。安坐告 。荼毘收舍利。塔於院西隅。諡塔曰 真應禪師。
贊曰:
失足踏翻 唯心三界 拈出當陽 縱橫無礙
博飯栽田 諸方仰戴 地藏古佛 光明猶在
-------------
Sư. thường san lí thị tử。tham huyền sa。sa vấn。tam giới duy tâm。nhữ tác ma sanh hội。 sư chỉ y tử viết。hòa thượng hoán giả cá tác thậm ma 。sa viết。y tử。sư viết。 hòa thượng bất hội tam giới duy tâm。viết。 ngã hoán giả cá tác trúc mộc。nhữ hoán tác thậm ma。 sư viết。quế sâm diệc hoán tác trúc mộc。viết。tận đại địa mịch nhất cá hội phật pháp để nhân bất khả đắc。sư tự nhĩ vô hoặc。khai pháp địa tàng viện。hậu đường thiên thành tam niên mậu tử thu。kì tật sổ nhật。 an tọa cáo chung。đồ bì thu xá lợi。tháp ư viện tây ngung。thụy tháp viết chân ứng thiện sư。
tán viết:
thất túc đạp phiên
duy tâm tam giới
niêm xuất đương dương
túng hoành vô ngại
bác phạn tài điền
chư phương ngưỡng đái
địa tàng cổ phật
quang minh do tại
-----------
Sư họ Lý, người đất Thường Sơn, Chiết Giang. Tham vấn sư Huyền Sa. Sư Huyền Sa hỏi: “Ba cõi duy tâm, ông hội thế nào?”. Sư chỉ chiếc ghế, hỏi: “Hòa thượng gọi vật ấy là gì?”. Sư Huyền Sa bảo: “Là cái gh ế dựa.” Sư nói: “Hòa Thượng không hội ba cõi duy tâm.”Sư Huyền Sa lại nói: “Ta nói vật ấy làm bằng tre gỗ. Ông nói nó làm bằng thứ gì?” Sư đáp: “Quế Lâm tôi cũng nói nó làm bằng tre gỗ.” Sư Huyền Sa nói: “ Khắp đại địa không dễ gì tìm được một người hiểu Phật pháp.” Sư nghe xong thì thông suốt, chẳng còn nghi hoặc. Sư khai pháp tại viện Địa Tạng. Năm Thiên Thành thứ 3 (928) đời Hậu Đường (923-936), vào mùa thu, sư có chút bệnh, vài ngày sau thì an tọa mà hóa, đệ tử hỏa táng thu xá lợi, dựng tháp nơi phía Tây của viện, thụy hiệu là Chân Ứng thiền sư.
Bài tán:
Không chân mà bước
Ba cõi duy tâm
Buông nắm giữa đời
Dọc ngang vô ngại.
Trồng lúa được cơm
Khắp nơi tôn quý
Địa Tạng Cổ Phật
Ánh sáng còn đây.
-
師。福州人也。姓和氏。幼不茹葷血 自誓出家。登鼓山晏國師剃度。得法 記。弘法鼓山。周顯德中。江南國主 延住光睦。僧問。如何是大道。師曰 我無小徑。曰。如何是小徑。師曰。 不知有大道。次住廬山開先。晚居金 陵淨德。聚徒說法。有聲於時。開寶 年歸寂。
贊曰
幼入師室 撞破石門 一言之下 左右逢源
大道小徑 步步紅塵 我不知有 獅子嚬呻
-------------
sư。phúc châu nhân dã。tính hòa thị。ấu bất như huân huyết。tự thệ xuất gia。đăng cổ san yến quốc sư thế độ。đắc pháp thụ kí。hoằng pháp cổ san。 chu hiển đức trung。 giang nam quốc chủ diên trụ quang mục。 tang vấn。 như hà thị đại đạo。sư viết。ngã vô tiểu kính。viết。 như hà thị tiểu kính。sư viết。 ngã bất tri hữu đại đạo。thứ trụ lư san khai tiên 。vãn cư kim lăng tịnh đức。tụ đồ thuyết pháp。hữu tha như thì。khai bảo bát niên quy tịch。
tán viết:
ấu nhập sư thất
tràng phá thạch môn
nhất ngôn chi hạ
tả hữu phùng nguyên
đại đạo tiểu kính
bộ bộ hồng trần
ngã bất tri hữu
sư tử tần thân
-----------
Sư họ Hà, người Phúc Châu. Từ nhỏ đã không ăn thịt cá, có ý nguyện xuất gia nên đến Cổ Sơn theo quốc sư Thần Yến xuống tóc, đắc pháp được thọ ký hành pháp tại Cổ Sơn. Niên hiệu Hiển Đức, đời Hậu Chu (951-960) sư theo lời mời của vua trụ trì chùa Quang Mục. Một hôm có một vị tăng hỏi: “ Thế nào là đại đạo?”. Sư nói; “Ta không có tiểu đạo”. Lại hỏi: “Thế nào là tiểu đạo?”. Đáp: “Ta không biết đại đạo”. Sau sư trụ tại chùa Khai Tiên ở Lư Sơn. Vãn niên lại trụ tại chùa Tịnh Đức ở Kim Lăng, đồ chúng quy tụ nghe pháp rất đông, tiếng tăm vang xa.
Bài tán:
Thiếu thời được nhập thất
Phá tan cánh cửa đá
Một câu vừa thốt ra
Vạn sự đều hanh thông.
Đường xa hay lối gần
Bước bước vương bụi trần
Tôi không hề biết có
Sư tử lại rên than.
-
師。清河張氏子。玄泉彥禪師法嗣。 問。如何是祖師西來意。玄泉拈起一 皁角曰。會麼。師曰。不會。泉放下 皁角作洗衣勢。師便禮拜曰。信知佛 無別。泉曰。你見甚麼道理。師曰。 甲曾問岩頭。頭曰。你還救糍麼。救 糍也祇是解粘。和尚提起皁角。亦是 粘。所以道無別。泉呵呵大笑。師遂 省。問。急切相投請師通信。師曰。 火燒裙帶香。問。風恬浪靜時如何。 曰。百尺竿頭五兩垂。
贊曰
佛法無別 呵呵握要 琉璃缽盂 脫底露竅
燒帶憐香 你急我笑 浪靜風恬 誰來下釣
-------------
sư。thanh hà trương thị tử。huyền tuyền ngạn thiền sư pháp tự。sư vấn。như hà thị tổ sư tây lai ý。huyền tuyền niêm khởi nhất hành tạo giác viết。hội ma。sư viết。bất hội。tuyền phóng hạ tạo giác tác tẩy y thế。sư tiện lễ bái viết。tín tri phật pháp vô biệt。tuyền viết。nhĩ kiến thậm ma đạo lí。sư viết。mỗ giáp tằng vấn nham đầu。đầu viết。nhĩ hoàn cứu ma。 cứu tư dã kì thị giải niêm。hòa thượng đề khởi tạo giác。diệc thị giải niêm。sở dĩ đạo vô biệt。 tuyền a a đại tiếu。sư toại hữu tỉnh。vấn。cấp thiết tương đầu thỉnh sư thông tín。sư viết。 hỏa thiêu quần đái hương。vấn。phong điềm lãng tĩnh thì như hà。sư viết。bách xích can đầu ngũ lưỡng thùy。
tán viết:
phật pháp vô biệt
a a ác yếu
lưu li bát vu
thoát để lộ khiếu
thiêu đái liên hương
nhĩ cấp ngã tiếu
lãng tĩnh phong điềm
thùy lai hạ điếu
-----------
Sư họ Trương, người Thanh Hà, thừa kế thiền sư Huyền Tuyền [Sơn] Ngạn làm thầy. Sư hỏi: ”Ý nghĩa của việc tổ sư từ Tây Trúc đến đây là gì?”. Sư Huyền Tuyền cầm một quả bồ kết (tạo giác: sừng đen) đưa lên, hỏi: “Hiểu không?”. Đáp: “Không hiểu”. Sư Huyền Tuyền bỏ xuống, nói: “Quả bồ kết dùng để giặt quần áo”. Sư cúi lạy, nói: “Tin biết Phật pháp không sai khác”. Sư Huyền Tuyền hỏi: “Ông thấy được gì?”. Đáp: “Con từng thưa hỏi sư Nham Đầu, sư Nham Đầu bảo: [Ông trở lại giải cứu chổ vướng mắc chăng?], giải cứu vướng mắc ấy cũng là tháo gỡ trói buộc. Hòa thượng vừa đưa ra quả bồ kết cũng là giải cứu chỗ trói buộc, thế mới biết đạo không có khác”. Sư Huyền Tuyền cười lớn, sư có chỗ tỉnh ngộ. Có người hỏi: “hai đầu cùng hợp, thỉnh sư giải rõ”. Sư đáp ”Đốt đai quần có thơm chăng?”. Hỏi: “Lúc gió yên sóng lặng là thế nào?”. Đáp: “Đầu sào trăm thước, dù thêm năm lạng cũng phải theo”.
Bài tán:
Phật pháp không gì khác
Ha ha, giữ yếu chỉ
Chén bát bằng lưu ly
Tháo mở thì vào được.
Đốt đai thương tiếc hương
Ông nóng nảy, ta cười
Sóng yên vì gió lặng
Ai người đến buông câu?.
-
師。住朗州梁山。不委族姓。嘗有上 曰。垂絲千尺。意在深潭。一句橫空 白雲自異。孤舟獨棹。不犯清波。海 上橫行。罕逢明鑒。僧問。師唱誰家 。宗風嗣阿誰。師曰。龍生龍子。鳳 鳳兒。
贊曰
描亦不成 畫亦不就 緩若雷霆 疾如川溜
倒卷洞簾 橫拈北斗 一曲無生 波斯演咒
-------------
sư。trụ lãng châu lương san。bất ủy tộc tính。thường hữu thượng đường viết。 thùy ti thiên xích。ý tại thâm đàm。nhất cú hoành không。bạch vân tự dị。cô chu độc trạo。bất phạm thanh ba。hải thượng hoành hành。hãn phùng minh giám。tăng vấn。sư xướng thùy gia khúc。tông phong tự a thùy。sư viết。long sanh long tử。phụng sanh phụng nhi。
tán viết:
miêu diệc bất thành
họa diệc bất tựu
hoãn nhược lôi đình
tật như xuyên lưu
đảo quyển đỗng liêm
hoành niêm bắc đẩu
nhất khúc vô sanh
ba tư diễn chú
-----------
Sư trụ ở Lương sơn, Lãng Châu, không rõ sư họ gì, thường đăng tòa, nói:
Tơ buông ngàn thước
Ý tại đầm sâu
Một câu vang trời
Mây trắng khác thường.
Thuyền đơn tự chèo
Chẳng khua sóng trong
Đi ngang qua biển
Hiếm gặp ấn chứng.
Một vị tăng hỏi: “Sư xiển dương nhà nào, thừa tự tông phong nào?”. Đáp: “Rồng sinh rồng con. Phượng sinh phượng con”.
Bài tán:
Có tả cũng không thành
Có vẽ cũng không xong
Thong thả như sấm chớp
Nhanh chóng như dòng sông.
Đổi sách hay xuyên mành
Tay cầm sao Bắc Đẩu
Một khúc hát vô sanh
Sóng nước diễn thần chú.
-
師。出世北塔。後住智門。僧問。如 是般若體。師曰。蚌含明月。曰。如 是般若用。師曰。兔子懷胎。上堂。 山僧記得在母胎中有一語。今日舉似 眾。諸人不得作道理商量。還有人商 得麼。若商量不得。三十年後切莫錯 舉。
贊曰
未出母胎 一場特地 既出母胎 見錐亡利
拈得眉毛 失卻巴鼻 三十年後 道者切記
-------------
sư。xuất thế bắc tháp。hậu trụ trí môn。tăng vấn。 như hà thị bàn nhược thể。 sư viết。bạng hàm minh nguyệt。 viết。như hà thị bàn nhược dụng。sư viết。thố tử hoài thai。thượng đường。san tăng kí đắc tại mẫu thai trung hữu nhất ngữ。kim nhật cử tự đại chúng。chư nhân bất đắc tác đạo lí thương lượng。hoàn hữu nhân thương lượng đắc ma。nhược thương lượng bất đắc。 tam thập niên hậu thiết mạc thác cử。
tán viết:
vị xuất mẫu thai
nhất tràng đặc địa
kí xuất mẫu thai
kiến chùy vong lợi
niêm đắc mi mao
thất khước ba tị
tam thập niên hậu
đạo giả thiết kí
-----------
Sư trước trụ tại Bắc Tháp, sau về Trí Môn. Một vị tăng hỏi: “Thể của bát nhã là gì?”. Đáp: “như con trai ngậm vầng trăng sáng.” Lại hỏi: “Gì là dụng của bát nhã?”. Đáp: “Như thỏ mang thai”. Một vị tang ghi lại khi sư thăng đường, nói: “Một câu trong thai mẹ, ngày nay cũng nêu ra như thế. Các ngươi không thể thương lượng đạo lý. Lại có người nào thương lượng được chăng?. Nếu chẳng được thì 30 năm sau cũng đừng đưa ra.
Bài tán:
Chưa ra thai mẹ
Vùng đất hứa hẹn
Đã ra thai mẹ
Thấy chùy chẳng bén.
Giữ được lông mày
Lỡ mất chóp mũi
Ba mươi năm sau
Đạo còn ghi khắc.
-
師。餘航魯氏子。參地藏。一日辭去 藏問。上座說三界唯心。萬法唯識。 指庭前片石曰。且道此石。在心內。 在心外。師曰。心內。藏曰。行腳人 甚來由。安片石在心頭。師無語。即 包依止。求決擇。近月餘。呈見解說 道理。藏曰。佛法不恁麼。師曰。某 解窮理絕也。藏曰。若論佛法一切現 。師大悟。後於金陵。三坐道場。周 顯德五年七月。國主親加禮問。剃髮 身告眾訖。跏趺而逝。諡大法眼禪師 塔曰無相。
贊曰
一語服膺 半月毒發 似地普擎 如天普洽
監立宗風 機權生殺 天下清涼 六韜三略
-------------
sư。dư hàng lỗ thị tử。tham địa tàng。nhất nhật từ khứ。tăng vấn。 thượng tọa thuyết tam giới duy tâm。vạn pháp duy thức。nãi chỉ đình tiền phiến thạch viết。 thả đạo thử thạch。tại tâm nội。 tại tâm ngoại。sư viết 。 tâm nội。 tàng viết。hành cước nhân trứ thậm lai do。an phiến thạch tại tâm đầu。sư vô ngữ。tức phóng bao y chỉ。cầu quyết trạch。 cận nguyệt dư。trình kiến giải thuyết đạo lí。tàng viết。 phật pháp bất nhẫm ma。sư viết。mỗ giáp giải cùng lí tuyệt dã。 tàng viết。nhược luận phật pháp nhất thiết hiện thành。sư đại ngộ。hậu ư kim lăng。tam tọa đạo tràng。chu hiển đức ngũ niên thất nguyệt。quốc chủ than gia lễ vấn。thế phát mộc thân cáo chúng cật。già phu nhi thệ。thụy đại pháp nhãn thiện sư。tháp viết vô tướng。
tán viết:
nhất ngữ phục ưng
bán nguyệt độc phát
tự địa phổ kình
như thiên phổ hiệp
giam lập tông phong
ki quyền sanh sát
thiên hạ thanh lương
lục thao tam lược.
-----------
Sư họ Lỗ, người đất Dư Hàng, tham kiến sư Địa Tạng Quế Lâm. Một hôm sư từ tạ ra đi, sư Quế Lâm hỏi: “Thượng tọa nói ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức.”Rồi chỉ một phiến đá trước sân nói: “Nếu phiến đá kia là đạo thì ở trong tâm hay ở ngoài tâm?” Đáp: “Trong tâm”. Sư Quế Sâm hỏi: “Người hành cước dựa vào điều gì, vì sao lại đặt phiến đá trong tâm?”. Sư không đáp được, tức thì buông bọc hành lý xuống, chưa bi ết phải làm sao. Khoảng một tháng sau, sư trình kiến giải. Sư Quế Sâm nói: “Phật pháp không phải như thế”. Sư đáp: “Tôi đã tận cùng nghĩa lý”. Sư Quế Sâm nói: “Nếu luận về Phật pháp thì tất cả đều hiện thành”. Sư nhân đó đại ngộ. Sau trụ tại Kim Lăng, ba lần tọa đạo tràng. Vào tháng 7 năm Hiển Đức thứ năm, vua đích thân đến vấn an. Sư cạo tóc, tắm gội từ biệt chúng rồi kiết già thị tịch. Thụy hiệu là Đại Pháp Nhãn Thiền Sư, tháp hiệu là Vô Tướng.
Bài tán:
Một lời khuất phục
Nửa tháng độc phát
Như đất trồi lên
Như trời hợp lại.
Dựng lập tông phong
Cơ quyền sinh sát
Thiên hạ thanh lương
Lục thao tam lược.
-
師。生江夏張氏。十九為大僧。參梁 。問如何是無相道場。山指觀音曰。 是吳處士畫。師擬對。山急索曰。者 是有相底。那箇是無相底。師有省。 禮拜。山曰。何不道取一句。師曰。 即不辭。恐上紙筆。山笑曰。此語上 碑去在。師神觀奇偉。童稚即日一食 住太陽。足不越限。脇不至席五十年 宋仁宗天聖五年丁卯七月十九。以偈 寄王曙侍郎。其略曰。吾年八十五。 因至如此。問我歸何處。頂相終難覩 停筆而化。墖於本山。
贊曰
無相道場 何處不見 不撥而轉 頓超方便
恐上紙筆 碑語通徧 夜半當天 太陽獨現
-------------
sư。 sanh giang hạ trương thị。thập cửu vi đại tăng。tham lương san。 vấn như hà thị vô tướng đạo tràng。san chỉ quan âm viết。giả thị ngô xử sĩ họa。sư nghĩ đối。san cấp tác viết。 giả thị hữu tướng để。na cá thị vô tướng để。sư hữu tỉnh。tiện lễ bái。san viết。hà bất đạo thủ nhất cú。 sư viết。đạo tức bất từ。khủng thượng chỉ bút。san tiếu viết。thử ngữ thượng bi khứ tại。sư thần quán kì vĩ。đồng trĩ tức nhật nhất thực。trụ thái dương。 túc bất việt hạn。hiếp bất chí tịch ngũ thập niên。tống nhân tông thiên thánh ngũ niên đinh mão thất nguyệt thập cửu。dĩ kệ kí vương thự thị lang。kì lược viết。ngô niên bát thập ngũ。tu nhân chí như thử。 vấn ngã quy hà xứ。đính tương chung nan đổ。đình bút nhi hóa。tháp ư bổn san。
tán viết:
vô tướng đạo tràng
hà xứ bất kiến
bất bát nhi chuyển
đốn siêu phương tiện
khủng thượng chỉ bút
bi ngữ thông biến
dạ bán đương thiên
thái dương độc hiện
-----------
Sư họ Trương, người đất Giang Hạ, Hồ Bắc. Xuất gia làm đại Tăng năm 19 tuổi. Tham yết thiền sư Lương Sơn, hỏi: “Thế nào là đạo tràng vô tướng?”. Thiền sư chỉ vào bức họa Bồ tát Quán Thế Âm, nói: “Đó là do Ngô Xử Sĩ vẽ.” Sư định đáp lời thì thiền sư ngăn lại, nói: “Đó là hữu tướng ư, đó là vô tướng ư?”. Sư nghe liền tỉnh ngộ, đảnh lễ. Thiền sư bảo: “Sao không nói một câu xem sao?”Sư đáp: ”Nói tức không lời, sợ lên giấy bút”. Thiền sư cười nói: “Lời này từ bia chăng?” . Sư quán sát thần sắc của thiền sư thật hung tráng mặc dù tự thuở bé thơ chỉ ăn ngày một buổi”. Sư trụ tại Thái Dương, chân không đi quá xa, suốt 50 năm hông không chạm chiếu. Vào ngày 19 tháng 7 năm Thiên Thánh thứ năm đời vua Tống Nhân Tông (1027), sư gởi bài kệ cho quan thị lang Vương Lược:
Tôi nay tám mươi lăm
Nhân tu đến thế ấy
Nếu hỏi sẽ về đâu ?
Tướng đảnh trọn khó thấy”.
Sư dừng bút và hóa, tháp dựng tại núi xưa.
Bài tán:
Đạo tràng vô tướng
Nơi nào chẳng thấy
Chẳng xoay mà chuyển
Liền vượt phương tiện.
Sợ lên giấy bút
Khắc văn trên bia
Vào giữa đêm nay
Riêng mặt trời hiện.
-
師。遂寧府李氏子。初經講席。究理 玄。詰問鋒馳。機辯無敵。參智門。 曰。不起一念。云何有過。門召師近 前。師纔近前。門以拂子驀口打。師 開口。門又打。師豁然開悟。初住翠 。後住雪竇。僧問。如何是諸佛本源 。師曰。千峰寒色。曰。未審向上更 事也無。師曰。雨滴巖花。七月七日 盥沐攝衣。北首而逝。塔全身於寺之 西塢。賜號明覺大師。
贊曰
不起一念 滿目埃塵 驀然便摵 寒谷生春
當陽迸出 沒量大人 洞庭秋月 孤朗如銀
-------------
sư。toại ninh phủ lí thị tử。sơ kinh giảng tịch。cứu lí cùng huyền。cật vấn phong trì。cơ biện vô địch tham trí môn。 vấn viết。 bất khởi nhất niệm。 vân hà hữu quá。 môn triệu sư cận tiền。 sư tài cận tiền。 môn dĩ phất tử mạch khẩu đả。sư nghĩ khai khẩu môn hựu đả。 sư hoát nhiên khai ngộ。sơ trụ thúy phong。hậu trụ tuyết đậu。tăng vấn。như hà thị chư phật bổn nguyên。sư viết。thiên phong hàn sắc。viết。vị thẩm hướng thượng canh hữu sự dã vô。sư viết。 vũ tích nham hoa。 thất nguyệt thất nhật。 quán mộc nhiếp y。 bắc thủ nhi thệ。tháp toàn thân ư tự chi tây ổ。tứ hào minh giác đại sư。
tán viết:
bất khởi nhất niệm
mãn mục ai trần
mạch nhiên tiện thiết
hàn cốc sanh xuân
đương dương bính xuất
một lượng đại nhân
động đình thu nguyệt
cô lãng như ngân
-----------
Sư họ Lý, người đất Toại Ninh. Thuở còn trẻ thâm hiểu kinh, biện luận sắc bén ít người sánh kịp. Sư tham yết sư Trí Môn, hỏi: “Không khởi một niệm thì có lỗi gì?”. Sư Trí Môn gọi sư lại gần. Sư vừa bước đến thì sư Trí Môn dùng phất trần đánh vào miệng sư. Sư định mở miệng thì lại bị đánh nữa. Sư hốt nhiên khai ngộ.
Sư trụ tại Thúy Phong, sau lại về trụ tại Tuyết Đậu. Một vị tăng hỏi: “Bản nguyên của chư Phật là gì?”. Đáp: “Ngàn ngọn núi lạnh”. Hỏi: “Chưa rõ được chỗ hướng thượng, có sự [pháp môn] gì hay chăng?”. Đáp: “Giọt mưa đọng trên hoa ngoài hang núi”. Ngày 7 tháng 7 sư tắm gội, thay áo, ngồi quay đầu về hướng Bắc, an nhiên mà hóa. Tháp táng toàn thân, dựng nơi phía Tây chùa. Thụy hiệu là Minh Giác Đại Sư.
Bài tán:
Một niệm chẳng khởi
Con mắt trần mê
Hốt nhiên bị đánh
Hang lạnh xuân về.
Mặt trời xuất hiện
Khôn lường đại nhân
Trăng thu Động Đình
Sáng như dòng bạc.
-
師。處州龍泉陳氏子。參五十四員善 識。後到金陵謁法眼。眼一見。器之 眼上堂。僧問。如何是曹源一滴水。 眼曰。是曹源一滴水。僧惘然。師於 下大悟。平生凝滯。渙若冰釋。遂以 悟白眼。眼曰。汝向後當為國王師。 祖道光大。我不如也。尋回天台。覩 者大師遺蹤。有若舊居。居之。師有 曰。 通玄峰頂。不是人間。心外無法。滿 青山。眼聞曰。即此一偈。可起吾宗 開寶五年壬申。集眾言別。跏趺而逝 。塔於本山。
贊曰
為王者師 受清涼記 一滴曹源 瀰漫大地
華頂峰前 慧日高麗 接得永明 宗鏡真現
-------------
sư。 xử châu long tuyền trần thị tử。 tham ngũ thập tứ viên thiện tri thức。 hậu đáo kim lăng yết pháp nhãn。 nhãn nhất kiến。 khí chi。 nhãn thượng đường。 tăng vấn。 như hà thị tào nguyên nhất tích thủy。 nhãn viết。 thị tào nguyên nhất tích thủy。 tăng võng nhiên。sư ư tọa hạ đại ngộ。 bình sanh ngưng trệ。 hoán nhược băng thích。 toại dĩ sở ngộ bạch nhãn。 nhãn viết。 nhữ hướng hậu đương vi quốc vương sư。 tổ đạo quang đại 。 ngã bất như dã。 tầm hồi thiên thai。 đổ trí giả đại sư di tung。 hữu nhược cựu cư。cư chi。 sư hữu kệ viết。thông huyền phong đính。 bất thị nhân gian。 tâm ngoại vô pháp。 mãn mục thanh san。 nhãn văn viết。tức thử nhất kệ。 khả khởi ngô tông。 khai bảo ngũ niên nhâm thân 。 tập chúng ngôn biệt。 già phu nhi thệ。 tháp ư bổn san。
tán viết:
vi vương giả sư
thụ thanh lương kí
nhất tích tào nguyên
di mạn đại địa
hoa đính phong tiền
tuệ nhật cao lệ
tiếp đắc vĩnh minh
tông kính chân hiện
-----------
Sư họ Trần, người đất Long Tuyền, Xử Châu, từng tham vấn 54 vị thiện tri thức, sau đến Kim Lăng yết kiến thiền sư Pháp Nhãn. Sư Pháp Nhãn vừa nhìn thấy biết là bậc pháp khí. Khi sư Pháp Nhãn thượng đường, một vị tăng hỏi: “Thế nào là giọt nước nguồn Tào?”. Sư Pháp Nhãn đáp: “Là giọt nước nguồn Tào”. Vị tăng ra vẻ không hiểu, nhưng sư ở dưới tòa nghe được liền đại ngộ, tất cả những nghi hoặc trước kia đều như băng tan. Sư liền đem chỗ ngộ thưa với sư Pháp Nhãn. Sư Pháp Nhãn nói: “Ông về sau sẽ là thầy của hàng quốc vương, làm rạng rỡ đạo của chư Tổ. Ta thật không sánh kịp”. Sư về núi Thiên Thai, tìm những di tích của Trí Giả Đại Sư (538-597), ở lại chỗ đại sư cư trú ngày xưa. Tại đây, sư đề bài kệ:
Trên đỉnh rõ diệu huyền
Chẳng tại nơi nhân sinh
Ngoài tâm không một pháp
Mắt nhìn khắp núi xanh.
Sư Pháp Nhãn đọc bài kệ này, nói: “Như bài kệ này thì có thể dựng được tông phong của ta.” Năm Khai Bảo thứ 5, sư tập họp đồ chúng, tạm biệt rồi an tọa thị tịch. Tháp dựng tại núi xưa.
Bài tán:
Làm thầy quốc vương
Thọ ký Thanh Lương
Một giọt Tào Khê
Tràn đầy đại địa.
Đồi hoa phía trước
Cao Ly tuệ nhật
Tiếp cận Vĩnh Minh
Gương tông hiện thực.