-
Kinh:
“Nếu có các Rồng muốn ra khỏi bậc Rồng, tôi hiện thân Rồng, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
Loài Long Thần rất biết kính trọng Tam Bảo, nên kho tàng dưới biển ở Long cung chứa đầy Phật Pháp. Họ nghe Pháp mà được Giải Thoát cũng dễ dàng. Như trong kinh Pháp Hoa, Đức Bồ Tát Văn Thù dạy Cô Long Nữ.
Khi ấy, Ông Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng: “Cô nói là chóng đắc Đạo Vô Thượng, việc ấy khó tin. Vì sao như thế? Thân nữ dơ bẩn, chẳng phải là Pháp Khí, làm sao có thể đắc Bồ Đề Vô Thượng? Đạo Phật tót vời mênh mông, qua vô lượng kiếp cần khổ bồi hạnh, tu đủ các ba la mật, rồi sau mới thành. Lại thân người nữ còn năm chướng ngại. Một là chẳng được làm Phạm Thiên Vương; hai là Đế Thích; ba là Ma Vương; bốn là Chuyển Luân Thánh Vương; năm là thân Phật. Làm sao thân nữ chóng đắc thành Phật?”
Lúc ấy, Long Nữ có một ngọc báu giá trị ba ngàn đại thiên thế giới, cầm dâng lên Phật. Phật liền nhận ngọc.
Long Nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng: “Tôi dâng ngọc báu, Thế Tôn thu nhận, việc ấy nhanh chăng?”
Đáp rằng: “Rất nhanh”.
Long Nữ nói: “Dùng thần lực, Ngài xem tôi thành Phật còn nhanh hơn thế”.
Chúng hội đương thời đều thấy Long Nữ trong khoảng khắc hốt nhiên biến thành ra trai, đủ hạnh Bồ Tát, liền qua thế giới Vô Cấu Nam Phương ngồi tòa sen báu, thành Đẳng Chánh Giác, ba mươi hai tướng, tám chục thứ tốt, khắp vì mười phương tất cả chúng sanh diễn thuyết diệu pháp.
Khi ấy, nơi thế giới Ta Bà, Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, Rồng, tám bộ, người cùng Quỷ Thần đều xa thấy Long Nữ ấy thành Phật.
Đó là chỗ thuyết pháp thành tựu của Đức Văn Thù.
Biết đâu chỗ thành tựu của Đức Quan Âm chẳng lại như thế ư?
-
Kinh:
“Nếu có Dược Xoa muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Dược Xoa, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
Dược Xoa gọi là nhanh nhẹ, cũng gọi là dò xét, tức là để giữ thành trì cửa Trời vậy.
Thầy Thích Thanh Hư tụng Kim Cang Bát Nhã, ba nghiệp đều chuyên nhất, thường trì tụng nơi núi rừng, có điềm lành bảy con nai thuần lành thuận theo. Khi thầy nhập hạ tại Thiếu Lâm, trên đỉnh núi có một cái thất thờ Phật, không ai dám đến, cho là nhà của Quỷ Thần.
Từng có một thầy Luật Sư ỷ vào Giới Hạnh, đêm nọ đến tụng Luật thì thấy một người cao lớn cầm giáo đâm mình, lê lết khốn khổ xuống núi, đi không nổi, mất hết khí lực.
Lại còn có nhà sư trì chú Hỏa Đầu Kim Cang, ai cũng tôn trọng. Đại chúng nói với thầy rằng: “Chú lực của thầy vô song, có thể ở nơi đó được chăng ?”
Đáp rằng: “Đây há sợ ư?”
Liền cầm hương đèn và ngồi trì chú. Chốc lát, vị thần xuất hiện, lấy tay nắm cẳng lôi đi, ném xuống khe nước. Suốt bảy ngày chẳng nói được, tinh thần hôn mê đảo lộn.
Thầy Thanh Hư nghe được, nói rằng: “Hạ thú, quỷ vật dám thế ư?”
Liền sang đó tụng kinh như thường. Đêm nghe trên không dường như có tiếng rất hung ác, liền niệm chú Quan Âm Thập Nhất Diện. Lại nghe trong điện như có tiếng hai con trâu đánh nhau, tượng Phật đều rung rinh. Chú cũng đã mất hiệu nghiệm. Trở lại trì tụng kinh Kim Cang, tương tự như một cái gút vững chắc, thì ảnh hưởng đều dứt.
Từ đó, người ở không còn lo sợ. Há cũng là nghe tứ cú kệ mà chóng được Giải Thoát đó ư?
Có nhà sư hỏi Tổ Đạo Ngô Chơn: “Thế nào là thể Chân Như?”
Đáp: “Dạ Xoa quỳ gối, con ngươi đen thui”.
Hỏi: “Thế nào là dụng Chân Như?”
Đáp: “Gậy Kim Cang đập bể núi Thiết Vi”.
Tức đây là chỗ dẫn ra “Thần Kim Cang, quỷ Dạ Xoa”, cũng đủ phát minh việc hướng thượng. Há đâu chẳng phải Chân Như sao?
-
Kinh:
“Nếu có Càn Thát Bà muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Càn Thát Bà, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
Càn Thát Bà gọi là Tầm Hương, là Thần Nhạc của Đế Thích.
Nhân dịp Vua Càn Thát Bà hiến nhạc cho Đức Thế Tôn, khi ấy núi sông đất đai, hết thảy đều khởi tiếng đàn.
Ngài Ca Diếp đứng lên nhảy múa.
Vua hỏi: “Ca Diếp há chẳng phải là A La Hán, các lậu đã hết, sao còn sót tập khí cũ?”
Phật rằng: “Thật không còn tập khí cũ, chớ phỉ báng pháp”.
Vua lại gảy đàn ba phen thì Ngài Ca Diếp cũng ba phen nhảy múa.
Vua nói: “Không phải Ca Diếp nhảy múa sao?”
Phật rằng: “Thật chẳng từng nhảy múa”.
Vua nói: “Thế Tôn sao có vọng ngữ?”
Phật rằng: “Chẳng có vọng ngữ. Ông đánh đàn, núi sông đất đai gỗ đá hết thảy đều nổi tiếng đàn, chẳng phải sao?”
Vua nói: “Thật vậy”.
Phật rằng: “Ông Ca Diếp cũng lại như thế. Vì thế thật chẳng từng nhảy múa”.
Vua bèn tin nhận.
Cổ đức tụng rằng:
“Nhè nhẹ gảy lên một tiếng đàn
Vang tiếng Tam Thiên với Đại Thiên
May có Ẩm Quang hay ý ấy
Mới dùng tay (áo) lụa rước khói xuân”.
Tổ Huyền Sa hỏi nhà sư: “Thành Càn Thát Bà, ông hiểu thế nào ?”
Đáp: “Như mộng như huyễn”.
Tổ Pháp Nhãn riêng gõ vật chỉ bày đó.
Hai tắc công án này thịnh hành. Thật là Thần Càn Thát Bà còn ở đây nói pháp.
-
Kinh:
“Nếu có A Tu La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân A Tu La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
A Tu La gọi là Phi Thiên [Chẳng Phải Trời], lại gọi là Vô Tửu [Không Rượu], vì sân mà chẳng do uống rượu. Lại gọi là Không Đoan Chánh, vì nữ đẹp mà nam xấu vậy.
Tổ Lâm Tế nói: “Ông nói Phật có sáu thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả Chư Thiên, Thần Tiên, A Tu La, Đại Lực Quỷ cũng có thần thông, có phải là Phật chăng? Kẻ học đạo chớ lầm! Như A Tu La cùng Trời Đế Thích đánh nhau, thua trận, dẫn tám vạn bốn ngàn quyến thuộc chun trốn trong lỗ cọng sen, không là Thánh ư?
“Như chỗ nêu ra của sơn tăng, đó đều là Nghiệp Thông, Y Thông [Nghiệp thông, y thông: thần thông từ nghiệp, thần thông có nương dựa]. Phàm như Lục Thông của Phật, thì vào Sắc Giới chẳng bị Sắc lầm gạt; vào Thanh Giới chẳng bị Tiếng lầm gạt; vào Hương Giới chẳng bị Hương lầm gạt; vào Pháp Giới chẳng bị Pháp lầm gạt. Vì lẽ thông đạt sáu thứ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều là Không Tướng, làm sao trói buộc. Đạo nhơn Không-chỗ-nương này tuy là xác phàm năm Ấm, chính là bậc Địa Hành Thần Thông”.
Khiến cho A Tu La nghe được pháp này mà đem hồi hướng lục thông, chẳng có tự ỷ vào cái Thần Thông Nương Dựa vậy. Thì sao có sự không thể Giải Thoát ư?
-
Kinh:
Thêm vào rằng: “Nếu có Ca Lâu Na muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Ca Lâu Na, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
Theo bản dịch kinh Pháp Hoa, Bích Chi Phật tuy gồm hai ý Độc Giác, Duyên Giác mà thật chỉ là một Bích Chi vậy. Kinh này đối với Độc Giác, Duyên Giác chia làm hai, mới thiếu một loài Ca Lâu Na, đối với phẩm Phổ Môn chẳng phù hợp, nay bổ khuyết thêm. Ca Lâu Na gọi là Kim Xí Điểu, cánh màu vàng, dương ra dài ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, xem rồng biển nào mạng sắp hết thì dùng cánh quạt tách nước biển, bắt lấy mà ăn.
Thuở Ông Xá Lợi Phất sáng lập vườn Cấp Cô Độc, cùng với Lao Độ Sai tranh thắng. Thầy Sai hóa rồng dữ muốn hại Ông Phất. Ông Phất hóa ra chim Diệu Xí chụp xé mà ăn.
Về sau có nhà sư hỏi Tổ Hưng Dương Phẩu rằng: “Ta Kiệt [Vua Rồng] xuất biển, Càn Khôn sạch. Đối mặt trình nhau sự thế nào?”
Tổ Phẩu nói: “Diệu Xí Điểu Vương trùm vũ trụ. Trong kia ai kẻ ló đầu ra?”
Nhà sư hỏi: “Bỗng gặp lúc ló đầu, lại làm thế nào?”
Tổ Phẩu nói: “Như (chim) cắt, bắt (chim) cưu, ông chẳng rõ. Trước lầu ngự nghiệm mới hay Chân”.
Nhà sư nói: “Như thế ắt khoanh tay ngay ngực, lui thân ba bước!”
Tổ Phẩu nói: “Dưới núi Tu Di con rùa đen ngu ngốc
“Chẳng đợi dạy lại chuyện “Điểm dấu trên trán””.
Tổ Thiên Đồng tụng rằng:
“Chiếu chỉ xuống, hiệu lịnh phân
Trong cõi: Thiên Tử; ngoài ải: Tướng Quân
Chẳng chờ sấm chớp nở sâu
Ai hay gió tạt mây đi
Cơ quan ấy liên miên, hề, tự có kim vàng chỉ ngọc
Trước mặt ấn rộng không, hề, nguyên không dấu điểu vết trùng”.
Đây là dùng Kim Xí Điểu phát minh việc hướng thượng, thì không đối thủ, nên Kim Xí Điểu hẳn là Thuyết Pháp Đệ Nhất.
-
Kinh: “
Nếu có Khẩn Na La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Khẩn Na La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng :
Khẩn Na La gọi là Nghi Nhân, vì thân người mà có sừng, thấy đó đâm nghi. Đây là Thần Pháp Nhạc của Thiên Đế. Càn Thát Bà tấu nhạc thế gian. Khẩn Na La thì tấu nhạc xuất thế gian. Tấu pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, sáu Ba La Mật thì nhạc phàm tục không thể sánh.
Hiện đời này, thần Già Lam chùa Thiếu Lâm từng hiện thần lực, hai chân nhảy vượt hai hòn núi Thái Thất và Thiếu Thất, cầm gậy đuổi giặc. Giặc sợ, vỡ tan chẳng dám vào chùa. Sư trong chùa vì lẽ ấy nên phần nhiều học quyền bổng. Mỗi khi điều động dẹp giặc, chỉ tụng danh hiệu Khẩn Na La Vương Bồ Tát, do đó không khiếp sợ, thường thường thắng địch. Hoặc nói rằng “Tức là Quan Âm Bồ Tát hóa thân vậy”.
Thầy Phong Huyệt làm người coi vườn ở Tổ Nam Viện. Một hôm, Tổ Nam Viện đến vườn, hỏi rằng : “Một gậy phương Nam làm sao thương lượng?”
Thầy Huyệt rằng: “Thương lượng kỳ đặc!”
Chập lâu, thầy Huyệt lại hỏi: “Nơi đây Hòa Thượng làm sao thương lượng?”
Tổ Nam Viện dơ gậy lên, nói:
“Dưới gậy: Vô Sanh Nhẫn
Đang cơ: chẳng thấy Thầy”.
Thầy Huyệt ngay ấy hoát nhiên đại ngộ.
Pháp bổng của Tổ Lâm Tế ít có truyền lại, mà pháp bổng của Khẩn Na La cho đến nay thương lượng cũng chưa rồi. Có khác ư? Không khác ư?
-
Kinh:
“Nếu có Ma Hô La Già muốn thoát loài mình, tôi ở trước họ, hiện thân Ma Hô La Già, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
Ma Hô La Già gọi là Đại Mãng [Trăn lớn], bò đi bằng bụng, cũng gọi là Rồng Đất gìn giữ Già Lam vậy.
Tổ Thứ Mười Ba là Tôn Giả Ca Tỳ Ma La, đi trong núi chừng vài dặm đường, gặp một con trăn lớn. Tổ đi thẳng chẳng để ý đến, trăn mới quấn quanh thân Tổ. Tổ nhân đó truyền cho pháp Tam Quy Y. Trăn nghe xong mà lui đi.
Tổ đến hang đá, một ông già mặc áo trắng bước ra, chắp tay chào hỏi.
Tổ hỏi: “Ông ở chốn nào?”
Đáp rằng: “Xưa tôi từng làm Tỳ Khưu, rất thích sự lặng yên. Có nhiều kẻ mới tu đến học đạo, tôi bực chuyện ứng đáp, khởi tưởng sân hận. Mạng hết, đọa làm thân trăn, ở trong hang này đã ngàn năm nay. Vừa rồi gặp được Tôn Giả, được nghe Giới Pháp, nên cảm tạ vậy”.
Tổ hỏi rằng: “Núi này còn có ai ở không?”
Đáp: “Cách đây mười dặm, có cây lớn che năm trăm con rồng lớn, Thọ Vương ấy tên Long Thọ, thường vì chúng rồng nói pháp. Tôi cũng được nghe”.
Tổ bèn đến đó.
Long Thọ bước ra đón, nói: “Núi sâu cô tịch, rồng rắn ở đầy, Đại Đức Chí Tôn, việc gì phải đến đây?”
Tổ nói: “Tôi chẳng phải bậc Chí Tôn, đến thăm hiền giả đó”.
Long Thọ nghĩ thầm rằng: “Thầy này đắc đạo nhãn quyết định tánh minh chăng? Là Đại Thánh kế tục Chân Thừa chăng?”
Tổ nói: “Tuy ông nói trong lòng, tôi đã biết ý. Chỉ việc xuất gia, lo gì tôi chẳng Thánh?”
Ông Long Thọ nghe xong, ăn năn tạ lỗi. Tổ liền độ thoát cho. Đến năm trăm chúng Rồng, đều thọ Giới Cụ Túc.
Bài kệ truyền pháp rằng :
Pháp chẳng ẩn chẳng hiển
Nói đấy Chân Thật Tế
Ngộ pháp ẩn hiển này
Chẳng ngu cũng chẳng trí.
Chỉ cái chẳng ngu chẳng trí này thì rồng rắn cũng đều có thể độ thoát vậy.
-
Kinh:
“Nếu có chúng sanh thích loài người, tu làm người, tôi hiện thân người, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
Ở trước, nào là vua chúa, tể quan, trưởng giả, cư sĩ, trọn bốn chúng, chẳng phải là người ư? Sao còn có kẻ muốn tu làm loài người? Ấy là chỉ hạng sĩ, nông, công, thương, là nói những người không để ý đến Tam Thừa. Họ vẫn sẵn đủ Phật Tánh, suốt ngày từng thuyết pháp mà chẳng tự hay biết vậy.
Thiền sư Bàn Sơn Tích nhân đi dạo chơi phố chợ, thấy một người khách mua thịt heo nói với người hàng thịt rằng: “Thứ ngon, cắt cho một cân”.
Người hàng thịt ném dao xuống, khoanh tay nói: “Thưa Ngài, có cái nào chẳng phải thứ ngon đâu?”
Sư nơi đây có chỗ tỉnh ngộ.
Lại ngày nọ ra cửa, thấy người ta xúm khiêng đám táng, phường ca đánh chuông ca rằng : “Vầng hồng quyết định về Tây lặn. Chưa rõ hồn linh đến chốn nao?” Dưới trướng, đám con hiếu khóc lên ai oán.
Sư bỗng nhiên thân tâm bay bổng, về nói lại với Đức Mã Tổ. Tổ ấn khả cho.
Hòa Thượng Bửu Thọ ban đầu ở Tổ Bửu Thọ làm chủ cúng dường.
Tổ Thọ hỏi: “Trước khi cha mẹ sanh ra, đưa đây cái bổn lai diện mục ta xem!”
Sư đứng đến khuya, đáp lời chẳng khế hợp, sáng ngày từ giã ra đi.
Tổ Thọ hỏi: “Ông đi đâu?”
Sư đáp: “Hôm qua, nhờ Hòa Thượng hỏi, con chẳng hiểu được, nên sang phương Nam tham học thiện tri thức”.
Tổ Thọ nói: “Phương Nam cấm Hạ chẳng cấm Đông, ta ở đây cấm Đông chẳng cấm Hạ. Ông hãy kiết hạ ngay chốn phố phường. Thật là Phật Pháp thì trong chỗ đô hội, bụi trần dầy đẫy thường thuyết chánh pháp!”
Sư chẳng dám bỏ đi.
Một hôm, giữa ngã tư thấy hai người đang cãi nhau. Một người hoa nắm tay, nói: “Mày thật là đồ không mặt mũi!”
Sư ngay đó đại ngộ. Chạy về ra mắt Tổ Bửu Thọ, chưa kịp mở lời, Tổ đã nói : “Ông hiểu rồi, khỏi cần nói!”
Sư bèn lễ bái.
Hai tắc này, chỉ hiện thân người, bèn hay thuyết pháp, há phải Đại Sĩ hiện ra rồi sau mới có thành tựu ư?
-
Kinh:
“Nếu có các Phi Nhơn, Vô Hình hoặc Hữu Hình, Hữu Tưởng hoặc Vô Tưởng, muốn thoát loài mình, tôi ở trước kẻ ấy, đều hiện thân họ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.
Thông rằng:
Trời, Rồng nói là Xuất (Ra). Trời hay chán sự vui, Rồng hay sợ khổ, vì tự có con đường xuất thân, rất dễ độ vậy. Loài Càn Thát Bà, nói là Thoát (Khỏi), vì nghiệp báo ràng buộc, rất khó giải thoát. Phi Nhơn, Dược Xoa nói là Độ (Qua) vì đã chìm trong sự khổ sở tối tăm, như đắm trong biển lớn, ắt cần bè cứu vớt, đều gọi là độ thoát, nhưng trong ấy khó dễ chẳng đồng như thế. Loài vô hình, vô tưởng là loài thần quỷ, tinh linh vậy. Loài hữu hình vô tưởng là đất, cây, kim, đá vậy.
Kinh Du Già Diệm Khẩu, Tiêu Diện Quỷ Vương tức là Đức Quan Âm Đại Sĩ hóa hiện ra vậy.
Ở Trung Nhạc, có Hòa Thượng Phá Táo Đọa lời lẽ việc làm không thể lường được. Trũng núi có cái miễu rất linh, trong điện chỉ để một cái bếp, xa gần cúng kiến chẳng ngớt.
Sư một ngày kia dẫn thầy đạo hầu đi vào miếu, lấy gậy gõ bếp ba cái, nói: “Ối chà! Cái này chỉ là đất sét nhồi thành, Thánh từ đâu đến, linh từ đâu ra mà nấu nướng sinh mệnh thế!”
Lại đánh ba cái. Bếp bèn bể ra rớt xuống.
Chốc lát, có một người áo xanh mũ cao hiện ra, làm lễ trước mặt sư.
Sư nói: “Người nào đây?”
Đáp: “Tôi vốn là thần bếp miễu này, đã lâu chịu nghiệp báo. Ngày nay nhờ thầy nói pháp Vô Sanh, được thoát khỏi chốn này, sanh ở cõi trời, riêng đến tạ ơn”.
Sư nói: “Đó là cái Tánh vốn có của ông, chẳng phải ta gượng nói”.
Vị thần lại làm lễ rồi biến mất.
Chút sau, thầy đạo hầu hỏi rằng: “Chúng con hầu Hòa Thượng đã lâu, mà chẳng được bày dạy, thần bếp được yếu chỉ vắn tắt nào mà liền được sanh cõi trời?”
Sư đáp: “Ta chỉ hướng về người ấy nói “Đó là đất sét hòa thành”. Không có đạo lý gì riêng cho ông ta”.
Thầy đạo hầu không có lời nào để nói.
Sư hỏi: “Hiểu chăng?”
Đạo hầu nói: “Chẳng hiểu”.
Sư nói: “Cái Tánh sẵn có, vì sao chẳng hiểu?”
Thầy đạo hầu liền bèn lễ bái.
Sư nói: “Rớt rồi! Rớt rồi! Bể rồi! Bể rồi!”
Về sau, thiền sư Nghĩa Phong kể lại với An Quốc Sư. Tổ An than rằng: “Vị ấy hiểu trọn vật-ngã nhất như, khá nói như trăng sáng giữa không, không đâu chẳng thấy. Thật khó có ra cái ngữ mạch của người ấy”.
Sư Phong hỏi: “Chưa rõ người nào có được ngữ mạch ấy?”
Tổ Am nói: “Người chẳng biết thì gọi là Phá Táo Đọa!”
Không biết là ai, há cũng chẳng phải là sự hóa hiện của Đức Quan Âm ư?
-
Kinh:
“Đó gọi là ba mươi hai Ứng Thân Diệu Tịnh, vào các cõi nước. Đều là Diệu Lực Vô Tác của Văn Huân Văn Tu Tam Muội mà tự tại thành tựu.
Thông rằng:
Hiệp Luận nói, chỗ nói cái “Diệu Lực Vô Tác tự tại thành tựu”, là chỗ trong kinh Tạp Hoa xưng là “Phổ Hiền Đối Hiện Sắc Thân”, Kinh Pháp Hoa xưng là “Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội” vậy. Bởi vì âm thầm xông khắp pháp giới, là cái căn lực từ thiện, chân tế bất động, ứng hiện khắp mười phương. Lấy cái Từ Bi của Thánh Hạnh ứng với cơ Không, thì giữ lấy hình thể bất tịnh, hình trạng dường như dễ sợ. Lấy cái Từ Bi của Thiên Hạnh ứng với cơ Trung, thì như ngựa hay thấy bóng roi, chạy đường thẳng lớn, không gì ngại sợ. Lấy cái Từ Bi của Phạm Hạnh ứng với cơ Giả, thì ngồi tòa sư tử, để chân ghế báu, như người buôn bán giỏi, qua khắp các nước, vào ra đều lời lãi, không đâu chẳng có. Đó là ba thứ cơ Không, Giả và Trung, nói ra khiến cho chúng sanh thấy sự việc như thế, đây là Sắc Thân Tam Muội của kinh Pháp Hoa vậy.
Thần dụng Như Lai khắp mười phương, tùy căn mà đối hiện. Dùng nguyện lực đại từ bi chẳng bỏ chúng sanh, nên trong một niệm là toàn khắp mà không có gây làm. Như địa vị Diệu Giác, chỗ lợi lạc cho chúng sanh thảy đồng pháp giới, tùy căn tùy thời, Đối Hiện Sắc Thân, chẳng làm mà dụng, chẳng gây mà ứng. Dùng Trí sáng rỡ khắp nơi, chẳng thuộc nơi chốn, đồng tâm chúng sanh, tùy vật hiện hình, không đến không đi, đây là Đối Hiện Sắc Thân của Kinh Tạp Hoa vậy. Đây là tùy duyên mà thị hiện, đều tức là Như Huyễn, nên dùng Như Huyễn Tam Muội, Văn Huân Văn Tu tự tại thành tựu.
Tổ Lâm Tế nói: “Chỗ nói của sơn tăng, chỉ là cái nghe pháp độc sáng rỡ ràng hiện giờ trước mắt quý vị. Người này chốn chốn chẳng ngưng trệ, tự tại thông suốt mười phương ba cõi. Vào tất cả cảnh sai biệt mà chẳng hề thay đổi, trong khoảng sát na thấu nhập pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La Hán nói La Hán, gặp ngạ quỷ nói ngạ quỷ. Dạo chơi tất cả quốc độ mà giáo hóa chúng sanh, chưa từng lìa Nhất Niệm, tùy chốn mà trong sạch, ánh sáng thấu suốt mười phương, muôn pháp Nhất Như. Này quý vị! Hàng đại trượng phu ngày nay mới biết bổn lai vô sự, Chỉ vì các ông tin chẳng đến, niệm niệm chạy cầu, bỏ đầu mà kiếm đầu, tự mình chẳng thể dứt!”
Chỗ thuyết pháp của Tổ Lâm Tế được cái Chánh Pháp Nhãn của Đức Quan Âm. Nếu tin được rằng xưa nay vô sự thì ba mươi hai Ứng Thân từ Diệu Lực Vô Tác liền được hiện tiền.