-
Hành Tư Thiền Sư, họ Lưu, sanh ở An Thành, tỉnh Kiết Châu. Nghe nói Tào Khê giáo pháp thịnh hành, bèn đến tham lễ, hỏi: “Nên làm việc gì để khỏi lọt vào giai cấp?”
Sư hỏi: “Ngươi đã từng làm việc gì?”
Đáp: “Thánh đế cũng chẳng làm”.
Sư hỏi: “Lọt vào giai cấp nào?”.
Đáp: “Thánh đế còn chẳng làm, giai cấp nào mà có!”.
Sư rất trọng, cho là pháp khí, cho làm quản chúng. Một hôm Sư nói: “Ngươi nên hóa độ một nơi, chớ cho đoạn dứt giáo pháp đốn ngộ này”.
Hành Tư Thiền Sư đã đắc pháp, bèn về núi Thanh Nguyên ở Kiết Châu hoằng pháp, sau được vua sắc phong, hiệu là Hoàng Tế Thiền Sư.
*
* *
Hoài Nhượng Thiền Sư, họ Đỗ ở Kim Châu. Lúc ban đầu đến lễ An Quốc Sư ở Tung Sơn, An Quốc Sư sai đến Tào Khê tham vấn. Nhượng đến lễ bái. Sư hỏi: “Từ đâu đến ?”.
Đáp: “Tung Sơn”.
Sư hỏi: “Cái vật gì mà đến như vậy?”.
Nhượng trả lời chẳng được, nổi nghi tình trải qua tám năm, sau nói với Sư: “Nói tựa như một vật thì chẳng đúng”.
Sư hỏi: “Còn có thể tu chứng chăng?”.
Đáp: “Tu chứng thì chẳng phải không, ô nhiễm thì chẳng thể được”.
Sư ấn chứng rằng: “Chỉ cái chẳng ô nhiễm này chư Phật đều hộ niệm, ngươi đã như vậy, ta cũng như vậy”. Nhượng hoát nhiên đại ngộ, bèn làm thị giả bên Sư mười lăm năm, ngày càng thấu triệt huyền chỉ thâm sâu. Sau đến núi Nam Nhạc, rộng truyền Thiền Tông, được vua sắc phong, hiệu Đại Huệ Thiền Sư.
-
Vĩnh Gia Huyền Giác Thiền Sư, họ Đới quê ở Ôn Châu. Thuở nhỏ tu học Kinh Luận, chuyên về pháp môn chỉ quán của Thiên Thai Tông, nhân xem Kinh Duy Ma Cật phát minh tâm địa (Kiến tánh). Bỗng gặp đệ tử của Sư là Huyền Sách đến thăm, luận đàm với nhau; thấy lời nói của Huyền Giác khế hợp với Chư Tổ, Huyền Sách hỏi: “Thượng Tọa đắc pháp nơi Thầy nào?”.
Đáp: “Tôi nghe giảng Kinh Luận Đại Thừa, mỗi mỗi đều có Thầy truyền thừa, sau xem Kinh Duy Ma Cật ngộ tự tâm Phật, nhưng chưa có Thầy ấn chứng”.
Huyền Sách nói: “Trước thời Phật Oai Âm Vương thì được, sau thời Phật Oai Âm Vương, không Thầy mà tự ngộ, ấy đều là thiên nhiên ngoại đạo”.
Giác nói: “Vậy xin nhờ Thượng Tọa vì tôi ấn chứng”.
Sách nói: “ Lời tôi chẳng đáng kể ở Tào Khê nay có Lục Tổ Đại Sư, các nơi đều tụ tập đến đó để thọ pháp, hễ đi thì cùng nhau đi”.
Huyền Giác bèn cùng với Huyền Sách đến tham vấn. Khi đến gặp Sư, Huyền Giác đi nhiễu ba vòng rồi đứng lại chống tích trượng.
Sư nói: “Bậc Sa Môn phải đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, Đại Đức từ đâu đến mà sanh đại ngã mạn!”.
Giác đáp: “Sanh tử việc lớn, vô thường nhanh chóng”.
Sư nói: “Sao chẳng thể cứu (tham cứu) cái pháp vô sanh, liễu ngộ cái chẳng nhanh chóng ấy ư?”.
Đáp: “Thể tức vô sanh, liễu vốn chẳng chóng?”.
Sư bèn ấn chứng: “Đúng thế, đúng thế!”. Lúc bấy giờ Huyền Giác mới trang nghiêm lễ bái, giây lát sau liền từ giã.
Sư nói: “Sao về chóng thế?”.
Đáp: “Tự vốn chẳng động há có chóng sao?”.
Sư hỏi: “Ai biết chẳng động?”.
Đáp: “Hòa Thượng tự sanh phân biệt”.
Sư nói: “Ngươi thật được ý vô sanh”.
Đáp: “Vô sanh há có ý sao?”.
Sư hỏi: “Không ý ai biết phân biệt?”.
Đáp: “Phân biệt cũng chẳng tác ý”.
Sư nói: “Lành thay! Hãy ở lại một đêm”.
Người thời ấy tôn Huyền Giác là “ Nhất Túc Giác”. Về sau Giác soạn bài “Chứng Đạo Ca” thịnh hành khắp thế gian. Sau được sắc phong là Vô Tướng Đại Sư, người đời tôn là Chơn Giác.
-
Thiền Giả Trí Hoàng, tham học với Ngũ Tổ, tự cho mình đã được chánh thọ (chánh định), bèn chấp ngồi mãi trong am hơn hai mươi năm. Đệ tử của Sư là Huyền Sách hành cước đến Hà Bắc, nghe tên Trí Hoàng, liền đến am hỏi thăm. “Ông ở đây làm gì?”. Hoàng nói: “Nhập định”.
Sách hỏi: “Ông nói nhập định, là có tâm nhập hay là không tâm nhập? Nếu nói không tâm nhập thì tất cả loài vô tình, cây cối ngói đá đều phải được định; nếu nói có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình cũng đều được định”.
Hoàng nói: “Ta đang lúc nhập định chẳng thấy có cái tâm CÓ và KHÔNG”.
Sách nói: “Chẳng thấy có cái tâm CÓ và KHÔNG tức là thường định, đâu có xuất nhập? Hễ có xuất nhập thì chẳng phải đại định”.
Hoàng không trả lời được, một lúc sau mới hỏi: “Thượng Tọa nối pháp ai?”.
Sách nói: “Thầy tôi là Tào Khê Lục Tổ Đại Sư”.
Hoàng hỏi: “Lục Tổ lấy gì làm thiền định?”.
Sách nói: “Thầy tôi nói: Tự tánh huyền diệu trạm nhiên, viên tròn tịch diệt, thể dụng như như, ngũ uẩn vốn không, lục trần phi thật, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền vô trụ, chẳng trụ nơi thiền tịch, tánh thiền vô sanh, chẳng khởi thiền tưởng (chẳng tác ý cho là thiền), tâm như hư không, cũng chẳng có cái số lượng của hư không”.
Hoàng nghe nói như vậy bèn đến lễ Sư. Sư hỏi: “Thượng Tọa từ đâu đến?”. “Hoàng thuật lại nhân duyên gặp Huyền Sách”. Sư nói: “Thật đúng như Huyền Sách nói. Ngươi hễ tâm như hư không, chẳng chấp vào không, ứng dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác ý), Thánh phàm đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng như như, thì không lúc nào chẳng phải định vậy”.
Trí Hoàng do đó đại ngộ, cái tâm sở đắc từ hai mươi năm đến nay đều tan rã chẳng còn hình bóng. Sau từ giã Sư về Hà Bắc hoằng pháp, khai hóa tứ chúng.
*
* *
Có một đồng tử tên là Thần Hội, họ Cao, ở Tương Dương. Lúc mười ba tuổi từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ. Sư nói: “Tri thức từ xa đến khổ nhọc, có đem theo cái bản lai đến chăng? Nếu có bản lai thì phải biết chủ nhơn, thử nói xem!”.
Hội đáp: “Lấy vô trụ làm bản, cái thấy tức là chủ”.
Sư nói: “Sa di này hay nói càn!”.
Hội lại hỏi: “Hòa Thượng tọa thiền thấy hay chẳng thấy?”.
Sư cầm cây gậy đánh ba cái, hỏi : “Ta đánh ngươi có đau hay chẳng đau ?”.
Đáp: “Cũng đau cũng không đau”.
Sư nói: “Ta cũng thấy cũng chẳng thấy!”.
Hỏi: “Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?”.
Sư nói: “Cái thấy của ta thường thấy lỗi của tự tâm, chẳng thấy phải quấy tốt xấu của người cho nên cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu chẳng đau thì đồng với cỏ đá, nếu đau thì đồng với phàm phu, liền khởi sân hận. Ngươi vừa hỏi “Thấy, không thấy” là nhị biên (đối đãi), nói “đau, không đau” là sanh diệt, tự tánh ngươi còn chẳng tự thấy mà dám đùa người khác!”.
Thần Hội bèn lễ bái cầu xin sám hối. Sư lại nói: “Ngươi nếu tâm mê chẳng thấy cần phải hỏi thiện tri thức để chỉ đường, ngươi nếu tâm ngộ tức tự thấy tánh, phải y pháp tu hành. Nay ngươi mê chẳng thấy tự tâm, lại đến hỏi ta thấy hay không thấy, ta thấy tự ta biết, chẳng dính dáng cái mê của ngươi, ngươi nếu tự thấy, cũng chẳng dính dáng cái mê của ta, sao chẳng tự thấy tự biết, mà lại hỏi ta thấy hay chẳng thấy!”.
Thần Hội lạy lễ thêm hơn trăm lạy, xin sám hối tội lỗi, ân cần hầu hạ bên Sư chẳng rời. Một hôm Sư bảo chúng: “Ta có một vật, chẳng đầu chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng chẳng mặt, các ngươi có biết chăng?”.
Thần Hội bèn ra nói: “Ấy là bổn nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội”.
Sư nói: “Đã nói với ngươi là chẳng danh chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên Phật tánh, ngươi sau này dẫu cho có ra hoằng pháp cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà thôi”.
Sau khi Lục Tổ viên tịch, Thần Hội vào trong kinh thành Lạc Dương, rộng truyền đốn giáo của Tào Khê, soạn bộ Hiển Tông Ký, thịnh hành nơi đời, hiệu là Hà Trạch thiền Sư.
-
Có vị Tăng hỏi Sư: “Ý chỉ của Huỳnh Mai người nào được?”.
Sư đáp: “Người hiểu Phật pháp được”.
Hỏi: “Hòa Thượng có được chăng?”.
Đáp: “Ta chẳng hiểu Phật pháp”.
Một hôm, Sư muốn giặt cái y của Ngũ Tổ truyền thọ mà xung quanh không có suối tốt, nên đi đến cách sau chùa năm dặm, thấy có núi rừng xanh biếc, thoại khí vòng quanh (Thoại khí là triệu chứng tốt lành hiện trên không khí, nhưng phải là người có pháp nhãn mới thấy được). Sư dộng tích trượng xuống đất, nước suối ngay đó trào ra, chảy thành cái ao. Sư quỳ trên đá mà giặt y.
Có vị Tăng ở Tây Thục tên là Phương Biện đến lễ Sư, Sư hỏi: “Thượng Tọa làm nghề gì?”. Đáp: “Thợ đắp tượng”. Sư nghiêm mặt lại nói: “Ngươi thử đắp ta xem!”. Biện ngơ ngác, qua mấy ngày sau đắp xong chơn tượng, cao bảy tấc, nét mặt tánh tình đều tỏ bày khéo léo. Sư cười nói: “Ngươi khéo tánh đắp tượng mà chẳng hiểu tánh Phật”. Sư rờ đầu thọ ký, dặn phải làm phước điền cho trời người; rồi lấy y mà trả công. Biện chia y làm ba phần: một phần đắp lên pho tượng, một phần tự giữ lấy, một phần lấy lá cây kè gói lại, xong chôn dưới đất, nguyện rằng: “Cho tôi đời sau được y này, làm trụ trì nơi đây, xây dựng lại chùa chiền”.
Đến năm thứ tám, niên hiệu Gia Hựu đời Nhà Tống (1056 -1063, cách đó 380 năm), có vị Tăng tên là Duy Tiên đến đó tu sửa lại chùa chiền, đào đất được Y còn như mới. Pho tượng của Sư còn giữ ở chùa Cao Tuyền.
*
* *
Có vị Tăng đem bài kệ của Ngọa Luân Thiền Sư lập lại với Sư. Kệ rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bá tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ Đề nhựt nhựt trưởng.
Dịch nghĩa:
Ngọa Luân có bản lãnh,
Dứt được trăm tư tưởng.
Đối cảnh tâm chẳng khởi,
Bồ Đề luôn luôn trưởng.
Sư nghe nói xong: “Kệ này chưa rõ tâm địa, nếu theo đó mà tu hành thì lại thêm trói buộc”. Do đó khai thị một bài kệ:
Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bá tư tưởng.
Đối cảnh tâm số khởi,
Bồ Đề tác ma trưởng.
Dịch nghĩa :
Huệ Năng không bản lãnh,
Chẳng dứt trăm tư tưởng.
Đối cảnh tâm cứ khởi,
Bồ Đề làm sao trưởng!
([1]) :Chớ nên chấp ở ngữ ngôn, Vô Ngôn : Phật thuyết pháp 49 năm mà tự nói chẳng thuyết một chữ
([2]) : Chớ nên chấp vào im lặng
([3]): Dê, nai, trâu = tiểu, trung, đại thừa
([4]): Ba đoạn thiện quét sạch : Mới phát thiện tâm là sơ thiện, chẳng chấp thiện tâm là trung thiện, không trụ nơi chẳng chấp là hậu thiện, luôn cả cái tri giải biết về sự “Không trụ nơi chẳng chấp” cũng tiêu là quét sạch.
([5]) : 62 kiến chấp: Tứ cú x ngũ uẩn = 20; 20 x tam tế = 60; 60 + thêm Hữu và Vô (Nguồn gốc của tất cả nhị biên đối đãi) = 62. Tất cả kiến chấp đều không ở ngoài 62 kiến chấp này.
([6]) : Nhị biên: Đối đãi biên kiến; tam tế : Quá khứ, hiện tại, vị lai.
([7]): Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng:Thường ứng là tả sự dụng cuả tự tánh chẳng tác ý, như bóng hiện trong gương, luôn luôn như thế. Ví như dùng cơm chỉ là dùng cơm, chẳng có năng sở, nên nói “Thường ứng các căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng”. Còn “dụng tưởng” thì có tác ý, nên có năng sở, cho ta là năng dùng, cơm là sở dùng.
([8]): Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng: Phân biệt tất cả pháp mà chẳng tác ý ví như cơm chỉ là cơm, nước chỉ là nước, còn “phân biệt tưởng” là có tác ý, nên có cơm ngon cơm dở, nước trong nước đục.
-
Phẩm Đốn Tiệm _ Thứ Tám
Lúc Sư hoằng pháp tại chùa Bửu Lâm, Tào Khê, ở miền Nam, thì Thần Tú Đại Sư tại chùa Ngọc Tuyền, Kinh Nam, ở miền Bắc. Thời ấy hai tông thịnh hành, người đời xưng là Nam Năng, Bắc Tú, nên có Nam Bắc đốn tiệm hai tông, mà người học đạo chẳng biết tông chỉ của Nam Bắc như thế nào. Sư bảo chúng: “ Pháp vốn một tông mà người có Nam Bắc; pháp chỉ một thứ nhưng sự thấy có nhanh chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp chẳng đốn tiệm, theo căn tánh con người thì có lợi độn, nên gọi đốn tiệm”.
Nhưng đồ chúng của Thần Tú thường hay khinh chê Tổ Sư ở miền Nam là người chẳng biết chữ, đâu có gì hay? Thần Tú nói: “ Lục Tổ đắc Vô Sư Trí, triệt ngộ pháp Tối Thượng Thừa, ta chẳng bằng được. Vả lại được Thầy ta Ngũ Tổ thân truyền y pháp, đâu phải khi không mà được! Ta tiếc chẳng thể đi xa được thân cận, uổng chịu quốc ân. Các ngươi chớ bị kẹt nơi đây, nên đi đến Tào Khê để tham học”.
Một hôm, Thần Tú sai môn đồ Chí Thành: “Người thông minh có trí, hãy thay ta đến Tào Khê nghe pháp, tận tâm ghi nhớ các điều thấy nghe, về lập lại cho ta”.
Chí Thành vâng lời, bèn đến Tào Khê, theo chúng tham học mà chẳng nói từ chỗ nào đến. Lúc đó Sư bảo chúng: “Nay có kẻ trộm pháp đang ẩn trong hội này”. Chí Thành bèn bước ra lễ bái, bạch rõ nguyên do. Sư nói: “Ngươi từ Ngọc Tuyền đến tức là mật thám vậy”.
Đáp: “Chẳng phải”.
Sư nói: “Sao lại chẳng phải?”.
Đáp: “Lúc chưa nói ra thì phải, nói ra rồi thì chẳng phải”.
Sư hỏi: “Thầy ngươi lấy gì để dạy chúng?”.
Đáp: “Thầy tôi thường khuyên dạy chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi chẳng nằm”.
Sư nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi lâu là trói thân, với đạo có ích lợi gì?” Hãy nghe kệ đây:
Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa.
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa?
Dịch nghĩa:
Lúc sống thì ngồi chẳng nằm,
Lúc chết thì nằm chẳng ngồi.
Vốn là đống xương hôi thúi,
Đâu thể thành lập công phu?
Chí Thành lại lễ Sư: “Đệ tử ở nơi Thần Tú Đại Sư học đạo chín năm mà chẳng được khế ngộ nay nghe Hòa Thượng một lời liền khế ngộ bản tâm. Sanh tử của đệ tử là việc lớn, xin Hòa Thượng từ bi chỉ dạy thêm”.
Sư nói: “Ta nghe nói Thầy ngươi dạy người học pháp: Giới, định, huệ, chẳng biết hành tướng giới định huệ như thế nào, hãy nói thử xem”.
Chí Thành nói: “Thần Tú Đại Sư nói: Những điều ác chớ làm gọi là giới, những điều lành phụng hành gọi là huệ, ý căn tự trong sạch gọi là định. Đại Sư dạy như thế, chưa biết Hòa Thượng lấy pháp gì để dạy người?”.
Sư nói: “Nếu nói có pháp dạy người ấy là dối ngươi, ta chỉ tùy theo căn cơ để mở trói, giả danh tam muội. Như giới định huệ của Thầy ngươi thật là bất khả tư nghì, giới định huệ của ta lại khác”.
Hỏi: “Giới định huệ chỉ nên có một, sao lại có khác?”.
Sư nói: “Giới định huệ của Thầy ngươi độ người Đại thừa, giới định huệ của ta tiếp người Tối thượng thừa, chỗ ngộ giải chẳng đồng nên sự thấy có nhanh chậm. Hãy nghe ta nói, xem có giống Thầy ngươi chăng! Ta thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, lìa tánh thuyết pháp, khiến cho tự tánh thường mê, ấy là tướng thuyết. Nên biết tất cả pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là chơn pháp của giới định huệ vậy. Hãy nghe kệ đây:
Tâm địa vô phi tự tánh giới,
Tâm địa vô si tự tánh huệ.
Tâm địa vô loạn tự tánh định.
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bổn tam muội.
Dịch nghĩa:
Tâm địa chẳng quấy tự tánh giới,
Tâm địa chẳng si tự tánh huệ,
Tâm địa chẳng loạn tự tánh định.
Chẳng thêm chẳng bớt tự như như,
Thân đến thân đi vốn tam muội.
Chí Thành nghe xong cảm tạ, trình kệ rằng:
Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu cánh.
Hồi thú chơn như.
Pháp huờn bất tịnh.
Dịch nghĩa:
Ngũ uẩn thân huyễn hóa,
Huyễn đâu có cứu cánh.
Trở về với chơn như,
Vẫn là chẳng tịnh.
Sư cho là đúng, lại bảo Chí Thành: “Giới định huệ của Thầy ngươi dạy người căn khí nhỏ, giới định huệ của ta dạy người căn khí lớn. Nếu ngộ được tự tánh, cũng chẳng lập Bồ Đề Niết Bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, chẳng có một pháp có thể đắc, như thế mới được kiến lập vạn pháp. Nếu thấu lý này cũng gọi là Bồ Đề Niết Bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người kiến tánh lập cũng được, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ chẳng ngại, cần dùng liền làm, cần nói liền đáp (làm và nói đều chẳng tác ý), khắp hiện hóa thân chẳng lìa tự tánh, tức được thần thông tự tại, du hý tam muội, gọi là kiến tánh”.
Chí Thành lại bạch: “Thế nào là nghĩa chẳng lập?”.
Sư nói: “Tự tánh chẳng quấy chẳng si chẳng loạn, niệm niệm quán chiếu Bát Nhã, thường lìa pháp tướng, tự do tự tại, thuận nghịch đều được, có gì để lập ? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, cũng chẳng thứ tự cho nên chẳng lập tất cả pháp, các pháp tịch diệt, đâu có thứ lớp?”.
Chí Thành lễ bái, nguyện làm thị giả hầu hạ sớm chiều.
-
Tăng Chí Triệt, họ Trương tên Hành Xương, người ở Giang Tây, thuở nhỏ tánh hào hiệp. Lúc ấy Nam Bắc chia ra hai tông, tuy Lục Tổ và Thần Tú Đại Sư không phân chia bỉ thử, nhưng đồ chúng lại cạnh tranh với nhau sanh lòng ưa ghét, mà môn đồ bên Bắc Tông tự lập Thần Tú làm Tổ thứ sáu, lại sợ người đời biết được sự truyền y của Ngũ Tổ, nên sai Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Sư Tâm Thông đã biết việc này, bèn lấy mười lượng vàng để nơi ghế ngồi. Lúc tối Hành Xương lén vào thất muốn ám sát. Sư đưa cổ cho chém. Hành Xương cầm kiếm chém ba lần, chẳng gây vết thương. Sư nói: “Chánh kiến (kiếm) chẳng tà, tà kiến (kiếm) chẳng chánh (Theo Hán tự, chữ “kiến” với chữ “kiếm” khác chữ đồng âm, ở đây là một lời hai nghĩa), chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ ngươi mạng”. Hành Xương kinh sợ ngã xỉu, một hồi lâu mới tỉnh dậy, ăn năn cầu xin sám hối, bèn xin xuất gia. Sư đưa vàng và dặn: “Ngươi hãy đi, sợ đồ chúng biết được sẽ sát hại ngươi, để ngày khác ngươi thay đổi hình dạng rồi trở lại, ta sẽ cho thỏa nguyện”.
Hành Xương nghe lời, nửa đêm trốn đi, sau ở nơi khác xuất gia.
Một hôm nhớ đến lời dặn của Sư, bèn từ xa đến tham lễ. Sư nói: “ Ta chờ ngươi đã lâu, sau đến trễ vậy?”.
Hành Xương nói: “Ngày trước được Hòa Thượng xá tội, nay dù xuất gia khổ hạnh, nhưng khó mà báo ơn, chỉ mong được Hòa Thượng truyền pháp để độ chúng sanh. Đệ tử xem Kinh Niết Bàn, chưa hiểu cái nghĩa thường và vô thường, xin Hòa Thượng từ bi giải thích sơ lược”.
Sư nói: “Vô thường tức Phật tánh, có thường tức cái tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy”.
Hành Xương nói: “Lời của Hòa Thượng rất nghịch lời văn trong Kinh”.
Sư nói: “Ta được truyền tâm ấn Phật, đâu dám nghịch ý Kinh!
Hành Xương nói: “Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa Thượng lại nói là vô thường. Các pháp thiện ác cho đến Bồ Đề tâm đều là vô thường, Hòa Thượng lại nói là thường, ấy là trái nghịch nhau, khiến đệ tử lại thêm nghi ngờ”.
Sư nói: “Xưa kia ta nghe Ni Vô Tận Tạng tụng qua một lần Kinh Niết Bàn, bèn vì Ni giải thuyết, chẳng có một chữ một nghĩa không đúng với lời văn trong kinh, cho đến nay vì ngươi mà thuyết, trước sau chẳng khác”.
Hành Xương nói: “Đệ tử căn tánh ngu muội, xin Hòa Thượng khai thị tỉ mỉ”.
Sư nói: “Ngươi biết chăng, Phật tánh nếu thường còn nói gì về các pháp thiện ác; cho đến tận kiếp cũng chẳng một người phát Bồ Đề tâm, nên ta nói “vô thường”, ấy chính là cái đạo chơn thường do Phật thuyết vậy. Hơn nữa, tất cả các pháp nếu vô thường thì mỗi mỗi đều có tự tánh riêng biệt để lãnh thọ sanh tử, vậy thì tánh chơn thường khắp nơi lại có chỗ thiếu sót, nên ta nói “thường”, ấy chính là nghĩa chơn vô thường của Phật. Phật vì kẻ phàm phu tà đạo chấp nơi tà thường, những người Nhị thừa từ nơi thường, suy ra vô thường, cộng thành tám thứ điên đảo nên trong Kinh Niết Bàn liễu nghĩa phá những thiên kiến của họ để to bày tứ đức của Niết Bàn: Chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Ngươi nay theo lời trái nghĩa, lấy đoạn diệt vô thường và chấp thường là cố định, mà hiểu lầm lời nói sau cùng viên tròn vi diệu của Phật, dẫu cho xem Kinh ngàn lần, có ích gì đâu?”.
Hành Xương hoát nhiên đại ngộ, nói kệ rằng:
Nhân thủ vô thường tâm.
Phật thuyết hữu thường tánh.
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền.
Phi Sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
Dịch nghĩa:
Vì giữ tâm vô thường,
Phật nói tánh có thường.
Kẻ chẳng biết phương tiện,
Như mò sỏi tưởng vàng,
Nay ta chẳng tác ý,
Phật tánh tự hiện tiền,
Chẳng phải do thầy cho.
Ta cũng vô sở đắc.
Sư nói: “Ngươi nay đã triệt ngộ, nên đổi tên Trí Triệt”. Trí Triệt lễ tạ lui ra.
LƯỢC GIẢI:
Lời của chư Phật, chư Tổ chỉ tạm dùng để phá chấp: Nói “thường” là để phá chấp “vô thường”, nói “vô thường” là để phá chấp “thường”, chớ không có nghĩa thật. Nên kinh Lăng Nghiêm nói: “Hễ là lời nói thì đều chẳng có nghĩa thật.”
Phẩm tựa đã chỉ rỏ “Phật tánh phi thường phi vô thường”, do đó mặc dù lời Tổ với lời Phật trái nghịch nhau, nhưng ý Tổ với ý Phật chẳng khác là nghĩa này vậy.
*
* *
Sư thấy môn đồ các tông tụ tập dưới pháp tòa, đều khởi ác ý vấn nạn. Sư thương xót cho họ nên bảo rằng: “Người học đạo cần phải dứt trừ cho sạch tất cả thiện niệm ác niệm, cho đến chẳng còn chỗ để gắn tên, rồi lại gắn tên nơi tự tánh; Tự tánh vốn bất nhị, gọi là thật tánh. Từ nơi Phật tánh mới kiến lập tất cả giáo môn. (Như vậy, Pháp môn của các tông dù có khác, nhưng đều cùng xuất phát từ một nguồn, vốn chẳng cao thấp, người học đạo chớ nên tranh giành hơn thua mà trái nghịch với đạo). Còn pháp đốn giáo này thì cần phải ngay đó (chẳng tác ý) tự ngộ tự thấy mới được.
Đại chúng nghe xong thảy đều đảnh lễ, thờ Sư làm thầy.
-
Phẩm Pháp Hội Thứ Chín
Ngày rằm tháng giêng niên hiệu Thần Long Nguyên Niên, vua Trung Tôn và Võ Tắc Thiên ban chiếu rằng:
“Trẫm mời An Quốc Sư và Thần Tú Thiền Sư hai vị vào cung cúng dường, thừa lúc muôn việc nhàn rảnh để nghiên cứu đạo Nhất thừa. Hai Sư khiêm nhượng rằng: “Ở miền Nam có Huệ Năng Thiền Sư được Ngũ Tổ mật phó y pháp, truyền Phật tâm ấn, xin mời Sư đến để hỏi”. Nay sai nội thị Tiết Giản lãnh chiếu đến rước thỉnh, nguyện Sư từ bi thương xót, mau đến kinh thành”.
Sư dâng biểu cáo bệnh khước từ và xin được trọn đời ở trong núi rừng.
Tiết Giản hỏi: “Các thiền đức nơi kinh thành đều nói là muốn được ngộ đạo phải ngồi thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà mong được giải thoát thì chưa hề có vậy. Chưa biết cách dạy bảo của Sư như thế nào?”.
Sư nói: “Đạo do tâm ngộ chẳng phải tọa. Kinh nói: “Nếu nói Như Lai có nằm có ngồi, ấy là kẻ hành tà đạo” (*). Tại sao vậy? Vì tự tánh chẳng có chỗ đến cũng chẳng có chỗ đi, chẳng sanh chẳng diệt, gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền. Chư pháp không tịch là Như Lai Thanh Tịnh Tọa, cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi!”.
Tiết Giản nói: “Đệ tử về Kinh, Hoàng Đế ắt hỏi, xin Sư từ bi chỉ thị tâm yếu, để về triều đình tâu lại hai vua và người học đạo ở Kinh thành, thí như một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối đều sáng, dùng sáng truyền sáng, sáng mãi chẳng hết”.
Sư nói: “Đạo chẳng sáng tối, sáng tối là nghĩa sanh diệt. Sáng mãi chẳng hết, cũng chẳng có lúc hết, vì sáng tối là đối đãi lập danh, nên Kinh Duy Ma Cật nói: “Pháp chẳng thể so sánh, vì chẳng đối đãi vậy.”
Tiết Giản nói: “Sáng dụ cho trí huệ, tối dụ cho phiền não, người tu đạo nếu không lấy trí huệ để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử đã từ vô thỉ, dựa vào đâu để ra khỏi?”.
Sư nói: “Phiền não tức Bồ Đề, chẳng hai chẳng khác. Nếu nói lấy trí huệ để chiếu phá phiền não, ấy là kiến giải của kẻ Nhị Thừa, người đại căn thượng trí thì chẳng như vậy”
Hỏi: “Thế nào là kiến giải của người đại thừa?”
Sư nói: “Sáng với chẳng sáng, phàm phu thấy có nhị, người trí liễu đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là thật tánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, nơi Thánh hiền mà chẳng thêm; trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa, cũng chẳng bên trong bên ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến đổi, ấy gọi là đạo”.
Hỏi: “Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, vậy đâu khác với ngoại đạo!”.
Đáp: “Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là dùng diệt để dẹp sanh, dùng sanh để tỏ diệt, sanh nơi chẳng sanh, diệt nơi chẳng diệt. Ta thuyết chẳng sanh chẳng diệt là: Tự vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên khác với ngoại đạo. Nếu ngươi muốn biết tâm yếu, nên đối với các pháp thiện ác đều chớ suy lường, tự nhiên được tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên thường tịch, dịu dụng hằng sa”.
Tiết Giản được chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, lễ bái từ giã về kinh, dâng biểu tâu thuật lại lời nói của Sư.
Ngày 3 tháng 9 năm ấy, vua ban chiếu khen ngợi rằng:
“Thiền Sư cáo bệnh khước từ, đã vì Trẫm tu hành, làm phước điền cho chúng sanh. Sư như Ngài Duy Ma Cật, cáo bệnh ở thành Tỳ Da để xiển dương Đại thừa, truyền Phật tâm ấn, thuyết pháp bất nhị. Tiết Giản truyền đạt lại tri kiến Như Lai của Sư chỉ dạy, cũng là do Trẫm tích tụ phước đức, kiếp trước đã gieo trồng thiện căn, nên gặp được Sư xuất hiện cùng đời, đốn ngộ pháp Tối Thượng Thừa, cảm đội ơn Sư chẳng thể nào quên. Nay dâng chiếc Cà Sa và bình bát thủy tinh, sai quan thứ sử Thiều Châu tu sửa lại chùa chiền, sắc phong cho nơi ở cũ của Sư (ở Tân Châu) là Quốc Ân Tự.”
*. _ (Kinh Kim Cang : "Tu Bồ Đề ! Nhược hữu nhân ngôn 'Như Lai nhược lai nhược khứ nhược tọa nhược ngọa', thị nhân bất giải ngã sở thuýêt nghĩa)
-
-
Phẩm Phó Chúc Thứ Mười
Một hôm Sư gọi các đệ tử như Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như nói:
“Các ngươi chẳng như người khác, sau khi ta viên tịch, mỗi người làm Thầy một nơi. Nay ta dạy các ngươi cách thuyết pháp chẳng đánh mất bản tông. Trước tiên phải y theo pháp môn TAM KHOA, dùng ba mươi sáu pháp đối, ra vào (khai thị bằng lời nói hay cử chỉ) thường lìa nhị biên, thuyết tất cả pháp chẳng lìa tự tánh. Thí như có người hỏi pháp, ý nghĩa lời nói song song, đến đi làm nhân với nhau, đều dùng pháp đối. Nếu không có đối đãi thì ba pháp “nhị biên và trung đạo” đều dứt, chẳng còn chỗ để nương tựa”.
Pháp môn Tam Khoa là gì? Là ẤM - NHẬP - GIỚI
- ẤM là ngũ ấm: gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
- NHẬP có mười hai: Bên ngoài lục trần, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; bên trong lục căn, gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
- GIỚI có mười tám: Gồm lục căn, lục trần, lục thức.
Tự tánh bao hàm vạn pháp, gọi là Hàm Tạng Thức. Nếu khởi niệm suy lường tức là chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa lục căn, tiếp xúc lục trần. Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, niệm ác dụng tức chúng sanh dụng, niệm thiện dụng tức Phật dụng. Dụng bằng cách nào? Là do tự tánh lập ra pháp đối:
- Ngoại cảnh vô tình có năm đối: Trời đối đất, nhựt đối nguyệt, sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa, ấy là năm đối.
- Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: Ngữ đối pháp, hữu đối vô, hữu sắc đối vô sắc, hữu tướng đối vô tướng, hữu lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh, thanh đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ, lớn đối nhỏ, ấy là mười hai đối.
Tự tánh khởi mười chín đối: Dài đối ngắn, tà đối chánh, si đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối độc, giới đối quấy, trực đối khúc, thật đối hư, chông gai đối bằng phẳng, phiền não đối Bồ Đề, thường đối vô thường, bi đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn xẻn, tiến đối lui, sanh đối diệt, pháp thân đối sắc thân, hóa thân đối báo thân, ấy là mười chín đối vậy.
-
Sư bảo: “Ba mươi sáu pháp đối này nếu biết dùng thì thấu đạo và tất cả kinh pháp, ra vào thường lìa nhị biên. Dụng của tự tánh chẳng cần tác ý, nói năng với người, ngoài thì ở nơi tướng lìa tướng, trong thì nơi không lìa không. Nếu trọn chấp tướng thì sanh trưởng tà kiến, nếu trọn chấp “không” thì sanh trưởng vô minh. Kẻ chấp “không” hay phỉ báng kinh Phật, cho là “chẳng cần văn tự”, đã nói chẳng cần văn tự thì con người cũng không nên có lời nói, cái lời nói tức là tướng văn tự. Lại nói “Đạo ngay thẳng chẳng lập văn tự”, thật ra hai chữ “chẳng lập” cũng là văn tự vậy! Vừa nghe người thuyết pháp, liền phỉ báng cho là dính mắc văn tự, các ngươi phải biết, tự mê còn đỡ, lại phỉ báng kinh Phật. Chớ nên phỉ báng kinh, để tạo nhiều tội chướng.
Nếu chấp tướng bên ngoài mà vọng lập phương pháp để cầu chơn, hoặc rộng lập đạo tràng, nói các lỗi lầm của CÓ và KHÔNG, những người như vậy nhiều kiếp chẳng thể kiến tánh. Các ngươi phải dạy người theo pháp tu hành, chớ nên trăm điều chẳng nghĩ, làm cho đạo tánh bị ngăn ngại. Nếu thuyết pháp dạy người, chớ nên nói “tự tánh vốn chẳng cần tu chứng”, nói như vậy e rằng kẻ mê chẳng hiểu, lại sanh tà kiến. Chỉ nên dạy người theo pháp tu hành, hành pháp thí mà chẳng trụ nơi pháp tướng. Các ngươi nếu ngộ thì thuyết như vậy, dụng như vậy, hành như vậy, tác như vậy tức không đánh mất bản tông.
Nếu có người đến hỏi nghĩa, hỏi “có” thì đáp “không”, hỏi “không”thì đáp“có”, hỏi thánh đáp phàm, hỏi phàm đáp thánh, nhị biên làm nhân với nhau, sanh nghĩa trung đạo. Hỏi nào đáp nấy, tất cả các câu hỏi khác đều đáp như thế thì chẳng mất cái chánh lý vậy. Như có người hỏi “thế nào là tối?” thì đáp “sáng”, hỏi thế nào là “sáng?” thì đáp “tối”. Vì sáng mất thì tối, tối mất thì sáng, dùng sáng để tỏ sự tối, dùng tối để tỏ sự sáng, trở đi trở lại làm nhân với nhau thành nghĩa trung đạo, tất cả câu hỏi đều phải như thế. Về sau các ngươi truyền pháp, phải y theo đây mà dạy bảo, chớ đánh mất tông chỉ.
Vào tháng bảy năm Nhâm Tý, niên hiệu Thái Cực – Diên Hòa (712), Sư sai môn đồ đến Quốc Ân tự nơi Tân Châu để xây tháp, đốc thợ làm gấp, đến mùa hè năm sau khánh thành.
Ngày mùng một tháng bảy, Sư tựu tập đồ chúng bảo: “Đến tháng tám ta sẽ rời thế gian, các ngươi có nghi cứ hỏi sớm đi, ta sẽ phá nghi, khiến các ngươi hết mê hoặc, nếu ta đi rồi thì chẳng ai dạy bảo”.
Các môn đồ nghe nói thảy đều rơi lệ, chỉ có Thần Hội bình tỉnh chẳng động, cũng chẳng rơi lệ. Sư nói: “Chỉ có tiểu sư Thần Hội được sự thiện bất thiện đồng nhau, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài ra các người đều chẳng được, bấy lâu nay ở trên núi lại tu đạo gì? Nay các ngươi rơi lệ là lo buồn cho ai? Nếu nói lo cho ta chẳng biết sẽ đi về đâu, ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì làm sao dự báo trước cho các ngươi? Các ngươi rơi lệ vì chẳng biết chỗ ta đi, nếu biết chỗ ta đi thì chẳng nên rơi lệ. Pháp tánh vốn chẳng sanh diệt tới lui. Các ngươi hãy ngồi, ta nói với các ngươi một bài kệ, gọi là “CHƠN GIẢ ĐỘNG TỊNH KỆ”, các ngươi giữ lấy kệ này, theo đó tu hành, chẳng đánh mất tông chỉ, thì cùng ta đồng một ý chí”. Đại chúng đảnh lễ, xin Sư làm kệ, kệ rằng:
-
Nhất thiết vô hữu chơn,
Bất dĩ kiến ư chơn.
Nhược kiến ư chơn giả,
Thị kiến tận phi chơn.
Nhược năng tự hữu chơn,
Ly giả tức tâm chơn.
Tự tâm bất ly giả,
Vô chơn hà xứ chơn.
Hữu tình tức giải động,
Vô tình tức bất động,
Nhược tu bất động hạnh.
Đồng vô tình bất động,
Nhược mích chơn bất động,
Động thượng hữu bất động.
Bất động thị bất động,
Vô tình vô Phật chủng.
Năng thiện phân biệt tưởng,
Đệ nhất nghĩa bất động.
Đản tác như thử kiến,
Tức thị chơn như dụng.
Báo như học đạo chơn,
Nỗ lực tu dụng ý,
Mạc ư đại thừa môn,
Khước chấp sanh tử trí.
Nhược ngôn hạ tương ứng,
Tức cộng lực Phật nghĩa.
Nhược thật bất tương ứng.
Hiệp chưởng linh hoan hỷ.
Thử tông bổn vô tranh,
Tranh tức thất đạo ý.
Chấp nghịch tranh pháp môn,
Tự tánh nhập sanh tử.
-
Dịch nghĩa:
Tất cả chẳng có chơn,
Chớ nên cho là chơn.
Nếu người thấy có chơn,
Sự thấy đều chẳng chơn.
Nếu được tự có chơn,
Lìa giả, tâm tức chơn.
Tự tâm chẳng lìa giả, ([*])
Làm sao có chỗ chơn ?
Hữu tình tất phải động,
Vô tình thì bất động.
Nếu tu hạnh bất động,
Đâu khác loài vô tình!
Muốn tìm chơn bất động,
Nơi động có bất động.
Bất động (vô tình) là bất động,
Vô tình vô Phật chủng.
Nếu người khéo phân biệt,
Đệ nhất nghĩa bất động.
Cái thấy được như vậy,
Tức là chơn như dụng.
Báo cho người học đạo,
Siêng tu phải chú ý.
Chớ nên nơi đại thừa,
Lại chấp trí sanh tử.
Vừa nghe liền tương ưng,
Cùng nhau luận nghĩa Phật.
Nếu người chẳng tương ưng,
Chấp tay khiến hoan hỷ.
Tông này vốn vô tranh,
Tranh thì mất ý đạo.
Kẻ trái nghịch pháp môn,
Tự tánh vào sanh tử.
________________
([*]) : Đúng với sai, chân với giả ... đều là giả. Kẻ trái nghịch pháp môn, Tự Tánh vào sanh tử.
-
Đồ chúng nghe xong thảy đều đảnh lễ, lãnh hội theo ý của Sư, mọi người tự nhiếp tâm y pháp tu hành, chẳng dám tranh luận nữa. Đã biết Sư trụ thế chẳng bao lâu, Thượng Tọa Pháp Hải lễ bái hỏi: “Sau khi Hòa Thượng viên tịch, y pháp nên trao phó cho ai?”.
Sư nói: “Tất cả khai thị kể từ khi ta thuyết pháp ở chùa Đại Phạn đến nay, ghi chép lại để lưu truyền cho đời sau, tựa là “PHÁP BẢO ĐÀN KINH”, các ngươi phải hộ trì trao truyền cho nhau để hóa độ chúng sanh, y theo kinh này gọi là Chánh Pháp. Nay chỉ vì các ngươi truyền pháp mà chẳng truyền y bát, vì các ngươi tín căn đã thuần thục, quyết định chẳng nghi, đều có khả năng đảm nhiệm việc lớn của chư Phật chư Tổ truyền lại. Vả lại theo ý bài kệ truyền thọ của Tổ Đạt Ma thì y cũng chẳng nên truyền. Kệ rằng:
Ngô bổn lai thử độ,
Truyền pháp cứu mê tình.
Nhứt hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch nghĩa:
Ta đến đất nước này,
Truyền pháp cứu người mê.
Một bông nở năm cánh,
Kết quả tự nhiên thành.
Sư lại nói: “Các ngươi nếu muốn thành tựu nhất thiết chủng trí, phải thấu ngộ nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Ở tất cả nơi mà chẳng trụ tướng, nơi mọi tướng chẳng sanh yêu ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ việc lợi ích thành bại, trong tâm trống rỗng dung hòa, an nhàn đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam muội. Ở tất cả nơi đi, đứng, nằm ngồi, duy nhất hành theo trực tâm, nơi nào cũng là bất động đạo tràng, như vậy mới thành chơn tịnh độ, đây gọi là nhất hạnh tam muội. Nếu người đủ hai thứ tam muội này, như gieo giống dưới đất, luôn luôn tưới nước và bón phân, cuối cùng sẽ được quả chín. Nhất tướng nhất hạnh cũng như vậy.
-
Nay ta thuyết pháp dụ như mưa lớn, thấm nhuần đại địa, Phật tánh của các ngươi giống như hạt giống, gặp mưa thấm nhuần liền được sanh trưởng. Nối theo tông chỉ của ta quyết thành Bồ Đề, hành theo pháp ta ắt chứng diệu quả, hãy nghe kệ đây:
Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai manh.
Đốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ Đề quả tự thành.
Dịch nghĩa:
Tâm địa chứa nhiều giống,
Gặp mưa đều nẩy mầm.
Đốn ngộ tự tâm rồi,
Quả Bồ Đề tự thành.
Sư thuyết kệ xong nói: “Pháp chẳng có hai, tự tâm cũng vậy, đạo vốn thanh tịnh (trong sạch), cũng chẳng các tướng. Các ngươi cẩn thận, chớ nên quán tịnh và chấp “không” nơi tâm, tự tâm vốn thanh tịnh, chẳng thể lấy bỏ. Mọi người cứ tùy duyên mà đi, hãy cố gắng tu hành!”.
Đồ chúng nghe xong đảnh lễ lui ra.
-
Ngày mùng 8 tháng 7, Sư bỗng gọi môn đồ: “Ta muốn về Tân Châu, hãy mau lo ghe thuyền”. Đại chúng đều năn nỉ ở lại, Sư nói: “Chư Phật ra đời còn phải thị hiện Niết Bàn, có đến thì có đi, lý thường như vậy, thể xác của ta tất phải có chỗ về”.
Chúng nói: “Sư từ nay đi, chừng nào trở về?”.
Sư nói: “Lá rụng về cội, trở về chẳng nói”.
Lại hỏi: “Chánh Pháp Nhãn Tạng truyền phó cho ai?”.
Sư nói: “Người có đạo thì được, người vô tâm thì không”.
Lại hỏi: “Chưa biết xưa nay chư Phật chư Tổ ứng hiện, truyền thọ được bao nhiêu đời ? Xin Sư cho biết”.
Sư nói: “Cổ Phật ứng thế đã vô số lượng, chẳng thể tính được, nay từ thất Phật bắt đầu: Quá khứ Trang Nghiêm Kiếp: Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật, Hiện tại Hiền Kiếp: Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, ấy là thất Phật.
Thích Ca Văn Phật đầu tiên truyền cho:
Tổ thứ nhất : Ma Ha Ca Diếp.
Tổ thứ hai : A Nan Tôn giả.
Tổ thứ ba : Thương-Na Hòa-Tu.
Tổ thứ tư : Ưu Ba Cúc Đa.
Tổ thứ năm : Đề Đa Ca.
Tổ thứ sáu : Di Giá Ca.
Tổ thứ bảy : Bà Tu Mật Đa.
Tổ thứ tám : Phật Đà Nan Đề.
Tổ thứ chín : Phục Đà Mật Đa.
Tổ thứ mười : Hiếp Tôn giả.
Tổ thứ mười một : Phú Na Dạ Xa.
Tổ thứ mười hai : Mã Minh Đại sĩ.
Tổ thứ mười ba : Ca Tỳ Ma La.
Tổ thứ mười bốn : Long Thọ Đại sĩ.
Tổ thứ mười lăm : Ca Na Đề Bà.
Tổ thứ mười sáu : La Hầu La Đa.
Tổ thứ mười bảy : Tăng Già Nan Đề.
Tổ thứ mười tám : Già Gia Xá Đa.
Tổ thứ mười chín : Cưu Ma La Đa.
Tổ thứ hai mươi : Xà Da Đa.
Tổ thứ hai mươi mốt : Bà Tu Bàn Đầu.
Tổ thứ hai mươi hai : Ma Noa La.
Tổ thứ hai mươi ba : Hạc Lặc Đa.
Tổ thứ hai mươi bốn : Sư Tử Tôn giả.
Tổ thứ hai mươi lăm : Bà Xà Tư Đa.
Tổ thứ hai mươi sáu : Bất Như Mật Đa.
Tổ thứ hai mươi bảy : Bát Nhã Đa La.
Tổ thứ hai mươi tám : Bồ Đề Đạt Ma.
Tổ thứ hai mươi chín : Huệ Khả Đại sư.
Tổ thứ ba mươi : Tăng Xán Đại sư.
Tổ thứ ba mươi mốt : Đạo Tín Đại sư.
Tổ thứ ba mươi hai : Hoằng Nhẫn Đại sư.
Tổ thứ ba mươi ba : Huệ Năng vậy.
Từ trên chư Tổ, mỗi mỗi đều có truyền thừa, các ngươi về sau cũng y theo thứ tự truyền thọ, chớ trái với truyền thống.
-
Ngày mùng 3 tháng 8 năm Quý Sửu, niên hiệu Tiên Thiên thứ hai (713) (đến tháng 12 năm ấy đổi niên hiệu là Khai Nguyên nguyên niên), ở chùa Quốc Ân dùng trai xong, Sư bảo đồ chúng: “Các ngươi hãy theo thứ tự an tọa, để ta từ biệt”.
Pháp Hải bạch: “Hòa Thượng lưu lại Giáo Pháp nào khiến người mê đời sau được thấy Phật tánh?”.
Sư nói: “Các ngươi hãy để ý nghe, người mê đời sau nếu nhận được chúng sanh tức Phật tánh. Nếu chẳng nhận được chúng sanh, dẫu cho muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay ta dạy các ngươi nhận được tự tâm chúng sanh, thấy tự tâm Phật tánh. Muốn được gặp Phật, hãy nhận chúng sanh, chỉ vì chúng sanh lầm mê Phật tánh, chẳng phải Phật tánh lầm mê chúng sanh, tự tánh nếu ngộ, chúng sanh là Phật, tự tánh nếu mê, Phật là chúng sanh. Tự tánh bình đẳng, chúng sanh là Phật, tự tánh tà hiểm, Phật là chúng sanh. Các ngươi nếu tâm hạnh quanh co thì Phật ở nơi chúng sanh, nếu được nhất niệm bình đẳng ngay thẳng thì chúng sanh thành Phật.
Tâm ta tự có Phật,
Tự Phật là chơn Phật.
Nếu tự chẳng Phật tâm,
Nơi nào tìm chơn Phật?
Các ngươi tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa. Vạn pháp đều từ tự tâm sanh khởi, chẳng phải vật bên ngoài có thể kiến lập. Nên Kinh nói: “Tâm sanh thì mọi pháp sanh, tâm diệt thì mọi pháp diệt”. Nay ta để lại bài kệ để làm lời từ biệt, gọi là: TỰ TÁNH CHƠN PHẬT KỆ, người đời sau nhận được ý của kệ này, tự thấy bản tâm, tự thành Phật đạo. Kệ rằng:
Chơn như tự tánh thị chơn Phật,
Tà kiến tam độc thị ma vương.
Tà mê chi thời ma tại xá,
Chánh kiến chi thời Phật tại đường.
Tánh trung tà kiến tam độc sanh,
Tức thị ma vương lai trụ xá.
Chánh kiến tự trừ tam độc tâm,
Ma biến thành Phật chơn vô giả.
Pháp thân báo thân cập hóa thân,
Tam thân bổn lai thị nhất thân.
Nhược hướng tánh trung năng tự kiến,
Tức thị thành Phật Bồ đề nhân.
Bổn tùng hóa thân sanh tịnh tánh,
Tịnh tánh thường tại hóa thân trung.
Tánh sử hóa thân hành chánh đạo,
Đương lai viên mãn chơn vô cùng.
Dâm tánh bổn thị tịnh tánh nhân,
Trừ dâm tức thị tịnh tánh thân.
Tánh trung các tự ly ngũ dục,
Kiến tánh sát na tứ thị chơn.
Kim sanh nhược ngộ đốn giáo môn,
Hốt ngộ tự tánh kiến Thế Tôn.
Nhược dục tu hành mích tác Phật,
Bất tri hà xứ nghĩ cầu chơn.
Nhược năng tâm trung tự kiến chơn,
Hữu chơn tức thị thành Phật nhân.
Bất kiến tự tánh ngoại mích Phật,
Khởi tâm tổng thị đại si nhơn.
Đốn giáo pháp môn kim dĩ lưu,
Cứu độ thế nhơn tu tự tu.
Báo nhữ đương lai học đạo giả,
Bất tác thử kiến đại du du.
-
Dịch nghĩa:
Chơn như tự tánh là chơn Phật,
Tà kiến tam độc là ma vương.
Lúc tà mê khởi ma tại nhà,
Khi có chánh kiến Phật tại điện.
Tâm nổi tà kiến tam độc sanh,
Tức là ma vương đến nhà ở.
Chánh kiến khởi lên tam độc trừ,
Ma trở thành Phật thật chẳng giả.
Pháp thân báo thân và hóa thân,
Tam thân vốn chỉ là nhất thân.
Nếu được tự thấy nơi tự tánh,
Gieo nhân Bồ Đề tức thành Phật.
Vốn từ hóa thân sanh tịnh tánh,
Tịnh tánh thường trụ nơi hóa thân.
Tánh khiến hóa thân hành chánh đạo,
Tương lai viên mãn vô cùng tận.
Dâm tánh vốn là nhân tịnh tánh,
Trừ dâm tức là tịnh tánh thân.
Nơi tánh thường tự lìa ngũ dục,
Sát na kiến tánh tức là chơn.
Đời nay nếu gặp pháp đốn giáo,
Hoát ngộtự tánh gặp Thế Tôn.
Nếu người tu hành cầu làm Phật,
Chẳng biết nơi nào để cầu chơn.
Nếu ngay nơi tâm tự thấy chơn,
Có chơn tức là nhân thành Phật.
Chẳng thấy tự tánh, ngoài tìm Phật,
Khởi tâm tìm Phật là si mê.
Pháp môn đốn giáo nay đã truyền,
Cứu độ chúng sanh phải tự tu.
Báo cho tương lai người học đạo,
Chẳng theo chánh kiến mãi mãi chìm.”
-
Sư thuyết kệ xong, bảo: “Các ngươi phải tự hộ trì, sau khi ta viên tịch, chớ nên theo tình chấp thế gian rơi lệ buồn sầu, nhận phúng điếu và để tang, làm như vậy chẳng phải đệ tử của ta, cũng chẳng phải Chánh Pháp. Chỉ nên nhận tự bản tâm, thấy tự bản tánh, chẳng động chẳng tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng lui chẳng tới, chẳng thị chẳng phi, chẳng trụ chẳng đi. Vì sợ các người tâm mê, chẳng hiểu ý ta, nay nhắc lại lần nữa, khiến các ngươi tự thấy tánh. Sau khi ta viên tịch, theo đây tu hành, cũng như ta còn tại thế, nếu trái với lời dạy của ta, dẫu cho ta còn tại thế, cũng đâu có ích lợi gì!”. Lại thuyết kệ rằng:
Ngột ngột bất tu thiện,
Đằng đằng bất tạo ác.
Tịch tịch đoạn kiến văn,
Đãng đãng tâm vô trước.
Dịch nghĩa:
Ngây ngây chẳng tu thiện,
Bừng bừng chẳng tạo ác.
Tịch tịch dứt thấy nghe,
Luôn luôn chẳng dính mắc.
Sư thuyết kệ xong, ngồi ngay cho đến canh ba, thoạt gọi môn đồ: “Ta đi nhé!”, liền ngồi yên viên tịch. Ngay lúc ấy có mùi hương lạ thơm khắp núi, mống trắng mọc vòng cầu chấm đất, rừng cây biến thành màu trắng, cầm thú kêu vang thảm thiết.
Đến tháng Mười Một, các quan chức và Tăng tục ba quận Quảng Châu, Thiều Châu, Tân Châu tranh nhau giành rước nhục thân của Sư, chẳng quyết định được về đâu, bèn cùng nhau đốt hương nguyện rằng: “Khói hương bay về đâu thì nhục thân của Sư về đó.” Lúc ấy khói hương bay thẳng về hướng Tào Khê.
- Ngày 13 tháng11, dời khám thờ nhục thân và y bát của Sư về Tào Khê.
- Ngày 25 tháng 7 năm sau mở khám để nhập tháp. Quan sở tại Thiều Châu dâng biểu tâu lên triều đình, vua sắc chỉ lập bia ghi đạo hạnh của Sư: “Tổ Sư 76 tuổi, năm 24 tuổi được truyền y pháp, 39 tuổi xuống tóc, thuyết pháp lợi sanh 37 năm, người đắc tông chỉ nối pháp được 43 vị, người nghe pháp ngộ đạo siêu phàm thì chẳng biết số lượng. Tín y truyền từ Tổ Đạt Ma, với cái y bát của vua Trung Tôn ban cho, cái chơn tượng do Phương Biện đắp, và tọa cụ của Sư, thảy đều giao cho thị giả giữ tháp, đời đời thờ nơi BỬU LÂM ĐẠO TRÀNG. Lưu truyền PHÁP BẢO ĐÀN KINH để hiển bày tông chỉ, hưng thạnh Tam Bảo, phổ biến lợi ích cho chúng sanh.”
HẾT