-
Ngày 24 Octobre 1936 – 10-9-â.l.
Y lệ triệu thời. Mười một giờ ngọ bột với cải củ nấu cà-ri. Xin đôi giày cũ Tây-tạng của Samdhen, huỷnh hoan hỉ vì đi đường lạnh lắm, giày tây chịu không thấu, cô đầu bếp nói để hộ một đôi vớ Tây-tạng. Samdhen đưa 1 săng mượn cô đầu bếp đem may da semelée lại vì đã lủng rách. Choundouss và Issê lo đi mướn ngựa, về nói chủ ngựa đòi 20 rupee mỗi con tới Kalimpong. Bàn luận thì rẻ hơn quận đi đặng 4 rupee, vì kỳ đi Lhassa thì mỗi con 24 rupee, nếu vậy tiền ngựa quận đi và về 44 rupee, tiền đến Lhassa cúng dường chư tự 150 rupee, tiền sở phí 150 trong 8 tháng đi cùng Samdhen. Thiệt nhờ huỷnh quá, nếu một mình đi bạc ngàn không đủ.
Ngày 25 Octobre 1936 – 11-9-â.l.
Y lệ, 11 giờ ngọ bột với cải củ xào hôm qua và khoai lang luộc. Đợi tới ngày về, còn lo mướn ngựa. Nay Issê đi mướn ngựa, gặp một chủ ngựa ở Pharijong đưa bộ hành đến Lhassa, chịu cho mướn ngựa tới Pha-rijong. Sẽ bàn luận giá cả cùng Samdhen. Bần đạo cùng Issê luận lúc đi về phải trải qua mấy chỗ, mỗi chỗ một ngày đường, nếu đi xăng thì trong 25 ngày tới Phật-đà-gia. Lhassa đi đến Nam, Xhuxul, Bêđê, Namkachê, Ralum, Yăngsê, Khăngma, Kala, Tunna, Pharijong, Gialinhkha, Chima, Natăng, Linhđam, Tchongthapa, Arakara, Kalimpong, Ghoom, Siligauri, Calcutta, Bodhi Gaya. Chiều y lệ.
Tiếp điển :
Tự đến : Đệ nhứt nghĩa. Khuya nầy đặng chỗ truyền Pháp nhãn tạng . . . . . . . . và chỉ thêm chánh pháp niệm đối với chánh pháp nhãn tạng không hai.
1o. Đại nhựt (ngạch)
2o. Bửu sanh (hữu kiên)
3o. Bất không (kiên tả)
4o. A sơ (tâm)
5o. Vô lượng thọ (hầu)
Căn dặn về xứ xem (năm xứ gia trì).
-
Ngày 26 Octobre 1936 – 12-9-â.l.
Y lệ triêu thời trà điểm tâm, ngày nay còn hai bữa nữa đi về, nên hoan hỉ với các huỷnh, uống trà Tây-tạng. Chín giờ có bạn Monsalman của Samdhen đến vì có mời. Mười giờ ra về. Đang lúc bần đạo đang ngoài bếp nấu ăn, Samdhen bước ra than rằng : Mời người bạn đến đặng nói chuyện cậy huỷnh tạm giúp một số tiền đặng làm sở phí cho ba huynh lên đường ngày mốt đây, ai ngờ huỷnh nói túng nên từ chối sự giùm giúp. Bần đạo nghe qua thì rằng : Sao huynh không nói cho tôi hay, bạc còn đây 100R vậy huynh có sự cần dùng thì tạm đây mà dùng, để bỏ túi không ích, và nói và móc tập passeport, lấy tấm giấy cent rupee trao cho huỷnh, huỷnh bèn mừng lòng tiếp lấy và nói để đổi rồi đưa lại cho thầy 50R đặng dùng lên đường. Nhưng bần đạo tính không lấy chi nhiều, vì đi đường khó cất, chi bằng để cho huỷnh xài trong lúc nầy, tiền kém mà chưa lãnh số bạc ba ngàn của Tây-tạng Quốc gia tín cúng, nên huỷnh túng, vậy trước giúp nhau mà cũng như gởi cho huỷnh cất giùm. Vậy bần đạo lấy 20R, còn gởi lại cho huỷnh 220R, sau về Phật-đà-gia sẽ tính tiền sở phí của bần đạo trong sự đi đường, tiền ngựa mướn và chút ít sở phí đò giang, chỗ ngụ là bao nhiêu, còn dư bao nhiêu huỷnh hườn lại cho tròn việc, tài thượng phân minh đại trượng phu ……… Mười một giờ ngọ bột với khoai chiên. Mười hai giờ rưỡi có huynh đầu bếp của đức Taxilama, là bạn đồng hương của Samdhen đến, mua thịt, trà, gạo đặng nấu ăn đãi các huỷnh, có đãi trà Tây-tạng cho bần đạo, hoan hỉ cho vui lòng người. Từ ngày đến Tây-tạng huỷnh cũng hay lui tới, xem tánh tình cũng hào hạp. Huỷnh có hộ cho bần đạo một tấm hình của đức Đại Lama của Taxilama. Cảm ơn thọ lãnh làm kỷ niệm. Đoạn coi tay giùm cho huỷnh, nói sự quá khứ, huynh le lưỡi lắc đầu, sự gia đàng, sự tâm trung, sự ngoại giao nam nữ, nghe qua rất kỉnh. Đoạn nói qua sự sẽ tới, hoạn nạn vị lai…, người mới 34 tuổi, Mẹo niên. Tối lại nài của Đầu bếp, cái áo kỵ hàn giá 10R. Sam-dhen tính tiền của bần đạo tổn phí, ngựa và đi và về 44R, cái áo 10R là 54R, sở phí chút ít cho 6R. Cả thảy là 60R, vậy về tới Kalimpong thì sẽ lấy lại nơi tiệm quen của huynh 160R cộng với 20R mới đưa là 180R cộng với 60R sở phí thì đủ 240R. Đâu đó tính xong mười giờ rưỡi huynh đệ nghỉ. Ý huỷnh sợ bần đạo sau về Phật-đà-gia bỏ huỷnh, không đi các xứ Phật quốc độ cùng huỷnh, nên chi bần đạo rõ tâm nghi ấy, bèn đôi lời phủ ủy cho vững lòng huỷnh rằng : Huynh đừng để lòng lo sợ về sau, việc Phật sự huynh đệ đồng lo, tôi hứa sẽ đi cùng huynh thì lời hứa không quên, vì người Phật đệ tử, buông một lời thì không dám quên, dầu bỏ xác nầy, kiếp sau cũng y lời mà thi hành lời hứa, phương chi Phật khiến hai huynh đệ mình gặp nhau đặng đâu cật lo Phật sự, ấy là điềm lành của người tu hành, ấy là dịp may của bọn tăng chúng, mấy khi đặng, bần đạo bỏ qua sao đặng. Huỷnh nghe qua vui lòng. Bần đạo rằng : Phật chứng minh lời hứa rồi.
-
Ngày 27 Octobre 1936 – 13-9-â.l.
Y lệ, trà điểm tâm, đi dạo chợ cho Samdhen mua áo cho Issê, đoạn về 9 giờ rưỡi đi đến dinh Quan Tả tướng viếng Ngài và đôi lời cầu chúc, cảm ơn lòng tốt của ông bà cho tạm trong dinh của Ngài bốn tháng, và xin ghi passeport. Ngài vui lòng ghi, đoạn đãi trà và kỉnh một sợi anh lạc với hộ một cốt Phật tổ bằng đồng nhỏ cao một tấc, ông bà cầu chúc sự đi đường bình an. Về 11 giờ rưỡi đi viếng Đại Lama của đức Taxilama, dưng anh lạc và 2 săng. Ngài vui lòng nạp thọ và ban niệt điều với đãi trà, đoạn hộ một gói thuốc bá bịnh để đi đường. Về tới nhà 12 giờ rưỡi, đoạn đầu bếp hộ salade cải bắp. Nay không nấu ăn đặng, tạm sơ quấy quá, rồi lo thu xếp đặng mai lên đường.
Chiều 5 giờ có Lama Tzăngpa Khâmtzanh phái đến tiễn hành bần đạo, dưng anh lạc và một ổ beurre. Bần đạo phải đáp lễ 6 săng. Lama từ giã ra về. Bần đạo hộ ổ beurre lại cho Samdhen. Samdhen bèn hộ cho bần đạo một tí thuốc bá chứng, giá thuốc nầy một lượng 60 rupee. Chiều lại Méchen hộ hai bắp cải và khoai lang đi đường. Đợi tới tối mà không có chủ ngựa đến. Vậy mai đi lên đường chưa đặng. Ấy là Hộ pháp chẳng cho đi ngày 14-9 Annam.
Ngày 28 Octobre 1936 – 14-9-â.l.
Y lệ, 10 giờ lo nấu ăn, nấu hết hai bắp cải đặng đem theo đường, 11 giờ ngọ bột với cải bắp cà-ri. Một giờ có huynh coi tay quen Méchen đến dưng một sợi anh lạc, một gói 13 trăng nga 1 kama và một bao nhỏ bột, ấy là lễ tiễn hành và hỏi thăm sự cúng dường. Bần đạo khuyên cúng chùa Phật tổ một trăm ngày và ăn chay trong một trăm ngày ấy và bần đạo biên tên hai vợ chồng :
Chồng : Thubten 42 ans : Mùi.
Vợ : Tsering Doulkar 32 ans : Thìn
đặng phục nguyện giùm, hứa về Phật-đà-gia sẽ cầu Phật và phục nguyện giùm. Từ ngày đến Tây-tạng thì Phật khiến cho làm quen đặng nhiều người. Hai giờ có chủ ngựa đến, hứa mai lên đường. Tốt quá mai là rằm. Ba giờ có Méchen đồng hương Samdhen đến, bần đạo mua 3 trăng nga bánh đãi người và mua 3 trăng nga trà sữa để đãi vợ chồng Méchen của Tả-tướng. Lo sắm sửa đi chùa lễ Phật đặng mơi lên đường. Đến chùa cúng dường đoạn xin keo Phật Tây-tạng một keo dương (xin về lo Phật sự tại Phật-đà-gia và sau trở lại Tây-tạng một kỳ nữa) keo dương là mọi sự đặng vui như ý nguyện, sẽ toàn hảo Phật chào và hoan hỉ ấy là keo dương mật ý đó. Qua điện Phật tổ cũng cầu nguyện y vậy thì đặng keo âm dương : ấy là Phật hoan hỉ cho bần đạo hành Phật sự vuông tròn, mừng lòng cái sở nguyện toàn vẹn nơi Phật địa.
-
Ngày 29 Octobre 1936 – Rằm-9-â.l.
Nay cô đầu bếp lăng xăng lo dưng trà sữa, bần đạo điểm tâm rồi, lo thu xếp đồ hành lý không chi lung, chỉ trọn trong cái vải bao đồ ngủ. Đoạn chờ mã tử đem ngựa lại, xẩn bẩn đã 9 giờ. Samdhen đưa cho bần đạo 4 săng là 1 rupee bảo để dành dọc đường có mua chi chút ít cho dễ rồi huỷnh hối hả bảo : Thầy hãy lo ăn bột cho sớm, để tới ngọ không tiện. Y lời huỷnh, lấy bột và đồ ăn ra, đoạn nhồi bột rồi cúng dường xong xuôi mới ăn. Ăn rồi mà cũng chưa thấy ngựa đến. Samdhen bảo Issê đi kêu mã tử. Mười giờ rưỡi Issê đem ngựa ba con về, mã tử bảo đi trước. Choun-douss và Issê lo gác yên giùm, xong xuôi, bèn cho cô đầu bếp và hai đứa con gái của cổ 1 săng 2 yôgăng, sẵn có con nhỏ ở gần chạy lại cũng cho nó 1 yôgăng. Samdhen hối lên ngựa, đoạn vợ chồng Méchen và bọn quen tựu lại cầu chúc và đưa lên đường, huynh Sam-dhen coi có ý buồn, vì kẻ đi người còn ở nán. Ngựa chậm rãi đi, xế qua lối 2 giờ thì tới xóm Đông-kar xuống ngựa vào nhà quán chờ mã tử tới, vì mã tử có lời dặn tới đây nghỉ ngựa chờ. Hai huynh-đệ họ nhậu xăng, bần đạo không dùng chi cả, vì quán không có gì hết. Chuyện vãn trút giờ, mã tử tới, đoạn tháp tùng đi lên đường, đi chậm rãi tới mặt trời chen lặn tới làng Manê Cha-khăng, mã tử vào trạm hỏi chỗ nghỉ cho ba huynh đệ tạm ngụ một đêm. Tối lo trà uống chuyện vãn tới khuya ngủ. Đêm nay ngủ vùi vì bữa đầu cả buổi ngồi ngựa có hơi mỏi mê.
Ngày 30 Octobre 1936 – 16-9-â.l.
Sáng thức sớm, chủ nhà nấu trà rồi ba huynh đệ điểm tâm trà, còn nội bọn mã tử có vị khách sang đi chung cả thảy sáu người, họ ăn thịt sống chấm ớt bột không muối, thói tục xứ nầy ăn thịt sống đã quen và ăn lạt lẽo ít dùng muối. Choundouss lo trả tiền ngụ là 2 trăng nga. Mặt trời vài sào cao thì lên ngựa. Trời đứng bóng đi tới Nhê-thăng (lúc trước tới đây nhằm ngày 27 Juin). Lúc đi có huynh Samdhen, nay lúc về không có huỷnh thì cũng có ý nhớ nhau, và xem sự đi đường chỗ ăn chỗ ngủ có hơi ít toại ý bằng lúc có Samdhen. Tới đây nghỉ ngựa luôn, mai sẽ lên đường. Lo nấu trà, rồi dùng bột với đồ kho và sữa khô chua. Hộ cho hai huỷnh chút ít đồ ăn. Trọn buổi chiều họ nhậu xăng cùng nhau hỉ hả, bần đạo chỉ ngồi tưởng Phật niệm tăng. Trời lạnh lẽo, tối ngủ vùi.
-
Ngày 31 Octobre 1936 – 17-9-â.l.
Sáng trà rồi 8 giờ lên đường. Trả tiền ngụ một ngày 2 trăng nga. Hai giờ tới Banasap (quận đi tạm nghỉ đổi ngựa ngày 26 Juin) vào trạm nghỉ, ăn ngọ bột cải xào rồi nghỉ luôn đêm.
Ngày 1er Novembre 1936 – 18-9-â.l.
Sáng điểm tâm trà Tây-tạng rồi lo lên đường, mặt trời quá sào, lên ngựa chậm rãi đi, đường đi không đèo ải dễ đi, lối đứng bóng thì đã tới Xhuxoul (Quận đi thì tới làng Đum-bô-chê đổi ngựa đi ra bến Nhập-sóc-cô-trúc ngủ một đêm ngoài trời đoạn sáng đi đò dọc đến Xhuxoul là ngày 26 Juin). Vào trạm nghỉ, lo ăn bột rồi ngụ luôn đến mai sẽ lên đường. Lúc ăn bột thì bọn mã tử và khách thấy không dùng chung cùng hai huynh kia thì họ hỏi. Đoạn Choundouss và Issê rằng : bần đạo ăn chay và ăn ngọ một ngày chỉ có một bữa mà thôi, sớm tối gì cũng một lần ăn, không ăn hai, ba buổi như mình, cả bọn dòm bần đạo hít hà và coi bộ họ lấy làm lạ lắm, vì xứ Tây-tạng chư tu hành ăn ba bữa và dùng thịt, ít có người ăn chay và ngọ, chỉ có bực Đại Lama Thượng tọa mà thôi, ăn chay song cũng ăn ba buổi trong ngày. Đi một bọn cả thảy chín người 36 con ngựa, chở long chiên và hành lý, chiều có một vị mã tử nữa nhập bọn, hỏi ra là người nội bọn, song đi sau vì có việc phải trễ nán, nay nhập bọn. Tới đây bần đạo mới cho nội bọn mã tử coi passeport có vua Tây-tạng phê và cho pháp danh và xem các hình của đức Quốc Vương, Tả lê, Taxi và Quan Tả tướng Tsarung, nội bọn đều cung kỉnh bần đạo và khen ngợi rằng hữu công đức quá. Vì thầy đã lớn tuổi mà chịu cực đi tới xứ Tây-tạng đặng cúng dường lễ Phật thiệt cực khổ mà lại hao tốn quá. Đoạn các mã tử và hai huynh Choundouss và Issê nhập tụi uống xăng vui cười tới tối. Ở đây tạm nghỉ hai ngày vì là làng nhau rún của một vị mã tử, cha mẹ y bảo ở nghỉ chơi tới mốt sẽ lên đường vì lâu hội hiệp vì y có gia đạo tại Pharijong. Đồ ngủ của Bần đạo, Choundouss để dưới lầu, chung với đồ của mã tử, vì huỷnh thấy nặng nề, nên không đem lên lầu, nơi đơn ngụ. Tối lại bọn họ làm một tiệc xăng nữa, Issê say xăng, la lối om sòm. Ấy là : Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm, vì không có Samdhen nên Issê ăn uống vô độ.
-
Ngày 2 Novembre 1936 – 19-9-â.l.
Sáng dậy, xuống lầu đặng thăm đồ hành lý, thấy tanh bành, bèn mở cái valise nhỏ ra xem thì thấy mất hết 6 rupee. Không lạ gì, bọn mã tử ngủ đó, kẻ tham tâm đã lấy, nhưng nghĩ vì Phật nói : Nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định… Nay bần đạo mất số bạc ấy, không phải vô cớ, cũng là một duyên cớ kiếp rồi… Vui lòng không chút phiền hà. Thôi còn lại 14 rupee, lấy ra cất trong túi quần tây, luôn dịp đem gói hành lý ấy lên lầu, thuật lại cho Choundouss rõ cái sự tệ ấy. Huỷnh và Issê hít hà và ăn năn không cẩn thận, ngỡ không có chi trong gói, nên không đem lên lầu, mà thầy cũng không nói. Bần đạo sợ hai huỷnh buồn e bần đạo phiền hà nên nói : Không hại gì, kẻ tu hành không cần tiền bạc, phải chi mất kinh sách, giấy tờ trong valise thì buồn, chớ mất tiền thì có chi lo buồn, hai huynh còn tiền đi đường là quí, ấy là kiếp trước bần đạo thiếu nợ của kẻ cắp nên nay phải trả. Nói rồi cười xòa cho họ hết ngại. Ấy là một dịp hay cho bần đạo tiện dịp nói mất hết đặng sau đi đường hai huỷnh không ỷ lại mà quá ăn uống chơi bời, ấy là sự bần đạo lo hơn hết. Vì xứ Tây-tạng phần nhiều nam nữ hỗn loạn lắm, và nhà nhà đều có thứ xăng trữ để, ấy là xứ lạnh họ hay dùng như uống trà mà ít tốn tiền hơn trà mà đặng ấm áp hơn. Nội bọn mã tử nghe mất tiền ai nấy cũng buồn giùm. Nội ngày vào xóm, trưa ngọ bột. Khí hậu đã lạnh lẽo hơn mấy ngày trước, vì tuyết xuống trắng đầu non, nước theo triền núi đã tráng mặt cứng đông, đêm ngủ thẳng giấc, khuya thức đi tiểu, nghe tiếng đờn bà la inh ỏi ngoài đường và nghe có tiếng chơn người chạy theo sau. Vào kêu hỏi Issê vì huỷnh thức giấc, huỷnh lại cửa sổ hé cửa xem thì nghe cô ấy đã vào nhà dưới lầu la khóc om sòm và bọn mã tử cãi lẫy và cười rộ với nhau. Issê khép cửa và nói, bọn mã tử chơi giỡn, cô đờn bà bị họ chọc nên giận khóc la là vậy, không chi lạ. Bần đạo nghĩ cho huỷnh không hiểu lắm. Thôi ngủ… Sáng thức hỏi ra thì mới rõ, cô nọ lấy 3 săng của vị Babon hứa tối giao thông, song tối không giữ lời hứa mà cũng không trả tiền lại, nên mới có cuộc rượt nhau hồi hôm…
-
Ngày 3 Novembre 1936 – 20-9-â.l.
Sáng lo trà bột điểm tâm, 8 giờ lên đường đi chừng một giờ thì đã tới bến đò Cha-sâm-chu-ủ-rê, xuống ngựa thì đã thấy hành khách tại bến đông vầy cũng chờ đò (Quận đi đến Nhạip-sóc-cô-trúc, đặng đi đò dọc, thì có đi ngang qua bến đò nầy, có chụp ảnh chỗ miễu nơi cầu). Đò cây bên bến bên chùa đã chèo qua, người ngựa xuống đò nhưng không chở một lần cho hết đặng, nên phân ra làm hai quận, bần đạo đi chuyến trước, xuống đò thấy nước dưới đáy đò đông cứng hết bọn chèo đò lo hốt tát nước. Rảo mắt xem chiếc đò thì thấy cách đóng chiếc đò cũng lạ hơn xứ Nam-việt, đẽo cây chuông như cột vuông chừng một tấc rưỡi rồi đâu ráp lại như cái thùng rectangle,(1) dài sáu, bảy thước, ngang lối ba thước, kịch cộm thô tháo, song xem sự chắc ước dùng vài chục năm, vì xứ ít cây nên phải dùng vậy. Còn đò, ghe nhỏ thì dùng toàn bằng da, may rồi trét chai theo lằn may. Issê rằng : Từ đây tới Pharijong thì đi đường phải lạnh lẽo vì gió lung lắm, tuyết lấp đường cao ước đôi ba tấc. Bần đạo khi đứng yên trong đò dựa be, đò chở xong bèn chèo qua bên kia bến. (Lúc đi nước đổ lung, lúc nầy nước kém rồi, nên cũng ít chảy mạnh, đò chèo qua ít bê.) Tới bến, lên ngựa chậm rãi đi đặng đợi tốp sau. Ngồi trên ngựa, gió thổi lạnh quá, bèn ngẫm nghĩ rằng : Lúc nầy tháng chín mà trời lạnh dường nầy, tuyết trên núi đã trùm các đảnh, nước theo triền, trong mấy ao vũng đều đông đặc hết, mấy cái suối nhỏ thì hai bên mé đã đông, chính giữa còn chảy, có nhiều suối vì nước chảy không mạnh nên bị gió thổi quá mà phải đông đặc tráng mặt, nước chảy dưới nước đá tráng mặt, người đi không bể, chỉ có vó ngựa mới nát lồi nước, nghĩ cho qua tháng chạp ắt sẽ đông đặc cả suối lớn nhỏ. Tưởng vậy bèn nhớ tới huynh Samdhen còn ở nán lại Lhassa, lúc nầy lạnh lẽo quá, và lúc về Phật đà lối tuần tháng 11 thì phải chịu biết bao sự lạnh lẽo lối dọc đường, tưởng vậy phút động tâm thương Đạo hữu Samdhen.
Lần lượt ngựa đếm bước, phút đã tới xóm Khempa tôm-pô (lúc đi, đi đò dọc nên không biết xóm nầy) thì mặt trời đã quá ngọ. Đây nhà cửa chật hẹp, không có nhà trạm, nên phải tạm nghỉ ngoài đồng ruộng. Bọn mã-tử đi sau chưa đến, thì mã tử già và Choundouss vào nhà quen của mã tử. (Choundouss cũng lạ đặc vì trước cũng không có đi đường nầy, nay mới lần nhứt.) Mướn nấu trà mua xăng đặng đợi tốp sau. Độ vài giờ thì Choundouss đem trà ra bảo : Thầy dùng bữa vì đã trễ quá rồi. Bần đạo bèn lấy bột và đồ ăn ra lo nhồi bột dùng bữa, đoạn lối 2 giờ thì tốp sau đã tới. Xúm xích kiếm chỗ an nghỉ. Đêm nay lớp gió, lớp sương lạnh thấu ruột, nhưng nhờ có cái áo lông che đắp nên ngủ cũng êm. Đi đường như thế, chỉ niệm Phật, chớ ngồi thiền định không đặng, hữu ngọa tư-duy tới muội tâm thì thôi. Khuya thức giấc tốc mền đi tiểu lạnh quá, không ngủ lại đặng, trùm mền nằm đó nghe ngựa khua chuông bèn động tâm thương đến thượng cầm hạ thú nơi xứ nầy, trong lúc đông thiên chịu sự lạnh lẽo rất khổ sở, tưởng vậy rồi nằm quán tưởng từ vô thỉ đến nay thọ không biết mấy lần thọ thân cầm thú, thì cũng phải vậy, rồi nhớ tới Phật tổ đã trong 500 kiếp lẫn lộn cùng cầm thú không biết mấy lần vì lòng mẫn độ chúng sanh mà quên điều cực khổ, nhẫn nhục hữu-tình và vô-tình. Quán vậy, phút cả thân đều hết lạnh.
-
Ngày 4 Novembre 1936 – 21-9-â.l.
5 giờ sáng từ biệt Khampa-tampô, họ ăn bột, bần đạo không dùng. Đi đến núi Khampa-bachzi. Mười giờ tới đảnh, trải qua xóm triền dọc theo hồ. Ba giờ tới xóm Xú-sê (là nơi lúc đi trẽ theo đường dây thép tới xóm nầy dùng xăng), đây là ngã ba, nay đi đường khác, không đi đường núi Nhạp sóc la. Bốn giờ tới làng Pêté (quận đi ghé ngày 24 Juin) nghỉ ăn bột nghỉ luôn đêm. Mai đi Nhênh-xi ou(1) Xi-ô. Từ mé triền xóm Ma-xú-xê thì đi theo mé hồ lớn dài, bề ngang bằng sông Thủ, bề dài ước tám, chín chục cây số.
Ngày 5 Novembre 1936 – 22-9-â.l.
6 giờ từ biệt Pêté lên ngựa đi. Mười hai giờ tới làng Nhênh-xi. (Không ngụ tại Năng-cang-sê như quận đi 23 Juin.) Bữa nay ít gió, ít lạnh, nước mé triền đặc đông, theo mé hồ lớn cũng đặc (9 giờ tới đường đắp cuối hồ là nơi đổi ngựa ngày 24 Juin, tạm nghỉ uống trà ngoài đồng). Vào trạm nghỉ ăn ngọ, xóm nầy ít nhà chỉ có vài nóc gia. Chiều thiền định.
Tiếp điển :
Tổ sư về sự độ nhơn sanh phương tiện, tùy thuận chúng sanh thân ngữ ý vân vân. . .
Ông chủ trạm thấy, hỏi thăm Issê, Issê và Choun-douss thuật sự.
Ngày 6 Novembre 1936 – 23-9-â.l.
6 giờ trà bột cúng dường rồi điểm tâm, sắm sửa lên đường, phút chủ trạm cậy xem tay, Choundouss nài nỉ xem giùm, ông tên Sâmthroup 36 tuổi (Sửu) người cúng dường 1 săng 2 yôgăng nhang đèn và để tiền hộ.
5 giờ rưỡi lên ngựa, 8 giờ tới quận Năng-cang-sê, mã tử ghé mua lúa né cho ngựa rồi đi, dọc đàng giông gió lạnh và các suối nhỏ đều đông nước, suối lớn hai bên cũng đặc, ngựa lấy cẳng đạp bể nước tráng mặt đặng uống.
1 giờ tới Ziá-ra (quận đi ngụ 22 Juin). Khi đi nước mênh mông nay về ráo rẻ, còn chút ít đều đặc hết.
Ngày 7 Novembre 1936 – 24-9-â.l.
4 giờ sáng thức uống 3 chén trà, họ uống xăng. Năm giờ lên ngựa từ biệt Ziá-ra, lên đảnh Kharula, ôi biết bao nhiêu lạnh, ngựa đạp tuyết rổn rảng, con suối dưới triền đặc nước, trên đảnh trắng phao, quận đi đến đây ngày 22 Juin, không mấy lạnh, nay nước đông, gió mạnh, tê tái tứ chi, mặt mày như cắt. Chín giờ tới ngã ba cuối đường núi Kharula, hai người trong bọn đi qua Giăng-sê, còn nội bọn trẽ qua đường khác. Mười hai giờ tới xóm Chamanangca ou (Giamônangca) tạm nghỉ luôn tới mai. Ngọ bột, chiều mua của cô chủ trạm 1 yogăng cải củ bào kho một nồi. Xóm nầy chỉ có vài cái nhà thôi.
-
Ngày 8 Novembre 1936 – 25-9-â.l.
4 giờ sáng trà điểm tâm, họ dùng bánh canh thịt, 5 giờ đi bộ một khúc đường xấu, ngựa cỡi khó đi. Đoạn đến nơi đường tốt, lên ngựa thẳng lên đảnh Ôpyala, 9 giờ tới hữu đảnh đoạn xuống triền, lần lượt gộp nầy tới gộp kia. Hai giờ tới làng Dranh-đa-zi-ga, tạm nghỉ tới mai.
Trà vài chén rồi ăn quá ngọ cũng bột, cải kho. Đêm nay ngủ nhà bếp ấm áp như hôm qua.
Ngày 9 Novembre 1936 – 26-9-â.l.
4 giờ sáng thức, trà điểm tâm. Năm giờ rưỡi thả bộ một đỗi, rồi lên ngựa qua hai đảnh núi cận nhau, 10 giờ tới hữu đảnh, xuống triền ngựa lần bước. Hai giờ tới xóm Yôkăng (hai đảnh tên Sêljola. Làng nầy có nhà thơ, khi đi có ghé nơi bờ lộ trước nhà thơ uống xăng ngày 14 Juin).
Tối lại chủ gia nghe thuật việc bần đạo, thì vợ chồng phục lắm. Mượn xem tay một cô, chồng ta-bà. Đoạn bà hộ cải bẹ đưa cho hai huynh đệ. Tối ngủ ấm áp.
Ngày 10 Novembre 1936 – 27-9-â.l.
5 giờ thức trà, trả tiền nhà, ông từ chối xin cúng hiến Lama. Sáu giờ rưỡi lên ngựa. Một giờ rưỡi tới làng Samadơss, vào trạm nghỉ, trà rồi dùng bột. Bọn mã tử tách phe, hai huynh đệ coi bộ giận. Đêm nay lạnh và bị ba bữa rày chuyển răng cùng, đêm nay nó hành ngủ không đặng. Bọn mã tử mua thịt chia cho hai huynh đệ, bớt giận. Mã tử có dại gì làm quen, ăn chung mà làm biếng quá !…
Ngày 11 Novembre 1936 – 28-9-â.l.
4 giờ thức, trà nước. Kẻ bột người không. Sáu giờ lên đường, trải qua làng Kala (khi trước tạm ngụ ngày 12 Juin) đi tới 2 giờ tới xóm Xhalu tạm ngụ nhà bếp dơ dáy. Hết đồ ăn mua cô chủ nhà không lấy tiền cải củ. Hai người đi Giăng-xê, nay đã hiệp bọn, mua giùm 3 trăng nga khoai lang tây. Dùng bột cải bào kho. Chia Xhura 3 yoyăng. Coi tay giùm cô chủ gia. Tối ngủ không bao nhiêu. Mua đặng một cái hộp quẹt 1 trăng nga.
Ngày 12 Novembre 1936 – 29-9-â.l.
1 giờ sáng thức trà rồi. Hai giờ lên đường, trời ló đầu núi tới Dorxhanh, họ ghé uống xăng. Issê say. Mười hai giờ tới Touna (lúc đi là 11 Juin gọi Tuyna cũng vậy). Nghỉ nhà khác, chủ gia cho phòng cũng khá hơn các nơi, nhưng không đặng hoan-hỉ lắm. Trời lạnh, răng nhức, hết thuốc hút, mua cùng không có, thật xứ khổ lắm.
Ngày 13 Novembre 1936 – 30-9-â.l.
4 giờ sáng thức, nấu trà uống. Năm giờ đi lên đường, dọc đàng mua đặng một gói thuốc 2 trăng nga, đỡ nhức răng vì đi trên đồng Gobi hai ngày rày gió nhức tai nhức mắt, tê tay chơn. Một giờ tới Pharijong mừng quá vào nhà quen lúc trước nghỉ, mốt sẽ lên đường. Uống trà rồi, chiên khoai ăn bột. Cô chủ gia mừng rỡ hỏi lăng xăng. Ngày nay hai huynh đệ làm tiệc xăng. Say mèm cả hai. Cạo đầu.
-
Ngày 14 Novembre 1936 – mùng 1-10-â.l.
Mấy ngày không rửa mặt, nay hâm nước tẩy sạch sẽ, nhậu trà, mượn mua thuốc, hộp quẹt, trà, sữa, đường, dầu ăn, hành cả thảy là 13 trăng nga. Nấu trà sữa uống vì 15 ngày rồi không uống. Ngọ cơm, khoai kho, mượn Choundouss 1 rupee (24 trăng nga 1 yogăng), mua trọn 1R ống sữa khô. Đêm nay đi tiệc xăng cùng bạn. Choundouss say, đi kêu, bị Issê đánh một thoi vào mắt hữu. Cả ngày buồn luôn.
Ngày 15 Novembre 1936 – 2-10-â.l.
6 giờ thức lo điểm tâm bột khoai khô đợi Issê tới 7 giờ rưỡi mới về. Tám giờ mã-tử đem ngựa lại, từ biệt Pharijong, từ đây hết đường đồng Gobi, cứ đi đường triền núi, lên ải ít, xuống đèo nhiều, 15 cây số xa Pha-rijong thì dọc theo triền đã có cây tòng vì lần lần xuống thấp, tới 20 km đã có nhà có nóc cây hoặc tôle, đi ngang qua làng Gaou, có nhà thờ Anglais, có quán. Năm giờ tới Batzăng vào trạm nghỉ. Chủ trạm nầy niềm nở lắm. Ăn bột khoai kho đêm ngủ ấm áp. Từ đây dân chụm củi. Đường đầy phân bò, ngựa không ai lượm.
Ngày 16 Novembre 1936 – 3-10-â.l.
5 giờ thức, 6 giờ rưỡi lót lòng bột. Bảy giờ lên đường cách 4 km tới Numpôsôchi là nơi nhà đúc bạc tiền Tây-tạng khi trước, nay dời về Lhassa. Mười một giờ trải ngang qua Galinhkha, đi luôn (nhớ lúc đi ngày 27 Avril, tạm ngụ nơi chùa của đức Dromo Gueshay và cúng dường). Nghe đồn Ngài tịch Choundouss và Issê ghé đó hỏi thăm tin tức. Một giờ tới trạm Xhiênggiu tạm nghỉ mai đi. Cúng dường bột rồi dùng bữa, tối nghỉ êm ả, hai huynh đệ hiệp bọn, hỏi ra đức Dromo thiệt tịch, ngài có nói : ta sẽ trở lại trong ít năm xa đại chúng.
Ngày 17 Novembre 1936 – 4-10-â.l.
5 giờ sáng thức, trà nước bột lót lòng, 6 giờ rưỡi thả bộ đi ngang Galinhkha, Xa xinh (Englis). Issê và Choundouss ghé đó đòi tiền, trải qua xóm China Ri-canhcăng (lúc đi tạm ngụ 22 Avril, 23, 24) đến đây lên ngựa đi lên đảnh. Một giờ tới nửa đảnh tới trạm Bi-thăng-ka, vào trạm nghỉ. Lama Pharijong lo trà, bần đạo thả lại quán, còn 2 trăng nga 1 yogăng bèn uống 2 ly trà ngọt với bánh mì Tây-tạng. Sáu giờ hai huynh đệ về nói đòi không đặng, để mai tới trạm khác, có thơ của Police sẽ có tiền. Tối nghỉ êm…
Ngày 18 Novembre 1936 – 5-10-â.l.
4 giờ thức, 6 giờ trà bột, 7 giờ thả bộ lên đảnh Zêlêla, tới nữa đảnh ghé quán Népali uống một ly trà ngọt (tiền Issê 1 ana) lên ngựa đi 12 giờ tới đảnh (ranh thuộc địa Anglais và Tibet, xuống triền rồi lên đảnh Koubou, ghé quán ăn bánh và uống trà ngọt (2 anas) lên ngựa xuống triền lên dảnh Koubou nhỏ, đoạn đi bộ xuống triền rồi lên ngựa lên đảnh Nađăng, ghé trạm nghỉ mai đi. (Khi đi là ngày 20 Avril.) Ăn bột khoai. Bốn giờ chiều. Tối nghỉ.