-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Thánh đế khổ vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; Thánh đế tập, diệt, đạo vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì Thánh đế khổ vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; Thánh đế tập, diệt, đạo vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì Thánh đế khổ vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; Thánh đế tập, diệt, đạo vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì Thánh đế khổ vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; Thánh đế tập, diệt, đạo vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì Thánh đế khổ là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; Thánh đế tập, diệt, đạo là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì Thánh đế khổ vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; Thánh đế tập, diệt, đạo vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì Thánh đế khổ vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; Thánh đế tập, diệt, đạo vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì Thánh đế khổ viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; Thánh đế tập, diệt, đạo viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì Thánh đế khổ tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; Thánh đế tập, diệt, đạo tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì Thánh đế khổ bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; Thánh đế tập, diệt, đạo bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì Thánh đế khổ bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; Thánh đế tập, diệt, đạo bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì Thánh đế khổ vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; Thánh đế tập, diệt, đạo vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của Thánh đế khổ chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì bốn tịnh lự vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì bốn tịnh lự vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì bốn tịnh lự vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì bốn tịnh lự vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì bốn tịnh lự là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì bốn tịnh lự vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì bốn tịnh lự vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì bốn tịnh lự viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; bốn vô lượng, bốn định vô sắc viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì bốn tịnh lự tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; bốn vô lượng, bốn định vô sắc tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì bốn tịnh lự bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì bốn tịnh lự bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì bốn tịnh lự vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của bốn tịnh lự chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát, là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì tám giải thoát vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì tám giải thoát vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì tám giải thoát vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì tám giải thoát vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì tám giải thoát là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì tám giải thoát vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tám giải thoát vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tám giải thoát viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì tám giải thoát tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì tám giải thoát bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì tám giải thoát bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì tám giải thoát vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của tám giải thoát chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa tri cũng chẳng thành tựu; thế lực của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì bốn niệm trụ vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì bốn niệm trụ vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì bốn niệm trụ vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì bốn niệm trụ vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; bốn niệm trụ là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì bốn niệm trụ vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì bốn niệm trụ vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì bốn niệm trụ viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì bốn niệm trụ tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì bốn niệm trụ bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì bốn niệm trụ bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì bốn niệm trụ vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của bốn niệm trụ chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì pháp môn giải thoát không vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì pháp môn giải thoát không vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì pháp môn giải thoát không vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì pháp môn giải thoát không vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì pháp môn giải thoát không là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp môn giải thoát không vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì pháp môn giải thoát không vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp môn giải thoát không viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì pháp môn giải thoát không tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì pháp môn giải thoát không bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì pháp môn giải thoát không bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì pháp môn giải thoát không vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của pháp môn giải thoát không chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì năm loại mắt vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; sáu phép thần thông vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì năm loại mắt vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; sáu phép thần thông vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì năm loại mắt vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; sáu phép thần thông vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì năm loại mắt vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; sáu phép thần thông vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; năm loại mắt là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; sáu phép thần thông là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì năm loại mắt vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; sáu phép thần thông vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì năm loại mắt vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; sáu phép thần thông vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì năm loại mắt viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; sáu phép thần thông viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì năm loại mắt tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; sáu phép thần thông tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì năm loại mắt bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; sáu phép thần thông bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì năm loại mắt bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; sáu phép thần thông bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì năm loại mắt vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; sáu phép thần thông vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của năm loại mắt chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của sáu phép thần thông chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì mười lực Phật vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì mười lực Phật vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì mười lực Phật vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì mười lực Phật vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; mười lực Phật là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì mười lực Phật vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì mười lực Phật vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì mười lực Phật viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì mười lực Phật tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì mười lực Phật bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì mười lực Phật bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì mười lực Phật vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của mười lực Phật chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của bốn điều không sợ cho đến mười tám phát Phật bất cộng chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói đại Bát-nhã ba la la mật đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì pháp không quên mất vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; tánh luôn luôn xả vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì pháp không quên mất vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; tánh luôn luôn xả vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì pháp không quên mất vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; tánh luôn luôn xả vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì pháp không quên mất vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; tánh luôn luôn xả vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì pháp không quên mất là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; tánh luôn luôn xả là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì pháp không quên mất vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; tánh luôn luôn xả vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì pháp không quên mất vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; tánh luôn luôn xả vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì pháp không quên mất viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; tánh luôn luôn xả viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa thất cũng viễn ly; vì pháp không quên mất tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; tánh luôn luôn xả tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì pháp không quên mất bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; tánh luôn luôn xả bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì pháp không quên mất bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; tánh luôn luôn xả bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì pháp không quên mất vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; tánh luôn luôn xả vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của pháp không quên mất chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của tánh luôn luôn xả chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì trí nhất thiết vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì trí nhất thiết vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì trí nhất thiết vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì trí nhất thiết vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì trí nhất thiết là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì trí nhất thiết vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì trí nhất thiết vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì trí nhất thiết viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì trí nhất thiết tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì trí nhất thiết bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì trí nhất thiết bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì trí nhất thiết vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của trí nhất thiết chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 180
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; tất cả pháp môn Đà-la-ni là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; tất cả pháp môn Tam-ma-địa viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; tất cả pháp môn Tam-ma-địa bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; tất cả pháp môn Tam-ma-địa bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.