THẾ HỆ THỨ MƯỜI LĂM
(BA NGUỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)
59. THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG
Chùa làng Tháp bát, quận Mãn đẩu(1). Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà lương, nhỏ đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên hòa núi Chân ma(2). Xuất gia và thọ giới cụ túc, hầu hạ vài năm, Sư được Thiền chỉ. Sư dựng một cái am ở núi Lịch(3). Trải qua năm năm, chuyên thiền định, sau chống gậy xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Ði tới Nam sách, Sư vào núi Thánh chúa(4) ở cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến phục.
Lý Thần Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Ðại Thuận thứ 8(5), có nạn dịch lớn , Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia lâm dùng nước chú giải để trị. Người bệnh lành ngay. Ngày đến cả ngàn, vua rất khen thưởng cho hộ 10 người để làm cấp dưỡng.
Tuổi già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi.
Một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng rằng:
"Ta có một việc kỳ đặc
Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen
Thiên hạ tại gia xuất gia
Yêu sống, ghét chết là giặc
Không biết sống chết khác đường
Sống chết chỉ là được mất
Nếu bảo sống chết khác đường
Dối lừa Thích Ca, Di Lặc
Nếu biết sống chết, sống chết
Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng
Các ngươi môn nhơn hậu học
Chẳng nhận vòng vo phép tắc".(*)
Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là châu mục Lê Kiếm (6)và phòng át sứ Hán Ðinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng để hương khói.
______________
Chú thích :
(1)
Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì "Thiền sư Giới Không là vị sư huyện Gia lâm tu hạnh đầu đà, có thể sai khiến quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến chầu. Sau ngồi thẳng mà mất".
Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng thích dẫn lại đoạn trích vừa dịch của An nam chí nguyên và sửa lại một đôi chữ thành "Giới Không người huyện Gia lâm, chân tu đắc đạo, sau ông ngồi ngay thẳng mà tịch". Nhưng truyện Giới Không ở đây nói Không "người quận Mãn đẩu". Mãn đẩu chưa bao giờ là tên của quận hay huyện Gia lâm cả. Chúng tôi nghĩ, có lẽ Giới Không được mời về ở chùa Gia lâm vào khoảng những năm 1128-1132, nên Ðại nam nhất thống chí đã ghi lầm là người Gia lâm. Thế thì, quận Mãn đẩu ở đâu?
Các sách sử khác không thấy có quyển nào nói tới một quận tên Mãn đẩu cả. Về làng Tháp bát thuộc quận này, chúng tôi cũng chưa gặp ở một nơi nào khác. Dẫu vậy, Kiến văn tiểu lục 6 tờ 14b 4-6 có viết: "Các núi của Tuyên quang và Hưng hóa, nơi nơi đều có cây mạn để, lá nó như cây cổ độ tục gọi đát cây to tới hai hay ba thước, rất độc. Cây và lá nó trôi vào sông khe thì cá chạch đều chết". Chúng tôi nghi, quận Mãn đẩu là nơi có cây mạn để đấy. Mãn đẩu chắc là một ghi âm khác mạn để, hay ngược lại, như Cứu lan của Ðại Việt sử lược đã biến thành Cứu liên của Toàn thư và Thiền uyển tập anh. Xem chú thích (1) truyện Mãn Giác. Nếu vậy, quận Mãn đẩu nằm tại tỉnh Tuyên quang ngày nay giữa hai lưu vực sông Chảy và sông Lô.
Xác định quê hương của Giới Không như thế, ta sẽ hiểu tại sao Không đã từng Tu hành tại núi Lịch và có môn nhân là Châu mục Phong châu là Lê Kiếm. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 3a3 có ghi một bài bia có Hàn lâm quyền học sĩ Ðỗ Nguyên Chương viết năm Long Khánh thứ 5 (1377) cho chùa Phúc minh ỡ làng Mạn để. Làng Mạn để chắc là quận Mãn đẩu còn sót lại.
(2)
Núi Chân ma hiện không thấy các sách sử khác ghi. Nhưng cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a3 có ghi một ngọn núi tên Ðán ma thuộc sơn hệ Tam đảo. Chúng tôi nghi Chân ma đó là Ðán ma đó, bởi vì từ Ðán ma đến Lịch sơn không xa lắm. Lịch sơn là núi sau này Giới Không dựng am tu.
(3)
Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b1: "Núi Lịch tại xã Yên lịch, huyện Sơn dương, khởi từ núi Sư khổng, huyện Ðương đạo mà xuống đến xã đó thì đất bằng bổng nổi lên núi đất năm sáu ngọn, rẽ ngang phân một chi xuống lập thành thành Lãng sơn, chi xuống huyện Tam dương thành núi Hoàng chỉ. Trong đó núi Lịch cao nhất. Trên đỉnh có đất bằng như điện đài năm sáu chỗ, có động vua Thuấn rất thiêng. Hoa quả trên núi người ta có thể hái mà ăn, nhưng không được mang về. Nếu có ai mang về, họ liền lạc đường, không thể ra được nữa. Bên trên vua Thuấn có đền vua Nghiêu, đều phải cúng chay. Ở đấy xưa có tự điền , để cung cấp cho người giữ đền. Xã Yên lịch ở dưới núi lại có miếu vua Thuấn…"Xem thêm Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên.
(4)
Hang Thánh chúa này là hang núi Kính chúa tại làng Kính chúa huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương thời Nguyễn, tức hang núi Thạch môn, làng Dương nham, huyện Kính môn, tỉnh Hải dương ngày nay, ở đấy có hang và hang núi hiện vẫn còn là hang Kính chủ. Bởi vì truyện đây nói Giới Không đi đến Nam sách, mới vào ở hang Thánh chúa. Và Nam sách là tên một lộ đời Trần. An nam chí lược 1 tờ 19 ghi là lộ Nam sách giang. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: "Năm Lê Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Nam sách thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) định bản đồ thiên hạ, gọi đó là Hải dương, Thừa tuyên gồm bốn phủ, tức Thượng hồng, Hạhồng, Nam sách và Kinh môn, lĩnh 18 huyện…" Và Nam sách thừa tuyên hay lộ Nam sách giang theo Dư địa chí đã nổi tiếng với núi Kính chủ, nơi sản xuất đá hoa.
Viết về núi này Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Kính chủ tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, một tên là núi Thắng hóa nham, cao 160 trượng, hang dài 60 trượng, rộng 20 trượng. Lại có chùa ở núi Lương nham tử, hướng nam, không biết dựng từ đời nào. Vua Trần Nhân Tôn đánh giặc Nguyên có đóng quân trên núi đó…Hang bên phải dài 40 thước, rộng 50 thước thờ Thiền sư Minh Không. Hang bên trái dài 7 thước rộng 20 thước thờ Lý Thần Tôn. Thổ nhân tương truyền xưa có một người đánh cá bên sông Kính chủ thấy một tượng gỗ mắc vào lưới mình, vứt ra mà tượng không ra, bèn khấn rằng nếu tượng có linh, xin giúp cho tôi có nhiều cá thì tôi sẽ thờ làm thần. Từ đó người ấy đánh được rất nhiều cá được lời, bèn rước tượng lên bờ. Người trong thôn đến xem thì thấy nó nói: "Ta là Lý Thần Tôn, nhân đi chơi mà đến đây. Nhân thế, họ lập miếu ở động núi để thờ. Họ lấy tháng giêng và tháng 10 làm tháng kỵ".
Sự tích vừa dẫn, dù đầy đủ tính chất hoang đường quái đản, giải thích cho ta không ít tại sao ngọn núi Kính chủ hay Thánh chủ đã có tên như vậy. Thêm vào đó, Toàn thư B7 tờ 18b3 ghi: "Năm Thiệu Phong 15 (1355) mùa xuân tháng hai núi ở Trà hương băng". Cương mục chính biên tờ 10a5-7 cũng ghi việc đó, nhưng sửa lại là núi Kính chủ, rồi chua như: Kính chủ là Thánh chủ ở tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương.
(5)
Niên hiệu Ðại Thuận, chỉ Ðại Việt sử lược ghi lại, còn Toàn thư và tất cả các sử khác của ta gọi là Thiên Thuận, là của Lý Thần Tôn kéo dài từ năm 1128-1132. Như vậy, tất không thể nào có chuyện "năm Ðại Thuận thứ 8" được. Chúng tôi nghi năm Ðại Thuận "thứ 8" chắc là một viết sai của năm Ðại Thuận thứ hai hoặc thứ ba. Nhưng trong khoảng Ðại Thuận, cả Ðại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một nạn dịch lớn nào xảy ra cả, nên không thể quyết đoán được. Do thế, chúng tôi vẫn để nguyên như nguyên văn đã có. Có thể năm Ðại Thuận thứ 8 là một chép lộn của năm Ðại Ðịnh thứ 8, nhưng trong khoảng Ðại Ðịnh, các sử vẫn không thấy ghi một nạn dịch nào lớn cả.
(6)
Tức cháu nội của châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn và công chúa Kim Thành và là anh của Thiền sư Trí Nhàn ở dưới đây. Cứ truyện Trí Nhàn, thì Kiếm giữ chức Châu mục của Phong châu, chứ không phải một nơi nào khác.
-------------------
Chú thích của hungcom :
(*)
http://www.truclamtaythien.com/kinhs.../bai14p245.gif
http://www.truclamtaythien.com/kinhs.../bai14p246.gif
Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,
Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.
Thiên hạ tại gia xuất gia,
Thân sanh ố tử vi tặc.
Bất tri sanh tử dị lộ,
Sanh tử chỉ thị thất đắc.
Nhược ngôn sanh tử dị đồ,
Trám trước Thích Ca Di Lặc.
Nhược tri sanh tử, sanh tử,
Phương hội lão tăng xứ nặc.
Nhử đẳng hậu học môn nhân
Mạc nhận bàn tinh quỹ tắc.