-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
255. “Pháp cúng dường nên được dùng như một cách đối trị tâm bám luyến, tham lam.”
256. Một trong Tám Pháp Vương Tử (Tám Đại Bồ Tát) (xem Thuật Ngữ), khác biệt với Đức Phật bản nhiên Phổ Hiền.
257. “Pháp sám hối các hành vi tiêu cực là cách đối trị tánh ganh ghét.” NT
258. “Những việc đưa tới giải thoát” ám chỉ các thiện hạnh được làm trong khi áp dụng ba phương pháp siêu việt. Những hành động tích cực tốt lành khác chỉ dẫn tới các tái sinh tốt đẹp hơn.
259. Vài chi tiết được đưa ra trong NT: “Mọi suối nguồn công đức phát sinh từ chân lý tuyệt đối không bị ô nhiễm bởi các cảm xúc tiêu cực (zag med); mọi suối nguồn công đức phát sinh từ chân lý tương đối đều bị ô nhiễm (zag bcas). Mọi suối nguồn công đức được thành tựu trên các con đường tích lũy hai bồ công đức và nối kết thì đều bị ô nhiễm; mọi suối nguồn công đức thành tựu trên các con đường của cái thấy (kiến đạo) và thiền định thì không bị ô nhiễm. Mọi công phu tích lũy phước đức đều bị ô nhiễm; mọi công phu tích lũy trí tuệ thì không bị ô nhiễm.”
260. “Cách đối trị vô minh.” NT
261. NT mô tả điều này như cách đối trị tà kiến, và thêm rằng cầu nguyện sự trường thọ cho vị Thầy hay các huynh đệ và tỉ muội Kim Cương của ta là một pháp tu hết sức sâu xa quét sạch các chướng ngại đe dọa đời sống của riêng ta.
262. “Nhập Niết Bàn” trong mạch văn này ám chỉ rằng chư Phật hay Bồ Tát đang chấm dứt những hoạt động của các Ngài trong thế giới chúng ta, và vì thế chúng ta khẩn cầu các Ngài ở lại (trụ thế) và tiếp tục những công hạnh này vì lợi lạc của chúng sinh, như cư sĩ Cunda đã làm trong trường hợp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
263. “Cách đối trị sự bất quyết.” NT. Nếu không hồi hướng những hành động tích cực ta đã làm, ta không biết được chúng sẽ có kết quả ra sao.
264. Ví dụ như nếu ta thực hiện một hành động bác ái mà không đưa tác ý của ta vào với hồi hướng và nguyện lực, thì hành động đó được mô tả là “không có ý hướng” (lung ma bstan). Không rõ điều lợi lạc nào sẽ đến từ loại hành động này. Tuy nhiên ví dụ nếu ta phát sinh một ước nguyện, chẳng hạn như nguyện không bao giờ phải thiếu thốn những nhu yếu của đời sống trong khi thực hành Phật Pháp, thì hành động ấy có được một ý hướng chính xác và sẽ dẫn tới mục tiêu ao ước.
265. Ta có thể hồi hướng kết quả của một hành động tốt lành cho một người đặc biệt. Tuy nhiên, để hành vi đó thực sự có hiệu quả, ta nên hồi hướng quả lành cho tất cả chúng sinh kể cả người đó.
266. Từ Tây Tạng gsol ba ’debs pa ở đây, như trong hầu hết các trường hợp trong bản văn này, được dịch là “lời cầu nguyện” hay “khẩn nguyện.” Tuy nhiên, cũng nên được hiểu trong ý nghĩa sâu xa và rộng rãi nhất của từ Anh ngữ, và có lẽ với những ý nghĩa hơi khác nhau. Từ đó có nghĩa đen là đưa ra (‘debs) một sự thỉnh cầu (gsol), nhưng gsol cũng bao hàm sự hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi một điều gì đó không thể sai lầm, và ‘debs là một việc làm mạnh mẽ, quả quyết (PWR). Như vậy điều ấy còn ám chỉ thêm một tâm thái được cảm nhận - một tâm thái hoàn toàn xác quyết, cởi mở và tin cậy – chứ không ám chỉ riêng hình thức của sự thỉnh cầu; ta có thể hiểu ý nghĩa của lời cầu nguyện trong đoạn này bao hàm việc thọ nhận bốn quán đảnh.
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
267. “Điều phải được thành tựu là quả vị của bốn Kim Cương (vajra). Các kinh mạch được tịnh hoá là thân Kim Cương, hay Hoá Thân; các năng lực được tịnh hoá là ngữ Kim Cương hay Báo Thân; tâm được tịnh hoá là tâm Kim Cương hay Pháp Thân; chân tánh được tịnh hoá (của ba thân trên) là sự bất khả phân kim Cương hay Thân Tự Tánh.” NT
268. Thuật ngữ heruka thường được dùng cho các Bổn Tôn phẫn nộ, nhưng thực ra muốn nói tới bất kỳ sắc tướng nào tượng trưng cho bản tánh tối hậu của ta. “He tượng trưng cho Pháp Giới (có nghĩa là tánh Không), ka tượng trưng cho trí tuệ, và ru tượng trưng cho sự hợp nhất của hai cái trên” NT. Ý nghĩa của đoạn này trong bản văn là ý nghĩa trong bất kỳ pháp tu Kim Cương Thừa nào mà ta có thể hành trì, bản tánh của Bổn Tôn chính yếu bao giờ cũng là Thầy của riêng ta, do đó Ngài luôn luôn là trọng tâm tối yếu của lòng quy ngưỡng và là suối nguồn của các năng lực gia trì.
269. Sau sự hợp nhất của tinh tuý của mẹ và của cha lúc thụ thai, luân xa hoạt hiện được hình thành (luân xa này, hay cakra, có vị trí ở rốn khi thân thể được cấu tạo). Từ đó xuất hiện ba kinh mạch chính mà sau đó chia nhỏ thành hàng ngàn kinh mạch khác. Xem “kinh mạch” và “luân xa” trong Thuật Ngữ.
270. shes bya bum ‘jug, một trong những giáo huấn về pháp du già (yoga) giấc ngủ được tìm thấy trong giáo lý Đại Viên Mãn.
271. Ở mức độ này, dùng các tri kiến như con đường có nghĩa là kinh nghiệm những cái thấy đó mà không có bất kỳ ý niệm tạo tác nào về một thực tại nội tại của tri kiến hay của người đang có tri kiến. Sáu thức và những đối tượng của thức trở nên không thể nghĩ lường được, giống như không gian (Pháp Giới). Những thức này không tạo ra tham luyến nữa và do đó không còn là một nguồn mạch của đau khổ.
272. Pháp quán đảnh đưa ta tới giải thoát bằng cách giúp cho dòng tâm thức ta được thuần thục.
273. “Quán đảnh nền tảng là như sau. Nếu ta chứng ngộ bản tánh của tâm, là Phật tánh của ta, thì đó là ‘quán đảnh’ Niết Bàn. Nếu không chứng ngộ thì đó là ‘quán đảnh’ sinh tử. Trên con đường, quán đảnh gồm có ba yếu tố:
1) Quán đảnh nền tảng, trong đó ta được một vị Thầy tâm linh chân chính dẫn dắt ta vào trong mạn đà la của một vị Bổn Tôn. Vào lúc này, giỏi lắm là ta sẽ chứng ngộ được cái thấy (kiến) của quán đảnh viên mãn. Trong trường hợp trung bình, ta sẽ có kinh nghiệm về hỉ lạc, về tánh sáng và trạng thái vô niệm. Kém nhất thì ta cũng nên kinh nghiẹäm được một niềm tin vững chắc rằng thân, khẩu và ý của ta là ba Kim Cương, với một tâm thức không bị lung lạc bởi bất kỳ điều gì khác. Một lễ quán đảnh hay gia lực được thọ nhận trong cách thức này sẽ là một hỗ trợ cho con đường Kim Cương Thừa. Tuy nhiên, việc khẩn cầu thêm nhiều lễ quán đảnh nữa cho tới khi đầu ta bị dẹt đi (bởi những món đồ lễ đặt lên đỉnh đầú), trong khi tâm ta không tiến bộ chút nào thì không thể được xem như một quán đảnh chân thực.
2) Quán đảnh con đường. Một khi ta đã nhận quán đảnh nền tảng, thì bất kỳ quán đảnh nào được nhận sau đó, dù ta nhận từ vị Thầy nào khác hay nhận từ chính mình, đều là những quán đảnh trên con đường tu Kim Cương Thừa mà diệu dụng của các lễ ấy là chỉnh sửa và tịnh hoá.
3) Quán đảnh đạo quả là “quán đảnh đại tịnh quang,” quán đảnh này có được nhờ sự bất khả phân của nền tảng và tịnh quang, và nhờ năng lực trí tuệ của quán đảnh viên mãn. Quán đảnh đại tịnh quang có thể tiêu trừ mọi chướng ngại của các tập khí lâu đời, hoặc tiêu trừ các khuynh hướng của ba tri kiến của ta về tánh sáng, kinh nghiệm tăng trưởng, và kinh nghiệm thành tựu trong thời gian chuyển di (vào lúc chết).”
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
274. Các lễ quán đảnh giúp tịnh hoá những tham đắm của ta đối với ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới, hoàn thiện các phẩm tính của ba Thân (kaya) trong ta và làm chín muồi trí tuệ tịnh quang trong chúng ta.
275. Một tên khác của Núi Màu-Đồng Đỏ.
276. spangs rtogs, những phẩm hạnh của một vị Phật -giải thoát khỏi mọi chướng ngại mê lầm và tập khí, và chứng ngộ hai loại hiểu biết thấu suốt -- thấu suốt tất cả những gì phải thấu suốt và thấu suốt bản tánh của mọi hiện tượng và sự việc (vạn pháp).
277. Theo giáo lý Kim Cương Thừa, Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ khi Ngài xuất hiện trong thế giới và mọi hoạt động của Ngài chỉ là một sự phô diễn để giảng dạy cho chúng sinh.
278. Núi Malaya, hay Malayagiri (ri ma la ya), ở Sri Lanka và thường được coi ngang hàng với ngọn núi thiêng Sumanakuta, hiện nay được gọi là Đỉnh Adam, cũng là một nơi có dấu chân của Đức Phật và đã được đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) viếng thăm. Trong vài bài tường thuật, Núi Malaya được mô tả là “chói lọi với những tảng thiên thạch” (gnam lcag ’bar ba).
279. Năm Đấng Tuyệt Hảo Cao Quý Siêu Phàm (dam pa’i rigs can dra ma lnga) là một vị Trời (grags ldan mchog skyong, Phạn: Yasasvi Varapala), một naga (long, rồng) (klu rgyal ‘jog po, long vương Taksaka), một dạ xoa (skar mda’ gdong, Ulkamukha), một la sát (blo gros thabs ldan, Matyaupayika) và một con người (dri med grags pa, Ngài Vimalakirti); hoặc theo một vài nguồn tài liệu, vua Trời Đế Thích (Indra) (rig ‘dzin lha dbang rgyal sbyin) được đưa vào danh sách thay cho Vimalakirti.
280. mdo dgongs ‘dus, cũng được biết là ‘dus pa mdo. Mặc dù được gọi là một Kinh văn (sutra), thực ra bản văn này là một trong bốn Mật điển gốc của Anuyoga. Kinh văn này được La Sát Matyaupayika ghi lại trong chất khoáng beryl nấu chảy.
281. rgyud gsang ba’i snying po, Phạn: Guhyagarbha, ở đây được gọi là Mật điển Bí Mật Huy Hoàng (dpal gsang ba’i rgyud).
282. Câu chuyện của Garab Dorje được kể trong đoạn kế. Mặc dù Ngài có gốc gác Ấn Độ, chúng tôi giữ nguyên tên Tây Tạng của Ngài, bởi trong truyền thống Tây Tạng, tên tiếng Phạn (Pramodavajra hoặc Prahevajra) của Ngài ít được dùng tới, và tên Tây Tạng của Ngài thì có vẻ quen thuộc với độc giả hơn.
283. Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), rdo rje sems dpa’: rdo rje sems có nghĩa là tâm Kim Cương, và ở đây Vajrasattva có thể được hiểu trong ý nghĩa tuyệt đối của Giác tánh nguyên sơ (rig pa) bất hoại.
284. rgyal thabs spyi lugs: pháp quán đảnh không có bất kỳ tiến trình hữu hình hay nghi lễ nào, chỉ đơn giản là sự trao truyền đầy đủ và trạng thái Giác Ngộ tức thời từ tâm qua tâm. spyi lugs, “rót,” ám chỉ sự trao truyền trực tiếp này, trong khi rgyal thabs, “phương tiện của các Đấng Chiến Thắng,” có thể được hiểu là ám chỉ cho Phật Quả và, như một ẩn dụ, cũng ám chỉ vương quyền được ban cho, như do một vị vua truyền cho người kế tục.
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
285. yang sprul: “Hoá Thân của một Hoá Thân” vì Garab Dorje là một Hoá Thân của đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), mà chính Kim Cang Tát Đỏa lại là Hoá Thân của đức Phật Phổ Hiền (Samantabhadra).
286. Bản văn có một cách giải thích khác, ma brtsol nghĩa là “không dụng công.” Tuy nhiên cả hai có nghĩa là không có sự tạo tác hay vận dụng trong tâm thức. ZR
287. byang sems rdo la gser zhun.
288. Nyatri Tsenpo được tôn phong trong thung lũng Yarlung, một trong bảy lãnh địa nhỏ ở trung tâm Tây Tạng, có lẽ vào thế kỷ thứ hai hay thứ ba trước Công nguyên. (HIST cho là năm 247 trước Công nguyên). Dòng dõi của Ngài trở nên nổi danh là triều đại Chogyal, và về sau dần dần nắm được quyền kiểm soát một phần trọng yếu của xứ sở.
289. Lha-Thothori Nyentsen (374-? sau Công nguyên) là vị vua thứ 28 của triều đại Chogyal, và sự kiện mô tả được cho là xảy ra vào năm 433 sau Công nguyên. Những niên đại này được cung cấp trong DICT và bởi Dudjum Rinpoche trong HIST, trong tác phẩm này Ngài nói thêm rằng một biến thể của câu chuyện, theo đó Kinh và các linh vật khác được mô tả là đã được những học giả thăm viếng Ấn Độ mang tới Tây Tạng. Câu truyện biến thể này cũng có thể rất xác thực.
290. Danh hiệu có nghĩa là “viên ngọc như ý.” Để có thêm chi tiết, xin coi HIST.
291. mdo sde za ma tog bkod pa (Phạn: Aryakarandavyuha sutra), một bản thảo về Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara được tìm thấy trong Mani Kahbum của vua Songtsen Gampo).
292. dpang skong phyag brgya pa’i mdo (Phạn: Saksipuranasudrakanama sutra).
293. Niên đại cuộc đời Ngài Songtsen Gampo thường được cho là vào khoảng 609-698, nhưng theo Gendun Chophel thì là 617-650 (xem Biên Niên Bạch Sử trang 13). HIST cũng cho là Ngài sinh năm 617, trong khi các tác giả khác thì cho là năm 629.
294. gtsug lag khang hay điện thờ trung tâm ở Lhasa, Rasa Trulnang, ngày nay được gọi là Jokhang, có thể chỉ được xây dựng trên những vị trí quan trọng được tiên đoán quanh Tây Tạng và những vùng biên giới sau khi bốn điện thờ Thadul (mtha’ ‘dul) hay Thuần Hóa Biên Địa và bốn điện thờ Yangdul (yang’dul) hay Thuần Hoá Ngoại Biên, cùng những điện thờ khác đã được xây cất. Để biết chi tiết câu chuyện và các vị trí, xin xem HIST, quyển 1, trang 510 và các chú thích.
295. Công chúa Văn Thành (Wen-Ch’eng Kung-chu), (người Tây Tạng gọi là Kongjo) là con gái của Hoàng đế Đường Thái Tông đời Đường. Pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi, và từng được một vị vua là Phật tử xứ Bengal tặng cho Hoàng đế Trung Hoa; điện Ramoche được xây năm 641 để an vị pho tượng này nhưng về sau được di chuyển sang điện Rasa Trulnang (Jokhang), là nơi hiện nay có tượng Jowo Rinpoche nổi danh. Hoàng hậu Tritsun là con gái vua Amsuvarman xứ Nepal; pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tám tuổi hiện thờ trong Điện Ramoche.
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
296. Truyền thuyết kể lại rằng pho tượng này (nay vẫn có thể thấy trong điện Potala ở Lhasa) được tạc từ gỗ cây đàn hương thân tròn trong đó người ta tìm thấy năm hình ảnh.
297. Theo DICT, hầu hết các học giả cho rằng niên đại của Trisong Detsen là 790-844, mặc dù theo Buton thì Ngài sinh năm 718 và theo quyển Baikar Yasel thì là năm 730. Xin coi chú thích 301 về những vấn đề niên đại trong thời kỳ này.
298. sa ‘dul: một nghi lễ để tịnh hoá đất đai và chế ngự những thế lực của đất ở nơi đó, trước khi xây dựng một dinh thự.
299. Ngài có thể đương đầu với mọi tình huống xuyên qua cái thấy tối hậu. ZR
300. Stupa (tháp) tại Bodhnath, Nepal. Xem Phần Hai, Chương Hai, Mục I và chú thích 129.
301. Theo Khetsun Zangpo Rinpoche, niên đại trong việc xây dựng Samye như sau: Năm 797, Khenpo Santaraksita cúng đất. Năm 798 Ngài bố trí nền móng. Năm 802, Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) rời Ấn Độ, tới Samye năm 809. Năm 810 Ngài cúng đất lần nữa, và năm 811 bố trí lại đá móng. Năm 814, Samye hoàn tất. Niên đại tương tự được đưa ra trong HIST nhưng với lời chú giải là cũng có thể mọi việc xảy ra ít hơn cách tính truyền thống một chu kỳ sáu mươi năm giữa 790 và 953; nói cách khác, có lẽ tất cả những niên đại này nên được điều chỉnh lại bằng cách trừ đi sáu mươi năm.
302. Ba yếu tố của giáo lý Đại Viên Mãn (shan ‘byed, la bzla ba, rang grol).
303. Những cuộn giấy nhỏ trên đó những biểu tượng được viết ra mà từ đó các vị khám phá kho tàng tâm linh có thể phát lộ toàn bộ một giáo lý hay giáo khoá. Xem Tulku Thondup, Giáo Lý Ẩn Tàng Của Tây Tạng.
304. Ba dòng truyền thừa của sự truyền dạy “dài” bka’ ma là dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng (rgyal ba dgongs pa’i brgyud), dòng truyền thừa qua biểu tượng của các bậc Minh Trì Vidyadhara (rig ‘dzin brda’i brgyud) và dòng truyền qua sự lắng nghe của chúng sinh bình thường (gang zag snyan brgyud). Sáu dòng truyền thừa “ngắn” gter ma hay sự truyền dạy các kho tàng tâm linh cũng chính là ba dòng truyền thừa được quán đảnh do cầu nguyện (smon lam dbang bskur ba’i brgyud), dòng niêm phong và giao phó cho các vị Không Hành nữ (dakini) (mka’ ‘gro gtad rgya’i brgyud), và dòng kế thừa được phó chúc theo tiên tri (bka’ bab lung bstan gyi brgyud). Trong đoạn này, Patrul Rinpoche mô tả vắn tắt sự liên tục của ba dòng sau cùng này, là những dòng đặc trưng đối với các kho tàng tâm linh. “Việc niêm phong và giao phó cho các Không Hành nữ (dakini)” tương ứng với việc cất dấu kho tàng trên thực tế. Để có thêm chi tiết, xin coi HIST quyển I, trang 745. Việc sở hữu “chín” sự truyền dạy ám chỉ các dòng truyền thừa bao gồm bka’ma (ba) và gter ma (sáu) phương pháp truyền dạy.
305. Tất cả những Đạo Sư này sống trước thời Jigme Lingpa rất lâu. Ngài gặp các Đạo Sư này và nhận giáo lý chi tiết từ các Ngài trong các linh kiến. Ngài được biết đến là người có một hiểu biết phi thường thọ nhận được qua linh kiến cho dù Ngài đã không phải nhọc công chút nào trong việc học hỏi nghiên cứu.
306.Vajradhara (rdo rje ‘chang) có nghĩa là “Bậc trì giữ Kim Cương” (Kim Cương Trì). Vị Thầy nắm giữ chìa khoá để đi vào bản tánh bất hoại của ta. Điều này thường được dùng như một cách hết sức tôn kính khi nói tới một bậc Thầy vĩ đại.
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
307. Dòng đầu của câu tục ngữ này, mgo ma tshos gong lce snyabs, có thể được hiểu theo nghĩa đen là để ám chỉ rằng không nên nếm một cái đầu đang được nấu cho tới khi nó sẵn sàng (việc nấu đầu những con trâu yak hay bò được phổ biến ở Tây Tạng, đặc biệt là trong những người chăn cừu du mục). Tuy nhiên, ‘thè lưỡi ra’ có thể ngụ ý biểu lộ sự đồng ý hay bằng lòng, và ‘đầu được nấu’ thì đôi khi được dùng như một sự tiên tri về sự thấu suốt. Như vậy, theo một cách dịch khác – nếu như kém màu sắc hơn – sẽ là “chấp nhận trước khi bạn có được sự thấu hiểu.”
308. “Pháp chuyển di siêu việt được thực hành bởi chư Bồ Tát, là những vị đã thiền định về chân lý của chân như hay thực tại tuyệt đối (chos nyid kyi bden pa) trên Kiến Đạo (Path of Seeing), là những bậc mà ngay trong đời này, đã phát sinh được một cái nhìn đúng đắn về bản tánh bất biến của chân như (gnas lugs) và giữ gìn cái nhìn đúng đắn đó suốt ngày đêm không gián đoạn. Các Ngài thực hành pháp chuyển di theo những giáo huấn cốt tủy về pháp chuyển di từ thân này (grong ‘pho) sang thân khác (grong ‘jug) theo pháp môn hành trì trekcho, hoặc theo các giáo huấn ‘đi vào bên trong thanh tịnh quang’ của pháp môn hành trì thogal.
“Rồi có những người trì giữ mật nguyện rất trong sạch, là những người làm chủ được sự tỉnh giác nhưng chỉ điều phục được tri giác của họ vào ban ngày, và không thể kiểm soát được tri giác của họ vào ban đêm. Khi họ chết và tiến trình tan rã cũng như các hiện tượng của ‘tánh sáng, tăng trưởng, và thành tựu” xảy ra, thì thanh tịnh quang của thân tuyệt đối vào lúc chết xuất hiện. Đó là thanh tịnh quang “mẹ”, là giây phút xuất hiện của (thức) nền tảng. Họ được dẫn dắt bởi thanh tịnh quang “con”, là kinh nghiệm tịnh quang mà họ đã được kinh nghiệm trong đời này. Khi hai thanh tịnh quang gặp nhau thì họ được giải thoát trong (thức) nền tảng nguyên sơ, thuần tịnh.
“Có những người đã bắt đầu có được những kinh nghiệm về ‘sự phát triển kinh nghiệm và huyễn tướng’ trong pháp hành trì thogal. Vào lúc chết, khi thanh tịnh quang của thời điểm chết xuất hiện, họ không nhận ra được tịnh quang bởi họ không có sự chứng ngộ để nhận ra điều đó, và không thể được giải thoát. Nhưng khi trạng thái trung gian (trung ấm) của chân tánh của thực tại (chos nyid bar do) xuất hiện, họ nhận ra được chân tánh và an trú trong sự nhất như và nhờ đó, được giải thoát trong sự hiển lộ tự nhiên (của chân như).
“Cả hai phương thức giải thoát: giải thoát siêu việt trong đời này và giải thoát trung bình trong giai đoạn trung ấm đều được coi là sự chuyển di siêu việt qua dấu ấn của Pháp Thân. (Cũng xem chú thích 314).
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
309. “Pháp chuyển di trung bình được thực hành bởi những người bắt đầu có được trí tuệ ba la mật của giai đoạn toàn thiện. Sau khi đạt được một trình độ trong sáng của con đường hợp nhất, họ phát sinh trí tuệ của con đường đó và có khả năng nhập vào và lìa bỏ một huyễn thân. Một cách khác, họ bắt đầu có được những chứng ngộ nào đó về một sự hiển lộ thanh tịnh (rtsal nang), về sự hợp nhất bất khả phân của hai khía cạnh phát triển
(generation) và toàn thiện (perfection) của các Bổn Tôn và đã tự quen thuộc với sự biểu hiện này. Vào lúc chết, như ở trong lúc tan rã của trong giai đoạn phát triển, họ hòa tan huyễn thân vào thanh tịnh quang. Nếu trong đời này họ đã từng phát triển thanh tịnh quang rạng ngời (dpe’i ‘od gsal), thì họ sẽ nhận ra được thanh tịnh quang tối thượng trong trạng thái trung ấm, và kết quả là họ sẽ hiện ra trong thân của vị Bổn Tôn, là đại ấn của sự hợp nhất, tuy rằng điều này chưa siêu vượt được yếu tố của việc nghiên cứu học hỏi (slob pa’i zung ‘jug phyag rgya chenpo).” NT
zung ‘jug yeshes kyi sku (Phạn. Yuganaddha-Jnanakaya), “Thân trí tuệ hợp nhất,” là sự hợp nhất của sắc thân và Pháp Thân, hay nói khác đi là sự bất khả phân của huyễn tướng và tánh Không, hoặc của giai đoạn phát triển và toàn thiện. “Sự hợp nhất” (zung ‘jug) có nghĩa là sự nhận thức ra được hai khía cạnh này của chân tánh của thực tại, không phải là hai điều tách biệt, giống như hai sừng của một con bò, nhưng hoàn toàn bất khả phân.
310. Pháp chuyển di này được thực hành bởi những người mới bắt đầu trên con đường vun bồi công đức, là những người đã nhận quán đảnh, tôn trọng các mật nguyện và có một sự hiểu biết thấu suốt về cái thấy (kiến). Pháp này cũng được thực hành bởiø những người sử dụng giai đoạn phát triển như con đường tu nhưng chưa thuần thục. Mặc dù họ không thể được giải thoát trong thanh tịnh quang vào giây phút lìa đời hay trong trạng thái trung ấm của chân tánh, nhưng họ có thể đóng lại con đường dẫn đến một tử cung nào không thuận lợi, và chọn một tái sinh thuận lợi. Nhờ lòng bi mẫn và Bồ Đề Tâm của họ, họ được dẫn dắt tới một cõi Phật thanh tịnh, hay tái sinh như một Hóa Thân (xem Thuật Ngữ) từ những bậc cha mẹ đang thực hành Giáo Pháp. Họ sẽ được giải thoát trong đời kế tiếp.
311.Pháp chuyển di thông thường được thực hành bởi những người sơ cơ chỉ có lòng quy ngưỡng chí thành vào Giáo Pháp và đã không có được dấu hiệu thành công nào trên con đường tu để có thể tự tiên đoán được việc giải thoát của họ.
312.Lúc hơi thở đã ngừng nhưng trái tim vẫn chưa ngưng đập
313.Đây là trường hợp nếu ta không có năng lực trí tuệ cần thiết. Một cách giải thích khác có nghĩa đây không phải là cách thích hợp để trợ giúp cho người chết.
314.mkha’ spyod gnas su khrid par byed. Điều này không nên được hiểu theo một cái nhìn quá duy vật. “Trong thực tế, không có điều gì và không ai dẫn dắt hay được dẫn dắt. Đây chỉ đơn giản là sự hội tụ của tịnh quang ‘mẹ’ và ‘con’.” DKR. Thanh tịnh quang ‘mẹ’ là chân tánh căn bản của chúng ta và chân tánh này nằm ngay trong tất cả mọi chúng sinh, là điều mà vị Thầy đã giới thiệu cho chúng ta. Thanh tịnh quang ‘con’ là sự tương tục của việc nhận ra bản tánh đó là việc mà chúng ta đã nuôi dưỡng trong công phu thực hành của mình. (Cũng xem chú thích 308).
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
315.Những thành phần của thân thể có thể được tập hợp lại thành bốn (đôi khi là năm) yếu tố bên trong (khams): 1) thịt, 2) máu, 3) nhiệt, 4) hơi thở hay năng lực (rlung), (và trong một số luận thư y khoa, dù không có ở đây là 5) các xoang). Những yếu tố này tương ứng với bốn (hay năm) yếu tố bên ngoài là: 1) đất, 2) nước, 3) lửa và 4) gió hay khí (cũng là rlung), (và trong nhiều trường hợp 5. hư không). Cả hai yếu tố bên ngoài và bên trong được hiểu rõ nhất như là những đặc tính hay những trạng thái của cả hai thế giới bên ngoài và những thành phần của thân thể bên trong, gồm có trạng thái đặc chắc, trạng thái lỏng, nhiệt độ, sự chuyển động và chức năng. Những kinh nghiệm được mô tả đã xảy ra khi mà những đặc tính (trong những vai trò đặc biệt như là những thành phần cấu thành một cơ thể sống động) bị hư hoại, và những đặc tính này lại hòa nhập hay “phân rã” trở lại vào trong một tổng thể bao la hơn.
316.“Vào thời điểm của tánh sáng, ý thức của năm cánh cửa (của các giác quan) (sgo lnga’i shes pa) tan hòa trong tâm thức (yid shes). Vào giai đoạn tăng trưởng, tâm thức tan hòa vào trong tâm của các cảm xúc (nyon yid). Vào lúc thành tựu, tâm của các cảm xúc tan hoà vào thức nền tảng (kun gzhi). Khi ta phục hồi được ý thức (thời điểm được gọi là cận kề sự thành tựu), thì thức nền tảng tan hòa vào thanh tịnh quang.” NT. Vào lúc này có một kinh nghiệm trực tiếp của thanh tịnh quang nền tảng. Với những người đã chứng ngộ được phần nào chân tánh của thức nền tảng đó như là Pháp Thân và từng nắm vững được nhận thức đó, thì ngay lúc này, khi thanh tịnh quang mẹ và con hội tụ, sẽ là một cơ hội để có thể đạt được giải thoát tức thời. Đối với phần lớn mọi người, giây khắc này vụt qua không thể nhận ra, nhanh như một ánh chớp.
317.Họ không có được sự vững chãi không gì lay chuyển được trong công phu hành trì, và không có được niềm tin bất thối chuyển về chánh kiến (một cái thấy chân chính); đây là những yếu tố cần thiết để có thể thực hành những pháp chuyển di như đã mô tả ở trên.
318.Ở đây, đối với “thân phàm,” thay vì thuật ngữ tha mal lus thường được sử dụng trong những chỉ dạy về quán tưởng, thì bản văn này dùng thuật ngữ gzhi lus, nghĩa đen là thân “căn bản” hay “nền tảng.” Trong những thuật ngữ nói chung, ý nghĩa cũng tương tự – thân phàm của ta – nhưng cũng có hàm ý là thân phàm của chúng ta thì cũng huyễn hoá. Còn bar do’i sgyu lus, “thân huyễn hoá của trạng thái trung ấm,” nền tảng hay căn bản của mọi kinh nghiệm huyễn hoá mà chúng ta đang trải qua trong cuộc đời hiện tại này – thân ấy không khác gì trạng thái trung ấm của giai đoạn hình thành (srid pa’i bar do), và chính thân ấy cũng là một trạng thái trung ấm (skye gnas bar do). PWR. Xem Thuật Ngữ ‘trạng thái trung ấm.’
319.Ở đây thuật ngữ này có thể được hiểu đơn giản là tâm thức của ta. ZR
320.Ở đây thành ngữ này có nghĩa là một vị Phật.
-
Lời vàng của thầy tôi CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________
321.“Người ta muốn nói gì qua từ năng lực (rlung được tượng trưng bởi giọt tinh chất bindu xanh lục) và tâm (sems được tượng trưng bởi chủng tử tự hrih)? Khía cạnh chuyển động chính là năng lực và khía cạnh thấu biết chính là tâm thức, nhưng tự bản chất thì năng lực và tâm thức chỉ là một và đồng nhất.” NT
322. Một vị tôn giả đã khám phá được những kho tàng tâm linh ở thế kỷ thứ 14.
323.mkha spyod: nói chung, là một cõi Trời. Ở đây một cõi Trời “vĩ đại” (mkha spyod chen po) được ám chỉ như thế có nghĩa là một loại cõi Phật, được hiển lộ vì lợi ích của chúng sinh. Một cõi Trời “nhỏ” (mkha spyod chung ngu) có thể ám chỉ bất kỳ cõi Trời nào. (Cũng xem chú thích 314.)
324.gnam chos. Namcho hay Giáo Lý Hư Không là một tuyển tập giáo lý mười ba cuốn mà Ngài Mingyur Dorje, là một vị khai quật tàng kinh trứ danh, đã thọ nhận được trong một loạt các linh kiến. Mingyur Dorje sinh năm 1645 và tịch năm 1668 lúc hai mươi ba tuổi. Dòng Namcho là một trong những truyền thống tu tập chính yếu của các tu viện Nyingma thuộc phái Palyul và Kathok ở miền Đông Tây Tạng.
325.Những chướng ngại như thế phát sinh chủ yếu do kỹ thuật sai lạc khi hô tiếng “Hik” trong pháp môn này. “Hik là một âm thanh làm rút ngắn thọ mạng. Khi sử dụng âm thanh này, ta phải kéo hơi xuống dưới rốn, kéo dài khí của phần trên cơ thể và nhướng mắt thật mạnh mẽ nhìn vào không gian. Nếu các chướng ngại xuất hiện, hãy nén khí ở trên xuống, xả khí ở dưới và trải rộng khí tại rốn, và trì tụng ba âm Kim Cương (om ah hum, phối hợp với sự hít vào, nín hơi, và thở ra), tập trung tâm bạn vào lòng bàn chân và mắt nhìn xuống dưới. Các chướng ngại sẽ biến mất.” NT
326.Những pháp tu dự bị cho “Đạo và Quảû” (lam ‘bras) của truyền thống Sakya được đặt nền tảng trên ba loại tri giác (snang ba gsum): tri giác bất tịnh (ma dag pa’i snang ba), tri giác hỗn hợp được các hành giả kinh nghiệm qua các pháp thực hành (mal ‘byor nyams kyi snang ba), và tri giác thanh tịnh (dag pa’i snang ba).
327.Như trong “Đại Thừa Tối Thượng Luận” (rgyud bla ma, Phạn ngữ: Uttaratantrasastra) và những bản văn khác. ZR
328.Tây Tạng: rig pa rtsal gyi dbang bskur.
329.Kushab Gemang, Gyalse Shenpen Thaye hay Gyalse Rigpa’i Dorje (sinh năm 1800), là một trong những vị nắm giữ dòng truyền thừa chính yếu của giáo lý Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí.
330.Changchub Dorje (1745–1821), cũng được biết là Jigme Trinle Ozer, là vị Dodrupchen Rinpoche đệ nhất, một trong những đệ tử chính của Jigme Lingpa, và là người đã từ bi gia hộ cho Patrul Rinpoche khi còn bé.
331.Orgyen Jigme Chokyi Wangpo là tên riêng của Ngài Patrul Rinpoche. Lời tự khẩn nguyện trong đoạn này noi theo một hình thức truyền thống. Tuy nhiên lời nguyện này có một sức mạnh đặc biệt phát xuất từ Ngài Patrul Rinpoche, là một người đã cho ta thấy một sự khiêm cung tương tự, toát ra từ trong cách sống của Ngài.
332. Jamgon Kongtrul Vĩ Đại (xem Thuật Ngữ) là một vị Đạo Sư cùng thời với Ngài Patrul Rinpoche và Jamyang Khyentse Wangpo; cả ba vị đều biết nhau rất rõ, cùng học vào lúc thiếu thời tại tu viện Shechen ở tỉnh Kham. Ngài là nhà trước tác trứ danh, đã biên soạn và biên tập nhiều tác phẩm, và Ngài đã viết thêm lời bạt này sau khi hiệu đính theo đúng nguyên văn trong nguyên cảo của Patrul Rinpoche, trong khi tài liệu này đang được chuẩn bị in bản khắc gỗ tại nhà in lớn ở Derge.
333. Sáu phương cách để đạt được giải thoát (grol ba drug): qua sự nhìn thấy, lắng nghe, hồi nhớ, xúc chạm, nếm vị và trang phục.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
THUẬT NGỮ
A La Hán (Arhat) – dgra bcom pa. Trở thành một A La Hán là mục đích cuối cùng của Thanh Văn Thừa. Đây là một loại Niết Bàn, siêu vượt sinh tử (không phải bị tái sinh trở lại), nhưng không đạt được Phật Quả. Nghĩa đen của từ Tây Tạng muốn nói tới những bậc đã chế ngự được kẻ thù, tức là chế ngự được những cảm xúc tiêu cực.
A Tỳ Đà hay Vi Diệu Pháp (Abhidharma) – mngon pa, Luận Tạng, một trong Tam Tạng. Đây là nền tảng của khoa tâm lý và luận lý học Phật Giáo. Luận này mô tả vũ trụ, những loại chúng sinh dị biệt, những bước tuần tự trên con đường đi tới giác ngộ, bác bỏ những luận cứ sai lầm, v.v.
A Xà Lê (Acarya) – slod dpon, 1) vị Thầy. 2) tương đương với Đạo Sư tâm linh hay Lạt Ma. Xem Đạo Sư Kim Cương.
A Xà Lê Liên Hoa (Acarya Padma) – slod dpon padma, Đạo Sư Liên Hoa Sanh, xem Padmasambhava.
Adhicitta – sems lhag can, tiền thân của Garab Dorje trong các cõi Trời.
Akanistha (Sắc Cứu Cánh Thiên) – ‘og min, nghĩa đen “tối thượng.” Cõi Trời hay cõi Phật tối cao. Có sáu nơi khác nhau mang tên này, từ cõi Trời thứ tám của các vị Trời thuộc Tứ Thiền lên tới Cõi Akanistha tối thượng, là một cõi Phật siêu vượt mọi nghĩ bàn.
Aksobhya (Bất Động Như Lai) – mi bskyod pa, Đức Phật Bất Động thuộc Kim Cương Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.
Ambrosia (Cam Lồ) – bdud rtsi, Phạn. amrita, nghĩa đen: bất tử. Chất cam lồ (rtsi) chiến thắng quỷ ma (bdud) của sự chết. Đây là một biểu tượng của trí tuệ.
Amitabha (A Di Đà – Vô Lượng Quang Phật) – ‘od dpag med, nghĩa đen: vô lượng ánh sáng. Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thuộc Liên Hoa Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.
Amitayus (Vô Lượng Thọ Phật)– tshe dpag med, nghĩa đen: vô lượng thọ mạng. Đức Phật của sự trường thọ.
Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu Phật) – don yod grub pa, nghĩa đen: đấng thành tựu những điều có ý nghĩa. Đức Phật Bất Không Thành Tựu thuộc Nghiệp Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
An định (chỉ) – zhi gnas, Phạn: samatha, căn bản của mọi pháp tu thiền định. “Tâm sao lãng do những đối tượng khác gây ra được làm cho an định (zhi), tâm an trụ (gnas) không xao động trong thiền định.” DICT
Ananda – kun dga’ bo, một người em họ của Đức Phật, sau trở thành thị giả của Ngài. Ananda có công trong việc giữ gìn giáo lý sau khi Đức Phật tịch diệt, bởi ông có thể nhớ lại tất cả những gì mà ông đã được nghe Đức Phật giảng dạy.
Anandagarbha – bde mchog snying po, danh hiệu khác của Adhicitta (Garab Dorje).
Angulimala – sor mo threng ba, một trong những đệ tử của Đức Phật, mặc dù đã từng giết hại chín trăm chín mươi chín người, nhưng nhờ tịnh hoá các ác hạnh của mình, Ngài đã đạt được quả vị A La Hán. Danh hiệu của Ngài có nghĩa là “Tràng hoa các ngón tay.”
Anuyoga (A-nậu Du Già) – đứng thứ hai trong ba nội du già (inner yogas) và thứ tám trong chín thừa, theo cách phân loại của phái Nyingmapa. Trong phái du già này, điểm chính yếu được nhấn mạnh được đặt trên giai đoạn toàn thiện (thành tựu), đặc biệt là việc thiền định về các kinh mạch và năng lực.
Arura và kyurura – Terminalia chebula và Emblica officinalis, các dược thảo. Arura là biểu tượng của Đức Phật Dược Sư.
Aryadeva (Thánh Thiên) – ‘phags pa lha (thế kỷ thứ 2), vị đệ tử nổi tiếng nhất của Nagarjuna (Long Thọ). Ngài đã bình giảng giáo lý của Thầy mình trong số luận thuyết về triết học Madhyamika. Xem Trung Đạo.
Asanga (Vô Trước) – thogs med (thế kỷ thứ 4), một trong Lục Pháp Bảo, là vị sáng lập phái Yogachara và tác giả của nhiều bộ luận (sastra) quan trọng, đặc biệt là năm giáo lý mà Ngài thọ nhận từ Đức Maitreya (Di Lặc).
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Atisa – (982-1054), cũng được gọi là Dipamkara hay Jowo Atisa (jo bo a ti sha). Đạo sư và học giả Ấn Độ vĩ đại này là một trong những vị Thầy trưởng lão ở tu viện nổi tiếng Vikramasila, là một đệ tử trì giữ nghiêm cẩn giới luật tu viện. Ngài thọ nhận các giáo lý Bồ Đề tâm từ nhiều bậc Đạo Sư quan trọng, và đặc biệt là từ Pháp vương Suvarnadvipa (Dharmakirti – Pháp Xứng), và học tập dưới chân vị Thầy này ở Indonesia. Ngài trải qua mười năm ở Tây Tạng, giảng dạy và tham gia phiên dịch các bản văn Phật Giáo. Chúng đệ tử của Ngài lập nên phái Kadampa.
Atiyoga (Đại Viên Mãn) – pháp du già cao nhất trong ba nội du già (inner yogas), tột đỉnh của Chín Thừa theo cách phân loại của phái Nyingmapa. Xem Đại Viên Mãn.
Avalokitesvara (Quán Thế Âm/ Quán Tự Tại) – spyan ras gzigs (Chenrezi), một trong Tám Trưởng Tử (của Đức Phật). Là tinh tuý của ngữ của tất cả chư Phật, và là ứng thân của lòng bi mẫn của các Ngài.
Ấn phẫn nộ (đe doạ) – sdigs mdzubs, Phạn: tarjani mudra, cử chỉ đe doạ, chỉ tay bằng cả ngón trỏ và ngón út.
Ba Anh em – sku mched gsum, ba đệ tử chính của Drom Tonpa: Potowa, Chengawa và Puchungwa.
Ba quả vị thanh tịnh (địa)– dag pa sa gsum, các quả vị (địa) Bồ Tát thứ tám, thứ chín và thứ mười; gọi như thế là vì các Bồ Tát ở mức độ tu chứng này hoàn toàn thoát khỏi các chướng ngại thuộc cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng). (nyon sgrib).
Ba Cõi – xem Tam Giới.
Ba độc (Tam độc) – dug gsum, ba loại cảm xúc tiêu cực gồm tham, sân và si. Xem năm độc.
Ba giới nguyện – sdom pa gsum, Phạn: trisamvara, các giới nguyện của Biệt Giải Thoát, các giới luật Bồ Tát và các mật nguyện (samaya) của Mật Thừa.
Ba la mật (Paramita) – xem pháp toàn thiện siêu việt.
Bà la môn – bram ze, một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ thời xa xưa, đẳng cấp tăng lữ.
Ba Mạn đà la – dkyil ‘khor gsum, các mạn đà la của thân, khẩu và ý là những hiển lộ của bản tánh nguyên sơ: sắc tướng như là Bổn Tôn, âm thanh như là câu minh chú và các niệm tưởng như là trí tuệ.
Bà Mẹ Chân Chính Sắc Đen Phẫn Nộ – ma cig khros ma nag mo, Phạn: Krodhakali, nghĩa đen: bà mẹ sắc đen và phẫn nộ. Một hiển lộ của Samantabhadri trong thân tướng của Báo Thân phẫn nộ, một khía cạnh khác của Vajravarahi (rdo rje phag mo).
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Ba môn học – xem tam học.
Ba mươi lăm vị Phật – sangs rgyas so lnga hoặc bde gshegs so lnga, Ba mươi lăm vị Phật Sám hối, tượng trưng cho sự toàn trí toàn giác của chư Phật, sẵn sàng tịnh hoá các tội nghiệp trong tất cả ba mươi lăm phương hướng trong không gian (bốn hướng chính, bốn hướng trung gian, tám và mười sáu hướng phụ, trung ương, điểm thấp nhất và điểm cao nhất).
Ba Nguồn Gia Trì (Ba Lực Gia Trì - Three Roots) – rtsa gsum, Lạt Ma, là cội gốc hay suối nguồn của các năng lực gia trì; Bổn Tôn, là suối nguồn của các thành tựu; và Dakini (Thiên Nữ Trí Tuệ hay các vị Hộ Thần), là suối nguồn của tất cả các công hạnh (hoạt động).
Ba phương pháp siêu việt – dam pa gsum. Xem pháp chuẩn bị, công phu chính yếu và kết thúc.
Ba Thân (kaya) – sku gsum, Phạn: trikaya, nghĩa đen: Ba Thân: gồm ba khiá cạnh của Phật Quả: Pháp Thân, Báo Thân và Hoá Thân.
Ba thực phẩm ngọt – mngar gsum, đường, mật đường và mật ong.
Ba thực phẩm trắng – dkar gsum, sữa, bơ và sữa đông, theo truyền thống là những món được coi là những thực phẩm rất thanh tịnh.
Ba thời – dus gsum, Phạn: trikala, quá khứ, hiện tại và vị lai.
Ba ý niệm (tạo tác) – ‘khor gsum, chủ thể, đối tượng và hành động, được nhìn như là có một sự hiện hữu thực sự và độc lập.
Bách Hộ Phật – xem Trăm Đấng Hộ Phật.
Bách Tự Minh Chú (Một Trăm Âm) – yig brgya, bài chú của Đức Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva), tượng trưng cho tinh tuý của Trăm Đấng Hộ Phật (Bách Hộ Phật).
Bài ca Kim Cương – rdo rje mgur, bài ca (mgur) diễn tả những kinh nghiệm nội tại của một hành giả du già (yogi) và sự chứng ngộ của Ngài về bản tánh bất hoại (kim cương) tối hậu.
Bản tánh chân không, tánh sáng và lòng bi mẫn – ngo bo, rang bzhin, thugs rje. Cái thấy của Đại Viên Mãn: chân tánh cốt tuỷ của tâm và tất cả các hiện tượng đều là tánh Không; sự hiển lộ của chân tánh ấy là tánh sáng; lòng bi mẫn của tánh ấy thì bao trùm rộng khắp.
Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) – rin chen ‘byung gnas, Đức Phật thuộc Bảo Sanh Bộ. Xem ngũ bộ Phật.
Báo Thân (Sambhogakaya) – longs spyod rdzogs pa’i sku, Thân Thọ Dụng Viên Mãn (Body of Perfect Enjoyment), thể tánh chói sáng tự nhiên của Phật Quả, chỉ các bậc chứng ngộ cao mới nhận biết được.
Bảy báu vật cao quý (Thất thánh tài) – ‘phags pa’i nor bdun, Phạn: saptadhanam, niềm tin, giới luật, rộng lượng (bố thí), kiến thức, tận tâm, khiêm tốn và trí tuệ.
Bám chấp – ‘dzin pa, nghĩa đen; nắm giữ, cũng có nghĩa là có một sự tin tưởng. Vì thế “chấp ngã” cũng có thể được hiểu là “tin vào một cái Tôi.”
Bậc khám phá kho tàng tâm linh (Khai Mật Tạng Vương), xem kho tàng tâm linh.
Bậc siêu phàm – skyes bu dam pa, “bậc chứng ngộ có khả năng hoạt động vì lợi lạc của những chúng sinh khác trong một phạm vi rộng lớn.” DICT.
Bẩm sinh (trí tuệ, hỉ lạc…) – lhan skyes, Phạn: sahaja, nghĩa đen: đồng sinh ra, có nghĩa là Trí tuệ, Tâm thái hỉ lạc, và Niết Bàn nói chung đều hiện diện tiềm tàng trong ta cho dù ta kinh qua vô minh, đau khổ và luân hồi sinh tử. Hai phương diện của một bản tánh và cùng một bản tánh thì “đồng sanh”, nhưng được xem như là như những gì đối nghịch bởi những tâm thức không giác ngộ.
Bất Động Phật – xem Aksobhya hay Điều Hỷ Quốc.
Bất Không Thành Tựu Phật – xem Amoghasiddhi.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Bằng hữu tâm linh – chos grogs, các đệ tử của cùng một vị Đạo Sư, hay của những vị mà ta đã nhận giáo lý. Có được những mối liên hệ hài hoà với những người như thế được coi là điều trọng yếu, nhất là trong Kim Cương thừa.
Bhagavan (Thế Tôn) – bcom ldan ‘das, một danh hiệu của Đức Phật. Ngài từng chế ngự bốn quỷ ma, sở hữu (ldan) mọi phẩm tính của chứng ngộ, và siêu vượt (‘das) sinh tử và Niết Bàn.
Brahma (Phạm Thiên) – tshangs pa. Trong Phật Giáo, Brahma không được coi là một vị Hộ Phật trường cửu mà chỉ như là một vị cai quản chư Thiên của cõi Sắc Giới.
Bhrikuti – jo mo khro gnyer can, một trong những thân tướng của Đức Quan Âm (Tara), nữ Bồ Tát của lòng từ bi. Danh hiệu này có nghĩa là “Người đàn bà với một cái chau mày trang nghiêm phẫn nộ.”
Biển hồ – rol pa’i mtsho chen, “bảy hồ nước bao quanh Núi Tu Di, trong đó các Long Vương sinh sống và nô đùa.” DICT.
Biệt Giải Thoát Giới (Ba la đề mộc xoa) – so sor thar pa, nghĩa đen: giải thoát cá nhân. Phạn: Pratimoksha. Các giới nguyện giải thoát cá nhân gồm có tám loại giới nguyện được dạy trong Vinaya (Luật Tạng), từ giới nguyện đơn giản trong một ngày cho tới các giới nguyện đầy đủ của các tăng sĩ thọ cụ túc giới. Xem ba giới nguyện.
Bindu (Giọt tinh chất) – thig le, nghĩa đen: một vòng tròn, quả cầu, điểm tròn hay giọt, nhưng cũng cùng một loại với những ý nghĩa trừu tượng hơn. Chúng tôi đã dùng Phạn ngữ này trong chương viết về chuyển di tâm thức để nhấn mạnh về việc các mức độ ý nghĩa của chữ này rất đa tạp; trong những tình huống khác chúng tôi dịch cũng thuật ngữ đó là tinh tuý.
Bình bát bằng sọ người – thod phor, Phạn: kapala. Đỉnh của một cái sọ được một vài hành giả du già dùng làm một cái bát trong một số nghi lễ. Bình bát này tượng trưng cho vô ngã.
Bình đẳng – mnyam pa nyid, Phạn: samata. Vạn pháp cùng có bản tánh của tánh Không.
Bảo bình vĩ đại – gter chen po’i bum pa, một trong tám dấu hiệu tốt lành. Dấu hiệu này tương ứng với cổ họng của Đức Phật và tượng trưng các giáo lý đáp ứng mọi điều mong cầu.
Bảo Tháp (Stupa) – xem Bodhnath.
Bodhnath – bya rung kha shor, được phát âm là “Jarungkashor”, một trong hai đại bảo tháp trong thung lũng Kathmandu. Lịch sử của việc xây dựng tháp này gắn liền với sự du nhập của Phật Giáo ở Tây Tạng và được mô tả trong Lịch Sử Bảo Tháp Jarungkhashor, trong một tàng kinh được Sakya Zangpo khám phá (Keith Dowman phiên dịch là Truyền Thuyết của Đại Bảo Tháp, Berkeley, Nhà Xuất bản Dharma, 1973).
Bonpo – bon po, các tín đồ của đạo Bon, là truyền thống tôn giáo thịnh hành ở Tây Tạng trước khi Phật Giáo du nhập vào xứ này.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Bồ Đề Tâm – byang chub kyi sems, nghĩa đen: tâm giác ngộ. Trên bình diện tương đối, đây là ước muốn đạt được Phật Quả vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Từ này cũng bao gồm việc thực hành pháp tu của lòng từ, bi, sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật), v.v. là những pháp tu cần thiết để đạt được mục đích của Phật Quả. Trên bình diện tuyệt đối, đây là kinh nghiệm nội quán sâu sắc, chứng ngộ trực tiếp bản tánh của Chân như tối thượng.
Bồ Tát (Bodhisattva)– byang chub sems dpa’, 1) một hiện thân với quyết tâm muốn đưa tất cả chúng sinh tới bờ Giác ngộ và đang thực hành con đường Bồ Tát. 2) một Bồ Tát siêu phàm là bậc đã đạt được một trong mười quả vị (địa) của Bồ Tát.
Bồ Tát Tu Viện Trưởng – danh hiệu đôi khi được biết tới của Ngài Tịch Hộ (Santaraksita).
Bốn ẩn dụ – ‘du shes bzhi, Nghĩ tưởng về bản thân như người bị bệnh, thiện tri thức như thầy thuốc, Pháp như phương thuốc, và việc thực hành giáo huấn của Ngài như phương pháp để hồi phục.
Bốn cách để nhiếp thọ chúng sinh (Tứ nhiếp pháp) – bsdu ba’i ngos po bzhi, Phạn: catuhsamgrahavastu, bốn cách trong đó một vị Bồ Tát có thể thu phục (nhiếp thọ) các đệ tử: 1) rộng lượng (sbyin pa, Phạn: dana), 2) biểu lộ bằng lời nói một cách vui vẻ (snyan par smra ba, priyavadita), 3) giảng dạy phù hợp với căn cơ của từng người (don mthun pa, samanarthata), 4) hành xử phù hợp với những gì Ngài giảng dạy (don spyod pa, arthacarya).
Bốn chướng ngại – sgrib bzhi, các chướng ngại của 1) các cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng), 2) các chướng ngại gây ra bởi nghiệp (nghiệp chướng), 3) các chướng ngại gây bởi ý niệm (sở tri chướng) và 4) các chướng ngại gây ra bởi các tập quán quen thuộc. Xem hai chướng ngại.
Bốn hỉ lạc – dga’ ba bzhi, Phạn: caturananda, bốn kinh nghiệm vi tế tăng trưởng của lạc vượt lên trên các cảm xúc bình phàm, được nối kết với công phu hành trì pháp quán đảnh thứ ba, hay quán đảnh trí tuệ.
Bốn hay sáu phân loại Mật điển (Tantra) – rgyud sde bzhi hay drug, cách phân loại các Mật điển thành ra bốn phần: Kriya, Carya, (hay Upa), Yoga và Anuttarayoga (sự phân loại này thường được dùng trong các phái Tân Dịch - New Translations School); hay thành sáu nhóm: Kriya, Upayoga, Yoga, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga (thường dùng trong Truyền thống Cổ Mật).
Bốn công hạnh (Tứ chủng pháp) – phrin las bzhi, bốn loại hoạt động được những bậc chứng ngộ thực hiện, để giúp đỡ những người khác và tẩy trừ những hoàn cảnh bất lợi: làm cho an bình (zhi ba), làm cho tăng trưởng (sgyas pa), điều phục (dbang) và chế ngự một cách mãnh liệt (drag po).
Bốn nguồn đau khổ – sdug sngal gyi chu bo chen po bzhi, sanh, bệnh, lão và tử.
Bốn quán đảnh – dbang bzhi, quán đảnh tịnh bình, quán đảnh ẩn mật, quán đảnh trí tuệ và quán đảnh ngôn từ cao quý.
Bốn quỷ ma – bdud bzhi, xem chú thích 230. Cũng xem quỷ ma.
Bốn Thân – ba Thân cộng thêm svabhavikakaya, ngo bo nyid kyi sku, Thân Tự Tánh, tượng trưng tính chất bất khả phân của ba Thân đầu tiên.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Bốn linh kiến – snang ba bzhi, bốn giai đoạn liên tiếp trong pháp hành trì thogal trong Đại Viên Mãn: 1) Pháp tánh (dharmata) thực sự xuất hiện (chos nyid mngon sum), 2) sự phát triển của các kinh nghiệm và các huyễn tướng (nyams snang gong ‘phel), 3) Giác tánh đạt đến mức cao tột (rig pa tshad phebs), 4) sự cạn kiệt của các hiện tượng siêu vượt tâm thức (chos zad blo ‘das).
Bổn Tôn – xem Yidam.
Bốn trạng thái vô sắc – gzugs med bzhi, bốn phân loại của trạng thái định, gồm có không vô biên xứ (nam mkha’ mtha’ yas), Phạn: akasanantya), thức vô biên xứ (nam shes mtha’yas, vijnanasanantya), vô sở hữu xứ (ci yang med pa, akimcanya), và phi tưởng phi phi tưởng xứ(‘du shes med ‘du shes med min, naivasamjnasamjna); bốn cõi Trời tương ứng với những loại định này.
Buddha – xem Phật (Tạng: sangye).
Ca Diếp – xem Kasyapa.
Camaradvipa – rnga yab gling, một trong tám tiểu lục địa trong vũ trụ quan Ấn Độ thời xa xưa, phía tây của Jambudvipa (cõi Diêm Phù Đề). Đây là lục địa Tây Nam được ám chỉ là cõi Phật mang tên Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.
Cảm xúc (cảm thọ) – xem chướng ngại, chướng ngại thuộc cảm xúc tiêu cực hay Bốn chướng ngại.
Cấp độ (tu chứng) – xem địa Bồ Tát.
Cấp độ siêu phàm – xem địa Bồ Tát.
Các vị Trời Phi tưởng – ‘du shes med pa’i lha, chư Thiên trong cõi Vô sắc.
Các vị Trời và Quỷ Ma – lha ‘dre, nói chung ám chỉ mọi loại tinh linh khác nhau, dù có ích lợi (lha) hay là tai hại (‘dre).
Cái thấy (kiến) – lta ba, Phạn: dristi, 1) quan điểm, lòng tin. 2) quan điểm chính xác, hiểu biết thấu suốt chân chính về trạng thái tự nhiên nhất như của tất cả các hiện tượng.
Cây Giác ngộ (cây Bồ Đề) – byang chub kyi shing, Đức Phật đã đạt được giác ngộ ở cội cây này.
Cây như ý – dpag bsam gyi shing, loại cây kỳ diệu có gốc rễ ở cõi A Tu La nhưng lại kết trái trong cõi Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên hay Đế Thích Thiên).
Cam lồ – xem ambrosia.
Cảm xúc tiêu cực – nyon mongs pa, Phạn. klesa, “các hiện tượng trong tâm tấn công thân và tâm, và đưa dẫn tới các hành vi ác hại, gây nên một trạng thái đau khổ trong tâm thức.” DICT. AT: các cảm xúc đau buồn, tham đắm, phiền não. Từ đồng nghĩa với độc (dug). Xem năm độc.
Câu Lưu Tôn Phật (Destroyer-of-Samsara Buddha) – xem Krakucchanda.
Chagme Rinpoche – xem Karma Chagme.
Chakshingwa, (Geshe) – lcags shing ba, một geshe Kadampa, đệ tử của Langri Thangpa.
Chày kim cương – xem vajra.
Chân đế – xem Chân lý tuyệt đối.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Chân lý tương đối (Tục đế) – kun rdzob bden pa, Phạn. samvriti satya, chân lý hiển lộ bề ngoài được nhận thức và coi như thực có bởi những tâm thức mê lầm.
Chân lý tuyệt đối (Chân đế) – don dam bden pa, Phạn. paramartha satya, chân lý đích thực được nhận thức bằng trí tuệ, không có sự tạo tác của tâm thức. Tính chất của chân đế hay chân lý tối thượng thì “siêu vượt tâm thức, không thể suy lường, không thể diễn bày” (Patrul Rinpoche). Cũng xem chân lý tương đối.
Chân nghĩa (Liễu nghĩa) – nges don, Phạn: nitartha, cách diễn tả trực tiếp chân lý từ quan điểm của những bậc chứng ngộ. Xem phương tiện nghĩa.
Chấp ngã – xem bám chấp.
Chekawa Yeshe Dorje – ‘chad kha ba ye shes rdo rje (1101¬1175), một geshe Kadampa nổi tiếng. Ngài đã hệ thống hoá các giáo lý Chuyển Tâm thành bảy điểm, và làm cho giáo lý này dễ hiểu hơn. Xem Đại Đạo Tỉnh Giác của Jamgon Kongtrul, Shambhala, 1987, và Dũng Khí Toàn Giác, Dilgo Khyentse, Bản của Padmakara, 1992 (khắp thế giới ngoại trừ Bắc Mỹ) và Snow Lion, 1993 (riêng ở Bắc Mỹ).
Chengawa, (Geshe) – spyan snga ba (1038-1103), đệ tử của Drom Tonpa, là người bắt đầu truyền dạy các giáo huấn khẩu truyền Kadampa.
Chenrezi – spyan ras gzigs, danh hiệu Tây Tạng của Đức Avalokitesvara (Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại).
Chín Đại-Quảng-Trí (Nine Expanses) – klong dgu, chín phân loại của Đại-Quảng-Trí (klong sde) trong giáo lý Đại Viên Mãn.
Chư – gcod, nghĩa đen: cắt đứt, đoạn diệt. Phương pháp thiền định trong đó ta cúng dường thân thể chính mình để cắt đứt bốn quỷ ma trong ta. Machik Labdron đã thọ nhận các giáo lý Chư từ vị Thầy Ấn Độ Padampa Sangye và từ Lạt Ma Kyoton Sonam, và truyền bá giáo pháp này trong xứ Tây Tạng.
Chogyal Pakpa – chos rgyal ‘phags pa (1235-1280), một trong tám đại học giả của phái Sakya được gọi là Sakya Gongma. Ngài trở thành vị giáo thọ của Hoàng Đế Mông Cổ Kublai Khan và quan Nhiếp Chính của Tây Tạng.
Chuông – dril bu, Phạn: ghanta. Xem vajra (kim cương).
Chủ nghĩa hư vô (Thuyết hư vô)– chad par lta ba, Phạn: vibhava drsti, thuyết duy vật, quan điểm phủ nhận sự hiện hữu của tiền kiếp trong quá khứ hay các kiếp tương lai, phủ nhận nguyên lý nhân quả, và v.v. (*Kinh văn Hán Việt thường gọi là Đoạn kiến hay Đoạn chấp).
Chủ nghĩa vĩnh cửu (Thuyết vĩnh cửu) – rtag par lta ba, Phạn: atmadrsti, satkayadrsti, niềm tin nơi một thực thể hiện hữu bất diệt, ví dụ như một linh hồn. Được coi như một khuynh hướng triết học cực đoan. Xem chủ nghĩa hư vô. (*Kinh văn Hán Việt thường gọi là Thường kiến hay Ngã kiến, Ngã chấp).
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Chuyển luân vị (Chủ nhân mặt đất) – sa bdag, Phạn: bhumipati, một tinh linh chiếm cứ một địa điểm.
Chuyển Luân Thánh Vương – ‘khor lo sgyur ba’i rgyal po, Phạn: cakravartin, 1) một Thiên vương cai quản một hệ trong thế giới (theo vũ trụ quan của Phật Giáo). 2) một vị Hoàng đế.
Chư Thiên (các vị Trời) – lha, chúng sinh ở một trong sáu cõi, bị chế ngự bởi tánh kiêu ngạo. Để tránh sự lầm lẫn chúng tôi đã dịch lha là “Bổn Tôn” khi (được sử dụng trong một ngữ cảnh) ám chỉ một vị Phật hay một vị Bổn Tôn Trí Tuệ.
Chướng ngại (chướng)– sgrib pa, Phạn: avarana, các yếu tố ngăn che Phật tánh của ta. Cũng xem: hai chướng ngại, bốn chướng ngại.
Chướng ngại thuộc cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng)– nyon mongs kyi sgrib pa Phạn: klesavarana, “các niệm tưởng (thù ghét, tham luyến v.v..); chúng ngăn trở ta không đạt được sự giải thoát.” DICT. Xem chướng ngại.
Chướng ngại thuộc tập khí (nghiệp chướng)– bag chags kyi sgrib pa, Phạn: vasanavarana, các khuynh hướng quen thuộc (tập khí) được in dấu trên tạng thức (thức nền tảng). Xem chướng ngại.
Chướng ngạïi thuộc ý niệm (sở tri chướng) – shes bya’i sgrib pa, Phạn: jneyavarana “Đây là những ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động, chúng ngăn cản ta không đạt được Toàn Giác.” DICT. Xem chướng ngại.
Cõi thấp – ngan song, các cõi Địa ngục, các cõi của Ngạ quỷ và Súc sinh.
Cõi – xem sáu cõi luân hồi.
Cõi Cực Lạc (Tịnh Độ) – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật ở phương Tây của Đức Phật Amitabha (A Di Đà).
Cõi Hỉ Túc – dga’ ldan, xem Cung Trời Đâu Suất.
Cõi Phạm Thiên (Brahma) – tshang pa’i ‘jig rten, Phạn: brahmaloka, nói chung, tất cả các cõi Sắc và vô Sắc.
Cõi Tịnh độ Cực Lạc – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật của Đức Amitabha (A Di Đà).
Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên hay Đế Thích Thiên) – gsum cu rtsa gsum, Phạn: Trayastrimsa, một cõi Trời trong Dục giới, trụ xứ của vua Đế Thích (Indra) và ba mươi hai vị đại thần. Xem tam giới.
Con đường của cái thấy (Kiến đạo) (Path of Seeing) – mthong lam, Phạn: darsanamarga, con đường thứ ba trong năm con đường tu, trên con đường Bồ Tát Đạo. Được gọi là như vạây là bởi trên con đường đo,ù ta thực sự trực nhận được hai loại vô ngã (có nghĩa là vắng mặt của “bản ngã,” vắng mặt của sự hiện hữu vững chắc, độc lập). Hai loại vô ngã này gồm có vô ngã của một cá nhân và vô ngã của các hiện tượng.
Con đường của sự hợp nhất (Path of Joining) – sbyor lam, Phạn: prayogamarga, con đường thứ hai trong năm con đường tu. Trên con đường này, ta tự nối kết hay tự chuẩn bị để có thể trực nhận hai loại vắng mặt của bản ngã.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Con đường vun bồi công đức (Path of Accumulating) – tshogs lam, Phạn: sambharamarga, con đường thứ nhất trong năm con đường tu hướng tới Giác ngộ theo Bồ Tát Thừa. Trên con đường này, ta tích lũy những nguyên nhân (công đức) giúp ta có thể cất bước hướng tới Giác ngộ.
Cổ Mật – tức là truyền thống Nyingmapa. Xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật.
Cổ phái – tức là truyền thống Nyingmapa. Xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật, Cổ Mật.
Cung điện Liên Hoa Quang – padma ‘od kyi pho brang, cung điện của Đức Padmasambhava trong cõi Phật Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.
Cung điện Toàn Thắng – rnam rgyal pho brang, cung điện của cung Trời Đế Thích (Indra).
Cung Trời Đâu Suất – dga’ ldan, cõi (ở tầng quả thứ tư) của các vị Trời thuộc Dục giới, trong đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tái sinh lần cuối cùng trước khi xuất hiện trong thế giới này. Hiện tại Đức Di Lặc (Maitreya), Đức Phật vị lai, đang an trụ trong Cung Trời Đâu Suất giảng dạy Đại Thừa. Phạn : Tushita. Xem ba cõi hay Tam giới.
Cung Trời Tịnh Quang – ‘od gsal gyi lha, Phạn: Abhasvara, cấp độ cao nhất của các vị Trời thuộc Nhị Thiền (trong Sắc Giới).
Cuộn giấy vàng – shog ser, miếng giấy (không nhất thiết phải là màu vàng) trên đó các bản văn của các kho tàng tâm linh (tàng kinh) được ghi chép lại.
Cúng dường lửa – gsur, pháp cúng dường được thực hiện bằng cách đốt thực phẩm trên than đá. Món cúng phẩm này được dâng lên cúng dường cho chư Phật, các vị Hộ Pháp, tất cả chúng sinh nói chung và đặc biệt là cho những Tinh linh lang thang và những oan gia mà ta có những món nợ nghiệp với họ. gsur trắng thông thường được chuẩn bị với ba thực phẩm trắng và ba thực phẩm ngọt. gsur đỏ được chuẩn bị với thịt.
Cửa Phạm Thiên – tshang pa’i bu ga, Phạn. brahmarandra, điểm tụ ở trên đỉnh đầu nơi kinh mạch trung ương chấm dứt.
Cựu Dịch (Cựu Phái Dịch Thuật) – snga ‘gyur, danh hiệu được ban cho các giáo lý đầu tiên được dịch ra từ Phạn ngữ và truyền bá ở Tây Tạng, là giáo lý của phái Cổ Mật, hay truyền thống Nyingmapa, ngược lại với các giáo lý được chuyển dịch và truyền bá từ thế kỷ thứ mười trở đi và là giáo lý sinh ra Tân Phái của Phật Giáo Tây Tạng.
Dạ Ma (Yama) – ‘thab bral, Phạn: Yama, tên của một cõi Trời trong Dục Giới, có nghĩa là “vô chiến” và được gọi như thế là bởi vì các vị Trời ở đó không phải chiến đấu với các A Tu La. Xem ba cõi.
Dagpo Rinpoche – dwags po rin po che (1079-1153), cũng được gọi là Gampopa, đệ tử nổi tiếng nhất của Milarepa và là vị khai sáng dòng truyền thừa Kagyu.
Daka – mkha ‘gro, nghĩa đen: du hành trong Pháp Giới (Không Hành), hay dpa’ bo, vị anh hùng. Trong Kim Cương Thừa thì các vị Không Hành nam tương đương với Bồ Tát. Các vị Không Hành nam (Daka) tương đương với dakini (của phái nữ).
Dakini (Nữ Không Hành, Thiên Nữ Trí Tuệ, Thiên Nữ Diệu Không) – mkha’ ‘gro ma, nghĩa đen: du hành trong hư không. Nguyên lý nữ được kết hợp với trí tuệ. Thuật ngữ này có vài mức độ ý nghĩa khác nhau. Có những vị Không Hành nữ hay Thiên nữ Diệu Không (dakini) bình thường, là những vị với một mức độ chứng ngộ tâm linh nào đó, và các vị dakini trí tuệ (Thiên Nữ Trí Tuệ) là những bậc hoàn toàn chứng đắc. Xem Ba Nguồn Gia Trì.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Damchen – dam chen (rdo rje legs pa), một vị Hộ Pháp, bị Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) buộc phải hứa nguyện.
Darsaka – mthong ldan, danh hiệu khác của Ajatasatru, nam tử của Vua Bimbisara (Bình Sa), vua xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) và là vị thí chủ quan trọng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù ông đã giết hại thân phụ mình, về sau ông ăn năn và tịnh hoá các hành nghiệp xấu ác của mình tới mức đạt được địa của một Bồ Tát.
Dharmakaya – chos sku, nghĩa đen: Pháp Thân. Đây là thể tính của tánh Không của Phật Quả. Pháp thân cũng có thể được dịch như là thân của chân đếù, một thể tính tuyệt đối.
Dharmata (Pháp tánh) – chos nyid, “bản tánh rỗng rang.” DICT.
Dharmodgata – chos ‘phags, “Pháp Khởi Siêu Phàm,” vị Bồ Tát mà Thường Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) đã thọ nhận giáo lý về Trí tuệ bát nhã siêu việt.
Diêm Phù Đề (Jambudvipa) – ‘dzam bu gling, lục địa phía nam, một trong bốn “trung châu” (lục địa) chính trong vũ trụ quan của Ấn Độ thời xa xưa, là nơi chúng ta đang sinh sống. Trong một vài hoàn cảnh, danh hiệu này ám chỉ miền Nam Á, và trong những hoàn cảnh khác, cõi này ám chỉ thế giới theo một ý nghĩa thông thường.
Dipamkara (Nhiên Đăng)– Pháp danh của Ngài Atisa.
Doha – một bài đạo ca trong đó một thành tựu giả (ví dụ như Ngài Saraha hay Virupa) diễn tả sự chứng ngộ của Ngài.
Dòng truyền qua biểu tượng của các Vidyadhara – rig ‘dzin brda yi brgyud, dòng truyền dạy các giáo lý bằng phương tiện thiện xảo qua cử chỉ hay biểu tượng.
Dòng nhĩ truyền hay truyền qua việc lắng nghe của chúng sinh bình thường – gang zag snyan brgyud, dòng truyền dạy mà vị Thầy cần phải sử dụng ngôn từ và đệ tử lắng nghe những lời lẽ ấy, hơn là sự truyền dạy giáo lý bằng tâm truyền tâm hay bằng cách dùng các biểu tượng.
Dòng tâm truyền của các Đấng Chiến Thắng -rgyal ba dgongs brgyud, dòng truyền dạy giáo lý tâm truyền tâm.
Drikung Kyobpa – ‘bri gung skyob pa (1143-1217), vị sáng lập Tu viện Drikung và tông phái Drikung Kagyu.
Drom Tonpa – ‘brom ston pa, được gọi là ‘brom ston rgyal ba’i ‘byung gnas (1005-1064), đệ tử Tây Tạng chính yếu của Atisa, một trong những vị Thầy đầu tiên của phái Kadampa và là vị sáng lập Tu viện Radreng (rva sgreng) (thường được phiên âm là “Reting”).
Druk Pema Karpo – ‘brug padma dkar po (thế kỷ thứ 16), Drukchen Rinpoche thứ 3, Đạo sư và tác gia vĩ đại của phái Drukpa Kagyu và là vị sáng lập Tu viện Sangak Choling.
Du Già – xem Yoga.
Duyên hợp – ‘dus byas, Phạn: samskrita, được tạo nên (byas) do sự kết hợp (‘dus) giữa nguyên nhân và điều kiện (duyên). “Những hành vi thiện lành do duyên hợp có nghĩa là tất cả những hành vi được thực hiện mà không có được sự chứng ngộ tánh Không.” DKR
Đà ra ni (Dharani)– gzungs, bài minh chú được gia trì bởi một vị Phật hay Bồ Tát, có diệu năng cứu giúp chúng sinh. Có nhiều bài Đà ra ni trong các Kinh điển (Sutra), thường khá dài.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Đại Ấn (Đại Thủ Ấn) – xem Mahamudra.
Đại Ca Diếp – ‘od srung chen po, một trong những đệ tử Thanh Văn xuất sắc nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và là vị lãnh đạo trong số những người đầu tiên biên soạn Abhidharma (Vi Diệu Pháp). Sau khi Đức Phật tịch diệt, Ngài trở thành Giáo Chủ đầu tiên của Giáo Pháp, được giao phó trọng trách hộ trì Giáo lý và Tăng Đoàn.
Đại dương bên ngoài – phyi’i rgya mtsho chen po, những đại dương bao quanh Núi Tu Di và bốn trung châu (lục địa) trong vũ trụ học Ấn Độ thời xa xưa.
Đại Lạc và Tánh Không – bde stong, đại lạc được trực chứng mà không có sự bám luyến, rỗng rang như tánh Không.
Đại Thế Chí – xem Vajrapani hay Tám Trưởng Tử Vĩ Đại.
Đại Thành Tựu Giả – grub chen, một hành giả du già đã đạt tới thành tựu tối thượng.
Đại Thừa – theg pa chen po, Phạn: mahayana, thừa (cỗ xe) của các Bồ Tát, “đại” là bởi cỗ xe này nhắm tới Phật Quả viên mãn vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.
Đại tiệc cúng dường – tshogs kyi ‘khor lo, Phạn: ganacakra, một nghi lễ trong đó ta ban gia trì, cúng dường và thọ dụng thức ăn và nước uống như chất Cam lồ Trí tuệ.
Đại Viên Mãn (Dzogchen, Dzogpa Chenpo, Atiyoga) – dzogs pa chen po, tên khác của Atiyoga, pháp tu tối thượng của chín thừa. Viên Mãn có nghĩa là tâm thức, trong bản tánh của tâm, bao gồm một cách tự nhiên tất cả mọi phẩm tính cao quý của ba Thân: bản tánh của tâm ấy là tánh Không, Pháp Thân; biểu lộ tự nhiên của tâm ấy là tánh sáng, Báo Thân, và lòng bi mẫn của tâm ấy thì trùm khắp, Hoá Thân. Đại có nghĩa là pháp viên mãn này chính là một duyên khởi tự nhiên của vạn pháp. AT: đại toàn thiện. Giáo lý của Đại Viên Mãn được phân loại thành ba phần: phần tâm (sems sde), phần hư không (klong sde), và phần giáo huấn tâm yếu trực chỉ (man ngag gi sde). Cũng xem phần Dẫn nhập và Atiyoga.
Đàm – bad kan, một trong ba thể dịch theo y khoa Tây Tạng. Cũng xem gió, mật.
Đạo Sư Kim Cương – rdo rje slod spon, Phạn. vajracarya, “Đạo Sư tâm linh, người đã dẫn dắt ta đến trong một Mạn đà la của Mật Thừa và ban cho ta những giáo huấn giải thoát.” DICT.
Đạo Sư Tôn Quý xứ Oddiyana – o rgyan rin po che, một trong những danh hiệu của Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh).
Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm – ‘phags pa thugs rje chen po, một trong những danh hiệu của Đức Avalokitesvara (Chenrezig), Bồ Tát của lòng bi mẫn hay đại Từ đại Bi.
Đấng Chiến Thắng – rgyal ba, Phạn: jina, một vị Phật.
Đấng Đại Từ Bi (Đấng Bi Mẫn) – thugs rje chen po, danh hiệu của Đức Avalokitesvara (Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại).
Đấng Toàn Giác – kun mkhyen chen po, danh hiệu được biết tới rất nhiều của Ngài Longchenpa.
Diệu Âm Phật – sgra dbyangs mi zad pa sgrogs pa, danh hiệu của một vị Phật (* dùng âm thanh du dương khai diễn Giáo Pháp làm cho tất cả chúng sinh đều được nghe).
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) – lhas byin, một người anh em họ của Đức Phật; sự ganh tị của ông đã ngăn cản không cho ông rút ra được bất kỳ lợi ích nào từ các giáo lý (của Đức Phật).
Đế Thích – xem Indra.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Đệ tử cư sĩ (Ưu bà tắc, Cận sự nam)– dge bsnyen, Phạn: upasaka, upasa người trì giữ các giới nguyện quy y và năm giới nguyện khác (hay chỉ một vài giới nguyện trong số đó): không sát sanh, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, và không dùng chất gây say. Đây là một trong tám loại giới nguyện của Biệt Giải Thoát (Pratimoksa).
Đức vua, Thần dân và Thiện hữu – rje ‘bangs grogs gsum, Vua Trisong Detsen, đại dịch giả Vairotsana và thánh nữ Yeshe Tsogyal.
Dharma – xem Pháp.
Đi nhiễu (hành đạo) – skor ba, hành vi tôn kính trong việc đi bộ theo chiều kim đồng hồ xung quanh một vật linh thiêng, giữ tâm an định và tỉnh giác, ví dụ như một điện thờ, bảo tháp, núi thiêng, hay ngôi nhà, và thậm chí một nhân vật, như một vị Thầy tâm linh.
Địa Bồ Tát – ‘phags pa’i sa, nghĩa đen: các cấp độ (tu chứng) siêu phàm, Phạn: bhumi. Mười cấp độ (thập địa) của sự chứng ngộ mà các vị Bồ Tát đạt tới trên các con đường của cái thấy (kiến), của thiền định (thiền) và siêu vượt cái học. Một vài cách phân loại khác đã thêm vào những cấp độ phụ. “Những cấp độ này siêu phàm bởi chúng vượt xa chúng sinh bình thường.” DICT.
Địa ngục – dmyal ba, Phạn: naraka, một trong sáu cõi, trong đó ta kinh nghiệm nỗi thống khổ mãnh liệt. Trong cõi Địa ngục ta thường phải kinh qua những hậu quả của các hành nghiệp hơn là tạo ra những nguyên nhân mới.
Điều Hỷ Quốc – mngon par dga’ ba, Phạn: Abhirati, tên của một đại kiếp và của cõi Tịnh độ của Đức Phật Aksobhya (Bất Động Phật hay A Súc Bệ Phật).
Độc Giác Phật (Pratyekabuddha) – rang sangs rgyas, “ người đạt được khả năng chấm dứt luân hồi (đoạn diệt luân hồi) mà không cần sự trợ giúp của một vị Thầy tâm linh. Bằng cách quán sát bản tánh của nguyên lý duyên sinh, một vị Độc Giác Phật có thể chứng ngộ vô ngã thực sự của bản thân và chứng ngộ một-nửa vô ngã thực sự của các hiện tượng.” DICT.
Đối tượng mật nguyện – dam tshig gi rdzas, những đối tượng, (hay vật dụng) hay những chất liệu cần thiết để giúp cho các pháp hành trì của Kim Cương Thừa, hoặc để làm cho các pháp hành trì Kim Cương Thừa thêm phần ý nghĩa.
Đức Phật Thứ Hai (Đức Phật tái thế) – sangs rgyas gnyis pa, một danh hiệu của Đức Liên Hoa Sanh.
Dzogchen – xem Atiyoga, Đại Viên Mãn.
Gampopa – sgam po pa, xem Dagpo Rinpoche.
Gandharva (Càn Thát Bà, Hương Ấm) – dri za, nghĩa đen: ăn mùi hương. Tinh linh sống bằng các mùi hương. Cũng được dùng cho chúng sinh trong trạng thái Trung ấm.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Garab Dorje – dga’ rab rdo rje, danh hiệu Tây Tạng nổi tiếng hơn các danh hiệu khác bằng Phạn ngữ của Ngài là Pramudavajra, Prahevajra, Surativajra hay Prajnabhava. Bậc Thầy đầu tiên mang thân tướng con người của dòng truyền thừa Đại Viên Mãn.
Garuda (Kim xí điểu) – khyung, một con chim thần thoại có kích thước rất lớn có thể bay ngay khi trứng nở, tượng trưng cho Trí tuệ nguyên sơ. Năm màu sắc trong thân chim đôi khi được tượng trưng cho năm trí tuệ. Chim là địch thủ của các naga (Rồng), và được mô tả với một con rắn trong mỏ của nó, tượng trưng cho việc đoạn diệt các cảm xúc tiêu cực.
Gelugpa (Trí Đức) – dge lugs pa, một trong các trường phái chính của Tân Phái, được Ngài Je Tsongkhapa (1357¬1419) sáng lập và lúc đầu được gọi là Gandenpa theo tên trụ xứ của Ngài là ở tu viện Ganden.
Geshe – dge bshes, thiện tri thức. Thuật ngữ thường dùng cho một vị Thầy Kadampa. Về sau nó được dùng để chỉ một tiến sĩ triết học trong phái Gelugpa.
Giác ngộ – byang chub, Phạn: bodhi, tịnh hoá (byang) tất cả mọi chướng ngại và chứng ngộ (chub) được tất cả các phẩm hạnh.
Giác tánh – rig pa, Phạn: vidya, trạng thái nguyên sơ của tâm, tươi mới, bao la, chói ngời, và siêu vượt niệm tưởng.
Giai đoạn phát triển (Generation stage) –bskyed rim, Phạn. utpattikrama “thiền định du già mà qua đó ta tịnh hoá bản thân khỏi các tham đắm quen thuộc đưa ta đến bốn trạng thái tái sinh khác nhau và trong giai đoạn này, ta thiền định về sắc tướng, âm thanh và tư tưởng giống như là những điều này có đầy đủ chân tánh của các vị Hộ Phật (deities), của các câu minh chú và của trí tuệ.” DICT.
Giai đoạn toàn thiện (thành tựu) – rdzogs rim, Phạn. sampannakrama. 1. “với các đặc tính” (mtshan bcas), đó là pháp môn thiền định dựa trên các kinh mạch và năng lực của thân, được quán tưởng như là một thân kim cương. 2. “không có các đặc tính” (mtshan med), đó là giai đoạn thiền định trong đó các sắc tướng đã được quán tưởng trong giai đoạn phát triển đều tan hoà, và ta an trụ trong kinh nghiệm về tánh Không.
Giải thoát (Liberation) – thar pa, Phạn: moksa, 1) đạt được sự tự do, thoát khỏi luân hồi sinh tử, là một vị A La Hán hay một vị Phật. 2) đôi khi, bsgral las byed pa, một pháp môn giúp đem lại giải thoát, một pháp môn để giải thoát (dẫn dắt) tâm thức của một chúng sinh hiểm ác vào một cõi Phật. Cũng xem chú thích 75.
Giáo huấn tâm-yếu – man ngag, Phạn. upadesa, các giáo huấn giảng dạy về những chủ đề giáo lý sâu xa nhất, trong một phương pháp cô đọng và trực tiếp vì mục đích của việc tu tập.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Gió (khí) – 1) xem năng lực. 2) một trong ba thể dịch theo y khoa Tây Tạng. Cũng xem mật, đàm.
Gọi Thầy từ chốn xa – bla ma rgyang ‘bod, một thể loại cầu nguyện khao khát vị Thầy tâm linh của ta.
Gotsangpa (Gonpa Dorje) – rgod tshang pa mgon po rdo rje (1189-1258), Đạo sư Kagyupa, đệ tử của Tsangpa Gyare, vị sáng lập một nhánh của tông phái Drukpa Kagyu và của nhiều tu viện.
Guru Rinpoche – guru rin po che, danh hiệu phổ thông nhất của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) ở Tây Tạng.
Guru Yoga (Bổn Sư Du Già) – bla ma’I rnal ‘byor, pháp môn hành trì để hoà nhập tâm ta với tâm của vị Thầy.
Gyalse Rinpoche – rgyal sras rin po che, nghĩa đen: Nam tử Tôn Quý của các Đấng Chiến Thắng. Một danh hiệu được ban cho Thogme Zangpo (1295-1369), một Đạo sư vĩ đại của các truyền thống Nyingma và Sakya và là tác giả của trước tác có tên Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo (rgyal sras lag len).
Gyelgong – rgyal ‘gong. Một loại Tinh linh hiểm ác.
Hai bồ công đức (two-fold accumulation) – tshogs gnyis, Phạn: sambharadvaya, tích lũy phước đức (bsod nams, Phạn: punya) và tích lũy trí tuệ (ye shes, jnana).
Hai Chân lý – bden pa gnyis, Chân lý Tuyệt đối (Chân đế) và Chân lý Tương đối (Tục đế).
Hai chướng ngại – sgrib gnyis, các chướng ngại của những cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng) và các chướng ngại thuộc ý niệm (sở tri chướng). Cũng xem bốn chướng ngại.
Hai Đấng Siêu Việt – mchog gnyis, Gunaprabha (yon tan ‘od) và Sakyaprabha (sha kya ‘od).
Hai mươi lăm đại đệ tử – rje ‘bang nyer lnga, các đệ tử Tây Tạng vĩ đại nhất của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Tất cả các Ngài đã đạt được thành tựu siêu việt. Những vị nổi tiếng nhất là Vua Trisong Detsen, Yeshe Tsogyal, và Vairotsana. Nhiều Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng là các Hoá Thân của hai mươi lăm đệ tử này.
Hai mươi mốt ‘Genyen’ – dge bsnyen nyer gcig, một nhóm Tinh linh bị Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) nhiếp phục và trở thành các vị Hộ Pháp.
Hai tánh thuần tịnh – dag pa gnyis, tánh thuần tịnh nguyên sơ (rang bzhin ye dag), là Phật tánh trong mọi chúng sinh, và tánh thuần tịnh thoát khỏi tất cả mọi ô nhiễm ngẫu nhiên (blo bur phral dag). Chỉ duy một vị Phật là người vừa có tánh thuần tịnh nguyên sơ thứ nhất và cũng có tánh thuần tịnh thoát mọi đắm nhhiễm thứ hai.
Hành giả chai lì – chos dred, nghĩa đen: “con gấu Pháp.” Người không được Giáo Pháp điều phục, người hiểu biết Pháp nhưng không thực hành, khiến tâm thức họ trở nên chai cứng...” DICT. Người chỉ có hiểu biết lý trí mà không có chút kinh nghiệm nào, nhưng lại cho rằng mình thấu suốt toàn bộ Giáo Pháp.
Hành giả du già – xem yogi hay yogini.
Hành vi tích cực (thiện hạnh) – dge ba, Phạn: kusala. “ Những gì tạo nên hạnh phúc” (Dudjom Rinpoche). AT: những hành vi lợi lạc, đức hạnh.
Hành vi tiêu cực (ác hạnh) – sdig pa hoặc mi dge ba, Phạn: asubha. “Những gì tạo nên đau khổ” (Dudjom Rinpoche). AT: hành vi ác hại, việc làm không lành mạnh, điều xấu ác.
Hạnh đầu đà – xem mười hai giới khổ hạnh.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Hiền kiếp – bskal pa bzang po, Phạn: bhadrakalpa, kiếp hiện tại, được gọi là hiền (tốt lành) bởi đây là một kiếp trong đó một ngàn vị Phật xuất hiện.
Hiện tượng tan hoà trong Chân tánh – chos nyid zad pa, một trong bốn linh kiến hay kinh nghiệm tu chứng trên con đường tu tập pháp Thogal (một trong các pháp của Đại Viên Mãn). “ Tất cả mọi hiện tượng đều được tịnh hoá trong Mạn đà la của tinh tuý vĩ đại duy nhất, tất cả mọi tạo tác do tâm đều tan biến vào Chân tánh. Thậm chí cũng không bám chấp vào chân tánh.” DICT.
Hình thành – srid pa, tiến trình của luân hồi sinh tử. Từ Tây Tạng này thường được dùng trong ý nghĩa của “triển vọng,” là kết quả của tất cả những ý niệm mà ta phóng chiếu lên thực tại -- những ý niệm này trở thành thế giới huyễn hoá mà chúng ta nhìn thấy qua tri kiến. Từ hình thành này thường được dùng như là một từ đồng nghĩa với luân hồi sinh tử (samsara), đối nghịch với zhi ba, sự an
tịch của Niết Bàn.
Hộ Thần – xem Hộ Pháp.
Hộ Pháp – chos skyong, Phạn: dharmapala. Các vị Hộ Pháp bảo vệ Giáo Pháp không bị suy vi và để cho sự truyền dạy Giáo Pháp không bị quấy nhiễu, xuyên tạc. Đôi khi các Hộ Pháp là Hoá Thân của chư Phật và Bồ Tát, và đôi khi là những Tinh linh, các vị Trời hay Quỷ Ma đã được một Đạo Sư tâm linh vĩ đại nhiếp phục và bị buộc phải hứa nguyện (để trở thành Hộ Pháp).
Hộ Pháp thuộc Tam Thánh Bộ – rigs gsum mgon po, các Bồ Tát Manjusri (Văn Thù), Avalokitesvara (Quán Thế Âm) và Vajrapani (Kim Cương Thủ). Đây là những vị được tôn kính thuộc về thân, ngữ và ý của Đức Phật.
Hộ Phật Tài Bảo – nor lha, một vị Hộ Phật (deity) mà ta giữ mối hoà hảo để tăng trưởng tài bảo.
Hoá Thân (nirmanakaya) – sprul sku, thân hoá hiện, là một phần của Phật Quả hiển lộ qua lòng Bi mẫn để cứu giúp những chúng sinh bình thường.
Hơi ấm (dấu hiệu) – drod rtags, một dấu hiệu cho thấy công phu thực hành đang bắt đầu tiến triển. (Khi một ngọn lửa tạo nên nhiệt thì có nghĩa là nó đã bắt đầu cháy tốt.) Thành ngữ này không đặc biệt nói tới một kinh nghiệm về thân nhiệt.
Huyễn tướng (hình tướng) – snang ba, xem tri giác (tri kiến).
Huynh đệ và tỉ muội kim cương – rdo rje spun, các hành giả cùng một Thầy, hoặc cùng học với những vị Thầy mà ta đã từng thọ lãnh các giáo lý Kim Cương Thừa. Xem các bằng hữu tâm linh.
Indra (Đế Thích) – brgya byin, vua Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba.
Jamgon Kongtrul (Vĩ Đại), Lodro Thaye – ‘jam mgon kong sprul blo gros mtha’yas (1813-1899) là một vị Thầy vĩ đại của phong trào bất bộ phái (Rimé) và cùng với Jamyang Khyentse Wangpo, chịu trách nhiệm biên khảo một số tuyển tập vĩ đại, kể cả Kho Báu Các Giáo Lý Được Tái Phát Hiện (rin chen gter mdzod), trong đó bao gồm các giáo lý và pháp môn hành trì từ tất cả mọi truyền thống.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Jetsun Mila (Milarepa) – re brtsun mi la (1040-1123), hành giả du già và thi sĩ vĩ đại của Tây Tạng mà tiểu sử và các bài ca tâm linh của Ngài nằm trong số những tác phẩm được yêu quý nhất trong Phật Giáo Tây Tạng. Là một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Marpa, Ngài ở trong số các Đạo Sư vĩ đại nhất vào thời kỳ phôi thai của phái Kagyupa.
Jigme Lingpa – ‘jigs med gling pa (1729-1798), xem dẫn nhập của sách này. Ngài được coi là một hiện thân hợp nhất của cả ba vị Vimalamitra, Vua Trisong Detsen và Gyalse Lharje. Patrul Rinpoche thường được coi là hiện thân về ngữ của Jigme Lingpa.
Jowa và Sakya – jo shag rnam gnyis, Jowo Mikyo Dorje và Jowo Sakyamuni, hai pho tượng của Đức Phật đưa sang Tây Tạng một cách thật trang trọng bởi hai vị công chúa xứ Nepal và Trung Quốc mà Vua Songtsen Gampo đã kết hôn vào thế kỷ thứ 7.
Jowo – jo bo, nghĩa đen: vương (lord). Một danh hiệu thường được người Tây Tạng sử dụng đối với học giả Ấn Độ Atisa.
Jowo Rinpoche – jo wo rin po che, một pho tượng tượng trưng cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc 12 tuổi, trong điện Jokhang ở Lhasa.
Jungpo – ‘byung po, một loại Tinh linh hiểm ác.
Kadampa – bka’ gdams pa, phái thứ nhất trong các trường phái thuộc Tân Phái Dịch Thuật, thuận theo các giáo lý của Ngài Atisa. Phái này chú trọng vào lòng Bi mẫn, học tập và giới luật thanh tịnh. Giáo lý của truyền thống Kadampa được tiếp nối bởi tất cả các trường phái khác, đặc biệt là phái Gelugpa. Phái Gelugpa cũng được gọi là phái Tân Kadampa.
Kagyupa – bka’ brgyud pa, một trong những trường phái của Tân Phái, thuận theo giáo lý được Dịch giả Marpa đem từ Ấn Độ sang Tây Tạng và được truyền dạy tới Ngài Milarepa. Phái này có nhiều tiểu phái.
Kalpa – xem Kiếp.
Kapala – ka pa la, một cái bình bát được làm bằng đỉnh sọ người.
Karma Chagme – karma chags med (thế kỷ 16), Lạt Ma nổi tiếng của phái Kagyupa, người hợp nhất giáo lý của phái Kagyupa với giáo lý phái Nyingmapa và là giáo thọ của Namcho Mingyur Dorje, một vị khai quật kho tàng tâm linh.
Karmapa – kar ma pa, danh hiệu của những đại Lạt Ma thuộc phái Kagyupa mà dòng truyền thừa của các vị Hoá Thân của các Ngài bắt đầu từ Ngài Dusum Khyenpa (Karmapa đời thứ Nhất) (1110-1193). Các vị Karmapa là những vị Hoá Thân (tulku) đầu tiên được tuyên nhận ở Tây Tạng.
Kasyapa (Ca Diếp) – ‘od srung, vị thứ ba trong một ngàn vị Phật trong kiếp hiện tại, là vị Phật xuất hiện trước Đức Thích Ca Mâu Ni. Kasyapa cũng là tên của một trong những đệ tử Thanh Văn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Katyayana– Vị A La Hán Ấn Độ là một đệ tử của Đức Phật và đã ghi chép lại một phần của Abhidharma (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp).
Kaya (Thân Phật) – sku, xem ba Thân, bốn Thân, năm Thân.
Kiếp (Kalpa) – bskal pa. Một đại kiếp, tương ứng với một chu kỳ hình thành và hoại diệt của một thế giới (theo vũ trụ quan của Phật Giáo), được phân ra thành tám mươi trung kiếp. Một trung kiếp bao gồm: một tiểu kiếp trong đó thọ mạng v.v.. tăng trưởng và một tiểu kiếp trong đó thọ mạng suy giảm.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Kim xí điểu – xem Garuda.
Khai Mật Tạng Vương – xem Bậc Khám Phá Kho Tàng Tâm Linh.
Khampa Lungpa – khams pa lung pa (sgang sha’kya yon tan) (1025-1115), một Lạt Ma Kadampa, một trong những trưởng tử của Drom Tonpa.
Kharak Gomchung, (Geshe) – kha rag sgom chung, một Lạt Ma Kadampa sống vào thế kỷ thứ 11, đệ tử của Geshe Potowa. Danh hiệu của Ngài có nghĩa là “Tiểu Thiền Giả Xứ Kharak,” và Ngài nổi tiếng do tánh kiên trì và cách áp dụng giáo lý một cách nghiêm cẩn. Được biết rằng Ngài đã thọ nhận giáo lý Đại Viên Mãn và thành tựu thân cầu vồng.
Khatvanga – một chĩa ba với nhiều vật trang sức có tính chất tượng trưng.
Kho tàng – xem kho tàng tâm linh.
Kho tàng tâm linh – gter ma, các giáo lý, cùng những pho tượng và những đồ vật khác đã được cất dấu bởi Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava), Yeshe Tsogyal và những vị khác. Những kho tàng này được dấu trong đất, đá, hồ nước và cây cối, hoặc ngay cả trong những nơi vi tế hơn chẳng hạn như trong không gian hay trong tâm thức vì sự lợi ích cho các thế hệ tương lai, và sau đó những kho tàng tâm linh này được phát hiện lại bằng những cách thế phi thường bởi những Hoá Thân của các vị đệ tử của Đức Liên Hoa Sanh, là những bậc khai quật kho tàng (Khai Mật Tạng Vương).
Khởi từ vô thủy – Chúng tôi đã dùng từ này để dịch ye trong các thành ngữ như ye nas, “ngay từ lúc bắt đầu” hay ye dag “thanh tịnh từ lúc khởi đầu.” Tuy nhiên phải hiểu rằng từ này không nói tới một giây phút đầu tiên của một sự bắt nguồn hay sáng thế từ trong quá khứ xa xôi, mà đúng hơn, nói tới bản tánh thanh tịnh đã luôn luôn hiện diện bên trong ta.
Khu, Ngok và Drom – ba đệ tử chính của Atisa. Danh hiệu đầy đủ của các Ngài là Khuton Tsondru Yungdrung, Ngok Lekpai Sherab, và Drom Gyalwai Jungne (Drom Tonpa).
Khuynh hướng quen thuộc (Tập khí)– bag chags, Phạn: vasana, những tập khí quen thuộc của tư tưởng, ngôn ngữ hay hành động được tạo nên bởi những gì ta từng làm trong những đời quá khứ. AT: những tập quán, thiên hướng, sự tiêm nhiễm.
Kila – phur ba, một vị Hộ Phật phẫn nộ, một khiá cạnh của công hạnh của tất cả chư Phật, là một hoạt hiện của Đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Pháp môn hành trì liên quan tới vị Hộ Phật này được đặt nền tảng trên bốn khiá cạnh khác nhau của Kila, đó là các bảo vật có tính cách nghi lễ, lòng Bi mẫn, Bồ Đề Tâm và Tuệ giác.
Kim cương – có các phẩm tính (bất hoại) của kim cương (vajra).
Kim Cương Hỉ – bzhad pa rdo rje, danh hiệu khác của Garab Dorje.
Kim Cương Hoan Hỉ – dgyes pa rdo rje, một danh hiệu của Garab Dorje.
Kim Cang (Kim Cương) Thừa – xem Vajrayana hay Tantra.
Kim Cang (Kim Cương) Trì – xem Vajradhara.
Kinh (Sutra) – mdo, các bản văn súc tích do Đức Phật thuyết; một trong Tam Tạng. Xem Tam Tạng (tripitaka).
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Kinh mạch – rtsa, Phạn. nadi, các kinh mạch vi tế trong đó năng lực vi tế (rlung, Phạn. prana) lưu thông. Các kinh mạch vi tế chính yếu ở bên trái và bên phải, chạy từ các lỗ mũi tới phiá dưới rốn một chút (đan điền), ở đó chúng hợp lại với đường kinh mạch trung ương.
Kinh Mạch và Năng lực (các bài thực tập về) – rtsa rlung gi ‘phrul ‘khor, các bài thực tập kết hợp quán tưởng, thiền định và các chuyển động của thân, trong đó sự luân chuyển của các năng lực vi tế được kiểm soát và hướng dẫn. Các pháp môn thực hành này chỉ nên được nỗ lực thực hiện nương vào sự truyền dạy và hướng dẫn đúng đắn, sau khi đã hoàn tất các pháp tu dự bị và đạt được một vài kinh nghiệm vững chắc trong giai đoạn phát triển.
Kinh mạch trung ương – rtsa dbu ma, Phạn. avadhuti, trục giữa của thân vi tế. Đường kinh mạch trung ương này được mô tả theo những cách thức thay đổi, tuỳ vào pháp môn thực hành đặc biệt. Kinh mạch này tượng trưng cho trí tuệ bất nhị.
Kinh nghiệm (thiền định) – nyams, các kinh nghiệm về đại lạc, tánh sáng, và vô niệm. Ta không nên dính mắc vào những kinh nghiệm như thế hay lầm lẫn cho rằng đây là những mục tiêu cuối cùng.
Krakucchanda (Câu Lưu Tôn Phật)– ‘khor ba ‘jig, Đức Phật đầu tiên của một ngàn vị Phật của Hiền Kiếp này (*Destroyer of Samsara Buddha, còn có tên Hán Việt là Diệt Lũy Phật, Thành Tựu Mỹ Diệu Phật hay Sở Ưng Đoạn Dĩ Đoạn Phật).
Krisnacarya – nag po spyod pa, một trong tám mươi bốn Đại Thành tựu giả của Ấn Độ.
Kriya (yoga) – bya ba, pháp du già thứ nhất trong ba ngoại Mật điển (tantra), và là thưà thứ tư trong chín thừa. Trong pháp tu tập này, điểm trọng yếu được đặt trên cách hành xử đúng đắn và sự tinh sạch.
Ksatriya – rgyal rigs, một trong bốn giai cấp của hệ thống xã hội Ấn Độ thời xa xưa, giai cấp của các vị vua và chiến sĩ (giai cấp Sát-đế-lỵ).
Kusa – ku sha, một loại cỏ được coi là tốt lành, bởi Đức Phật đã an toạ trên một tấm nệm làm bằng loại cỏ này khi Ngài đạt được Giác ngộ.
La Sát – srin po, một loại Tinh linh hiểm độc ăn thịt người.
Lạc (kinh nghiệm) – bde nyams, một trong ba loại kinh nghiệm đạt được trong thiền định. Xem kinh nghiệm.
Lạc Biến Hoá Thiên – ‘phrul dga’, Phạn: Nirmanarata, một cõi Trời trong Dục Giới (ở tầng thứ năm của các vị Trời Dục Giới) trong đó các vị Trời có thể tạo ra bất cứ những gì họ cần một cách thần diệu. Xem ba cõi hay Tam giới.
Lạt Ma – bla ma, Phạn: guru, 1) vị Thầy tâm linh, được giải nghĩa là sự trái ngược với bla na med pa, “không có gì tối thượng hơn” (“vô thượng”). 2) thường được dùng một cách bao quát để chỉ các tăng sĩ hay cách hành giả du già (yogi) Phật Giáo nói chung.
Lakhe – gla khe, loại cây có vỏ ngọt.
Langri Thangpa, (Geshe) – glang ri thang pa (1054-1123), Geshe phái Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa, tác giả của Tám Bài Kệ Luyện Tâm và là vị sáng lập Tu viện Langthang.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Lâu Chí Phật (Infinite Aspiration) – mos pa mtha yas, (Phạn: rucika), một vị Phật vị lai, vị cuối cùng trong một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện trong Hiền Kiếp hiện tại này. (* Còn có tên là Ái Lạc Phật, Đề Khốc Phật, Lư Già Phật, Lâu Do Phật)
Lễ lạy – phyag ‘tshal ba, cử chỉ tôn kính, trong đó trán, hai bàn tay và hai đầu gối đều chạm đất.
Liên Hoa Sanh – xem Padmasambhava.
Lingje Repa – gling rje ras pa (1128-1188), vị sáng lập phái Drukpa Kagyu.
Longchenpa – klong chen rab ‘byams pa (1308-1363), cũng được gọi là Bậc Toàn Giác hay Pháp Vương, một trong những Đạo Sư tâm linh và học giả phi thường nhất của phái Nyingmapa. Ngài đã biên soạn hơn 250 luận thuyết, bao trùm hầu hết tất cả các lý thuyết và thực hành Phật Giáo cho tới pháp Đại Viên Mãn; Ngài là một trong số những Luận Sư vĩ đại nhất đã diễn giảng về pháp này. Trong số những luận thuyết vẫn còn lưu truyền là các tác phẩm nổi tiếng: Bảy Kho Báu (mdzod bdun), Nyingtk Yabzhi (snying tig ya bzhi), Ba Pháp An Trú (ngal gso skor gsum), Ba Pháp Giải Thoát Như Nhiên (rang grol skor gsum), Ba Pháp Phá Tan Bóng Tối (mun sel skor gsum) và Các Tác Phẩm Góp Nhặt (gsung thor bu).
Long Thọ – xem Nagarjuna.
Luân xa – ‘khor lo, Phạn: cakra, một trong những trung tâm năng lực ở những điểm khác nhau trên đường kinh mạch trung ương, từ đó toả ra những kinh mạch nhỏ, vi tế đi tới mọi cơ quan trong thân thể.
Luân hồi – xem Samsara.
Luận – xem Sastra.
Luật (Vinaya) – ‘dul ba, một trong Tam Tạng (tripitaka), gồm có những giáo lý về giới luật và đạo đức học của tu viện nói chung.
Lục độ ba la mật (six paramitas) – xem sáu pháp toàn thiện siêu việt.
Lục thức – xem sáu thức.
Ma quỷ– ‘dre, tinh hồn của người chết hay tổng quát hơn nữa, Tinh linh hoạ hại.
Machik Labdron – ma cig lab sgron (1031-1129), một đệ tử của Padampa Sangye, Bà trở thành bậc trì giữ các giáo huấn về pháp môn Chư của sư phụ.
Madhyamika – xem Trung Đạo.
Maha (yoga) (Đại du già) – pháp du già đầu tiên trong ba pháp du già tối thượng theo cách phân loại Giáo Pháp thành chín thừa. Trong pháp du già này, chủ yếu được đặt trên giai đoạn phát triển (bskyed rim).
Mahamudra – phyag rgya chen po, nghĩa đen: Đại Ấn. Đại Ấn có nghĩa là dấu ấn của chân tánh trên tất cả mọi sự và trên tất cả mọi hiện tượng nằm trong Mạn đà la trí tuệ. Thuật ngữ này có thể được dùng để chỉ rõ giáo lý, pháp thực hành thiền định hay quả vị thành tựu siêu việt. (* Thường được dịch là Đại Thủ Ấn).
Mahayana – theg pa chen po, xem Đại Thừa.
Mahasiddha – xem Tám mươi Đại Thành Tựu Giả.
Mạn đà la – dkyil ‘khor, nghĩa đen: trung tâm và chu vi. 1) Thế giới với cung điện của Bổn Tôn ở trung tâm, như được quán tưởng trong pháp môn tu tập của giai đoạn phát triển. 2) Thế giới lý tưởng được quán tưởng như một phẩm vật cúng dường.
Mạn đà la bảy cúng phẩm – mandal so bdun ma, mạn đà la gồm có Núi Tu Di, bốn trung châu (lục địa), mặt trời và mặt trăng.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Maitreya (Di Lặc) – byams pa, Đức Phật sắp xuất hiện, là vị Phật thứ năm trong đại kiếp hiện tại. Ngài cũng là một trong Tám Trưởng Tử (của Đức Phật Thích Ca).
Maitriyogi – byams pa’i rnal ‘byor pa, một trong ba vị Thầy chính của Atisa.
Mamo – mamo, Phạn: matrika, một loại Không Hành nữ.
Mandarava – một Thiên nữ trí tuệ (dakini), con gái của Vua xứ Zahor ở Ấn Độ. Một trong năm đệ tử và phối ngẫu chính của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) và một trong những vị trì giữ chính yếu những giáo lý của Ngài.
Mandhatri – nga las nu, một Hoá Thân khi xưa của Đức Phật, đã trở nên đầy uy lực nhờ vào sức mạnh của các công đức đã tích lũy trong quá khứ, nhưng đã đánh mất hết các thần lực này bởi một số tư tưởng xấu ác.
Mani – minh chú của Đức Avalokitesvara (Chenrezi), om mani padme hum.
Manjusrimitra (Diệu Đức Hữu) – ‘jam dpal bshes gnyen, Đạo sư thứ hai trong nhân loại thuộc dòng truyền thừa Đại Viên Mãn, một đại học giả của Nalanda và đệ tử của Garab Dorje.
Màn trướng quý báu – rin po che’i gdugs, một trong tám dấu hiệu tốt lành, tương ứng với đầu của Đức Phật và tượng trưng cho sự che chở thoát khỏi các hành vi xấu ác.
Ma vương (Mara) – bdud, Quỷ Ma, xem chú thích 230; những gì quyến rũ nói chung, tạo ra chướng ngại cho việc tu hành tâm linh và quả vị Giác Ngộ.
Marpa – lho brag mar pa (1012-1097), Đạo sư và dịch giả vĩ đại của Tây Tạng, đệ tử của Drogmi, Naropa, Maitripa và các Đại Thành tựu giả khác. Ngài mang nhiều Mật điển (Tantra) từ Ấn Độ về Tây Tạng và phiên dịch qua Tạng ngữ. Các giáo lý này được truyền xuống cho Milarepa và các đệ tử khác của Ngài, và là nền tảng của giáo lý dòng truyền thừa Kagyu.
Mật – mkhris pa, một trong ba thứ chất dịch của thân thể, sự mất quân bình của mật tạo nên những loại bệnh tật khác nhau. Cũng xem gió, đàm.
Mật điển – xem Tantra.
Mật nguyện (Hứa nguyện) – xem Samaya.
Mật Thừa – gsang ngags kyi theg pa, một nhánh của Đại Thừa, thừa này sử dụng các kỹ thuật đặc biệt của các Mật điển để việc đeo đuổi con đường giác ngộ vì tất cả chúng sinh có thể được hoàn tất nhanh chóng hơn.
Mâu Ni (Muni) – thub pa, nghĩa đen: Đấng Vĩ Đại (Thánh Giả). Một danh hiệu của một vị Phật.
Melong Dorje – me long rdo rje (1243-1303), Đại Thành Tựu Giả Tây Tạng, đạo sư của Kumaradza (Kumaradza là thầy của Longchenpa).
Milarepa – xem Jetsun Mila.
Minh chú (Mật Chú – Thần Chú - Mantra) – sngags, sự hiển lộ của tâm thức giác ngộ siêu việt qua hình thức các âm thanh. Các âm tiết trong các nghi quỹ (sadhana) của Mật Thừa bảo vệ tâm thức hành giả khỏi những tri giác phàm tục và được trì tụng để khẩn nguyện các Bổn Tôn Trí Tuệ.
Minh Sát (Quán) – lhag mthong, Phạn: vipasyana, “nhìn với con mắt trí tuệ để thấy ra được bản tánh riêng của tất cả mọi sự việc (hay tất cả các pháp).” DICT.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Một mục đích hai lợi lạc (Two-fold goal) – don gnyis, mục đích, lợi ích hay hạnh phúc (rang don) của riêng ta, và mục đích, lợi ích hay hạnh phúc của những chúng sinh khác (gzhan don). Thường được hiểu trong ý nghĩa tối hậu rằng mục đích cho bản thân sẽ đạt được nhờ chứng ngộ tánh Không hay Pháp Thân, và mục đích cho các chúng sinh khác sẽ đạt được nhờ vào lòng Bi mẫn hoá hiện như Sắc Thân.
Mười hai thể loại giảng dạy trong Tam Tạng (Thập nhị bộ kinh, Thập nhị phần giáo) – sde snod bcu gnyis, nghĩa đen: mười hai Tạng, cũng gọi là Mười hai Thuyết Ngôn Tuyệt Hảo (gsung rab yan lag bcu gnyis). Mười hai thể loại giảng dạy do Đức Phật tuyên thuyết tương ứng với mười hai loại Kinh: Khế Kinh (mdo sde, Phạn: sutra), Trùng tụng (dbyangs bsnyan, geya), Thọ ký (lung bstan, vyakarana), Phúng tụng (tshigs bcad, gatha), Tự thuyết (ched brjod, udana), Nhân duyên (gleng gzhi, nidana), Tự truyện (skyes rab, jataka), Vị tằng hữu (rmad byung, adbhutadharma), Luận nghĩa (gtan babs, upadesa), Ẩn dụ (rtogs brjod, avadana), Bản sự (de ltar byung, itivrittaka), và Phương quảng (shin tu rgyas pa, vaipulya).
Mười hai giới khổ hạnh (Hạnh đầu đà) – sbyangs pa’i yon tan bcu gnyis, Phạn: dvadasadhutaguna, mười hai giới thực hành khổ hạnh của các Thanh Văn và Phật Độc Giác, chẳng hạn như ngày ăn một bữa, sống ở nơi cô tịch, chỉ sở hữu ba tăng y, v.v..
Mười Hai Tiếng Cười Kim Cương – rdo rje gad mo bcu gnyis, một giáo lý của Đại Viên Mãn.
Mười phương (thập phương) – phyogs bcu, bốn phương chính, bốn phương trung gian, phương trên (thượng phương) và phương dưới (hạ phương).
Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) – mo’u ‘gal gyi bu, một trong hai đệ tử Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài được coi là bậc có oai lực thần thông vĩ đại nhất.
Nada – được định nghĩa là chos nyid kyi rang sgra, âm thanh tự nhiên của Pháp Tánh (dharmata). Trong âm tự hum, nada được tượng trưng bởi một ngọn lửa nhỏ nằm phiá trên vòng tròn ở trên đỉnh, biểu tượng cho trạng thái giác ngộ, là giác tánh, tinh tuý độc nhất.
Naga (Long, Rồng) – klu, một sinh loài giống như rắn sống sâu dưới nước hay dưới mặt đất. Mặc dù có các năng lực kỳ diệu, chúng được xếp vào loài súc sinh. Xem Tam giới hay ba cõi.
Nagarjuna (Long Thọ) – klu sgrub (thế kỷ thứ 1-2), Đạo Sư Ấn Độ, một trong Sáu Pháp Bảo. Ngài giảng dạy giáo lý Trung Đạo và biên soạn nhiều luận thuyết triết học và y học.
Nalanda – nơi sinh trưởng gần Rajagriha của đệ tử của Đức Phật là Ngài Xá Lợi Phất, là nơi về sau trong thời của các vị vua Gupta (thế kỷ thứ 5) trở thành một trong những trung tâm tu học vĩ đại nhất của Phật Giáo Ấn Độ. Tu viện này đã bị phá huỷ khoảng năm 1200.
Namcho Mingyur Dorje – gnam chos mi ‘gyur rdo rje, một vị khám phá được các bảo tàng Kinh (Khai mật tạng) vào thế kỷ 16.
Nanda – dga’bo, một người em họ của Đức Phật, về sau trở thành một trong những đệ tử xuất sắc của Ngài.
Naropa – na ro pa (1016-1100), học giả và Thành tựu giả Ấn Độ, là đệ tử của Tilopa và Đạo Sư của Dịch giả Marpa.
Ngũ Bộ Phật – rigs lnga , Phạn: pancakula, Phật, Kim Cương, Bảo Sanh, Liên Hoa và Nghiệp Bộ. Năm Bộ Phật tượng trưng cho Chân tánh của vạn pháp. Ví dụ như, Năm Đấng Chiến Thắng là chân tánh của năm uẩn, Năm vị Phối Ngẫu của các ngài là chân tánh của năm yếu tố (ngũ đại), và năm trí tuệ là chân tánh của năm độc, và v..v..
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Năm con đường – lam lnga, Phạn: pancamarga, năm giai đoạn liên tiếp trên con đường tu dẫn tới Giác ngộ: con đường vun bồi công đức, con đường hợp nhất, con đường của cái thấy (kiến), thiền định, và con đường siêu việt sở học.
Năm khoa học (Ngũ minh) – rig gnas lnga, Phạn: pancavidya, năm khoa học mà một đại học giả (pandita) phải thông suốt: 1) sự chế tạo của các sự vật (gzo rig gnas, silpavidya), 2) tu sửa các sự vật (bao gồm y khoa; gso ba’i rig gnas, cikitsavidya), 3) ngữ văn (sgra’ rigs gnas, Sabdavidya), 4) luận lý học (gtan tshigs kyi rig gnas, hetuvidya) và 5) triết học (nang don rig gnas, adhyatmavidya).
Năm năng lực – xem năng lực.
Năm độc (Ngũ độc) – dug lnga, năm cảm xúc tiêu cực: 1) si, gti mug, Phạn. moha (AT: sự vô minh, lầm lạc), 2) tham, ‘dod chags, raga (AT: dục vọng), 3) sân, zhee sdang, dvesa (bao gồm sự thù ghét, giận dữ, v.v..), 4) ganh tị, phra dog, irsya, và 5) kiêu ngạo, nga rgyal, mana.
Năm mật nguyện thọ dụng – dang du slang ba’i dam tshig lnga, năm mật nguyện (samaya) phụ thuộc trong pháp tu Đại Viên Mãn. Những mật nguyện này có liên quan tới sự vui hưởng năm loại thịt và năm chất cam lồ, là những chất thể được các hành giả Mật Thừa sử dụng mà thông thường được coi là bất tịnh hay bị cấm kỵ.
Năm suy hoại – snyigs ma lnga, đó là sự suy hoại của 1) thọ mạng 2) các cảm xúc tiêu cực (năm độc tăng trưởng) 3) chúng sinh (khó có thể cứu giúp họ) 4) thời đại (chiến tranh và nạn đói kém phát triển) 5) quan niệm (các niềm tin sai lạc lan tràn).
Năm Thân Phật (kaya) – sku lnga, Phạn: pancakaya, ba Thân Phật được cộng thêm vào với Thân Kim Cương Bất Biến (mi ‘gyur rdo rje’i sku, Phạn: vajrakaya) và Thân Toàn Giác (mngon par byang chub pa’i sku, Phạn: abhisambodhikaya). Thành ngữ này cũng có thể ám chỉ năm Bộ Phật: thân, ngữ, ý, các phẩm hạnh và hoạt động của chư Phật. Xem ngũ bộ Phật.
Năm trọng tội có quả báo tức thời (ngũ nghịch trọng tội hay trọng nghiệp) – mtshams med lnga, Phạn: pancanantariya, 1) giết cha hay 2) giết mẹ hay 3) giết một vị A La Hán; 4) gây chia rẽ trong Tăng Đoàn; 5) làm một vị Phật chảy máu với sự ác ý (hay báng bổ, làm dơ bẩn hình tượng Phật). Những người mắc phạm một trong năm hành vi này bị tái sinh lập tức trong Địa ngục Vô Gián sau khi chết mà không kinh qua trạng thái trung gian.
Năm nghiệp tội gần như trọng tội (gần như trọng nghiệp) – nye ba’i mtshams med lnga, 1) hành xử bất tịnh với một vị nữ A La Hán; 2) giết hại một vị Bồ Tát; 3) giết hại hành giả đang tu tập hướng tới Phật Quả; 4) trộm cắp tài sản của Tăng Đoàn; 4) phá huỷ bảo tháp (stupa).
Năm trăm ngàn pháp tu dự bị – ‘bum lnga, năm pháp tu dự bị theo truyền thống: Quy y, Bồ Đề Tâm, Kim Cương Tát Đoả (Vajrasattva), Mạn đà la và Bổn Tôn Du Già (Guru yoga); mỗi pháp tu phải được thực hiện một trăm ngàn lần.
Năm yếu tố toàn hảo – phun sum tshogs pa lnga, vị Thầy toàn hảo, giáo lý toàn hảo, nơi chốn toàn hảo, chúng đệ tử toàn hảo và thời gian toàn hảo.
Ngũ độc – xem năm độc.
Ngũ trí (năm trí) – ye shes lnga, năm phương diện trí tuệ của Phật Quả: Trí tuệ của Pháp Giới tối thượng (Pháp Giới Thể Tánh Trí, chos dbyings kyi ye shes, Phạn: dharmadhatujnana), Trí tuệ như tấm gương (Đại Viên Cảnh Trí, mee long gi ye shes, adarsajnana), Trí tuệ bình đẳng (Bình Đẳng Tánh Trí, mnyam nyid kyi ye shes, samatajnana), Trí tuệ biết phân biệt (Diệu Quan Sát Trí, so sor rtog pa’i ye shes, pratyaveksanajnana), và Trí tuệ hoàn toàn thành tựu (Thành Sở Tác Trí, bya ba grub pa’i ye shes, krityanusthanajnana). Xem ngũ bộ.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Năng lực – rlung, Phạn: prana, vayu, nghĩa đen: gió (khí). Đặc tính của gió là “nhẹ và chuyển động.” Tâm được mô tả như cưỡi trên gió rung giống như một kỵ sĩ trên lưng ngựa. Năm loại gió rlung khác nhau giúp điều chỉnh các chức năng của thân: 1) năng lực đi lên (gyen rgyu), 2) năng lực đẩy xuống (thur sel), 3) năng lực nồng nhiệt (me mnyam), 4) năng lực toàn-khắp (khyab byed) và 4) sinh lực tức năng lực duy trì sự sống (srog ‘dzin).
Ngạ quỷ – xem preta.
Nghiên cứu (văn) – thos pa, nghĩa đen: lắng nghe. Theo truyền thống, lắng nghe giáo lý là cách thức chính yếu để học tập ở Tây Tạng. Trước khi nghiên cứu một bản văn, điều quan trọng là phải thọ nhận lời dạy của vị Thầy qua tai bằng cách thực sự lắng nghe Pháp ngữ của vị Thầy. Như thế, “nghiên cứu” không chỉ thuần tuý là việc đọc một bản văn.
Nghiệp (Karma) – las. Chúng ta thường thích nói “kết quả của các hành động,” “hành động và kết quả” hay “nguyên lý nhân quả.” Theo nghĩa đen, Nghiệp chỉ có nghĩa đơn thuần là “hành động,” nhưng thường được dùng một cách rộng rãi để chỉ những kết quả do các hành vi trong quá khứ tạo nên (las kyi ‘bras bu, Phạn: karmaphala).
Nghiệp chướng – las kyi sgrib pa, Phạn: karmavarana, các che chướng hay chướng ngại gây ra bởi các hành vi tiêu cực. Xem chướng ngại.
Nghiệp lực – las kyi rlung, năng lực do nghiệp chiêu cảm quyết định, đối nghịch với ye shes kyi rlung, năng lực kết hợp với trí tuệ.
Ngondro – xem các pháp tu dự bị.
Ngũ nghịch trọng tội – xem năm trọng tội có quả báo tức thời.
Nguyên lý nhân quả – las rgyu ‘bras, nghĩa đen: hành vi, nhân và quả… Trong tiến trình nhân quả này, mỗi hành vi tạo ra một kết quả tương ứng. Xem nghiệp.
Nhân quả – xem nguyên lý nhân quả hay nghiệp.
Nhất Lai Vương Phật (Once-Come King) – sngon byung gi rgyal po, Đức Phật của kiếp (Kalpa) đầu tiên.
Nhị nguyên – gnyis ‘dzin, nghĩa đen: sự bám chấp, đối đãi, thấy có hai, Quan niệm về “ta” và “người.”
Như Lai – xem Tathagata.
Như nhiên – ma bcos pa, Phạn: naisargika, để yên trong trạng thái nguyên sơ, không cố tình thay đổi hay tạo tác.
Như thị – de bzhin nyid, Phạn: tathata, “bản tánh của vạn pháp, tánh Không.” DKR.
Nhục kế – gtsug tor, Phạn: usnisa, chỗ nhô lên trên đầu một vị Phật, một trong ba mươi hai tướng chính.
Niết bàn (Nirvana) – mya ngan las ‘das pa, trạng thái siêu vượt đau khổ. Ý niệm về Niết Bàn không giống nhau trong Thanh Văn Thừa, Đại Thừa và Kim Cương Thừa.
Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ – zangs mdod dpal ri, một cõi Phật do Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) hoá hiện, Ngài tới đó khi rời Tây Tạng và hiện vẫn an trụ ở đó.
Núi Tu Di (Meru) – ri rgyal po ri rab, ngọn núi vĩ đại, đỉnh núi rộng lớn hơn chân núi, bốn trung châu (lục địa) của thế giới ấy được bố trí quanh núi, phù hợp với khoa vũ trụ học của Ấn Độ thời cổ.
Nyingmapa – xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật.
Oddiyana – o rgyan, một trụ xứ của các Nữ Không Hành (dakini) là nơi đản sinh của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Theo một vài tài liệu thì nơi đây được xác định là ở giữa Afghanistan và Kashmir ngày nay. Đây cũng là nơi sinh ra đời của Garab Dorje. Việc dùng từ “Oddiyana” gắn liền với các danh hiệu chẳng hạn như “Đấng Vĩ Đại,” “Đức Phật Thứ Hai,” “Đạo Sư Vĩ Đại,” và v.v. luôn luôn ám chỉ Đức Liên Hoa Sanh.
Orgyenpa (Rinchen Pal) – o rgyan pa rin chen dpal (1230¬1309), một đại thành tựu giả của truyền thống Drukpa Kagyu, đệ tử của Gotsangpa. Ngài du hành khắp nơi, thăm viếng Oddiyana, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) và Trung Hoa. Trong số các đệ tử của Ngài có các vị Karmapa Rangjung Dorje, Kharchupa và Dawa Senge.
Ô nhiễm (hành vi) – zag bcas, Phạn: sasrava, được làm với ba ý niệm (tạo tác) về chủ thể, đối tượng và hành động.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Padampa Sangye – pha dam pa sangs rgyas (thế ky1-12), Thành tựu giả Ấn Độ lập nên giáo lý của phái Shijepa (zhi byed pa). Ngài là Đạo sư của Machik Labdron, Ngài đã trao truyền cho Bà giáo lý Chư. Ngài đã du hành tới Tây Tạng vài lần.
Padma – danh hiệu mà Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) dùng để chỉ chính mình. Padma có nghĩa là “hoa sen.”
Padma Thotreng – padma thod phreng rtsal, nghĩa đen: Hoa sen đeo vòng hoa sọ người. Một trong những danh hiệu của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).
Padmasambhava xứ Oddiyana (Liên Hoa Sanh) – o rgyan padma ‘byung gnas, Đạo Sư đản sanh từ Hoa Sen ở xứ Oddiyana, Đức Liên Hoa Sanh, thường được gọi là Guru Rinpoche (Đạo Sư Tôn Quý). Trong triều đại của Vua Trisong Detsen, vị Đạo Sư vĩ đại này đã chế phục các thế lực xấu ác chống đối lại việc truyền bá Phật Giáo ở Tây Tạng, phổ biến giáo lý Phật Giáo thuộc Kim Cương Thừa ở đất nước Tây Tạng và cất dấu vô số kho tàng tâm linh vì lợi lạc của những thế hệ tương lai. Ngài được tôn kính như Đức Phật Thứ Hai mà sự xuất hiện của Ngài đã được vị Phật thứ nhất là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phó chúc, để ban dạy các giáo lý đặc biệt của Kim Cương Thừa.
Palmo (ni cô) – dge slong ma dpal mo, ni cô Ấn Độ nổi tiếng đã truyền bá pháp tu Nyung-ne (ăn chay một ngày, lễ lạy và giữ giới im lặng) và đạt được thành tựu siêu việt nhờ vào pháp hành trì nương nơi Đức Avalokitesvara.
Palyul (tu viện) – dpal yul, một trong sáu đại tu viện của phái Nyingmapa.
Pandita – một học giả, bậc uyên bác thấu suốt năm khoa học truyền thống (xem: năm khoa học – ngũ minh). Đặc biệt được dùng để ám chỉ các học giả Ấn Độ.
Paramita – xem pháp toàn thiện siêu việt (ba la mật).
Pháp – chos. Thuật ngữ này có một số ý nghĩa khác nhau. Trong ý nghĩa rộng lớn nhất thì Pháp có nghĩa là tất cả những gì có thể biết được (vạn pháp). Trong bản văn này thì thuật ngữ Pháp được dành riêng để chỉ giáo lý của Đức Phật (Phật Pháp). Pháp gồm có hai phương diện: Pháp của sự truyền giảng (lung gi chos), đó là những giáo lý thực sự được ban truyền, và Pháp của sự chứng ngộ (rtogs pa’i chos), hay là các trạng thái trí tuệ, v.v. là những gì đạt được nhờ vào việc áp dụng giáo lý. Pháp thường được ám chỉ là “Pháp Tối Thắng” (siêu việt) bởi Pháp có thể giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ. Pháp (Dharma) hay chos cũng có thể chỉ đơn giản có nghĩa là “các hiện tượng” (các pháp hữu vi). Khi mang ý nghĩa này thì Pháp được dịch theo nghĩa hẹp.
Pháp chuẩn bị, công phu chính yếu và kết thúc – sbyor dngos rjes gsum, ba phương pháp siêu việt cho bất kỳ pháp môn tu tập nào: 1) bắt đầu bằng cách kiểm soát xem ta có động lực từ bi hay không, 2) thực hành công phu mà không để cho các ý niệm hướng về của cải tài lộc xen vào, và 3) chấm dứt bằng cách hồi hướng công đức cho đạo quả giác ngộ của tất cả chúng sinh.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Pháp chuyển di (Phowa) – ‘pho ba, 1) di chuyển từ nơi này sang nơi khác, chuyển kiếp (sau khi chết). 2) pháp môn thực hành để hướng dẫn tâm thức chuyển di vào lúc chết.
Pháp Giới – chos dbyings, Phạn. dharmadhatu, AT: thực tại trải rộng. Từ quan điểm của cái thấy chứng ngộ, mọi hiện tượng xuất hiện như là sự trải rộng của tánh Không.
Pháp luân – chos kyi ‘khor lo, Phạn: dharmacakra, biểu tượng của Phật Pháp. Chuyển Pháp Luân có nghĩa là giảng dạy Giáo Pháp. Trong đời Ngài, Đức Phật đã tuyên thuyết ba loạt giáo lý chính yếu, được nhắc tới như là những lần chuyển Pháp Luân thứ nhất, thứ nhì và thứ ba.
Pháp toàn thiện siêu việt (Ba la mật) – pha rol tu phyin pa, Phạn: paramita. Sáu phương pháp tu tập theo con đường của Bồ Đề Tâm hạnh. Các pháp này siêu việt bởi được đi kèm với trí tuệ của tánh Không. Cũng xem sáu pháp toàn thiện siêu việt (Lục độ ba la mật).
Pháp trì tụng Kim Cương – rdo rje bzlas pa, trì tụng các câu minh chú trong khi phối hợp với việc hít vào, nín hơi và thở ra.
Pháp tu dự bị (Ngondro) – sngon ‘dro. Xem năm trăm ngàn các pháp tu dự bị.
Pháp Vương của những điều Mật diệu – gsang ba’i bdag po, một danh hiệu của Vajrapani (Kim Cương Thủ).
Pháp Vương Toàn Giác – danh hiệu của Ngài Longchenpa.
Phật (Buddha) – sangs rgyas, “ Người đã đoạn diệt được (sangs) bóng tối của hai chướng ngại và phát triển được (rgyas) hai trí tuệ toàn giác (thấu suốt bản tánh của hiện tượng và thấu suốt được các hiện tượng phức tạp đa dạng.) DICT.
Phật Pháp – xem Pháp (Dharma).
Phật Tánh – de gshegs snying po, Phạn: tathagatagarbha, tiềm năng của Phật Quả hiện diện trong mỗi chúng sinh. AT: tinh túy của Phật Quả.
Phong trào bất bộ phái – ris med (rimé), nghĩa đen: không phân biệt. Phong trào tâm linh được phát động bởi các đại Lạt ma lừng danh Jamyang Khyentse Wangpo cũng như Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, Mipham, Chogyur Lingpa và Patrul Rinpoche. Đặc điểm của phong trào Rimé là tôn trọng tất cả mọi giáo lý và trường phái Phật Giáo.
Phowa – xem Pháp Chuyển Di.
Phối ngẫu – 1) yum, nữ Hộ Phật (deity) được mô tả trong sự hợp nhất với một nam Hộ Phật (yab). Bà tượng trưng cho trí tuệ bất khả phân với phương tiện thiện xảo, được tượng trưng bởi nam Hộ Phật. Các Ngài cũng tượng trưng cho Pháp Giới của tánh Không, bất khả phân với giác tánh. 2) gsang yum, nghĩa đen: bà mẹ bí mật. Vợ của một đại Lạt Ma.
Phước đức – bsod nams, Phạn: punya, thiện nghiệp, năng lực được phát sinh bởi các hành vi thiện lành của thân, ngữ và ý.
Phướn Toàn Thắng – phyogs las rnam par rgyal ba’I rgyal mtshan, một trong tám dấu hiệu tốt lành. Phướn này tương ứng với thân Phật và tượng trưng cho tính chất bất khả hoại của Giáo lý của Ngài.
Phương – xem mười phương.
Phương tiện – thabs, xem phương tiện thiện xảo.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Phương tiện nghĩa – drang don, Phạn: neyartha, ám chỉ các giáo lý với ý định thích hợp để dẫn dắt chúng sinh chưa chứng ngộ đến được với chân lý của ý nghĩa rốt ráo hay chân nghĩa.
Phương tiện thiện xảo – thabs, Phạn: upaya, hoạt động tự nhiên, vị tha, phát sinh từ trí tuệ.
Pitaka (Tạng) – xem Tam Tạng (Tripitaka).
Pitaka (thứ tư) – sde snod bzhi pa, pitaka (Tạng) của Mật Thừa.
Potowa, (Geshe) – po to ba (1031-1105), một trong Ba Anh em, ba đệ tử nổi tiếng của Drom Tonpa (vị sáng lập phái Kadampa).
Pratyekabuddha – xem Độc Giác Phật.
Preta (ngạ quỹ) – yi dvags, AT: tinh linh đói khát, tinh linh, quỷ đói.
Puchungwa, (Geshe) – phu chung ba, một trong Ba Anh em.
Purnakasyapa – od srung rdzogs byed, một Đạo sư thủ lãnh những kẻ ngoại đạo (tirthika) vào thời Đức Phật.
Quả (kết quả của hành nghiệp) – las rgyu ‘bras, Phạn: phala. Xem nghiệp (karma).
Quả chín muồi (Quả báo thành thục) – rnam smin gyi ‘bras bu, Phạn: vipakaphala, thời điểm một hành nghiệp trổ quả cực đại, ví dụ như phải bị đoạ sanh vào trong Địa ngục.
Quả trổ sanh nghiệp cảnh – dbang gi ‘bras bu, tác dụng của các hành nghiệp báo ứng vào hoàn cảnh sống của ta trong một đời tương lai.
Quả vị hợp nhất – zung ‘jug gi go ‘phang, quả vị của Kim Cương Trì (Vajradhara). Sự hợp nhất của Pháp Thân và Sắc Thân.
Quan Âm – xem Tara. Quán – xem minh sát. Quán đảnh – dbang bskur, Phạn: abhiseka, nghĩa đen: trao truyền năng lực (gia lực). Sự cho phép nghe, nghiên cứu và thực hành giáo lý Kim Cương Thừa. Việc này xảy ra trong một nghi lễ có thể hết sức phức tạp hoặc hoàn toàn đơn giản. Xem bốn quán đảnh.
Quán đảnh bí mật – gsang dbang. Quán đảnh thứ nhì, “quán đảnh tịnh hoá những ô nhiễm của ngữ (khẩu), khiến ta có thể thiền định về các kinh mạch và năng lực, có thể trì tụng các câu mật chú, và gieo trồng hạt giống để đạt được ngữ (khẩu) kim cương và Báo Thân.” DICT.
Quán đảnh tịnh bình – bum dbang, quán đảnh thứ nhất “tịnh hoá các ô nhiễm của thân, khiến ta có thể thiền định về giai đoạn phát triển và gieo trồng hạt giống để đạt được thân kim cương và Hoá Thân.”
Quán đảnh quả vị – ‘bras bu’i dbang, quán đảnh xảy ra vào lúc đạt được giác ngộ viên mãn.
Quán đảnh ngôn từ quý báu – tshig dbang rin po che, quán đảnh thứ tư “quán đảnh diệt trừ những ô nhiễm của thân, ngữ, ý và các tập khí (các khuynh hướng quen thuộc), khiến ta có thể thiền định về Đại Viên Mãn bẩm sinh và gieo trồng hạt giống để đạt được trí tuệ kim cương và Thân Tự Tánh.” DICT.
Quán đảnh trí tuệ – shes rab kyi dbang, quán đảnh thứ ba “tịnh hoá các ô nhiễm của tâm, giúp cho ta có khả năng thiền định về giai đoạn toàn thiện và gieo trồng hạt giống để đạt được tâm kim cương và Pháp Thân.” DICT.
Quán Thế Âm (Quán Tự Tại) – xem Avalokiteshvara hay Đấng Đại Từ Đại Bi hay Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Quảng đại (Rộng lượng) – sbyin pa, Phạn: dana, nghĩa đen: bố thí.
Quy y – 1) skyabs yul, đối tượng mà ta quy y. 2) skyabs ‘gro, sự thực hành quy y.
Repa Shiwa O – ras pa zhi ba ‘od, một trong những đệ tử chính của Milarepa.
Rinchen Zangpo – rin chen bzang po (958-1055), dịch giả nổi tiếng nhất trong công cuộc truyền bá Phật Giáo lần thứ hai ở Tây Tạng, khi phái Tân Dịch bắt đầu.
Risi – drang srong, 1) nhà hiền triết, ẩn sĩ, thánh nhân, đặc biệt là những hiền triết nổi tiếng của thần thoại Ấn Độ, là những vị trường thọ và có oai lực thần thông vĩ đại. 2) tên của một chòm sao.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Ruộng công đức – tshogs zhing, trọng tâm, hoặc đối tượng của việc cúng dường, quy ngưỡng, cầu nguyện, lễ lạy, v..v. của ta, qua đó ta có thể thực hiện các pháp tích tập công đức và trí tuệ cần thiết. Thuật ngữ thường hàm ý một trọng tâm được quán tưởng trong các pháp môn hành trì chẳng hạn như quán tưởng các Bổn Tôn quy y, vị Thầy trong pháp Bổn Sư Du Già, v.v… Công phu hành trì và các hành động tốt lành của ta nếu được hướng tới một hiện thân như thế của Phật, Pháp và Tăng, sẽ đem lại cho công phu của ta một năng lực to lớn hơn thế nữa.
Sa di – dge tshul, Phạn: sramanera. Một sa di có ít giới để giữ hơn một vị sư thọ cụ túc giới (dge slong, Phạn: bhiksu, Tỳ kheo).
Sadaprarudita (Thường Đề Bồ Tát) – rtag tu ngu, một vị Bồ Tát mà danh hiệu có nghĩa là “Luôn Luôn Than Khóc”, vì lý do Ngài đã phải đổ lệ khi tìm cầu giáo lý Trí tuệ Bát nhã.
Sắc Thân (Rupakaya) – gzugs sku, Thân của sắc tướng, bao gồm Báo Thân và Hoá Thân cùng một lúc.
Sakyapa – sa skya pa, một trong các trường phái của Truyền Thống Mới do Ngài Khon Konchok Gyalpo sáng lập (1034-1102).
Samantabhadra (Phổ Hiền) – kun tu bzang po, 1) Đức Phật nguyên thuỷ (Adibuddha), Đấng không bao giờ rơi vào mê lầm, Đức Phật Pháp Thân hiện thân là một nhân vật trần trụi, sắc xanh dương đậm như bầu trời, trong sự hợp nhất với Samantabhadri, như một biểu tượng của giác tánh,tánh Không, bản tánh thuần tịnh, tối thượng, luôn luôn hiện diện và không bị ngăn che. Suối nguồn của dòng truyền thừa Mật điển của trường phái Nyingma. 2) Đại Bồ Tát Samantabhadra (Phổ Hiền), một trong Tám Pháp Vương Tửû (của Đức Phật Thích Ca), mà qua oai lực thiền định, Ngài nổi danh về phương thức làm gia tăng bội phần những phẩm vật cúng dường do Ngài dâng cúng một cách thật thần diệu.
Samaya (Mật nguyện) – dam tshig, nghĩa đen: hứa nguyện, thệ nguyện. Mối liên kết thiêng liêng giữa Thầy và trò, và giữa các đệ tử với nhau trong Kim Cương Thừa. Từ Phạn ngữ samaya có thể có nghĩa là: thoả thuận, cam kết, quy ước, giới luật, ranh giới, v.v... Mặc dù có nhiều luật lệ rất chi tiết, nhưng samaya tối quan trọng là coi thân, ngữ và ý của vị Thầy là cái gì vô cùng thanh tịnh.
Samsara (Luân hồi) – ‘khor ba, vòng luân hồi trong đó ta bị xô đẩy không ngưng nghỉ bởi những cảm xúc tiêu cực và bởi nghiệp lực của những hành vi tạo tác của chính ta, đưa ta từ một trạng thái tái sinh này tới trạng thái tái sinh khác.
Samvarasara – bde mchog snying po, một trong những danh hiệu của Manjusri (Văn Thù Bồ Tát).
Samye – bsam yas, tu viện đầu tiên ở Tây Tạng, trong thung lũng Tsangpo miền đông nam thủ đô Lhasa, được xây dựng trong thời Vua Trisong Detsen. Tên này có nghĩa là “không thể nghĩ bàn.”
Samye Chimpu – bsam yas mchims phu, tên của một tập hợp các tu viện nằm ở trên sườn núi của Tu viện Samye, nơi nhiều Đại Đạo sư Phật Giáo đã đạt được thành tựu.
Sang Rinpoche – bla ma zhang rin po che (brtson ‘grus grags pa) (1121-1193), một đại Lạt ma dòng truyền thừa Kagyupa , vị sáng lập phân phái Tsalpa Kagyu.
Sankara – bde byed, ví dụ về một người mà dục vọng và sự thù ghét của ông ta mạnh tới nỗi giết chết mẹ mình. Ông hối hận và sau khi tịnh hoá những ác hạnh của mình, ông đã được tái sinh ở một cõi Trời.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Santaraksita (Tịch Hộ) – zhi ba mtsho, cũng được gọi là Bồ Tát Tu viện trưởng. Vị học giả (pandita) Ấn Độ vĩ đại của Đại Thừa này là tu viện trưởng của Đại Học Viện Phật Giáo Nalanda và là tác giả của một số các luận giảng triết học, chẳng hạn như Vật Trang hoàng của Trung Đạo (dbu ma rgyan, Phạn: Madhyamakalmkara-karika). Ngài được Vua Trisong Detsen mời tới Tây Tạng để hiến cúng địa điểm của tu viện Tây Tạng đầu tiên ở Samye và ban giới cho những Tăng sĩ đầu tiên ở Tây Tạng.
Santideva (Tịch Thiên) – zhi ba lha (thế kỷ thứ 7), thi sĩ vĩ đại và đại thành tựu giả Ấn Độ, là người đã làm kinh ngạc các tu sĩ của tu viện Nalanda của Ngài bằng bài kệ nổi tiếng về pháp tu Bồ Đề Tâm, Bodhicaryavatara (spyod ‘jug), hay Nhập Bồ Tát Hạnh.
Saraha – sa ra ha, đại thành tựu giả Ấn Độ, tác giả của ba giáo khoá của các bài đạo ca (doha).
Sarvanivaranaviskambhin (Trừ Cái Chướng Bồ Tát)– sgrib pa rnam sel, một trong Tám Trưởng Tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sastra (Luận) – bstan bcos, luận giảng về giáo lý của Đức Phật.
Sattvavajra (Tát Đoả Kim Cang) – sems dpa’ rdo rje, một danh hiệu được ban cho Đức Kim Cang Thủ (Vajrapani).
Sáu cõi luân hồi – ‘gro drug, Phạn: sadgati, sáu phương cách hiện hữu được tạo ra và bị thống trị bởi một độc tố đặc biệt trong tâm: cõi Địa ngục (sân), cõi Ngạ quỷ (keo kiệt), cõi Súc sinh (si mê), cõi Người (tham ái), cõi Bán Thiên (demi-gods) hay A tu la (ganh tị), và cõi Trời (kiêu ngạo). Các cõi này tương ứng với những tri kiến mê lầm được tạo nên bởi nghiệp (karma) của chúng sinh và được nhận thức như thật có. Người ta cũng nói năm cõi, tính chung chư Thiên và bán Thiên vào một cõi.
Sáu loại chúng sinh – ‘gro drug, xem sáu cõi luân hồi.
Sáu thức (lục thức) – rnam shes tshogs drug, Phạn: sadvijnanakaya, nghĩa đen: sáu sự tập hợp của thức, nghĩa là sự tập hợp của đối tượng giác quan (trần), của giác quan (căn) và của thức. Chúng là nhãn thức (nhìn), nhĩ thức (nghe), tỉ thức (ngửi), thiệt thức (nếm), xúc thức (chạm) và ý thức.
Sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) – pha rol tu phyin pa drug, Phạn: sad paramita: bố thí siêu việt (dana¬paramita), giới luật siêu việt (Sila-paramita), nhẫn nhục siêu việt (ksanti-paramita), tinh tấn siêu việt (virya¬paramita), thiền định siêu việt (dhyana-paramita) và trí tuệ siêu việt (prajna-paramita). Cũng xem pháp toàn thiện siêu việt, ba la mật, paramita.
Sáu Bảo Trang – rgyan drug, sáu luận sư vĩ đại của Phật Giáo: Nagarjuna (Long Thọ), Aryadeva (Thánh Thiên), Asanga (Vô Trước), Vasubandhu (Thế Thân), Dignaga (Trần Na) và Dharmakirti (Pháp Xứng).
Savaripa – sha ba ri pa hoặc ri khrod dbang phyug, một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ. Ngài là thợ săn ở một bộ tộc vùng đồi núi xứ Bengal, và đã cùng hai người vợ trở thành các đệ tử của Nagarjuna (Long Thọ).
Shapkyu – zhabs kyu, nghĩa đen: chân móc. Một dấu hiệu có dáng của một cái móc được đặt dưới một phụ âm để tượng trưng cho âm u.
Sharawa – shara ba (yon tan grags) (1070-1141), danh hiệu của một geshe Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa.
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Shubu Palgyi Senge – shud bu dpal gyi seng ge, một trong hai mươi lăm đại đệ tử của Padmasambhava.
Siddhi (thành tựu) – dngos grub, xem thành tựu.
Six Paramitas (Lục độ ba la mật) – xem Sáu Pháp Thành Tựu Siêu Việt.
Smrtijnana – (thế kỷ 10-11), Đạo sư và pandita (học giả) Ấn Độ nổi tiếng, người góp phần vào việc phiên dịch sang tiếng Tây Tạng và hiệu đính một số Mật điển và luận giảng. Ở Tây Tạng, cái chết của Ngài đánh dấu sự chấm dứt của giai đoạn Cựu Dịch (Cựu Phái Dịch Thuật).
So, Zur và Nub – so zur gnubs, ba Đạo Sư vĩ đại, là những bậc trì giữ dòng truyền thừa Nyingma Kahma lúc ban đầu (sự truyền dạy đầy đủ từ Đạo Sư sang đệ tử của giáo lý Nyingma, tương phản với Terma (kho tàng tâm linh) được ẩn dấu, về sau mới được khai quật, đôi khi sau một thời gian rất dài). Tên họ của các Ngài là So Yeshe Wangchuk, Zur Shakya Jungne và Nub Chen Sangye Yeshe.
Songtsen Gampo – srong btsan sgam po (617-698), Vua thứ 33 của Tây Tạng và một trong ba Pháp Vương vĩ đại. Chính trong thời của Ngài mà những ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên được xây dựng.
Sri Simha (Cát Tường Sư Tử) – dpal gyi seng ge (thế kỷ thứ 4), vị Thầy thứ ba trong loài người thuộc dòng truyền thưà Đại Viên Mãn, đệ tử của Manjusrimitra (Diệu Đức Hữu).
Srona (Sronajat) – gro byin skyes, một người chơi đàn vina sau trở thành đệ tử của Đức Phật và đạt được oai thần có thể viếng thăm các cõi khác, đặc biệt là các cõi ngạ quỷ.
Stupa (bảo tháp) – mchod rten, nghĩa đen: hỗ trợ cho việc cúng dường, tượng trưng cho tâm Phật. Đài kỷ niệm tiêu biểu nhất, thường có một đáy vuông rộng lớn, phần giữa tròn, và một phần trên lớn, hình nón, trên đỉnh là một mặt trời và mặt trăng. Bảo tháp thường chứa xá lợi của những bậc chứng ngộ. Kích thước của bảo tháp biến đổi từ những mô hình đất sét nhỏ xíu tới những bảo tháp rộng mênh mông tại Borobodur ở Indonesia và Bodha (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Nepal.
Sugata (Thiện Thệ) – bde bar gshegs pa, nghĩa đen: đạt được hạnh phúc: một vị Phật, Đấng Thiện Thệ. “Đấng sử dụng con đường hạnh phúc của Bồ Tát Thừa, đạt được kết quả hạnh phúc là Phật Quả viên mãn.” DICT.
Sunaksatra (Thiện Tú) – legs pa’i skar ma, anh em họ của Đức Phật, là người mặc dù trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả của Đức Phật và thấu hiểu tất cả giáo lý của Ngài, nhưng vẫn không thể nhận thấy ra được bất kỳ phẩm tính thiện lành nào nơi Ngài. Ông chết không lâu sau khi rời Đức Phật và bị tái sinh làm một Ngạ quỷ.
Suvarnadvipa (Pháp Vương) – gser gling pa, một Đạo sư Phật Giáo, Pháp Xứng (Dharmakirti), sống ở Sumatra vào thế kỷ thứ 10. Atisa coi Ngài như bậc Thầy quan trọng nhất trong các vị Thầy. Từ Ngài, Atisa thọ nhận giáo lý Bồ Đề Tâm.
Tà kiến – log lta, Phạn: mithyadristi, AT: niềm tin sai lạc, đặc biệt là một quan điểm sai lầm sẽ dẫn ta tới những tiến trình hành động gây thêm nhiều đau khổ hơn nữa.
Tam Bảo – dkon mchog gsum, Phạn: triratna, Phật, Pháp và Tăng đoàn.
Tam độc – xem ba độc.
Tam giới (Ba cõi) – 1) khams gsum, Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thế giới thứ nhất bao gồm chúng sinh ở các cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Người và A Tu La, cùng một vài cõi Trời. Hai thế giới kế tiếp là các cõi Trời với một kinh nghiệm tinh tế là kết quả của một vài loại thiền định mãnh liệt (xem thiền định thế tục), 2) Đôi khi được dùng để dịch sa gsum, Phạn: tribhvana, nghĩa đen là ba tầng lớp: phía trên mặt đất (sa bla), mặt đất (sa steng) và bên dưới mặt đất (sa ‘og); được gọi là cõi Trời, cõi người và cõi Rồng.
Tam học (Tam-yếu Pháp) – bsab pa gsum, Phạn: trisiksa, giới (tsul khrims, sila), định (ting nges’ dzi, citta) và tuệ (shes rab, prajna).
-
Lời vàng của thầy tôi THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________
Tam Tạng (Tripitaka) – sde snod gsum, Ba tạng Giáo lý của Đức Phật, Sutra (Kinh) , Vinaya (Luật) , Abhidharma (Luận). Đôi khi giáo lý Kim Cương Thừa được coi là pitaka (tạng) thứ tư . Tripitaka có nghĩa là “ba cái giỏ” - được gọi như thế là vì trước tiên Kinh điển được chép lại trên những trang sách bằng lá cây cọ, được tập hợp lại và chứa trong những cái giỏ (rổ).
Tam thiên đại thiên thế giới – stong gsum, Phạn: trisahasra, vũ trụ gồm có một tỉ thế giới giống như thế giới của chúng ta và tương ứng với phạm vi hoạt động của một vị Phật.
Tám dấu hiệu cát tường (Eight auspicious signs) – bkra shis rtags brgyad, tám biểu tượng (tương ứng với các bộ phận khác nhau trên thân Phật): nút vĩnh cửu, hoa sen, màn trướng, ốc xà cừ, bánh xe, cờ, bảo bình, và cá vàng.
Tám hành vi sai lầm – log pa rgyad, 1) chỉ trích điều tốt, 2) khen ngợi điều xấu, 3) làm ngưng trệ việc tích lũy công đức của một người đức hạnh, 4) làm náo động tâm thức của người có lòng quy kính, 5) từ bỏ vị Thầy tâm linh, 6) từ bỏ Bổn Tôn, 7) từ bỏ các huynh đệ và tỉ muội Kim cương, 8) phỉ báng một Mạn đà la.
Tám mối quan tâm thế tục – ‘jig rten chos brgyad, Phạn: astalokadharmah, những mối bận tâm bình thường của những người chưa chứng ngộ và không có được một nhãn kiến tâm linh trong sáng. Đó là: được và mất, vui và buồn (khổ), khen và chê, vinh và nhục.
Tám Mộ Địa Vĩ Đại – dur khrod chen po brgyad, những nơi kinh hoàng (mộ địa) mà các Không Hành nam (daka) và Không Hành nữ (dakini) tụ hội. Trong ý nghĩa sâu xa thì những mộ điạ này tương ứng với tám thức (rnam shes brgyad).
Tám mươi Đại Thành Tựu Giả (Mahasiddha)– 1. tám mươi (hay tám mươi tư) đại thành tựu giả của Ấn Độ thời cổ mà cuộc đời các Ngài đã được Abhayadatta thuật lại (xem Sư Tử của Đức Phật, Emeryville, Nhà Xuất bản Dharma, 1979). 2) tám mươi thành tựu giả xứ Yerpa ở Tây Tạng, các đệ tử đạt được những thành tựu siêu việt của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).
Tám Pháp Vương Tử Vĩ Đại (Tám Đại Bồ Tát) – nye ba’i sras chen brgyad, các vị Đại Bồ Tát chính trong giáo đoàn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Manjusri (Văn Thù), Avalokitesvara (Quán Tự Tại), Vajrapani (Kim Cương Thủ), Maitreya (Di Lặc), Ksitigarbha (Địa Tạng), Sarvanivaranaviskambhin, và Samantabhadra (Phổ Hiền). Mỗi vị đóng một vai trò đặc biệt để cứu giúp chúng sinh. Các Ngài tượng trưng cho trạng thái thuần tịnh của tám thức.
Tám Thiên Nữ cúng dường – mchod pa’i lha mo brgyad: Thiên Nữ Nhan Sắc (sgeg mo ma, Phạn: Lasya), Thiên Nữ Tràng Hoa (phreng ba ma, Mala), Thiên Nữ Hát Ca (glu ma, Gita), Thiên Nữ Vũ Điệu (gar ma, Nrtya), Thiên Nữ Bông Hoa (me tog ma, Puspa), Thiên Nữ Hương Đăng (bdug spos ma, Dhupa), Thiên Nữ Nhiệt Đăng (snang gsal ma, Aloka) và Thiên Nữ Hương Thơm (dri chab ma, Gandha). Trong mạn đà la của các Bổn Tôn Báo Thân an bình, tám Thiên Nữ cũng là những vị phối ngẫu của tám vị Đại Bồ Tát (xem Tám Pháp Vương Tử Vĩ Đại), và tượng trưng, tương ứng cho trạng thái thuần tịnh của bốn đối tượng của các giác quan (sắc tướng, âm thanh, mùi hương, và mùi vị), cũng như của bốn khía cạnh của tư tưởng (quá khứ, hiện tại, tương lai và thời gian không xác định).