-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Không nên quán danh sắc hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh sắc hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh, hoặc diệt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh nhãn xứ hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc sanh, hoặc diệt.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh sắc xứ hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh sắc xứ hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc sanh, hoặc diệt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa các Đại Bồ-tát không nên quán danh nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng tên của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh nhãn giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với danh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng hoặc vô tướng.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh nhĩ giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với danh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Không nên quán danh tỷ giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh tỷ giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với danh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Không nên quán danh thiệt giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh thiệt giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.
Không nên quán danh thân giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với danh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh thân giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Không nên quán danh thân giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Không nên quán danh thân giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh thân giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.
Không nên quán danh thân giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh thân giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh thân giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh thân giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh thân giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.
Không nên quán danh ý giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với danh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.
Không nên quán danh ý giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.
Không nên quán danh ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Không nên quán danh ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Không nên quán danh ý giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.
Không nên quán danh ý giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.
Không nên quán danh ý giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.
Không nên quán danh ý giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.
Không nên quán danh ý giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh ý giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.
Không nên quán danh ý giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.
Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc danh Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đều không thấy ở trong giới hữu vi, cũng không thấy ở trong giới vô vi. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không phân biệt, không khác với phân biệt.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa an trụ trong phân biệt nhất thiết pháp, không thấy Đại Bồ-tát, không thấy danh Đại Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hay tu bố thí Ba-la-mật-đa; cũng hay tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hay trụ pháp không nội; cũng hay trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không chẳng đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không không thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Hay trụ chơn như; cũng hay trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Hay tu bốn niệm trụ; cũng hay tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Hay trụ Thánh đế khổ, cũng hay trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Hay tu bốn tịnh lự, cũng hay tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hay tu tám giải thoát, cũng hay tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Hay tu pháp môn giải thoát không, cũng hay tu vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện. Hay tu tất cả môn Đà-la-ni, cũng hay tu tất cả môn Tam-ma-địa. Hay tu năm loại mắt, cũng hay tu sáu phép thần thông. Hay tu mười lực của Phật, cũng hay tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Đại Bồ-tát này vào lúc đó không thấy Đại Bồ-tát, không thấy danh Đại Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp khéo thông đạt thật tướng, và trong ấy khéo thông đạt pháp không tạp nhiễm, pháp thanh tịnh.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiểu biết tất cả pháp danh giả lập, pháp giả lập.
-
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Quyển 406
__________________________________________________ ______________________________________
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đã hiểu biết như thật danh pháp giả rồi nên không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; không chấp trước nhãn xứ, không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không chấp trước sắc xứ, không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không chấp trước nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến không chấp trước ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Không chấp trước giới hữu vi, không chấp trước giới vô vi.
Không chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa; không chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Không chấp trước các tướng tốt, không chấp trước thân Bồ-tát, không chấp trước nhục nhãn cho đến Phật nhãn.
Không chấp trước trí Ba-la-mật-đa và thần thông Ba-la-mật-đa.
Không chấp trước pháp không nội cho đến pháp không, không tánh tự tánh.
Không chấp trước sự thành thục hữu tình, không chấp trước việc nghiêm tịnh cõi Phật, không chấp trước phương tiện quyền xảo.
Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, trước xứ, trước thời đều bất khả đắc.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không chấp trước; khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tăng trưởng bố thí Ba-la-mật-đa; tăng trưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hướng vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, hướng vào địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, viên mãn thần thông thù thắng của Bồ-tát.
Như vậy, Thần thông thù thắng của Bồ-tát đã được viên mãn, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, vì muốn giáo hóa các hữu tình, vì muốn làm nghiêm tịnh cõi Phật, được gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, gặp rồi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, làm cho các thiện căn đều được sanh trưởng. Thiện căn đã được sanh trưởng, được nghe và thọ trì Chánh pháp chư Phật theo sở thích của mình. Đã thọ trì rồi cho đến Vô Thượng Bồ-đề không quên mất, đối với tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa đều được tự tại.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiểu biết như thật danh giả, pháp giả nên không chấp trước.