Xem phiên bản đầy đủ : Giải thoát trong lòng tay
hoangtri
04-29-2020, 06:53 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác, mặc dù luôn luôn chắc chắn kẻ thù là thù, bạn là bạn, ta thực sự không thể bảo đảm: ở đầu đời là bạn mà cuối đời có thể thành thù, thù có thể thành bạn. Về giàu nghèo cũng thế: người giàu hôm qua có thẻ thành ăn mày hôm nay vì bị cướp, v.v… Những điều này thật rõ: mọi sự luôn luôn thay đổi.
(Khi ấy Pabongka Rinpoche kể chi tiết câu chuyện gia chủ Shrijata.)
Shrijàta trông thấy một con rắn quấn quanh thân một phụ nữ, 1 cây lớn bị côn trùng ăn, 1 người đàn ông bị đánh đập bởi những sứ giả mang nhiều mặt nạ của Diêm vương và bộ xương của một thủy quái to bằng một dãy núi có thể che cả mặt trời.
Mục Liên bảo ông: “Con rắn là tái sinh của 1 phụ nữ quá tham luyến thân xác mình. Cái cây là 1 người lạm dụng gỗ của tăng chúng. Người bị đánh là tái sinh của 1 thợ săn. Bộ xương là chính xương của ngươi trong đời quá khứ, này Shrijàta.”
Ngày xưa 1 vị quan hỏi vua làm sao xử lý một tội nhân. Vua đang mãi mê chơi cờ, nói: “Giết theo luật.” Do vậy người ấy bị tử hình. Khi xong ván cờ, vua hỏi ông ta làm gì với tội nhân, và được trả lời đã hành quyết. Vua rất ân hận, nhưng vẫn bị tái sinh làm 1 thủy quái vì tội để cho người kia bị hành quyết. Một thời gian trôi qua, vài thương gia đi biển tiến về phía cái miệng của con quái vật. Các thương gia kinh hãi quy y Phật. Con quái nghe lời quy y bèn ngậm miệng lại và bị chết đói. Thân nó được các Long vương đưa vào bờ.
Vậy Shrijàta lúc đầu sinh làm vua, sau làm thủy quái, rồi lại làm người trở lại. Sinh tử bất trắc là thế.
a-2. Không toại ý
Loài bướm mê màu sắc, loài nai mê âm thanh, loài ong mê mùi, loài voi mê xúc giác. Cũng vậy hạnh phúc cõi sinh tử như uống nước mặn - uống bao nhiêu cũng không đỡ khát. Giả sử 1 người khi có được 1 đồng vàng sẽ nghĩ “Bao giờ cho tôi có được 10 đồng?” Khi có10 đồng, lại nghĩ chừng nào tôi mới được trăm đồng. Nếu đã được trăm đòng, y lại mong được ngàn đồng. Dù có bao nhiêu y cũng không toại ý. Kinh Màn Kịch Lớn nói:
Nay đại vương, nếu một người
Có được tất cả lạc thú
Ở cõi trời và cõi người
Thì nó vẫn chưa thấy đủ
Nó còn khao khát có thêm.
Ta hãy lấy ví dụ hạnh phúc trời, người. Vua Màbhvàtà cai trị cả 4 châu lục và các cõi trời, thế mà ông vẫn chưa thỏa mãn. Cuối cùng khi công đức ông đã khánh tận, ông rời vào lục địa Diêm phù đề và trút hơi thở cuối cùng.
Lạc thú không bao giờ làm thỏa mãn, đó là nỗi sầu khổ không gì lớn hơn.
Khi đã làm chủ một cõi, bạn mong muốn làm chủ hai cõi. Bạn sẽ không bao giờ thỏa mãn dù có làm vua bao nhiêu xứ sở. Dù giàu cách mấy, bạn cũng muốn giàu thêm và sẵn sàng kiệt lực để có thêm của cải. Nếu bạn không hỷ túc thì dù đã có nhiều tài sản của cải đến bao nhiêu, bạn cũng không khác gì một kẻ ăn xin. Ở Ấn Độ ngày xưa có một người ăn mày Sùrata lượm được 1 viên ngọc vô giá, và bảo rằng y phải đem cho một kẻ ăn mày khác. Y đem đến cho vua Ba tư nặc (Prasenajit) mà nói: “Này đại vương, vua không biết đủ, nên là người nghèo nhất.”
Nếu bạn hài lòng với cái mình có, thì mặc dù không có tài sản bạn vẫn giàu. Long Thụ nói:
Hãy luôn luôn hỷ túc
Dù bạn không tài sản
Nếu bạn biết hỷ túc
Là bạn có tài sản thanh tịnh nhất.
Drogoen Tsangpa Gyarae nói:
“Người hỷ túc ấp những cái trứng của tài sản trong nhà ấp. Những người nhiều ham muốn thì không thể cảm nghiệm điều này.” Nói cách khác, nếu bạn không hỷ túc thì sự bất mãn của bạn thực vô bờ bến. Sự thiếu hỷ túc, sự bất mãn là điều hại lớn nhất.
a-3. Nỗi tệ hại là cứ phải bỏ lại thân xác
Bạn có mang thân xác như thế nào đi nữa, nó cũng không đáng tin cây cậy. Long Thụ nói:
Dù bạn có được phúc lạc to lớn
Của các vị vua trời, ngay cả đến
Lạc thú không ràng buộc của Phạm thiên -
Thì sau đó bạn vẫn làm mồi
Cho lửa địa ngục Vô gián
Ở đấy sự thống khổ liên miên bất tận.
Dù bạn có là chúa tể mặt trời, trăng
Thân thể bạn tuôn ra ánh sáng
Chiếu khắp mọi thế gian
Về sau bạn không trông rõ được bàn tay mình.
hoangtri
04-29-2020, 06:57 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác, trong quá khứ bạn đã có vô số tái sinh vào những thân Phạm vương, Đế thích, v.v… nhưng không có được lợi ích gì. Về sau bạn bị sinh vào địa ngục Vô gián v.v… hoặc làm nô tỳ v.v… Thỉnh thoảng bạn sinh làm thần mặt trời, mặt trăng, thân bạn chiếu sáng khắp châu lục. Rồi bạn chết và tái sinh và những đáy sâu thẳm của đại dương giữa 2 châu lục, ở đấy không trông thấy được đến cả tay chân bạn chuyển động.
Không một tài sản cõi trời cõi người nào mà bạn có thể nói rằng mình chưa từng trải qua, song không có một thứ tài sản nào trong đó chứng tỏ đáng tin cậy. Bạn đã từng tái sinh vào các cõi trời, ngồi trên những chiếc ngai nạm hột xoàn v.v… những cái nhà của bạn cũng đã từng làm bằng ngọc châu báu. Đã nhiều lần bạn đã hưởng những điều như vậy. Thế mà bây giờ bạn toàn ngồi trên đệm bằng da thuộc. Bạn cũng đã từng làm Đế thích rồi làm kẻ ăn xin; những kiếp làm Đế thích chẳng ích gì cho bạn.
Trong các cõi tái sinh cao,
Bạn đã dùng nhiều thời gian vào lạc thú
Vuốt ve ngực và eo của phụ nữ
Rồi ở địa ngục bạn cảm thấy những hình cụ tra tấn
Nghiền nát, cắt, xẻ bạn ra
Ôi thật đau đớn liên miên khó kham nổi.
Nói cách khác bạn đã từng sinh vào các cõi trời và trong thời gian dài, trải qua dục lạc với những thiên nữ. Rồi bạn phải từ giả đời sống ấy mà tái sinh vào địa ngục bị vây quanh với những ngục tốt hung dữ, và trải qua nhiều nỗi thống khổ - Bạn đã uống cam lồ bất tử ở cõi trời, rồi khi từ giã cõi ấy bạn phải uống nước đồng sôi của địa ngục - bạn đã từng làm Chuyển luân vương cai trị nhiều trăm ngàn thần dân nam, có bảy dấu hiệu của vương quyền để sử dụng, nhưng bây giờ không còn một chút gì chứng tỏ những điều ấy, không một dấu vết nào của sự lợi lạc. Như tôi đã nói, lỗi là do sự bám víu của bạn vào những đối tượng giác quan ngày càng tăng, làm bạn bất mãn; khi ấy bạn tích lũy tội ác và càng lúc càng đi xuống cõi thấp hơn.
Bậc tôn sư tôi, người bảo hộ, nơi nương tựa của tôi, đã kể cho tôi nghe câu chuyện này.
Có lần một vị Lama chết và có người hỏi ông muốn trối trăn điều gì không. Vị ấy lặp đi lặp lại: “những chuyện trong sinh tử không có thực chất.”
Bất kể bạn có tài sản bao nhiêu, bạn sẽ không rút ra được tinh hoa nào từ đấy, cũng như trong quá khứ. Tất cả tài sản của thế gian này không bằng giá một chiếc giày của ta lúc làm Chuyển luân; song những y phục đẹp đẽ của ta lúc ấy không lợi ích gì cho ta bây giờ.
Khi một ông vua và một kẻ ăn xin đi vào cõi Trung ấm cả hai đều được đối xử ngang nhau. Điều lợi hay hại đều có thể đến với họ một cách bình đẳng.
Geshe Chaen Ngawa nói:
“Đức Đạo sư tôn quý cả chúng ta đã không có một thân như vậy từ vô thỉ kiếp rồi sao? Chúng ta từ nay phải nỗ lực, vì ta chưa hành đạo đại thừa.”
Nói cách khác, chúng ta nên cẩn thận.
a-4. Nỗi khổ cứ phải liên tiếp vào bào thai và sinh ra.
Long Thụ nói trong Bức Thư:
Nếu đem đất vo lại từng hột như hột anh đào.
Để đếm tất cả những bà mẹ của ta
Thì cả quả đất cũng không đếm đủ…
Thay vì rũ bỏ những đau buồn,
Bạn đã cứ phải rơi lại vào địa ngục mãi mãi.
Để uống nước đồng đun sôi
Nước ấy còn hơn cả nước 4 bể.
Nghĩa là bạn đã từng sinh vào địa ngục và uống nhiều nước đồng sôi nhiều hơn nước ở đại dương. Và nếu bạn không cắt đứt dòng tương tục vào sinh ra tử này, bạn còn phải uống nhiều hơn nữa.
Khi bạn làm chó và heo
Số lượng đồ dơ mà bạn ăn
Có thể lớn hơn
Núi Tu di, vua các núi.
Bạn đã từng làm chó, heo và đã ăn nhiều phân dơ hơn núi Tu di. Nhưng nếu không dứt ra khỏi sinh tử thì bạn còn phải ăn nhiều hơn nữa.
Biết bao nước mắt bạn đổ ra
Vì khóc những người thân lúc chia tay
Nước mắt bạn đổ xuống
Có thể tràn đầy đại dương.
Bạn đã chia lìa với cha mẹ, con cái, anh em v.v… và khóc nhiều hơn nước biển. Nhưng nếu không dứt ra khỏi dòng sinh tử, thì bạn còn phải khóc nhiều hơn.
Từ khi người ta chiến đấu
Đống đầu bị chặt của bạn
Có thể chất cao
Hơn cõi Phạm thiên.
Bạn đã vướng vào chuyện đánh nhau và những cái đầu bạn bị kẻ thù chặt chất cao hơn núi Tu di. Nhưng nếu không dứt khỏi dòng tương tục tái sinh vào sinh tử thì bạn có thể bảo đảm rằng sẽ còn nhiều lần bị chặt đầu nữa.
Khi bạn làm giun đất
Bạn quá đói
Tất cả phân và đất bạn ăn
Có thể lấp đầy biển cả.
Nói cách khác, chúng ta đã từng làm trùn và ăn nhiều phân, đất hơn số lượng đất cần để lấp đại dương. Nhưng nếu ta không thoát khỏi ra sinh tử ta còn phải ăn nhiều hơn nữa.
hoangtri
04-30-2020, 10:33 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
Long Thụ nói:
Mỗi người đã uống nhiều sữa mẹ
Hơn cả bốn biển
Nhưng khi còn làm phàm phu
Trong cõi sinh từ
Thì bạn còn uống nhiều hơn nữa.
Nghĩa là bạn đã liên tục thọ thân trong sinh tử và uống nhiều sữa mẹ hơn nước biển. Nhưng nếu bạn không thể chấm dứt tái sinh vào sinh tử thì bạn còn uống nhiều hơn.
Nếu theo những gì đã quán sát trong phần Phạm Vi Nhỏ, bạn đã rất đau khổ và phải trải qua những kinh hoàng khi tái sinh vào đọa xứ sau mỗi lần chết, thì nói gì đến những đau đớn và kinh hoàng còn hơn thế nhiều mà bạn sẽ phải trải qua, vì chắc chắn bạn sẽ kinh nghiệm những nõi đau sinh, già, bịnh, chết, v.v… vô số lần.
Chúng ta sợ hãi mỗi khi trông thấy một con bò cạp, nhưng nếu ta đem các thân bò cạp mà chúng ta đã làm trong những tái sinh quá khứ mà chồng chất lại, thì nó sẽ cao hơn núi Tu di. Thế mà chắc chắn ta phải có nhiều tái sinh hơn như thế, bao lâu ta không dứt dòng tương tục sinh tử của chúng ta trong cõi luân hồi.
a-5. Nỗi khổ vì lăn lóc lên xuống mãi.
Truyền thừa Luật tạng nói:
Mọi cái gì do tích lũy mà thành,
Thì cuối cùng đều phải khánh tận.
Lên cao cuối cùng sẽ xuống thấp
Gặp gỡ cuối cùng phải chia ly
Sống cuối cùng phải chết.
Điều này nói đến 4 sự chấm dứt của cá pháp hữu vi: sự tích tụ tài sản và sở hữu chấm dứt bằng sự khánh tận, lên voi rồi xuống chó, gặp gỡ rồi ly biệt, và chết chấm dứt sự sống của một đời. Dù bạn có được sự dồi dào đến đâu trong sinh tử, thì cũng không có một chút gì trong đó thoát khỏi sự tàn tạ, không gì là không đi đến chấm dứt. Geshe Sangtpuba nói: “Trong sinh tử, ta phải chất chứa nhiều thứ, nhưng đừng gắn hy vọng nào vào đấy - chúng ta sẽ suy tàn.”
Lại nữa, chúng ta nỗ lực để xây dựng nhà cửa và tích chứa tài sản nhưng chúng ta không chắc gì sẽ hoàn tất được những gì ta muốn: kẻ thù có thể mang đi, hoặc ta sẽ chết. Thầy trò có thể cùng nhau dự tính những kế hoạch, nhưng chúng ta chắc chắn phải chia ly trong vòng vài năm.
Đức Đức Dalai Lama thứ 7 nói: “Chỉ trong một thời gian ngắn, những người ở trên cao có thể trở thành những kể nô lệ.” Và Bức Thư của Long Thụ nói:
Bạn có khi là Đế thích được cả thế gian cúng dường
Nhưng do nghiệp lực, bạn sẽ rớt xuống.
Bạn có thể là vua Chuyển luân
Nhưng trong sinh tử bạn sẽ trở thành nô lệ.
Nói cách khác, đây là những gì xảy đến cho những chúng sinh cao cấp như Phạm Vương, Đế thích v.v…
Còn về những người thấp kém thì bất cứ tài sản, chức vị của thế gian đều không thực chất. Gungstang Rinpoche nói:
Khi bạn leo lên ngọn cây “Danh tiếng”
Thì thật đau khi bạn trợt té xuống đất.
Tốt hơn nên ở lưng chừng.
Nghĩa là không những các đời quá khứ là không đáng tin cậy, mà ngay đời này cũng thế: có những ông vua phải ở tù v.v…
Ngày xưa Sanyae Gyatso, một vị nhiếp chính của Tây Tạng, đã làm nhiều cải cách ở chính phủ Trung ương, ngài vừa là một người giàu và có thế lực, lại là một trong những học giả lớn nhất. Nhưng cuối cùng ngài làm cho Lhazang Khan bất mãn và thế là ngài suy vong. Ngài bị thả ra giữa cầu Trizang ở Tvelung trong nhiều ngày, không ai dám giúp đỡ. Vợ ngài phải đi lang thang khắp nơi như kẻ ăn xin. Chính Lhazang Khan về sau cũng bị bại về tay đạo quân xâm lược Dzungarian và bị giết.
hoangtri
05-01-2020, 08:52 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
a-6. Nỗi khổ không ai cứu giúp
Lúc đầu khi sinh ra bạn cũng chỉ sinh một mình. Giữa đời, khi đau ốm, cũng chỉ mình bạn nếm mùi đau khổ. Cuối cùng khi chết bạn cũng chết một mình, như một sợi tóc lôi ra khỏi thỏi bơ. Không có ai giúp bạn. Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Khi sinh, bạn sinh ra một mình
Khi chết bạn cũng chết một mình
Bạn bè ruột ra có thể làm được gì
Khi họ không thể san sẻ khổ đau?
Tsongkapa nói: “Những vẻ huy hoàng của thế gian không đáng tin cậy. Hãy biết rõ khuyết điểm của chúng. Nghĩa là dù bạn có huy hoàng hạnh phúc đến đâu trong sinh tử, những chuyện ấy dều không bảo đảm; cuối cùng không một người bạn nào trong sinh tử là đáng tin cậy.”
Như thế đấy là cách bạn kinh quá nỗi khổ của sinh tử, và nếu bạn xét kỹ nỗi khổ ấy thực bất tận như thế nào, thì bạn sẽ đâm ra mệt mõi. Bởi vậy, tất cả sinh tử nói chung có cùng tận, hay không cùng tận, bạn phải đặt một giới hạn cho sinh tử của riêng mình. Nếu muốn giới hạn lại những sinh tử của mình và chấm dứt nó, thì bạn phải tìm cách dứt dòng tương tục của những tái sinh trong sinh tử.
b. Nghĩ về những khổ đặc biệt của sinh tử.
Có hai tiêu đề phụ: (1) Nghĩ về khổ của các đọa xứ; (2) Nghĩ về khổ ở các thượng giới.
b-1. Nghĩ về nỗi khổ ở các thượng giới
Có ba đoạn: (1) Nghĩ về nỗi khổ con người; (2) Nghĩ về nỗi khổ của tu la; (3) Nghĩ về nỗi khổ của chư thiên.
b-2.1. Nghĩ về nỗi khổ con người.
Có bảy tiêu đề phụ.
b-2.1.1. Khổ về sinh.
Nếu những nỗi khổ ở đọa xứ là như những gì tôi đã mô tả, thì có lẽ bạn nghĩ cái khổ cõi người cõi trời là nhỏ nhặt không thấm gì. Nhưng bạn hoàn toàn không thoát được khổ dù có đạt đến một tái sinh cao siêu. Chúng ta đã được sinh làm người, nhưng nếu ta không biết tu hành là có lợi ích lớn, thì ta vẫn còn những thống khổ to tát. Do sự muội lược vì bị sinh ra từ bào thai, chúng ta đã hoàn toàn quên lãng những đau đớn ta phải chịu trong quá trình sinh ra. Nếu ta lại cố mà tái sinh lần nữa, thì ta lại phải kinh quá tất cả những đau đớn của sự sinh ra, mặc dù bây giờ ta không nhớ được.
Sau khi đã vào bào thai mẹ và cho đến khi ra đời, bạn trải qua từng nỗi đau liên kết với năm giai đoạn phát triển bào thai và với từng thời kỳ thân thể phát triển. Đầu tiên, khi thần thức bạn bị đặt vào tâm điểm của tinh cha huyết mẹ, thì thân bạn giống như một giọt sữa đông, bạn đau đớn như thể bị luộc trong một nồi đồng ở địa ngục. Khi cái đầu và những mô tế bào phồng lên cho chân tay xuất hiện, bạn đau như thể bị kéo trên một cái trăn (dụng cụ tra tấn). Mỗi phần thân mình là thêm một nỗi thống khổ. Khi bà mẹ uống cái gì nóng, khi bà di chuyển, ngủ, vân vân, thì bạn đau đớn như thể bị buộc trong dòng suối nóng, bị gió mang đi, hay bị nghiến dưới một ngọn núi. Thư Gửi Môn Đệ của Chandragomin nói:
Bị nhốt trong mùi hôi thối kinh khủng,
Bạn sống trong màu đen như mực;
Sau khi chui vào cái bào thai như địa ngục ấy,
Bạn phải chịu đựng thống khổ lớn
Thân thể co quắp lại.
Hãy tưởng tượng bạn bị đặt trong một cái nồi sắt đầy những thứ nhơ uế khác nhau, đậy nắp. Không cách gì bạn có thể ở lại đấy một ngày, vậy mà bạn phải ở trong cái thai đầy mùi hôi và bóng tối ấy trong chín tháng rưỡi.
Rồi bạn phát sinh năm thái độ liên hệ đến những khía cạnh nôn mửa của bào thai, làm cho bạn muốn nổi lên. Nhưng ngay cả khi bạn bị đẩy qua cửa tử cung.
Bạn dần dần bị nén lại thật mạnh
Như người ta chà mè
Khi sinh ra: còn khổ nào bằng?
(Thư Gửi Môn Đệ)
Nghĩa là, bạn đau như là thân thể bị siết bằng đinh ốc. Khi bạn chui ra, dù bạn giống như da bò bị lột; và khi bạn được đặt trên một cái gối dù mềm mại đến đâu, cũng như thể bị ném trên gai. Khi gió thổi, bạn nghe như gươm đâm. Khi mẹ bạn bế bạn vào lòng, thì giống như diều hâu đang tha một con chim sẻ. Những điều ấy làm cho bạn kinh hãi.
Mọi sự học tập trong đời quá khứ đều bị xóa mờ, bạn không có một chút trí tuệ nào cả. Bạn phải học ngay cả chuyện ăn, ngủ, học ngồi, học đi.
Khi thiền quán về sự sinh ra của mình, thì không nên làm như đang nhìn một kẻ nào khác: bạn phải triển khai tuệ quán đi sâu vào sự tình chắc chắn mình sẽ sinh ra như thế, và nó sẽ ra sao. Bạn phải nghĩ về những đau đớn nói trong kinh Nan Đà Nhập Thai.
Một vài người nghĩ rằng nỗi khổ về Sinh không hại gì, vì nó đã qua rồi. Nhưng nếu ta không đặt một giới hạn cho sinh tử của chính mình, thì ta còn phải trải qua nỗi khổ về sinh vô số lần nữa.
hoangtri
05-05-2020, 06:18 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
b-2.1.2. Khổ về già
Trích từ Màn Kịch Lớn:
Tuổi già làm cho thân thể đẹp thành xấu;
Già cướp mất vẻ sáng, cướp mất sức mạnh;
Già cướp mất hạnh phúc, đem lại tủi nhục;
Già cướp mất sự sống, cướp mất làn da.
Nói cách khác, những khổ về già là: thân thể héo mòn, sức khỏe tàn tạ, các căn suy sụp, sự thưởng thức ngũ dục thoái hóa, mạng sống giảm dần, vân vân.
Những giác quan, trí tuệ v.v… đều mờ dần, thân thể bạn cong xuống như cây cung; bạn ngồi xuống đứng lên một cách khó nhọc; tóc bạn bạc trắng; da nhiều nếp nhăn - bạn trở nên xấu xí như một kẻ ăn mày chết. Milarepa nói:
Một là bạn sẽ đứng lên như người bị trói vào cọc.
Hai, bạn bước như một con mèo rình mồi.
Ba, bạn ngồi như thể đất vỡ ra từ một cái bị.
Khi đã đến lúc bà ngoại có cả ba điều ấy.
Sự tàn tạ của thân xác ảo ảnh này sẽ làm bạn buồn sầu…
Bên ngoài, da bạn nhăn thành nhiều nếp.
Bên trong thịt và máu cạn dần, khiến xương lồi ra.
Ngoài ra, bạn còn ngớ ngẫn, đui điếc và lẩm cẩm
Khi đã đến lúc bà ngoại có cả ba điều này
Bạn sẽ trông xấu xí, nhăn nheo và giận dữ.
Tất cả những điều ấy là những lỗi lầm của sinh tử.
Tiến sĩ Kamaba phái Kandampa nói:
Thật may làm sao vì tuổi già tiến lại từ từ.
Sẽ không thể nào chịu nổi
Nếu nó đến cái rụp.
Nói cách khác, nếu một thanh niên mạnh khỏe đang tuổi xuân xanh và ngủ qua một đêm thức dậy bổng thấy mình lưng còng, giác quan suy sụp v.v… thì anh ta không thể nào chịu nổi.
Bạn phải tu tập ngay bây giờ, trước khi các giác quan, trí tuệ và thân thể suy tàn. Về sau, khi những nỗi đau tuổi già thắng lướt, bạn sắp từ giả thân xác, thì tình trạng cơ thể của bạn đã thay đổi. Các giác quan bạn khi ấy đã tàn tạ, bạn còn không thể ngồi xuống đứng lên. Làm sao bạn thực hành Pháp được?
Gungtang Rinpoche Taenpa Droenme nói:
Người già như thể đang tiếp nhận
Lễ quán đảnh về tuổi già trên đầu.
(CT. Trong lễ quán đảnh, người thọ pháp được thầy đặt cái bình trên đỉnh đầu, tưởng tượng nước cam lồ tràn và chảy vào sọ thấm xuống khắp châu thân. Tác giả muốn nói ở đây người già cũng như được quán đảnh vì cái già từ từ thấm khắp cơ thể)
Tóc bạc trắng như vôi
Nhưng không phải là màu trắng tinh khiết
Mà vì thần chết đã khạc nhổ lên đấy
Làm cho nó có màu trắng như sương.
Những nếp nhăn phủ đầy trán
Nhưng không như đường nhăn của hài nhi bụ bẫm
Sứ giả thời gian đã ghi dấu lại
Để đếm bao nhiêu năm đã trôi qua trong đời.
Từng giọt nước nhầy nhỏ xuống từ lỗ mũi
Không giống như những hạt ngọc trai
Tuổi hoa niên, thời vô tư lự
Bây giờ như băng tan dưới ánh mặt trời.
Những hàng răng đã rơi rụng,
Nhưng không có răng nào khác mọc lên:
Chúng đã ăn hết thực phẩm của đời sống
Nên nghề cắt nghiến của nó đã bị thu hồi.
Những nét mặt nhăn nhúm màu tro bụi
Không phải là những chiếc mặt nạ khỉ họ đeo vào
Mà vì tuổi thanh xuân vay mượn đã trả lại
Nếu bây giờ chân diện mục họ đang hiển bày.
Những chiếc gật gật
Không phải họ đang cười khẩy với nhau
Mà diêm vương đang dùng roi quất
Khiến họ không thể giữ cho đầu khỏi lung lay.
Gương mặt nhìn xuống đường không phải họ đang tìm kim
Mà vì trí nhớ và châu báu tuổi trẻ
Đã đổ xuống đất.
Họ sử dụng cả bốn tay chân khi đứng dậy
Nhưng không phải vì muốn giả làm con bò:
Hai chân họ không mang nổi thân hình
Nên hai tay phải giúp.
Họ ngồi xuống cái phịch,
Nhưng không phải giận bạn bè
Mà vì sức khỏe và hỉ lạc nội tâm
Không còn đủ làm chỗ tựa
Khi bước đi, họ lắc qua lắc lại,
Nhưng không phải như vua đi:
Họ bị oằn xuống vì sức nặng tuổi tác
Không còn có thể giữ thăng bằng.
Tay họ run rẩy thộp lấy đồ vật
Không phải đang hốt tiền đánh ăn trong canh bạc
Mà họ đang sợ thần chết
Sẽ cướp lấy những gì trong tầm tay.
Họ ăn uống rất ít
Không phải vì hà tiện miếng ăn:
Hỏa đại trong bao tử đã suy tàn
Nên người già sợ sẽ ngã gục
Họ chỉ mặc đồ mỏng nhẹ
Nhưng không phải vì sắp đi dự khiêu vũ:
Họ đã mất sức mạnh trong cơ thể
Đến nỗi y phục cũng trở thành gánh nặng
Họ thở phì phò một cách khó nhọc
Không phải như ông thầy đang thổi thần chú
Tiếng gió họ sắp tan vào hư không.
Cái kiểu họ làm công việc hàng ngày
Không phải cố ý chọc cười kẻ khác
Ác ma tuổi già đã tóm lấy họ
Nên họ không còn tự do làm theo ý muốn.
Họ thường quên làm mọi công việc
Không phải vì nông cạn bất cần
Mà vì các giác quan suy sụp
Làm cho trí nhớ cùng ý thức lu mờ.
Nói cách khác, những nếp nhăn và tóc bạc là điềm báo họ sắp bị thần chết mang đi. Và lại còn nhiều nỗi khổ khác: nỗi phập phồng lo sợ vì cái chết gần kề, vân vân.
hoangtri
05-08-2020, 04:42 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
b-2.1.1.3. Khổ vì bệnh
Kinh Màn Kịch Lớn nói:
Giữa mùa đông giá rét, gió nổi, tuyết rơi
Cướp mất vẻ huy hoàng của cây cỏ
Tuổi già cũng vậy,
Cướp vẻ sáng chói của hữu tình;
Thân thể, sức mạnh, các quan năng đều tàn tạ.
Nói cách khác, bạn đau khổ vì nhiều nỗi bản chất cơ thể thay đổi, càng ngày càng lo sợ và đau đớn: bạn không còn ham muốn những gì kích động giác quan; bạn lo sợ vì có thể mất đi sự sống, v.v… Cơ thể mất đi hết sức lực, miệng và mũi lún vào, khô héo. Bạn có thể đang tuổi xuân xanh nhưng khi nằm liệt giường thì cơ thể cùng kiệt sức và vẻ rạng rỡ cùng tàn phai.
Nếu cần nhiều chi tiết hơn, bạn hãy quán tưởng mỗi loại bệnh hành hạ một kiểu, và có thể rằng bạn không còn thì giờ mà viết di chúc khi một cơn bệnh đột ngột đưa đến tử vong.
(Khi ấy Pabongka Rinpoche nói về thái tử Tất Đạt Đa đã đạt giải thoát nhờ quán tưởng sau khi trông thấy một người già, một người bệnh và một thây chết, vân vân.)
b-2.1.4. Khổ về chết
Kinh Màn Kịch Lớn nói:
Thời gian đưa đến chết, sinh ly,
Và biệt ly vì cái chết.
Mãi mãi bạn xa lìa
Nhưng người dễ chịu mà bạn yêu mến;
Họ sẽ không trở lại,
Sẽ không bao giờ tái ngộ.
Như lá lìa cành
Như dòng nước chảy xuôi.
Nghĩa là, bạn sẽ chia ly với vẻ đẹp và sự dồi dào - tài sản, thân bằng quyến thuộc, và thân thể của mình. Khi chết bạn kinh quá nỗi đau đớn mãnh liệt của thân xác và sự sợ hãi trong tâm. Khi đã đến thời chết thì bạn không thể ngăn nổi, như kinh Giáo Giới Một Vị Vua đã nói. Tôi đã bàn điều này trong chương niệm chết.
b-2.1.5. Khổ vì xa lìa cái đẹp
Bạn sẽ bị tách lìa khỏi thầy, khỏi đệ tử, bà con, bè bạn và những người thân - những người mà bình thường chia tay nhau một giờ bạn cũng không chịu nổi - và khỏi địa vị uy quyền, tài sản, sở hữu, sự dồi dào của bạn. Vài người tu còn nỗi khổ như phải sống không giới luật.
Những sự tình ấy xảy đến không phải vì ta đáng bị trừng phạt, mà chỉ vì ta còn ở trong sinh tử.
b-2.1.6. Khổ vì phải gặp gỡ cái xấu xa.
Xấu xa nghĩa là khó chịu. Gặp gỡ kẻ thù thì bạn bị đánh cướp, gặp bệnh hay ác quỷ thì bị hành hạ. Có vô lượng nỗi khổ như bị thưa kiện, bị thất sủng, bị trộm, v.v…
Nếu một hoàn cảnh bất hạnh xảy đến làm bạn mõi mệt cả thể chất lẫn tinh thần trong khi đang làm phận sự, ấy cũng vì bạn đang ở trong sinh tử. Ví như khi một con lừa phải chở nặng đến nỗi lưng sinh những ung nhọt, ấy là do nghiệp riêng của nó - điều này không xảy đến nếu nó đã không gây nghiệp. Geshe Potowa nói:
“Bao lâu chúng ta còn sinh vào sáu nẽo luân hồi, thì vẫn còn phải chịu nóng, chết, v.v… Bệnh và nguyên nhân gây bệnh chỉ là một, mà nó là đặc biệt của sinh tử, nằm trong bản chất của sinh tử. Chúng ta chưa vượt qua sinh tử một lúc nào. ta cần phải bị kích động để từ bỏ những điều ấy và do thế từ bỏ tái sinh. Ta phải từ bỏ nguyên nhân của chúng.”
Nghĩa là, nếu ta muốn trải qua những khổ sinh tử thì phải dùng những phương tiện để giải thoát khỏi chúng.
b-2.1.7. Nghĩ về nỗi khổ vì cầu gì cũng không toại ý
Đấy là cái khổ nóng lạnh, hay khổ vì phải kiếm sống bất chấp nóng lạnh mệt mỏi lo sợ v.v…
Điều ấy cũng như xin một điều gì quan trọng từ một ông lớn. Trước hết và hy vọng có được điều bạn muốn, mà bạn đâm ra bất an, sau đó bạn đau khổ vì không đạt được mục đích.
Vài người nghĩ rằng giới địa chỉ là sung sướng, nhưng họ cũng không sung sướng gì. Chủ trại phải dậy sớm để làm việc; ban ngày thì bị ánh nắng thiêu đốt, gió bụi hành hạ. Khi hạt giống đã gieo thì còn phải gặt hái; khi chưa đem lúa vào kho, nông phu lo sợ sương mù, mưa đã, nắng hạn có thể xảy đến. Mà nếu không gieo thì không gặt được mùa. Những lo lắng ấy đem lại cho họ khổ đau.
Bạn có thể nghĩ làm thương gia sung sướng hơn nông phu, nhưng thương gia cũng khổ. Họ phải bỏ cha mẹ, con cái, bạn bè lại và liều mạng ra đi đến những vùng đất xa xôi. Họ không thể nghỉ ngơi dù ngày hay đêm. Họ qua sông, vượt đèo, đi những con đường chật hẹp. Một số không lời mà còn mất hết vốn. Họ còn có thể bị kẻ thù, cướp hay trộm giết mất.
Ngay cả nếu bạn không có tài sản gì bạn cũng khổ. Kẻ ăn xin khổ vì hôm nay được ăn thì lo ngày mai không biết lấy gì ăn. Điều ấy làm họ đau khổ, họ đi tìm thực phẩm nhưng đôi khi không được chút gì. Dù có tiền của, bạn cũng khổ vì tiền. Kẻ ăn xin mang đi một ít, người mượn tiền mang đi một ít, quan quyền mang đi một ít, chuột mèo tha bớt một ít. Người giàu khổ vì tích chứa được tài sản mà không thể bảo vệ được nó.
Bạn có thể đau khổ vì mất của, bị người nói xấu. Những người buôn bán, thợ mộc, thợ may… thì có khi làm không đủ sắm thực phẩm, y phục, tiền nhà; khổ vì không ai kính trọng, vì kiêu mạn ganh ghét; vì có khi không kiếm được cái ăn.
Có thể chúng ta đã thụ giới, nhưng nếu không tu hành chân chính, thiểu dục tri túc, thì nội một việc đi cúng bái tại nhà cư sĩ cũng là một hình thái đau khổ.
Khi nhà nước đi điều tra họ cứ nghĩ dân hạnh phúc, nhưng không. Thức ăn họ đạm bạc, áo rách, tài sản bị đánh thuế nên không được tự do; họ có thể bị nhục mạ, đánh đập v.v… Một số người không có thức ăn quần áo gì cả và buộc lòng phải đi đến cha mẹ bà con hay cả đến người lạ để xin. Một số người lại không còn phương tiện để làm bột lúa mạch, thế nhưng họ vẫn bị đóng thuế. Tai nạn có thể giáng xuống đầu họ, họ có thể bị trừng phạt nặng v.v… Tóm lại là họ bị bức bách cả ngày lẫn đêm.
Dân chúng có thể nghĩ rằng những nhân viên nhà nước thật sung sướng, nhưng không phải vậy. Àryadeva nói:
Người trên cao thì có nỗi khổ tâm;
Người thường thì bị khổ thân.
Hai nỗi khổ này xâm chiếm thế gian
Từng ngày một.
Nghĩa là bạn dù làm vua cũng vẫn khổ: bạn mang lấy gánh nặng nỗi khổ của cả nước bởi vì những tranh chấp và những đề tài khó chịu trong nước thường được mang đến trước bạn. Bạn sẽ có kẻ thù chưa được hàng phục: những người thân chưa được che chở; bạn lo sợ luật pháp không thể trị dân; bạn lo sợ mất uy quyền v.v…
Những người xuất gia chúng ta chỉ ăn một bữa trưa nhưng lại phải mỏi mòn vì quá nhiều công việc.
Nói tóm lại dù bạn chỉ có một con ngựa bạn có thể bảo rằng có một con ngựa là một hình thức khổ đau.
Khi người ta mới gặp nhau lần đầu họ nói với nhau những lời rất tử tế; nhưng không bao lâu họ chỉ cãi nhau, dùng những lời châm chọc. Đức Dalai Lama thứ 7 nói:
Bất cứ người nào bạn gặp - người sang kẻ hèn,
Tăng hay tục, nam hay nữ -
Dù họ có hoàn cảnh tốt đẹp hay không
Nỗi đau kiếp nhân sinh nơi họ vẫn là một…
Đối với bạn bè và người ngang hàng, họ có vẻ bất hạnh.
Nói cách khác, nhìn bên ngoài có người trông bảnh bao có kẻ trông tồi tàn, nhưng bên trong tất cả mọi người đều khổ như nhau.
Nơi cư trú của chúng ta có thể không vừa ý, có thể có nhiều điều không ổn: không có bàn ghế, bạn bè v.v… Tuy nhiên dù ta có chỗ ở tốt nhất, bạn bè tốt nhất, ta cũng không thoát khỏi khổ đau. Ngay dù chúng ta thay thế tất cả hàng trăm hay hàng ngàn tôi tớ, học trò, bằng hữu, họ vẫn không làm chúng ta hài lòng tất cả. Không ai thực sự giống ai, và đây là một dấu hiệu cho thấy dù làm bạn với bất cứ ai, ta cũng chỉ tăng thêm nỗi khổ.
Bất cứ gì bạn sử dụng, ngay cả trà, bạn cũng đang mở cửa để đón lấy khổ đau. Bất cứ bạn ở đâu, dù trong tu viện, đó là một nơi ẩn cư, hy vọng sẽ khá hơn. Nhưng ngay đến đấy chúng ta cũng gặp một vài người ta không chịu nổi. Bởi thế chúng ta đi hành hương, nhưng điều này cũng không làm cho ta hạnh phúc, nên ta trở về quê cũ cứ nghĩ rằng việc này sẽ tốt hơn. Cuối cùng chúng ta đâm ra nóng nảy.
Khi nói chuyện, chúng ta chỉ thảo luận về những điều đáng chán, như thực phẩm, thời trang, danh tiếng của người khác - và điều này chính là sự tai hại mà sinh tử đã đem đến cho ta.
Tôi đã kể cho bạn nghe nỗi khổ của cõi người. Không không biết được như vậy, thì bạn dễ cho rằng chỉ vì chỗ bạn ở, những người bạn quen đã gây khổ cho bạn, hoặc nỗi khổ sinh tử là một cái gì chiếm một không gian rộng lớn. Bởi thế bạn phải hiểu vấn đề sinh tử và biết rõ gốc rễ khổ đau như tôi đã giải thích. Khi bạn chưa quay lưng với sinh tử, thì bạn vẫn còn kinh quá vô lượng khổ đau, dù bất cứ gì xảy đến.
hoangtri
05-12-2020, 09:43 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
b-2.2. Nghĩ về nỗi khổ loài Tu la
Bạn có thể nghĩ: “Nhưng nếu tôi sinh làm loài Tu la thì có sung sướng không?” Ngay cả trong tái sinh ấy, bạn cũng chỉ có đau khổ. Bức thư Long Thụ nói:
Loài Tu la bản chất là rất khổ
Vì chúng ganh tị với sự vinh quang của chư Thiên.
Chúng phân biệt, nhưng không thấy được chân lý.
Vì luân hồi làm cho mờ mịt.
Loài Tu la cư trú trên phần núi Tu di nằm dưới biển. Chúng có 4 đô thị: đô thị Sáng chói, đô thị Nguyệt tràng, đô thị Chỗ Cao quý, đô thị Bất động. Bốn tầng đô thị này cách nhau cũng như khoảng cách bốn tầng của chư Thiên ở trên phần trên núi Tu di.
Thông thường loài Tu la không thể cạnh tranh vói chư Thiên trừ một vài điểm ngang nhau. Và chư Thiên thường ăn trộm những Tu la nữ xinh đẹp. Chư Thiên thường có của cải nhiều hơn, chẳng hạn như cam lồ bất tử, và bởi thế Tu la mãi mãi bị dày vò bởi ngọn lửa ganh ghét. Nếu chúng ta thường bất hạnh khi ganh tị với những kẻ thù chỉ dồi dào hơn ta một ít, thì hãy tưởng tượng sự dồi dào to lớn của chư Thiên khó chịu thế nào đới với Tu la. Khi những Tu la không chịu đựng nổi sự ghen tức, chúng gây chiến. Con voi lớn của chư Thiên dùng vòi tung những tảng đá vào Tu la. Tu la ném khí giới vào chư Thiên, những chư Thiên chỉ chết khi cổ bị thương; còn Tu la có thể chết khi bị khí giới đánh trúng bất cứ chỗ nào trên thân thể, bởi vậy chúng luôn luôn bại trận, không bao giờ thắng được chư Thiên. Ở cõi người, chúng ta thường kinh hãi khi thấy hai đạo quân đánh nhau không cân sức, vậy mà loài Tu la phải đánh một trận chiến như thế chống lại chư Thiên. Điều ấy có làm chúng sợ hãi không? Chúng vô cùng kinh hãi. Những đạo quân của Tu la phải chiến đấu liên tục như thế cho tới chết, nên chúng rất đau khổ. Những Tu la nữ ở nhà cũng bị nỗi khổ dày xéo, vì chúng có thể chứng kiến mọi sự trên mặt hồ Sudarshana - sự thất bại của đạo quân Tu la, cái chết của chồng họ v.v…
Mặc dù loại Tu la cũng có trí tuệ nhưng khi tái sinh chúng bị nghiệp che lấp nên không thấy được chân lý.
hoangtri
05-12-2020, 10:08 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
b-2.3. Nghĩ về nỗi khổ chư Thiên.
Bạn có thể hỏi: Chư Thiên có sung sướng không? Không, chư Thiên cõi dục cũng kinh quá nỗi khổ: khổ vì phải sa đọa khi rời khỏi tái sinh ấy, khổ vì bị đe dọa, khổ vì bị què quặt, khổ vì bị đọa đày. Nỗi khổ bị đọa là như sau:
Bức thư của Long Thụ nói:
Màu da thân thể họ trở nên xấu xí,
Những chiếc ngai không làm họ vui lòng,
Hoa trên đầu họ úa tàn,
Y phục họ thấm vết bẩn
Và lần đầu tiên họ toát mồ hôi.
Đấy là năm suy tướng báo hiệu cái chết;
Chứng tỏ rằng họ sẽ rời khỏi tái sinh thù thắng này.
Khi điều này xảy đến cho chư Thiên ở Thiên giới.
Họ công bố rằng ngay những người ngoài trái đất cũng sẽ chết
Họ như những điềm báo sự chết chóc.
Nói cách khác, có năm dấu hiệu báo cái chết từ xa và năm dấu hiệu báo cái chết tiến lại gần, và khi mười dấu hiệu ấy xuất hiện thì chư thiên đau khổ. Vẻ sáng chói trên thân họ phai tàn; ho không chịu ngồi trên ngai; hoa họ mang bị héo úa; y phục bắt đầu thấm dơ; họ ra mồ hôi, thân thể họ ít sánh sáng, nước dính vào thân họ khi họ tắm rửa; đồ trang sức họ đeo phát ra những âm thanh khó chịu; mặt họ chớp nháy; và họ cứ ở lì một chỗ. Khi mười dấu hiệu này xuất hiện, họ đi đến một nơi khuất nẻo để than khóc, quằn quại như cá cạn nước. Chư Thiên trải qua những đau khổ này trong bảy ngày ở cõi Trời. Trong cõi Tứ thiên vương chẳng hạn, nỗi khổ này kéo dài một thời gian bằng ba trăm năm mươi năm ở cõi người.
Chư Thiên trải qua ba giai đoạn: tái sinh về trước đã khiến họ sinh vào cõi Trời, tình trạng hiện tại là làm Trời, và nơi họ đi đến sau khi chết ở cõi Trời. Họ biết cả ba điều ấy, nên họ biết rõ kế tiếp mình sẽ tái sinh ở đâu. Chư Thiên không sử dụng phần thời gian đầu của tái sinh cõi Trời để tạo dù chỉ một loại phước hành nào, như là tự xét nỗi khổ của mình và phát sinh từ bỏ, hay xét những khổ của người khác để phát sinh xót thương. Do vậy những công đức họ tích lũy từ trước cạn dần. Chẳng hạn bạn mang một khăn quàng giá trị mười đồng trong khi những tu sĩ khác mang khăn quàng chỉ giá trị một đồng, thế là bạn đã tiêu phí gấp mười kẻ khác. Cũng tương tự như thế, phúc lạc ở cõi Trời cường liệt đến nỗi nó tiêu mòn một số lớn công đức. Vì vậy mà chư Thiên thường tái sinh xuống những cõi thấp. Đó là lý do tại sao thời gian hiện tại là tốt nhất cho ta tích lũy công đức, chứ không phải cho ta phung phí quả báo của công đức. Chư Thiên biết họ sẽ đọa nên rất đau khổ. Họ thấy rõ mình sẽ mất hết những huy hoàng - cung điện, thân thể, sở hữu, bạn bè, vân vân - và sẽ bị tái sinh trong những cõi thấp kém. Nỗi khổ tâm của họ gấp mười sáu lần nỗi khổ địa ngục. Chúng ta cũng đau khổ lo sợ như thế khi chết, mặc dù ta không chắc tái sinh kế tiếp của mình xấu hay tốt. Nhưng chư Thiên và Thiên nữ khác không thể nào chịu nổi khi nhìn những hiện tướng của cái chết; họ tránh né chúng như né một thây chết, và để mặc những vị Trời sắp chết trong cô độc. Những vị này bảo bằng hữu: “Tôi chỉ còn sống một thời gian ngắn rồi sẽ đi đến tái sinh mới, một cõi đau khổ; bởi thế bây giờ tôi muốn gặp gỡ các bạn.” Họ nói những lời van nài đứt ruột như thế, nhưng những vị Trời khác không thể nào chịu nổi ngay cả chuyện nhìn thẳng vào mắt họ.
Bạn bè cố cựu đã từng thân thiết với họ, bây giờ đặt những cái hoa ở đầu một cây sào và đứng từ xa mà đặt hoa lên đầu họ và bảo: “Sau khi bạn chết từ cung Trời này, bạn sẽ tái sinh vào cõi người; mong bạn tích lũy công đức để lại lên đây.” Họ chỉ làm được đến thế là cùng, nhưng điều ấy cũng chỉ tăng thêm nỗi khổ của những vị Trời đang chết và đau khổ lo lắng nhiều hơn.
Những vị Trời ít công đức trông thấy sự vinh quang dư dật của những vị nhiều công đức, làm cho họ càng khiếp sợ và đau khổ lo lắng nhiều hơn.
Khi chư Thiên và Tu la đánh nhau, họ kinh quá nỗi khổ bị mất chân tay, bị què quặt, và bị tử trận. Những vị Trời ít thế lực đau khổ vì những vị Trời nhiều thế lực hơn đẩy họ ra khỏi trú xứ.
Ở cõi Sắc và Vô sắc, chư Thiên không bày dấu hiệu chết, nhưng vẫn bị bức bách của các pháp hữu vi: họ vẫn còn vọng tưởng và chướng ngại, và họ khổ vì sẽ bị tái sinh vào cõi xấu hơn: họ không có năng lực để lưu lại trong cõi này, không có năng lực để kiểm soát cái chết hay để biết mình sẽ đi đâu sau khi chết. Thế Thân (Vasubandhu) nói:
Những chư Thiên cõi Sắc và Vô sắc
Tạm thoát “khổ khổ” trong một thời gian,
Nhưng những vị chúa tể của định nhất tâm này
An trú bất động trong nhiều thời kiếp
Bởi thế là điều chắc chắn là họ không được giải thoát,
Và về sau sẽ đọa khỏi cõi ấy.
Nói cách khác, khi bạn sinh làm một vị cõi Trời Vô sắc chẳng hạn, bạn biết đã được tái sinh. Rồi bạn nhập định trong nhiều kiếp, và cuối cùng chết rơi xuống cõi thấp. Bạn đau khổ vì nỗi bất lực không duy trì được tình trạng của mình. Những tái sinh làm chư Thiên đã tiêu xài hết công đức, và khi không còn công đức nào nữa thì những vị Trời phải từ giã đời sống ấy mà tái sinh vào một cõi thấp hơn. Nhưng vì tính tương tục của trí tuệ nơi họ đã bị gián đoạn, những vị Trời này còn ngu ngốc và thiếu trí tuệ hơn những chúng sinh khác.
Nhiều người lầm lẫn trạng thái thiền định chứng là giải thoát, và tưởng rằng khi đạt đến những trạng thái ấy là họ đạt giải thoát. Về sau, khi họ thấy mình sắp tái sinh, họ lại phủ nhận rằng “không có giải thoát” và bởi thế họ tái sinh vào Địa ngục Vô gián. Bởi thế tái sinh vào các cõi cao những không khác gì ở trong nồi đồng của Địa ngục - bạn chỉ có lạc đường một lúc. Quả thực, chẳng thà làm một bà già niệm Phật còn hơn!
Đức Dalai Lama thứ bảy nói:
Cái gọi là “ba cõi luân hồi”
Là một nhà sắt nóng chảy:
Đi khắp cả mười phương hướng
Bạn vẫn bị đốt cháy.
Tim bạn đau nhói
Nhưng thế đấy là cảnh ngộ của bạn
Khi lang thang trong nơi xấu ác này
Thì hoàn cảnh bạn là rất đáng buồn.
hoangtri
05-15-2020, 08:03 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác, dù bạn tái sinh vào đâu trong cõi sinh tử, từ địa ngục A tỳ lên tận cõi trời Hữu đảnh, cũng đều như thể là ở trong một cái nhà bằng sắt nóng chảy có sáu tầng (lục đạo luân hồi - DG) - nghĩa là bạn tuyệt đối vẫn chưa thoát khổ. Có lần, vào một thời đói kém, trẻ con đòi bột lúa mạch nhưng người ta cho chúng nhiều của cải. Chúng nhất định không động tới và bảo “Ôi, đấy chỉ là của cải!”. Cũng thế, dù bạn tái sinh ở đâu, bản chất vẫn là khổ, chỉ có khác nhau ở vài phương diện, và mọi người đều có sung sướng và bất hạnh ngang nhau.
Tóm lại bạn luôn luôn bị dằn vặt bởi ba loại khổ, bởi thế ba loại khổ này này được gọi là chiều dài và chiều rộng của đau khổ.
Trong cõi luân hồi chúng ta khởi lên những ý nghĩ: “Tôi sung sướng”. Nhưng những ý tưởng này tự bản chất cũng là khổ. Những ý nghĩ cho rằng “Tôi dửng dưng” cũng là đau khổ tự bản chất. Khi chúng ta dội nước lạnh lên một vết thương, chúng ta tạm thời cảm thấy sung sướng của chúng ta cuối cùng cũng chuyển thành đau khổ, đó là nỗi khổ của sự biến đổi. Không những các lạc thọ bị ô nhiễm này mà tất cả những tâm và tâm sở tương ưng với chúng và bất cứ đối tượng ô nhiễm nào đưa đến những lạc thọ ấy - tất cả đều thuộc về nỗi khổ của sự biến dịch.
Khi bạn mới bị bỏng lửa, bạn không thực sự bị hơi nóng hành hạ, mặc dù bản chất của vết bỏng là hơi nóng. Điều này chỉ tạm thời trong khi chưa có cảm giác gì nóng hay lạnh tiếp xúc với vết thương. Cũng vậy, những cảm thọ xả cùng với những tâm sở và đối tượng của nó, được liên kết với những hạt giống của khổ đau và vọng tưởng vị lai; chúng cũng liên kết với những bất thiện tâm sở luôn luôn có mặt. Bởi thế cảm thọ “xả” là sự khổ lan khắp các pháp hữu vi.
Khi da bạn bị bỏng mà còn bị chạm vào nước sôi thì bạn cảm thấy một nỗi khổ rõ rệt, và đây là nỗi đau đớn tệ nhất. Cảm thọ “khổ” cũng như thế. Cảm giác đau khổ hoành hành thân và tâm - tâm vương tâm sở và đối tượng cảm thọ - là khổ khổ. Khi ta có cảm giác “tôi khổ” thì gọi đó là khổ khổ.
Khái niệm của bạn về hạnh phúc chính nó cũng là nỗi khổ của sự biến dịch. Một dấu hiệu rằng đấy không phải là hạnh phúc mà chỉ là quan niệm của bạn về hạnh phúc, do bởi sự kiện nỗi khổ của bạn sẽ tăng sau một thời gian. Nỗi khổ của bạn lúc đầu chỉ là một giọt ở dưới ngưỡng cửa; về sau nó sẽ lên quá ngưỡng cửa, và thời gian xen vào giữa là khái niệm của bạn về hạnh phúc.
Giả sử chúng ta đang ngồi bóng râm, sau một lúc ta sẽ cảm thấy lạnh, bởi thế ta dời ra dưới ánh nắng. Chúng ta dường như cảm thấy hạnh phúc trong một lát, nhưng đấy không phải là hạnh phúc. Khi chúng ta khổ sở, thì bất cứ gì chúng ta làm chỉ tăng thêm nỗi khổ của ta; cũng thế nếu sự đi ra ngoài nắng là hạnh phúc thì đáng lẽ ta sẽ không bao giờ cảm thấy khổ sở dù có ngồi bao lâu dưới nắng. Nhưng sự thật không phải vậy: chúng ta lại khổ sở, và chỉ một lát sau ta phải đi trở lại vào bóng râm. Nỗi khổ của chúng ta đã vượt lên trên lằn mức của nó mặc dù điều này trong thực tế là không rõ rệt.
Điều tương tự cũng xảy đến khi bạn đi bộ: khi mệt bạn ngồi xuống và dường như cảm thấy sung sướng trong một lúc, những nỗi khổ phải đứng lâu chỉ có giảm xuống dưới mức chịu đựng, nỗi khổ của sự ngồi chưa xuất hiện rõ rệt mặc dù nó sẽ vượt lên trên lằn mức khi bạn ngồi đã chán. Rồi bạn nghĩ rằng, tôi muốn đi dạo. Khi bạn đứng lên, nỗi khổ của sự ngồi lại tụt xuống dưới lằn mức, còn nỗi khổ của sự đứng thì chưa lên đến lằn mức báo động v.v… Aryadeva nói:
Bạn có thể thấy rằng dù hạnh phúc tăng lên bao nhiêu
Nó cũng sẽ chấm dứt
Cũng vậy đau khổ cũng tăng thêm
Như không có cùng tận.
Các uẩn bị ô nhiễm là một trường hợp của nỗi khổ lan khắp các pháp hữu vi: sự sinh ra các uẩn này khiến người ta trở thành một dụng cụ để chứa khổ. Bạn kinh quá những nỗi khổ nóng lạnh của địa ngục bởi vì bạn đã nhận các uẩn của một chúng sinh ở địa ngục; bạn kinh quá những nỗi khổ của một ngạ quỷ đói khát bởi vì bạn đã nhận các uẩn của một quỷ đói; khi bạn tạo cho mình thân thể của một con lừa chẳng hạn, thì bạn mang trên lưng một gánh nặng, bị quất bằng roi da, v.v… vì bạn đã tạo cho mình khí cụ để kinh quá những nỗi khổ này.
Nói tóm lại, ngay cả nỗi khổ không thể chịu đựng khi bị gai đâm xảy ra cũng vì bạn bị nhiễm một bộ sậu các uẩn. Cũng như một người mang một gánh nặng trên lưng trần và không bao giờ hết khổ khi đặt gánh nặng xuống, bạn sẽ không bao giờ thoát khỏi bất cứ loại khổ nào cho đến khi bạn thoát khỏi gánh nặng của các uẩn bị ô nhiễm.
Kyabje Pabongka Rinpoche kể chuyện Mục Kiền Liên đưa Shrìjàta đến bờ biển và chỉ cho ông xem những bộ xương, những thây người v.v… từ những đời quá khứ của mọi người, làm cho Shrìjàta bị kích động đến nỗi phát tâm từ bỏ.
Sỡ dĩ gọi là “các uẩn bị nhiễm ô” vì ba lý do:
Lửa phát xuất từ dăm bào thì gọi là “lửa dăm bào” các uẩn xuất phát từ vọng tưởng quá khứ - nghĩa là nguyên nhân chính gây ô nhiễm - nên hậu quả được đặt tên theo nguyên nhân.
Một người lệ thuộc vào vua là “người của vua.” Vọng tưởng - nguyên nhân gây ô nhiễm - là một hậu quả được đặt tên theo nguyên nhân.
Một người lệ thuộc vào vua gọi là “người của vua.” Vọng tưởng - nguyên nhân gây ô nhiễm - là một hậu quả của các uẩn bị ô nhiễm; vật được chống đỡ mang tên của cái chống đỡ.
Một cây sản xuất ra thuốc hay một loại hoa được gọi là “cây thuốc” hay “cây hoa”. Bạn sẽ bị si mê nên bị ảnh hưởng bởi các uẩn này - vì vậy tên của hậu quả được gán cho nguyên nhân.
Những uẩn này là nỗi khổ lan khắp tất cả pháp hữu vi, vì những ác pháp khổ và mê lầm luôn luôn đi liền với chúng. Bao lâu người ta còn có những uẩn này thì mỗi lần người ta không có cảm giác đau khổ người ta đều sẽ phải phát sinh nhiều đau khổ sau đó bằng những cách khác nhau. Bởi thế nỗi khổ của các pháp hữu vi (hành khổ - DG) lan khắp tất cả khổ, và là căn bản của hai loại khổ kia (khổ khổ và hoại khổ). Các uẩn tạo ra dụng cụ chứa khổ trong tái sinh này bởi vì chúng tạo ra dụng cụ chứa khổ trong tái sinh tương lai đưa đến đau khổ. Trong tất cả loại khổ, khổ về các uẩn là tệ nhất; sinh tử là một tình trạng vô phương cứu chữa ở trong đó người ta phải chịu gánh nặng các uẩn bị ô nhiễm do nghiệp và vọng tưởng. Điều này có nghĩa rằng ta phải tái sinh từ cõi trời Hữu Đảnh xuống cho đến địa ngục Vô Gián, và luân chuyển giữa hai cõi này trở đi trở lại nhiều lần. Cho nên thật đúng để nói rằng chính các uẩn bị ô nhiễm là sinh tử. Muốn chán ngấy sinh tử thì ta phải chán ngấy ô nhiễm. Khi người ta chưa chán ngấy cái khổ thấm khắp các pháp hữu vi thì ta chưa chán ngấy cái khổ thấm tháp các pháp hữu vi thì ta chưa thật tình chán ngấy sinh tử.
(Kyabje Pabongka còn thảo luận về tất cả điều này một cách chi tiết.)
hoangtri
05-16-2020, 06:10 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN BỐN
PHẠM VI TRUNG BÌNH
NGÀY MƯỜI LĂM
Kyabje Pabongka Rinpoche trích dẫn lời Àryadeva:
Hỡi phàm phu! Làm sao ngươi lại không sợ
Bị trói buộc vào đấy
Không bao giờ cùng tận
Trong biển khổ ngươi rớt vào.
Sau khi kể một mẫu chuyện để giúp chúng tôi khởi động lực và nhắc lại những tiêu đề đã bàn, ngài ôn lại chương “Phát Sinh Những Ý Tưởng Cầu Giải Thoát.” Rồi ngài dạy cách tu tập.
Như trong các nghi thức chuẩn bị, bạn phải nghĩ về nỗi khổ sinh tử trong khi quán tưởng bậc thầy ngồi trên đỉnh đầu. Giữa các thời khóa thiền, hay đọc những kinh dạy về những lỗi lầm của sinh tử v.v…
Khi bạn thấy một điều gì thuộc về sinh tử - hạnh phúc, quyền lực, của cải v.v… mà bạn đâm ra chán mệt, nghĩ: “Đấy là những vật lừa bịp, đấy chỉ là đau khổ,” thế là bạn đã được kích động để phát sinh ý muốn từ bỏ.
Bạn có thể bị kích động để từ bỏ những vật ấy khi bạn gặp vài vấn đề như bị phạt, bị giáng chức, v.v… nhưng đây chỉ là sự từ bỏ nông cạn, chỉ là một phần ảnh mờ nhạt của từ bỏ. Bao lâu bạn còn sinh ra trong cõi sinh tử, thì bạn vẫn hoàn toàn chưa thoát khổ; nếu bạn muốn vĩnh viễn thoát khổ, thì bạn phải cắt đứt dòng tương tục tái sinh. Bạn phát sinh một khát khao giải thoát khi bạn thấm mệt vì sinh tử và mong muốn đạt đến một vài bảo đảm - nghĩa là sự từ bỏ.
Đức Tsongkapa vĩ đại nói:
Sau khi thiền quán, khi bạn không còn khát khao
Những huy hoàng của sinh tử dù trong chốc lát,
Khi tư tưởng của bạn ngày đêm
Đều luôn luôn cầu giải thoát,
Thế là bạn đã phát sinh sự từ bỏ.
Khi những người khác làm cho tôi pháp tòa đẹp đẽ, bày tỏ với tôi niềm cung kính, tôn trọng, v.v… tôi nghĩ: “Tất cả đấy đều là vô thường, tất cả đều là đau khổ,” và tôi tự nhiên bị kích động để từ bỏ. Tôi đã có được điều này một thời gian. Bất kể bạn thấy được sự huy hoàng bao nhiêu trong sinh tử, điều ấy cũng phải tăng thêm sự chán ngấy của bạn đối với sinh tử. Khi người ta chết, họ trải qua nỗi khổ tâm khi nhận ra rằn họ sẽ bị xa lìa tất cả tài sản, quyến thuộc trên đời này; nhưng đây chỉ là một ý thức về vô thường rất nông cạn, do những chuyện tầm htường của cuộc đời gợi nên.
Điều quan trọng là phải sử dụng một vài phương pháp để khai triển trong dòng tâm thức của ta những tư tưởng thuần tịnh về động lực đưa đến từ bỏ. Điều chính yếu ta nên khát khao là Phật quả, muốn thành Phật quả chúng ta phải có tâm bồ đề, muốn có tâm bồ đề chúng ta trước hết phải có lòng thương xót: và muốn có lòng thương xót thì trước hết chúng ta phải nhận ra rằng tất cả hữu tình đều đã là cha mẹ của chúng ta. Chúng ta phải phát sinh sự từ bỏ bằng cách thiền quán về nỗi khổ sinh tử của chính mình, và rồi phát triển lòng xót thương bằng cách thiền quán về nỗi khổ của người khác. Như vậy điều chắc chắn là không phải Phạm Vi Lớn không có sự thiền quán về từ bỏ.
Tuy nhiên, từ bỏ là đạo lộ chính yếu trong phần nói về Phạm Vi Trung Bình. Khi chúng ta đã phát triển sự từ bỏ trong dòng tâm thức, thì bất cứ công đức nào mà chúng ta làm đều trở thành một nguyên nhân cho sự giải thoát của ta. Bao lâu chúng ta chưa phát triển được một sự từ bỏ dù chỉ là gượng ép, thì bất cứ công đức nào chúng ta làm cũng chỉ quay thêm bánh xe sinh tử. Một ngoại lệ là công đức phát sinh tùy thuộcvào năng lực của một ruộng phước. Nếu chúng ta không xem trọng ba điều căn bản của đạo lộ, nếu chúng ta tảng lờ ba căn bản ấy, thì dù chúng ta có nỗ lực tu tập pháp gì sâu xa cách mấy - như thiền quán về các huyệt đạo, về những luồng khí lực, về chư thiên, tụng thần chú, v.v… - cũng sẽ không trở thành một phần của đạo lộ đưa đến giải thoát hay toàn trí. Đấy chỉ là một sự lãng phí năng lực. Bởi thế trước khi khởi sự tu tập, điều cốt yếu là ta phải nỗ lực hướng đến từ bỏ, bồ đề tâm và chánh kiến.
hoangtri
05-17-2020, 04:08 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
2.2.2. XÁC ĐỊNH BẢN CHẤT CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT
Có hai phần: (1) nghĩ về nguồn gốc đau khổ - những giai đoạn buộc chúng ta vào sinh tử; (2) thật sự xác định bản chất con đường đưa đến giải thoát:
a. Nghĩ về nguồn gốc của đau khổ - các giai đoạn buộc chúng ta vào sinh tử.
Có 3 tiêu đề phụ: (1) Vọng tưởng được triển khai cách nào; (2) Nghiệp được tích lũy cách nào. (3) Người ta bỏ thân thọ thân cách nào.
a-1. Vọng tưởng phát triển cách nào
Có 4 mục: (1) Nhận ra vọng tưởng; (2) Các giai đoạn trong sự phát triển vọng tưởng; (3) Nguyên nhân của vọng tưởng; (4) Lỗi lầm của vọng tưởng.
Có hai cách để đưa vào Lam-rim đề mục “nghĩ về nguồn gốc của đau khổ - Những giai đoạn buộc người ta vào sinh tử.” Một cách là gán đề mục này vào một tiêu đề đầu tiên; cách kia - được sử dụng ở đây - theo những bài giảng truyền thống về Con Đường Nhanh và Con Đường Dễ và đặt tiêu đề ở dưới mcụ “Xác định bản chất của con đường đưa đến giải thoát.”
Trước hết bạn phải nghĩ về những lỗi lầm chúng và riêng của sinh tử, bị kích động để từ bỏ nó, và phát sinh ước muốn giải thoát. Khi ấy bạn sẽ đặt câu hỏi:
Gì là nguyên nhân của sinh tử? Sau khi tra tầm nguyên nhân và trở thành quen thuộc với nó, bạn sẽ mong muốn bé gây sự tương tục của nó.
Nguồn gốc của khổ có hai phần: những vọng tưởng (phiền não) phát sinh ra khổ và những nghiệp phát sinh ra khổ. Bạn phải mang gánh nặng của các uẩn ô nhiễm, và đấy là do nghiệp. Nghiệp phát sinh vì vọng tưởng. Bạn đã tích lũy vô lượng nghiệp trong quá khứ, nhưng nếu không có những vọng tưởng là khát ái và chấp thủ làm một nguyên nhân phụ thuộc thì nghiệp không thể tự nó ném bạn vào một tái sinh mới: điều ấy cũng giống như hạt giống thiếu nước. Dù bạn không tích lũy nghiệp trong quá khứ, mà bạn có vọng tưởng, thì bạn cũng sẽ tích lũy nghiệp mới do những vọng tưởng ấy, và bởi thế bạn nhận một loạt những uẩn sinh tử trong tái sinh kế tiếp. Dharmakirti (Pháp Xứng) nói:
Sự khát khao hiện hữu trong sinh tử
Là điều độc nhất trong các khái cạnh của nghiệp
Vì các nghiệp khác không thể kết thúc đẩy tái sinh
Chúng chỉ là những yếu tố phụ thuộc…
Nhưng nếu có khát ái,
Ngài ta sẽ nhận thêm nghiệp mới.
Như vậy căn bản của sự tái sinh vào sinh tử là vọng tưởng. Nói “vọng tưởng” nghĩa là cái gì bằng chính năng lực của nó, có nhiệm vụ phát sinh nỗi bất an tức khắc trong dòng tâm thức riêng ta, khiến nó không được chế ngự. Bởi thế chúng ta phải nhận ra được những vọng tưởng. Nếu không, thì cũng như không nhận ra được kẻ thù đã bắn mũi tên độc: Chúng ta sẽ không biết áp dụng phương pháp nào để chữa trị vọng tưởng ấy.
hoangtri
05-20-2020, 04:59 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.1. Nhận ra vọng tưởng
Có hai phần: (1) phiền não căn bản; (2) phiền não phụ thuộc.
a-1.1.1. Phiền Não Căn Bản
Thế Thân nói trong Kho Tàng Siêu Vật Lý:
Sáu phiền não vi tế và rộng rãi
Trong hiện hữu sinh tử là:
Tham, sân, kiêu mạn
Ngu si, tà kiến, nghi.
Nghĩa là có 6 phiền não căn bản.
(i) Tham
Khi chúng ta thấy một vật hấp dẫn như đồ trang sức, thân thể, thức ăn uống… Chúng ta phát sinh những ý tưởng như không nuốn lìa những thứ ấy. Những vọng tưởng khác là giống như bụi trên áo, dễ tẩy trừ: nhưng tham ái có nghĩa là bám víu tập trung vào một cái gì, thì giống như dầu đã dính vào vải, rất khó tẩy. Khi chẳng hạn ta nhìn một vật, sờ nó, v.v… thì một góc của tâm tư ta khát khao bám víu đối tượng này. Khi ấy sự tham ái tỏa rộng và rất khó trừ.
Dây trói tham ái và chấp thủ.
Buộc bạn vào ngục tù sinh tử.
Nói cách khác, tham ái là gốc rễ ngăn chúng ta không phái sinh động lực từ bỏ sinh tử và cũng là một trong những yếu tố chính trói buộc chúng ta vào sinh tử.
Một cách để đối trị là thiền quán về khía cạnh bất tịnh của thân xác, v.v… Ở đây bạn triển khai thái độ cho rằng thân thể là bất tịnh: thi thể chảy máu, thi thể phân tán, thi thể phình trương và cuối cùng là bộ xương. Khi bạn bị rằng buộc với một người nào chẳng hạn, hãy quán sát người ấy chỉ là cái đẫy 6 thứ hôi thối. Khi bạn tham ăn thịt, hãy nghĩ về nguyên liệu chính của nó là hôi thối, về việc nó có ra do giết hại một mạng sống. Khi ấy sự tham ái và chấp thủ của bạn sẽ giảm bớt.
(ii) Giận dữ.
Giận dữ là tâm bị giao động mạnh khi ta thấy một cái gì khó chịu như thấy kẻ thù v.v… Đối tượng của giận dữ có thể là những hữu tình hay vật vô tri; khi chúng ta dính dáng tới chúng, tâm ta hoàn toàn bị bối rối, bị quấy rầy và ta muốn hại chúng.
Sự giận dữ có hại lớn. Nó có thể tàn phá những công đức của bạn như thể bị đốt trong một đống lửa. Sự giận dữ làm cho người ta giết hại, đâm chém và đánh đập kẻ khác v.v…
Ngay nay người ta sử dụng nhiều danh từ êm tai để chỉ sự giận dữ như “nóng tính,” v.v… Những người ấy có thể không xem sự giận dữ là tai hại. Nhưng có câu: “Không có tội lỗi nào bằng hận thù. Không có khổ hạnh nào bằng sự kiên nhẫn.” Hoặc: “Sự giận dữ là khí giới giết hại những tái sinh thù thắng của bạn.” Nói cách khác trong tất cả vọng tưởng, sự giận dữ có sức mạnh lớn nhất để phá hủy những công đức căn bản, nó là yếu tố chính ném bạn vào đọa xứ. Bởi thế giận dữ rất tai hại. Nó là yếu tố chính để ném bạn vào đọa xứ. Có nhiều cách để phá hủy công đức tùy thuộc vào đối tượng của giận dữ (xem Ngày Thứ Sáu). Bạn phải áp dụng những phương cách chữa trị giận dữ như nhẫn nhục v.v… Tôi sẽ nói thêm về giận dữ trong chương bàn về sáu ba la mật dưới đây.
(iii) Kiêu mạn
Kiêu mạn là quan niệm tự thổi phồng mình lên, nó có thể hiện rõ trong tương quan với một đối tượng tốt hoặc xấu: năng lực, tài sản, đức tính, gia đình, trí tuệ, đạo đức của bạn - ngay cả giọng nói êm tai hay thể lực của bạn. Khi bạn nhìn xuống từ một đỉnh núi cao, thì mọi sự ở dưới thấp đều như nhỏ lại. Khi bạn tự cho mình cao hơn thiên hạ, và có một cái nhìn tự thổi phồng mình, tức là bạn khoác cho mình một sắc thái cao vượt. Chỉ cần một đối tượng nhỏ nhặt cũng đủ cho bạn phát triển thói kiêu căng. Như những người phái Kadampas ngày xưa nói: Có phải hơi nước bốc lên nhiều hơn từ trên những đỉnh núi tuyết không? Hãy xem có chút hơi nào bốc lên từ tuyết dưới vực sâu! Họ cũng nói rằng đỉnh núi kiêu mạn sẽ không ngập lụt với nước những thiện đức. Nói khác đi, thật khó mà tu tập một đức tính nào nếu người ta có thói kiêu căng. Một bậc thầy có thể dạy Pháp cho một người kiêu căng, nhưng không ích gì.
Cách chữa trị thói kiêu căng là nghĩ về một vài bảng kê mà bạn không hiểu, nhất là sự phân loại đầy đủ các yếu tố thuộc giác quan (CT. Một bảng liệt kê của Vazsubandhu (Thế Thân) trong Kho Tàng Siêu Vật Lý - Tức Abhidhrma, dịch âm là A tỳ đàm, dịch nghĩa là Thắng pháp - rất khó hiểu.) Thỉnh thoảng nên nghĩ đến từng vật trong và ngoài hiện hữu từ đỉnh đầu xuống đến gót chân bạn; bạn không biết được bao nhiêu cái, và điều ấy phải diệt bớt thói kiêu căng của bạn.
(iv) Vô minh
Thông thường vô minh hay bất giác (maripa Tạng ngữ) là ngược lại với “biết” (rig-pháp); hay “biết” và “không biết.” Vô minh là không biết, không thấy, không hiểu, không rõ ràng, vân vân. Ví dụ như không thấy lửa vì mắt nhắm, hoặc không trông thấy vật gì trong bóng tối đen. Vô minh cũng như mù - không thấy bản chất hay hình thái hiện hữu của một pháp: bốn chân lý, nhân quả, Ba ngôi báu, vân vân. Vô minh là gốc rễ của mọi phiền não (hay vọng tưởng).
Có một hệ thống triết học cho rằng vô minh là một với thân kiến - tà kiến xem ngã đồng như những vật khả hoại (nghĩa là các uẩn v.v…). Hệ thống khác thì cho rằng vô minh và kiến chấp là hai cái khác nhau. Chẳng hạn, giả sử lỗi lầm cho sợi dây là con rắn, là như tà kiến xem ngã với các uẩn đồng nhau; thì vô minh sẽ là giống như cái nhân của sự lầm lẫn ấy: do cuộn dây nằm trong tối, do bóng tối mà người ta thiếu nhận thức sáng suốt về hình thái hiện hữu của sợi dây.
Hệ thống đầu do Nguyệt Xứng (Chandrakirti) và Pháp Xứng (Dharmakirti) cùng các vị khác chủ trương; hệ thống thứ hai do Vô Trước (Asanga) và đồ đệ chủ trương.
(v) Nghi
Đây là hoài nghi về Bốn chân lý, về Ba ngôi báu, về nhân quả, vân vân: không biết những chuyện ấy có hiện hữu không, có thật hay không. Nghi ngờ Ba ngôi báu làm cho ta không triển khai được thực chứng. Đức Dalai Lama đệ nhất nói:
Hãy cứu con ra khỏi hoài nghi, con ma đáng sợ,
Kẻ tàn ác bay lượn trong một bầu trời
Đây là sự mù lòa hắc ám,
Làm hại cho lòng khát khao xác tín của con
Giết hết sự giải thoát của con.
Khi bạn nghi ngờ luật nhân quả, thì điều ấy ngăn bạn tái sinh lên thượng giới; hoài nghi về bốn chân lý thì bạn do thể đạt giải thoát. Hoài nghi quả thực gây vô số tai hại. Nó được xem là một trong năm tà kiến (nghĩa là năm căn bản phiền não đầu).
(vi) Kiến chấp sai lầm
Có năm kiến chấp sai lầm:
hoangtri
05-20-2020, 05:12 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
(1) Thân kiến: đồng hóa ngã với cái khả hoại
Đây là quan niệm sai lầm về năm uẩn - có đặc tính là sẽ hoại diệt - và xem chúng chính là bản ngã, thuộc về ngã, tức là “tôi” và “của tôi.”
Một ví dụ: Khi người ta làm bạn tổn thương, hại bạn, thì ý nghĩ “Tại sao chúng làm điều ấy cho ta?” hiện ra rõ rệt trong tâm bạn; bạn nắm giữ lấy “cái tôi” như thế nó hiện hữu cách ấy. Đấy là gốc rễ của tà nghiệp.
Ngay những con kiến cũng có quan niệm này, đồng hóa cái ngã với những thứ khả hoại. Nếu bạn lấy một cọng cỏ mà châm chính vào mũi con kiến nó liên nghĩ ngay rằng “Tại sao chúng làm chuyện ấy với tôi?” rồi nó cong lên, giả chết. Sau dó, nó quay lại và bỏ chạy. Chính thân kiến - quan niệm chấp ngã là cái khả hoại - đã khiến nó làm việc ấy.
(2) Biên kiến: những quan điểm cực đoan
Những quan điểm này hướng về bất cứ vật gì được chấp thủ bởi ngã kiến trên đây; một quan điểm cực đoan xem những vật ấy là trường cửu, bền bỉ, độc lập, là thực có, vân vân (thường kiến - DG). Quan điểm cho rằng dòng tương tục là cái “tôi” sẽ bị gián đoạn vào lúc chết, cũng là một quan điểm cực đoan (đoạn kiến - DG).
Mặc dù chính yếu những người không phải Phật tử mới giữ những quan điểm này, song chúng ta đôi khi cũng có cái nhìn sai lạc xem mọi sự thực có, hoặc nhìn sự vật bằng những cách khác nhau cũng không kém phần ngu ngốc.
(3) Kiến thủ: xem năm uẩn là tối thượng
Đây là một tà kiến phát xuất từ bất cứ một kiến chấp sai lầm nào kể trên, hoặc chấp ngã đoạn diệt, hoặc chấp các pháp thường còn, hoặc chấp ngã chấp pháp là phi hữu. Sự mê lầm này hướng về các uẩn của người giữ những tà kiến ấy, xem các uẩn ấy là tối thượng.
(4) Giới cấm thủ: xem một thứ đạo đức hay cách hành xử nào đó là tối thượng
Quan điểm này cho rằng sự đào luyện năm ngọn lửa, nhảy qua chĩa ba, đứng một chân, vân vân, là những con đường đưa đến giải thoát. Nó cũng xem một vài lối hành xử là tối thượng. Như ngồi trên một tấm da thú. Một vài người nhận ra nhờ thần thông rằng trong tiền kiếp họ làm chó, và điều này làm họ mù quáng: họ muốn nhận một thân người trong tái sinh kế tiếp, nên họ (lầm tưởng điều này là nhân) bắt chước những hành vi của chó như sủa, v.v… Họ xem điều này là tối thượng, nên làm cho thân thể và lời nói của họ thực hành những tà hạnh.
(5) Tà kiến
Tà kiến gồm phần lớn là quan niệm cho rằng bốn chân lý, Ba ngôi báu, nhân quả, v.v…không hiện hữu.
Hai điều cần được xem xét ở đây: sự xác nhận lố bịch - một cái phi hữu mà cho là thực có - và sự phủ nhận - cái sự tuyệt đối không hiện hữu. Vài người không phải Phật tử cho rằng thế giới do thần Vi nữ sáng tạo, đã nhập thể mười lần vào thế gian; phái Số luận phân mọi cái khả tri thành ra 25 loại và cho rằng nói chung, 25 nguyên lý ấy tạo ra thế giới; những người khác lại khẳng định thế giới do Tự Tại Thiên tạo dựng, vân vân. Những người này tuyên bố có một cái gì được tạo ra trong khi thực sự là không có - bởi thế đấy là những sự chấp có. Tuy nhiên tà kiến là những sự phủ nhận (chấp không).
Kể năm loại tà kiến như là một, cọng thêm năm cái chấp không, thành sáu kiến chấp làm nên những mê lầm căn bản, vi tế và rộng rãi.
Nếu bạn là một người thường, thì nên áp dụng thuốc chữa kiến chấp Àryadeva nói: “Cũng như các giác quan trong cơ thể, vô minh si ám cũng cư trú trong tất cả những kiến chấp ấy.” Nghĩa là, vô minh thấm khắp và làm nhân cho tất cả những phiền não khác. Tuy vậy, vô minh si ám rất khó nhận diện, bởi thế tôi sẽ bàn về nó dưới đây.
hoangtri
05-22-2020, 10:18 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.2. Những giai đoạn trong sự phát triển tà kiến
Sáu căn bản phiền não, quả thế tất cả phiền não, đều xuất phát từ sự chấp thủ bản ngã (xem Ngày Hai Mươi Hai) và thân kiến - quan điểm đồng hóa cái tôi với những vật khả hoại. Tất cả đau khổ nghiệp và vọng tưởng bởi thế đều xuất phát từ quan điểm cho rằng ngã là cái khả hoại - nếu bạn xác nhận rằng thân kiến và vô minh chỉ là một. Theo hệ thống không chấp nhận điều này, thì chính vô minh là yếu tố then chốt.
Theo hệ thống Trung quán Pràsangika, quan điểm đồng hóa ngã với cái khả hoại là căn nguyên: Có quan điểm thuộc tri thức (phân biệt ngã chấp - DG), có quan điểm thuộc bản năng. Lại có hai loại quan điểm thuộc bản năng: chấp thủ “tôi” và “của tôi.” Quan điểm đồng hóa ngã với cái khả hoại là chấp thủ cái “của tôi” (ngã sở). Khi ai khen bạn chẳng hạn, bạn nghĩ, “họ thật tốt đã khen tôi như vậy.” Cái “tôi” rất sống động và ăn sâu trong tâm thức; vì bạn có những ý nghĩ ấy, nên bạn cho đó là cái ngã, và có quan niệm cho rằng cái ngã ấy là một người sử dụng. Do quan niệm ấy, bạn bám lấy cái tôi, bạn đâm ra thương người nào giúp bạn, ghét người nào hại bạn, và có sự ngu si mê muội đối với những người xa lạ. Quyển Luận về những Pháp có giá trị nói:
Bạn biết người ta là “kẻ khác”
Vì bạn cho mình có một cái ngã;
Bạn chấp thủ vào tự và tha
Và trở thành thù nghịch.
Những điều này có tương quan;
Tất cả ác hành phát sinh từ đấy.
Thực Hành Trung Dạo của Pháp Xứng nói:
Mong sao tâm tôi được
Rằng mọi lỗi lầm đều phát xuất
Từ tà kiến cho rằng
Các uẩn và ngã là một…
Lúc đầu tôi bám lấy ngã, cái “tôi”
Và phát triển tham ái đối với các pháp…
Mặc dù gốc rễ của sáu căn bản phiền não sau rộng chính là vô minh, song người ta phát triển tham, sân, si vân vân do thân kiến (chấp ngã là cái khả hoại). Và do tham ái, v.v… mà người ta tích lũy nghiệp. Theo nghiệp này, người ta quay bánh xe sinh tử. Gốc rễ của sinh tử là vô minh, sự chấp thủ theo bản năng vào một cái ngã, và quan niệm cho rằng cái ngã là năm uẩn khả hoại. Muốn từ bỏ vĩnh viễn sự mê lầm, ta phải nỗ lực áp dụng thuốc chữa bệnh vô minh và châp ngã - đó là trí tuệ liễu tri lý vô ngã. Trí tuệ này bởi vậy giống như thuốc có thể phá trừ hàng trăm sự ác. Sách Bốn Trăm Bài Kệ nói: “Đấy là lý do tại sao tất cả phiền não được nhiếp phục nếu vô minh được nhiếp phục.” Kinh Thập Địa nói: “Trong thế gian này, tất cả tội lỗi đã phạm đều do chấp thủ có một bản ngã. Nếu không có sự chấp ngã rõ rệt, thì những tội lỗi ấy đã không xảy ra.”
Tuy nhiên, khi chưa hiểu thấu vô ngã, thì ta vẫn phải dùng phương tiện để đàn áp phiền não, để tạm thời xua tan chúng. Ta phải đề phòng nguyên nhân của phiền não (hay vọng tưởng).
hoangtri
05-22-2020, 10:27 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.3. Nguyên nhân của vọng tưởng
Có sáu nguyên nhân.
a-1.3.1. Nguyên nhân thứ nhất: nền tảng của vọng
Nền tảng này gồm những hạt giống hay tùy miên (sự tiềm tàng). Như khi ta không thể nhổ tận gốc mầm bệnh, thì ngay cả một miếng ăn nhỏ cũng đủ gây bệnh, bởi thế khi gặp dịp là ta sẵn sàng phát triển vọng tưởng trong dòng tâm thức ta vì ta có sẵn những hạt giống của vọng tưởng. Hạt giống ấy là nền tảng hay bản năng cho vọng tưởng phát sinh.
a-1.3.2. Nguyên nhân thứ hai: đối tượng của vọng
Đấy có thể là một cái gì dễ chịu, khó chịu, hay bất cứ gì khi gặp những vật ấy, vì ta chưa từ bỏ hạt giống mê vọng, nên như Thế Thân nói:
Không từ bỏ vọng tưởng
Vi tế và rộng rãi:
Ở gần đối tượng của vọng
Và có những tư duy không thực tế,
Đấy là trọn bộ nguyên nhân
Cho những mê vọng xảy ra.
Nói cách khác, ta phải tách rời mình khỏi những đối tượng của vọng, nếu không sẽ phát sinh vọng tưởng. Những người xuất gia nên tránh vọng bằng cách sống trong tu viện, am thất, v.v… Điều ấy thật tốt cho những người sơ cơ chúng ta, ta sẽ không phát sinh vọng tưởng nếu ta không trông thấy những đối tượng làm phát sinh vọng tưởng nếu ta không trông thấy những đối tượng trong một thời gian. Bởi thế ta nên tránh chúng càng nhiều càng tốt. Trong vài bản văn luyện tâm, ta đọc:
Người còn phải đối trị vọng tưởng
Thì cốt yếu nên tránh những đối tượng xấu xa.
Vô Trước nói:
Hãy từ bỏ những đối tượng xấu
Thì vọng tưởng dần bị che khuất
Vì bạn không xao lãng
Nên những thiện hành dần tăng.
Tâm bạn được thanh lọc
Bạn sẽ có được niềm tin vào Pháp.
Đào luyện sự độc cư
Là việc của người con Phật.
Nói cách khác, cốt yếu là phải từ bỏ những đối tượng làm phát sinh vọng tưởng, và cư trú trong một nơi nào thuận lợi cho việc này.
hoangtri
05-25-2020, 08:38 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.3.3. Nguyên nhân thứ ba: xã hội
Bạn phải từ bỏ sự bận rộn của bạn bè xấu ác. Tuy nhiên, bất cứ ai dính vào cuộc đời này đều là bạn xấu, vì họ nói toàn chuyên gây nên vọng tưởng, như chuyện rượu, cờ bạc v.v… Bạn không nên để ý những người như vậy, hoặc bị ảnh hưởng của họ. Nếu bạn rơi vào ảnh hưởng họ, thì họ sẽ làm tăng trưởng thêm vọng tưởng nơi bạn, bạn sẽ tham dự vào những hoạt động không thích đáng. Ví dụ: Ngày xưa có hai người từ kinh đô xứ Paenpo, một người uống rượu một người không. Người đầu đi Retreng, người sau đi Lhasa. Người đi Retreng gặp những tiến sĩ phái Kadam. Người đi Lhasa gặp những bạn xấu. Về sau hai người lại gặp nhau, và do ảnh hưởng bạn tốt và bạn xấu mà người trước kia nghiện rượu nay từ bỏ, còn người không uống bây giờ lại thành bợm nhậu.
Chúng ta gọi thói bỏn xẻn keo kiệt bằng danh từ “cần kiệm” thói giận dữ là “nóng tính”, vân vân. Chúng ta đặt những cái tên êm tai cho những thói xấu ấy, nhưng chúng vẫn gây tai hại lớn lao. Khi học trò nương vào một ông thầy hà tiện giữ của thật kỹ, thì thói hà tiện nơi học trò tăng thêm. Cũng vậy đối với những ông thầy nóng tính. Điều quá dễ dàng để hiểu rõ là những tác dụng của bạn xấu, bởi thế ta nên tránh bạn xấu.
Tuy nhiên, mặc dù những người khát khao những vật thuộc đời này đều là bạn xấu, ta không thể ruồng bỏ tất cả mọi người, bởi vậy điều cốt yếu là đối xử họ rất cẩn thận và đừng giao thiệp họ quá nhiều. Ngày xưa có một xứ trong đó mọi người đều uống thứ nước gây bệnh điên nên trở thành điên dại. Chỉ có ông vua còn tỉnh táo, nhưng mọi người lại nói: “Vua điên.” Cũng vậy, ngày nay những người tu hành không thích nghi với đám đông thường tình, song điều này không hại gì, vì họ mong muốn theo đuổi việc tu tập đến thành công. Khi bạn xấu khuyên bảo, bạn đừng nên nói ngược với họ: hãy như một con trâu đực già ươn ngạnh, và thực hành những điều quý báu nhất của phái Kadampas - trước hết phải có tâm kiên cố như kim cương rồi tự nâng đỡ mình bằng căn bản trí kim cương, và cuối cùng đạt đến sự dũng mãnh như kim cương.
a-1.3.4. Nguyên nhân thứ tư: thảo luận
Điều này bao gồm sự đọc những sách có những chỉ dẫn nghe ra hầu như có lý mà kỳ thực vẫn phát sinh vọng tưởng. Khi bạn đọc những tác phẩm xấu ác như thế - chẳng hạn truyện nhân gian về những công trạng của Cesar Ling, những luận về tình yêu, những sách nói về bùa chú, dâm thư, vân vân - thì chỉ có tăng thêm tham sân si nơi bạn. Nhưng nếu bạn nghĩ về những công việc và đời sống của những thánh nhân, thì có thể gieo những hạt giống giải thoát trong bạn, bởi thế nên đọc những sách này.
Khi người ta tụ hội thành từng nhóm, họ nói về nhiều điều làm tăng thêm ái hoặc hận thù - như nói về vua chúa, quân đội, đàn bà, những vụ kiện, vân vân. Đây cũng là một nguyên nhân phát triển vọng tưởng.
hoangtri
05-25-2020, 08:50 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.3.5. Nguyên nhân thứ năm: tập quán.
Zhangpa Rinpoche nói: “Bạn như được vây phủ bằng những bản năng do tập quán tư tưởng xấu…” Nói cách khác, do bạn quá quen thuộc với vọng tưởng nên bạn phát triển tham ái, hận thù, v.v… như một điều đương nhiên, ngay cả khi lơ đễnh.
Chúng ta có những vọng tưởng si mê lớn hay nhỏ tùy cách ta quen thuộc nhiều hay ít đối với chúng trong những đời quá khứ, một vài người phát triển tham ái, thù hận hay bất cứ gì một cách đậm đà vì một duyên cớ rất nhỏ nhặt. Chẳng hạn, có người quen thói giận dữ không thể chịu được ngay cả một tia nhìn khó chịu, vân vân. Những người như thế không có cách nào khác ngoài ra áp dụng vài cách chữa trị, và tìm mọi cách để ngăn ngừa những phiền não ấy tiếp tục.
a-1.3.6. Nguyên nhân thứ sáu: suy nghĩ không thực tế.
Đấy là sự luôn luôn có những nhận xét quá đáng liên hệ đến những đối tượng mà ta thích hoặc ghét, v.v… Đối với đối tượng ta ưa thích như y phục chẳng hạn, thì ta nghĩ nó có màu sắc đẹp, cắt may đẹp, cái nịt lưng đẹp, vân vân. Đối với những đối tượng ta ghét, thì ta nghĩ: “Chúng làm hại tôi thế này thế nọ.” Người ta ưa nghĩ lui nghĩ tới về những đối tượng đáng ưa hoặc không đáng ưa ấy.
Một người có thể là kể thực hành Pháp. Nhưng vẫn khổ hoặc có những vấn đề, nên đâm ra hoài nghi luật nhân quả v.v… Người ấy sẽ phát triển vọng tưởng nếu những nguyên nhân nói trên sinh khởi, bởi thế phải cố mà đề phòng những nguyên nhân ấy. Nếu vị ấy không áp dụng thuốc trị, những vọng tưởng sẽ gia tăng; vọng tưởng sẽ bị che lấp nếu vị ấy áp dụng thuốc chữa. Bởi thế, hãy nỗ lực.
hoangtri
05-26-2020, 04:45 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.4. Những lỗi lầm của vọng tưởng.
Trang Nghiêm kinh nói:
Vọng tưởng phá hũy ngươi
Phá hoại hữu tình,
Phá hoại đạo đức.
Ngươi cho người ngang hàng là kẻ dưới,
Hộ pháp và bậc thầy chê trách ngài,
Và ngươi không để ý những đối thủ.
Ngài sẽ tái sinh vào những hoàn cảnh bất lợi.
Những gì ngươi có được hoặc không được
Đều suy giảm, và ngươi phải chịu nhiều khổ đau.
Nói cách khác, vọng tưởng (phiền não) có nhiều lỗi lầm. Khi phát sinh vọng tưởng, dòng tâm thức bạn trở thành một thực thể bất thiện; khi ấy bạn hành động một cách ngược đời đói với đối tượng của vọng; điều này làm cho những hạt giống tiềm tàng của vọng tưởng thêm vững chắc; bởi thế bạn luôn luôn phát triển cùng một thứ vọng ấy, nghĩa là tham ái, hận thù, hay bất cứ gì; và bạn đi vào những cảnh giới mà những bậc thánh không đi. Những hành nghiệp vô phước của bạn sẽ tăng vì hai lỗi lầm sau cùng này. Bạn lạc ra khỏi giải thoát và toàn tri, trở nên xa xôi với cả hai. Vọng tưởng làm cho những phước hành của bạn thối giảm; nghĩa là nó làm cho bạn tự hại và hại người; đạo dức thối giảm, bạn càng ngày càng ít được quà tặng, ít được giúp đỡ. Phật và hộ pháp cũng chê trách bạn. Những người khác cũng như bạn đều sẽ khổ vì vọng tưởng phiền não của bạn làm cho kẻ khác muốn giết bạn, vân vân. Trong đời này bạn phát triển tiếng xấu vì vướng vào kiện tụng, tranh chấp, vân vân. Trong tương lai bạn sẽ tái sinh vào nơi biên địa, hay vào những đọa xứ. Nói tóm lại, có vô số lỗi lầm do vọng tưởng gây nên.
Bởi thế mỗi khi phát sinh một vọng tưởng bạn phải nhận ra ngay tức khắc đấy là kẻ thù, và sử dụng một cách đối trị để chấm dứt nó. Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Nếu tất cả chư thiên, a tu la
Đều trở thành kẻ thù của ngươi
Thfi cũng không thể dẫn ngươi
Xuống địa ngục Vô gián.
Vọng tưởng là kẻ thù lớn nhất
Vì mỗi khi gặp nó
Thì có thể trong phút chốc
Nó tung ngươi vào địa ngục ấy
Cho đến khi núi Tu di cũng không còn.
Nói cách khác, không có kẻ thù nào lớn hơn vọng tưởng. Khi bạn làm vừa lòng kẻ thù, nó sẽ dịu cơn giận dữ và không làm hại bạn. Vô lượng thống khổ mà bạn có khi bị thiêu đốt trong lửa địa ngục Vô gián đều phát sinh từ vọng tưởng. Do vậy, vọng tưởng sẽ ép buộc bạn đi vào sự bất tịnh của sinh tử, bởi thế nó còn mạnh hơn tất cả những kẻ thù của bạn trong ba cõi. Những người phái Kadampas ngày xưa nói:
“Hãy luyện tập đứng vững chống lại vọng tưởng, nhưng duỗi tay cứu giúp hữu tình và làm lợi ích cho chúng.”
Geshe Ban Gun - gyael nói:
“Tôi canh gác cái cổng vào pháo đài tâm tôi với một giới là những pháp đối trị. Không lúc nào tôi không làm việc này. Khi vọng tưởng sẵn sàng nổi lên, thì tôi cũng sẵn sàng để chấm dứt nó. Khi nó nghỉ ngơi thì tôi cũng nghỉ ngơi.”
Nói cách khác, bạn phải xem vọng tưởng như kẻ thù tệ nhất và áp dụng biện pháp chống lại nó tức khắc.
hoangtri
05-27-2020, 10:33 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-2. Nghiệp tích lũy như thế nào
Có hai loại nghiệp: ý nghiệp và hành động cố ý.
a-2.1. Ý nghiệp
Vô trước nói:
“Ý nghiệp là gì? Đó là một tác động của uẩn gồm những tâm và tâm sở khiến cho một ý tưởng hiện khởi. Nhiệm vụ nó là làm cho tâm dấn mình vào thiện, bất thiện hay trung tính.”
Nói cách khác, một ý nghiệp là, ví dụ như một tâm vương kích động cho ta cảm thấy cần phải nói những lời lăng nhục; hoặc đó là nghiệp của tâm sở khích ta, cỗ vũ cho ta trong khi ta nói những lời ấy.
a-2.2. Hành động cố ý
Đấy là hành động của thân và lời có ý nghiệp làm động lực thúc đẩy. Kho Tàng Siêu Vật Lý (Thắng pháp) nói:
Nghiệp thuộc về tâm, do tâm tạo.
Ý nghiệp là hoạt động thuộc tâm ý;
Nó làm sinh khởi nghiệp của thân và lời.
Vọng tưởng làm nổi lên ba loại nghiệp: phi phước hành, phước hành và bất động hành. Phi phước hành là nghiệp được tích lũy do khao khát những vật thuộc đời này, rồi hành động bằng cách giết hại, v.v… Loại nghiệp này làm cho ta tái sinh vào các đọa xứ. Phước hành là nghiệp tích lũy do khao khát lạc thú trong đời vị lai. Nghiệp này làm người ta tái sinh làm một vị trời cõi Dục. Bất động hành là như sau. Một người từ bỏ lạc thú đời sau, mà mê say cảm thọ hỉ lạc do tịnh chỉ nhất tâm, nên tái sinh làm một vị trời trong ba cõi trời thiền đầu. Hoặc người ta có thể bất cần cả đến cái cảm thọ hỉ lạc do tịnh chỉ nhất tâm đem lại, những khao khát cảm thọ xả và tích lũy loại nghiệp làm nhân tái sinh vào cõi trời thiền thứ tư hay cao hơn nữa.
Cả hai loại nghiệp phước hành và phi phước hành đều ném người ta vào một tái sinh ở cõi Dục, và hậu quả của chúng là di chuyển. Chẳng hạn, ta có thể đạt đến trạng thái trung ấm của một chúng sinh trên đường đến địa ngục, nhưng nhờ năng lực bậc thầy ta, nhờ các nghi lễ và thần chú, v.v… mà trạng thái trung ấm của ta có thể thay đổi, làm cho ta thôi tái sinh vào các thượng giới. Drom Rinpoche nói rằng nếu tất cả dân chúng ở Retreng với giới cư sĩ mà cùng góp công đức giữ giới của họ lại thì có thể tạo công đức căn bản cho một người cộng đồng họ sau khi chết. Nói cách khác, vì tất cả những cư sĩ ấy đều có giới đức giống nhau, cho nên những thiện căn tạo ra từ đấy sẽ rất lợi lạc cho bất cứ người nào của họ đã chết và đang còn ở trong cõi trung ấm.
Dẫn nghiệp để tái sinh vào các thượng giới là như sau. Giả sử một người đã tích lũy nghiệp để tái sinh vào cõi thiền thứ nhất. Nghiệp ấy sẽ không thay đổi thành cái nghiệp tái sinh vào cõi thiền thứ hai hay bất cứ cõi nào khác. Đó là lý do loại nghiệp này được gọi là “bất động.”
Kho Tàng Siêu Vật Lý nói:
Phước hành là công đức để tái sinh vào Dục giới.
Nghiệp sinh vào thượng giới thì bất động;
Nghiệp này gọi là bất động vì
Nó chỉ thuần thục ở trong những thượng giới.
Bất cứ nghiệp nào không được tích lũy phù hợp với một trong ba nền tảng của đạo lộ thì chỉ là nhân cho sinh tử; bất cứ nghiệp nào được tạo khi ta bị thúc đẩy phải từ bỏ ba cõi luân hồi thì chỉ có thể trở thành nhân quả cho giải thoát. Khi bạn giã từ thế gian với ý niệm sẽ tu tập Pháp, nhưng không có một trong ba động lực là từ bỏ vân vân, thì bạn có thể trú trong tịnh chỉ ở một am cốc nào đó, nhưng dù may mắn bạn cũng chỉ nhận được cái nhân để tái sinh vào các cõi trời Vô sắc hoặc vào các cõi trời thiền thuộc Sắc giới (Ngũ tinh cư thiền - DG). Đấy là lý do tại sao muốn tu tập, điều cốt yếu là bạn phải tìm một chỉ dẫn hoàn toàn không lỗi lầm.
hoangtri
05-28-2020, 08:57 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-3. Nỗi khổ cứ mãi bỏ thân rồi thọ mạng.
Có 3 phần:
a-3.1. Cái gì xảy đến vào lúc chết
Thọ mạng của bạn có thể hết. Công đức bạn có thể hết. Bạn chưa thoát khỏi hiễm nguy. Kinh Nói Về Những Yếu Tố Đưa Đến Cái Chết kể ra chín yếu tố. Những yếu tố này và khác nữa có thể giết bạn.
Ý nghĩ lúc chết có thể khởi động cái nghiệp sẽ ném bạn vào tái sinh kế tiếp sau khi chết. Những yếu tố khởi động cho nghiệp ấy là khát ái và chấp thủ, đấy là những gì xảy đến. Bạn có thể nghĩ, “Tôi sắp lìa thân xác này,” và bạn bám lấy thân hiện tại của bạn. Khát ái bao gồm những việc như mong có được hơi ấm, và thế là bạn sinh vào địa ngục nóng.
Đối tượng của tiến trình châm ngòi này là nghiệp cường liệt nhất nơi bạn, đen hay trắng (ác hay thiện). Nếu nghiệp đen và trắng đều ngang nhau, thì đối tượng để châm ngòi là một trong hai nghiệp quen thuộc hơn trong bạn. Nếu cả hai loại đều quen thuộc, thì loại nghiệp nào được làm trước sẽ bị châm ngòi.
Thời gian khi sự châm ngòi này xảy ra là tâm còn hoạt động và còn có hình thức nhận biết thô phù - một hiện tượng thiện hay bất thiện, nghĩa là tín tâm, lòng thương xót, sự ái luyến, giận dữ, v.v… - và bạn còn có thể tự mình nhớ được những điều ấy hoặc có thể được người khác nhắc cho nhớ. Khi nhận thức thô chấm dứt, và khi những ý tưởng lúc chết của bạn rất vi tế, thì tư tưởng bạn thuộc loại trung tính và bạn không thể nhớ lại bất cứ một điều thiện hay bất thiện nào.
Nếu những ý tưởng lúc chết liên hệ đến lòng tin, v.v… thì thiện đức của bạn sẽ được khởi động. Bởi thế thực thiết yếu để khởi động những ý niệm thiện trong khi những tưởng lúc sắp chết của bạn sắp dự phần vào tiến trình khởi động này. Bạn có thể là một hành giả luôn luôn tạo điều lành, nhưng nếu bạn nổi giận lúc sắp chết, tức bạn khởi động những tư tưởng cận tử không được tốt lành, và bạn phải đi đến những đọa xứ do hậu quả thuần thục của những bất thiện quá khứ. Những nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho một người tội lỗi luôn luôn phạm tội.
Ở giao điểm này, người ta sẽ hoặc lên cõi cao hoặc xuống cõi thấp. Nếu sắp lên thượng giới, thì hơi ấm trong cơ thể ta tan dàn từ phần dưới cơ thể và tụ lại tim. Nếu sắp xuống đọa xứ thì điều ngược lại xảy ra là, hơi ấm tan dần từ phần trên cơ thể và tụ lại ở phần dưới. Bạn cũng có thể biết được người chết sẽ lên thượng giới hay tái sinh vào đọa xứ bằng cách quan sát những dấu hiệu như cường độ đau đớn mà người ấy trải qua trong cơn bệnh cuối cùng. “Đau đớn trong cơn bệnh” ở đây ám chỉ lúc một đại bộ phận của cơ thể bị suy sụp.
Một vài người có ảo giác lúc chết: chẳng hạn, họ tưởng mình bị những hộp trà đè lên, hay nhiều người đè lên.
(Kyabje Pabongka Rinpoche kể chuyện ở Lhasa ngài trông thấy cái chết của mọt người hầu phòng ở chính phủ Trung ương. Anh ta đã trộm trà, khi chết anh có ảo giác bị những hộp trà nghiền nát.)
Khi một viên chức ở tỉnh Tsang chết, ông ta nói: “Tôi đang bị nhiều người chà đạp,” và ông từ giã cõi đời trong một trạng huống kinh hoàng v.v…
Điều này cũng xảy đến cho những người đã hành thiện. Xưa có người ăn xin ở bên vệ đường trông thấy đền đài cung điện và những tia sáng trắng lúc ông ta chết. Kyabje Pabongka Rinpoche còn kể một bà già ở Chuzang đã niệm thần chú Om mani padme hum rất nhiều, khi chết đã thấy những điềm tốt.
Những dấu hiệu ấy chỉ làm một dẫn nhập đi vào cõi chết.
hoangtri
05-29-2020, 03:53 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
a-3.2. Cách thành tựu thân trung ấm
Như sự lắc lư của một chiếc cân, đời sống nhập thế hiện tại của bạn chấm dứt đồng thời với sự bạn mang lấy một hình thể vật lý dẫn đầu cho sự nhập thế mới - điều này ám chỉ bóng ma mường tượng các uẩn trong tái sinh sắp đến của bạn; sự nhập thế sắp được đi trước bằng bóng ma này dù nó nhập vào bất cứ nơi đâu. Nhiều người bảo rằng người chết sống trong cõi trung gian mang hình dạng và y phục mà họ có lúc còn sống, và có những cách để thông tin với họ. Điều này thật sai lầm. Có thể rằng đã có một vài trường hợp như vậy, nhưng đấy không phải là người chết mà là một chúng sinh nào giả dạng người chết ấy để lừa dối những kẻ phàm phu.
(Pabongka ám chỉ cau chuyện trong tiểu sử của Milarepa về cái chết của thân phụ của một cư sĩ theo đạo Bon)
Những chúng sinh trong cõi trung gian có đủ tất cả các giác quan; có thần thông có thể làm những hành vi phi thường; không gì có thể cản đường họ ngoại trừ những thánh tích hoặc nơi họ sẽ sinh vào. Những chúng sinh trong cõi trung ấm sắp tái sinh vào Địa ngục có màu sắc như những khúc gỗ đã cháy; những chúng sinh nào sắp sinh là Quỷ đói có màu nước; những chúng sinh sắp biến thành Súc sinh có màu xám tro; những chúng sinh sắp sinh làm Người hay chư Thiên cõi dục có màu vàng ròng. Những chúng sinh sắp trở thành chư Thiên ở sắc giới thì có màu trắng trong cõi trung gian. Không có cõi trung ấm cho những chúng sinh tái sinh vào cõi Vô sắc.
Trạng thái nhập xác trong cõi trung ấm xuất hiện như một đêm tối đen với những người bất thiện; đối với những người hiền thiện, trạng thái này xuất hiện như một đêm tối có điểm những dải ánh sáng trắng hoặc được thắp sáng dưới ánh trăng.
Về thọ mạng của chúng sinh ở cõi trung ấm có nhiều thuyết khác nhau, thông thường nói là 7 ngày - độ dài của những ngày này cũng giống như ngày ở trong đời trước đấy. Sau 7 ngày, những chúng sinh trung ấm trải qua một cái chết nhỏ, và họ có thể có đến 7 lần chết như thế trước khi tìm được một chỗ sinh ra.
a-3.3. Cách nhập thai và sinh ra
Lấy trường hợp một số người được sinh ra từ bào thai. Sự thụ thai xảy đến giữa tinh cha và huyết mẹ. Hồn ma trong cõi trung ấm thấy cha mẹ giao hợp, cơn giận dữ và sự tham luyến làm cho nó nôn mữa, và nó chỉ thấy những cơ quan sinh dục của cha mẹ. Cơn giận giết chết nó và nó được nhập vào bào thai trong tái sinh kế tiếp.
Điều này hoàn tất đề mục “Nghĩ về nguồn gốc khổ - những giai đoạn buộc ta vào sinh tử” theo tác phẩm của Tsongkapa là Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ, Con Đường Nhanh và Con Đường Dễ. Bây giờ tôi sẽ bàn tiêu đề này theo 12 phần nhân duyên, cũng được bàn trong tác phẩm của Tsongkapa nhan đề Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ. Những Lam-rim. Con Đường Dễ và Con Đường Nhanh không rõ ràng về đề tài này. Tôi sẽ dạy đề mục này theo tác phẩm Lời Đức Văn Thù, chỉ bàn qua về những tiêu đề của nó.
Sự đề cập ngắn ngủi trên đây về cách nghĩ đến những giai đoạn ta bị buộc vào sinh tử - nghĩa là nguồn gốc của khổ - đã đủ. Tuy nhiên những người đã nghiên cứu các bản tranh luận cổ điển thì nên nghĩ về điều này qua 12 nhân duyên. Đây là điều tốt nhất cho vài người đặc biệt.
(Pabongka Rinpoche kể lại một thời, vua Ma Kiệt Đà theo lời khuyên của đức Phật đã giải thích quá trình tái sinh cho vị vua tên là Utrayna bằng cách dùng một hình vẽ bánh xe sinh tử, và vị vua này đã phát sinh niềm chán ngấy sinh tử luân hồi. Ngài cũng kể cho chúng tôi nghe Geshe Puchungwa đã nghiên cứu 12 nhân duyên và giảng dạy Phạm Vi Nhỏ và Phạm Vi Trung Bình theo 12 móc xích này.)
Bởi vậy bạn nên nghĩ thêm về những lỗi lầm của Tập đế nguồn gốc của khổ, và lỗi lầm của sinh tử nhờ phương tiện 12 móc xích để tăng cường sự chán ngấy của bạn đối với sinh tử. Đức Phật bàn về những móc xích này khi ngài dạy kinh Những Hạt Lúa.
“Vì cái này có nên cái kia sẽ có. Ví cái này đã sinh nên cái kia sẽ sinh. Cũng vậy vô minh là phần nhân tố phụ thuộc để sinh ra các hành…”
hoangtri
05-30-2020, 06:22 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác có 12 móc xích duyên như sau.
a-3.3.1. Vô minh
Đây là căn nguyên sự xoay vần của chúng ta trên bánh xe sinh tử. Chúng ta không biết làm thế nào để hiểu vô ngã với trí tuệ của mình, do đó ta chấp thủ con người của ta và các hiện tượng bên ngoài, ta cho rằng chúng đều có một bản ngã, chúng có thể được thiết lập do tự tính của chúng. “Vô minh” là cái thấy biết điên đảo, ngược lại với trí tuệ căn bản. Điều này cũng giống như bị mù.
Có hai hình thái vô mình. Vô minh về nhân quả, và vô minh về chân như.
a-3.3.2. Hành
Vô minh khởi động các hành như thể là nghề của nó. Các uẩn xuất hiện trong tái sinh kế tiếp của ta cũng là nhiệm vụ các hành. Như thế, chúng ta bị khởi động bởi vô tình không thấy luật nhân quả, nên tạo những nghiệp phi công đức; hoặc chúng ta được khởi động bởi vô minh không thấy được hình thái hiện hữu của vạn pháp nên chúng ta tạo những phi phước hành hoặc bất động hành. Tất cả loại nghiệp này đều gọi là hành.
a-3.3.3. Thức
Ám chỉ hai loại thức: Thức vào thời gian của nhân, và thức vào thời gian của quả báo. Loại thứ nhất là thức theo liền sau bản năng hay khuynh hướng tiềm ẩn của hành, tức là nghiệp. Loại thứ hai là thức theo liền sau sự nhập thai và tái sinh mới.
Một ví dụ: Giả sử bị kích động bởi vô minh bạn mới giết mạng sống. Khi bạn phạm nghiệp này hay hành này, bản năng hay sự tiềm tàng của nó được in dấu khi nghiệp vừa hoàn tất. Đây là thức vào thời gian của nhân. Do nghiệp này bạn được nhập thai này, tình trạng “thức” của bạn là thức vào thời gian của quả báo.
Mỗi khi phước hành hay nghiệp đều có thể ném ta vào nhiều tái sinh trong các đọa xứ. Hãy áp dụng cùng những nguyên lý ấy đối với các phước hành hay “phước nghiệp” v.v…
Những bản năng của nghiệp này đi vào tâm thức cũng giống như dầu thấm vào cát hoặc như mực nơi dấu ấn thấm vào giấy. Tham ái và chấp thủ đều có thể kích động khuynh hướng tiềm tàng này, và khi ấy chúng trở thành đủ sức mạnh để đưa đến tái sinh.
a-3.3.4. Danh sắc
Trong trường hợp tái sinh từ bào thai, móc xích “Danh” là bốn uẩn thọ, tưởng, hành và thức. Móc xích “Sắc” là tinh cha, huyết mẹ trong giai đoạn phát triển đầu tiên, trong đó thức đã được đặt vào. Phối hợp hai cái gọi là móc Danh sắc.
a-3.3.5. Sáu căn
Khi sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã thành hình, móc xích này chỉ áp dụng cho giai đoạn chưa phân biệt được sự vật mặc dù hiện hữu giác quan và đối tượng (căn, trần, thức) đầy đủ. Các căn vật lý và tâm lý này được nói là hiện hữu từ giai đoạn đầu của bào thai. Lấy ví dụ sự tái sinh bằng biến hóa vào hai cõi dưới là cõi dục và cõi sắc, thì danh sắc và sáu căn xảy ra đồng thời. Ở cõi vô sắc, thì chỉ có “danh” và không có “sắc” hay năm căn vật lý.
a-3.3.6. Xúc
Khi sáu căn đã được thành hình và đồng thời có sự tác động hỗ tương giữa căn, trần, thức thì người ta có thể phân biệt được những đối tượng dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Đấy gọi là xúc.
a-3.3.7. Thọ
“Xúc” làm duyên cho sự phát triển của một trong ba loại “thọ” hay cảm giác: lạc, khổ, xả. Ví dụ, ta phát sinh cảm giác vui sướng khi gặp đối tượng dễ chịu.
a-3.3.8. Ái
Ái nghĩa là mong muốn đừng xa lìa những cảm giác vui. Nó cũng là sự mong muốn xa lìa đau khổ, và bám lấy sự xa lìa ấy. Chúng ta còn khát khao tình trạng “xả” của ta không thối giảm.
Cảm thọ được xem là nguyên nhân phụ vào sự phát triển của tham ái. Điều này cần hiểu là khi vô minh có mặt, và có xúc làm duyên: chỉ có “thọ” xảy ra lúc ấy mới phát sinh tham ái. Như vậy khi vô minh không có mặt, chư thiên vẫn có thể có cảm giác, nhưng tham ái sẽ không phát sinh.
a-3.3.9. Thủ
Khi ái càng mạnh, thì chúng ta ham muốn đối tượng và ràng buộc với nó. Có bốn loài chấp thủ. “Dục thủ” là ràng buộc với các đối tượng giác quan. “Kiến thủ” là ràng buộc với tất cả tà kiến, trừ kiến chấp đồng hóa với ngã với cái khả hoại. “Giới cấm thủ” là bám vào những đạo đức hạ đẳng và những lối hành xử liên hệ đến tà kiến. “Ngã luận thủ” là sự thích thú đối với những quan niệm về thực hữu: căn để là sự thích thú đối với kiến chấp cho rằng ngã chính là 5 uẩn.
a-3.3.10. Hữu
Trong quá khứ, “hành” gieo bản năng nghiệp vào tâm thức, Ái và thủ khởi động bản năng và khi ấy nó đủ sức ném ta vào một thân xác trong đời vị lai.
a-3.3.11. Sinh
Móc xích này trải từ sự khởi động nói trên, - khi nghiệp trở thành căn bản cho sự tái sinh của ta vào một trong bốn loại sinh - cho đến lúc ta nhập vào bào thai trong tái sinh mới.
a-3.3.12. Già chết
Chúng ta nhận móc xích “già chết” theo thứ tự. già là sự chín mùi của các uẩn, sự tuần tự biến đổi tình trạng của chúng. Chết là sự hoại diệt các uẩn, sự chấm dứt vận hành các uẩn.
hoangtri
05-31-2020, 04:07 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
Khi bạn đã được giới thiệu 12 móc xích này và có thể phần biệt từng cái, bạn phải biết cách gom chúng lại thành từng phần. Có 4 phần: phần thúc nhanh, phần thành lập, phần thúc nhanh hậu quả, phần hậu quả hiện rõ.
Vô minh giống như một người gieo hạt giống. Hành do vô minh khởi động là như hạt giống. Và giống như đất trách nhiệm đó hạt giống được gieo, thức vào thời điểm của nhân có bản năng của nghiệp tích lũy đặt vào nó. Vậy phần là hai rưỡi móc xích đầu: vô minh; hành, và thức ở thời điểm làm nhân - không phải phần kia của thức ở thời điểm làm quả.
Cũng như hạt giống được nuôi bằng nước, phân, hơi ấm, sự ẩm ướt, ái và thủ khởi động cái nghiệp để phát sinh quả. Như một hạt giống được làm cho có tiềm năng nhờ nước, phân, hơi nóng và ẩm thấp để đâm chồi, cái nghiệp đã được khởi động bởi ái và thủ chắc chắn sẽ thúc nhanh sự thành hình năm uẩn đời sau nhờ móc xích “hữu.” Vậy ái, thủ, hữu là thành phần lập.
Cũng như hạt giống đâm chồi, móc xích “sinh” - nghĩa là được hoài thai thành hình thể tái sinh mới - là một yếu tố thuộc thành phần hậu quả hiện rõ.
Năm rưỡi (đúng ra là bốn rưỡi, nếu tính danh - sắc là một - DG) móc xích làm nên phần kết thúc nhanh hậu quả, đó là: thức vào thời điểm làm quả, danh sắc, sáu giác quan, xúc và thọ.
Già chết là một yếu tố của phần hậu quả hiện rõ. Vậy phần hậu quả hiện rõ gồm có “sinh” và “già chết.”
Lấy ví dụ sự tái sinh làm một vị trời. Do năng lực vô minh, nghĩa là mù quáng đối với chân như, cái bản năng thuộc nghiệp ta đã tích lũy - cái nghiệp đưa đến tái sinh làm chư thiên - được đặt vào trong thức của ta. Khi ấy ta nghĩ, “Tôi sẽ thích một tái sinh ở cõi trời.” Và khát khao điều này trong lúc cầu nguyện, vân vân: đây là khát ái. Rồi ta đặt nhiều nỗ lực vào khát vọng ấy: đó là thủ. vào lúc chết, hai yếu tố ái, thủ này làm nên cái nghiệp chắc chắn sẽ ném ta vào tái sinh ấy: đây là “hữu”. Vậy, ba yếu tố của phần thúc nhanh và ba yếu tố của phần thành lập - sáu yếu tố tất cả - được đầy đủ trong đời này. Rồi chúng ta tái sinh làm một vị trời; bốn móc - danh sắc, các giác quan, xúc và thọ - là phần thúc nhanh hậu quả; và hai móc - sinh và già chết - là phần quả báo hiện rõ. Đây là cách mà một bộ sậu gồm 12 móc xích được đầy đủ trong hai đời.
Lấy ví dụ tái sinh vào đọa xứ. Cũng những nguyên tắc ấy áp dụng ở đây: vì mù lòa trước luật nhân quả, chúng ta tích lũy những nghiệp bất thiện, được khởi động do ái và thủ, v.v…
Không thể nào có một bộ 12 nhân duyên đầy đủ trong vòng một đời dưới năng lực của một nghiệp duy nhất. Chúng ta có thể hoàn tất đủ bộ 12 nhân duyên nhanh nhất cũng phải trong hai đời.
Cần thời gian lâu hơn khi với ái, thủ ta đã không thể khởi động một vài nghiệp; khi ấy ba yếu tố của phần thúc đẩy nhanh sẽ đầy đủ trong một đời; ba yếu tố của phần thành lập, vào một đời khác; và bốn yếu tố của phần thúc nhanh quả báo, cũng như hai yếu tố của phần quả báo hiện rõ, sẽ được bổ túc trong một đời khác nữa. Một ví dụ: chúng ta tích lũy nghiệp ác để được tái sinh vào đọa xứ, và bản năng đã được gieo trồng. Nhưng vào lúc chết, thầy và bạn gieo những ý tưởng thiện vào trong tâm ta; điều này khởi động cái nghiệp để tái sinh làm người, và kết tiếp ta được sinh làm người. Khi ta chết, ta lại khởi động cái ác nghiệp khi trước do ái và thủ, và rồi ta lại tái sinh vào đọa xứ.
Trong ví dụ chúng ta có thể có nhiều tái sinh xen vào giữa phần thúc nhanh và phần thành lập, nhưng đấy là những cuộc đời thuộc vào những bộ 12 nhân duyên khác nữa, nên không tính.
Vậy, để tóm tắt: cách nhanh nhất ta có thể hoàn tất đủ bộ 12 nhân duyên là trong hai đời sống, và chậm nhất là ba đời. Không thể nào nhanh hơn hoặc chậm hơn thế. Mỗi móc xích làm duyên cho móc kế tiếp sinh khởi, cho nên tất cả khổ - tái sinh, già, chết, v.v… - được kinh quá như một chu kỳ. Trong khi ta theo những móc xích kết quả từ một nghiệp duy nhất, ta có thể phát triển nhiều bộ 12 nhân duyên khác trong giai đoạn nguyên nhân của chúng. Già chết là do sinh; hành là do vô minh, vân vân. Như vậy một móc xích này tiếp theo móc xích kia và bởi thế vô minh là cần để trong việc khiến cho bánh xe sinh tử quay tròn.
Long Thụ nói:
Hai móc xích phát xuất từ ba
Bảy móc xích phát xuất từ hai;
Rồi ba móc xích lại sinh
Bánh xe sinh tử cứ thế quay mãi.
hoangtri
06-02-2020, 09:40 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác ba móc xích vọng tưởng (vô minh, ái, thủ) làm phát sinh hai móc xích nghiệp (hành, hữu), và từ hai móc xích này phát sinh bảy móc xích khổ (những móc xích còn lại). Rồi từ bảy móc xích khổ lại phát sinh ba móc xích vọng tưởng v.v…; chu kỳ được lập lại, và bánh xe sinh tử quay mãi không ngừng. Đây là sự quay bánh xe khổ.
Mười hai nhân duyên có thể được đề cập theo thứ tự khác. Nếu muốn thực hành một con đường để chấm dứt 12 nhân duyên, thì ta ngăn cản “hành” bằng cách đề phòng vô minh; điều này sẽ chấm dứt tất cả đau khổ của già chết.
Tóm lại, 12 móc xích duyên sinh có thể tóm thành 3 hệ thống nhân quả: Nghiệp, vọng tưởng và khổ. Vô minh, ái, thủ là 3 móc xích của vọng tưởng. Hai móc xích nghiệp là hành và hữu; những móc xích còn lại là 7 móc xích của khổ. Long Thụ nói:
Thứ nhất, thứ tám, thứ chín là vọng tưởng
Thứ hai, thứ mười là nghiệp.
Bảy chi còn lại là khổ.
Dòng đầu bài kệ nói về 3 móc xích của sự khởi động, dòng kệ thứ hai nói về hai móc xích nghiệp về thân và lời, nghĩa là hành và hữu; dòng thứ ba là những móc xích mà người ta sẽ trải qua.
Bạn đã phát sinh sự từ bỏ khi do hậu quả của sự thiền quán về nỗi khổ chung quanh của sinh tử và 12 móc xích duyên sinh. Bạn khao khát được giải thoát khỏi luân hồi như một người tù. Khi ấy bạn muốn tu luyện theo con đường đưa đến giải thoát.
b. Thực thụ xác định bản chất đạo lộ đến giải thoát.
Có hai phân đoạn (1) loại tái sinh có thể chấm dứt sinh tử (2) loại con đường có thể đưa đến chấm dứt sinh tử.
b-1. Loại thân vật lý có thể chấm dứt sinh tử.
Bạn đã nghĩ về những lỗi lầm của sinh tử. Bản chất của sinh tử là hoàn cảnh vô thường và khả hoại, giống như hình ảnh của mặt trăng trong nước bị gió thổi không đứng yên dù trong chốc lát. Hạnh phúc và tài sản trong sinh tử ấp ủ một mối nguy hiểm lớn lao như cái bóng của một con rắn hổ mang có mồng. Bạn có thể thấy rằng bất cứ loại nào trong 5 loại tái sinh đều là một sự hoành hành không gián đoạn của đau khổ. Cũng như người trong ngục hay trong một gian nhà cháy mong muốn thoát ra, bạn sẽ phát sinh những tư tưởng muốn thoát sinh tử. Bạn sẽ tra tầm những nguyên nhân của sinh tử. Có hai nguyên nhân: nghiệp và vọng tưởng. Khi biết điều này bạn sẽ nỗ lực tìm phương cách để đánh bại 2 nguyên nhân ấy.
Sự tái sinh cần có là tái sinh làm thân người thuận lợi; và bây giờ khi ta đã có được thân người thuận lợi để theo học 3 môn học tăng thượng và những nỗ lực lành mạnh khác, thì ta phải quay lưng với sinh tử. Geshe Potowa nói: “Khi bạn lang thang đã nhiều trong quá khứ, sinh tử không tự đứng lại và nó cũng không tự dừng - chính bạn phải dừng bánh xe sinh tử. Và thời gian để dừng sinh tử chính là hiện tại, khi bạn đã có được thân người thuận lợi.”
Nói cách khác không có một tái sinh nào tốt hơn là tái sinh này.
b-2. Loại con đường có thể chấm dứt sinh tử
Chúng ta cần phải cắt đứt gốc rễ của sinh tử, gốc rễ ấy chính là vô minh, mù lòa với chân như. Hình thức bản năng của sự chấp thủ cái tôi chính là gốc rễ cần được cắt đức, bởi vì khi ta không cắt đứt gốc rễ này mà lại đào luyện những phương pháp giải khác, thì nó chỉ làm cùn nhụt một vài vọng tưởng chứ không thể vĩnh viễn phát huy chúng. Những thiện hành cũng không ăn thua gì.
Chỉ có những tư tưởng hoàn toàn ngược lại với nó mới có thể chấm dứt chấp thủ bản ngã.
Trí tuệ hiểu được vô ngã sẽ nhận ra rằng cái tôi không thực hữu: trí tuệ này bởi thế hoàn toàn đối lập với những tư duy chấp thủ cho rằng cái ngã thực có tự tính. Bởi thế bạn cần có trí tuệ hiểu được vô ngã để có thể nhổ tận gốc sự chấp ngã theo bản năng. Khi bạn không có trí tuệ này mà lại nỗ lực làm các phước hành khác, thì điều ấy chỉ tổ tăng cường thêm sự chấp ngã của bạn chứ không thể làm hại đến chấp ngã.
Muốn phát triển trí tuệ này một cách thích đáng trong dòng tâm thức, bạn cần những điều sau đây. Bạn sẽ không phát triển được trí tuệ ấy nếu không có sự tu tập về tăng thượng định học. Ví dụ bạn cần hai điều khi muốn bổ một thân cây: Một cái rìu thật bén và một cánh tay khỏe mạnh. Nếu cái rìu không được bén thì nói không thể cắt vào trong thân cây. Nếu cánh tay bạn không vững, thì cái rìu sẽ không rơi xuống cùng một chỗ ấy trên thân cây. Hoặc muốn thấy được bức họa trên tường về đêm, bạn phải có một ngọn đèn sáng. Trí tuệ hiểu được vô ngã là giống như cái rìu bén; sự chấp thủ vào một hiện hữu có thật là thân cây cần được chặt, thấy được chính xác hình thái sinh tồn cũng giống như cánh tay khỏe mạnh cầm rìu, hay ngọn đèn tỏa ánh sáng trên sự vật. Muốn phát triển trong dòng tâm thức của bạn sự tịnh chỉ nhất tâm bền bĩ không bị vọng tưởng nội tâm - giống như ngọn đèn dầu không bị lung lay vì gió - thì bạn phải giải thoát tâm khỏi những tán loạn thô phù bên ngoài, nghĩa là bạn phải trước hết tu học tăng thượng giới.
Để tóm tắt, kinh Phạm Thiên Thỉnh được trích dẫn trong tác phẩm Vô Trước nói:
Những điều cần có là:
Một căn bản rất vững
Hoan hỷ trong một tâm an định và tri kiến bậc thánh
Điều không nên có là:
Kiến chấp của kẻ tội lỗi.
hoangtri
06-04-2020, 07:10 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
Nghĩa là muốn có phương thuốc đối trị ngã chấp - tuệ quán đặc biệt, tri kiến như của bậc thánh để liễu tri Tánh không - hình thái hiện hữu chân thật - thì trước hết bạn phải hoàn tất tâm tịnh chỉ. Và nếu bạn không theo tăng thượng giới học, thì bạn sẽ không có những điều kiện cần để phát sinh tâm tịnh chỉ.
Bức thư của Long Thụ nói:
Khi tóc hay y phục của bạn
Thình lình bắt lửa
Cũng đừng thèm dập tắt:
Thay vì thế, hãy cố dập tắt tái sinh.
Không có mục đích nào vĩ đại bằng.
Đừng thối lui trên con đường
Đi tìm niết bàn vô cấu an tịnh
Bằng giới thanh tịnh và trí tuệ thiền định.
Hãy hoàn tất điều ấy; trong niết bàn không có
Đất nước lửa gió trời trăng,
Ba điều chính cần phải thực hành trong Phạm Vi Trung Bình là ba môn tăng thượng, bởi vậy đáng lẽ phải bàn để chúng ở đây nếu tôi không giảng dạy những đề mục thiền thuộc Phạm Vi Lớn. Tuy nhiên đây chỉ là giáo lý thuộc Phạm Vi Trung Bình, là phần có chung của đạo lộ chứ không phải con đường thực thụ của Phạm Vi Trung Bình. Bởi vậy tôi sẽ bàn về hai môn học tăng thượng là tịnh chỉ và trí tuệ, trong phần tâm tịnh chỉ và tuệ quán đặc biệt thuộc Phạm Vi Lớn. như vậy chỉ còn có tăng thượng giới cần phải bàn đến: đay là cách giảng dạy theo truyền thống.
Bức thư của Long Thụ nói:
Như những động vật và bất động
Đều được đất nâng đỡ,
Cũng thế, giới được gọi là
Nền tảng của tất cả thiện pháp.
Nói cách khác, giới là cốt tử vì là căn bản của mọi đức tính. Đó là giáo lý căn bản của đức Phật. Giới là lợi lạc nhất nếu người ta giữ giới, nhưng nếu không giữ giới thì có những lỗi lầm to lớn; lợi lạc chỉ là do sự giữ giới.
Điều căn bản quyết định giáo lý của Phật có tiếp tục tồn tại hay không chính là Giới Biệt Giải Thoát có còn được tuân giữ hay không. Nếu không còn những người tu thọ cụ túc giới, thì bất cứ giáo lý nào còn tồn tại cũng vô hiệu, mặc dù có thể vẫn còn những người mang tri kiến chẳng hạn. kinh Biệt Giải Thoát nói: “Khi Như Lai nhập Niết bàn, các người lấy giới làm thầy.” Nghĩa là bạn phải cảm thấy giới luật ở trong dòng tâm thức của bạn thay thế cho bậc đạo sư của chúng ta, bạn nên yêu mến giới luật và giữ giới.
Trong ba môn học tăng thượng, thì những người sơ học chúng ta khó thực hành ngay tuệ và định; nhưng giới Biệt Giải Thoát trong dòng tâm thức chúng ta là một tuệ quán đi sâu vào giáo lý, mà chắc chắn chúng ta có thể thực hành, mà chắc chắn chúng ta có trong dòng tâm thức. Đây là lý do tại sao người ta nói giáo lý Phật tồn tại hay không là tùy thuộc vào tăng. Lại nữa giới Biệt Giải Thoát là căn bản, là trung gian của hai loại giới cao hơn.
hoangtri
06-05-2020, 04:05 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
Khi nói “những người bảo tồn giáo lý,” chúng ta không ám chỉ pháp sư ngồi trên tòa cao. Bạn là một người bảo trì nền giáo lý nếu bạn tuân giữ giới luật mà bạn có trong dòng tâm thức. Nếu bạn khảo cứu và thiền quán nền giáo pháp được truyền thừa là bạn bảo trì chánh pháp được truyền thừa. Nếu bạn giữ giới thanh tịnh, bạn là người bảo trì tuệ giác thâm nhập giáo lý.
Trong 3 loại giới, chúng ta chắc chắn có thể thực hành giới Biệt giải Thoát. Một bản Kinh nói: “Tỷ kheo giữ giới thì sáng chói” và: “bất cứ nơi đâu có một tỷ kheo tuân giữ giới luật, nơi ấy có hào quang, có ánh sáng. Ta sẽ làm cho nơi ấy không bị trống rỗng; một nơi như thế sẽ không khiến cho ta lo lắng…” Đây là một điều cốt yếu.
Xứ Tây Tạng chúng ta, miền đất núi tuyết, có những đặc điểm không tìm thấy ở các xứ khác và nguồn gốc của nền hạnh phúc dài hạn của chúng ta là giáo lý của Phật. Sự kiện những giáo lý này còn thịnh hành không phải do ngôi nhà chúng ta, hay dân cư, hay những vật trang hoàng thuộc về tôn giáo; mà do giới Biệt Giải Thoát - gốc rễ của giáo lý. Nếu chúng ta không giữ giới một cách cẩn thận thì điều ấy chứng tỏ rằng giới đã diệt mất, mặc dù bên ngoài giáo lý ấy vẫn lan tràn như đất và đá.
Kinh Tam Muội Vương nói:
Người ta có thể với tâm thanh tịnh
Cúng dường mười triệu đức Phật.
Đồ ăn thức uống, bảo cái
Tràng phan và những dãy đèn
Trong vô số kiếp
Nhiều như cát sông Hằng
Nhưng vào thời mạt pháp
Khi diệu pháp sắp diệt
Ai thực hành giới dù chỉ một ngày đêm
Sẽ được nhiều công đức hơn trên.
Nói cách khác, trong thời đạy suy đồi thì giữ giới có nhiều công đức hơn là liên tục cúng dường ngày đêm cho chư Phật trong ba đời. Trong cõi người đau buồn này, thì một ngày giữ giới trong giáo lý của đức đạo sư Thích Ca Mâu Ni còn nhiều công đức hơn là nhiều kiếp giữ giới cũng lợi lạc hơn là ở đầu thời kiếp, giữ trọn vẹn tất cả giới căn bản; và giữ một giới vào thời mạt pháp còn có công đức hơn cúng dường nhiều Phật trong hàng chục triệu kiếp.
Mỗi nữa tháng chúng ta được một vị tỷ kheo đọc đoạn “Những người nào còn giữ giới sẽ được gặp chư Phật trong tương lai…” vị thầy làm việc này không phải để thi đậu, không phải ông đang lập lại đoạn ấy nhiều lần theo yêu cầu v.v… ông ấy đang làm việc ấy để kết thúc giục chúng ta nhớ lại.
Hãy nghĩ xem giữ giới có lợi gì. Mặc dù bạn tụng: “Mong cho tôi làm sáng chói tâm điểm của nền giáo lý lâu dài” hoặc “Mong cho nền giáo lý Đạo sư lan rộng,” nhưng trước hết trái tim của nền giáo lý phải sinh động ngay trong dòng tâm thức của riêng bạn.
Khi bạn không giữ giới, thì như kinh nói:
Đối với vài người, giới có nghĩa là hạnh phúc
Đối với vài người khác, giới có nghĩa là đau khổ.
Người nào giữ giới thì sẽ hạnh phúc
Người nào phạm luật lỏng lẻo thì đau khổ.
Và kinh Giới Thanh Tịnh nói:
“Này các tỳ kheo chẳng thà bỏ thân mạng mà chết, không nên thối đạo hay phá hỏng giới luật của ngươi. Tại sao? Nếu người tự bỏ mạng sống và chết đi, thì chỉ đời này của ngươi chấm dứt mà thôi. Nhưng nếu giới ngươi thối đọa hay bị phá hỏng, thì ngươi đã từ bỏ hạnh phúc trong hàng chục triệu kiếp, người sẽ mất chân đứng và phải kinh quá một sự sụp đổ to lớn.
hoangtri
06-07-2020, 07:56 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
Bạn sẽ trải qua đau khổ trong trăm ngàn kiếp tái sinh. Luật nói:
Người nào xem nhẹ giáo lý của đấng từ bi
Hay tách rời giới luật
Sẽ bị sa vào năng lực của khổ
Cũng như vườn xoài sẽ hư hoại
Khi tre bị đốn hết
Khi một người bất tuân lệnh vua
Họ có thể không bị trừng phạt
Nhưng khi họ làm quấy và phạm giơi của Phật dạy
Họ sẽ thành một con thú
Như đã xảy đến cho rồng Elavarna.
Trong đời này nếu bạn bất tuân lệnh của một ông vua có thế lực thì có thể bạn bị phạt có khi không. Nhưng nếu bạn vi phạm những giới luật mà đấng đạo sư từ mẫn đã đạt ra, thì bạn phải trải qua sự trừng phạt sau khi bạn chết như đã xảy ra như Elervana. Elervana chỉ có phạm một tiểu giới mà bị tái sinh làm một con rồng. Khi chúng ta bất chấp nhiều giới trọng, giới khinh và những giới phụ thuộc, thì không biết tái sinh kế tiếp của ta sẽ như thế nào?
Mặc dù chúng ta có thể chưa học nhiều về nền diệu pháp tối thượng sâu xa, song nếu chúng ta tuân giữ giới luật sa di hay tỷ kheo một cách nghiêm chỉnh trong dòng tâm thức thì chúng ta sẽ là những phần tử tăng già, chúng ta sẽ là những người bảo trì nền giáo lý. Không riêng chỉ sa di và tỷ kheo giữ giới, mà những cư sĩ thế tục cũng có thể giữ giới một ngày. Những điều ích lợi trong việc làm này được nói rõ trong những câu chuyện trong Truyền thừa Luật Tạng: Kinh Hiền Ngu v.v…
Bạn chỉ nên thọ những giới mà bạn nghĩ là mình có thể giữ được, như giới Bát quan trai, năm giới, bốn giới, ba giới, hay chỉ một giới. Ngay cả những người đã đi tu cũng nên giữ giới đại thừa một ngày, càng thường xuyên càng tốt; đấy chỉ là những giới trong một ngày nên bạn có thể giữ được một cách trọn vẹn.
Chúng ta luôn luôn tự cho là mình học ba môn học tăng thượng, nhưng chúng ta chỉ có trong dòng tâm thức hình ảnh mờ nhạt của Định và Tuệ mà thôi. Nhưng về Giới thì chúng ta có thể thật sự giữ giới Biệt Giải thoát, hơn thế chúng ta cần nên cố gắng làm việc này. Muốn giữ giới chúng ta phải đóng các cửa dẫn đến sự phạm giới. Có bốn cánh cửa như thế.
Cửa thứ nhất đưa đên sự phạm giới là vô minh. Nếu bạn không biết điều căn bản gì bạn phải giữ thì bạn sẽ không biết là bạn có phá giới hay không. Bởi thế muốn đóng cánh cửa này, bạn cần biết rõ. Hãy tham chiếu những bản văn cổ về luật tạng, những bài kệ tóm tắt các giới luật, những lời khuyên về ba thực hành căn bản thuộc luật tạng v.v… Ít nhất bạn cũng nên biết bảng liệt kê những học giới cần phải theo.
Sự bất kính cũng là một cánh cửa khác dẫn đến phạm giới. Bạn phải kính trọng giáo thọ sư và những bạn lành có hành vi phù hợp với pháp. Hơn nữa bạn nên có thái độ rằng giới luật trong dòng tâm thức của mình thay thế cho bậc đạo sư là phải, nên cần phải được tôn trọng. Đừng thờ ơ với giới luật, vì giới cũng như một thay thế cho bậc thầy của chúng ta sau khi ngài nhập Niết bàn.
Một cánh cửa khác đưa đến sự phạm giới là Vọng Tưởng Lớn nhất. Sự phạm giới theo liền bất cứ vọng tưởng nào lớn nhất trong ba là tham sân si. Nếu đàn áp kẻ thù, trước hết bạn phải hàng phục kẻ thù mạnh nhất - một viên tướng, anh hùng v.v…, cũng tương tự, bạn phải đối trị những vọng tưởng trong dòng tâm thức của mình. Khi những vọng tưởng lớn nhất của bạn là tham ái chẳng hạn thì hãy thiền quán về sự bất tịnh của thân xác: Xem nó như một túi đựng đầy đồ dơ; và phát triển thái độ nhìn nó dưới khía cạnh đầy máu, phình trương, bị sâu ăn, nó sẽ thành một bộ xương, v.v.. Để đối trị thù hận hãy thiền quán về từ bi. Để đối trị kiêu mạn, hãy nghĩ về những nỗi khổ trong sinh tử như già chết, nỗi bất trắc, sự liên tục lên voi xuống chó hoặc nghĩ về sự phân loại đầy đủ các yếu tố trong cơ thể. Hãy quán tưởng rằng nếu có nhiều vật trong thân thể bạn mà về chính nó bạn không biết gì cả như các uẩn, các giác quan, sự tác động giữa các cơ quan năng và cơ thể của các bạn v.v… - thì có bao nhiêu điều khác nữa bạn không biết. Đối trị si ám là thiền quán về duyên sinh; thiền quán về tánh không là cách thông thường để đối trị vọng tưởng.
Sự buông lung là một cánh cửa đưa đến phạm giới: bạn cần phải có chánh niệm không quên điều chỉnh lối hành xử vào một thời khắc trong ngày khi đi, ngồi, ngủ, ăn uống v.v… Thỉnh thoảng hãy kiểm lại xem thân lời ý của mình có bị hoen ố vì tà hạnh, có phạm giới hay không.
Bạn cần phải đóng những cánh cửa đưa đến tà hạnh hoặc đưa đến sự phạm giới: hãy làm điều này nhờ chánh niệm, tinh tấn, tàm quý. Nhưng thỉnh thoảng bạn vẫn có sự hoen ố vì những vi phạm, bởi vậy phải tham dự những lễ tịnh hóa v.v… thường xuyên để sám hối. Văn học cổ về luật tạng nói rằng bạn phải sám hối những tội nhỏ bằng ba việc: Ngồi ở chỗ sau cùng trong lễ tịnh hóa, tỏ sự kính trọng đối với những thành phần khác trong tăng đoàn, và tạm thời bị trục xuất khỏi nơi hành lễ. Tuy nhiên Ensapa và những đệ tử nói rằng người ta có thể tịnh hóa sự vi phạm những giới phụ và các tiểu giới nếu đủ sự hối hận và thực hành đầy đủ sự tự chế.
hoangtri
06-07-2020, 07:58 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN BỐN PHẠM VI TRUNG BÌNH _ Ngày thứ MƯỜI LĂM
__________________________________________________ ______________________________________
Những bậc thầy của chúng ta như Atìsha và Tsongkapa hiện thân của Đức Văn Thù và những đệ tử của các ngài đã từng đề phòng không để cho bất cứ giới nào mình đã thọ bị ô nhiễm vì tà hạnh. Chúng ta không thể giữ giới nghiêm túc đến mức ấy, và cũng không thể thực hành sự tự chế đến mức ấy, nhưng chúng ta có thể giữ bốn giới căn bản của cư sĩ, đồng thời từ bỏ rượu và giữ gìn những giới ấy như giữ chính tròng con mắt của mình.
Vì bạn thọ giới Biệt giải thoát trước hòa thượng, thầy truyền giới và tăng già nên bạn phải sám hối bất cứ sự vi phạm nào của bạn trước mặt chúng tăng.
Đây là lý do tại sao, khi bạn sám hối một mình thì bạn chỉ có thể sám hối tội lõi mà không thể tịnh hóa sự phạm giới, nên không lợi lạc bao nhiêu. Đừng coi thường những tiểu giới: nếu bạn không thể súc miệng sau bữa ăn, hoặc mang giày lúc không nên mang, hoặc đắp thượng y không đúng cách, thì làm sao bạn có thể giữ những giới khác? Những người tu sống thiếu uy nghi thì dù không phạm giới trọng hoặc vài giới phụ, họ vẫn làm hại cho tín tâm của người đời đối với Phật pháp. Bạn nên làm những lễ sám càng thường xuyên càng tốt, để sám hối các sự vi phạm những tiểu giới của bạn.
Khi bạn sửa soạn một bữa ăn trưa, hay pha trà, vân vân, bạn cần có sẵn một số vật dụng như bơ, muối, thịt, vân vân. Cũng vậy, muốn thành tựu sự tái sinh mà ta khát khao nhất trong những đời sau, thì thật không phải bạn chỉ cần thực hành một vài điều như giữ giới, bố thí mà đủ. Ngay cả những người đã xuất gia cũng cần thực hành bố thí, vân vân, ngoài sự giữ giới cho thanh tịnh.
Một số người tuyên bố: “Những kỷ luật của giới Biệt giải thoát thuộc về những người hạ căn: bởi thế những người thượng căn hoặc có căn cơ sắt bén thì không cần bị trói buộc vì những giới điều như vậy. Con đường mật tông là con đường nhanh và đã đủ cho những người này, vì con đường ấy xem ba độc như một phần của đạo lộ.” Họ không cho giới luật có giá trị gì, và hành động một cách liều lĩnh. Nhưng dù bạn theo mật tông và đã thọ giới Biệt giải thoát, thì bạn cần phải giữ giới thanh tịnh. Kinh Subahu thỉnh vấn về mật điển có nói:
Ta đấng Chiến thắng, đã dạy giới Biệt Giải thoát
Đừng bỏ thanh tịnh giới ấy.
Hỡi các cư sĩ mật tông, hãy bỏ tướng và nghi lễ (của tăng)
Nhưng hãy thực hành tất cả những gì còn lại…
Mật điển gốc của Văn Thù nói:
Đức Thích Ca Mâu Ni không dạy rằng
Những kẻ giới luật lỏng lẻo
Sẽ thành công về mật điển.
Đấy không phải con đường
Dẫn đến thành Niết bàn.
Làm sao những kẻ phàm phu xấu xa ấy
Thành công được về mật điển?
Làm sao những kẻ thiếu đạo đức
Có thể lên thượng giới?
Chúng sẽ không có hạnh phúc tối thượng.
Vậy làm sao người ta có thể nói
Chúng thành công về mật điển do Phật nói ra?
Có một số người hoàn toàn không có sự từ bỏ nào cả, cũng không có tâm bồ đề hay chánh kiến nào; vậy mà họ trải qua suốt đời thiền quán về sự vận hành có ý thức của tâm (xem Ngày Hai Mươi Hai). Điều này là một nỗ lực vô ích; may phước lắm thì nó cũng chỉ có thể thành bất động nghiệp.
(Khi ấy Rinpoche ôn lại những đề tài trên)
hoangtri
06-09-2020, 09:16 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY MƯỜI SÁU
Sau phần đọc truyền thống bản kinh văn cho ngày hôm nay, Kyabje Pabongka Rinpoche bảo làm thế nào ta nên điều chỉnh động lực tu tập của mình. Ngài nhấn mạnh ta nên thêm sự phát tâm Bồ đề ngoài sự phát nguyện từ bỏ, trích dẫn lời Tsongkapa vua Pháp của ba cõi: “Khi bạn đã phát triển tâm Bồ đề thuần tịnh cũng như tâm từ bỏ…” Ngài duyệt qua những đề tài đã bàn, và ôn lại phần tài liệu dưới tiêu đề “Xác Định Bản Chất Con Đường Đến Giải Thoát.”
Cái gì làm bạn xoay vần mãi trong bánh xe sinh tử? Đây là nghiệp, và nghiệp ấy được phát triển nhờ vọng tưởng. Vô minh là vọng tưởng căn bản, nên chính vô minh sản xuất nghiệp. Muốn nhổ gốc vô minh bạn phải thực hành tăng thượng tuệ học. Bạn phải chuẩn bị cho việc này bằng sự học tăng thượng định và tăng thượng giới; đấy là lý do nói rằng giới là căn bản của tất cả mọi đức tính.
Khi bạn đang còn phải đối trị vọng tưởng thì phải để cho vọng tưởng phát sinh rồi đối trị nó sau khi nhận diện ra nó. Việc này cốt yếu là làm sao cho cuối cùng bạn có thể nhận diện được vọng tưởng ngay cả lúc bạn đang tán tâm.
2.3. LUYỆN TÂM TRONG PHẠM VI LỚN CỦA ĐẠO LỘ
Có ba tiêu đề (1) dạy rằng bồ đề tâm là cửa ngõ duy nhất vào Đại thừa, cũng như dạy những lợi ích của bồ đề tâm; (2) làm thế nào để phát tâm bồ đề; (3) làm thế nào để khởi sự tu hành sau khi phát tâm bồ đề.
2.3.1. BỒ ĐỀ TÂM CỬA NGÕ DUY NHẤT CỦA ĐẠO LỘ; NHỮNG LỢI ÍCH CỦA BỒ ĐỀ TÂM
Trong những chương trên nói về Phạm Vi Nhỏ và Trung Bình, bạn đã được kích động để từ bỏ. Khi bạn đặt nỗ lực chính của mình vào ba môn học tăng thượng thì bạn chỉ có thành tựu được trạng thái giải thoát cho riêng mình, và chỉ chấm dứt được sinh tử riêng mình. Điều này chưa đủ tốt lành: bạn mới chỉ được một phần tự lợi và lợi tha, vì bạn chưa từ bỏ tất cả những gì cần phải từ bỏ và cũng chưa đạt đến tất cả những đức tính cần đạt. Về sau, bạn còn phải vào Đại thừa ở mức căn bản nhất. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã nói:
Luôn luôn từ bỏ nhị thừa
Không thể làm lợi ích cho thế gian
Và đi vào Cỗ xe Thiến thắng
Giáo lý đầy từ mẫn
Mà bản chất chính là lợi tha.
Geshe Potowa nói:
Đừng quay về lối cũ trên đường dài!
Hãy đi ngay từ đầu vào Đại thừa đạo.
Điều ấy cũng như phải qua sông hai lần. Nhưng còn hơn thế nữa. Những bậc la hán kinh quá một hỉ lạc bất khả tư nghì khi họ nhập vào cõi thanh tịnh đến nỗi họ ở mãi trong định an chỉ ấy trong nhiều kiếp không bao giờ muốn từ bỏ nó. Trong lúc ấy, có người đã từng sống ở địa ngục có thể đạt được thân người thuận lợi, đi vào đạo lộ đại thừa và dùng cùng một số lượng thời gian ấy để giác ngộ. Như vậy những vị La hán tự đặt mình cách xa một khoảng rất lớn với quả vị Phật. Giả sử có người đã học Đại thừa, phát sinh tâm ưa thích, nhưng lại bị tái sinh vào Địa ngục vì có tà kiến. Một người như vậy sẽ thành Phật mau lẹ hơn một người lúc đầu có khuynh hướng Đại thừa, nhưng về sau lại đi vào đạo lộ Tiểu thừa rồi chứng A la hán quả. Vậy tốt hơn nên làm hạng người thứ nhất.
Ví dụ, khi bậc thanh văn Ca Diếp đang giảng dạy về Pháp Tiểu thừa, có sáu mươi tỷ kheo đáng lẽ sẽ đắc quả A la hán, nhưng Đức Văn Thù liền đi đến nơi họ và dạy cho họ pháp Đại thừa. Giáo lý này quá sức họ, họ phát sinh tà kiến và rơi vào địa ngục. Ca Diếp hỏi đấng Đạo sư chúng ta về việc ấy, và Phật trả lời: “Đấy là phương tiện khéo của Văn Thù! Thật là một giáo lý tuyệt hảo.”
Cũng thế, khi chư Phật lạy các vị A la hán thuộc các đạo lộ Thanh văn và Duyên giác ra khỏi định an chỉ đầy hỉ lạc của họ, họ không nỗ lực phát triển những đức như bồ đề tâm trong dòng tâm thức vì họ đã quen thuộc với hỷ lạc của trạng thái an chỉ. Dù nổ lực, họ cũng khó thấy lòng bi mẫn, vân vân, vì họ đã thoát khỏi nỗi khổ riêng của họ. Hai đại đệ tử của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên nói: “Đấng đạo sư đã dạy về đạo lộ Đại thừa và quả báo Đại thừa. Những điều này thực kỳ diệu, nhưng chúng ta giống như những khúc gỗ đang cháy: chúng ta đã không thể làm nhiều hơn. “Nhưng hãy để ý: điều này không thực áp dụng cho những người như bậc thánh Xá Lợi Phất, vì đấy là những hóa thân của chư Phật dưới dạng Thanh văn. Lời nói này ám chỉ những hạng Thanh văn thực thụ. Những người quả có chướng ngại lớn cho sự đắc quảvô thượng bồ đề.
Bởi thế, khi ta đã đạt vài tuệ giác đi sâu vào sự từ bỏ, thì phải mau mau quyết định bước vào đạo lộ đại thừa. Chúng ta luyện tâm theo một phần của đạo lộ chung với Phạm Vi Trung Bình cố để phát triển sự từ bỏ trong dòng tâm thức, nhưng không thực sự để đi con đường của Phạm Vi Trung Bình. Luyện tâm bồ đề phù hợp với chương nói về Phạm Vi Lớn mới là phần chính của con đường tu tập; các Phạm Vi Nhỏ và Trung bình chỉ là một phần dẫn nhập, một bổ túc cho phận sự tổng quát của một bồ tát.
Vì việc đầu tiên phải làm trong sự khảo cứu đạo lộ thuộc Phạm Vi Lớn là hoan hỉ, nên truyền thống khẩu quyết trước hết bàn những lợi lạc của bồ đề tâm. Sau đó là cách những lợi lạc ấy được đề cập trong tác phẩm Lời Đức Văn Thù. Tôi sẽ nói về những lợi lạc ấy dưới mười đề mục: (1) cách duy nhất để vào Đại thừa là phát tâm bồ đề; (2) bạn được cái tên là “con của chư Phật,” (3) bạn sáng hơn cả Thanh văn và Độc giác; (4) bạn trở thành đối tượng cúng dường tối thượng; (5) bạn dễ dàng tích lũy một số lượng công đức khổng lồ; (6) bạn nhanh chóng tịnh hóa được tội lỗi và chướng ngại; (7) bạn thành tựu được bất cứ gì bạn muốn; (8) bạn không ngán vì những điều hại và chướng ngại; (9) không bao lâu bạn sẽ hoàn tất trọn vẹn con đường và những địa vị; (10) bạn trở thành một suối nguồn bất tận của mọi hạnh phúc cho các hữu tình.
hoangtri
06-10-2020, 05:38 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
a. Con đường duy nhất để vào Đại thừa là Phát Bồ Đề tâm.
Điều quyết định bạn đã vào hàng ngũ Đại thừa hay chưa, là bạn đã phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức bạn hay chưa. Tsongkapa nói:
“Pháp Đại thừa không mà thôi chưa đủ - con người phải thuộc vào Đại thừa. Bạn trở thành nột người đại thừa bằng cách có tâm bồ đề. Nếu bạn chỉ có hiểu về bồ đề tâm, thì bạn chưa phải là một người đại thừa cho lắm.”
Nếu bạn không có bồ đề tâm trong dòng tâm thức mà bạn lại tu tập chẳng hạn, các giai đoạn phát sinh và thành tựu trong mật điển Guhyasamàja, vua các mật điển, thì - ngoài cái sự nó không phải là nhân cho sự đạt giác ngộ - bạn còn không thể khởi tu con đường tích lũy công đức của Đại thừa. Và ngoài ra, một sự tu tập như thế lại còn không phải là một pháp Đại thừa nữa. Nhưng nếu bạn có tâm bồ đề, thì ngay cả việc tụng câu thần chú Om mani padme hum cũng là pháp đại thừa và là nhân cho sự giác ngộ của bạn. Long Thụ nói:
Nếu bạn ham thích vô thượng bồ đề
Cho bản thân và cho thế gian,
Thì hãy biết gốc rễ nó là một tâm bồ đề
Kiên cố như núi Tu di, vua các ngọn núi.
Nếu bạn không có tâm ấy, thì thiền định của bạn về giai đoạn phát sinh trong các mật điển cũng giống như nhìn vào một ngôi nhà của chư Thiên trong đồ hình; còn về những thiền định của bạn về giai đoạn hoàn tất, thì có câu: “Thở vào, giữ nó, đuổi nó ra…” Nói cách khác, những thực tập về luồng khí lực, v.v.. như thế cũng không tốt gì hơn thụt ống bể!
Tính nhanh chóng độc nhất của các mật điển là ở sự kiện nó làm tăng trưởng tâm bồ đề nhiều. Jangkya Roelpai Dorje nói:
“Tôi đã học Pháp với Purchog Ngagwang Jampa. Ngay cả khi Lama Jampa cho một pháp quán đảnh chính yếu, ngài cũng chỉ nói về Lam-rim trong phần giải thích pháp quán đảnh. Nếu người nào khác thấy việc này, họ sẽ cho rằng Lama Jampa không thể nói về các mật điển, nhưng kỳ thật lời ngài nói xuất phát từ sự liễu tri của ngài về toàn bộ yếu điểm của con đường.”
Một hành giả mật điển Hevajra không có tâm bồ đề đã đạt quả Dự lưu. Atìsha rất ngạc nhiên khi nghe điều này và nói: “Điều ấy chứng tỏ ông ta đã không có tâm bồ đề. Càng có nhiều người hơn đã thiền quán về Hevajra sẽ xuống địa ngục!” Tuy nhiên hành giả ấy đã làm khá tốt vì có nhiều người hơn thực hành phép tụng chú của nhiều vị thần phẫn nộ trong khi họ thiếu tâm bồ đề; họ đã tái sinh làm những ác ma hoặc vào địa ngục. Có câu chuyện về vị thần địa phương Chushur. Trước kia ông là một người làm những kỳ nhập thất lớn, nhưng về sau tái sinh làm một vị thổ thần. Nếu vị hành giả Hevajra đã đắc quả Dự lưu mà có tâm bồ đề, thì ông ta đã đạt giác ngộ ngay trong đời này. Thay vì thế, ông chỉ đắc một quả báo Tiểu thừa và không có một chút nhân nào để giác ngộ; giai do chỉ vì ông thiếu bồ đề tâm. Bởi thế bồ đề tâm là điều mà ta có thể gọi là “Pháp sâu xa.”
Tôi đã kể cho các bạn nghe những chuyện tương tự, như câu chuyện Bà la môn Chanakya, hoặc chuyện về hành giả Ấn Độ người thực hành mật điển Yamàntaka mà sau tái sinh làm một ác quỷ đi đến Tây Tạng chỉ để bị Atìsha cho ăn bánh lễ rồi đuổi đi. Chúng ta cũng có câu chuyện về hành giả mật điển Yamàntaka ở Paenpo tái sinh làm ngạ quỷ có hình thù giống vị thần ấy và lai vãng một lễ cúng đốt đồ ăn cho người chết tại nhà của thí chủ ông ta trước kia.
Ngày nay, nhiều người xem trọng những chuyện như trông thấy được chư thiên, có thiên nhãn hoặc những thần thông khác; nhưng nếu không có tâm bồ đề thì bạn vẫn có thể đi xuống các đọa xứ như chơi, và việc có thiên nhãn hay thần thông cũng không có ích gì lúc ấy. Khi bạn có tâm bồ đề thì có thể bạn không làm nhiều nỗ lực trong các việc khác, nhưng bạn vẫn có được gốc rễ của Pháp Đại thừa. Bất kể đề tài nào, dù thuộc kinh điển hay mật điển, là đại thừa hay không phải đại thừa, đều tùy thuộc vào sự kiện bạn có tâm bồ đề hay không. Nếu bạn đã có tâm bồ đề, thì dù chỉ cho con vật một nạm bột lúa mạch cũng sẽ là một cái nhân góp phần vào sự đạt toàn giác của bạn. Điều này cũng áp dụng cho mọi hoạt động hàng ngày mà bình thường chỉ có tính chất vô thưởng vô phạt. Những đại bồ tát còn có thể chuyển điều phi phước hành thành ra phước hành vì họ làm mọi sự kèm với tâm bồ đề.
Khi bạn không có tâm bồ đề mà gặp hoàn cảnh thuận tiện để tu tập trí tuệ liễu tri tánh không, thì hoàn cảnh ấy chỉ tác động như một cái nhân cho một trong ba loại giác ngộ của Thanh văn, Duyên giác hoặc Bồ tát; vì trí tuệ ấy như một bà mẹ. Nhưng khi bạn có tâm bồ đề, thì hoàn cảnh ấy sẽ tác động như cái nhân cho bạn đạt vô thượng bồ đề, thì hoàn cảnh ấy sẽ tác động như cái nhân cho bạn đạt vô thượng bồ đề mà thôi. Bởi thế bồ đề tâm như một người cha. Đấy là lý do gọi trí tuệ là “mẹ.”
Tóm lại: trừ phi bạn tuyệt đối không khát khao giác ngộ thì thôi, ngoài ra tất cả mọi người tu hành đều nên bấy bồ đề tâm làm pháp tu căn bản. Tất cả cái gì có giá trị - như những đức tính trong bất cứ thừa nào trong ba thừa - cuối cùng đều phát xuất từ bồ đề tâm. Nếu có ai hỏi pháp tu căn bản chư thiên ta là gì, ta có thể đáp, tôi tụng thần chú Hayagrìva, Yamàntaka, hoặc Kim cương thủ, nhưng kỳ thật phần đông chúng ta thường đã lấy ba độc làm pháp tu căn bản. Atìsha là một học giả về tất cả pháp ấy, mà ngài vẫn chưa thỏa mãn. Ngài vượt biển chịu nhiều gian nan trong mười ba tháng rồng để thụ giáo toàn triệt về bồ đề tâm với bậc thầy Suvarnadvìpi, và lấy bồ đề tâm làm pháp tu căn bản của ngài. Ngài kính trọng bậc thầy đã chỉ giáo cho ngài về bồ đề tâm hơn bất cứ thầy nào khác. Như Suvarnadvìpi là một người thuộc phái Duy thức (chittamatrin) nên tri kiến của ông về Tánh không không bằng Atìsha.
Vì lý do đó ta phải xem coi ta có thể phát triển tâm bồ đề trong dòng tâm thức ta không. Không có một đời tái sinh nào tốt để phát tâm bồ đề hơn là trong đời hiện tại này. Không có chỉ giáo về Pháp nào tốt hơn để cho ta đào luyện tâm bồ đề hơn pháp này. Tức Lam-rim. Khi xét những điều ấy, thì ta thấy thật vô cùng đáng tiếc nêu không làm gì để phát triển tâm bồ đề trong dòng tâm thức chúng ta. Khắp nơi có những người dùng suốt đời để tu tập những chuyện khó khăn như là ăn sỏi đá. Họ có thể tự hào là những hành giả chọn lọc, nhưng họ đã đi lạc ra khỏi con đường đưa đến toàn giác, vì họ không xem bồ đề tâm ra cái gì. Chuyện này thật quá thông thường.
Chúng ta phải xem ta có nghĩ rằng mình có thể thực thụ phát triển tâm bồ đề trong dòng tâm thức của mình hay không. Nếu không được như vậy thì chúng ta phải xem ta có thể được một vài kinh nghiệm gượng ép về tâm bồ đề, hoặc là xem chúng ta có được một chút tri kiến ở mức độ thấp về tâm bồ đề không. Đây là lý do người ta bảo rằng nếu ta không theo đuổi điều này như một đề tài thiền quán đặc biệt thì bao nhiều việc thiền định hay tụng đọc thần chú mà ta cố thực hiện sẽ chỉ là nỗ lực vô bổ. Thật đáng tiếc làm sao.
hoangtri
06-11-2020, 04:25 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
b. Bạn được danh hiệu là con của chư Phật.
Trong quyển Hành Bồ Tát Hạnh có nói:
Từ lúc những chúng sinh đáng thương
Bị vướng vào ngục tù sinh tử
Biết phát tâm bồ đề,
Là họ được gán danh hiệu
“Con của chư Phật.”
Và:
Ngày nay tôi đã được sinh vào dòng họ của Phật
Tôi đã trở thành người con Phật.
Như vậy, bạn có thể trở thành con Phật hay không chỉ tùy thuộc vào một điều này. Nếu bạn chưa phát tâm bồ đề thì bạn không phải là một Bồ tát, hay một người con của Phật, mặc dù bạn có thể là người có thần thông, có được ngũ minh, đạt được tri kiến trực tiếp về tánh không, hoặc đã hoàn toàn dứt trừ vọng tưởng. Bạn sẽ không được vào hàng ngũ của Đại thừa. Nhưng bạn đã phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức là bạn đã đã vào hàng ngũ Đại thừa, mặc dù bạn là một con thú, chẳng hạn như con chó hay con heo, hay cả đến một người không được cái gì và ngu ngốc như một con lừa.
Khi bạn phát tâm bồ đề, quả đất rung động và tất cả pháp tòa của chư Phật rung động, vì đại địa được sinh ra do cộng nghiệp của hữu tình, khi một người nào phát bồ đề tâm thì điều ấy quả đất không thể chịu đựng, nó rung lên vì người có bồ đề tâm ấy sẽ dẫn đạo nhiều hữu tình và gây nên một chấn động trong cõi sinh tử.
Chư Bồ tát xem bất cứ người nào phát tâm bồ đề như là anh chị em của họ. Chư Phật mười phương hoan hỷ như làm một vị vua chuyển luân khi có con kế nghiệp do đó người ấy trở thành người con của chư Phật. Nếu khi nào họ thối thất tâm bồ đề, tức là họ dã tự đóng cửa mình ra ngoài đại thừa. Trong quá khứ chúng ta đạt nhiều loại thần thông nhưng rốt cuộc chúng chẳng làm lợi ích gì cho ta cả; tốt hơn nên học hiểu Lam-rim. Có thần thông, thấu thị thật không phải là chuyện phi thường hay lợi lạc gì: Người ta bảo chúng ta nhận được những năng lực này trong cõi trung ấm sau khi ta giã từ mỗi kiếp tái sinh.
hoangtri
06-12-2020, 04:02 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
c. Bạn sáng chói hơn cả Thanh văn và Duyên giác
Một quyển Kinh nói:
“Như châu ngọc trong biển cả sáng hơn tất cả những đá sỏi của lục địa phương Nam, những người phát tâm bồ đề trong dòng thức của họ sáng chói hơn tất cả Thanh văn và Duyên giác.
Kinh về cuộc đời đức Di Lặc nói rằng cũng như một vị hoàng tử dù còn bé cũng hơn hẳn một toán đình thần lớn tuổi, hoặc như một con Kim sí điểu (Garuda) cũng hơn một bầy chim khác, một vị bồ tát đã phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức sáng chói hơn toàn thể Thanh văn và Duyên giác. Đấy là nhờ năng lực lòng vị tha. Hơn nữa dù một viên kim cương có vết cũng vẫn được gọi là kim cương, vẫn sáng chói hơn những thứ ngọc khác và vẫn là một tài sản cho bạn. Cũng tương tự, những người đã phát tâm bồ đề có thể chưa tu tập những việc làm của người con Phật, nhưng họ vẫn được gọi là con của đấng Chiến thắng do tâm bồ đề trong dòng tâm thức của họ. Trong tất cả sự tích lũy đức hạnh, sự tích lũy của họ tốt nhất, sáng chói hơn tích lũy công đức và trí tuệ của Thanh văn, Duyên giác. Và người ta bảo rằng sự nghèo khó trong sinh tử đều được xua tan bởi tâm bồ đề.
Một mình tâm bồ đề nên được xem như là tinh túy của tám muôn bốn ngàn pháp tụ. Atìsha nói: “Hãy từ bỏ đời này! Hãy chỉ quen thuộc với từ, bi và tâm bồ đề.”
d. bạn trở thành mục tiêu tối thượng của sự cúng dường
Khi bạn phát triển bồ đề tâm trong dòng tâm thức, “thì nhân loại và chư thiên đều chắp tay cung kính.” Nói cách khác, bạn trở thành một mục tiêu tối thượng cho sự cúng dường của chư Thiên và loài người. Tuy nhiên bạn không phát tâm bồ đề càng luyện tâm ấy trong một thời gian ngắn. Ngay cả Atìsha vĩ đại cũng đã luyện tâm ấy trong 12 năm. Hãy nhìn những người chỉ thiền quán về chư thiên và tụng chú, mà cũng kiên trì vào những việc ấy trong nhiều năm, thế thì chúng ta lại càng nên cố gắng nhiều hơn để phát tâm bồ đề. Những người phái Kadampas ngày xưa nói rằng mọi người đều có những hình ảnh chư thiên để quán tưởng, mỗi người đều có thần chú để tụng; nhưng điều đáng buồn là không ai có một pháp nào để tu.
Điều cốt yếu là bạn cần phải gieo vào tâm thức càng nhiều bản năng về bồ đề tâm càng tốt. Ngày xưa có 500 con ngỗng chỉ nhờ nghe tiếng nói của Phật mà được tái sinh làm chư Thiên. Vua A xà thế có được bản năng mạnh mẽ về tánh không. Một ngày kia vào buổi trưa ông cố dâng cúng Đức Văn Thù những tấm y trị giá một ngàn lượng vàng, nhưng ông không cúng được, bởi vì ngài biến mất. Chính vua khi mặc những tấm y và ông cũng tan biến. Điều này khiến ông thực chứng được tánh không. Điều này xảy ra là do một bản năng về tánh không đã gieo vào ông trong đời quá khứ.
Phạm vương, Đế thích… đều đến cúng dường khi một người phát tâm bồ đề; đem lại cho họ vẻ sáng chói của chư Thiên và giúp họ thỏa mãn những ước nguyện. Người ta cũng bảo rằng ngay cả chư Phật cũng tôn trọng những vị Bồ tát bởi vì các ngài cũng đã từng là Bồ tát và đã từng đào luyện tâm bồ đề. Trong Kinh cũng nói:
“Nên tôn trọng vừng trăng mới mọc hơn là vừng trăng tròn. Cũng thế, người nào tôn trọng ta hãy nên kính lễ các vị Bồ tát thay vì kính lễ các đức Như Lai… Khi một vị Bồ tát bước lên một chiếc xe, thì chư Phật sẽ cung cấp cho họ các khoái lạc năm giác quan, và làm cho họ vui thích. Nếu không có ai đẩy xe thì chính chư Phật sẽ kéo xe ấy với một sợi dây cột quanh cổ của các Ngài.”
Người ta bảo rằng những bậc thánh như Xá Lợi Phất dù nhập vào định tịnh chỉ hoàn toàn trong nhiều kiếp mà chư Phật cũng không kính trọng nhiều đến thế.
Ngay cả những chuyện như sau đã được kể. Có lần đức Phật không cúng cho Đức Văn Thù miếng đầu tiên của phần ăn khất thực trong bình bát của ngài, nên cái bát bị đất nuốt mất tiêu.
hoangtri
06-17-2020, 04:59 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
e. Bạn dễ dàng tích lũy một số lượng công đức khổng lồ.
Nyugrumpa nói:
“Khi một người tìm cách phát triển được một ít bồ đề tâm thì điều ấy đã xây dựng được sự tích lũy công đức đầu tiên, tịnh trừ được những chướng ngại của họ.”
Tsongkapa nói:
Như hòn đá của một bậc hiền trí
Cho hai sự tích lũy:
Bồ đề tâm đem lại cho bạn công đức
Để tập hợp một kho lớn đức hạnh.
Và muốn thâu nhặt một kho công đức lớn bằng cách dễ dàng, Shantideva giải thích:
“Nó giống như viên đá của bậc hiền trí tối thượng:
Vì nó biến thân thể bất tịnh của bạn
Thành một cái gì vô giá -
Đó là thân của một đức Phật.
Bởi thế hãy luôn luôn duy trì điều này
Mà chúng ta gọi là Bồ đề tâm…
Những đức hạnh khác giống như cây chuối
Một khi đã có quả thì không còn sanh thêm quả
Bồ đề tâm giống như một cây sống
Tiếp tục tăng trưởng và kết trái.
Nói cách khác, không có gì tốt hơn bồ đề tâm để hoàn tất sự tích lũy công đức. Nếu bạn bố thí cho hàng trăm ngàn chúng sinh trong hàng trăm ngàn kiếp và làm đầy hàng tỷ thế giới với ngọc ngà châu báu để bố thí mà không có tâm bồ đề, thì nghiệp báo của việc này cuối cùng cũng sẽ đi đến chấm dứt. Nó cũng không phải là việc của bồ tát và sẽ không làm nhân cho bạn thành Phật quả. Nhưng với tâm bồ đề mà bạn cho con chó một miếng ăn, thì quả báo của hành vi ấy sẽ không bao giờ cùng tận. Đấy sẽ là việc của người con Phật và sẽ là một cái nhân cho bạn thành Phật. Nếu với tâm bồ đề bạn đốt dù chỉ một cây hương để dâng cúng, người ta bảo công đức cũng bằng như cúng cho tất cả hữu tình mỗi người một cây. Nếu bạn có tâm bồ đề mà chỉ tụng đọc một câu Om Mani Padme hum thì lợi lạc ấy bằng sự lợi lạc của thần chú ấy một số lần bằng số lượng của tất cả hữu tình.
Vào thời Phật có lần một người ăn mày đã cúng Phật một cây đèn dầu nhỏ kèm với tâm bồ đề. Đức Anan đã không dập tắt được cây đèn ấy. Như Lai đã nói rằng ngay cả ngọn cuồng phong thời kiếp tận cũng không thể thổi tắt được nó do sự tăng trưởng liên tục của công đức.
Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Bất cứ ai giữ giới này
Để hoàn toàn giải thoát
Vô lượng hữu tình đủ hạng
Sẽ không còn lui sụt
Vì có tâm bồ đề.
Họ dã phát bồ đề tâm thuần tịnh
Sau đó, dù ở trong giấc ngủ
Vào lúc không canh chừng.
Công đức của bạn sẽ có năng lực,
Phước đức đến với họ luôn luôn
Và trở thành to lớn như hư không.
hoangtri
06-17-2020, 05:01 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác một khi bạn đã phát tâm bồ đề hoặc trong tâm nguyện, hoặc là dưới hình thức dấn thân, bạn sẽ được nhận một dòng thiện đức liên tục, ngay cả trong lúc ngủ hoặc khi không để ý. Nếu muốn làm cho một hữu tình hết cơn đau đầu đã là một điều lợi lớn, thì làm sao ước nguyện giải thoát tất cả hữu ình ra khỏi vô lượng khổ đau và bệnh tật lại không công đức? Quyển Hành Bồ Tát Hạnh cũng nói tương tự.
Nếu tư tưởng giải thoát chúng sinh
Thoát khỏi cơn đau đầu
Là một tư tưởng lành
Khiến người ta có vô lượng công đức,
Thế thì cần gì nói đến
Ước nguyện giải cứu tất cả hữu tình
Thoát khỏi vô lượng đau khổ,
Bằng cách dạy họ phát triển mọi điều lành?
Đem thực phẩm cho một ít chúng sinh,
Hành vi bố thí thức ăn
Chỉ kéo dài chốc lát,
Vậy mà người làm đầy những cái bụng trong nửa ngày
Cũng được ca tụng là người có đức hạnh,
Huống gì một người
Trải qua một thời gian dài nỗ lực,
Làm thỏa mãn tất cả ước vọng
Của vô lượng hữu tình
Bằng phúc lạc vô song của các đấng Thiện Thệ?
Nói tóm lại, khi bạn được điều động bởi tâm bồ đề, người ta bảo rằng công đức nào bạn làm sẽ đem lại cho bạn một số lợi lạc bằng số lượng của hữu tình.
hoangtri
06-20-2020, 03:44 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
f. Bạn nhanh chóng tịnh hóa các tội lỗi và chướng ngại
Không gì hơn tâm bồ đề để tịnh hóa tội lỗi.
Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Bất cứ tội lỗi có năng lực lớn lao khó dung tha nào
Cũng sẽ mạnh hơn bất cứ đức hạnh nào
Ngoài trừ bồ đề tâm tối thượng.
Nếu là bạn có thể phạm một tội lỗi to lớn không cách nào sám hối, nhưng tội ấy sẽ tiêu tan nếu bạn phát tâm bồ đề. Điều này được chứng minh bằng câu chuyện của bậc thánh Vô Trước. Trong một sát na khởi tâm đại bi ngài đã tịnh hóa nhiều tội lỗi nghiệp chướng hơn cả mười hai năm tu tập các thiện hành. Hơn nữa:
Bạn có thể có vài tội khó dung tha,
Nhưng khi bạn nương vào tâm bồ đề
Bạn sẽ giải thoát ngay khỏi tội lỗi,
Cũng như bạn thoát khỏi nguy hiểm lớn lao
Khi nương tựa một vị anh hùng.
Ai là người phòng xa
Lại không nương tựa tâm bồ đề?
Nói cách khác, cũng như bạn không cần sợ một cuộc phục kích khi đi ngang qua đường hiểm nếu bạn đi chung với một người rất dũng cảm, bạn cũng không sợ hậu quả của tội lỗi và chướng ngại nếu có bồ đề tâm.
Tội lỗi lớn chắc chắn tiêu tan trong một chốc
Như bị đốt trong ngọn lửa thời kiếp tận.
Nghĩa là, dù bạn có một đống tội lỗi cao ngất, nó cũng được tịnh hóa như thể đốt cháy trong đống lửa ở cuối thời kiếp.
Vì những lý do ấy, muốn phá hũy tội lỗi của bạn, tốt hơn nên thiền quán về tâm bồ đề một thời gian hơn là cố gắng trăm năm để tịnh hóa những tội lỗi ấybằng phương tiện khác không có tâm bồ đề.
g. Bạn thành tựu được bất cứ gì bạn muốn
Khi phát tâm bồ đề, bạn thành tựu được môt cách không khó nhọc tất cả mọi ước muốn tạm thời và tối hậu. Điều tốt nhất nên mong muốn sẽ là mong tất cả hữu tình từ bỏ những khổ đau họ không muốn va hành tựu được hạnh phúc mà họ mong muốn. Hành Bồ Tát Hạnh nói:
“Với bồ đề tâm, vô biên hữu tình sẽ dễ dàng đạt đến hạnh phúc tối thượng.”
Nếu bạn đã phát triển tâm bồ đề trong dòng tâm thức thì bạn dễ dàng thành công trong những việc mà người thường sẽ thất bại, như là biết thần chú hay mật chú để làm mưa, chấm dứt mưa đá, v.v… Người thường không làm được do thiếu bồ đề tâm. Như vậy nếu bạn muốn trừ bệnh cho mình và cho người khác và muốn có khả năng lớn hơn, bạn sẽ phát tâm bồ đề. Không nên nghĩ rằng chỉ giáo về lời chú là không linh nghiệm vì không có tác dụng đối với bạn.
Bạn không cần nhờ đến thần chú hay những đồ phụ tùng về mật tông. Bạn có thể làm những việc này bằng cách chỉ cần thốt lên một lời thề: Bồ tát Sadà Prarudita làm cho thân thể của ông lành lặn trở lại bằng một lời thề như vậy. Có lần ở Lhasa con sông Kichu sắp tràn bờ không ai ngăn nổi. Ngài Moenlam Paelwa viết những chữ này trên những tảng đá: “Nếu tôi thực sự là một bồ tát thì nước hãy rút xuống!” Ngài đem tảng đá ấy đến bờ sông và nước liền rút. Ngài đã ngăn được cơn lũ lụt nhờ thốt lên những lời thề ấy.
Như vậy với bồ đề tâm, bạn có thể thành tựu điều thù thắng nhất, ước muốn chính của bạn tức là trạng thái toàn tri; bạn cũng sẽ thành công trong những bùa chú lặt vặt.
hoangtri
06-20-2020, 03:47 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
h. Bạn không ngán vì những chướng ngại hay điều hại
Khi một vị vua chuyển luân đi ngủ, ông ta được canh gác bởi Kim cương Thủ, Pham vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương. Nhưng những bồ tát có nhiều người che chở gấp hai lần vua chuyển luân, và bồ tát được che chở cả đêm lẫn ngày. Họ không bao giờ bị hại, không bao giờ bị ác ma quấy nhiễu. Nếu chúng ta không có tâm bồ đề mà hô triệu quần thần linh bằng trống kèn để che chở cho ta, chúng ta không chắc họ có đến thực không. Nhưng nếu chúng ta đã phát tâm bồ đề, thì dù không mời Tứ Thiên vương vẫn đến canh gác cho ta như những tôi tớ trung thành. Kinh Trái Rơm nói:
“Nếu bạn thoa vào thân thể thuốc trị bá bệnh thì không một bệnh gì có thể hại bạn. Nếu bạn dùng vua của các loại thuốc hoa, rắn sẽ tránh bạn. Nếu bạn dùng thứ dược vương làm cho kẻ khác trở thành vô năng, kẻ thù không thể làm gì bạn. Cũng thế khi bạn có tâm bồ đề, bạn không lây bệnh vọng tưởng, vân vân.”
Khi geshe Kamlungpa sống ở Yungwai Pur thuộc miền Paenpo, trải qua thời gian để thiền quán về bồ đề tâm, phi nhân ở vùng ấy muốn tấn công ngài nhưng một con ma nói: “Ổng thương ta còn hơn chính bản thân. Ổng khóc mãi. Làm sao ngươi có thể nghĩ đến chuyện làm hại ông ta?”
Bậc Đạo sư đầy từ mẫn của chúng ta đánh bại đạo quân ma nhờ năng lực của từ bi nơi Ngài. Năm Dạ xoa không thể giết những người chăn bò trong cung vua Maitrobala vì lòng đại bi của vua.
Vua Pehar cúng cho Butoen Rinpoche là Lama Dampa những cây bút sắt để viết trên đá bảng nhưng vua lại không thể cúng cho Ngulchu Togme Sangpo (xem Ngày Hai Mươi Mốt). Và có lần Butoen Rinpoche bị ốm, ông ta mời Ngulchu Togme Samgpo đến. Vị này thiền quán về tâm bồ đề làm cho ông ta đỡ đau.
Những chuyện như thế làm sáng tỏ vô số lợi lạc ngoài sự không bị quấy nhiễu bởi những hiểm nguy và chướng ngại. Chỉ cần nói rằng những người đã thiền quán về tâm bồ đề không bị phiền nhiễu về phi nhân cũng đủ.
i. Bạn nhanh chóng hoàn tất mọi giai đoạn của đạo lộ
Khi bạn theo đuổi thiền định về chính kiến mà không có tâm bồ đề, bạn chỉ có thể thành tựu sự tích lũy về căn bản trí mà không tích lũy công đức. Chính nhờ năng lực tâm bồ đề tương đối mà bạn hoàn tất được hai thứ tích lũy và trừ được hai thứ chướng ngại (là tri chướng và hoặc chướng hay sở tri chướng và phiền não chướng - DG), cùng với những bản năng (tùy miên) của chúng. Nếu bạn có tâm bồ đề, bạn có thể giác ngộ trong một đời nhờ các mật chú, nhưng nếu không tâm bồ đề, thì bạn còn không thể đạt được cả đến trình độ thấp nhất của đạo lộ Đại thừa về sự tích lũy, dù có sử dụng mật điển.
Nói tóm lại, khi bạn có bồ đề tâm, gốc rễ của sự tu tập tất cả thiện pháp; thì mọi đức hạnh bạn làm, ngay cả việc cho con quạ một miếng ăn, cũng làm nhân cho sự thành Phật của bạn; bởi thế mà nói, bạn sẽ nhanh chóng hoàn tất con đường tu tập.
k. Bạn trở thành một nguồn suối dồi dào hạnh phúc cho kẻ khác.
Tác phẩm Hành Trung đạo nói:
Chư Phật nhiều năng lực
Đã sản xuất được Thanh văn, Độc giác
Nhưng chính chư Phật
Lại từ Bồ tát mà phát sinh ra…
Nói cách khác, tất cả hạnh phúc trên thế gian, tất cả Thanh văn, Độc giác, Chuyển luân Thánh vương, vân vân đều do năng lực của chư Phật mà có. Chư Phật thì phát xuất từ bồ tát. Bồ tát phát xuất từ bồ đề tâm. Không những bồ đề tâm là gốc rễ duy nhất của tất cả hạnh phúc hữu tình, mà nó còn là tinh chất của tám muôn bốn ngàn pháp. Đấy là pháp tu chính yếu mà những người con Phật tập trung vào. Sự thù thắng của các mật điển phát sinh từ năng lực của tâm này.
Geshe Dromtoenpa hỏi thăm một người về tin tức ba anh em Kamdampa; người ấy nói với Drom về từng người một và những hoạt động về Pháp của họ. Drom nói: “Thật tuyệt! Thật cả ba đều tuyệt vời!” Rồi người kia nói về Geshe Kamlungpa: “Ông ta sống trên đầu một cái vực. Đôi khi mắt ông hơi nhắm; đôi khi ông khóc. Đấy, ông ta chỉ làm chừng ấy việc.” Drom chắp hai tay và nói: “Ngài chính thực đang tu tập diệu pháp!”
Hành Bồ Tát Hạnh nói: “Đó là chất đề hồ (bơ) rút được nhờ nhào nặn sữa Diệu Pháp.” Nghĩa là, bồ đề tâm là tính chất của các pháp. Bởi thế tôi xin mọi người hãy bất cứ phương pháp nào có thể, để phát sinh được tâm bồ đề.
Một giáo lý phải là đại thừa hay không là do trong đó có bồ đề tâm hay không. Hãy gạt sang một bên tất cả những pháp khác mà mọi người cho là sâu xa vi diệu, và chi thực hành tâm bồ đề một cách nghiêm chỉnh. Nhưng có nhiều hành giả thuộc mọi phái Sakya, Gelug, Kagyu, và Nyingma không hiểu được điểm này, mà vẫn mong muốn Phật quả. Họ thiền quán về hai giai đoạn của mật điển, bất cần bồ đề tâm, mà vẫn muốn tiến nhanh trên đạo lộ. Họ hành động như một người “có cục bướu dư thừa trên cần cổ quý báu” như câu tục ngữ nói. Chư Phật trong ba đời không vị nào thành Phật mà không cần tâm bồ đề là chuyện chưa ai từng nghe tới. Bởi thế, ai không có tâm bồ đề thì sẽ không đạt thành Phật quả mong cầu; và nếu họ thiếu bồ đề tâm tức là họ không có mong cầu đạt thành Phật quả. Bởi thế bạn phải xét điều này một cách nghiêm túc.
Giáo thọ Rego nói với Drubkang Geleg Gyatso: “Mỗi khi ông đến, chúng ta sẽ nói chuyện về tâm bồ đề. Chắc chắn tôi sẽ được một ngày vui. Những câu chuyện như thế đối với người bây giờ thực hoàn toàn xa lạ.”
Trong chúng ta rất ít người thực hành bồ đề tâm. Một vài người nói: “Bồ đề tâm thật khó phát” và bởi thế gạt qua bên một chuyện phát tâm bồ đề. Những người khác lại nói: “Đấy là phần thông thường của Đại thừa; chúng tôi thiền quán về những đề tài sâu xa hơn như hai giai đoạn của mật điển Du già tối thượng: và cũng dẹp tâm bồ đề qua một bên. Chuyện này cũng giống như một người đi tìm viên ngọc ước trong một vũng bùn do dấu chân trâu để lại thay vì đi tìm trong biển cả. Đức Tsongkapa nói:
“Vì hiểu như vậy nên những người con anh dũng của chư Phật đã lấy tâm bồ đề quý vô thượng này làm pháp tu chính yếu của họ.”
Như vậy, chỉ có bồ đề tâm được ca tụng như là pháp thực hành căn bản. Ngày nay một số người thường bảo rằng pháp tu căn bản của họ là quán một vị thần nào đó. Những người khác lại bảo họ chuyên môn về sách thiên văn của Trung Quốc. Những người khác thì tụng chú v.v… để giải quyết những vấn đề riêng tư. Nhưng bạn sẽ không bao giờ thành tựu Phật quả nếu bạn không có bồ đề tâm.
Atìsha nghĩ rằng Suvarnadvìpi là bậc thầy tốt nhất trong những bậc thầy của ngài. Và khi ngài ốm, ngài đã bảo đệ tử Dromtoenpa: “Tâm của ông hiền thiện; ông hãy gia trì cho tôi.” Atìsha muốn nói đến tâm bồ đề.
(Kyabje Pabongka Rinpoche kể câu chuyện về bậc thầy Pháp Hộ lúc trước là một người theo phái Tỳ Bà Sa, về sau trở thành một người theo Trung quán nhờ tâm bồ đề của ngài.)
Những thiện sự của Atìsha lan xa và rộng ở Ấn cũng như ở Tây Tạng đều là nhờ năng lực tận tụy của ngài đối với những bậc thầy và tâm bồ đề của ngài. Như những người phái Kadampas ngày xưa nói:
“Bạn có thể đạt đến mức tịnh chỉ sâu xa đến đạo lộ trống đánh bên tai cũng không nghe, những điều ấy vô ích nếu bạn không có tâm bồ đề.”
Bậc thày Rahulagupta cũng nói:
“Dù có thấy được hình ảnh các vị thần bảo hộ, dù đạt được các thần thông và thiên nhãn, hoặc có được định lực vững như núi cũng không ăn thua gì. Hãy thiền quán về tâm từ và tâm bi!”
Trong các kinh điển, bồ đề tâm được xem như xe báu của Chuyển luân hay sinh lực của một người nào đó, hay như những bàn tay.
Trong quyển Dòng Tương Tục Vi Diệu của Đại thừa nói:
“Sự quý mến Tối thượng thừa là hột giống của trí tuệ, đó là bà mẹ sinh ra chư Phật.”
Điều này được ví dụ như sau. Một người cha có tác dụng như nguyên nhân quyết định của một dòng họ, còn bà mẹ giống như một nguyên nhân không thể quyết định. Bồ đề tâm quý báu như thế, như nguyên nhân quyết định để thành Phật; còn trí tuệ đạt được tánh không là nguyên nhân bất định cho bất cứ loại giác ngộ nào trong ba loại (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát) bởi thế trí tuệ về tánh không là nhân cho sự Giác ngộ trong bất cứ cỗ xe nào tình cờ bạn gặp, như Đại thừa và Tiểu thừa. Như vậy, người nào chỉ có hiểu biết về bồ đề tâm cũng được giác ngộ sớm hơn một người thiếu tâm bồ đề mà thiền quán về các pháp Đại thủ ấn, Dzogchen (thiền đốn ngộ), hay quán về một bộ loại chư thần. Tâm bồ đề là cốt tủy, và đây là thông điệp của đức Atìsha vĩ đại, một người thấu triệt tất cả nền diệu pháp và đã tu tập bồ đề tâm. Ngài nói: “Hãy thiền quán về từ, bi, và tâm bồ đề.”
Vì lý do ấy, đừng đặt hết hy vọng của bạn vào việc thiền quán về chư thần và tụng chú mà thôi. Bạn phải nỗ lực về bồ đề tâm. Phát triển tinh túy này của Phật pháp trong dòng tâm thức bạn đã là chuyện đáng nỗ lực để làm và bạn chắc chắn sẽ phát tâm bồ đề nếu bạn thiền quán về tâm ấy, vì các pháp hữu vi không luôn luôn cố định; nguyên nhân chính sẽ phát sinh hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên trước khi Atìsha đến Tây Tạng, thì ở Tây Tạng đã hiện hữu một nghi lễ để truyền trao sự phát bồ đề tâm. Khởi đầu buổi lễ, mọi người sẽ tụng: “Tôi sẽ đạt thành Phật quả vì lợi ích của tất cả hữu tình đã từng là mẹ của tôi.” Họ đã thay thế bồ đề tâm bằng công đức suông. Muốn phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức của bạn, bạn phải luyện tâm: Nếu không có sự luyện tâm thì thật khó để làm ngay cả cái việc làm quen với tâm bồ đề, chứ đừng nói đến sự phát sinh trong tâm bồ đề một cách tự nhiên như kiểu bạn được trao truyền giới Biệt giải thoát. Một lần Atìsha đã nói với những người Tây Tạng một cách mỉa mai rằng “Những người mà người người Tây Tạng các ông xem là bồ tát thật chưa từng biết đến từ hay bi gì!” Những người Tây Tạng hỏi lại: “Thế thì chúng tôi phải làm sao?” Ngài trả lời: “Hãy tu tập theo từng giai đoạn.”
Phát bồ đề tâm mà không phải trải qua lòng thương xót rộng lớn thật là điều hoàn toàn bất khả, nên bạn cần phải luyện tập tâm qua từng giai đoạn.
hoangtri
06-23-2020, 09:07 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
2.3.2. CÁCH PHÁT TÂM BỒ ĐỀ.
Có hai tiêu đề phụ: (1) Luyện tâm nhờ chỉ giáo về nhân quả gồm bảy phần; (2) Luyện tâm nhờ đổi địa vị mình với kẻ khác.
“Chỉ giáo về nhân quả gồm 7 phần” khởi đầu bằng cách nhìn hữu tình đều đáng mến. Đây là phương pháp được sử dụng bởi Atìsha, Chandrakirti, Chandragomin, Shantarakshita, và những người khác. Hệ thống của Shantideva là luyện tâm bằng sự đổi địa vị mình với người khác. Bạn có thể phát tâm bồ đề bằng luyện tập theo một trong hai cách chỉ giáo này, vì đấy là những hệ phái bắt nguồn từ đấng đạo sư được truyền xuống qua Di lặc và Văn Thù.
Tác phẩm Ngọn đèn soi đường của Atìsha và những tác phẩm của ngài đưa ra những chỉ giáo của Suvarnadvipi, bậc thầy đã gìn giữ cả hai dòng chỉ giáo nói trên. Hệ thống 7 phần nhân quả rất thịnh hành vào thời các phái Nyingma và Kadampa, nhưng những chỉ giáo về sự đổi địa vị mình với người thì được truyền trong vòng bí mật. Bằng cách ấy, sự truyền thừa của nó xuống đến Tsongkapa. Giáo lý của Ngài dạy cách luyện tâm trong cả hai loại chỉ giáo; bạn phải thực hành phối hợp cả hai cách. Tuy nhiên mặc dù hai cách này phải được phối hợp trong sự thiền quán của bạn, khi bạn luyện để có tâm bồ đề thì hai phương pháp này lại được thảo luận riêng rẽ.
Có tám đoạn trong.
a-1. Sự Luyện Tâm nhờ những chỉ giáo nhân quả 7 phần.
(1) Xả vô lượng; (2) Hiểu rằng tất cả hữu tình là mẹ của mình; (3) Nhớ lại sự tử tế của họ; (4) Trả ơn họ; (5) Tâm từ để nhận thấy sự dễ thương của họ; (6) Tâm bi; (7) Tâm vị tha; (8) Tâm bồ đề.
Sáu điều từ (2) đến (7) là nhân; đưa đến quả bồ đề tâm. Đấy là cách tất cả những điều ấy tác động như nhân và quả; nhưng trước khi bạn có thể phát sinh ước muốn thành Phật để lợi lạc tất cả hữu tình, bạn phải có tâm vị tha để đảm nhận trách nhiệm đem lại an vui cho mọi người. Hơn nữa, bạn không thể phát triển tâm vị tha nếu bạn không có lòng bi mẫn đến độ không thể chịu nổi thấy mọi hữu tình đang bị nỗi thống khổ dày xéo. Muốn phát sinh tâm bi thì bạn phải phát sinh tâm từ nhờ năng lực lôi cuốn bạn đến với hữu tình như là con cái ruột thịt của mình. Trước khi có được tâm ấy bạn phải xem tát cả hữu tình như người thân, đối với họ bạn có sự lôi cuốn mà bạn không có đối với kẻ thù. Vì hình ảnh thân thiết nhất của bà mẹ, nên bạn sẽ thương yêu tất cả hữu tình nếu bạn có thể chứng minh họ quả thực là những người mẹ, nhờ lại sự tử tế của họ, và mong muốn đền đáp.
Đó là lý do chỉ giáo này được gọi là chỉ giáo về “nhân quả,” vì mỗi bước là điều kiện tiên quyết cho bước kế. Không nên thiển cận nghĩ rằng tiến trình này quá dài: bạn chắc chắn có thể phát tâm bồ đề nếu luyện tập theo những bước ấy. Những chỉ giáo của phái Kadampas thường rất sâu sắc, nhất là đối với giáo lý của Tsongkapa: ngài đã thụ giáo trực tiếp từ Đức Văn Thù, những giáo lý này đề cập toàn bộ kinh giáo và mật giáo một cách hoàn toàn vô cấu. Họ còn sâu sắc hơn cả những tiền bối của họ. Bậc tôn sư tôi, nơi nương tựa, người che chở tôi, nói:
“Dường như những giáo lý ở Tây Tạng trong quá khứ đã sửa soạn mảnh đất cho giáo lý của Tsongkapa tiếp theo như vàng ròng.”
Tagtsang Lotsawa nói:
Con ca tụng kho tàng hùng biện chưa từng có của thầy
Về tất cả kinh giáo và mật giáo
Nhưng nhất là về Kim cang thừa;
Về tất cả loại mật điển
Nhưng nhất là mật điển tối thượng;
Về tất cả mọi phần của hai giai đoạn.
Nhưng nhất là về thân huyễn.
Hoặc, như Dzogchen Paelge nói: “Ôi hỡi Tsongkapa, ngài là nguồn suối hùng hồn của kinh điển và mật điển…” Những lời ca tụng này xuất phát từ những vị tu chứng rất cao.
“Trao truyền Phật quả” dường như là hơi nhiều, dù là trao truyền địa vị thấp nhất trong đạo lộ tích lũy đã là chuyện khá khó khăn. Nhưng bạn lại được truyền trao quả Phật nếu bạn nương vào Lam-rim. Tuy nhiên bạn sẽ không triển khai được Phật quả nếu không tu tập theo thứ tự của đạo lộ. Vậy trước hết cần phải luyện để thấy tất cả hữu tình đều đã từng là mẹ mình. Nếu bạn không luyện tập bằng sự nghĩ tưởng như thế một cách nghiêm túc, nếu bạn không đặt nỗ lực vào đấy, thì dù bạn muốn thành Phật, việc tu hành của bạn cũng hóa ra điên đảo từ sau ra trước. Bạn cũng sẽ như những người mong muốn sung sướng mà lại làm quấy. Bạn có thể nỗ lực tu hành các mật điển, con đường rất nhanh, nhưng bạn phải chịu khó trong những kỹ thuật luyện tâm bồ đề. Nếu không, bạn sẽ như một người muốn đến tỉnh Tsang, mà cứ việc leo lên một con ngựa hay bất cứ con gì khác, rồi nhắm mắt phi nước đại, với cảm tưởng rằng mình đang đi đến tỉnh Tsang. Rốt cuộc anh ta lại không đến Tsang, mà có thể đến Kongpo hay Rong!
Làm sao bạn khởi sự phát sinh tri kiến xem tất cả hữu tình như mẹ, có thể xác minh bằng hình ảnh sau. Nếu bạn không chuẩn bị cái nền cho bức họa, thì bức họa sẽ không xuất hiện. Nếu bạn không phát tâm xả đối với tất cả hữu tình, thì cho dù bạn thiền quán về từ, bi, hay bất cứ gì khác, thì bạn chỉ có phát sinh một hình thức méo mó về những tâm này. Bởi thế trước hết bạn cần phát sinh tâm xả vô lượng.
Pháp luyện tâm bằng chỉ giáo bảy lớp nhân quả không bao gồm mọi sự chứa đựng trong pháp luyện đổi địa vị mình với người, trong khi pháp sau này có bao gồm cả pháp trước.
hoangtri
06-25-2020, 09:57 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI SÁU
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.1. Xả vô lượng
Xả vô lượng là điều đầu tiên cần thiền quán trong chỉ giáo về bảy lớp nhân quả. Chúng ta cần có tâm xả đối với tất cả hữu tình, nhưng hiện tại dòng tâm thức ta không có thái độ bình đẳng trước tất cả: chúng ta giận ghét một số người và ưa thích một số khác. Chúng ta có thể dùng những người xa lạ làm đối tượng đầu tiên để luyện tâm, rồi tiến đến những người bạn, và đến kẻ thù. Hoặc ta có thể lấy cả ba hạng làm đối tượng cho chúng ta. Tôi nghĩ cách sau này được áp dụng rộng rãi hơn.
Chúng ta nên thiền quán về kẻ thù, bạn và người xa lạ, tưởng tượng họ trước mặt. Chúng ta có ba phản ứng khác nhau đối với họ:ghét, ưa và dửng dưng. Trước hết ta tức giận những người mà hiện tại ta cho là kẻ thù của ta. Khi ấy ta nhìn sâu vào bản chất những sự bực bội của mình, và nghĩ về nguyên nhân của chúng - rằng những người ấy đã làm hại ta. Kế tiếp, ta thiền quán về tính chất những sự bực bội của mình, và nghĩ về nguyên nhân của chúng - rằng những người ấy đã làm hại ta. Kế tiếp, ta thiền quán về tính bất trắc của mọi sự, như đã bàn trong phần “Nghĩ Về Những Thống Khổ Chung Trong Sinh Tử.” Chúng ta quán tưởng những kẻ thù ấy có thể đã thân thiết với ta nhiều đời trong quá khứ. Hơn nữa, mọi người mà hiện tại ta cho là bạn hay thù thì chỉ “có vẻ” như vậy mà thôi. Ta không chắc họ sẽ luôn luôn như vậy.
Có hai quan điểm: quan điểm cho ta và quan điểm cho người. Về phần ta, thật vô lý nếu ta thương hay ghét người nào. không những tất cả hữu tình đều bình đẳng trên phương diện này, mà về phần họ, tự bản chất họ cũng bình đẳng. Tất cả họ đều đáng thương như nhau. Tất cả đều muốn hạnh phúc, không muốn khổ đau. Bởi thế, từ quan điểm của người, tất cả hữu tình cũng đều bình đẳng và đáng được đối xử một cách không thiên vị.
Trên một khía cạnh khác, bạn có thể nghĩ rằng giữa họ có sự khác nhau vì một vài người trong đó làm lợi ích cho bạn trong đời này, trong khi những người khác đã làm hại bạn. Không phải thế. Lợi ích trong quá khứ với lợi ích ở hiện tại không khác gì nhau. Hại gây ra trong quá khứ với hại gây ra trong hiện tại cũng đều giống nhau cả. Ví dụ, nếu một người nào đánh vào đầu bạn năm ngoái với đánh đầu bạn năm nay thì sự hại vẫn là một. Năm ngoái cho bạn một hộp trà với năm nay cho bạn một hộp trà thì cũng chẳng khác gì. Hãy lấy ví dụ mười người ăn xin. Khi họ đến nhà bạn xin ăn, về phần họ, họ đều đáng thương ngang nhau vì đều đói khát và đang xin một thứ giống nhau. Về phần bạn, tất cả đều giống nhau ở chỗ trong số họ, không ai làm hại bạn.
Nếu bạn có được tâm xả đối với kẻ thù, bạn, và người dưng nhờ quán như trên, thì bạn có thể trải tâm ấy đến tất cả hữu tình. Khi bạn có tâm xả đối với hữu tình, thì bạn không phân loại chúng thành thù hay bạn. Điều này sẽ vĩnh viễn ngăn bạn làm những hành động tà ác thuộc thế gian như hàng phục kẻ thù, nâng đỡ người thân. Nếu không có tâm xả, thì bạn sẽ tách riêng từng người mà cho rằng người nọ người kia cần đặt ngoài câu “tất cả hữu tình.” Người nào phân biệt như thế sẽ không bao giờ phát tâm bồ đề được. Bạn phải nỗ lực làm việc với tâm xả này hết năm này qua tháng khác mới được, vì nếu bạn chỉ có thiền quán vài thời mà thôi thì bạn sẽ không tiến bộ chút nào; những hi vọng đặt nền tảng cho giác ngộ của bạn khi ấy vẫn chỉ là một mong mỏi trong ý tưởng. Nếu bạn nỗ lực luyện tâm bồ đề, thì tôi có thể đoán chắc với bạn là nó lợi ích hơn là nỗ lực vào các thứ ích lợi cho hao mòn đời người của bạn, như thiền quán về chư thần, tụng chú, hoặc cố cải thiện khả năng thiền định của bạn.
(Khi ấy Kyabje Pabongka Rinpoche ôn lại tài liệu trên)
hoangtri
06-27-2020, 08:01 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM - PHẠM VI LỚN
NGÀY MƯỜI BẢY
Kyabje Pabongka Rinpoche nói về một số lợi ích của tâm bồ đề.
Shàntideva, một vị Pháp vương tử nói:
Kính lễ những vị bồ tát
Đã phát tâm bồ đề tôn quý
Dù có gặp những sự tệ hại nào.
Họ vẫn không bỏ chúng ta.
Suối nguồn của hạnh phúc ấy
Là chỗ nương của tôi.
Nói cách khác, người nào đã phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức có thể bị lăng nhục vân vân, nhưng họ vẫn làm việc vì lợi ích của kẻ lăng nhục họ, và dẫn người ấy đến hạnh phúc vĩnh cữu:
(Khi ấy ngài kể một chuyện ngắn để chúng tôi khởi động lực chính đáng)
Tóm lại, bất cứ hành vi nào bạn làm có kèm theo bồ đề tâm đều là pháp Đại thừa, và đều làm nhân cho quả Phật. Như vậy, chỉ thiền quán về chư thần hay tụng chú thì không phải là cách tu có hiệu quả, và bạn không nên làm việc cách ấy. Pháp Lam-rim là căn bản của một pháp tu hiệu nghiệm; trong đó sự thực hành bồ đề tâm là điều cần thiết. Nếu thiếu bồ đề tâm thì dù bạn trải qua suốt đời trên một ngọn núi, sự thiền định của bạn cũng chỉ là nông cạn và bạn không tiến gần hơn đến Phật quả chút nào.
“Kyabje Pabongka Rinpoche nói làm thế nào chúng tôi cần phải lấy bồ đề tâm làm pháp tu chính, và chỉ giáo sự luyện tâm là thiết yếu cho sự phát tâm bồ đề, vân vân. Sau khi kể câu chuyện ngắn để giúp chúng tôi khởi động lực, ngài ôn lại những tiêu đề đã bàn, nhắc lại lợi lạc của bồ đề tâm và thiền quán về tâm xả.
a-1.2. Luyện tâm gồm bảy điểm
Phần đầu về chỉ giáo gồm bảy giai đoạn luyện tâm bồ đề gọi là “Hiểu Tất Cả Hữu Tình đã là Mẹ Ta.” Điều này quả rất khó triển khai, nhưng nếu không có nó, thì nhân và quả đưa đến chuyện “Đền Đáp Sự Tử Tế Của Hữu Tình” sẽ không tiếp theo sau đó. Bởi thế hãy xem việc này rất quan trọng.
a-1.2.1. Nguyên nhân thứ nhất: mọi hữu tình đã là mẹ ta.
Bạn phải hiểu rằng tất cả hữu tình đã từng là hình ảnh của một người bạn hay bà con thân thiết nhất - ví dụ bà mẹ của bạn. Bạn không có dịp nào có được bồ đề tâm nếu bạn không triển khai được một sự hiểu biết như vậy. Bạn có thể dùng nhiều lý luận để nghĩ về những đề tài sâu xa như tánh không, v.v… nên chúng không khó hiểu. Nhưng nếu chỉ suy tư sâu xa mà thôi thì rất khó hiểu được dù chỉ một câu đơn giản trong kinh. Tuy thế đối với những người lợi tuệ, thì mọi sự phải được chứng minh bằng lý lẽ. Thật khó mà đạt thực chứng trong phần này vì nó chỉ có một dòng lý luận độc nhất. Lý luận ấy được nói trong tác phẩm của Pháp Xứng (Dharmakìti) Luận Về Những Pháp Có Giá Trị:
Khi một người đã được tái sinh,
Thì thật phi lý nếu hơi thở,
Các cơ quan, tâm ý của nó
Chỉ phát triển từ thân thể mà thôi,
Không phụ thuộc vào
Những vật đồng loại với nó…
hoangtri
06-27-2020, 08:06 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
Điều cần chứng minh ở đây là bản chất vô thủy của tâm ta. Tâm hôm nay là tiếp nối tâm hôm qua, và cái tâm hôm qua là cái tâm tiếp nối trước đấy. Chừng ấy là dễ hiểu. Cái tâm ngay sau khi sinh ra là tiếp tục của tâm nằm trong bào thai. Cái tâm ngay sau khi nhập thai là tiếp tục của một cái gì đi vào đấy. Khi sinh tử trở lui về thời gian cho đến vô tận, thì bạn không thể tìm một khởi điểm nào cho tâm này. Điều này chứng tỏ rằng những tái sinh của bạn cũng phải trở lui về thời gian vô tận. Do vậy, số lượng những tái sinh của bạn cũng vô cùng. Nghĩa là bạn đã tái sinh vô số lần. Cũng như trong đời này bạn có mẹ, thì mỗi lần tái sinh trong quá khứ bạn cũng có mẹ, dù bạn sinh từ trứng hay sinh từ thai. Mỗi lần sinh ra như thế, bạn phải có một bà mẹ, một trăm lần sinh ra có trăm bà mẹ, ngàn lần sinh ra có ngàn bà mẹ, v.v… Bạn phải đã có vô số bà mẹ, nên thật không thể nào hữu tình không từng là mẹ bạn.
Bạn có thể cãi: “Đã đành tôi phải từng có nhiều mẹ, nhưng thật phi lý nếu bảo tất cả hữu tình đều là mẹ tôi, vì hữu tình thì vô số kể.” Nói chung, bạn đã có rất nhiều tái sinh; hơn thế nữa, bạn đã sinh ra vô số lần trong hình hài của mỗi loài hữu tình. Có thể bạn đã tái sinh nhiều lần hơn số lượng hữu tình hiện tại; và trong mỗi loại tái sinh này, bạn cần số lượng tương đương những bà mẹ. Bởi thế không những tất cả hữu tình để chỉ làm mẹ bạn một lần mà thôi. Long Thụ nói:
“Nếu bạn đếm tất cả những bà mẹ
Bằng những viên đất vo tròn nhỏ,
Thì quả đất cũng không đủ để tính…”
Đoạn này nói đến dọc trực tiếp những bà mẹ, nghĩa là bà ngoại, bà cố, vân vân. Tuy nhiên, ở đây tôi sẽ giải thích lại theo tuyền thống khẩu quyết của bậc thầy. Hãy đem tất cả đại địa mà vo tròn thành từng hạt đất bằng hột anh đào; mỗi hột kể là một bà mẹ trong mỗi đời tái sinh. Khi bạn vo hết cả quả đất lại thành từng viên nhỏ như thế, bạn vẫn chưa đếm hết số lượng những bà mẹ mà bạn đã từng có. Nếu tất cả hữu tình không phải đã làm mẹ bạn, thì sẽ có sự chênh lệch.
Hơn nữa, vì tất cả hữu tình chắc chắn sẽ đạt giác ngộ thì sẽ đến lúc không còn một hữu tình nào. Nhưng, vì vòng luân hồi đối với bạn không có khởi thủy, nên bạn đã có nhiều lần tái sinh hơn số lượng các hữu tình hiện có. Vậy, nếu tất cả chúng sinh đã không từng là mẹ bạn vô số lần, thì sẽ có sự so le. Bởi thế tất cả chúng sinh đã từng là mẹ bạn nhiều lần.
Không có một hình thức hữu tình nào mà bạn chưa từng tái sinh trong đó; hãy nghĩ bạn đã từng tái sinh vô số lần trong những hình thức ấy. Lấy ví dụ sinh làm người. Không một nơi nào trong lục địa này mà ở đấy bạn chưa từng sinh làm người, và đã làm vô số lần. Cũng cách ấy, bạn đã tái sinh trong mỗi thế giới hệ ở phương đông, tây, nam, bắc v.v… Vì bạn đã có nhiều tái sinh hơn số lượng hữu tình, nên không những họ đã từng làm mẹ bạn, mà còn mỗi một loài trong số ấy cũng đã từng làm mẹ bạn trong những kiếp tái sinh thân người, bởi thế, có thể kết luận rằng tất cả hữu tình đều là mẹ bạn.
Nếu sau khi quán như trên mà bạn không phát triển được tri kiến, thì hãy tự hỏi: “Trong đời đã qua ta có mẹ không?” Rồi bạn nghĩ, rõ ràng trong đời này ta có mẹ, vậy thì đời trước cũng có. Rồi bạn tiếp tục quán đời trước nữa, vân vân.
Các Lam-rim Con Đường Dễ và Con Đường Nhanh chỉ đề cập ngắn gọn làm thế nào bạn nên thiền quán về tri kiến “tất cả chúng sinh này đều là mẹ ta.” Nhưng tôi muốn giải rộng tiêu đề này, dùng những chỉ giáo tôi đã hấp thụ với tôn sư tôi. Muốn cho sự tu tập không thối giảm, thì điều cốt yếu là những người thực hành đều đặn pháp này, hoặc những người nhận trách nhiệm giảng dạy, phải quán như sau, để dễ làm cho người triển khai thực chứng trong Lam-rim này.
hoangtri
06-28-2020, 09:41 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
Trước hết hãy quán mẹ trong đời này đã từng là mẹ nhiều kiếp. Rồi quán cha mình cũng đã từng làm mẹ mình. Sau đó quán tất cả bạn bè, người thân, rồi người xa lạ đều là mẹ mình. Nếu bạn đã đạt được vài tuệ giác từ tất cả điều này, thì kế tiếp hãy quán sát những kẻ thù cũng đã từng là mẹ mình. Chỉ khi ấy bạn mới thực hành pháp này đối với tất cả hữu tình. Mặc dù vậy, bạn vẫn có thể nghĩ, “Nếu tất cả hữu tình đã là mẹ, thì tôi sẽ nhận ra ngay. Nhưng tôi không nhận ra, bởi thế họ không thể là mẹ tôi được.” Nhưng chính chư Phật cũng đã bảo rằng không một hữu tình nào chưa từng làm mẹ của ta. Thực sự tất cả đều đã từng làm mẹ bạn, chỉ có điều bạn không nhận ra được mà thôi. Bà mẹ hiện đời này của ta về sau có thể tái sinh làm một con chó, nhưng ta sẽ không thể nói ra điều này; ta cũng sẽ không nhận ra bà thực đã là mẹ của ta. Điều này được chứng minh bằng câu chuyện về Utalavarnà (Liên Hoa Sắc) và trong lời trích dẫn:
Ăn thịt cha, đánh mẹ
Kẻ thù đã bị giết ngồi trên gối.
Vợ nhai xương chồng,
Sinh tử có thể là một trò hề như vậy.
Bởi thế, không vì bạn không nhận ra mà hữu tình không phải mẹ bạn, cũng không phải vì bây giờ họ không còn là mẹ mà bảo rằng trong quá khứ họ không phải là mẹ; nếu thế thì bà mẹ trong giai đoạn đầu đời bạn không phải mẹ trong giai đoạn sau; mẹ hôm qua cũng sẽ là không còn là mẹ hôm nay, vì mẹ hôm qua thuộc về quá khứ. Đây là một khía cạnh vi tế của vô thường và thật khó nhận chân, nếu bạn chưa từng khảo sát. Lấy ví dụ cái khăn quàng này. Một năm trước khi còn mới nó không có vết dơ, không có lỗ thủng. Nhưng cái tương tục của nó, nghĩa là khăn quàng hôm nay, thì đã hôi hám và bị mối ăn. Đây là sự khác nhau giữa hai cái. Bởi thế, bạn cần phải suy nghĩ về sự kiện rằng không có gì khác nhau những bà mẹ trong đời quá khứ và vị lai. Cũng thế, nếu có người nào đã từng cứu sống bạn năm ngoái thì đương nhiên năm nay bạn cũng còn nhớ ơn họ.
Tiêu chuẩn để xác định bạn đã tu tập để triển khai được tri kiến này là, khi trông thấy một con kiến, bạn cũng nhớ ngay rằng mình đã từng con của chúng sinh ấy, đã hoàn toàn lệ thuộc vào nó trong mọi nhu cầu để sống.
a-1.2.2. Nguyên nhân thứ hai: nhớ lại sự tử tế của họ
Khi bạn có được tuệ quán đi sâu vào sự kiện tất cả hữu tình đã là mẹ mình, thì phải nghĩ đến lòng thương mà họ đã chan chứa cho bạn. Hãy lấy trường hợp điển hình là bà mẹ hiện tại của bạn: bà thương yêu bạn từ lúc đầu đời, giữa đời và cuối đời. Lúc đầu bà cưu mang trong thân bà trong chín tháng, thương yêu che chở. Bà thận trọng từng miếng ăn thức uống vì sợ hại cho đứa con trong bụng. Nếu mẹ ta không biết cách săn sóc ta chu đáo đến thế, thì bây giờ ta đã không gặp nền Diệu pháp để tu học. Việc này không xảy đến do tự chúng ta xoay sở, mà phải nhờ lòng tử tế của mẹ ta.
Sau khi bạn ra đời, mẹ nâng niu bạn trong đôi tay, mặc dù khi ấy bạn không biết tí gì và trông gớm ghiếc như một con ốc sên. Bà giữ cho bạn ấm bằng thân thể bà, đặt bạn nằm trên giường êm dịu, mĩm cười với bạn đầy trìu mến, và còn dùng miệng mà hút nước mũi bạn chảy ra, vì sợ nếu dùng tay thì sẽ làm cho bạn đau đớn. Bà dùng tay để lau phân cho bạn, vì sợ dùng một miếng gỗ hay vật gì khác thì bạn sẽ đau. Bà không thể rời bạn một ngày, hay chỉ một giờ. Mỗi ngày bà cứu bạn khỏi hàng trăm tai nạn có thể giết bạn: chó có thể ăn bạn, chim có thể tha bạn đi, hoặc bạn có thể rớt xuống hố. Con đau đớn khổ sở như là chính mẹ đau đớn khổ sở. Tâm tưởng của mẹ hoàn toàn chỉ nghĩ về đứa con của mình, dù khi đi nghỉ, bà lại dần dần tập cho con đứng, nói, ăn uống. Nhờ thế mà bây giờ ta có thể di chuyển, nói năng không khó nhọc gì.
Mẹ cũng bất cần khi bạn phải phạm tội, mất danh tiếng, hay dù phải chịu khổ nhọc vì kiếm tiền để nuôi con. Mẹ thương con còn hơn da thịt bà, nên bao nhiêu tiền dành dụm được bà chỉ tiêu xài cho con mà không một đồng xài cho chính bà. Dù bạn là ai - nam hay nữ, đã có vợ có chồng hoặc đã xuất gia - thì mức sống của bạn đều nhờ lòng tử tế của mẹ bạn. Tóm lại là bà làm hết sức mình trong giới hạn khả năng và kiến thức của bà, để lo cho bạn được sung sướng. Không có sự cùng tận cho lòng thương của mẹ đối với bạn để bảo vệ khỏi mọi đau khổ hiểm nguy.
Tất cả những hữu tình khác, như người cha của bạn, cũng đã thương yêu bạn không kém. Vì tất cả hữu tình đều đã làm mẹ bạn trong những tái sinh thân người - không chỉ một lần mà vô số lần - nên họ cũng đã cho bạn tình thương như người mẹ trong đời này của bạn đã cho bạn. Khi những hữu tình khác làm mẹ bạn trong những kiếp tái sinh làm dã thú chẳng hạn, những bà mẹ ấy cũng đã săn sóc bạn và đối xử với bạn một cách đầy thương yêu; dùng lưỡi mà liếm thân thể bạn. Chẳng hạn khi bạn làm chim, thì đôi cánh của bà mẹ ấp ủ và che chở bạn trong một tháng trời. Khi bạn gặp kẻ thù đe dọa, như một người cầm gậy chẳng hạn, bà sẽ che chỡ chim con bằng cách hy sinh cả thân mạng, mặc dù bà có thể bay xa. Bà thường mớm cho bạn ăn, dù khi bắt được một con sâu bà cũng để dành cho bạn.
Bởi thế hữu tình đã tử tế với bạn, không phải chỉ một hai lần, mà họ tử tế trong mọi tình huống. Sự thương yêu của họ không thể suy lường. Có lần một tên cướp ở Golog đâm vào bụng một con ngựa cái; bà mẹ có bầu đang hấp hối ấy sinh ra một ngựa con ngay trên đất và liếm nó để tỏ dấu yêu thương. Nhìn cảnh tượng ấy, kẻ cướp được cải hóa. Làm sao bạn chắc được bạn đã không từng là con ngựa con ấy? Và như con ngựa cái có thể đã tỏ lòng yêu thương với bạn vào kiếp tái sinh ấy, thì tất cả hữu tình đều cũng đã tỏ một lòng thương như vậy đối với bạn không gì khác.
hoangtri
06-29-2020, 07:07 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.2.3. Nguyên nhân thứ ba: đền đáp sự tử tế của họ
Shantideva nói:
Bạn và hữu tình luôn luôn có lý do để đau khổ;
Hữu tình đều bình đẳng trong đau khổ
Điên cuồng bởi vọng tưởng và mù quáng vì vô minh
Mỗi bước đi của chúng đều đưa đến vực thẳm.
Bạn nên nghĩ như sau:
Giả sử mẹ bạn trong đời này bị mù không ai dắt dẫn, và bị điên. Bà sắp rơi xuống vực, trong khi người con đang ở gần. Nếu bà không nhờ con giúp đỡ thì bà có thể nhờ ai? Nếu con không cứu mẹ thì ai cứu? Tất cả hữu tình cũng thế, thiếu con mắt tuệ để phân biệt pháp và phi pháp, để thay đổi lối hành xử của mình. Mỗi bước đi của họ đều được dẫn dắt bởi thói xấu - những dục vọng và ác hành. Họ không có hướng đạo tâm linh, không ai chỉ dẫn cho họ nên làm điều này tránh điều nọ. Tâm họ bị giao động và ô nhiễm vì ba độc tố vọng tưởng; họ không thể kiểm soát tư tưởng mình nên như điên. Họ sẽ rơi xuống vực thẳm đưa đến những đọa xứ, trong nhiều kiếp thân thể họ không khác gì với ngọn lửa địa ngục. Chúng ta trái lại đã gặp được hướng đạo tâm linh, gặp pháp đại thừa. Chúng ta biết ít nhiều về cách thay đổi lối hành xử của mình. Bởi thế chúng ta ở trong hoàn cảnh khá hơn họ và có trách nhiệm phải làm gì để cứu họ.
Bức thư gởi môn đệ của Chandragomin nói:
Họ như những người bà con bị kẹt trong biển sinh tử,
Bị rơi vào luồng nước xoáy đại dương;
Do vì trải qua nhiều lần sống, chết và tái sinh,
Bạn không nhận ra họ và bạn làm ngơ;
Thật đáng khinh bỉ
Nếu bạn chỉ lo tự cứu lấy mình.
Nghĩa là muốn thiền quán về sự trả ơn chúng ta phải nghĩ rằng, ta có cách để giải thoát hữu tình đang bị kẹt trong biển khổ. Trách nhiệm cứu vớt họ là ở trên vai chúng ta, chúng ta thực đáng khinh nếu không làm việc ấy.
Tác phẩm Trái Tim Của Trung Đạo đã nói như sau về sự trả ơn:
Từ trước tới nay tôi đã bị ám bởi con ma vọng tưởng;
Cũng như một vết thương bị kích thích,
Hoặc như bị đánh đập.
Cái gì đem lại đau khổ như thế
Cho một người bệnh?
Có cách nào khác
Để trả ơn những người đã thương tôi
Kính trọng và giúp đỡ tôi
Trong những đời tái sinh trước -
Một cách giúp đỡ mà không đem lại cho chúng khổ đau.
hoangtri
06-30-2020, 07:59 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
Bạn nên nghĩ như sau: “Nếu chỉ cho họ thực phẩm y phục v.v.. thì tôi chỉ giải thoát họ khỏi cơn đói khát tạm thời. Việc ấy không đem lại cho họ lợi ích lâu dài nào cả. Tuy nhiên họ sẽ được lợi ích lớn và dài lâu nếu họ có tất cả hạnh phúc và dứt tất cả đau khổ. Nếu tôi có thể dẫn họ đến Phật quả, thì họ sẽ có được mọi hạnh phúc, và thoát khỏi mọi khổ đau. Vậy tôi sẽ dẫn họ đến Phật quả.”
Giả sử mẹ của bạn bị điên, đang cầm con dao cố giết bạn, con của bà. Bạn sẽ không giận bà mà sẽ cố làm cho bà hết cơn điên. Đây là cách mà bạn phải đền đáp sự tử tế đối với những kẻ thù của bạn.
a-1.2.4. Nguyên nhân thứ tư: Thiền định về tâm từ phát sinh từ năng lực của sự lôi cuốn
Tâm từ này xuất hiện dưới dạng một sự yêu mến phát xuất từ tim đối với tất cả hữu tình. Geshe Potowa đã nói với một bà già: “Tình thương do năng lực của sự lôi cuốn là giống như bà thương con trai bà.” Nói cách khác tình yêu do năng lực của sự lôi cuốn có nghĩa là thương tất cả hữu tình như mẹ thương con. Tình yêu này không phải là một đề mục thiền riêng biệt: Bạn sẽ triển khai nó một cách tự nhiên, khi bạn đã triển khai phần nào ba đề mục trước đó là “Hiểu rằng tất cả hữu tình đã là mẹ ta,” “Nhớ lại sự tử tế của họ” và “Mong mỏi đền đáp lòng tử tế ấy.” Bởi vậy hãy quán tưởng như sau:
“Đừng kể đến hạnh phúc không ô nhiễm trong dòng tâm thức của hữu tình: họ chỉ có toàn những hạnh phúc ô nhiễm. Ngay cả điều mà họ cho là hạnh phúc cũng chưa thoát khỏi bản chất khổ đau. Thật kỳ diệu thay nếu tất cả hữu tình có được hạnh phúc! Mong sao họ sẽ có được! Tôi sẽ làm cho họ có được hạnh phúc như thế!”
Tác phẩm Tràng Hoa Quý Báu của Long Thụ nói đến những lợi lạc sau đây của phép quán tâm từ:
Mặc dù một người như thế chưa được giải thoát,
Họ sẽ đạt được 8 đức chính yếu của tâm từ.
Công đức bố thí 300 thứ đồ ăn
Mỗi ngày vào cả 3 thời
Cũng không thể sánh với công đức đạt được
Do quán tâm từ trong chốc lát.
Chư thiên và loài người sẽ yêu mến họ
Và che chở họ;
Họ sẽ có sự thoải mái tâm hồn;
Và có nhiều hạnh phúc;
Khí giới và độc dược không hại được họ;
Họ sẽ thành đạt mục đích không khó khăn,
Và sẽ được sinh lên Phạm thiên giới.
Những lợi lạc có được tám công đức do thực hành quán tâm từ thật lớn lao. Bạn sẽ được tái sinh làm Chuyển luân vương hay làm Phạm thiên một thời gian bằng số lượng của chúng sinh mà bạn dùng làm đối tượng quán là tất cả hữu tình cùng tận giới hạn của không gian thì bạn sẽ thành tựu hình thức Niết bàn vô trú hay năng động, Niết bàn Đại phạm - nghĩa là Niết bàn đại thừa hay Phật quả.
hoangtri
06-30-2020, 08:05 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.2.5. Nguyên nhân thứ năm: Tâm đại bi
Đây là một nguyên nhân quyết định cho Phật quả. Đức Tsongkapa đặc biệt chú ý đến tâm đại bi trong chương “Những giai đoạn trong sự luyện tâm bồ đề” thuộc tác phẩm “Những giai đoạnlớn của đạo lộ. Ngài cho những tiêu đề sau đây: “Chứng minh rằng đại bi là gốc rễ của con đường Đại thừa”, “Những nhân quả khác đều hoặc làm nhân hoặc làm quả cho tâm đại bi.” Lại nữa trong một kinh có nói rằng toàn thể con đường đại thừa và hậu quả của nó tùy thuộc vào tâm đại bi, cũng như vua Chuyển luân tùy thuộc vào bánh xe của ngài hay một người tùy thuộc vào sinh lực của y. Chandrakirti nói trong phần mở đầu tác phẩm Thực Hành Trung Đạo:
Tình yêu là một hạt giống cho một mùa gặt lớn lao -
Quả vị của một Đấng Chiến thắng.
Cũng như nước, tình yêu làm cho mùa màng tăng trưởng,
Và về sau nó chín thành kết quả được ước ao,
Như thể nó đã chín mùi sẵn sàng để sử dụng
Chính vì thế mà ngay từ đầu
Tôi ca tụng tâm đại bi.
Tâm đại bi cũng quan trọng như một hạt giống vì nó bảo đảm đạo lộ ấy là đại thừa ngay từ khởi thủy. Đại bi cũng thiết yếu như nước và phân vì nó phát sinh một sự kiên trì suốt con đường, như áo giáp chống lại sự thiếu thốn trong những phận sự trước mắt của một người con Phật. Cuối cùng tâm đại bi quan trọng ngang hàng với kết quả được thưởng thức, bởi vì nhờ có tâm đại bi mà bạn tiếp tục làm các thiện sự ích lợi cho hữu tình sau khi bạn đã thành Phật quả. Mức độ năng lực của tâm bồ đề nơi bạn cũng là một nhiệm vụ của tâm đại bi; và chư bồ tát đi qua con đường tu tập nhanh hay chậm cốt yếu tùy thuộc vào năng lực tâm đại bi của họ. Nhiều điều khác xảy ra do năng lực tâm đại bi: Chư bồ tất đi vào các mật điển để tìm một con đường nhanh, và họ hoàn tất con đường này một cách nhanh chóng nhờ mãnh lực của tâm bi nơi họ. Một ví dụ: khi một đứa trẻ rớt xuống một hố lửa thì cha mẹ nó sẽ cứu nó tức khắc, trong khi những quyến thuộc khác không có được cái ý chí cứu cấp nó một cách không ngần ngại.
Khi mới thiền quán về tâm đại bi, hãy lấy đối tượng của bạn là một con cừu đang bị đồ tể làm thịt. Bạn sẽ khởi tâm thương xót một cách dễ dàng và nhanh chóng. Bạn phải quán cách con cừu chết, các cách nó bị giết rất tàn bạo và cách nó chết trong trạng thái đau đớn hãi hùng. Con cừu bị đặt lật ngửa. Tay chân nó bị trói bằng một sợi thừng. Nó cũng biết mạng sống nó đang bị đe dọa, nhưng bất lực không thể thoát khỏi, không có người che chở, không nơi nương tựa. Đôi mặt nó đẩm lệ nhìn trừng trừng vào mặt người đồ tể.
hoangtri
06-30-2020, 08:07 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
Tuy nhiên khi chúng ta thấy một con cừu bị giết như vậy, ta thường tự hỏi liệu nó có đủ thông minh để biết chuyện gì xảy đến hay không. Có lần một đồ tể đang giết nhiều cừu, sau khi đã giết một ít con, ông ta trói một con nữa để làm thịt. Một con cừu khác tình cờ đứng gần con dao của người đồ tể, nó bèn đá tung đất lên để lấp con dao. Câu chuyện này chứng tỏ loài vật cũng kinh quá những nỗi đau khổ và hãi sợ. Mặc dù bây giờ những con cừu đang gặm cỏ trên sườn núi, chưa bị dẫn đến chỗ làm thịt, song cuối cùng chúng sẽ phải bị một số phận giống hệt như thế. Khi bạn thiền quán tâm bi, hãy nghĩ chúng đã từng là những bà mẹ của bạn trong nhiều đời quá khứ. Một khi bạn đã khai triển quán tâm bi, hãy nghĩ chúng đã từng là những bà mẹ của bạn trong nhiều đời quá khứ. Một khi bạn đã khai triển được một vài tuệ quán đi sâu vào chuyện này, hãy nhớ lại những thiền quán của bạn về nỗi khổ ở các đọa xứ mà chính bạn có thể phải trải qua những khổ đau ấy. Một vài bà mẹ của bạn sẽ bị thiêu đốt bằng sắt nung đỏ và uống nước đồng sôi trong những địa ngục này. Một vài bà mẹ sẽ tái sinh làm ngạ quỷ, bị hành hạ bởi nỗi đói khát v.v… Hãy khai triển tâm thương xót đối với họ và nghĩ như sau:
“Sự khác nhau duy nhất giữa đàn cừu trên núi và con cừu đang bị giết chỉ là vấn đề thời gian. Những người phạm tội chắc chắn rơi xuống các đọa xứ theo cách ấy. Như vậy mặc dù bây giờ họ có thể đang tự do, họ cũng không khác gì những người đang hướng đến các đọa xứ.” Rồi hãy thiền quán về tâm bi đối với bà mẹ của bạn trong đời này bằng cách xét những nguyên nhân của khổ mà bà đã tạo, và nỗi khổ bà phải chịu. Hãy thiền quán như thế để triển khai tâm đại bi:
Những người khác làm việc cực nhọc để kiếm sống,
Nhưng chỉ có nghĩa là họ đang phạm tội và đang phá giới.
Hiện tại họ đang tạm thời được ở một tái sinh thù thắng, nhưng họ vẫn đang trải qua ba hình thái khổ (khổ khổ, hành khổ và hoại khổ - DG) và sẽ trải qua đau khổ lứon lao hơn nữa trong các đạo xứ vì họ đang gây những cái nhân cho việc này xãy đến mà họ không biết. Lại nữa tất cả hữu tình đều đang tạo khổ và nhân của khổ. Thật tốt biết bao nếu những hữu tình này - đã từng là mẹ của tôi - sẽ không bị đau khổ và không gây những nhân khổ! Đây là điều mà tôi sẽ làm để đạt tới.”
Rồi bạn hãy làm pháp thiền khó hơn, ấy là phát triển tâm bi đối với những người hay những đối tượng mà bạn thấy khó thương. Nếu bạn thấy khó phát triển tâm bi đối với những chúng sinh như Phạm vương, thì hãy quán theo Phạm Vi Trung Bình; rồi bạn hãy triển khai nó.
Những tiêu chuẩn chứng tỏ bạn đã phát triển tâm đại bi trong dòng tâm thức là như sau. Bạn đã khai triển được tâm đại bi nếu dù khi ăn khi uống bạn đều nghĩ đến tất cả hữu tình và muốn cho tất cả đều thoát khổ, như một bà mẹđang lo cho đứa con cưng đang bị quật ngã vì một cơn bệnh độc hại.
Tuy nhiên tâm bi - chỉ mong sao cho chúng sinh thoát khổ - thì Thanh văn và Duyên giác cũng có. Nhưng lòng bi mẫn muốn thực sự cứu vớt chúng sinh ra khỏi đau khổ chỉ có đại thừa mới có. Bạn nên triển khai tâm bi thuộc loại sau này. Nhưng đấy là những điều rất khó triển khai, và bạn phải làm việc rất nhiều với những kỹ thuật. Nếu trong quá khứ bạn đã bệnh nặng, thì khi thấy những người đồng bệnh, bạn sẽ thấy thương xót vì cái cầu đoạn trường ấy chính bạn cũng đã đi qua. Bởi thế sẽ dễ dàng để phát triển tâm bi sau khi thiền quán một cách thiện xảo về nỗi khổ của sinh tử và của đọa xứ mà chính bạn có thể trải qua như đã tả trong Phạm Vi Nhỏ và Trung Bình.
Tâm từ do mãnh lực của sự lôi cuốn đến với hữu tình, khiến bạn thương yêu tất cả, cũng là một hình thái của tâm từ mong muốn cho ai nấy đều được hạnh phúc. Tuy nhiên một đằng có tính cách tổng quát; một đằng có tính cách đặc biệt. Tình yêu do năng lực của sự lôi cuốn là tổng thể có ba điều: hiểu rằng tất cả hữu tình là mẹ, nhớ lại lòng tử tế của họ, và mong đền đáp lòng sự tử tế ấy. Việc này nhất thiết phải đi trước tâm bi, vì nó làm phát sinh tâm bi. Tâm bi và tâm từ mong muốn hạnh phúc không có một tương quan nhân quả cố định. Một chương của tác phẩm Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ đề cập sự đền đáp lòng từ - mong muốn hạnh phúc - và thật thích hợp cho bạn để thiền quán về tâm từ này trước khi tâm bi. Tuy nhiên thiền quán về tâm từ sau khi thiền quán về tâm bi thì lại phù hợp với những chỉ giáo truyền thống về tu tập.
Kế tiếp chúng ta sẽ bàn về tâm vị tha. Ở giai đoạn này chúng ta thiền định chính yếu về tâm từ, mong cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc. Nhưng theo những tiêu đề trong tác phẩm Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ thì ta nên quán tâm từ “mong muốn hạnh phúc” phối hợp với loại tâm từ “Năng lực lôi cuốn” trước khi quán tâm bi.
hoangtri
07-01-2020, 05:10 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.2.6. Nguyên nhân thứ sáu: Tâm vị tha
Bạn có trách nhiệm đối với mẹ mình. Cũng thế, bạn nên gánh lấy trách nhiệm làm cho tất cả chúng sinh thoát khổ và được an vui. Bạn phải làm quyết định rằng “Chỉ mình ta sẽ đưa chúng đến Phật quả.” Điều này mới là hạnh vị tha khác hẳn Thanh văn, Duyên giác. Giả sử bạn thấy một người sắp tung mình nhảy xuống vực thẳm; cảnh tượng ấy sẽ khiến bạn nghĩ, “Không ai cứu họ sao?” Một phản ứng như thế là phản ứng tâm từ và tâm bi, nhưng thay vì để mọi sự như vậy, bạn phải quyết định chính bạn sẽ cứu người ấy. Lòng vị tha cũng tương tự như thế. Thanh văn Duyên giác nói chung cũng có từ bi, nhưng không có tâm vị tha.
Bậc tôn sư tôi đã dạy rằng sự khác nhau giữa tâm vị tha này với cách bạn lãnh lấy trách nhiệm trong chương nói về “Đền đáp sự tử tế” được ví như một thương gia định mua vài món hàng hay đã kết thúc việc kinh doanh. Một đằng đã làm quyết định, một đằng chưa quyết.
a-1.2.7. Phát tâm bồ đề
Sau khi gánh trách nhiệm, hãy xem bạn có thể thi hành công việc được chưa. Dù chỉ một chúng sinh duy nhất bạn còn không thể giúp được nữa là. Bạn buộc lòng tìm một người có khả năng làm việc ấy một cách hiệu nghiệm, và xem bạn có thẻ đạt đến một địa vị như thế không. Một vài chúng sinh lớn lao ở thế gian như Phạm vương, Đế thích chẳng hạn, không ích gì cho hữu tình. Còn Thanh văn, Duyên giác, A la hán cũng không làm được gì nhiều hơn, vì họ chưa trừ hết các trói buộc. Các Bồ tất ở địa vị thứ nhất có thể giúp ích hữu tình hơn nhiều, song Bồ tát sơ địa này cũng chỉ làm được một phần nhỏ những gì mà Bồ tát còn một đời nữa thành Phật (Nhất sinh bổ xứ - DG) có thể hoàn thành. Ngay cả những việc những việc chư Bồ tát ở địa vị cuối cùng đem lại cho hữu tình khi các ngài ngồi dưới cội bồ đề. Và việc làm của bồ tát ở địa vị cuối cùng (Đẳng giác, Diệu giác- DG) cũng không bì được với những gì mà chư Phật thành tựu được. Nó như sự khác nhau giữa lòng tay bạn với toàn thể hư không. Chư Phật là vô tỉ trong cách “không cần dụng công nỗ lực” của các ngài (vô công dụng hạnh - DG) để lợi lạc hữu tình tùy theo tính tình, ước nguyện và khả năng của chúng. Nếu bạn đạt đến địa vị như Phật, thì bạn cũng sẽ có được những đức như thế. (xem chương nói về quy y, Ngày Mười Hai)
Bởi thế, bạn sẽ triển khai niềm xác tín rằng không thể nào làm lợi ích cho hữu tình nếu chính bạn chưa đạt đến trí biết cùng khắp (chánh biến tri). Bạn phải phát tâm mong cầu vô thượng bồ đề để lợi lạc hữu tình. “Xả,” “Hiểu rằng mọi Hữu tình đã từng là mẹ mình,” “Nhớ lại lòng tử tế của họ,” và “Mong đến đáp sự tử tế ấy,” tất cả làm thành căn bản cần thiết để khai triển một lòng khát khao làm lợi lạc kẻ khác, trong khi “Từ,” “Bi,” và “Tâm vị tha” thực sự phát sinh lòng khát khao ấy và ước mong đạt đến vô thượng bồ đề. Như có câu nói:
Phát tâm bồ đề
Là mong cầu hoàn toàn giác ngộ
Để lợi lạc hữu tình.
Nói cách khác, muốn thành Phật quả bằng cách chỉ thấy cần phải lợi ích hữu tình thì chưa đủ để phát tâm bồ đề một cách chân xác và toàn vẹn. Bạn phải muốn đạt đến địa vị ấy vì thấy rằng mình chưa thành Phật để lợi lạc cho chính mình nhờ những thực chứng vĩ đại và những từ bỏ lớn lao; tuy nhiên, bạn không chỉ muốn điều này cho lợi ích riêng mình. Cũng như bạn phát khởi một khát khao lợi lạc kẻ khác trong phần nói về tâm “Từ” “Bi” và “Vị tha,” bạn phải phát tâm mong cầu vô thượng bồ đề chỉ vì lợi lạc cho người khác.
Nhưng bạn có thể hỏi: Tôi có thể thành công không nếu thiền định như thế? Chắc chắn bạn có thể thành công chứ. Không có thời gian nào tốt cho bạn phát tâm bồ đề hơn là hiện tại, vì cái thân vật lý mà bạn có được này đã đủ cho bạn đạt thành Phật quả. Pháp mà bạn theo là lời dạy của Phật. Trong những giáo lý ấy bạn đã gặp được pháp Đại thừa, và quan trọng hơn nữa là mật giáo có thể giúp bạn giác ngộ ngay trong một đời duy nhất. Đấy là diều đúng cho tất cả các tông phái Phật giáo Tây Tạng. Hệ phái mật giáo của đức Tsongkapa có thể đưa bạn đến giác ngộ chỉ trong vòng 12 năm, và nhiều người đã đạt trạng thái hợp nhất còn nhanh hơn nhiều - chỉ trong ba năm ba tháng. Điều này có thể thấy trong các tiểu sử những bậc thánh như Tsongkapa và các đệ tử ngài. Chư thiên gọi thời hiện tại là “mạt thế” nhưng kỳ thực, chưa bao giờ ta có được một cơ hội tốt hơn bây giờ. Thân thể của Milarepa và Ensapa không hơn gì thân thể chúng ta có. Chúng ta giống như đứa trẻ bị què cỡi con lừa hoang: bây giờ là lúc cần nỗ lực!
(CT- Một đứa trẻ què trượt té lăn xuống đồi, và do một sự ngẫu nhiên kỳ diệu, nó rớt ngồi trên lưng một con lừa hoang. Con lừa chạy thục mạng, đứa bé bám riết nó. Mọi người trông thấy đều la lớn bảo nó dừng, nhưng đứa bé lại la lên đáp lại: “Một thằng què như tôi chỉ được một dịp cỡi lừa duy nhất trong đời. Dại gì không hưởng cái thú vui này!”)
hoangtri
07-02-2020, 10:37 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
Chúng ta thà chết còn hơn thiền quán Lam-rim! Người ta phí thì giờ xem sách, làm học giả, đọc tụng. Họ đều hụt mất cái cốt tủy! Nói chung ta không biết được mình có được một tái sinh như thế này nữa hay không: và dù có được, cũng sẽ rất khó mà gặp nền giáo lý này, nhất là nền giáo lý tuyệt đối không lỗi lầm như giáo lý của Đấng Chiến thắng thứ hai (sau Phật).
Bởi thế bạn phải thấy mình có thể phát tâm bồ đề, cái nhân để đạt toàn giác, trong khi đang ở trong tái sinh này. Khi bạn đã phát tâm thì điều ấy sẽ lợi cho cả bạn lẫn người khác. Một lần gặp thời đói kém, có người đàn ông và cả nhà ông ta sắp chết đói. Một ngày anh tìm được một miếng thịt. Anh nghĩ, nếu ta chia thịt này cho cả nhà ăn thì không thấm vào đâu, tất cả vẫn đói, ta biết đấy chỉ là giải pháp tạm thời. Chi bằng ta ăn hết phần thịt này để có sức mà đi kiếm thức ăn cho tất cả. Bởi thế người cha ăn hết miếng thịt và đi tìm thực phẩm cho tất cả mọi người. Như vậy, khi bạn thực hành mật điển, hay chỉ nhẩm thần chú “om mani padme hum” - hay khi tham dự một cuộc tranh luận hoặc lễ cúng dường - hãy làm việc ấy kèm với tâm bồ đề.
Khi bạn cảm thấy ước muốn hữu thức mong thành đạt Phật quả vì lợi ích hữu tình, thì tức là bạn phát tâm bồ đề giống như vỏ ngoài một cây mía. Nhưng nếu thêm vào đấy, bạn còn cảm thấy một ước muốn vô thức đạt giác ngộ để lợi lạc bất cứ hữu tình nào bạn gặp, thế là bạn đã phát tâm bồ đề chân thật trong dòng tâm thức của bạn. Bạn đã đi vào đạo lộ Đại thừa về tích lũy và khởi sự ba a tăng kỳ kiếp tích tập hai kho công đức. Bạn sẽ có được vô lượng thiện tính và được cái tên là “Pháp vương tử” và “Bồ tát.”Nếu bạn tu tập sau khi thành tựu tuệ quán này, thì chắc chắn bạn sẽ giác ngộ nhanh chóng dù bạn không qua con đường mật tông.
Sự phát tâm bồ đề có hai loại tùy theo bản chất của nó - loại ước nguyện (phát bồ đề nguyện - DG) và loại dấn thân (phát bồ đề hạnh); có bốn loại tùy theo vị trí của hành giả trên đạo lộ - loại bồ đề tâm thuộc về tin tưởng và loại thuộc phân tích (bốn loại là: thập tín, thập trụ, thập hạnh, và thập hồi hướng - DG); ba loại tùy theo sắc thái phát tâm bồ đề - loại của vua, vân vân; và có 22 loại phát tâm bồ đề. Điều quan trọng là phải biết những trình bày sai khác này (xem Trang hoàng cho Thực Chứng của đức Di Lặc.)
Đến đây chấm dứt chương nói về phát tâm bồ đề nhờ chỉ giáo bảy lớp nhân quả. Bây giờ tôi sẽ bàn về hệ thống luyện tâm theo cách đổi địa vị mình với người. Đây là thuyết của Shàntideva, một vị Pháp vương tử vĩ đại. Mặc dù bạn sẽ phát tâm bồ đề nếu bạn luyện theo cách bảy lớp nhân quả nói trên, chúng ta vẫn bao hàm phương pháp trao đổi mình và người, vì phương pháp này rất hiệu lực. Phái Kadampas tiền kỳ đã sử dụng kỹ thuật này.
Điều mà ta gọi là “luyện tâm” đặc biệt ám chỉ sự đổi địa vị mình với người, cho và nhận.
a-2. Luyện tâm bằng cách đổi địa vị mình với người.
Pháp này rút từ tác phẩm Hành Bồ Tất Hạnh:
Bất cứ ai mong che chở bản thân và người khác,
Hãy đổi địa vị mình với người.
Hãy làm hạnh thánh này trong vòng bí mật!
Nói cách khác, pháp hành này sẽ không làm cho một pháp khí không xứng đáng ưa thích. Từ thời Atìsha cho đến thời Geshe Chaekawa giáo lý này được bảo tồn dưới một mật ấn. Có nhiều bản văn về luyện tâm, như Pháp luyện tâm như chim công chinh phục phục được độc tố; nhưng pháp tốt nhất thuộc loại này là Luyện Tâm Bảy Điểm. Nếu bạn thực tập pháp này, thì còn lợi lạc hơn pháp đã bàn. Bây giờ tôi sẽ dạy pháp này theo một bản sao xưa cũ của bản văn gốc (xem Phụ lục)
Có nhiều cách trình bày bản văn này; tôi sẽ theo hệt phái giảng dạy phát xuất từ Ngulchu Dharmavajra và môn đệ.
Trước hết, tính vĩ dại của các tác giả giáo lý này. Hệ truyền thừa bắt nguồn từ Phật Thích Ca xuống đến Atìsha; Atìsha truyền cho cho Dromtoenpa dưới một mật ấn. Drom giảng dạy Lam-rim cho môn đệ giữa công chúng, nhưng truyền pháp luyện tâm cho Potowa và những người khác trong vòng bí mật. Potowa truyền cho Langri Tangpa và Geshe Sharawa, Sharawa truyền cho đệ tử là geshe Chaekawa tất cả giáo lý về tâm bồ đề. Những giáo lý này được giảng công khai suốt thời đại Chaekawa.
Geshe Chekawa sinh vào một gia đình theo mật phái Nyingma và trở nên một người tinh thông năm minh, vân vân, nhưng ngài vẫn chưa thỏa mãn. Ngài tình cờ gặp tác phẩm của Langri Tangpa nhân đề Luyện Tâm Trong tám câu kệ, đại ý:
Hãy đem lợi lộc và vinh quang cho kẻ khác;
Hãy nhận sự thua thiệt và thất bại về phần mình.
Chaekawa tìm kiếm ý nghĩa câu này, nhưng lúc ấy Langri đã chết. Ngài gặp người kế vị của Langri là Sharawa và yêu cầu vị này chỉ giáo về cách luyện tâm. Nhờ thiền quán ngài dã phát tâm bồ đề trong dòng tâm thức. Chaekawa chi giáo nhiều người bệnh cùi, nhờ pháp thiền quán này mà nhiều người khỏi bệnh. Bởi vậy giáo lý này còn gọi là “Pháp của người cùi.” Chaekawa nghĩ thật rất uổng nếu một nền giáo lý như thế này phải giữ bí mật, nên ngài dạy pháp này giữa công chúng. Ngài viết thành sách nhan đề là Luyện Tâm trong bảy điểm. Tác phẩm này chia giáo lý thành bảy phần. Giáo lý này còn gọi là Tinh Chất Cam Lồ vì nó là giai đoạn cuối của việc luyện tâm, sẽ giúp bạn đạt đến trạng thái bất tử là Phật quả.
Tính vĩ đại của Pháp này có thể thấy được bằng cách tham chiếu lại phần nói về lợi lạc của tâm bồ đề, thế nào là bồ đề tâm như kim cương. Nó cũng có thể xua tan bóng tối của ngã ái, như chỉ một chút tia sáng mặt trời có thể xua tan bóng đêm. Nó có thể xua tan cơn bệnh ngã ái cũng như một chút dược thảo cũng đủ xua tan cơn bệnh. Trong thời đại có đủ năm thứ suy đồi này, khi mà pháp khác không còn hiệu lực, thì cách luyện tâm này sẽ giúp bạn, bạn sẽ không bị phiền hà vì những hoàn cảnh không may. Pháp này có nhiều lợi lạc như thế.
Nó khởi đầu bằng “Đảnh lễ Tâm Đại Bi.” Sự kính lễ này không phải làm đối với đức Thánh Quan Tự Tại, đức Phật đầy bi mẫn: như bậc thầy Chandrakirti kính lễ tâm đại bị mở đầu tác phẩm Thực Hành Trung Đạo, ở đây cũng thế. Bây giờ ta hãy theo dõi bảy phần của thân bài chính về pháp luyện tâm này.
hoangtri
07-04-2020, 09:01 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.1. Dạy về những chuẩn bị cho pháp này
Chương này là luyện tâm trong phần đường chung với những Phạm Vi Nhỏ và Trung Bình. Tôi không phải dạy lại phần này ở đây, vì không có gì khác nhau giữa cách đề cặp ở đây với cách trong Lam-rim.
a-2.2. Luyện tập hai loại tâm bồ đề
Luyện tập (1) tâm bồ đề tuyệt đối, và (2) tâm bồ đề tương đối.
a-2.2.1. Tâm bồ đề tuyệt đối.
Giáo lý được truyền thừa từ quá khứ nói rằng hạng người Đại thừa lợi căn nên luyện tâm bồ đề tuyệt đối trước hết. Tuy nhiên, câu chuyện về ngài Hastikopava có thể tái diễn nếu bạn làm việc luyện tâm bồ đề tuyệt đối trước khi giảng dạy phần kia nói về phương pháp.
(CT. Hastikopava đã làm một lỗi lầm khi dạy tâm bồ đề tuyệt đối trước - nghĩa là dạy trí tuệ về tánh không - cho một ông vua; ông này đã sai giết ngài trước khi ngài có cơ hội tiếp tục giảng phần còn lại của giáo lý, nói về bồ đề tâm tương đối hay tâm đại bi)
Bởi thế bây giờ tôi sẽ giảng về luyện tâm bồ đề tuyệt đối trước. Đây là theo pháp hành trì của thầy giáo đạo Tsecholing. Tôi sẽ bàn về nó sau, vì nó được đề cập trong chương nói về sáu ba la mật.
a-2.2.2. Luyện tâm bồ đề tương đối
Nguồn gốc chỉ giáo này là câu chuyện Maitrakanyaka và những chuyện khác, nói về một tiền kiếp của đức Đạo sư đầy từ mẫn của chúng ta khi Ngài còn là một bậc Dư lưu trên đạo lộ. Mặc dù lúc ấy, ngài bị tái sinh vào địa ngục làm một lực sĩ bị bắt kéo xe, ngài đã phát tâm bồ đề, vân vân.
Có năm tiêu đề phụ.
(i) Quán mình người bình đẳng
Điều này được đi trước bởi những phần ta đã bàn trước đây, nghĩa là từ “Xả” cho đến “Tâm từ do mãnh lực lôi cuốn.”
Khi ấy bạn nên quán như sau. Cúng dường Đạo sư nói:
Giữa tôi và người không có gì khác:
Chúng ta đều không muốn một chút khổ nào,
Còn hạnh phúc thì không bao giờ biết chán đủ.
Xin cho tôi vui mừng trước niềm vui của người.
Nói cách khác, hiện tại chúng ta yêu mến và đánh giá cao cái vật ta gọi là “tôi,” nhưng lại không nghĩ người khác cũng như thế, vậy tôi và người không bình đẳng. Thật là điều không hợp lý nếu làm một phân biệt to lớn như thế giữa hai bên. Đáng lẽ ta phải nghĩ, “Tôi và người khác đều bình đẳng, vì ai cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.”
Ở giai đoạn đầu này (về kỹ thuật) không cần sử dụng một lý lẽ nào. Giai đoạn luyện tâm này không khác gì với các phần “Hiểu rằng mọi Hữu tình đã là mẹ ta,” “Nhớ lại sự tử tế của họ,” và “Đền đáp sự tự tế của họ” trong kỹ thuật luyện tâm gồm bảy lớp nhân quả nói trên. Cũng vậy với hai phần cuối “Tâm Vị Tha” và “Tâm Bồ đề.” Tuy nhiên có khác nhau về mãnh lực của tâm Bi và tâm Từ qua năng lực của sự lôi cuốn. Hai khía cạnh này được đặc biệt đề cập ở đây. Chương trên về “Nhớ lại sự tư tế của họ” chỉ cho một phương pháp để nhớ lại sự tử tế của hữu tình đối với bạn khi họ khi làm mẹ của bạn. Kỹ thuật mới này có một cách nhớ lại sự tử tế của họ khi họ không phải là mẹ của bạn. Trước khi đi đến giai đoạn “trao đổi địa vị mình với người”, bạn phải nghĩ rằng hành ngã ái là một lỗi lầm, một điều kiện bất lợi, và thương người là một đức tính, một điều kiện thuận lợi.
(ii) Quán nhiều lỗi lầm phát sinh từ ngã ái
Cúng dường Đạo sư nói:
Tôi thấy căn bệnh ngã ái kinh niên này,
Là nguyên nhân sản sinh ra khổ đau không ai muốn…
Trong tác phẩm Hành Bồ Tất Hạnh nói:
Mọi khổ đau trên thế gian đã xảy đến
Bắt nguồn từ sự mong muốn hạnh phúc cho bản thân…
Bất cứ nỗi sợ hãi đau khổ nào
Trút xuống phàm phu
Đều bắt nguồn từ ngã ái
Sao tôi còn giữ con ma lớn này?
Bản văn gốc của chúng ta nói:
“Chỉ nên trách một điều mà thôi.”
hoangtri
07-07-2020, 08:35 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
Nghĩa là mọi khổ đau mà bạn không muốn đều phát sinhh từ ngã ái của chính bạn. Bị đau khổ vì khí giới, vì độc dược, trời rồng; vì tái sinh vào địa ngục làm quỷ đói súc sinh v.v…- tất cả điều này đã giết chúng sinh khác với hy vọng được lợi lộc hạnh phúc cho riêng mình, hoặc do vì đã keo kiệt, khinh bỉ người khác. Cũng vậy, bị ngã quỵ vì những chứng bệnh khí huyết như phong mật đàm v.v…, sợ hãi kẻ thù, vướng vào tranh chấp; hay sợ chính quyền theo dõi - tất cả điều này chỉ là do bạn thiếu tự chế, ham ăn, hoặc bị ám ảnh bởi thực phẩm, thời trang và danh tiếng. Trên đỉnh nấc thang xã hội những vị vua, thủ tướng, toàn quốc vướng vào chiến tranh, hoặc ở cuối nấc thang là dân chúng gia đình tranh chấp nhau, cả đến những tu sĩ cũng tranh giành nhau - tất cả điều ấy đều do một nguyên nhân duy nhất là ngã ái. Nếu không có ngã ái thì không có vấn đề. Ngã ái của bạn đã tạo ra tất cả rắc rối như trộm cướp, bao lúa mạch của bạn bị chuột khoét lỗ cũng là do ngã ái. Khi bạn chết vì độc dược hay vì ăn không tiêu, thì không thực sự là vì độc dược mà vì ngã ái. Bạn đã ăn quá nhiều. Ngã ái của bạn đã giết bạn. Khi bạn vô tội mà bị buộc là kẻ trộm, đấy là quả báo trực tiếp vì đã hại người khác do ngã ái.
Ngã ái là tên đồ tể đã giết những cơ hội cho bạn có tái sinh thù thắng hoặc giải thoát. Nói giống như tên cướp mang trên lưng một bao đầy 3 chất độc và trộm hết mùa gặt công đức của bạn. Nó giống như một người gieo giống đã gieo những hạt giống ác nghiệp trong thửa ruộng vô minh để gặt lấy mùa gặt sinh tử. Nó như người tìm vinh quang không màng tên nhọn, gươm giáo giữa trận mạc với hy vọng được vài lợi lộc cá nhân. Nó là một tên liều lĩnh trong cơn khủng hoảng đã bỏ trốn cả thầy, tu viện trưởng hoặc cha mẹ. Nó là tên khốn nạn tay không ngay từ đầu đã không làm được một đức hạnh nào. Nó làm cho bạn hy vọng, sợ hãi những điều không chính đáng. Nó làm cho bạn ganh ghét với những người trên bạn, cạnh tranh với những người ngang hàng, khinh bỉ người dưới, nó làm bạn kiêu căng khi được ca tụng và tức giận khi bị chỉ trích. Nó làm cho mọi sự trong thế gian đều xuống cấp. Nó là nguồn gốc của điều bất thiện, cái đem lại cho bạn đau khổ, một tên báo điềm xấu với gương mặt cú già. Nó là một con hình nhân bị ếm chôn ở giữa tim bạn. Nếu bạn cần phải hăm dọa một cái gì và ném cho nó đồ cúng, bạn hãy ném đồ cúng để xua đuổi con hình nhân ấy. Khi chúng ta ném ra những chiếc bánh lễ, chúng ta thường ném cho những hữu tình đã từng là cha mẹ ta trong nhiều kiếp trước, vừa khấn: “Cái này là dành cho kẻ thù tôi!” Thật là sai lầm biết bao! Đây là ý nghĩa lời trích dẫn. “Ngã ái là con chim báo điềm xấu có cái đầu màu xanh; sự tu luyện tâm là quà hối lộ để làm cho con vật quấy rầy ấy đi chỗ khác.”
Có lần một người thực hành lẽ Chod chiếm đoạt chỗ ở của phi nhân.
(CT: Lễ Chod hay “cắt đứt” là một phương pháp phát bồ đề tâm có tính cách phẫn nỗ và mãnh liệt, được truyền cho cô gái Tây Tạng tên Machig Labdroen trong khi quán tưởng Padampa Sangyae. Một điểm quan trọng của lễ này là, hành giả quán thân thể của mình bị chặt ra từng mãnh, đặt trong một cái tách bằng sọ người, được chuyển thành cam lồ cúng cho tất cả hữu tình, đặc biệt là cho những kẻ thù và người bất lương. Những hành giả về pháp tu này rất dễ nhận ra ở Tây Tạng với cái trống lớn của họ và một cái kèn làm bằng xương ống chân người. Sự thành công trong pháp này tùy thuộc vào chiều sâu của sự thực chứng của hành giả về 3 nòng cốt là sự từ bỏ, tâm đại bi và bản chất như huyễn của thân xác và mọi hiện tượng. Khi hội đủ những điều kiện ấy, người ta có thể vui vẻ đi đến nghĩa địa hoặc một nơi bị ác ma thường lui tới, hô triệu chúng lên để cúng thân xác mình.)
Phi nhân này bèn sử dụng yêu thuật để sống ở đấy. Một ngày kia 2 thí chủ của hành giả nói trên gây nhau, hành giả liền đến giảng hòa nhưng bị một trong hai người vớ lấy một khí giới để giết ông ta. Tôi nghe câu chuyện này từ bậc tôn sư của tôi. Căn nguyên cuối cùng của những cái chết bạo động như thế chỉ là do ngã ái. Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Khi những tư tưởng của bạn
Chỉ mong lợi lạc cho mình,
Thì bao nhiêu công trình khó nhọc của bạn
Thực hiện qua vô số kiếp
Chỉ đem lại cho bạn khổ đau.
hoangtri
07-08-2020, 07:51 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI BẢY
__________________________________________________ ______________________________________
Nghĩa là, cái điều đem lại khổ đau cho ta từ vô thủy sinh từ đến nay là ngã ái của chính ta. Ngã ái và chấp thủ bản ngã là 2 chuyện hoàn toàn khác nhau, nhưng trong việc luyện tâm này chúng được bàn đến như thể cả hai chỉ là một, vì có vài điểm tương đồng. Nói vắn tắt, ngã ái và ngã chấp đều là gốc rễ của mọi vấn đề. Ngã ái thì vận hành bằng cách thiết lập cái tôi - cảm tưởng của bạn về bản ngã - cho là thực có. Ngã chấp thì vận hành bằng cách không từ bỏ những ý tưởng về tôi, và yêu mến những ý tưởng ấy.
Nói tóm lại, mọi vấn đề phát xuất từ một ý tưởng thâm căn cố đế “tôi muốn hạnh phúc,” nhưng nếu bạn không hàng phục được ngã ái này, thì bạn không có hạnh phúc. Bạn chưa từng kiểm lại để xem cái gì là gốc rễ đáng trách đã gây ra đau khổ cho bạn, nhưng đó chính là ngã ái. Từ này trở đi, bạn hãy kiểm lại xem cái gì đáng trách, hãy xem ngã ái của bạn như một kẻ thù, hãy thực hành những kỹ thuật để từ bỏ.
(iii) Quán sát nhiều đức tính do sự thương người.
Shantideva nói:
Tất cả hạnh phúc trên đời
Đều do mong muốn hạnh phúc cho người khác.
Và Cúng dường Đạo sư nói:
Tôi thấy rằng thương mến những hữu tình này,
- Những bà mẹ của tôi -
Là một ý tưởng đưa đến hạnh phúc,
Là cánh cửa dãn đến vô lượng đức tính…
Bản văn về luyện tâm của chúng ta nói:
“Hãy thiền quán về sự tử tế lớn hơn tất cả.”
Nói cách khác, có thân thể và tài sản thuộc một tái sinh thù thắng hay có hoàn cảnh tráng lệ vây quanh là do thương người mà ra. Đức hạnh từ bỏ sát sinh vì yêu mạng sống của kẻ khác sẽ chín thành quả báo tái sinh ở thượng giới, sống lâu, vân vân. Sự thực hành bố thí, từ bỏ thói hà tiện do thương người, sẽ được quả báo là có tài sản lớn, vân vân. Tóm lại, như Shantideva nói:
Cần gì nói nữa?
Hãy nhìn sự khác nhau
Giữa kẻ ngu làm việc cho mục đích riêng mình,
Và đấng Thánh đã làm lợi lạc kẻ khác.
Và trong Cúng dường Đạo sư có câu:
Tóm lại: người ấu trĩ chỉ làm việc lợi mình;
Thích Ca Mâu Ni chỉ làm lợi kẻ khác.
Mong cho con nhận thức được
Cái gì là lỗi lầm cái gì là thiện đức.
Lúc đầu chúng ta đồng đẳng với đấng Đạo sư, và cũng như Ngài, chúng ta đã lang thang trong sinh tử. Nhưng vào một thời điểm trong quá khứ, đấng Mâu ni khởi sự thương người và tiến lên để hoàn tất cả mục tiêu của mình và của người nhờ tận trừ lầm lỗi và đạt đến tột đỉnh của mọi thiện đức. Còn chúng ta thì trái lại, từ vô thỉ sinh tử cho đến ngày nay chỉ yêu mến bản ngã mình. Chúng ta đã cần cù khó nhọc với tâm mong cầu hạnh phúc cho mình, nhưng ta đã không được cái gì bù lại. Mọi sự chúng ta hoàn tất được chỉ có làm phương tiện cho chúng ta đi xuống các đọa xứ; và ngay hiện tại ta cũng chỉ có độc một nỗi khổ đau. Nếu ngược lại, trong quá khứ ta đã làm như đấng Đạo sư từ mẫn của chúng ta, thì mọi nỗi khổ của ta bây giờ đã được nhổ tận gốc rễ; chắc chắn chúng ta đã được hạnh phúc tối thượng và có thể thỏa mãn nhu cầu hữu tình một cách tốt đẹp rồi. Tuy nhiên điều ấy đã không xảy ra, nên ta mới rơi vào nỗi khổ hiện tại.
Có lần trong một lễ cầu an tại một tu viện, một vị geshe ở Dagpo đã xen vào buổi lễ vài lời nguyền rủa được tìm thấy trong tác phẩm Bánh xe Khí giới Sắc bén. Một ví dụ:
Sự việc là như thế đấy: tôi đã biết được kẻ thù tôi!
Ta đã phục kích và tóm được ngươi, hỡi tên trộm láu cá!
Kẻ giả dối! Ngươi đã chọc quê ta với những lời lừa bịp!
Hỡi ngã chấp! Ta không còn ngờ gì nữa bộ mặt của ngươi.
Điều này đã gây một chấn động. Nhưng mục đích được xác định, đó là hãy nhận ra kẻ thù đích thực của ta.
Có lần một hành giả mật tông thực hành bùa chú giết nhiều kẻ cướp. Đức Dalai Lama đệ nhất, Gyaelwa Gedun Drub, con trai của Lubdroen, cầu xin rằng người phù thủy sẽ bỏ bùa chú giết ngã ái nơi chính ngài. Nhưng ngài không có ngã ái, nên bùa chú của phù thủy không hại được.
Drugpa Kuenleg có lần làm những bánh lễ để cúng trừ những chướng ngại cho em trai ông ta. Khi săp sắp tung ra ngoài những bánh lễ ấy, Kuenleg nảy ra một ý nghĩ là, tại sao không ném chúng vào ngã ái? Bởi thế ông ném bánh vào đùi của em trai ông.
Đấng Đạo sư đầy từ mẫn của chúng ta cũng thương người trong các tiền kiếp của Ngài. Một lần Ngài tái sinh làm vua Padmaka, Ngài chết vì một bệnh dịch tái sinh làm con cá Rohita, thịt của Ngài đã chữa nhiều hữu tình khỏi bệnh dịch. Khi Ngài tái sinh làm một con rùa Ngài đã cứu năm trăm thương gia rớt xuống biển; rồi Ngài lại xả thân cho tám mươi ngàn con ruồi. Ngài bố thí một nữa thân thể Ngài khi làm vị vua tên Shrìsena. Khi làm Mahàratnachùda Ngài có một viên ngọc trên đỉnh đầu, và Ngài dã cắt thịt mình để lấy viên ngọc ấy cho người khác. Khi làm thái tử Prakrti Ngài đã bố thí thân xác Ngài cho một con hổ đói sắp ăn thịt con. Khi làm Chandreprabha Ngài bố thí đầu.
Sau khi kể chi tiết những chuyện trên, Pabongka Rinpoche tiếp tục:
Đây là những hành vi của đấng Đạo sự từ mẫn của chúng ta. Chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình, nhưng dù những việc ấy khó làm, ta cũng phải chuẩn bị để sau này có thể làm được như thế, bằng những lời cầu nguyện.
Thương người khác là việc làm chính đáng. Vì chúng ta tùy thuộc vào hữu tình để có thực phẩm, họ giống như một thửa ruộng cho nhiều mùa gặt tốt, hay như những viên ngọc ước. Không những tất cả hữu tình đều đã tử tế với ta khi họ là mẹ ta trong quá khứ, mà cả khi họ không là mẹ ta, chúng ta cũng chỉ sống được nhờ sự tử tế của họ. Chẳng hạn chỉ một bao bột lúa mạch cũng là kết quả của nhiều công việc nặng nhọc. Một số hữu tình phải cày đất, một số khác phải tưới nước, đập lúa vân vân. Ngôi nhà chúng ta đang ở là hậu quả của sự tử tế của hữu tình: Nhiều súc vật và người phải mang đất, xây tường, làm nghề mộc, kiếm nước, vân vân. Chiếc khăn quàng này bây giờ sẵn sàng để dùng, nhưng một số lớn cừu đã phải sản xuất ra len; một số người phải dệt và một số phải may.
Nhờ sự tử tế của tất cả hữu tình mà hiện tại ta tạm thời có được thân người thuận lợi; và cuối cùng nhờ sự tử tế của họ mà ta sẽ phát tâm bồ đề, luyện tập hạnh bồ đề và lại còn đạt thành Phật quả. Chúng ta có được tất cả là nhờ lòng tử tế của họ, vì hữu tình là đối tượng cho ta phát tâm bồ đề và bố thí. Hữu tình là căn bản của giới chúng ta và là đối tượng cho ta thực hành nhẫn nhục.
Hành Bồ Tất Hạnh nói:
Chư Phật và chúng sinh đều cần thiết như nhau
Để cho ta thực hành Phật pháp.
Trong khi bạn tôn kính chư Phật
Thì sao lại không tôn trọng cả hữu tình?
Nói cách khác, bạn đã thành Phật được một phần là nhờ lòng từ bi của bậc thầy, và một phần nhờ lòng tử tế của chúng sinh. Langri Tangpa nói:
Khi quán sát rằng tôi sẽ đạt đến lợi ích tối thượng
Nhờ tất cả chúng sinh
- Hơn là nhờ bất cứ một viên bảo châu nào -
Mong cho tôi càng thương chúng sinh hơn nữa.
Nghĩa là, chúng sinh sẽ thành tựu giúp bạn tất cả mục tiêu của bạn, những mục tiêu tạm thời cũng như tối hậu. Bởi thế, họ cũng giống như viên ngọc ước, do đó điều dĩ nhiên là phải thương mến tất cả hữu tình.
hoangtri
07-10-2020, 03:57 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI TÁM
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY MƯỜI TÁM
Kyabje Pabongka Rinpoche cho một mẫu chuyện ngắn để chúng tôi khởi động lực. Ngài trích dẫn đức Tsongkapa vĩ đại:
Bị cuốn trong bốn dòng thác mạnh,
Bị trói bởi xiềng xích các nghiệp khó dứt,
Bị tóm vào cái bẩy sắt ngã chấp,
Bị ngạt thở trong luồng khói ám vô minh,
Hữu tình mãi mãi tái sinh trong thế gian
Và liên tục bị hành hạ bởi ba loại khổ…
Ngài nhắc lại những đề mục trên và ôn lại việc luyện tâm bồ đề bằng bảy lớp nhân quả. Phần thứ hai của thân bài này là pháp luyện tâm bồ đề bằng cách trao đổi địa vị mình với người. Có 5 đoạn: (1) Quán mình và người bình đẳng; (2) Quán những lỗi lầm phát xuất từ ngã ái; (3) Quán những lợi ích cho sự thương mến người khác; (4) Pháp quán thực sự về trao đổi địa vị mình với người; (5) dùng cho những điều trên làm căn bản để thiền quán về Cho và Nhận. Ngài ôn lại ba điểm đầu trên trên đây, rồi tiếp tục:
(iv) Pháp quán thực thụ đổi địa vị mình với người
Chúng ta đã bàn về những lỗi lầm do ngã ái, và những đức tính do thương người. Cũng giáo lý này được chứa đựng trong 4 câu thơ: “Tôi thấy bệnh kinh niên là ngã ái…” Sau khi thấy rõ gì là quả báo của lỗi lầm và của thiện đức, bạn nên đổi địa vị mình với người. Nhưng điều này không có ý nghĩa rằng bây giờ bạn nên hiểu rằng mình là người khác hay người khác đã trở thành mình. Trong quá khứ bạn đã bất chấp người khác, vì bạn thương yêu chính mình. Bây giờ hai thái độ ấy nên đổi chỗ. Như vậy sự “thay đổi” này ám chỉ sự chuyển tâm ái luyến tự ngã của bạn thành ra lòng thương đối với kẻ khác. Bạn luyện tâm bằng cách nghĩ như sau: “Tôi thường không nghĩ đến người khác, nhưng từ đây trở đi, tôi sẽ không nghĩ đến nhu cầu của chính tôi; tôi đã tự thương mình, nhưng từ đây trở đi tôi sẽ thương người khác.” Nhờ quen thuộc với pháp này, bạn sẽ thực hiện được một cuộc trao đổi địa vị như thế. Hãy nghĩ về ví dụ sau đây: Khi bạn ở lâu trên sườn núi bên kia, thì bạn sẽ nghĩ về sườn núi ấy là “bên này.”
(v) Phương pháp thiền định về cho và nhận.
“Nhận” là để xây dựng đại bi, “cho” là để xây dựng đại từ. Bản văn gốc chúng ta nói:
“Hãy luyện tâm về sự cho và nhận.”
Điều này là để cho những pháp quán trước đấy có hiệu quả. Trong những bài giảng được viết về Cho và Nhận, sự “cho” Đạo sư bàn trước; nhưng trong thực hành thì “Nhận lấy” được thi hành trước. Kỳ thực có thể chỉ nên tu tập phần “Nhận lấy” mà bỏ phần “Cho.” Sẽ không lợi lạc nếu đem Cho hạnh phúc trước khi Nhận lấy đau khổ. Bởi thế, hãy thực hành như sau để xây dựng tâm đại bi.
Hãy nghĩ, “Tôi sẽ nhận lấy hết khổ đau từ tất cả hữu tình, những người mẹ của tôi, và phát sinh tâm đại bi. Rồi quán tưởng tất cả khổ đau của họ được rũ bỏ như tóc được cạo sạch, có hình dáng những tia khói đen tan thành khói ngã ái ở trái tim bạn.
Bạn có thể làm việc này một cách chi tiết hơn. Hãy nghĩ nỗi khổ do sức nóng của các địa ngục tan thành lửa vân vân, vào trong tim bạn, và nó tan thành thói ngã ái rầy rà của bạn. Hãy quán tưởng bạn đang nhận lấy những khổ đau tội lỗi và chướng ngại, v.v… của những chúng sinh ở các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, tu la, người, chư thiên, vân vân cho đến những Bồ tát ở mười địa vị. Rồi tưởng tượng họ bây giờ đã được tịnh hóa tất cả tội lỗi nghiệp chướng. Hãy cầu nguyện cho những thứ ấy chín mùi nơi bạn. Nhưng khi làm sự “nhận lấy” này, thì đừng nhận từ chư Phật hay các bậc thầy của bạn.
Có nhiều hạng người trình độ khác nhau. Một số người sơ cơ tự thấy mình không thể thiền quán về Cho và Nhận. Đối với hạng này, bản kinh nói:
Hãy xây dựng sự Nhận Lấy của bạn bằng cách khởi từ bản thân.”
Nói cách khác, buổi sáng bạn thiền quán rằng bạn đang nhận lấy hết nỗi đau khổ mà bạn sẽ kinh quá vào buổi chiều; tiếp đến, nhận lấy khổ đau của ngày hôm sau; rồi đau khổ của ngày còn lại trong tháng; trong năm; trong đời này; đời sau, và tất cả những đời sau. Tiếp tục đến cha mẹ, bà con, bè bạn, kẻ lạ, người thù vân vân, cho đến khi bạn bao trùm tất cả hữu tình. Tập luyện như thế từng bước một, rước vào mình những đau khổ, tội lỗi, chướng ngại, vân vân, của từng hạng người đặc biệt. Bạn phải thứ tự như trên, vì lúc đầu bạn sẽ không thể nghĩ đến chuyện rước lấy đau khổ của những người như kẻ thù của mình được. Bởi thế, thỉnh thoảng hãy thiền quán khởi từ chính bạn, rồi di chuyển ra ngoài theo cách trên, thỉnh thoảng khởi từ địa ngục lên đến thập địa bồ tát. Đôi khi khởi từ những đàn ông đàn bà ở trong thung lũng miền thượng trở xuống; đôi khi khởi từ dưới đi lên. Hãy nhận lấy cả những đau khổ của một con chó bị ném đá. Hãy quán những gì bạn nhận lấy không phải biến mất hay được đặt sang một bên, mà chúng được thâu nhận vào ngay trong tim bạn. Tốt nhất là khi việc này khiến bạn đâm ra lo sợ cho tính mạng mình!
hoangtri
07-13-2020, 06:50 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI TÁM
__________________________________________________ ______________________________________
Bạn có thể không thực sự thâu nhận những điều ấy được trong lúc thiền quán, nhưng nó kích động bạn hoàn tất được sự tích lũy công đức; và khi tâm bạn đã quen thuộc với tiến trình tu luyện này, thì cuối cùng đôi khi bạn có thể rước lấy những điều ấy thực, như câu chuyện về Maitrìyogi.*
(CT: Vị này trông thấy một con chó bị trúng đá nơi ống chân. Ông nhận lấy sự đau khổ ấy, và thấy trên cánh tay mình có một vết bầm.)
“Cho” để xây dựng tâm từ là như sau:
“Để làm lợi lạc cho hữu tình,
Xin cho thân tôi biến thành tất cả gì chúng mong muốn.”
Ngoài ra, kinh Cờ Chiến Thắng Vajra và kinh Trái Rơm nói về sự bố thí thân xác và của cải. Theo những kinh này, bạn hãy quán thân mình biến ra nhiều thân, trở thành những vật mà hữu tình mong mỏi. Những vật này tuôn ra dưới hình dạng những cơn mưa làm lắng dịu nỗi khổ của những chúng sinh ở địa ngục chẳng hạn; nhờ vậy chúng được tái sinh làm người và chỗ ở của chúng biến thành những tòa nhà đẹp đẽ. Bạn biến hóa ra những thân và thân này chuyển thành những lạc cụ cho chúng thụ hưởng, như thật nhiều thực phẩm, y phục v.v… Những thân ấy lại còn trở thành những hướng đạo tâm linh để dạy Pháp cho chúng, nhờ đó chúng tiến gần đến giác ngộ. Rồi những thân thể biến hóa ấy lại lấy hình dạng của ánh sáng mặt trời, y phục v.v… cho chúng sinh ở địa ngục lạnh; đồ ăn uống cho ngạ quỷ; trí tuệ biết phân biệt các pháp cho súc sinh; áo giáp cho tu la; ngũ dục cho chư thiên. Nhưng loài người thì có nhiều dục vọng nhất, bởi thế hãy cho chúng những thân thể biến hóa trở thành bất cứ gì chúng thích. Hãy ban phát những công đức của cải của bạn theo cách ấy; và làm những dâng cúng dồi dào như thế cho những bậc thầy, quán tưởng rằng điều ấy sẽ làm tăng những thiện sự của họ. Mặc dù thật tốt để đem lại những thiện căn của bạn trong cả 3 thời, hoặc thân và tài sản của bạn trong hiện tại và vị lai, nhưng đừng cho thân thể và sở hữu của bạn trong quá khứ. Khi thực hành pháp “Cho” bạn sẽ phát triển được tâm từ như tôi đã nói, vì bạn sẽ nghĩ về những chúng sinh ấy rằng họ quá thiếu hạnh phúc như thế nào. Bạn lấy pháp quán để luyện tâm này làm pháp tu chính yếu của bạn.
Trong đời sống hàng ngày
Hãy luyện tâm bằng những bài thơ
Để gợi lên sự nhớ nghĩ.
Nói cách khác muốn tăng tiến chánh niệm trong pháp tu tập Cho và Nhận, hãy luôn luôn tụng một vài bài kệ về đề tài này. Có một vài bài kệ như vậy trong quyển Luyện Tâm như Ánh Vàng Ròng, nhưng nếu bạn chưa biết những bài này, thì chỉ cần tụng đọc những hàng sau đây trích từ Cúng Dường Đạo Sư cũng đủ:
Hỡi bậc thầy tôn quý đầy từ bi
Hãy gia hộ cho con:
Mong tất cả khổ đau,
Tội lỗi và chướng ngại
Của tất cả hữu tình đã từng làm mẹ con
Bây giờ hãy trút hết lên con không trừ;
Con nguyện cho người khác hạnh phúc và thiện hành của con,
Mong tất cả hữu tình được hạnh phúc.
Có những chuyện kể về những tu sĩ trong quá khứ thường lần chuỗi tụng bài này.
Bạn cũng phải sử dụng một vài phương pháp để tăng trưởng tâm bồ đề của bạn trong khi làm việc hàng ngày. Bạn nên tham cứu kinh Hoa Nghiêm và kinh Sự Chính Đáng Của Nỗ Lực Hoàn Toàn Thanh Tịnh. Những người nào trong số các bạn muốn lấy bồ đề tâm làm pháp tu chính yếu thì hãy luôn luôn đọc và quán kinh Hoa Nghiêm, như đức Tsongkapa vĩ đại đã làm, theo tiểu sử của vị nhập thế này của Đức Văn Thù.
Bản văn gốc nói:
“Hãy đưa hai việc này vào những luồng khí lực.”
Nói cách khác, khi bạn đã nắm vững phần nào pháp quán Cho và Nhận này, bạn nên phối hợp “Cho” với hơi thở ra và “Nhận” với hơi thở vào. Lúc đầu bạn chưa thể đưa vào các luồng khí lực, nhưng nhờ thực tập liên tục, bạn sẽ làm được. Tâm và những luồng khí này sóng đôi, bởi thế phương pháp trao đổi mình với người này rất dễ phát triển tâm bồ đề. Nó còn có tương đương của nó trong Mật tông, phần bàn về pháp tụng đọc Vajra (kim cương). Khi Kaedrub Rinpoche ca tụng Rinpoche: “Hỡi đấng che chở! Ngay cả hơi thở của Ngài cũng trở thành một liều thuốc êm dịu cho hữu tình…” câu này phải được hiểu theo cách ấy.
Còn có những chỉ giáo khác ở điểm này nhưng sẽ không tốt nếu đem nói cho những người không thực hành thường xuyên.
hoangtri
07-14-2020, 07:28 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI TÁM
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.3.1. Chuyển hóa hoàn cảnh bằng tư tưởng
Có 2 tiêu đề phụ (1) Chuyển hóa nhờ phân tích (2) chuyển hóa nhờ hành động.
(i) Chuyển hóa nhờ phân tích
Cúng Dường Đạo Sư nói:
“Khi vũ trụ tràn ngập những hậu quả của tội lỗi…” Bản văn gốc của chúng ta về pháp luyện tâm cũng nói tương tự:
Khi vũ trụ đầy tội lỗi,
Hãy chuyển hoàn cảnh không may này
Thành con đường đưa đến giác ngộ.
Nghĩa là hiện tại, mỗi khi lo lắng vì bệnh hoạn, kẻ thù, phi nhân, v.v…, chúng ta thường trách cứ người khác. Vì chúng ta không hiểu được rằng tất cả bệnh tật là hậu quả của nghiệp chúng ta, chúng ta cho rằng nó do đồ ăn, do ác ma, v.v… Tuy nhiên khi chúng ta nhìn sâu vào sự kiện căn bản đáng trách, thì ta sẽ thấy rằng mọi nỗi bất hạnh đều phát sinh do nghiệp, như tôi đã dạy trong phần nhân quả thuộc Phạm Vi Nhỏ. Và ngay cả nghiệp ấy cũng do ngã ái của ta; bởi thế ngã ái là điều căn bản đáng trách.
Khi một tên trộm cướp hết đồ đạc quý giá của bạn, thì đừng trách tên trộm, mà hãy trách ác nghiệp của bạn và điều là bạn phát sinh nghiệp ấy, nghĩa là ngã ái. vậy khi bạn đối mặt với bệnh hoạn, khổ đau, nghịch cảnh… bạn phải nghĩ là chúng đang giúp đỡ bạn thành tựu giác ngộ. Có câu nói: “Bệnh, tội lỗi và chướng ngại là một cái chổi (để quét sạch nghiệp-DG).”
Nghĩa là mỗi khi bạn ngã bệnh v.v… thì hãy nghĩ rằng ác nghiệp này, tội lỗi và chướng ngại này, mà quả báo của chúng đáng lẽ bạn phải chịu trong các đọa xứ, thì trái lại đã chín ngay trong đời này. Việc này làm cho bạn cảm thấy sung sướng. Lại nữa bạn cũng nên mừng mà nghĩ rằng: “Tôi đang thực hành pháp Cho và Nhận bằng cách quán tưởng tôi đang nhận lấy những tội lỗi và chướng ngại của các hữu tình. Bây giờ tôi đã thực sự thành đạt điều ấy.” Hãy cầu nguyện cho bao nhiêu nỗi khổ của chúng sinh còn lại sẽ trút lên bạn, và trong lúc thiền quán tưởng tượng rằng việc ấy đang làm vơi đi tất cả đau khổ và đáng lẽ các hữu tình phải chịu. Hãy quán tưởng một cách chân thành khi bạn làm việc “nhận lấy” này: “Thật tốt biết bao nếu bây giờ tôi thực sự nhận lấy khổ đau của hữu tình!” Nếu bạn tu tập cách ấy, thì ngay cả bệnh tật cũng sẽ không làm chướng ngại bạn. Những thiện hành của bạn sẽ tăng, như trong câu chuyện về người đệ tử của Kuenpang Draggyaen, đã bị bệnh cùi và được chữa khỏi.
Có câu nói: “Những nghịch cảnh kích thích ta sáng tạo công đức.”
Nghĩa là bạn sẽ nỗ lực tích lũy phước đức trí tuệ và thanh lọc những chướng ngại khi bạn an trú trong ý nghĩ rằng điều hiển nhiên là bạn phải từ bỏ ác hành nếu bạn không muốn đau khổ. Chúng ta hoàn toàn hạnh phúc khi không gặp hoàn cảnh không may, và bởi thế ta không nhớ pháp. Nhưng khi những nghịch cảnh như mang tiếng xấu, bị xuống chức, bị bệnh, v.v… thì chúng ta mới tung mình ra khỏi tình trạng vô cảm và khởi sự làm việc lành.
Quỷ thần, ác ma, ma vương
Là phương tiện mà chư Phật dùng;
Chân như vui thích làm bạn với đau khổ.
Khi bạn bị ma vương, ác ma, bùa chú v.v… làm hại, thì hãy xem như chúng đang làm lợi ích lớn cho bạn, vì điều ấy tác động cho bạn tu tập Pháp trong khi trước đấy bạn hoàn toàn bù đầu vào những chuyện thế tục không nhớ gì đến Phật pháp. Đau khổ cũng có thể là một yếu tố góp phần vào việc chứng ngộ chân như nếu bạn biết cách lèo lái tư duy của mình. Vì bệnh là hậu quả của ngã ái, nên bạn cần suy nghĩ rằng bệnh, ác ma v.v… rất tốt cho bạn vì chúng giúp bạn hàng phục kẻ thù là ngã ái - một việc bạn không thể tự làm. Khi một hoàn cảnh bất lợi xảy đến cho chúng ta, chúng ta liền gián đoạn ngay sự tu tập. Nhưng đừng làm thế. Cũng như bạn phải coi chừng khi đi qua một con đường hiểm, bạn phải cẩn thận đừng phế bỏ sự tu tập khi gặp hoàn cảnh xấu. Đấy là lý do tại sao người ta bảo thật quan trọng để thực hành pháp “Cho và Nhận” một cách nghiêm chỉnh. Quyển Hành Bồ Tát Hạnh nói:
“Điều tốt đẹp của đau khổ là
Nó tẩy trừ kiêu mạn buồn sầu.
Người ta phát triển lòng xót thương.
Đối với chúng sinh trong sinh tử,
Tránh làm ác và thích làm lành.
Khi đối diện với đau khổ, bạn cảm thấy bất hạnh và điều này tẩy trừ kiêu căng. Bạn cũng cảm thấy thương xót kẻ khác vì chính bạn cũng đau khổ, và điều này là một nhân tố cho bạn mong muốn từ bỏ những gì bạn cần phải từ bỏ. Khi ta không gặp đau khổ, thì ta cứ tưởng mọi sự đều tốt đẹp, và ta lấy làm sung sướng. Nhưng có câu nói:
hoangtri
07-14-2020, 07:31 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI TÁM
__________________________________________________ ______________________________________
Đừng vội vui mừng khi gặp sung sướng
Mà hãy vui mừng khi gặp chuyện buồn:
Sự sung sướng làm tiêu mòn công đức bạn tích lũy,
Còn đau khổ thì tịnh hóa được tội lỗi và chướng ngại.
Giữ một địa vị cao thì cũng giống như bị quản thúc tại nhà, như những vị Lạt ma và viên chức cao cấp không được đi bất cứ đâu họ muốn. Một vị Lạt ma nói:
“Chức vị cao cũng như bị quản thúc,
Chức nhỏ là nơi cư trú tuyệt vời cho những Đấng Chiến thắng.”
Nghĩa là tất cả những học giả, hành giả trong quá khứ đều giữ những địa vị thấp và đã đạt đến Phật quả. Ngay cả Drom Rinpoche cũng đã quỳ lạy trước người dưới ông; bởi thế chúng ta không nên đặt mình cao hơn người khác. Bằng cách ấy ta sẽ dễ dàng giữ tình bạn.
Đừng vui khi được khen,
Mà bãy vui khi bị chỉ trích:
Sự chỉ trích sẽ soi sáng lỗi lầm của bạn.
Nói cách khác lòng kiêu căng của bạn càng tăng bội khi người khác ca tụng bạn. Nhưng kiêu căng cũng như lời ca tụng sẽ làm cho bạn đọa. Bạn không thể thấy lỗi làm của mình, và mặc dù bị chỉ trích thì không có gì vui, nhưng sau đó bạn sẽ xét lại hành động của mình, và điều này sẽ làm bạn cẩn thận thay đổi lối hành xử.
Có câu nói:
“Lời phỉ báng là một ân huệ của chư thiên.”
Có nghĩa sự phỉ báng là một điều thần diệu. Bởi thế mỗi khi bạn vướng vào những hoàn cảnh xấu như gặp những sự phỉ báng làm cho bạn chao đảo, thì hãy nghĩ như trên.
Khi bạn sung sướng, bạn nghĩ rằng đấy là hậu quả của thiện hành, và điều này sẽ làm cho bạn vui vẻ thiền quán về tâm bồ đề v.v…
(ii) Chuyển hóa bằng tri kiến
Bản văn của chúng ta nói:
Hãy xem tất cả mọi tướng giả dối
Như là bốn loại thân.
Tuy nhiên, lời này là theo cách giải thích xưa cũ từ thời truyền pháp đầu tiên, và khi xét lại chúng ta thấy nó chưa ổn. Khi ta nhìn sâu vào bản chất của một nỗi khổ đã sinh khởi, người ta bảo nó là pháp thân (thân của chân lý), vì nó không sinh tử bất cứ gì, v.v… nhưng tôi có cảm tưởng điều này không đánh trúng vào điểm chính. Nói vắn tắt, hạnh phúc và đau khổ của chúng ta có thể đã phát sinh từ những hoàn cảnh hoặc tốt hoặc xấu. Nhưng khi xét bản chất của chúng thì những điều ấy được thấy là đã sinh ra từ một chuỗi nhân duyên hỗ tương lệ thuộc. Như vậy hoàn cảnh tốt hay xấu, đau khổ hay hạnh phúc tất cả chỉ là những nhãn hiệu, và những việc như thế không thể được thiết lập theo bản chất của chúng, dù chúng ta nhìn sâu vào sự kiện rằng “tôi” và “người khác” không thực sự hiện hữu, thì điều này sẵn sàng ngăn chận chúng ta khỏi đau khổ, tham luyến, v.v…
Nếu bạn không hiểu được tri kiến ấy thì phải nghĩ: “Khi tôi chết, tất cả những hạnh phúc và buồn khổ mà bây giờ tôi có thể có, sẽ chỉ còn là những ký ức, như thế tôi đã chiêm bao về chúng. Thương hay ghét trong cuộc đời ngắn ngũi này thật là điều vô nghĩa.
hoangtri
07-15-2020, 08:35 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI CHÍN
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY MƯỜI CHÍN
Kyabje Pabongka Rinpoche kể một chuyện ngắn để chúng tôi khởi động. Về văn bản thì ngài chọn Lời Nguyện Của Di Lặc trong đó có câu:
Cúi lạy chư Bồ tát
Đã ngăn các con đường
Đưa đến các đọa xứ,
Đã khéo dạy đạo lộ
Đưa đến các cõi cao,
Đã dẫn đường đi đến
Cái không già không chết.
Rồi ngài nhắc lại những những tiêu đề nói trên, và ôn lại “Pháp Quán Thực Thụ Đổi Địa Vị Mình Với Người” và “Con Đường Đưa Đến Thiền Quán Cho Và Nhận.” Ngài cũng trở lui về hai phần đầu của giáo lý bảy phần.
Mình và người là căn bản trên ấy bạn xây dựng những ý tưởng hoặc yêu mến hoặc làm ngơ. Bây giờ hai căn bản ấy cần phải đổi chỗ. Rồi, như tôi đã nói, muốn khai triển thêm, bạn hay quán Nhận đau khổ để xây dựng tâm bi; và quán Cho thân thể, tài sản, công đức của bạn để xây dựng tâm từ. Lại nữa bạn nên phối hợp sự Cho và Nhận ấy với hơi thở vào thở ra. Thêm vào đấy, để khỏi quên pháp này, bạn nên nhồi ký ức mình với một vài bài kệ trong khi làm những công việc hàng ngày.
Có một số phương pháp khác nhau để phối hợp hai chỉ giáo này về luyện tâm bồ đề trong sự tu tập của bạn. Những phương pháp này được đề cập bằng những tiêu đề và những trình tự khác nhau. Sau đây là nói vắn tắt về cách tu tập dưới 11 đề mục thiền quán.
Khởi đầu bằng cách quán bốn pháp:
(1) xả; (2) nhận ra mọi hữu tình là mẹ; (3) cách thông thường và cách đặc biệt để nhớ lại sự tử tế của họ; (4) ước mong đền đáp sự tử tế ấy.
Bốn pháp ấy được tiếp theo bằng: (5) bình đẳng giữa mình và người; (6) quán những lỗi do ngã ái; (7) quán những đức do thương người.
Bây giờ đến pháp quán thực thụ về đổi địa vị mình và người: (8) nhận, bao gồm pháp quán để xây dựng tâm Bi; (9) cho, bao gồm pháp quán để xây dựng tâm Từ mong mỏi hạnh phúc cho kẻ khác.
Và cuối cùng là: (10) Sự phát triển tâm vị tha.
Khi bạn xét mình có thực sự đã làm được gì về Cho và Nhận, thì sẽ thấy rằng đấy chỉ là trong tưởng tượng mà thôi. Hiện tại bạn chưa làm được điều gì cụ thể lợi lạc cho chúng sinh; vậy thì khởi ý nghĩ: “Tôi sẽ làm một điều gì để thực hiện việc ấy trong thực tế.” Và khi gánh lấy trách nhiệm ấy, là bạn phát triển tâm vị tha. Rồi vì lý do ấy mà có: (11) Phát triển lòng mong mỏi thực thụ đạt đến toàn giác.
Mười một đề mục thiền nói trên làm nên một tổng hợp của cả hai chỉ giáo về bảy lớp nhân quả và đổi địa vị mình với người. Sau đây là cách tu tập.
Ở phần kết của chuỗi đề mục ấy, còn có một bước nữa, một dáng điệu tốt lành để bạn dễ thành công hoàn toàn về mật điển và các madala trong đó. Điều này cũng giống như những lời nguyện của bà la môn Samandraraja và vị Chuyển luân vương Arenemi về những tái sinh của họ trong tương lai (xem Ngày Thứ Tám). Điều bạn làm là, hãy tưởng tượng tất cả hữu tình đều thành tựu mọi điều hạnh phúc; việc này sẽ là một vốn lớn lao để giúp bạn hoàn thành mọi điều hạnh phúc; việc này sẽ là một vốn lớn lao để giúp bạn hoàn tất hai sự tích lũy. Bạn làm điều này bằng cách hóa thân thành Đức Thích Ca Mâu Ni, rồi phóng những hào quang tịnh hóa tất cả đau khổ hữu tình. Quán tất cả hữu tình cũng đều tịnh hóa thành thân Thích Ca Mâu Ni. Rồi thiền quán về tâm Hỉ. Bằng cách ấy, bạn vừa quán những kết quả của sự phát tâm bồ đề của bạn, và dùng pháp quán ấy như một phần của đạo lộ.
Bản văn của chúng ta nói:
Ba đối tượng, ba độc và ba thiện căn.
Ba đối tượng là những gì bạn cho là hấp dẫn, ghê tởm, hoặc trung tính. Khi hướng tâm đến những đối tượng ấy ta phát sinh tham ái, thù hận, v.v… Khi các hữu tình hướng sự chú ý đến những đối tượng ấy chúng cũng phát sinh vào đọa xứ của chúng tùy thuộc vào tất cả vọng tưởng ấy và đối tượng ấy. Hãy tưởng tượng bạn nhận lấy tất cả những điều này, cùng với cái nhân đau khổ của chúng trong sinh tử; nghĩ rằng: “Tôi đã làm cho tất cả hữu tình nhẹ gánh tham, sân, si, nên bây giờ họ chỉ còn có những thiện căn. “Hãy xem chính ngã ái của chúng là đáng chê trách vì đã đem lại tất cả nghịch cảnh cho chúng như lo âu, bệnh hoạn, v.v… Hãy làm cho nghiệp báo của họ chấm dứt, nhận lấy tất cả đau khổ của họ. Hãy thấy rằng những gì bạn nhận sẽ chín mùi trên bạn, và lấy đó làm nhân cho sự vui sướng mừng.
hoangtri
07-17-2020, 07:22 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI CHÍN
__________________________________________________ ______________________________________
Nhờ làm vậy, người nào quen luyện tâm sẽ không bao giờ khổ sở, vì tất cả nghịch cảnh đối với họ đều có ích. Đấy là lý do việc luyện tâm được gọi là “nguồn gốc của thành trì hạnh phúc.” Nó khiến cho bạn kham nhẫn những nghịch cảnh nhỏ nhặt. Ví dụ, khi một thương gia lên đường, y phải nhìn mọi sự với thái độ triết lý. Nếu trời mưa, ít nhất y sẽ không bị cướp; nếu tuyết xuống, ít nhất những con vật chở hàng của y sẽ không bị què. Quyển Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Nếu một việc có thể điều chỉnh được
Thì cần gì phải khổ sở?
Nếu một việc không thể điều chỉnh
Thì đau khổ liệu có ích gì?
Nếu bạn gặp khổ thì buồn sầu cũng vô ích, bạn nên biến nỗi khổ ấy thành hữu dụng. Hơn nữa bạn có thể thấy có những người đã tự mình đạt được tuệ giác về vô thường sau một cơn bệnh suýt chết.
Bởi thế khi gập hoàn cảnh xấu hay nghĩ rằng “mong tất cả những điều mà hữu tình đã bị sẽ đến với tôi.” Không gì lợi lạc hơn là suy nghĩ cách ấy.
Đến đây là chấm dứt phần ôn lại đề mục “Chuyển nghịch cảnh thành con đường giác ngộ.”
a-.2.3.2. Chuyển hóa bằng hành động
Có 4 loại hành động bao hàm ở đây: tích lũy công đức và trí tuệ, thanh lọc chướng ngại, cúng bánh lễ, và triệu thỉnh Hộ Pháp làm các thiện sự.
Nếu khi bạn hoàn toàn quen thuộc với pháp luyện tâm này, mà bỗng bạn bị ốm, thì nên triệu thỉnh thiện sự của Hộ Pháp như sau: ‘Sự thực hành Cho và Nhận của tôi đã có ý nghĩa mới, vì nỗi khổ của tất cả hữu tình đang trút xuống trên tôi. Mong cho bệnh của tôi còn nặng hơn thế này nữa!” Khi bạn cúng bánh lễ cho phi nhân, hãy nghĩ “Quý vị đã rất tử tế với tôi khi hại tôi. Điều này đã chứng tỏ có lợi cho sự tu tập của tôi. Tôi đã tịnh hóa nhiều tội lỗi chướng ngại và tích lũy thêm nhiều công đức. Bây giờ, hãy làm hại tôi nhiều hơn nữa!” những người không đủ can đảm, cảm thấy sợ hãi vì ý nghĩ này, sẽ thấy mình không thể nào làm được điều ấy. Vậy, họ nên làm việc thông thường là kêu gọi sự giúp đỡ của phi nhân để khỏi bị đau ốm v.v…
Nếu nhà bạn ngập nước, bạn nên tìm căn nguyên vấn đề để chấm dứt. Khi bị đau khổ cũng thế, bạn nên từ bỏ tội lỗi - nguyên nhân của đau khổ - và xây dựng công đức - nguyên nhân của hạnh phúc. Nếu bạn sám hối tội lỗi bằng cách tụng bài Sám hối tổng quát (xem phần phụ lục) sau khi hoàn tất lễ cúng gồm 100 phần, bạn sẽ làm tròn cả 4 loại hành vi; cũng nên làm những cầu nguyện về pháp luyện tâm vào cuối lễ này.
Bản văn nói:
Áp dụng ngay thiền quán
Càng nhiều càng tốt.
Nói cách khác, bạn phải áp dụng phương pháp luyện tâm ngay khi một hoàn cảnh thuận hay nghịch xảy ra, để chuyển hóa nó thành pháp tu tức khắc.
a-2.4. Dạy một phương pháp để áp dụng suốt đời
Trước hết có 5 năng lực: (1) năng lực của hạt giống trắng; (2) năng lực của tập quán; (3) năng lực của quyết định; (4) năng lực của sự từ bỏ; (5) năng lực của cầu nguyện.
Năng lực của quyết định là năng lực quan trọng nhất. Khi vừa thức dậy vào buổi sáng, bạn phải làm quyết định sau đây: “Tôi sẽ không để cho cuộc đời tôi trở thành vô nghĩa, nhất là trong năm nay, trong ngày nay tôi sẽ làm một điều gì có ý nghĩa. Tôi sẽ nhiếp phục ngã ái, kẻ thù thật sự của tôi!” Sự quyết định của bạn khởi đầu tất cả mọi hành động, làm cho hành động ấy thành thiện hay bất thiện, đại thừa hay tiểu thừa. Khi bạn quyết định giết một con rận hay quyết định soạn một bữa ăn trưa, thì điều ấy là chuyện mà bạn sẽ làm thực sự. Vừa thức dậy mỗi sáng khi buộc thắt lưng, thông thường chúng ta chỉ quyết định là những chuyện thế gian - thực phẩm, thời trang, danh tiếng - những phương tiện để đạt hạnh phúc. Bây giờ đổi lại, hãy làm quyết định như trên, và làm một cách sâu xa từ tâm để.
Năng lực của hạt giống trắng có nghĩa là xây dựng hai sự tích lũy và thanh lọc chướng ngại nhờ những nghi lễ chuẩn bị v.v…, những điều này được làm để tăng trưởng bồ đề tâm của bạn. Thiện hành mà chúng ta làm thường bị mất hút vào cuộc đời này, vậy cốt nhất đừng để điều này xảy đến.
Năng lực của tập quán, nghĩa là luôn luôn thực hành pháp tu bất kỳ ta đang làm việc gì - đi bộ, ngủ hay ngồi - bằng cách sử dụng những phương pháp tăng trưởng cả hai loại bồ đề tâm. Những ý tưởng của những vị Đại Bồ tát thì quá sức ta, cũng như những hành vi hy sinh đầu, tay, chân của họ. Nhưng đấy là hậu quả của tập quán. Lúc đầu có thể ta không biết gì về nghề thợ thiếc hay thợ mộc, nhưng ta có thể đi đến chỗ học được nghề ấy và chúng không còn khó khăn đối với ta nữa. Cũng thế, ngay cả sự hy sinh mạng sống cũng sẽ dễ dàng như cho một dĩa rau, khi ta đã đạt đến một sự quen thuộc với tư tưởng bố thí mạng sống. Có câu nói: “Không gì khó khi đã trở thành quen thuộc.” Một số những hành giả vĩ đại trong quá khứ có thể hoàn tất sự thiền quán phần quan trọng về Lam-rim trong khi đang cỡi ngựa: họ làm việc này khi một chân đặt trên bàn đạp và một chân kia trên yên. Điều này cũng là hậu quả của thói quen. Thiền định và thói quen là đồng nghĩa. Làm sao chúng ta uống một bát trà được một cách dễ dàng, nếu ta chưa có thói quen việc ấy?
hoangtri
07-20-2020, 08:40 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI CHÍN
__________________________________________________ ______________________________________
Năng lực của từ bỏ là như sau. Hiện tại, ngã ái là điều duy nhất bạn đang phát triển, và bạn nên chấm dứt việc ấy. Bạn phải từ bỏ ngã ái bằng cách đánh vào nó mỗi khi nó thò mặt ra, cũng như bạn đánh một con chó đến ăn trộm.
Năng lực của cầu nguyện là, ngay trước khi đi ngủ hãy hồi hướng tất cả thiện căn mà bạn đã có trong ngày ấy, để chúng làm tăng trưởng hai loại tâm bồ đề.
Năm năng lực này áp dụng cho cuộc đời hiện tại. Còn có 5 năng lực vào lúc chết; đấy là sự thực tập chuyển di sự luyện tâm để hướng tâm bạn vào tái sinh mới.
Chỉ giáo của Đại thừa về chuyển di
Liên hệ đến năm năng lực.
Hãy yêu mến hoạt động này!
Kỹ thuật chuyển di sự luyện tâm không dùng thần chú hik và phat nhưng sâu sắc hơn bất cứ kỹ thuật chuyển di nào khác.
Sự quyết định của bạn ở đay là quyết không rời tâm bồ đề trong khi ở trong trạng thái chết, trạng thái trung ấm, vân vân.
Năng lực bạch chủng (hột giống trắng) là như sau. Giả sử bạn quá tham luyến những sở hữu của mình. Hãy phá hũy lòng tham luyến ấy bằng cách dâng hiến của sở hữu ấy qua một lễ cúng, v.v… Dâng hiến những vật ấy cho những người nhận có đức; hoặc di chúc bố thí tất cả sở hữu của bạn. Việc này còn tốt hơn để một người khác tạo công đức hồi hướng cho bạn sau khi chết. Nếu bạn không xả bằng cách đó thì chuyện sau đây có thể xảy ra.
Một thầy tu tham luyến cái bát khất thực của mình, và tái sinh làm một con rắn. Đức Phật đuổi nó vào rừng, làm cho nó tức giận, và ngọn lửa sân của con rắn đốt cháy cả khu rừng và chính nó. Rồi nó tái sinh vào địa ngục, và cả ba thân xác của nó (xác ông thầy, xác con rắn và thân thể tái sinh ở địa ngục) đồng thời bốc cháy.
Một người bị ám ảnh bởi một số vàng chôn dưới đất. Ông ta cũng tái sinh làm một con rắn, và bị buộc phải cúng vàng ấy cho Phật.
Những chuyện như thế cho thấy cái gì xảy ra nếu bạn không xả bỏ của cải. Nhưng bạn cũng có thể tham luyến thân xác bạn và tái sinh làm một con sâu chẳng hạn, để sống trong cái thân xác ấy. Có lần một thi thể phụ nữ nằm trên bờ biển. Một con sâu trông giống như một con rắn cư trú trong cái xác, chui qua chui lại trong lỗ mũi, miệng, mắt, tai vân vân. Chúng sinh ấy được nói là tái sinh của một cô gái quá đam mê thân xác của mình và luôn luôn soi gương. Bởi thế, vào lúc chết, hãy xây dựng hai sự tích lũy của bạn (phước đức và trí tuệ - DG), và làm những cầu nguyện tha thiết để tăng trưởng tâm bồ đề. Điều này rất cần thiết cho những người tham luyến thân xác của mình.
Một tu sĩ thấp kém rất tham luyến một số tiền. Ông chết và thành một con cóc luôn luôn bám lấy số tiền ấy.
Có nhiều người không thể chết được khi đã đến thời đáng chết, cũng chỉ vì lòng bám víu mạnh mẽ. Một vị sư già ở Amdo rất thích thực phẩm béo bở nên chết rất khó. Gungtang Jampaelyang dùng phương tiện khéo nói: “Hãy luyện tập tái sinh lên cõi trời Đâu suất đi. Thức ăn ở đấy còn béo bở hơn những thứ mà ta có được vào ngày rằm tháng bảy.” Vị sư liền tắt thở lập tức. Việc này cũng rất có thể xảy đến cho chúng ta. Bởi thế, tốt nhất chúng ta phải từ bỏ tham luyến.
hoangtri
07-21-2020, 09:56 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI CHÍN
__________________________________________________ ______________________________________
Năng lực từ bỏ là sám hối những tội phạm giới và thọ giới. Những điều này bắt buộc phải làm. Nếu bạn tu mật tông, bạn phải phục hồi giới mật tông và giới Bồ tát đã vi phạm bằng cách làm một lễ tự quán đảnh hoặc thọ pháp quán đảnh trở lại. Việc này cần làm luôn luôn, nhưng quan trọng nhất là phải làm khi bạn chết. Nếu không làm, thì bóng tối của tội lỗi cứ lơ lửng trên đầu bạn: bạn có thể không đến được các cõi tịnh, v.v… mặc dù đã đủ điều kiện để đến đấy.
Năng lực của cầu nguyện không phải là cầu lên Tịnh độ hay gì cả; trái lại, bạn cầu xin sự gia trì trong việc phát Bồ đề tâm của bạn, cầu mong rước lấy những đau khổ tội các và chướng ngại của mọi hữu tình.
Năng lực của tập quán là như sau. Sau khi đã quen thuộc với Bồ đề tâm, bạn từ bỏ đời tái sinh này trong khi đang thiền định về tâm Bồ đề do thói quen. Việc ấy là tốt nhất. Bạn nên theo thế nằm sư tử nghiêng về bên hông phải trong khi hướng tâm về tái sinh mới. Đây là thế nằm của đức Đạo sư đầy từ mẫn của chúng ta khi Ngài nhập Niết bàn, và ngay cả việc làm này cũng đủ có một ảnh hưởng lớn trong việc giúp bạn đạt đến các cõi tịnh.
Nói chung, người ta nên thực hành phép chuyển di tâm thức bằng cách quy y theo Phạm Vi Nhỏ. Tuy nhiên người nào đang thực hành Phạm Vi Lớn cũng cần phải làm sự chuyển di tương tự trong khi quán tưởng về Bồ đề tâm. Bạn có thể nghĩ rằng phương pháp sau này không thể làm bạn đạt đến các cõi tịnh, nhưng sự thật không phải vậy. Khi Chaekawa sắp chết, ngài bảo thị giả mau làm lễ cúng dường giúp ngài. “Tôi đã cầu nguyện đi xuống địa ngục Vô gián để giúp đỡ tất cả chúng sinh ở đấy, nhưng bây giờ tôi lại đang trông thấy các cõi tịnh!” Geshe Potowa cũng có một câu chuyện tương tự. Có hai mẹ con bị dòng nước cuốn trôi. Họ nghĩ đến nhau với lòng thương mến, nên cả hai đều được sinh vào cõi trời Đâu suất. Một lần có một con thuyền bằng da dùng làm đò ngang qua sông Jasa ở phía nam bị quá tải sắp chìm, một sứ giả phát tâm từ nhảy xuống sông (cho thuyền nhẹ bớt). Nhưng ông lại không chết, và xung quanh ông đầy những ánh sáng cầu vồng. Bồ đề tâm là một hình thức thù thắng của lòng tốt; nên nếu bạn khởi động dù chỉ một hình thức gượng gạo của tâm Bồ đề, chắc chắn bạn cũng sẽ tái sinh vào một hoàn cảnh tốt.
Chúng ta gán tầm quan trọng nhiều hơn cho pháp chuyển di tâm thức, sử dụng những thần chú hik và phat hơn là bồ đề phát tâm bồ đề. Chúng ta cũng quá xem trọng việc nhận được những triệu chứng của những thành công trong những pháp tu như vậy. Nếu bạn thực hành việc niệm hik nhiều lần mà không làm phép quán gì cả, thì những triệu chứng đã được khả năng chuyền di tâm thức có thể xuất hiện trên đầu bạn như đỉnh đầu nhô cao, nhưng đây chỉ là tác động của các luồng khí lực, không có gì đáng quái dị. Hình thức luyện tâm để hướng dẫn sự tái sinh này không sử dụng hik hay phat nhưng nó là pháp sâu xa nhất trong tất cả các pháp luyện tâm. Sau khi thực hành những phép chuyển di khác, cũng chưa chắc bạn đã đóng được cánh cửa tái sinh vào đọa xứ; nhưng nếu bạn hướng dẫn sự tái sinh của bạn qua năm năng lực này, thì chắc chắn bạn sẽ không tái sinh vào bất cứ một cõi bất hạnh nào.
hoangtri
07-22-2020, 08:07 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI CHÍN
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.5. Tiêu chuẩn để biết đã luyện tâm
Tất cả pháp đều do tâm tạo.
Đức Thế Tôn đã giảng rất nhiều giáo lý riêng biệt, mà tất cả đều là những pháp đối trị bệnh ngã ái. Đường phân chia giữa cái gì là pháp cái gì là phi pháp, được nói là nó có diệt trừ được vọng tưởng hay không. Như vậy dấu hiệu thành công tốt nhất là mức độ bạn giảm thiểu những si mê của mình. Nếu bạn chưa làm được điều này, thì những dấu hiệu thành công khác không có nghĩa gì. Ngay cả những con chim ăn xác chết cũng có thể bay giữa hư không, chuột có thể độn thổ, cá có thể lặn trong nước. Bạn cần phải trắc nghiệm Pháp bằng cách sử dụng sự tu tâm như cán cân. Sự giảm thiểu ngã ái mới là bằng chứng rõ rệt của sự có tu.
Hãy chú trọng nhân chứng chính yếu.
Có hai nhân chứng: Bản thân bạn và những người khác. Sự tu hành của bạn có thể còn xa với sự toàn thiện, nhưng bạn lại có thể làm cho người ta tưởng bạn đã toàn thiện. Những người khác có thể nhìn bề ngoài của bạn để đánh giá trị và tôn trọng đạo đức có vẻ hoàn toàn nơi bạn. Người ta bảo có 4 hạng xoài chín; có thứ chín bên trong lẫn bên ngoài, có thứ ngoài chín trong sống, v.v… Bạn có thể giống như thứ xoài bên ngoài chín mà trong còn xanh. Trong trường hợp ấy, dáng điệu “có nghiên cứu” của bạn chỉ như một con mèo rình mồi, và bạn sẽ được những người không biết pháp tưởng là một người tốt. Đừng hành động như thế. Nhưng cũng không nên chỉ chín bên trong mà xanh bên ngoài. Nếu bề ngoài bạn tỏ ra có giới luật, thì người khác sẽ không bất mãn. Khi bạn có kỷ luật nội tâm, thì dòng tâm thức của bạn sẽ phong phú nhờ tu tập. Bởi thế cả trong lẫn ngoài phải được thanh tịnh. Có câu nói: “Bồ tát không từ bỏ tiếng xấu.” Nói cách khác, mặc dù bạn nên cẩn thận từ bỏ những hành vi có thể mang tiếng xấu, nhưng điều quan trọng nhất là phải duy trì tính tự trọng.
Luôn luôn đào luyện niềm hỷ lạc nội tâm.
Nếu bạn giàu, thì không nên đau khổ do thành kiến giữ của hoặc muốn tăng trưởng tài sản. Nếu bạn không giàu, đừng nên lo ngại về kế sinh nhai. Hãy nghĩ về những sự bất lợi của giàu sang. Hãy biết hỷ túc, nghĩa là biết cách chuyển cảnh nghèo cũng như cảnh giàu thành con đường tu tập.
Đừng để tám mối bận tâm thế tục ló đầu ra khi bạn được khen hay bị kết án; hãy tìm lý do mỗi khi bạn cảm thấy sung sướng hay buồn khổ, rồi bạn sẽ không còn đau khổ trong tâm.
Tiêu chuẩn để biết bạn đã luyện tâm là như sau:
Bạn đã làm chủ được tâm.
Nếu khi tán tâm vẫn làm chủ được.
Người cỡi ngựa chưa kinh nghiệm thì chỉ vững được khi để tâm vào việc cỡi ngưạ; nếu tâm đi lang thang anh ta sẽ bị ngã xuống, Nhưng người kỵ sĩ có kinh nghiệm thì không bao giời bị té dù trong lúc lơ đễnh. Người luyện tâm chưa thuần thục cũng giống như người cỡi ngựa thiếu kinh nghiệm, khi bất thần bị lăng nhục, vị ấy sẽ nổi giận ngay, và chỉ sau một lúc mới nhớ lại mà nguôi cơn giận. Một người với tâm khéo luyện sẽ không tức giận khi bị người khác đánh hay lăng nhục ngay cả khi tâm vị ấy không đề phòng.
Tiêu chuẩn của tâm khéo luyện
Là khi bạn đã lật người nó lại.
Nghĩa là, tiêu chuẩn của tâm khéo thiền định (về cái chết và vô thường hay thiền định về từ bỏ) là sự kiện rằng bạn không còn bận tâm về những chuyện tầm thường của đời này, không khát khao sự sung túc trong sinh tử. Cũng vậy, bạn đã làm chủ được tâm nếu bạn lật ngược ngã ái thành lòng vị tha.
Bạn sẽ có 5 dấu hiệu chứng tỏ sự tự chủ lớn lao.
Khi luyện tâm thuần thục bạn sẽ có 5 triệu chứng: bạn thành một nhà khổ hạnh vĩ đại vì có khả năng nhẫn nhục. Tâm bạn sẽ không hướng về vọng tưởng dù bị đau khổ tai ương v.v… Bạn sẽ là một nhân vật vĩ đại vì bạn yêu mến người khác hơn chính mình. Bạn sẽ là một người thực hành giới vĩ đại vì trong mọi hoạt động, không bao giờ bạn rời xa việc thực hành 10 loại pháp hành. Bạn sẽ là một người bảo trì tạng luật vì bạn luôn luôn an tịnh, tự chủ, và hoàn toàn không bị ô nhiễm bởi ác hành nhỏ nhặt nhất. Bạn sẽ là một hành giả vĩ đại vì thực hành con đường Đại thừa thực thụ.
hoangtri
07-24-2020, 08:12 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI CHÍN
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.6. Mười tám điều kiện của pháp luyện tâm
(1) Luôn luôn theo sát ba điểm chính
Điểm thứ nhất là không bao giờ vi việt những giới điều của sự luyện tâm. Đừng lấy sự luyện tâm làm cớ để mà bỏ qua những giới luật căn bản như là những giới trong tạng luật.
Điểm thứ hai đừng để cho sự luyện tâm của bạn trở thành chỉ là sự bắt chước. Đừng dùng sự luyện tâm của bạn làm cớ để không ngần ngại làm đảo lộn mọi người và các hữu tình như chặt phá cỏ cây v.v… vì bạn giả vờ không còn ngã ái.
Điểm thứ ba là đừng để sự luyện tâm của bạn trở nên bất túc, nghĩa là chỉ kiên nhẫn đối với bạn mà không kiên nhẫn đối với kể thù hoặc chỉ khoan hồng đối với mọi người mà thiếu khoan hồng đối với những chúng sinh khác, v.v…
Hãy thay đổi những ước vọng của bạn
Nhưng vẫn giữ phong thái như cũ.
Đừng để nguyên những tư tưởng ngoan cố mà bạn có trong dòng tâm thức: hãy dùng một vài biện pháp để cải thiện chúng. Những mẫu người tốt nhất cải thiện thấy rõ từng ngày; người trung bình chỉ cải thiện sau hàng tháng, và tệ nhất thì cả năm mới thay đổi. Bạn phải thấy bạn có thể thuộc vào hạng nào trong đó. Nếu cả ba hạng đều vượt quá sức bạn thì dù bạn đã xuất gia, thọ giới và đã già, bạn vẫn còn giữ nguyên những tư tưởng bạn có trước khi xuất gia. Đừng giống như những tảng đá ở sau nhà bạn không bao giờ thay đổi từ năm này qua năm khác. Hãy thay đổi những khát vọng của bạn! Những ước vọng ấy phải được thay đổi thành ước vọng có tâm bồ đề, có sự từ bỏ, có thực chứng về vô thường, v.v… Nhưng đừng thay đổi tư thái bề ngoài của bạn. Có những người không có một đức tính nào có giá trị được phát triển bên trong, nhưng bên ngoài lại giả vờ có một tia mắt thánh thiện nhìn xa xăm v.v… Bạn chỉ nên phát triển những tuệ quán và cải thiện nội tâm mà đừng bao giờ hiện tướng ra bên ngoài. Cũng đừng để cho ai biết bạn đã làm những tiến bộ phi thường. Bạn nên làm như Shantideva hay bậc thánh Chu Lợi Bàn Đà Già đã từ bỏ vọng tưởng một cách âm thầm, bí mật đạt thực chứng. Ngay cả bậc hiền trí Chandrakirti cũng chỉ ra vẻ như một học giả không có gì đặc biệt, không ai chú ý gì đến ông. Nhưng bên trong ngài đã đạt được thần thông, ngài có thể nặn ra sữa từ hình vẽ một con bò cái. Những con người như vậy không bao giờ tự làm cho mình nổi bật. Và trong quá khứ những vị tu sĩ trong truyền thống Kadampas cũng không tìm cách nổi tiếng như tu thiền giữa công cọng, bày tỏ những dấu hiệu của sự đắc đạo, v.v… Hãy theo gương họ. Bạn sẽ gặp nhiều chướng ngại khi tự quảng cáo về mình: điều ấy cũng như có một viên ngọc như ý mà đem đi khoe. Bạn không khác gì người thế tục và bị rơi lại vào những chuyện thế gian. Mỗi khi chúng ta tu được dù chỉ một pháp nào, chúng ta cũng mong cho mọi người biết như thể là giương một lá cờ trên đỉnh núi. Đừng làm như vậy. Trong truyền thống này của Atìsha và phái Kamdampas, bạn phải che giấu những đức tính như ngọn đèn giấu trong bình đèn.
Đừng nói đến những chân tay tàn tạ của người khác.
Nghĩa là đừng nói về những khuyết điểm của mọi người.
Đừng bị ám ảnh bởi người khác.
Nghĩa là bạn phải phân tích lỗi lầm của chính mình nhưng không nên nhìn lỗi người khác. Nếu không bạn chỉ tìm lỗi nơi những người tu khác, những người bạn trong tu viện hay những vị tu sĩ trong nhà trọ của bạn v.v…, bạn sẽ tự nhiên tìm lỗi ngay cả nơi chư Phật. Đừng gán lỗi cho người khác, vì như thế bạn chỉ khinh người và không biết gì đến họ.
Hãy thanh lọc trước tiên vọng tưởng lớn nhất.
Hãy thanh lọc bất cứ vọng tưởng nào mà bạn thấy là lớn nhất trong dòng tâm thức của bạn. Nếu tham nơi bạn là lớn nhất, thì hãy thanh lọc nó bằng cách áp dụng pháp đối trị như quán thân bất tịnh.
Từ bỏ tất cả hy vọng về quả báo.
Khi bạn làm một điều gì thiện, thì đừng mong chờ sự đền bù hay quả dị thục tốt đẹp.
Hãy từ bỏ thực phẩm có chất độc.
Đừng nên đào luyện bất cứ đức hạnh nào giống như thức ăn có lẫn chất độc ngã ái.
Ta hãy nói phần còn lại mà không trích dẫn thêm bản văn gốc. Nếu bạn phát sinh một vọng tưởng, thì hãy đối trị ngay không để cho nó kéo dài - hãy đối xử không nương tay với nó.
Bản văn nói về bốn pháp mà một hành giả cần phải thực hiện, ví dụ đừng lấy oán trả oán. Bạn không phải là một hành giả đức hạnh nếu bạn không thực hành bốn pháp, (CT.- tức là bốn trọng giới của tỳ kheo. Chúng không được kể ra ở đây) vì bạn đã hứa trước tu viện trưởng và thầy truyền giới là bạn sẽ giữ bốn giới ấy. Nếu ai nói với bạn “Con chó già” thì đừng trả đũa bằng “người là đồ ăn trộm.” Nếu ai đánh bạn một cái, đừng đánh trả lại gấp hai.
Đừng chờ dịp trả thù một người nào, như phục kích trên đường hẽm để hại họ. Những người thế tục ngu si tưởng rằng tốt nhất là nên mĩm cười trong khi âm thầm nuôi dưỡng sự thù hận. Điều này chỉ chứng tỏ rằng Pháp và những hành vi thế tục là hai chuyện trái ngược.
Nếu bạn biết một người nào có tội lỗi, đừng nói ra trước nhiều người khác hay đã kích những chỗ yếu của họ. Đừng nêu lên những lỗi lầm của họ. Cũng thế không nên tụng những thần chú phẫn nộ để hại các hữu tình v.v…
Khi bạn làm gì quấy thì đừng trách cứ người khác một cách lừa dối. Cũng đừng nên tự cho mình tài khéo và chỉ trích người khác khi công việc không suông sẻ, đừng đặt gánh nặng của một con trâu dzo lên một con trâu thường.
Tâm được huấn luyện cốt để hàng phục ngã ái. Nhưng nếu những sự thiền định của bạn chỉ làm cho bạn tăng thêm ngã ái, và bạn không làm hại hữu tình chỉ vì muốn được danh tiếng, quà tặng v.v… thì như vậy là “bùa chú đã mất linh.” Đừng nên làm như vậy.
Đừng hấp tấp chiếm lấy một cái gì thuộc của công, hoặc cố được phần nhiều nhất bằng cách đến trước - nghĩa là đừng chạy đua.
Đừng để cho thiên thần trở thành ác quỷ, nghĩa là đừng để sự luyện tâm của bạn không còn là một pháp đối trị ngã ái, mà là một cái gì làm vững chắc thêm ngã ái.
Đừng nghĩ “Nếu kẻ thù của tôi chết hay phá sản thì tôi mới sung sướng!” Điều này sẽ là tìm hạnh phúc trong bất hạnh.
Trên đây là 18 lời nguyện.
hoangtri
07-25-2020, 05:22 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ MƯỜI CHÍN
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.7. Hai mươi lời khuyên
Tất cả pháp tu đều từ một pháp.
Nghĩa là hành giả không cần thực hành thật nhiều đức hạnh, vì tất cả đức hạnh bao gồm trong một ý “đổi địa vị mình với người.” Khi ăn hãy nghĩ: “Tôi đã hiến thân tôi cho hữu tình. Bởi vậy để làm việc cho lợi lạc hữu tình, tôi sẽ nuôi dưỡng thân này.” Với tất cả lề lối hàng ngày của bạn, cũng đều làm như vậy. Hãy làm mọi sự bằng cách ấy, như khi bạn tụng thần chú, trừ tà v.v…
Nếu thuốc tỏ ra không hiệu nghiệm, thì y sĩ có thể vừa châm chích con bệnh vừa chữa bằng nước nóng. Sự đổi địa vị mình với người cũng vậy có hàng trăm lợi ích, vì nó là cách đối trị tất cả vọng tưởng và thói xấu.
Hãy khởi động lực trước khi làm mọi việc lành, và cuối cùng hãy hồi hướng công đức. Điều quan trọng nhất là mỗi buổi sáng nên làm quyết định bạn sẽ làm gì và sẽ không làm gì trong ngày hôm ấy.
Bạn không được bỏ việc luyện tâm dù gặp hạnh phúc hay đau buồn xảy đến. Có người bỏ Pháp khi được sung sướng vì lên chức hay có tài sản. Có người bỏ Pháp khi bị kẻ thù làm cho đau khổ. Nhưng bạn không được bảo sự luyện tâm trong bất cứ biến cố nào.
Hãy duy trì những lời nguyện trong khi luyện tâm và những lời nguyện trong các pháp khác nói chung, như thể là bạn bảo trì sinh mạng của mình.
Có ba pháp tu khổ hạnh mà bạn nên biết để tu tập. Đó là: nhận ra vọng tưởng, áp dụng những biện pháp đối trị, và chấm dứt tính tương tục của vọng tưởng.
Bạn nên cầu nguyện cho mình có đầy đủ ba nhân chính để tu tập pháp: gặp được minh sư; tâm thích hợp cho việc tu tập; và có đủ điều kiện cần thiết như y phục và thực phẩm.
Hãy làm ba điều không thoái hóa: kính thầy; vui mừng trong việc tu tập; và kiên trì nhớ kỹ những lời khuyên này.
Đừng để cho thân lời ý của bạn nhàn rỗi, hãy làm cho chúng bận rộn bằng thiện hành. Thiện hành của thân không chỉ là lạy dài hay đi kinh hành v.v… mà ngay khi ngồi bạn cũng cần chuyển tư thế ngồi thành một thiện hành bằng cách làm thẳng cột sống. Đừng chia những đối tượng của tâm bạn thành bạn và thù, chúng sinh và Phật. Bạn phải làm chủ sự tập luyện này ngay trong tâm để của bạn, để bao quát tất cả pháp, như Geshe Chaekawa đã làm. Muốn hoàn toàn làm chủ pháp này, hãy nhấn mạnh thiền định về kẻ thù mà bạn thấy khó kiên nhẫn với họ nhất, v.v… hãy dành một chỗ đặc biệt cho những đối tượng có thể chứng tỏ nguy hiểm cho bạn về phương diện nghiệp, như là thầy, cha mẹ, người ở cùng phòng.
Hãy tiếp tục thiền quán, dù bạn có hội đủ những điều kiện cần thiết như cơm áo hay không. Đừng để việc sau đây áp dụng cho bạn:
Trông như một hành giả
Khi cơm đầy bụng và trời nắng
Nhưng trông như người thế tục
Khi gặp điều rắc rối xảy ra.
Từ hôm nay, hãy thiền quán về tâm bồ đề, một điều rất khó triển khai nhưng lại vô cùng lợi ích. Bạn phải làm việc này vì lợi lạc cho bản thân người khác, chứ không phải cho những việc trên thế gian này. Bạn nên hành động cốt yếu hướng về đời sau hơn là đời này; hướng về pháp hơn và về những chuyện thế tục; và hướng về thiền định luyện tâm hơn là thực hành những pháp khác.
Bản văn gốc tiếp tục
“Đừng hiểu lầm…” Tôi sẽ bàn phần còn lại mà không trích dẫn. Có 6 cách hiểu lầm:
(1) Nhẫn nhục sai:
Nghĩa là chịu đựng được những vấn đề gặp phải trong khi làm chuyện thế tục nhưng lại không có can đảm đối phó với những khó khăn gặp phải trong khi thực hành pháp.
(2) Hiểu sai mùi vị:
Bạn phải nếm vị Phật pháp nhờ học hỏi, quán tưởng, thiền định, v.v… Khi bạn không có quan niệm về pháp mà lại có thể hiểu những chuyện thế gian như kinh doanh, quân sự v.v… và có thể phân tích mọi việc, thì thế là bạn đã nếm vị thế gian. Đây là nếm vị sai lầm.
(3) Hiểu sai tâm đại bi:
Nghĩa là không thiền định về tâm đại bi đối với những người tội lỗi, mà chỉ đại bi đối với những người khi gặp khó khăn vì chánh pháp.
(4) Ước nguyện sai lầm:
Nghĩa là không mong ước thực hành pháp thanh tịnh mà mong ước có hạnh phúc, thế lực và tài sản trên thế gian.
(5) Khuyến cáo sai lầm:
Nghĩa là khuyến khích những người tin tưởng bạn đừng thực hành pháp làm lợi ích cho họ trong những đời sau, mà trái lại đi khuyến khích họ học doanh thương, pháp luật v.v… những điều rất hại cho đời sau của họ.
(6) Hỷ lạc sai lầm.
Nghĩa là không vui mừng đức hạnh của chính mình hay của mọi người, hoặc về hạnh phúc của người khác. Sự vui mừng ấy gọi là bất thiện. Lại nữa, sự hỷ lạc hiểu sai là vui mừng khi kẻ thù của bạn gặp đau khổ. Một ví dụ: có lần một tu sĩ vui mừng khi đối thủ của ông phạm giới trọng. Khi nghe chuyện này, Geshe Potowa nói: “Con người vui mừng phạm tội lớn hơn là con người phạm giới.”
Khi chúng ta làm những việc như học hỏi với một bậc thầy, chúng ta có thể phát sinh một sự từ bỏ nông cạn, và trong vài ngày có thể thực hành đức hạnh một cách cuồng nhiệt. Sau một thời gian chúng ta đâm chán và phế bỏ việc hành thiện. Vậy không nên gián đoạn trong việc tu tập của bạn, làm như thế nó có từng cơn. Geshe Karag Gomchung nói:
Hãy nhìn xa phía trước,
Hãy thấy xa
Hãy nhịp nhàng.
Nói cách khác khi bạn thực hành đức hạnh, bạn nên luôn luôn giữ mức độ vừa phải, không quá nồng nhiệt cũng không quá buông lỏng. Sau khi làm xong pháp thiền vào buổi sáng thức dậy, bạn nên thực hành sự tu tập đúng mức. Về sau tăng lên, thì bạn sẽ bao quát một phạm vi rộng lớn. Giống như câu chuyện về con rận và con bọ chét (CT.- Câu chuyện này giống như ngụ ngôn của Aesop về con rùa và con thỏ).
Bản văn gốc nói: “Đừng tu tập có từng cơn.”
Một cách giải thích là: hãy để ý vào việc luyện tâm.
Khi cần lấy máu, y sĩ đồng thời cắt xuyên qua mạch máu và da. Cũng vậy việc luyện tâm của bạn phải làm mòn dòng tâm thức của bạn như một tảng đá làm mòn một cục xương.
Hãy dùng pháp thiền phân tích để luyện tâm, bằng khái niệm và bằng phân tích.
Hãy áp dụng cách đối trị để trừ vọng tưởng nào bạn cho là lớn nhất.
Sự làm việc vì lợi lạc hữu tình chỉ là chuyện đương nhiên, một điều bạn đã phát nguyện, bởi vậy đừng khoe khoang về điều ấy.
Giả sử một người nào xem thường bạn trước mặt những người khác, bạn không nên nổi giận v.v… nghĩa là đừng tỏ vẻ khinh bỉ.
Đừng thay đổi như thời tiết mùa xuân, đổi từ vui đến buồn vì một lý do tầm thường nhất.
Đừng giúp đỡ người khác với hy vọng nhận lấy tiếng khen v.v…
Điều này kết thúc những lời khuyên.
Nếu theo đúng những lời khuyên này, bạn có thể chuyển những nghịch cảnh thành con đường giác ngộ, mặc dù năm thứ suy đồi - suy giảm về thọ mạng, vân vân - là chuyện thông thường.
Hệ phái giảng dạy này được truyền từ Suvarnadvipi. Chỉ giáo này đã làm cho Chaekawa sung sướng, ông bảo rằng bây giờ ông có thể chết mà không ân hận.
Trừ phần nói về tri kiến, thì giáo lý đến đây là hoàn tất. Trong nhiều luận giải về bản văn này, tri kiến được đề cập theo sự truyền giáo đầu tiên, nên không được rõ ràng. Tác phẩm Sự Luyện Tâm Như Tia Mặt Trời khi bàn về tri kiến thì dựa theo hệ thống trung quán. Suvarnadvipi lúc đầu theo cách giảng Duy thức về tri kiến, nhưng về sau chuyển qua hệ thống trung quán.
Khi cho một buổi nói chuyện thân mật về Lam-rim thì theo truyền thống, người ta không lập lại ba hay bốn lần tài liệu sau phần này nói về phát bồ đề tâm.
hoangtri
07-26-2020, 04:20 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY HAI MƯƠI
Kyabje Pabongka Rinpoche nói vài lời để chúng tôi phát khởi động lực. Ngài trích dẫn những dòng này từ Những Đức Tính Quý Báu:
Con đường của chư Phật
Quá khứ vị lai hiện tại,
Là con đường sáu ba la mật không gì khác.
Nghĩa là, chư Phật ba thời đã theo gót nhau không bao giờ chuyển hướng khỏi những việc làm lục độ. Không có con đường nào khác trong kinh giáo hay mật giáo, và những bản văn chúng ta đang học cũng chỉ dạy một con đường ấy.
Khi ấy Rinpoche kể lại những tiêu đề đã giảng. Và khởi tư tiêu đề “Dạy một Pháp tu để áp dụng suốt đời,” ngài ôn lại tài liệu về làm thế nào để chuyển nghịch cảnh thành con đường giác ngộ.
Điều này hoàn tất sự bàn luận về cách phát triển ước nguyện đạt toàn giác.
b. Phát tâm bồ đề qua nghi lễ thọ giới
Tôi sẽ giảng dạy phần này về sau, nên bây giờ hãy gác lại
Nếu bạn không có tâm bồ đề, thì dù bạn làm bất cứ pháp thiền gì với hi vọng đạt thành Phật quả - dù là pháp Đại Thủ ấn hay Dogchen, Trung đạo, hay các giai đoạn phát sinh và thành tựu trong pháp quán chư thần v.v…- những việc ấy cũng không làm bạn xích tới gần Phật quả chút nào. Bạn lại còn không bao giờ vào được ngưỡng Đại thừa bằng cách ấy. Bởi thế mọi người đều phải tập trung vào việc thực hành tâm bồ đề. Với trí căn bản, đức Phật đã nhìn thấy suốt được các pháp trong nhiều kiếp và chưa từng thấy phương pháp nào tốt hơn, hay ngỏ nào tốt hơn để đi vào đạo lộ.
c. Những hoạt động cần làm sau khi dã phát bồ đề tâm
Sau khi phát tâm bồ đề, bạn cần phải luyện tập vài loại hoạt động. Phát bồ đề tâm mà thôi chưa đủ. Cũng như một người đi đến Ấn Độ sẽ không đến được nếu không đích thân khởi hành, bạn cũng thế, phải huấn luyện về hạnh bồ tát. Bạn phải chứa nhóm cả hai loại tích tập công đức và trí tuệ liên kế nhau để đạt thành cả thân vật lý và thân trí tuệ (sắc thân và pháp thân) của một vị Phật; bởi thế sự huấn luyện của bạn phải phối hợp cả phương pháp lẫn trí tuệ. Những hành vi của người con Phật đều phát xuất từ hai điều: phương pháp và trí tuệ. Năm ba la mật đầu thuộc về phương pháp. Ba la mật cuối hàm tuệ quán đặc biệt thuộc về trí tuệ.
2.3.3. CÁCH HUẤN LUYỆN CÁC VIỆC CỦA CON PHẬT SAU KHI PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Tôi sẽ bàn tiêu đề này dưới hai mục: (1) làm thế nào để luyện sáu ba la mật ngõ hầu làm cho tâm bạn thuần thục; (2) làm thế nào để luyện về bốn cách thâu đệ tử (bốn nhiếp pháp) để làm thuần tâm người khác.
a- Phương thức chung để huấn luyện các hạnh của người con Phật.
Có sáu mục: 1. Bố thí; 2. trì giới; 3. nhẫn nhục; 4. tinh tấn; 5. thiền định; 6. trí tuệ.
a-1.1. Bố thí
Bố thí tự bản chất là ý muốn xả bỏ thân ta, tài sản ta và những thiện đức căn bản của ta. Bố thí được phân làm ba loại.
a-1.1.1. Tài thí
Đây là cách bố thí kể từ cho một muỗng bột ngũ cốc cho đến hy sinh tánh mạng và thân thể cho người. Nếu bạn không thể cho ra một cái gì, thì hãy tưởng tượng làm thế nào trong quá khứ bạn được sinh làm Phạm vương, Đế thích, Chuyển luân vương, vân vân. Vào thời ấy bạn rất giàu có, nhưng vì bạn không thực hành bố thí nên không rút được tinh hoa nào từ những tái sinh ấy, và chính điều này đã đưa bạn đến tình trạng hiện nay. Lại nữa bạn phải thực hành bố thí mà không mong cầu đền đáp hay quả báo dị thục nào. Nếu sự bố thí của bạn có bồ đề tâm làm động lực thì sự bố thí dù chỉ là một miếng ăn hay một chút bột ngũ cốc cho ăn mày v.v… hay cho cả sâu kiến, cũng là một sự thực hành bố thí chân thật và là một hành vi của người con Phật. Bạn cũng nên làm thỏa mãn nhu cầu của người nhận, vì quả báo sẽ không phải nhỏ.
Khi chúng ta làm một cuộc cúng dường lớn để tỏ lòng tôn kính tam bảo, chúng ta có cảm tưởng mình làm được nhiều và cảm thấy rất hãnh diện. Đây không phải là một hình thức bố thí vật chất và nghĩ rằng “Tôi đã bố thí nhiều quá” hoặc “tôi đã cho không nhằm người.” Khi bạn xả bỏ cái gì, hãy khởi động lực trước khi cho như sau đó: điều ấy đang được thực hiện vì tất cả hữu tình như những người mẹ của bạn. Lại nữa hãy làm những lời nguyện mạnh mẽ. Dù hành vi bố thí là lớn hay nhỏ, đừng hy vọng lợi lộc gì đền đáp do sự bố thí ấy, hoặc hy vọng được kính trọng v.v…
hoangtri
07-27-2020, 05:20 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.1.2. Pháp thí
Hình thức bố thí này có thể là việc giảng dạy dù chỉ 4 câu kệ cho người nào muốn nghe, nếu ta nói bài kệ với ý nghĩ muốn đem lại lợi lạc cho người kia. Ngay cả khi bạn dạy cho học trò một bài đọc, đó cũng gọi là bố thí pháp, dù bạn không phải tu sĩ, không giảng nói từ một pháp tòa. Pháp thí tốt hơn bất cứ hình thức bố thí nào. Lại nữa sự học thuộc lòng hay nghiên cứu kinh điển cũng là một hành vi pháp thí nếu bạn tưởng tượng xung quanh mình có chư thiên hộ pháp và những hữu tình đang lắng nghe. Ngay cả giun dế v, v… khi nghe những lời pháp cũng để lại những dấu ấn trong dòng tâm thức chúng. Hãy nghĩ như vậy, ngay cả khi bạn đến đọc kinh tại nhà thí chủ.
Bạn phải rất cẩn thận khi đi vào xóm làng làm lễ. Đấng đạo sư đầy từ mẫn của chúng ta giảng dạy các mật điển, phương pháp đạt giác ngộ trong một đời. Nếu bạn trao đổi điều này với tặng phẩm do tụng đọc, thế là bạn đã bán pháp để lấy của cải vật chất. Điều này cũng như lôi một ông vua từ trên ngai xuống đất và bắt ông ta chùi nhà. Bởi thế hãy làm những nghi lễ ấy với động lực chân chính.
Bố thí pháp không chỉ có nghĩa là giảng dạy có bài bản. Nó có thể là việc sử dụng buổi nói chuyện của bạn v.v… như một phương tiện gián tiếp hay trực tiếp để hướng dẫn người khác vào Phật pháp. Những người đã xuất gia nên thực hành việc bố thí pháp là chính yếu, nhưng cũng nên bố thí tài vật nếu không quá khó khăn. Kadampa Geshe Shawara nghĩ như sau khi ông muốn nói chuyện với một nhóm tu sĩ:
“Tôi sẽ không nói về những lợi lạc của sự bố thí, vì tôi đã nói với các vị những lỗi lầm của chấp thủ.”
a-1.1.3. Vô úy thí
Điều này có nghĩa là sự phóng thích các tù nhân hay cứu người chết đuối chẳng hạn. ngay cả việc cứu những chúng sinh như giun khỏi hơi nóng mùa hè hay cơn lạnh mùa đông cũng là một hình thức vô úy thí. Không cần phải đi thật xa mới làm được hạnh “bố thí sự không sợ” này, bạn có thể làm việc ấy con rận trên thân bạn. Cứu những côn trùng khỏi chết đuối chẳng hạn là việc làm rất dễ. Bạn chỉ cần đưa ra một ngón tay. Sự quán tưởng về bố thí được tìm thấy trong chương nói về luyện tâm cũng là một pháp thực hành bố thí.
Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh đề cập một cách căn bản để thế nào là bố thí ba la mật:
Nếu bố thí ba la mật
Là trừ khử nghèo nàn của tất cả chúng sinh,
Thì làm thế nào đức Phật, đấng che chở
Đã hoàn thành được nó, khi ngay bây giờ
Vẫn còn những chúng sinh đang thèm khát?
Nói cách khác bố thí không có thể chỉ là xua tan cơn nghèo của hữu tình; ngay cả Thanh văn, Duyên giác, A la hán cũng không có được ba la mật này, mặc dầu họ hoàn toàn không có tâm bỏn xẻn. Bố thí là một cái gì hơn thế nữa. Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Người ta bảo bố thí ba la mật
Là tâm tưởng bố thí cho mọi chúng sinh
Tất cả những sở nghiệp của bạn.
Như vậy bố thí phải từ tự tâm.
Điều này có nghĩa rằng bố thí ba la mật phát sinh do sự quen thuộc với ý tưởng xả bỏ thân thể tài sản công đức và những nghiệp báo của mình cho người khác; và điều này cũng có nghĩa là cho những sự ấy từ đáy sâu tim bạn không một chút keo kiệt, trong khi nghĩ những lợi lạc của sự tịnh thí và những lỗi lầm của không xả bỏ.
Như vậy điểm quan trọng ở đây là bạn nên tăng trưởng những ý nghĩ về bố thí. Nếu người ăn xin đến xin ba tấm y của bạn, mà bạn nghĩ, “Ta có nên xả chúng hay không” đó là do bạn có thói quen bố thí. Cuối cùng bạn sẽ có thể hy sinh cả thân thể mình, sau khi luyện tâm về mức độ thấp hơn của sự bố thí. Khi bạn chưa đạt đến mức quen thuộc như thế, thì hãy luôn luôn tăng trưởng những ý niệm về bố thí.
Cách tăng trưởng những ý niệm ấy như sau. Hãy quán các pháp là vô thường. Khi chết, ta sẽ không đem theo được một chút tài sản. Những vật ta để lại sẽ bi hư nát v.v… Hãy đem chúng ban phát cho mọi người một cách chân thật từ đáy lòng; khi ấy bạn sẽ ít có cơ hội vi phạm những tiểu giới như tích trữ nhiều vật dụng. Đây là một ví dụ về hạnh bố thí.
Nhưng nghĩ tưởng chưa đủ, bạn phải thật sự xả bỏ càng nhiều càng tốt. Bạn nên rộng rãi đối với hành khất, nhưng không nên bố thí những vật kiếm được do tà mạn khi bạn không có gì khác để cho.
Tóm lại, ba la mật đầu tiên phải là sự tu tập chính của cư sĩ. Có câu:
Thí - giới - nhẫn là dành cho đa số
Đức Như Lai dạy ba pháp này cho cư sĩ.
Thực không nên cho thân thể của bạn chẳng hạn. Đừng bố thí thân xác trong khi bạn còn ở địa vị đang tập quen hạnh bố thí và đang tăng trưởng những ý tưởng về bố thí. Chỉ về sau mới nên xả bỏ thân thể khi chuyện ấy đã trở nên dễ dàng đối với bạn như chuyện cho một đĩa rau.
Có những vật không nên xả bỏ. Đừng thực hành bố thí với vài vật đặc biệt không được phép cho vì người nhận, vì thời gian, vì vật thí, v.v… Nếu người cho là xuất gia thì không nên đem cho ba y của mình v.v… Người xuất gia thì không được cúng dường thức ăn sau ngọ. Bạn không nên bố thí thức ăn bất tịnh như tỏi hành cho những người bà la môn vì họ giữ giới không ăn những thứ này. Bạn cũng không nên đem sách cho những người chỉ muốn tranh cãi, hoặc cho khí giới, độc dược cho những người có thể tự sát. Bạn không nên dạy mật điển cho một pháp khí không thích hợp hoặc bao che cho kẻ phạm tội nếu bạn chắc chắn y sẽ làm hại đến hữu tình hoặc cho nền giáo lý v.v…
Sẽ là một tà kiến nếu nghĩ rằng hạnh bố thí không có quả báo. Cũng sẽ ít lợi lạc nếu bạn chỉ giúp đỡ một hữu tình mà bỏ qua nhu cầu của những hữu tình khác. Hãy luyện mình không bị ô nhiễm vì những việc như trên, và như sau: bị tà kiến thúc đẩy giết súc vật để cúng tế, khinh thường kẻ khác, có hành vi cạnh tranh, tự thổi phồng mình, ham danh, cảm thấy hối hận, chủ bại, hoặc hành động có tính cách bè phái.
Shantideva nói đến 3 điều: bố thí, che chở, và làm cho thanh tịnh. Nói cách khác, bạn tăng trưởng những ý tưởng về bố thí thân mạng, nhưng khi chưa đến thời gian để làm việc ấy, thì bạn phải che chở thân mình khỏi những hoàn cảnh tác hại và giữ nó thanh tịnh bằng cách không sử dụng nó một cách bất thiện. Bản văn còn bàn đến một điều thứ tư là bạn nên hoàn tất những nguyên nhân đưa đến tái sinh như thế này, để trong những kiếp sau bạn sẽ có tám đức do quả dị thục, đó là sự tăng trưởng.
Lại còn có một nhóm bốn khác nữa: xả bỏ tài sản của bạn và tăng trưỏng ý tưởng về bố thí; che chở bản thân cho đến khi xứng đáng nhận của cúng dường của người khác; giữ mình trong sạch bằng cách không để ô nhiễm vì tà hạnh hay tội lỗi; tăng trưởng phạm vi bố thí để bạn có được vật để cho trong đời tái sinh.
Một nhóm khác là: xả bỏ thiện hành của bạn cho hữu tình một cách chân thành tự tâm khảm; che chở đức hạnh của bạn khỏi bị phá hủy vì giận dữ; sự trong sạch do không bị ô nhiễm vì hành động bất tịnh, nhưng mong được hạnh phúc trong đời này, hay chỉ muốn tránh tái sinh vào đọa xứ; tăng trưởng ý thức vui mừng của bạn v.v… Bản văn này bàn đến bốn nhóm bốn. Bạn phải tu tập theo cách đề ra trong bản văn này.
hoangtri
07-30-2020, 03:58 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.2. Sự thực hành giới Ba la mật
Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Người ta bảo giới ba la mật
Là đạt được sự từ bỏ một vài tư tưởng.
Nghĩa là lật ngược những ý tưởng hại người cùng với căn bản của những ý tưởng ấy (là tham, sân, v.v…-DG), chuyển thành tư tưởng từ bỏ những hành vi như vậy. Sự hoàn toàn quen thuộc với sự từ bỏ này trở thành trì giới ba la mật.
Có ba loại giới.
a-1.2.1. Giới chế ngự những hành vi bất thiện
Một ví dụ về giới này là ba loại lời nguyện. Tác phẩm Ngọn Đèn Soi Đường nói:
Những người giữ một trong bảy loại
Giới biệt giải thoát
Luôn luôn có thể giữ được giới khác
Họ có cơ may thọ giới bồ tát
Người khác thì không.
Mới nhìn qua, điều này có vẻ như nói rằng bạn cần phải có giới biệt giải thoát mới có thể thọ giới bồ tát. Nhưng điều này cũng có nghĩa là, theo Mật tông, những người xứng đáng thực hành mật điển nhất là tăng ni là những người tốt nhất để được huấn luyện thành bồ tát, song điều này không bao gồm tất cả mọi trường hợp: có những trời rồng có thể thọ giới bồ tát nhưng lại không được thọ giới Biệt giải thoát.
Trong trường hợp ấy bạn phải làm gì? Khi bạn có giới Biệt giải thoát và có thể theo đuổi học giới của bồ tát, thì bạn phải nhân ra những giới luật về từ bỏ và tự chế phù hợp với giới Biệt giải thoát. Nếu bạn không có giới, bạn hãy xem sự tự chế là từ bỏ và ngăn chừa mười bất thiện. Giới bồ tát là một thực thể khác với giới Biệt giải thoát và cũng khác với giới từ bỏ 10 bất thiện trong dòng tâm thức của Bồ tát.
a-1.2.2. Giới tích tập tất cả điều lành
Giới này có nghĩa nỗ lực với ba cửa thân ngữ ý đến thực hành mọi điều thiện kèm với bồ đề tâm. Những điều này bao gồm sự cúng dường, lễ bái, tôn kính, phục vụ những vị đáng cúng dường; học hỏi, quán tưởng, thiền định, giảng dạy hay lắng nghe. Tóm lại, đó là tất cả những công việc thuộc sáu hạnh ba la mật được thực hành để làm thuần thục dòng tâm thức của bạn và của hữu tình.
Tất cả công việc của những người con Phật đều thuộc về ba loại giới này. Nói chung toàn thể Lam-rim là để tăng trưởng ba loại giới này (dứt ác, làm lành và lợi ích chúng sinh).
a-1.2.3. Giới làm lợi ích cho chúng sinh.
Giới này gồm có bốn cách để thâu thập đệ tử hay Bốn nhiếp pháp (xem ngày 23) v.v…
Còn có 11 cách để làm việc cho hữu tình: 1. Giúp những người khó nhọc và đau khổ, 2. Giúp những người không biết phương pháp chính đáng; 3. Giúp người bằng cách làm lợi lạc cho họ; 4. Giúp người bị nguy hiểm đe dọa; 5. Giúp người bị khốn đốn bần cùng; 6. Giúp người đao đào thoát; 7. Giúp người không nhà; 8. Giúp người không gặp kẻ đồng tâm; 9. Giúp những người đi đúng đường; 10. Giúp những người đi sai đường; 11. Giúp tất cả những hạng người trên bằng thần thông.
Chúng ta có thể thực hành 10 mục trong số trên, chỉ trừ mục làm việc bằng thần thông. Tóm lại giới này bao gồm tất cả hành vi bằng thân lời ý có động lực là những tư tưởng muốn làm lợi ích người khác.
Bạn phải theo những giới như từ bỏ mười điều ác ngay cả khi bạn chưa thọ giới Biệt giải thoát. Bạn tu tập 6 ba la mật để làm thuần thục dòng tâm thức; ba loại giới trên đây (thuật ngữ gọi là Tam tụ tịnh giới - DG) sẽ huấn luyện cho bạn làm những việc lợi người.
hoangtri
08-01-2020, 07:28 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.3. Làm thế nào để huấn luyện hạnh nhẫn nhục
Nhẫn nhục tự bản chất là tâm không bị dao động bởi bất cứ điều hại nào được gieo rắc cho mình hay bởi sự lo lắng vì đau khổ. Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Chúng sinh cang cường khó hàng phục hết
Vì chúng nhiều như hư không
Nhưng người nhẫn nhục không nản chí,
Mà chỉ bị tư tưởng giận dữ đánh bại;
Nếu điều này xảy ra
Thì cũng như thất bại về tay tất cả mọi người.
Nói cách khác, nhẫn nhục bị cơn giận dữ đánh bại. Nhẫn nhục dễ bị đe dọa vì sân nhất. Sahntideva nói:
Không có tội lỗi nào bằng hận thù
Không có khổ hạnh nào bằng nhẫn nhục
Có ba loại nhẫn.
a-1.3.1. Nhẫn: bình tĩnh trước những người tấn công
Khi những người khác như kẻ thù hại bạn, hãy kiên nhẫn đừng nỗi giận. Hãy ý thức những lỗi lầm của giận dữ, đấy là điều bất thiện tệ nhất. Người ta nói rằng mỗi khi bạn nỗi giận, bạn phá hũy những công đức căn bản trong một ngàn kiếp. Khi ta hiểu rõ những tai hại của giận dữ thì ta sẽ luôn luôn muốn kiên trì thực tập thiền định về nhẫn nhục. Bạn không thể biết ai là bồ tát. Nếu bạn nổi sân với một Bồ tát mà bồ đề tâm của bạn yếu hơn, thì bạn phá hủy công đức 100 kiếp. Nếu bản thân bạn không phải là Bồ tát và người bạn sân giận lại là Bồ tát, thì bạn pháhủy công đức 1000 kiếp. Điều này nói trong tác phẩm Hành Trung Đạo và Hành Bồ Tát Hạnh. Vậy những lỗi lầm quả thật nặng nề.
Bạn phải đào luyện sự nhẫn nhục, nhưng hãy làm việc này trước khi bạn nỗi tâm sân - Một khi bạn nỗi sân thì đã quá muộn. Bạn phải kiên nhẫn và nghĩ về những khuyết điểm của giận dữ. Nếu không bạn sẽ làm cho mọi người và cả chính bạn phải khổ sở. Ngoài hậu quả mà cơn giận gây trên người khác, nó còn có thể đẩy bạn đến chỗ tự sát, v.v… Cơn giận có hậu quả là làm cho bạn có nhiều kẻ thù.
Bạn có thể nghĩ rằng “Tất cả những điều này đúng thật, nhưng làm sao tôi có thể nhẫn nhục khi có quá nhiều đối tượng gây giận dữ?” Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Làm sao bạn tìm đủ da thuộc
Để lót khắp mặt đất?
Nhưng có được cái đế giày bằng da
Thì cũng như lót da toàn mặt đất.
Hãy xem thử bạn có thể hoàn toàn hàng phục kẻ thù hay không. Bạn sẽ thấy rằng mình không bao giờ thiếu kẻ thù hay hàng phục được tất cả kẻ thù cho đến khi không còn hữu tình nào trên mặt đất. Nhưng nếu bạn hàng phục cơn giận của mình thì bạn sẽ không có một kẻ thù nào cả, và điều ấy cũng như là hàng phục tất cả kẻ thù.
Một khi bạn đã hoàn toàn hiểu Đạo sư rằng những loại nhẫn nhục được xếp hạng theo bản chất của chúng, và những lỗi lầm của giận dữ v.v… thì bạn có còn để cho toàn thân bạn bị cơn giận tóm lấy hay không? Một lần có vị lạt ma cố gắng can đệ tử của mình và một tên trộm đang đánh nhau. Ngài không thành công, người đệ tử cứ đánh người kia. Vị Lạt ma đặt ngón tay lên mũi đệ tử và nói: “Nhẫn nhục, nhẫn nhục” tức thì người đệ tử nhớ lại mình đã mất sự nhẫn nhục. Khi cơn giận đã làm công việc của nói rồi thì có ích gì để giả vờ nhẫn nhục.
Lúc đầu có thể khó thực hành nhẫn nhục; chỉ về sau, khi đã quen nhờ thiền định ta mới có được nhẫn nhục. Có những lý do tại sao không nên giận dữ với người nào làm hại mình. Chẳng hạn có người đánh vào đầu bạn bằng một con roi. Hãy nghĩ như sau để ngăn bạn đừng giận dữ: “Nếu tôi giận với cái khí cụ thực sự gây ra đau đớn thì đáng lẽ tôi nên giận dữ con roi, nhưng con roi nó không có năng lực, nó chỉ được sử dụng.” Con người đánh bạn cũng không có năng lực. Anh ta bị trói buộc bởi những vọng tưởng ở trong anh. Tất cả đều đi đến một điều: Sự việc bạn cư xử sai lầm là yếu tố trực tiếp nhất cho việc bạn bị đánh bằng roi. Tuy nhiên căn bản chính là ác nghiệp bạn đã gây nên như đánh người ta trong quá khứ v.v… Bởi thế khi việc này là quả báo thuần thục của nghiệp bạn đã làm, thì bạn nên giận ai?
Tác phẩm Bốn Trăm Bài Kệ nói:
Đấng Mâu ni có thể thấy được vọng tưởng
Những người có vọng tưởng thì không thấy
Nói cách khác một bệnh nhân điên có thể đánh vào y sĩ hoặc một người con trai điên đánh cha, nhưng y sĩ và người cha không giận bệnh nhân hay người con, mà trái lại cố gắng để chữa khỏi bệnh điên. Những người làm hại bạn cũng thế, như đã bị điên vì vọng tưởng. Họ không phải là những tác nhân có tự do, nên bạn không nên giận họ. Thay vì thế bạn phải cố gắng dùng vài phương tiện để diệt trừ vọng tưởng cho họ. Nếu lửa làm bỏng tay bạn thì chính là lỗi tại bạn đã động vào lửa. Không nên giận lửa. Cũng thế lỗi của bạn là đã khiêu khích người kia, nên thật không đúng để giận anh ta. Vì hữu tình bản chất là vọng tưởng, nên thật sai khi giận họ cũng như khi thật sai lầm khi giận lửa mỗi lúc bạn bị bỏng, vì bản chất của lửa là làm bỏng da. Nhưng bạn vẫn nghĩ rằng: “Có thể bản chất của chúng như vậy, nhưng tôi giận chúng vì chúng làm một điều bất ngờ đối với tôi.” Nếu thế thì cũng nên giận bầu trời khi thình lình nổi giông bão, nhưng điều ấy thật vô ích. Như vậy, thật sai lầm khi ta giận những người như thế. Khi bạn bị đánh, bị lăng nhục v.v… hậu quả là bạn bị đau khổ về thể xác hoặc tinh thần, thì đừng đáp lại sự sai quấy, vì điều ấy sẽ tạo nhân cho bạn tái sinh vào những đọa xứ. Ngược lại bạn nên áp dụng những biện pháp chữa trị cơn giận dữ của mình và hãy nhẫn nhục. Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Hiện tại tôi không chịu nỗi đau khổ;
Thế mà giận dữ lại là nhân của địa ngục,
Thì tại sao không dứt trừ giận dữ?
Sự nhẫn nhục bằng cách bình thản trước những người tấn công (Nại oán hại nhẫn) là điều mà bạn đào luyện đối với những người thường làm hại mình, chứ không phải những người thường giúp mình. Vậy càng có nhiều người muốn hại bạn, thì bạn càng có cơ hội thực hiện hạnh nhẫn nhục. Bởi thế bạn phải nghĩ rằng những người này làm cho bạn tăng thêm hạnh nhẫn nhục. Atìsha thường được một người hề của vua Asangavyaya theo hầu, y là một người rất khó chịu. Khi người ta yêu cầu Atìsha bỏ người hầu ấy, ngài trả lời: “Có anh ta thì hạnh nhẫn nhục của tôi mới có cơ hội phát triển toàn vẹn.”
Tóm lại, hãy nghĩ: “Nếu những Thanh văn chuyên tự lợi mà còn không tức giận khi gặp những kẻ nghịch, huống gì tôi là người đã thề theo Đại thừa.” Bạn cần phải học câu chuyện về tiên nhẫn nhục.
(CT. Một trong những tiền kiếp của Phật Thích Ca khi còn làm Bồ tát. Ngài làm một vị tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục, bị một ông vua chặt hết tay chân trong một cơn ghen tức, nhưng Ngài vẫn giữ thái độ bình thản.)
hoangtri
08-02-2020, 05:25 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.3.2. Nhẫn nhục trong sự chấp nhận đau khổ
(kham thọ khổ nhẫn)
Không những bạn cần phải có thái độ không bám víu hạnh phúc, mà bạn còn nên xem đau khổ như một kiểu trang hoàng, và sử dụng đau khổ như một phương thuốc; như trong chương trước nói về các pháp luyện tâm. Mõi khi bạn bị đau khổ trong lúc tu khổ hạnh, hoặc bị đau ốm, hoặc bị kẻ thù quấy rối, hoặc gặp ác mộng - hãy chuyển tất cả thành những pháp giúp bạn tu tập. Hãy nghĩ rằng chúng sẽ làm tiêu bớt ác nghiệp của bạn, tăng trưởng tâm từ bi nơi bạn, khiến bạn nghĩ về những lỗi lầm của sinh tử v.v… và hãy nhẫn nhục. Khi bạn gặp đau khổ, hay nghĩ như sau: “Nỗi khổ này sẽ thay thế cho nỗi khổ mà tôi đáng lẽ phải trải qua trong các đọa xứ. “Điều này sẽ làm cho bạn sung sướng. Giả sử một người sắp bị hành hình nhưng sau đó lại chỉ bị chặt tay, thì y phải cảm thấy sung sướng vì thoát chết. Cũng như người ta có thể chịu đựng nỗi khổ của sự chảy máu hay nhúng nước nóng để làm lắng dịu một con bệnh. Thế nên khi bạn tu hành gặp khó khăn thì hãy nghĩ: “Tốt, điều này sẽ thay thế cho các nỗi khổ ở các đọa xứ.” Và lúc ấy, hãy nhớ đến những lợi ích của đau khổ. Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Đức tính của khổ đau là
Nó tẩy trừ kiêu mạn,
Nó làm ta phát tâm đại bi
Đối với những hữu tình trong sinh tử,
Làm ta tránh tội lỗi, và vui vì điều lành.
Lại nữa bạn phải chấp nhận khổ đau, và tạo cho mình một trạng huống để có thể tăng trưởng những việc lành. Hãy làm những việc như thực hành hỷ túc và ít muốn. Khi thực hành những pháp khổ hạnh này hãy nghĩ như sau: “Vì đã xuất gia, tôi không nên mong đợi chổ ở tốt, thực phẩm ngon, áo quần đẹp. Như vậy tôi hy vọng có thể luyện mình trong 4 việc thích hợp với bậc Thánh, như hài lòng với những vật kém phẩm chất về ăn, mặc, ở, bệnh.” Nếu không làm như vậy, bạn sẽ muốn ăn ngon, muốn giàu có, và luôn luôn tìm cách tăng gia của cải. Bạn sẽ không nghĩ gì vè Pháp, không vượt qua những thứ vô nghĩa của đời người.
Có lần một người buôn gỗ nghe bậc Đạo sư nói: “Kho tàng chôn dấu đã tìm ra, thì nó liền nhiễm đầy độc tố. Chất độc ấy thực mạnh!” Về sau anh ta tìm được một kho tàng và đâm ra giàu có. Vua bắt phải khai nguyên nhân sự phát phú này, anh ta nói dối và bị hành quyết. Thương gia kêu lên: “Quả thực nó liền nhiễm độc rất nhanh. Chất độc này thật mạnh!” Vua hỏi lý do, và thương gia kể câu chuyện.
Tài sản cũng là một chất độc. Nếu những người tu chúng ta ít muốn biết đủ, thì mọi sự sẽ tốt cho ta. Khi đức Tsongkapa từ giả vùng Jadrael, ngài và các đệ tử có rất ít của cải. Nhưng họ ít nhu cầu và hài lòng với những gì mình có. Thực phẩm y phục không làm hại cho sự tu tập của họ. Cũng thế bạn nên hài lòng với những gì mình sở hữu, vì những thứ ấy tương xứng với công đức của bạn. Hãy kham nhẫn khi gặp điều khó chịu như bị chỉ trích v.v… Hãy chấp nhận đau khổ trong các hoạt động bình thường như phải ngồi thẳng lưng v.v… Hãy chấp nhận những đau khổ vì bảo trì chính pháp như cúng dường tam bảo v.v… Hãy chấp nhận đau khổ vì phải từ bỏ dục lạc, từ bỏ khoe khoang. Có sao hay vậy, dù bạn có thể xấu xí, áo quần tồi v.v… Hãy chấp nhận đau khổ vì thực hành giới hạn cho đến khi mỏi mòn. Hãy chấp nhận đau khổ do việc lợi lạc hữu tình như khi tu nhẫn nhục, khi cứu người khỏi chết v.v… hãy chấp nhận đau khổ của sự sống chật vật sau khi từ bỏ những phương tiện tăng gia tài sản bằng nghề buôn bán trồng trọt. Vân vân.
Như vậy, sự nhẫn nhục bằng cách chấp nhận khổ đau là một đề tài rộng lớn.
hoangtri
08-04-2020, 10:07 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.3.3. Sự nhẫn nhục để có được bảo đảm về pháp (pháp nhẫn)
Lam-rim Con Đường Nhanh nói chi tiết về điểm này. Bạn được bồ đề về Pháp bằng cách: (1) thiền định về những điểm then chốt của giới; (2) tập thay đổi lối hành xử nhờ học và tụng kinh; (3) phân tích ý nghĩa những thiện đức của Tam Bảo, ý nghĩa những mục tiêu giác ngộ của bạn, con đường đưa đến mục tiêu ấy, ý nghĩa của vô ngã và ý nghĩa của ba tạng giáo lý sâu rộng… Hoặc nếu nói về Lam-rim thì bảo đảm về Pháp là hiểu rõ ý nghĩa những danh từ trong Lam-rim này chẳng hạn. Loại nhẫn nhục này giống như sự thấu đạt có được nhờ tranh luận.
Hình thức nhẫn nhục đầu tiên (nhẫn khi bị tấn công - nại oán hại nhẫn. DG) thì chỉ luyện được khi bạn bị những đối thủ khiêu khích. Hai hình thức còn lại (kham thọ khổ nhẫn và pháp nhẫn) phải được thực hành luôn luôn. Bạn phải nhẫn nhục trong sự học pháp, chẳng hạn bất kể buổi học có kéo dài bao lâu, hãy lắng nghe với sự nhất tâm, suy tư ý nghĩa. Hãy thận trọng về cách hành xử khi bạn tham gia những buổi thảo luận: Hãy chịu đựng đói khát. Tâm bạn hãy chuyên nhất khi học bài hay tụng kinh. Hai loại nhẫn nhục sau cùng áp dụng khi bạn đi vào làng để làm lễ trong nhà người.
a-1.4. Tinh tấn
Tinh tấn có nghĩa là vui thích trong bất cứ thiện hành nào.
Bản chất của tinh tấn là vui về điều thiện. Đó là cách tốt nhất để hành thiện đến chỗ viên mãn. Trang nghiêm kinh nói:
Tinh tấn là tốt nhất
Trong tất cả đức hạnh
Nếu đào luyện tinh tấn
Về sau sẽ thành công.
Nhờ tinh tấn, ta đến
Những cảnh giới thù thắng,
Được cả hai thần thông
Thế tục và siêu thế
Nhờ tinh tấn ta đạt
Những mục tiêu thế gian
Được thanh tịnh, giải thoát
Khỏi thân kiến sai lầm
Xem “ngã” là thân xác.
Nhờ tinh tấn ta sẽ
Đạt vô thượng bồ đề.
Bản văn trên đây nói rằng tinh tấn là đức hạnh tốt nhất; mọi sự đều phát sinh từ đó kể cả quả Phật. Tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Mọi đức tính đều phát xuất từ tinh tấn.
Vậy bạn đừng cư xử như một con lừa ương ngạnh đứng dậm chân khi bạn phải tụng đọc v.v… Bạn phải khởi sự những hoạt động này một cách thích thú vì được làm thiện hành. Hãy tập quen với điều này từ từ; và tăng dần khi sự tinh tấn của bạn gia tăng.
Có ba loại lười biếng ngăn che sự tinh tấn.
a-1.4.1. Lười biếng do thiếu hăng hái
Điều này có nghĩa là bạn mất cơ hội hành thiện vì luôn luôn triển hạn. Bạn liên tục hẹn rày hẹn mai vì không nhiệt tâm trong công việc. Cách đối trị cần thiết là phải quán cái chết là vô thường, hoặc quán thân người khó được.
a-1.4.2. Lười biếng do khao khát những tầm cầu xấu xa
Đây là sự tầm cầu thuộc thế tục, lăn xả vào chúng, và vào những ác hành vì bạn chưa biết chán. Điển hình của ác hành này là ham được cung kính, ham tụ hội, ham nói chuyện phù phiếm, canh tác, buôn bán, may dệt v.v… những việc ấy không được gọi là tinh tấn mà gọi là chấp thủ. Hành Bồ Tát Hạnh nói về cách điều trị như sau:
Nhân của hạnh phúc là diệu pháp.
Nhưng bạn lại lăn xả vào những nhân khổ
Và từ bỏ hạnh phúc tối thượng.
Tại sao vui trong sự tàn mạt?
Nói cách khác, sự tầm cầu sinh tử là chuyện không có thực chất mà chỉ gây đau khổ. Hãy nghĩ như thế thì bạn sẽ bỏ được hình thức lười biếng này.
hoangtri
08-06-2020, 08:20 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
a-1.4.3. Lười biếng vì chủ bại
Đây là hình thức chủ bại thâm căn cố đế. Những điển hình của sự chủ bại này là những ý tưởng như sau: “Làm sao một người như tôi có thể đạt thành quả Phật ?” hoặc: “Làm sao tôi có thể làm việc cho tất cả hữu tình?” hoặc “Làm sao một người như tôi lại có thể hy sinh thân thể, tay chân?” Thay vì thế bạn hãy nghĩ: “Tôi sẽ kiên nhẫn dù có phải dành suốt cả đời để tập luyện chỉ một đề mục thiền quán như quán thân người khó được.” Hoặc, hãy nghĩ: “Tôi có thể tinh tấn với những tầm cầu thế tục như kinh doanh buôn bán, tôi có thể kiên nhẫn biết bao để có được một lợi lộc nhỏ! Nếu tôi đã có thể làm được những điều ấy, thì tôi cũng có thể tinh tấn siêng năng để đạt giác ngộ.”
Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Đừng trì hoãn và nói:
“Làm sao tôi giác ngộ?”
Chư Phật luôn nói đúng
Đã nói thật như sau:
Sâu bọ, ruồi nhặng, ong
Nếu kiên trì có thể
Đạt Phật quả khó đạt!
Huống là người như tôi
Đã được sinh làm thân người,
Biết được điều lợi, hại.
Nếu tôi không từ bỏ
Những phận sự bồ tát
Thì sao không giác ngộ?
Nghĩa là hãy nghĩ: “Đấng đạo sư của chúng ta, người luôn luôn nói sự thật, đã dạy rằng ngay cả ruồi cũng có thể thành Phật. Một người như tôi đã được sinh làm người. Tôi biết nói và không thiếu khả năng hiểu biết. Vậy thì sao tôi lại không thể giác ngộ? Đương nhiên là tôi có thể!
Bạn có khi nghĩ: “Dĩ nhiên là được, nhưng tôi không thể thực hành những khổ hạnh như bố thí đầu, tay chân.”
Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Khi tôi nói “Tôi sợ phải bố thí tay chân tôi”
Thì tôi chưa phân tích cái gì nặng cái gì nhẹ.
Dù tôi mù, sự sợ hãi của tôi cũng sẽ chấm dứt
Đức Phật đấng cứu thế gian,
Lúc đầu thực hành bố thí
Bằng cách cho những dĩa rau v.v…
Khi tôi xem ngay cả thân tôi
Cũng không giá trị gì hơn đậu luộc,
Thì tôi có thể hy sinh máu thịt v.v…
Có gì khó khăn đâu?
Nói cách khác, sau khi khởi đầu thiền quán ở mức độ thấp, về sau bạn sẽ xem nhẹ việc bố thí đầu, tay chân, cũng như khi bạn cho một dĩa rau. Khi đã đến trình độ ấy thì bạn sẽ vui mừng khi làm một sự hy sinh, không thấy gì khó.
Có thể bạn nghĩ : “Chư Phật có vô lượng đức tính, và những đức này sẽ rất khó thành tựu. “Hãy quán tưởng rằng bạn chắc chắn có thể thành tựu nếu bạn tập luyện, bởi vì đạo lộ được sử dụng có thể thành tựu những đức tính ấy thật vô cùng sâu xa và rộng lớn.
Nhưng bạn cũng có thể cãi: “Sẽ rất khó cho tôi nếu phải vì tất cả chúng sinh mà đi xuống các đọa xứ chẳng hạn.”
Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Vì từ bỏ tội lỗi,
Bạn sẽ không khổ đau.
Vì có được thiện xảo,
Bạn không thiếu may mắn.
Nói cách khác, bạn sẽ ở trong địa ngục vô gián vì tất cả hữu tình, nhưng vì bạn đã từ bỏ ác nghiệp tội lỗi, nên bạn sẽ không đau khổ cũng không thiếu hạnh phúc, vì có câu nói: “Ta không thể gặp điều gì nếu đã không tạo nghiệp để gặp nó.” Bởi thế bạn nên nghĩ rằng: “Ở địa ngục tôi sẽ không khổ, xuống địa ngục khi ấy cũng không khác gì lên tịnh độ.”
hoangtri
08-07-2020, 10:39 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI
__________________________________________________ ______________________________________
Có 3 loại tinh tấn
a-1.4.4. Tinh tấn như áo giáp
Cúng dường Đạo Sư nói:
Xin cho con hoàn toàn tinh tấn
Dù phải ở trong địa ngục Vô gián
Trong vô lượng kiếp
Vì lợi ích cho mỗi hữu tình
Xin tâm đại bi của con không lay chuyển
Mong con nỗ lực đạt vô thượng bồ đề.
Nói cách khác, hãy tập luyện để nghĩ rằng bạn có thể chịu đựng vì phải ở trong địa ngục vô gián hàng trăm ngàn kiếp vì một hữu tình. Trong mật tông, bạn phải đi vào mật điển với ý nghĩ: “Về phần tôi, tôi sẽ chịu đựng được điều này, nhưng hữu tình vẫn còn trong sinh tử trong một thời gian dài.” Ước mong của bạn là giải cứu tất cả hữu tình càng sớm càng tốt khỏi những đau khổ của họ, như một bà mẹ mong cứu con chết đuối.
Trong chương này “Tinh tấn như áo giáp,” bạn huấn luyện ý nghĩ rằng mình có thể vì chúng sinh mà đi xuống địa ngục vô gián. Hãy so sánh điều này với Phạm Vi Trung Bình trong đó bạn phát sinh ý muốn thoát ly sinh tử. Bạn có thể nghĩ ở đây có sự mâu thuẩn, nhưng không. Bồ tát cũng sợ bị sinh vào đọa xứ do năng lực của nghiệp và vọng tưởng. Nếu bồ tát bị đọa kiểu ấy, thì họ còn không cứu nổi chính mình, làm sao lợi lạc cho người khác. Bồ tát luôn luôn huấn luyện tâm bồ đề và có được sự dũng cảm không sợ cho chính mình; nhưng sẵn sàng tái sinh do năng lực của đại bi và cầu nguyện. Họ sẽ không đau khổ khi tái sinh ở đấy, cũng không chút nào lo sợ. Sự luyện tập này được gọi là “tinh tấn như áo giáp”: bạn đương đầu với những khó khăn vì muốn ích lợi cho hữu tình vào thời đại suy đồi, khi con người không còn thực hành những pháp ấy.
a-1.4.5. Tinh tấn tích lũy thiện hành
Sự tinh tấn này là tích lũy công đức, thanh lọc bản thân, cúng dường, tinh tấn trong việc thực hành sáu ba la mật.
a-1.4.6. Tinh tấn làm việc cho tất cả hữu tình.
Một ví dụ về sự tinh tấn này là tinh tấn trong việc thực tập bốn cách thâu nhận đệ tử (bốn nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự- DG). Đấy là một sự tập luyện giống như “Giới nhiêu ích hữu tình.”
Bạn có thể xem hai loại tinh tấn sau cùng, hai loại giới và nhẫn sau cùng là giống nhau, nhưng hãy để chúng tách rời: đừng lẫn lộn chúng mặc dù bạn thích thú, bạn thực hành, và mong mỏi từ bỏ những yếu tố ngược lại liên quan đến một căn bản duy nhất.
Chẳng hạn nếu bạn thiền quán một thời về giai đoạn phát sinh (liên hệ đến mật điển Tối thượng Du già) kèm với sự phát sinh tâm bồ đề, thì tức là bạn đang thực hành của 6 pháp ba la mật.
Khi ấy Pabongka Rinpoche chỉ giới thiệu hai ba la mật cuối cùng là thiền định và trí tuệ. Ngài nói rằng ngài sẽ bàn đến hai pháp này một cách chi tiết trong nhưng phần giảng dạy kế tiếp.
hoangtri
08-08-2020, 07:45 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY HAI MƯƠI MỐT
Kyabje Pabongka Rinpoche cho một chuyện ngắn để dẫn nhập. Ngài trích dẫn câu sau đây từ tác phẩm của Gyaltsab Rinpoche Jampa Goenpo:
Trước hết nhờ sự học
Mà tư tưởng bạn trở nên thiết thực
Do sự thiết thực ấy bạn sẽ đạt đến
Căn bản trí đi sâu vào những việc thuần tịnh.
Rồi ngài kể ra những tiêu đề đã bàn, và ôn lại vắn tắt bốn mục bố thí v.v… trong tiêu đề “Sau khi phát tâm bồ đề, cách luyện tập các hành vi của người con Phật.”
a-2. đặc biệt, cách luyện hai pháp ba la mật sau cùng.
Có hai tiêu đề phụ: (1) làm thế nào để tập tinh yếu của định - tịnh chỉ; (2) làm thế nào để tập tinh yếu của tuệ - tuệ quán đặc biệt.
a-2.1. Làm thế nòa để tập tinh yếu của định - tịnh chỉ
Có sáu mục nhỏ: (1) Đào luyện những điều kiện đưa đến tịnh chỉ: (2) cách thực thụ để đạt đến tịnh chỉ; (3) từ căn bản này, làm sao để đạt chín định chứng; (4) Cách đạt định nhờ 6 năng lực; (5) Thế nào là có 4 loại tiến trình tâm; (6) Cách phát triển tịnh chỉ chân thực.
Trong phần Phạm Vi Trung Bình, Kyabje Pabongka đã không bàn đến tăng thượng định học và tuệ học mà ngài sẽ bàn trong chương này, tức hai pháp ba la mật cuối.
Định là một cái gì chúng ta có chung với người không phải Phật tử. Những hình thức thấp kém của định là những pháp tu các thiền thuộc sắc và vô sắc. Chúng ta có thể phát triển những pháp tu này thành ra nhân giải thoát bằng cách thực hành chúng kèm với những tư tưởng từ bỏ. Chúng ta cũng có thể làm cho chúng trở thành Phật pháp bằng cách tu tập kèm theo sự quy y. Nếu không có tịnh chỉ, thì ta sẽ không phát triển được bất cứ một gì thực chứng lớn lao từ các loại thiền quán về tánh không trong kinh điển hay những loại thực chứng trong mật tông về các giai đoạn phất sinh và thành tựu v.v… Nếu bạn không có tâm tịnh chỉ thì không thể nào có được một đức tính gì bạn có thể phát triển được qua các định nhứt tâm thuộc kinh điển hay mật điển. Tâm tịnh chỉ giống như một bình chứa để bạn rót nước vào. Bởi thế thực vô cùng quan trọng để phát triển sự tịnh chỉ vững chắc trong những giai đoạn đầu tiên. Bạn phải phát triển tuệ đi sâu vào tánh không để chặt đức gốc rễ sinh tử và đạt giải thoát; nhưng muốn làm điều này thì trước hết bạn phải đạt đến tịnh chỉ rất vững. Muốn thấy được vạn pháp như thực chất của chúng, thấy một cách rõ ràng, thì trước hết bạn phải có sự bền vững và kiên cố. Giả sử bạn dang nhìn một bức họa trên tường. Có hai điều kiện cần thiết để xua tan bóng tối che mờ các bức họa: một ngọn đèn sáng, và không có những luồng gió làm cho ngọn đèn (dầu) ấy lung lay.
Cũng thế nếu bạn đã đạt đến tâm tịnh chỉ thì thực dễ dàng hơn nhiều để phát triển thực chứng qua pháp thiền về thân người khó được hoặc thiền quán về vô thường. Tác phẩm Ngọn Đèn Soi Đường của Atìsha nói về sự phát triển tịnh chỉ để đạt được những thần thông về thiên nhãn. Tuy nhiên, điều căn bản để hiểu tất cả điều này đã được Shantideva nói như sau:
Hãy biết rằng nhờ tuệ quán đặc biệt
Sau khi đạt tịnh chỉ lớn,
Bạn sẽ phá hủy vọng tưởng
Bởi vậy ngay từ đầu
Hãy nỗ lực đạt tâm tịnh chỉ.
Như vậy bạn phải đật tâm tịnh chỉ ngay từ đầu trở đi. Bạn không nhất thiết phải phát triển nó sau khi hoàn tất tâm bồ đề, vì bạn có thể có được nó trước hoặc sau khi thành tựu tâm bồ đề. Nếu thành tựu được tâm tịnh chỉ, bạn sẽ tiến bộ nhiều trong các pháp quán về bất cứ đề mục nào thuộc cả ba thừa.
Trước hết bạn phải đào luyện những điều kiện tiên quyết cho tâm tịnh chỉ, nếu không bạn sẽ không đạt được. Ngọn Đèn Soi Đường nói:
“Khi chân tay của tịnh chỉ đã tàn tạ, bạn sẽ không thành tựu được định nhất tâm, dù có thiền quán hàng ngàn năm đi nữa.”
Điều này đưa đến:
hoangtri
08-09-2020, 09:39 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.1.1. Đào luyện những điều kiện tiên quyết để đạt tâm tịnh chỉ
Có 6 điều kiện: (1) Ở chỗ thích hợp, (2) ít muốn; (3) Biết đủ; (4) hoàn toàn từ bỏ những yêu cầu đủ thứ của xã hội; (5) có giới thanh tịnh; (6) hoàn toàn từ bỏ những tư tưởng thuộc về tham dục.
(i) Ở chỗ thích hợp
Nơi chốn mà bạn tu tập có 5 yếu tố. Tác phẩm Trang Nghiêm Kinh mô tả loại trú xứ cần thiết như sau:
Có hiền trí tu tập
Được lương thực thù thắng;
Một chỗ ở tốt lành;
Một chỗ không ô nhiễm;
Thiện trí thức gần kề;
Và có những điều kiện
Vừa ý một hành giả.
Nếu bạn thấy không dễ tự hài lòng với mình khi ở một nơi hợp pháp, thì bạn cứ mãi xuống phố. Nhưng bạn cần phải được cung cấp đầy đủ đúng pháp, nếu không, bạn có thể kiếm được những phẩm vật do tà mạng, hoặc những vật tội lỗi. Những vị thầy chúng ta nói rằng những loại lương thực ấy rất nguy hiểm. Bởi thế, bạn cần lương thực dễ kiếm, không bị ô nhiễm do tội lỗi, gọi là “lương thực thù thắng.”
Trú xứ mà bạn ở phải là một nơi thiêng liêng ở dấy những bậc thánh trong quá khứ đã cư trú. Khi những người sơ cơ cư trú một nơi như vậy, thì trú xứ tự nó đã là một ơn ích đối với họ. Nếu bạn không thể tìm một nơi như vậy, thì bất cứ chỗ nào bạn ở phải là một nơi không có người phạm giới hoặc người phá tăng đã cư trú.
Trú xứ còn phải là một nơi lành tốt, nghĩa là không có thú dữ, trộm cướp, hay những chúng sinh xấu ác. Nơi ấy phải có những người sẵn sàng làm thí chủ. Nếu không vậy, bạn có thể tưởng mình sẽ sống yên ổn, nhưng về sau bạn sẽ đi đến sầu muộn.
{Kyabje Pabongka Rinpoche chứng minh điều này bằng một mẫu chuyện về một tu sĩ trong quá khứ.}
Nơi mà bạn sắp ở có thể là nhà của những phi nhân, vậy điều cốt yếu là phải dùng vài biện pháp ôn hòa để hàng phục chứ không phải để xua đuôi chúng.
“Một nơi không ô nhiễm” nghĩa là một trú xứ ở đấy bạn sẽ không bị những cơn nóng lạnh, có nước uống tốt lành.
Bằng hữu cũng thế, phải là những người bạn giúp cho ta về tri kiến và hành động. Hai hạng người này chỉ là một. Điều này dĩ nhiên không có nghĩa rằng chỉ nên có hai người bạn, hoặc phải sống một mình. Nó chỉ có nghĩa rằng những người ấy và mình phải giống nhau về tư tưởng. Những người sơ cơ sống một mình không bầu bạn rất nguy hiểm. Cần phải có ít nhất ba người bạn, và nếu đấy là bạn đạo, thì càng nên có nhiều hơn. Tuy nhiên, dù có bao nhiêu bạn đi nữa, họ phải là những người mà ta kính trọng, không xem ngang hàng, vì ta có thể đâm ra bất cẩn một cách tai hại.
Người ta cũng nói “Âm thanh quấy nhiễu định.” Nghĩa là trú xứ phải xa tiếng người ban ngày, hay tiếng cho sủa, nước chảy về đêm.
Bậc tôn sư tôi nói, bạn phải là người có thể tự lập: nhờ học hỏi, thiền định bản đã bỏ được những điều không chính xác trong ý nghĩa những gì bạn phải quán. Một người như vậy đã được trang bị để đạt được sự toại ý. Nhưng điều này cũng có nghĩa là bạn đã làm tất cả những chuẩn bị cần thiết - như đã có quán đảnh, giáo lý, kinh sách, v.v… Việc chính yếu bây giờ là phải thiện xảo trong sự tu tập. Ngày nay người ta dường như buộc lòng phải cần đến bói toán, vân vân., vì không biết phải làm gì để tự trang bị cho mình trong khi khởi tu thực sự. Không nên hành động kiểu ấy, mà phải làm những chuẩn bị chính đáng cho sự thực hành pháp.
hoangtri
08-10-2020, 05:19 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
(ii) Ít muốn
Ít muốn có nghĩa là không ham có nhiều y phục tốt, thực phẩm ngon, v.v…
(iii) Biết đủ
Là hài lòng với thực phẩm và y phục tồi tàn nhất. Bạn sẽ ham khoái lạc giác quan nếu không có thiểu dục tri túc. Bạn sẽ không triển khai được định nhất tâm vì bị chia trí bởi nhu cầu bảo vệ tài sản, v.v…
(iv) Giới thanh tịnh
Giới tướng là căn bản của tất cả thiện đức. Sự dẹp trừ những tán loạn nội tâm vi tế tùy thuộc vào sự từ bỏ nhưng tán loạn thô ở ngoài. Giới chế ngự và làm an tịnh những ác hành về thân và lời, nhờ nó bạn ra khỏi sự khỏi sự trói buộc của những thô chấp và danh tướng.
(v) Từ bỏ những yêu cầu của xã hội.
Có nghĩa là hạn chế thì giờ bạn dùng vào cũng hoạt động và chuyện văn vô ích. Bạn phải rất ít dính dấp đến những hoạt động vô nghĩa thì mới khỏi bị chia trí vì chúng. Sự tu tập định là điều quan trọng hơn nhiều, nên nếu ít muốn, biết đủ thì tự nhiên bạn sẽ ít liên hệ đến những chuyện ấy. Muốn được nhất tâm trong sự tu tập, bạn phải từ bỏ xem thiên văn, lý số, học y dược, và đi vào làng xóm để làm lễ cho gia chủ, vì đấy là những yêu cầu của xã hội.
Điều này không những áp dụng cho người sơ học như chúng ta mà thôi. Nó có thể tai hại ngay cả đối vói những người thánh thiện. Butoen Rinpoche và Lama Dampa được ân sủng của vua Pehar, vua thường tặng họ bút sắt để viết. Họ dùng hàng ngàn cây bút như thế, và tương truyền trong đời ấy họ đã không đắc quả thù thắng vì mãi mê xem thiên văn. Nhưng Togme Sangpo, một bậc Pháp vương tử chân chính, thì vẫn kiên cố thiền quán về tâm từ và tâm bi, nên mưu kế của Pehar không thành công đối với ngài.
Đức Tsongkapa viết 18 pho sách nhưng không pho nào nói về y dược; không phải vì ngài không biết, mà vì ngài thấy nó có thể phương hại đến việc tu hành. Trong một năm, ngài nghiên cứu cơ cấu của những huyệt đạo trong cơ thể, làm mòn những ngón tay ngài và hai ba tấm đá bảng. Nhưng ngay cả việc này cũng là nhượng bộ những yêu cầu của xã hội; nó không giúp gì cho sự tu hành của ngài.
Nếu bạn nỗ lực vào những việc như thế, thì chẳng những bạn thêm một bản năng vô ích, mà còn không thể tập luyện những bản năng đưa đến hậu quả tái sinh lên thượng giới hay đạt được sự thù thắng quyết định. Bạn sẽ không thành tựu được điều gì có ý nghĩa sâu xa, và giống như người tham luyến cây mía mà không rút tỉa được chất ngọt nào. những học thuật thấp kém ấy không lợi ích, thì bản tâm điêu luyện nó làm gì?
Có người nói: Bây giờ tuổi già của bạn chưa rõ rệt lắm, nhưng tình trạng của bạn thật đáng thương khi bạn chạy theo dục lạc giác quan. Đấy cũng là lý do kẻ ăn xin Sùrata khi tìm được viên ngọc ước đã đem cho vua Ba tư nặc mà nói: “Này đại vương, trong toàn quốc này, vua là người ít hỉ túc nhất. Vậy tốt nhất là tôi nên cho ngài viên ngọc này.”
Pabongka Rinpoche còn kể chuyện về Geshe Baen Gung- gyal sửa lại tấm thảm.
(vi) Hoàn toàn từ bỏ những tư tưởng tham dục
Chuyển những tư tưởng này thành ra nghĩ về những lỗi lầm của tham dục và tưởng vô thường.
Khi bạn đã hoàn thành tất cả những điều kiện trên, bạn chỉ cần sáu tháng để đạt tịnh chỉ.
hoangtri
08-12-2020, 03:49 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.1.2. Cách thực thụ để đạt tâm tịnh chỉ
Phân biệt giữa cực đoan và Trung đạo của Di Lặc nói :
Từ bỏ năm hố sâu
Đào luyện tám điều chỉnh
Sẽ làm bạn đạt được.
Năm hố là: lười biếng,
Quên lời chỉ giáo;
Trạo cử và bôn trầm;
Không sửa đổi, và chỉnh lại.
Nói cách khác, bạn phải đạo luyện tám điều đối lại năm hố sâu. Không lời chỉ giáo nào về cách đạt đến tịnh chỉ tốt hơn là chỉ giáo tìm thấy trong cổ thư - những tác phẩm của Di Lặc, những khảo cứu của Vô Trước về những địa vị khác nhau, những bản văn về trung đạo và những tầng thiền định v.v… Ta phải tìm những chỉ giáo như vậy để quán niệm. Thay vì làm thế ta có thể xem trong một chỉ giáo khẩu truyền của một vị thầy không phù hợp với Pháp trình bày trong cổ thư, hoặc ta có thể xem trọng vài bùa chú linh tinh, v.v… Đấy là tìm một cái gì tại một nơi ta không thể gặp nó. Nhưng nếu ta theo dõi chương nói về tịnh chỉ của Tsongkapa trong quyển Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ thì sẽ không bị nguy cơ này.
Vậy nếu không tham chiếu luận thư cổ, bạn có thể tin tưởng lời nói của một thầy nào đó, xem nó là “chỉ giáo.” Nếu thế thì dù có bỏ cả đời còn lại để tu trong hang núi, việc thiền định của bạn cũng hỏng vì sự hôn trầm vi tế. Quá nhiều người đã sai về bí quyết đại đến tâm tịnh chỉ bằng cách chỉ hướng chú ý vào tâm mà thôi. Họ đã hụt mất cơ hội lớn. Đặt nỗ lực vào chỉ giáo sai thì chỉ làm cho đời người của mình trống rỗng. Nhiều học giả nổi tiếng của Tây Tạng đã lầm về tri kiến, làm sao để thiền quán về nó, vân vân. Những người biết phân biệt nên nhìn kỹ những truyền thống của những học giả ấy rồi sẽ hiểu được sự thật là thế. Hãy chứng kiến sự kiện rằng, cách Tsongkapa đề cập tri kiến, thiền quán, và những phận sự bao hàm trong đó, đều phù hợp với những tác phẩm của những hiền trí và học giả Ấn Độ. Hơn nữa, chính Đức Văn Thù đã giải tỏa những hoài nghi của Tsongkapa. Bởi thế chúng ta nên y cứ vào những chỉ giáo của ngài vì những chỉ giáo ấy được thiết lập có thẩm quyền của kinh điển hoàn toàn vô cấu. Nhưng nếu bạn dán hy vọng vào một chỉ giáo không phù hợp với kinh điển, một chỉ giáo đề cập những điều không có trong kinh, thì bạn có nguy cơ chứng được những điều chưa ai nghe tới. Điều này cũng áp dụng cho những giai đoạn phát sinh và thành tựu định chứng tầm thường nhất nếu không có chỉ giáo này, đề cập cách đạt đến tâm tịnh chỉ. Nguồn gốc chỉ giáo này là những luận giải bàn về những phương pháp ra khỏi năm hố sâu bằng cách đào luyện tám sự điều chỉnh.
(i) Cạm bẫy thứ nhắt: Lười biếng
Có bốn cách chữa trị: (1) lòng tin do thấy những đức của tịnh chỉ; (2) sự khát khao có được tịnh chỉ; (3) kiên trì tinh tấn trong việc tầm cầu tịnh chỉ; (4) tìm quả báo của tịnh chỉ - tâm nhu nhuyến.
Lại phải để ý: tinh chỉ có thể áp dụng cho bất cứ đối tượng thiền định nào.
Đức tin do thấy những đức tính của tịnh chỉ là như sau. Hố sâu lười biếng là không có một ước muốn sâu xa nào đối với sự nhất tâm, không mong muốn có khả năng đi vào những thiền định ấy. Cứu cánh chân thực của sự tập luyện này là tâm nhu nhuyến (mềm mại) trong thiền định. Mặc dù hiện tại bạn chưa có được, song bạn phải nghĩ đến những đức của tịnh chỉ, rồi bạn sẽ có niềm tin vào đấy Hành Bồ Tát Hạnh nói:
Bạn có thể nỗ lực lâu dài
Tụng đọc và đủ thứ khổ hạnh,
Với một tâm bị chia trí vào những việc khác,
Những điều ấy thực hoàn toàn vô nghĩa.
Nói cách khác, hãy nghĩ về tai nạn mà một tâm tán loạn có thể gây ra. Nếu bạn phát triển được tịnh chỉ, bạn có thể tập trung ý vào một đối tượng một cách kiên cố mỗi khi bạn làm một việc có công đức. Nhờ sự kiên cố ấy mà bạn sẽ đạt được những thần thông thuộc thế gian vân vân. Giấc ngủ của bạn sẽ thành một sự nhập định, vọng tưởng nơi bạn sẽ rất ít. Quan trọng hơn, bạn sẽ dễ dàng triển khai thực chứng vào đạo lộ, từ sự nhờ thầy cho đến cuối cùng là các giai đoạn phát sinh và thành tựu, v.v…
Hãy nghĩ về những điều tốt lành ấy. Tất cả đều là hậu quả của sự có niềm tin do thấy công đức của tịnh chỉ. Vơi niềm tin ấy bạn có thể thành tựu ước muốn và kiên trì để tầm cầu tịnh chỉ, bạn sẽ mong có được sự nhu nhuyến trong thiền định. Đây là cách bốn phương thuốc này là nhân quả lẫn nhau - những cái sau phát sinh từ cái trước theo một trật tự.
hoangtri
08-13-2020, 09:29 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
(ii) Cạm bẫy thứ hai: Quên chỉ giáo
Đây là điều chúng ta gọi là không nhớ đề mục thiền; nó rất tai hại cho sự thực hành tâm tịnh chỉ. Trái tim của Trung Đạo nói:
Hãy buộc chặt con voi hoang là tâm ý
Vào cái cọc chắc chắn của sự quán tưởng
Dùng sợi dây “niệm”;
Làm thuần nó bằng móc câu trí tuệ.
Bạn phải cột con voi tâm vào cái cột quán tưởng, phép quán mà bạn sử dụng. Bạn cần một cái gì để buộc tâm vào - nghĩa là, pháp quán được dùng để phát sinh tâm tịnh chỉ. Đề mục thiền có thể là bất cứ hiện tượng nào được quán, hay một pháp đặc biệt nào. Ngoại đạo dùng đá và những mảnh gỗ để quán. Những người theo đạo Bon quán mẫu tự A. Như vậy những người khởi sự đạt tâm tịnh chỉ sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, nhưng đây chỉ là những đối tượng quán. Có những người có nhìn bằng mắt những đối tượng quán, nhưng pháp thiền này không bằng hai pháp đã đề cập, vì tâm tịnh chỉ cần phải đạt bằng tâm chứ không phải bằng con mắt. Dù sao, những phương tiện này cũng ngăn chận được một số vấn đề, như năm hố sâu nói trên. có lần một người từ Ấn sang đây (Tây Tạng) dùng một cái sừng bò làm đối tượng quán. Ông ta không sử dụng các loại đối tượng thuần tâm linh khác để đạt chín tầng thiền chứng, nhưng vẫn đạt tâm tịnh chỉ. Điều này chứng tỏ bạn có thể đạt tâm tịnh chỉ với bất cứ đối tượng quán nào mà bạn dùng.
Tuy nhiên, khi chúng ta tu tập để đạt tịnh chỉ, ta thường quán tưởng hình tượng Phật phù hợp với truyền thống khẩu quyết bắt nguồn từ Tsongkapa. Một mặt, pháp quán tưởng này giúp bạn tích lũy công đức và thanh lọc chướng ngại. Mặt khác, nó làm cho bạn quen với pháp thiền quán về thiền thiên trong các mật điển. Thật lợi lạc vô cùng nếu ta luôn luôn nhớ Phật. Vân vân.
Từ bậc thầy của bạn được quán ở trên đỉnh đầu, nói lên đức Đạo sư Thích Ca Mâu Ni. Ngài đến an vị trước mặt bạn, ngang chỗ trống giữa đôi chân mày. Ngài cao chừng một gang tay. Bạn cũng có thể quán tưởng Ngài an vị ngang với tấm rốn của bạn. Hoặc, hãy quán tưởng bạn biến thành Thích Ca Mâu Ni.
Có người thích tưởng tượng những vô sắc làm đối tượng quán, hơn là quán một cái gì thuộc vật lý. Bởi thế Panchen Lama Lozang Choekyi Gyaeltaen khởi đầu một truyền thống trong giáo lý ngài về Đại Thủ Ấn của Hoàng Mạo phái phù hợp với tư tưởng của Rinpoche trong Những Giai Đoạn Giữa Của Đạo Lộ. Trong truyền thống này, bạn đạt tịnh chỉ nhờ tập trung vào chính cái tâm của mình; và những người nói trên có thể thích sử dụng pháp này. Nó còn có tương đương của nó trong các tông phái khác, nhưng phải chủ trương theo dõi sự vận hành có ý thức của tâm. Cũng có thể đạt tịnh chỉ bằng cách quán hình ảnh một vị thiên, như trong giai đoạn phát sinh, hoặc quán mẫu tự A hay một lằn thẳng đứng, như trong giai đoạn thành tựu. Còn có nhiều pháp quán để đạt tịnh chỉ khác, bằng cách biến mãn đối tượng ra cùng khắp, sử dụng một cái “mánh” nào đó, một hoạt động nào đó, hoặc quán một vọng tưởng đã được tịnh hóa. Trong thực hành, hãy sử dụng bất cứ phương pháp nào bạn thấy dễ nhất cho mình để quán tưởng cho đến khi đạt tâm tịnh chỉ. Đừng thay bằng một pháp quán nào khác. Bạn không được quán cả bốn đối tượng tả trong kinh (thân, cảm thọ, tâm và các pháp). Bạn phải dẫn tâm vào một đối tượng duy nhất. Và đối tượng ấy phải làm bạn cảm thấy thoải mái dễ chịu. Bồ tát Mã Minh nói:
Hãy kiên cố trong sự quán tưởng:
Luôn luôn dùng một đối tượng quán ấy.
Nếu quán nhiều đối tượng liên tiếp,
Thì tâm bạn sẽ bị kích động bởi vọng tưởng.
Nói cách khác, hãy dán tâm vào một pháp quán duy nhất khi bạn thiền. Bạn sẽ không đạt tịnh chỉ nếu cứ đổi đối tượng quán. Giả sử bạn cọ hai thanh gỗ vào nhau để lấy lửa, mà cứ đổi thanh khác thì không bao giờ có lữa. Hơn nữa, bạn phải thiền liên tục để đạt tâm tịnh chỉ, trừ khi bạn ăn, ngủ, bài tiết, cũng như bạn phải luôn cọ hai thanh gỗ cho đến khi có lửa. Hãy làm việc ấy cho đến khi hoàn tất tâm tịnh chỉ - trong sáu tháng, một năm hay hơn nữa. Bạn sẽ không đạt tâm tịnh chỉ nếu bạn đâm chán và khởi sự tu kiểu gì khác, hoặc nếu bạn nghỉ xả vài ngày, vân vân.
Bạn được chỉ giáo phải thuộc lòng những đường nét của một bức tranh hay tượng Phật dùng làm đề tài quán, để bạn có thể dễ dàng tưởng tượng phần nào đề mục quán của bạn với hình ảnh thô (thô tướng) mà bạn có được do thấy bằng mắt thịt. Chúng ta nói bạn đã “quen lời chỉ giáo” khi bạn không còn nhớ được hình ảnh này. Đây là hố thứ hai.
Cách chữa trị là sự điều chỉnh thứ năm trong tám pháp - đó là niệm. Niệm cường liệt là cần thiết để duy trì sự tương tục của đề mục thiền quán, hơi giống một chuỗi tràng. Niệm của một người có thể mạnh hay yếu, làm cho người ấy dễ dàng hay khó khăn đạt đến tâm tịnh chỉ Vô Trước nói như sau về niệm:
“Niệm là gì? Đó là một pháp có nhiệm vụ làm cho tâm không quên một vật mà nó đã quen thuộc.”
Nói cách khác, niệm cần thiết phải có ba đức tính. Nó phải phân biệt được đối tượng - nghĩa là trước đấy bạn đã nhìn đối tượng dùng để thiền quán, và làm cho mắt bạn quen thuộc với những đặc điểm của nó. Sau đó khi bạn hướng tâm về những đặc điểm ấy, thì niệm phải có cái đức tính duy trì - nghĩa là bạn không quên những đặc điểm ấy, và nó hiện lại một cách sống động. Cũng như bạn nhớ đồ ăn một cách sống động khi bạn đói. Cuối cùng, niệm có một đức nữa là cái nhiệm vụ nó thực hiện - tâm được làm cho không đi lạc, không phân tán khỏi đối tượng nó hướng đến.
Nếu ba pháp này có mặt, thì bạn sẽ có thể quán tưởng hình dạng của Phật trước khi bạn trong tâm nhãn. Đừng chia trí - hãy duy trì sự dán chặt vào đối tượng quán. Bạn phải tưởng tượng, không làm gì khác.
hoangtri
08-14-2020, 08:29 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
(iii) Cạm bẫy thứ ba: Trạo cử và hôn trầm
Bạn sẽ rơi vào cái cạm bẫy thứ ba - trạo cử và hôn trầm trong giai đoạn thực sự thiền quán, khi nhớ lại đối tượng quán của mình. Nếu bạn không phân biệt được giữa hôn trầm như đám mù trong tâm, với trạo cử, thì điều ấy cũng giống như không nhận ra kẻ thù sắp giết mình.
Đám mù trong tâm có thể là bất thiện hay trung tính. Nó che mờ ý thức, làm cho thân tâm nặng nề như khi bạn muốn ngủ. Nó là một cái nhân cho sự hôn trầm và không bao giờ là thiện.
Có hai loại hôn trầm: Tế và thô. Khi bạn nhớ lại đề mục quán, hình ảnh có thể vững vàng nhưng không rõ. Đây là hôn trầm thô. Hôn trầm tế là như sau: bạn chưa bị mất những đường nét đã nhớ được về đối tượng quán, bạn còn có sự vững vàng và rõ ràng của hình ảnh, những năng lực của sự duy trì nơi bạn đã yếu, và vẻ rõ nét của hình ảnh không mãnh liệt. Sự hôn trầm tế nhị là chướng ngại chính cho thiền định. “Không mãnh liệt” nghĩa là gì? Nghĩa là hình ảnh có rõ rệt, nhưng tâm đã trở nên hơi lỏng lẻo. Và lúc ấy mặc dù hình ảnh quán là hoàn toàn vững chắc, sự lỏng lẻo này đã làm nhân cho hôn trầm vi tế. Nếu hình ảnh có sự rõ ràng, thì tâm bén nhạy, tươi mát, sinh động, và vấn đề trên đối tượng quán.
Sự kiện đối tượng quán vừa rõ ràng vừa vững chắc nhưng sự rõ ràng ấy có thể mãnh liệt là như sau. Giả sử bạn đang cầm trong hai tay chuỗi tràng và bình bát. Bạn có thể cầm tay này chặt tay kia lỏng. Hoặc thông thường, chúng ta có thể luôn luôn tin tưởng vào một bậc thầy; cái cách chúng ta duy trì niềm tin khi ấy sẽ mạnh hơn trước. Đấy là sự khác nhau giữa hai tình trạng. Người ta bảo rằng điều này sẽ trở nên rất sáng sủa dưới ánh sáng của kinh nghiệm thiền quán - không thể nào nói được nên lời.
Để ý: sự sáng sủa rõ ràng không do nơi đối tượng. Có sự rõ ràng hay không cốt yếu là nhiệm vụ của ý thức chủ quan. Khi không có sự rõ rệt, thì nó như một tấm màn đã bị kéo lên che khuất hình ảnh.
Sự hôn trầm vi tế là định nhất cả hai đều có thể vừa có sự sáng sủa và vững chãi; nhưng thật khó mà phân biệt giữa định nhất tâm và hôn trầm vi tế. Ngay cả gió có thể đã ngưng vào ra lỗ mũi của bạn, và tâm bạn có thể an trú suốt ngày, nhưng kỳ thực bạn chỉ xây dựng sự hôn trầm vi tế. Nhiều học giả Tây Tạng ngày trước đã hiểu lầm trạng thái này và ca tụng nó là “sự nghỉ ngợi sâu xa nhất trong thiền định thâm sâu.” Họ đã không hiểu được điểm then chốt này trong thiền quán. Nếu bạn lầm hôn trầm vi tế là thiền định, thì thiền định của bạn còn không làm nhân đưa đến tái sinh vào các cõi sắc và vô sắc, và ngay trong đời này bạn cũng sẽ tăng sự đãng trí. Vì tuệ của bạn trở nên không rõ ràng, sự thực hành này không khá gì hơn việc thiền quán thật nhiều về một phép quán trong đó bạn quán tưởng mình là một súc sinh!
Tác phẩm Toát yếu về thắng pháp nói như sau về trạo cử:
“Trạo cử là gì? Là một khía cạnh tâm bị kích động, một hình thức bám víu bị lạc hướng vì những dấu hiệu đẹp đẽ. Nó có nhiệm vụ làm gián đoạn tâm tịnh chỉ.”
Những đối tượng đẹp - những đối tượng mà bạn tham ái - làm cho tâm hết tập trung. Đây là “những dấu hiệu đẹp đẽ” (tịnh tướng - DG) được nói đến. Giả sử ban ngày bạn xem một buổi ca vũ nhạc và ban đêm bạn nhớ lại quang cảnh ấy một cách sống động: đây là một điển hình về việc nhớ lại một đối tượng lôi cuốn tham ái của bạn.
Có sự khác nhau lớn lao giữa thiếu tập trung và trạo cử. Bạn có thể trở nên thiếu tập trung vì một đối tượng khó chịu, ví dụ kẻ thù của bạn. Vào một lúc như vậy, bạn trải qua sự buồn bực nội tâm. Hoặc trong khi thiền định về tâm tịnh chỉ bạn có thể trở nên thiếu tập trung vì một thiện pháp như bố thí, giới, v.v… Đây có thể là những hình thức thiếu tập trung vì một thiện pháp như bố thí, giới, v.v… Đây có thể là những hình thức thiếu tập trung, nhưng không phải là trạo cử. Tuy nhiên cả hai việc, thiếu tập trung và trạo cử, đều có thể gián đoạn tâm tịnh chỉ của bạn. Vậy thì tại sao chỉ có trạo cử được xem là pháp gián đoạn tâm tịnh chỉ? Vì sự thiếu tập trung thì nhẹ hơn và không kéo dài khi đối tượng của nó là thù nghịch, hoặc khi sự chú ý của bạn hướng về một thiện pháp. Và theo hệ phái của sự trình bày này thì sự thiếu tập trung càng lớn thì đối tượng là một cái gì mà bạn ham thích. Bởi vậy sự thiếu tập trung thông thường thuộc về loại sau, nghĩa là trạo cử, vì nó dễ dàng phát triển hơn những hình thức trạo cử khác. Chúng ta sẽ bàn về trạo cử mà thôi vì nó đã được cho một địa vị ở đây. Nhưng hãy để ý: khi bạn thiền quán về tâm tịnh chỉ, tâm bạn sẽ bị gián đoạn bởi hai loại thiếu tập trung kia: thiếu tập trung do những đối tượng lạc hoặc khổ; và thiếu tập trung chẳng hạn do vì nhớ lại một hành vi bố thí hay sự lễ bái bạn đã làm, v.v… Khi bạn thiền quán để đạt tâm tịnh chỉ, bạn phải chấm dứt những hình thức tán loạn này bất cứ lúc nào nó xảy đến.
Chúng ta có thể mất dấu đề mục quán đến nổi nó không còn là đối tượng trong tâm. Chẳng hạn khi thiền quán về hình dạng của một vị thần, ta có thể quên quán trong một lúc. Sự trạo cử thô chỉ là sự mất dấu đối tượng quán như thế.
Trạo cử vi tế là như sau. Tâm không mất dấu đối tượng quán, nhưng có một cái gì trong tiềm thức có vẻ dễ chịu khởi lên trong một phần của tâm thức ở dưới lằn mức của ý thức nhận biết. Hình thái trạo cử này khác với trạo cử thô, nó được ví như nước chảy dưới một làn băng.
Mặc dầu phương thức đối trị cả hai trạng thái này không phải là tinh tấn, song tinh tấn vẫn là một thành phần của phương thuốc, giống như quân đội có những lính trinh sát. Bạn phải đào luyện tinh tấn - thứ sáu trong tám cách điều chỉnh - để xem bạn có sự trạo cử hay hôn trầm nào không.
Nếu bạn áp dụng tinh tấn một cách liên tục, nó sẽ trở thành một chướng ngại cho trạng thái thiền định, nhưng nếu không áp dụng tinh tấn thì bạn có thể phát triển vài lỗi lầm nghiêm trọng mà bạn không biết đến. Khi ấy cũng như thể là trộm đã mang đi hết tài sản của bạn. Tác phẩm Đại Thủ Ấn của phái Hoàng mạo nói: “Hãy tắt sự tinh tấn đúng lúc”. Nói cách khác hãy kiểm soát sự tinh tấn của bạn. Bạn chỉ áp dụng tinh tấn thỉnh thoảng, để xem tâm mình có trạo cử hay hôn trầm nào không. trong quyển Hành Bồ Tát Hạnh có nói:
Thỉnh thoảng hãy quán sát
Trạng thái của thân tâm
Bản chất của tinh tấn
Là tên lính đi tuần.
Điều này cũng giống như cầm một chén trà trong tay: bạn vừa cầm nó một cách vững chắc lại vừa xem nó có nghiêng đổ không. Cũng tương tự, bạn dùng niệm để duy trì thiền quán, giữ vững hình ảnh quán, và duy trì sự quán tưởng ấy bằng cách sử dụng tinh tấn để kiểm soát xem bạn có trạo cử hay hôn trầm. Nhân tiện cũng cần nói thêm rằng tinh tấn là một đồng minh của trí tuệ.
hoangtri
08-15-2020, 04:16 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
(iv) Cạm bẫy thứ tư: Không điều chỉnh (xả)
Khi tâm bạn trạo cử hoặc hôn trầm, thì sự “không điều chỉnh” một trong những phương thuốc chữa trở thành một cạm bẫy, và cạm bẫy này cũng có cách đối trị riêng. Khi sự tinh tấn đã khám phá ra trạo cử hoặc hôn trầm nào xảy đến, thô hoặc tế, thì bạn phải áp dụng thuốc chữa ngay không ngần ngại. Cách thứ bảy trong tám điều chính - sự điều chỉnh lại - chính thức là phương pháp đối trị sự điều chỉnh thứ tám - xả (còn gọi là không điều chỉnh hay phó mặc). Sự điều chỉnh cần phải được áp dụng trong tâm để đối trị lại sự phó mặc hay xả. Hai pháp này cũng như hai trinh sát thù nghịch: vừa khi trông thấy tên kia, tên này liền tốp y lại.
Vậy thì làm sao để áp dụng pháp đối trị này? Hôn trầm vi tế là một trạng thái hoạt động tâm ý lụn bại. Cả hai, sự lụn bại và hồn trầm đều có hậu quả giống nhau. Khi có hôn trầm vi tế bạn thấy rõ nét và vững chải hình ảnh quán, nhưng tính chất sự duy trì hình ảnh đã rớt mất, và bởi thế sự rõ ràng không còn mãnh liệt như trước. Khi có sự hôn trầm này thì không cần gián đoạn pháp quán vì chỉ cần bám riết lấy hình ảnh là đủ. Nhưng khi bám riết quá nhiều, bạn lại đâm ra trạo cử, và thế là lại phải buông ra. Đức Thế Tôn dạy:
“Nếu dây đàn quá căng, hãy nới dây; hãy siết hay nới dây đàn theo nhu cầu nhưng phải bồ đề nó đừng quá chùng, thì cuối cùng âm thanh tiếng đàn sẽ thanh thoát.”
Bạn nên làm như vậy: nới lỏng một chút khi bạn cảm thấy mình sắp trạo cử và siết lại một chút khi bạn cảm thấy sẽ hôn trầm nếu bạn nới thêm nữa. Chỉ có kinh nghiệm với vạch được lằn ranh giữa hai điều này. Nếu bạn không dùng tinh tấn để phân tách một cách thông minh, thì thật vô cùng khó khăn để thọc ngón tay vào. Bậc thậy Chandragomin nói:
Nỗ lực thì rơi vào trạo cử;
Bỏ nỗ lực thì sinh hôn trầm.
“Nếu tịnh chỉ khó đạt đến thế,
Thì tôi bận tâm làm gì:
Nó chỉ quấy rầy tâm tôi.”
Làm việc ấy có thể là chuyện nhọc tâm, nhưng trong tất cả kẻ thù, kẻ ở ngay trong nhà khó nhận ra nhất, và bởi thế cũng là kẻ nguy hiểm nhất. Cũng vậy, loại hôn trầm này dễ làm hại tâm tịnh chỉ của bạn nhất: do vậy cần phải có sự lên dây đàn vừa phải.
Vậy, mặc dù tâm bạn đã lên dây vừa phải, đôi lúc đối tượng quán của bạn lại mất tính rõ rệt mãnh liệt. Khi điều ấy xảy ra, thì sự nắm giữ đã tuột mất và hình ảnh không còn rõ như trước. Nếu tình trạng ấy tiếp tục thì hôn trầm thô đã trở về. Trái Tim của Trung Đạo nói:
Khi thiền quán về những đối tượng cao cả
Làm bạn buồn sầu, thì hãy thư dãn…
Lỗi là tâm bạn đang ở trong một gút mắc lớn; bởi thế bạn nên trầm tư một lát, không nghĩ tới pháp quán. Nếu vấn đề khi ấy vẫn không biến mất và khi trở lại với sự quán tưởng, tâm bạn vẫn buồn nản, thì có cách nào làm nó phấn chấn lên chăng? Có thể làm bạn tươi tỉnh lên bằng cách quán thật khó có được tái sinh thân người thuận lợi, hoặc quán những thiện đức của Ba ngôi báu, hoặc những ích lợi của sự thờ kính một bậc thầy, những lợi lạc của bồ đề tâm, v.v… Những điều này sẽ làm tâm bạn phấn chấn. Bạn cũng có thể tưởng tượng những tia sáng chiếu lên mình bạn, hoặc thiền quán về những chuyện như quán tưởng bố thí. Những thiền quán này sẽ nâng tâm bạn đến một cảnh giới cao, và khi ấy nó có thể duy trì sự quán tưởng.
Có thể tâm ta chưa từng quen thuộc với điều này trong quá khứ, nên khó mà có được lợi lạc tức khắc từ những kỹ thuật này. Nhưng khi ta đã quen thuộc, thì những phép quán như thân người khó được sẽ giống như tia nước lạnh rưới lên mặt, vấn đề sẽ tiêu tan.
Nếu sự hôn trầm vẫn không tan biến thì hãy sử dụng một biện pháp mạnh hơn, hãy quán tưởng tâm bạn như một ánh sáng trắng ở tim. Khi bạn đọc âm phat, tâm bạn thoát ra từ ở phía đỉnh đầu và đi sâu vào không gian. Hãy tưởng tâm bạn và không gian hòa lẫn. Làm vậy nhiều lần.
Nếu hôn trầm vẫn không tan, thì hãy chấm dứt thời thiền. Đám mù trong tâm đã khiến bạn phát sinh hôn trầm. Hãy dùng vài phương tiện để làm tiêu tan sự ảm đạm, hôn trầm, chếch choáng. Hãy ngồi ở chỗ mát mẻ, tản bộ trên một chỗ cao khoáng đạt, vảy nước lên mặt, v.v… Nếu tâm bạn trở nên sáng suốt trở lại, thì hãy tiếp tục thiền quán.
Sự trạo cử vi tế là khi bạn không mất dấu đề mục thiền. Như tâm lại phân tán. Điều này xảy ra là bởi tâm quá dán chặt. Hãy nới lỏng sự duy trì hình ảnh. Nếu làm vậy mà tâm vẫn phân tán, thì thế là bạn có một hình thức trạo cử thô. Nó phát sinh vì tâm trạng vui mừng, vậy không nên tăng sự vui thêm nữa. Quá vui là tai hại, như câu chuyện vua Tịnh Phạn không thể đắc quả Dự lưu vì ông quá mừng khi thấy Phật trở về. Trong tình trạng ấy, thì đừng gián đoạn thời thiền. Trái Tim Trung Đạo nói:
Hãy làm tâm hết trạo cử
Bằng cách nghĩ đến các pháp như vô thường.
Nghĩa là hãy quán những điều làm cho tâm buồn khổ, mệt mỏi, từ bỏ: đó là quán về chết, vô thường, những khổ trong sinh tử và các đọa xứ.
Nếu tâm vẫn trạo cử, thì hãy dùng một phương pháp mạnh hơn để diệt trừ trạo cử. Vì vọng tưởng càng tăng, bạn nên quán hơi thở khi thở vào thở ra. Khi thở, hãy nghĩ, “tôi đang thở ra” hoặc “tôi đang thở vào.” Và lại nghĩ, “đây là lần thứ nhất,” và tiếp tục đếm trong tâm số lần thở ra và vào. Lúc đầu bạn chỉ có thể làm được đến ba hay bốn chu kỳ; nhưng hãy bắt đầu đếm từ “một trở lại. Khi bạn có thể đếm tới hai mươi mốt mà tâm không bị phân tán, thế là đã đạt tiêu chuẩn về trạng thái tâm đầu tiên.
Có câu chuyện về hành giả vĩ đại Puentsog Gyatso ở Yerpa. Ngài có một cháu trai làm người hầu cho vị nhiếp chính Sangyae Gyatso. Người hầu này đã chịu chung một số phận ghê gớm cùng với vị nhiếp chính bị Lhazang Khan hãm hại. Bởi thế ngài không có tâm hồn nào để thiền quán. Ngài đếm hơi thở, và nhờ thế ngài có thể trở lại với pháp quán.
Nếu đếm hơi thở cũng không hết trạo cử, thì hãy ngưng thời thiền định. Sau đó bạn hãy thiền từng thời ngắn, trước khi thiền hãy lập nguyện kiên quyết. Nếu bạn kéo dài những thời thiền, thì đôi khi chỉ cần trông thấy chiếc tọa cụ cũng đủ làm cho bạn chóng mặt nôn mửa. Điều quan trọng nhất là hãy gián đoạn thời thiền đúng lúc: hãy dừng lại khi bạn còn thấy thời thiền định là một lạc thú. Ví dụ, khi hai người chia tay đúng lúc, thì họ sẽ hoan hỉ gặp nhau lại về sau. Khi hình ảnh quán còn rõ, bạn nên ngưng; nhưng nếu hình ảnh không rõ, thì bạn cũng phải ngưng. Nếu bạn định một lằn mức trong đó bạn còn chưa cảm thấy muốn ngồi thiền thêm nữa, thì bạn sẽ muốn thiền trở lại với tất cả nhiệt tình. Đấy là cách tốt nhất để thiền. Hãy làm như vậy và bạn sẽ cảm thấy sung sướng. Nhưng nếu bạn dừng lại trong khi hình ảnh vẫn còn không rõ rệt, mà sự thiếu rõ rệt vẫn không tiếp tục khi bạn thiền quán trở lại, thì bạn chỉ có nước ngủ gục nếu bạn cố kéo dài thêm nữa; và về sau sự thiếu sáng sủa sẽ tăng trưởng còn tệ hơn. Có câu chuyện như sau. Có vị hành giả vĩ đại tên Lozang Namgyael đang cho một giáo chỉ truyền khẩu về các tác phẩm của phái Kadampas. Ngài đọc: “Vào thời suy đồi này, thì đúng là lúc để điều phục dòng tâm thức của chính mình, chứ không phải tâm thức của người khác.” Ngài bổng khóc lên, và phải chấm dứt buổi giảng. Trong hai ngày kế tiếp ngài không thể giảng dạy gì được mỗi khi ngài đọc tới câu ấy.
{CT. Trạng thái xuống tinh thần này là do thiền quán quá độ. Để tránh điều này xảy ra đừng bao giờ làm gì quá trớn.}
Mặc dù hy vọng của ta có một đối tượng quán lưu lại trong tâm ta lâu dài, song hiện tại ta chỉ có thể quán tưởng ra hình ảnh, nhưng hình ảnh ấy không ở lâu. Bởi thế ta nên làm thời thiền quán ngắn lại. Chúng ta được bảo phải làm mười tám thời thiền mỗi ngày. Nếu sau một thời gian bạn vẫn không mất sự hôn trầm hay trạo cử thì phải làm những thời thiền rất ngắn, và ngồi thiền nhiều lần hơn. Những thời thiền này phải có chất lượng hảo hạng. Hãy làm thế, và hình ảnh sẽ tự động khởi sự ở lại trong tâm bạn. Chỉ khi điều này xảy đến bạn mới nên kéo dài thời thiền.
hoangtri
08-18-2020, 08:28 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
(v) Cạm bẫy thứ năm: Sự tái điều chỉnh
Khi bạn đã chấm dứt hôn trầm trạo cử, thì sự tái điều chỉnh lại trở thành một cạm bẫy, mặc dù kỳ thực nó là một phương thuốc đối trị. Đối lại sự điều chỉnh là số tám trong các pháp điều chỉnh, nghĩa là xả hay không điều chỉnh. Bạn phải đào luyện xả ấy.
Bạn sẽ bị qua lại giữa trạo cử và hôn trầm khi bạn chưa đạt đến tâm trạng thứ tám. Ở giai đoạn này bạn có thể đã an tịnh cả trạo cử lẫn hôn trầm, tuy nhiên vẫn còn phải tra tầm xem chúng còn hiện diện hay không. Nhưng nếu vì quá hăng hái bạn áp dụng một phương chữa trị thì bạn sẽ làm gián đoạn một tâm trạng này - bởi thế sự tái điều chỉnh là một cạm bẫy. Đừng nỗ lực trong sự tinh tấn; tốt nhất là buông lỏng và đào luyện sự điều chỉnh bằng “xả.” Mọi người đều bảo ở điểm này bạn nên buông lỏng vì trước ấy đã quá căng. Cuối tâm trạng thứ tám bạn không còn bị rơi vào hôn trầm hay trạo cử gì nữa và người ta nói bạn chỉ cần tinh tấn vừa phải. Nhưng khi chưa đạt đến điểm này thì lại là vấn đề khác hẳn, và sự buông lỏng ở đây không phải là sự buông lỏng nói trong phần bàn về niệm và về nới lỏng cường độ mãnh liệt của sự duy trì hình ảnh quán. Những hành giả Tây Tạng trong thời quá khứ không nhận ra thời điểm đúng để nới lỏng, nên họ tự cho mình có “thiền định sâu xa trong sự thư giản sâu xa.” Lỗi của họ là nới lỏng niệm quá sớm. Vậy đừng rơi vào cái bẫy mà họ đã rơi vào ấy. Vì sao? Vì nó sẽ mang bạn đi xa khỏi thứ định nhất tâm, cái khiến bạn đạt đến sự ổn định hình ảnh quán một cách nhanh chóng và rũ bỏ sự hôn trầm vi tế.
Đấy cũng là cách theo đuổi các pháp quán khác, từ giai đoạn thành tựu trở xuống.
Bây giờ tôi sẽ bàn cách theo đuổi pháp tu này. Hãy hoàn tất những chuẩn bị sự tu tập tịnh chỉ, như ở chỗ thích hợp có năm đặc tính. Rồi ngồi trên một tọa cụ thoải mái theo thế ngồi của Phật Tỳ lô với bảy sắc thái. Quán trên đỉnh đầu bạn hình ảnh bậc thầy của bạn, và từ bậc thầy ấy tách ra một hình ảnh Đức Thích Ca Mâu Ni. Hình ảnh này ngồi giữa hư không, ngang tầm rốn bạn. Lúc đầu hình ảnh không rõ lắm, nhưng chưa cần làm cho rõ. Có thể bạn chỉ thấy xuất hiện một viên tròn lung linh vàng nhạt hay chỉ một phần ngài, như đầu hoặc tay chân, v.v… Đừng để hình ảnh ấy tuột khỏi tâm tư bạn; giữ chặt nó đừng để tâm phân tán. Chỉ một việc nuôi dưỡng niệm ấy cũng đủ để ngăn sự hôn trầm hay trạo cử. Đấy là lý do bạn cần giữ trong tim lời chỉ giáo tối thượng này của các bậc thánh giả vĩ đại. Hơn nữa hôn trầm được cắt đứt nhờ siết chặt sự nắm giữ hình ảnh. Trạo cử được cắt đứt nhờ không phân tán. Khi bạn thiền theo cách ấy và đã đạt được một mức độ an định, thì bạn lại rất dễ rơi vào hôn trầm, bởi thế hãy bám siết sự rõ rệt của hình ảnh. Khi bạn đạt đến một mức độ rõ rệt đáng kể, thì mối nguy lại là trạo cử. Hãy dùng những biện pháp cần thiết để đối trị trạo cử, và lại tìm sự rõ rệt của hình ảnh quán.
Mặc dù bạn có thể giả vờ đang tu tập, nhưng bạn không tu tập gì ráo nếu không biết cần phải làm gì để đạt tâm tịnh chỉ. Bạn nhất định phải đạt tịnh chỉ với hai sắc thái: sự rõ rệt và khá an trú của tâm ảnh, và một sự duy trì chặt chẽ hình ảnh ấy.
Như trong phần nói chi tiết về tịnh chỉ trên đây, đề mục thiền được duy trì nhờ “niệm” không thể mất hình ảnh. Ở giai đoạn ấy bạn rơi vào hôn trầm hay trạo cử. Vừa lúc khám phá ra chúng nhờ tinh tấn canh chừng, bạn hãy áp dụng ngay pháp đối trị thích hợp để chấm dứt chúng. Sau khi đã chấm dứt thì đừng áp dụng pháp đối trị nào nữa: cứ việc nhất tâm trên hình ảnh quán, đồng thời duy trì sự rõ ràng sáng suốt nhất.
Hãy để ý: Theo pháp Đại Thủ ấn (Mahàmudra) thì đối tượng tập trung vào cái tâm quán sát đối tượng ấy cần được xem như một. Một mục đồng cần phải coi chừng hai chuyện: con vật nào đã bị bỏ quên lại trên núi, con nào không quên. Khi bạn phát sinh vọng tưởng cũng thế, có hai cách để nó tự động chấm dứt, hoặc có thể áp dụng một cách trừ vọng để chấm dứt, hoặc có thể áp dụng một cách trừ vọng để chấm dứt nó, và hướng sự chú ý của bạn đến trí sáng suốt. Bạn sẽ đọc nhiều chi tiết hơn về điều này trong tác phẩm Đại Thủ Ấn của phái Hoàng Mạo. Những người mong muốn đạt thành tâm tịnh chỉ bằng cách sử dụng tâm để làm đối tượng tập trung (thay vì dùng một sắc pháp như quán kasina - DG) cần phải biết những điều này.
hoangtri
08-21-2020, 07:12 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI MỐT
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.1.3. Từ căn bản này, làm thế nào để đạt chín trạng thái tâm.
Nếu bạn muốn thiền, bạn phải tự mình kinh nghiệm chín trạng thái tâm. Trước hết phải biết chín trạng thái ấy là gì. Đấy là: (1) Dán chặt vào tâm; (2) Sự dán chặt có phần nào liên tục; (3) sự dán chặt một cách sơ hở; (4) sự dán chặt hoàn toàn; (5) có kỷ luật; (6) trở nên an tịnh; (7) trở nên rất an tịnh; (8) trở nên nhất tâm; (9) tịnh chỉ hoàn toàn.
(i) Dán chặt tâm
Điều này thành tựu được nhờ năng lực học với một bậc thầy sự chỉ giáo về quán tưởng. Tuy nhiên ở giai đoạn này bạn chỉ có gợi lên hình ảnh quán. Nó không an trụ, và bạn cũng không thể làm cho nó an trụ. Ở điểm này, nhờ năng lực của tâm phân biệt, bạn có thể biết mình đang rơi vào tình trạng thiếu tập trung hay trạo cử. Bạn có cảm giác tâm phân biệt (vọng tưởng) của bạn gia tăng, song kỳ thực không tăng, mà chỉ vì bạn đã đạt đến tuệ thấy được những vọng tưởng ấy, làm quen với nó.
(ii) Sự dán chặt có phần liên tục
Sau khi thiền định theo cách ấy, bạn có thể gợi lên hìnhảnh và còn làm cho nó kéo dài một lúc chẳng hạn thời gian cần thiết để niệm một chuỗi om mani padme hum mà không bnị phân tán. Ở điểm này vọng tưởng có khi an tịnh, có khi phát triển. Đây là một tuệ quán thấy được thế nào là khỏi vọng tưởng. Trạng thái này có được nhờ năng lực quán.
Cả hai trạng thái tâm đầu tiên này có rất nhiều hôn trầm và trạo cử, và hình ảnh không ở lại lâu. Vào lúc này bạn đang sử dụng cái đầu tiên của bốn tiến trình tâm là “sự dán chặt gượng ép,” như sự phân tán của bạn kéo dài lâu hơn thời gian hình ảnh kéo dài.
(iii) Sự dán chặt có cách hở
Trạng thái này như mặt áo vá. Mặc dù hình ảnh vẫn kéo dài, tâm trở nên phân tán khỏi sự quán tưởng. Nhưng bạn liền ý thức điều này và “vá lại sự tập trung” trên đề mục. Thời gian tán tâm ở giai đoạn này ngắn hơn ở giai đoạn trước. Bạn bắt đầu phát triển niệm lực mạnh hơn.
(iv) Dán chặt hoàn toàn
Bạn đã phát triển niệm cường liệt và có thể dán chặt tâm trên đối tượng quán. Từ đây trở đi, bạn không thể nào mất dấu đề mục, bởi thế trạng thái này mãnh liệt hơn ba trạng thái trước rất nhiều. Nhưng đồng thời bạn lại rơi vào những hình thái mạnh nhất của hôn trầm và trạo cử, và phải áp dụng cách đối trị.
Cả hai trạng thái ba và bốn đều được đạt đến nhờ niệm lực. Nhưng từ đây trở đi, niệm như một đời người đã đạt đến tột đỉnh uy quyền, vì năng lực của niệm đã toàn vẹn.
(v) Trở nên có kỷ luật
Ở trạng thái thứ tư, tâm bị thắt gút quá nhiều ở bên trong. Bây giờ ở trạng thái thứ năm, mối nguy lớn nhất là hôn trầm vi tế. Ở đây bạn phát sinh tỉnh giác mãnh liệt. Tỉnh giác đứng canh chừng, bạn nghĩ đây là một đức của định nhất tâm, và nó làm cho tâm bạn phấn chấn.
Sự khác nhau giữa trạng thái bốn và năm là chỉ trạng thái trên mới có hôn trầm và trạo cử thô.
(vi) Trở nên an tịnh
Ở trạng thái thứ năm, tâm được nâng lên hơi quá mức, và như vậy mối nguy bây giờ chính là trạo cử vi tế. Khi nó xảy đến, bạn phát sinh một hình thức tỉnh giác mạnh hơn để khám phá ra nó. Bạn phân tích mối hại của trạo cử vi tế và muốn ngăn ngừa nó xảy ra thêm.
Khác nhau giữa trạng thái này và trạng thái thứ năm là, ở đây hôn trầm vi tế không phải là mối nguy chính yếu. Cả trạng thái thứ năm và thứ sáu đều nhờ năng lực tỉnh giác và đạt được. Ở điểm này năng lực của tỉnh giác đã đạt đến chỗ hoàn hảo.
(vii) Trở nên an tịnh
Ở trạng thái thứ bảy, rất khó mà phát sinh hôn trầm hay trạo cử vì năng lực của tỉnh giác nơi bạn đã tuyệt hảo. Ở điểm này bạn muốn phát triển năng lực của tinh tấn vì bạn mong muốn từ bỏ hôn trầm trạo cử càng nhiều càng tốt, sau khi đã nhìn thấy rõ tai hại mà chúng gây ra.
Khác nhau giữa trạng thái thứ sáu và thứ bảy là: trong trạng thái thứ sáu, bạn phải rất thận trọng đừng để rơi vào hôn trầm trạo cử vi tế, nhưng ở trạng thái thứ bảy thì không. Ở trạng thái này không còn mối nguy hại hôn trầm trạo cử, nhưng bạn vẫn phải nỗ lực về kỹ thuật từ bỏ chúng. Trong các trạng thái năm và sáu, bạn đã cẩn thận đề phòng trạo cử. Bây giờ ở giai đoạn này, bạn tinh cần và có thể chấm dứt trạo cử và hôn trầm bất cứ lúc nào chúng ló ra, bởi thế chúng không thể ngăn ngại bạn lâu.
Năm giai đoạn từ ba đến bảy trên đây phần lớn là định nhất tâm, bị gián đoạn bởi trạo cử và hôn trầm. Ở những giai đoạn này, tiến trình của tâm là tiến trình nhất tâm có gián đoạn.
(viii) Trở nên là nhất tâm
Trước tiên bạn dùng phương pháp đối trị niệm. Mặc dù điều này cầm một ít nỗ lực, sau đó bạn có thể theo đuổi toàn thời thiền quán không bị chút hôn trầm trạo cử nào. Sau đó sức mạnh kẻ thù sút giảm, rồi mất hẳn. Năng lực của hôn trầm trạo cử nơi bạn cũng vậy. Ở giai đoạn thứ tám bạn không cần nỗ lực trong việc áp dụng tỉnh giác canh chừng. Sau khi cố gắng một chút lúc đầu giai đoạn tám, toàn thời thiền quán không bị gián đoạn vì hôn trầm trạo cử, bởi thế tiến trình tâm lúc ấy là tiến trình dán chặt hay tập trung.
Giai đoạn bảy và tám được hoàn tất nhờ năng lực tinh tấn.
(ix) Định an chỉ.
Bây giờ sự tập trung không còn cần nỗ lực. Bạn tự nhiên đạt đến sự không nỗ lực này nhờ đào luyện sự quen thuộc với trạng thái thứ tám. Bạn không cần một phí sức nào để lướt vào định nhất tâm, cũng như một người khởi sự đọc một đoạn văn đã thuộc lòng. Trạng thái này tương đương với sự tịnh chỉ nhất tam ở cõi Dục. Trạng thái thứ chín được thành tựu nhờ năng lực của thói quen hoàn toàn.
Trong trạng thái đầu, tuệ của bạn làm cho bạn quen thuộc với tâm phân biệt (hay vọng tưởng).
Trong trạng thái tâm thứ hai, bạn thấy được phần nào sự thể sẽ ra sao khi vọng tưởng của bạn tạm thời nghỉ mệt.
Trong trạng thái thứ ba, dường như những vọng tưởng tự chúng đã kiệt quệ hết hơi sức.
Tóm tắt, trong trạng thái đầu, hình ảnh chỉ ở một lúc ngắn. Trong trạng thái hai và ba, sự phân tán của bạn chỉ kéo dài một lúc. Khác nhau giữa tâm trạng ba và bốn là bạn có thể hay không thể mất dầu đề mục. Ở giai đoạn bốn, bạn phát sinh hôn trầm tthô, ở giai đoạn năm thì không. Ở giai đoạn năm, bạn phải coi chừng hôn trầm vi tế, mà không càn coi chừng ở giai đoạn sáu. Mặc dù ở giai đoạn sáu bạn có phát sinh trạo cử vi tế, nhưng ít hơn trước đây. Ở giai đoạn sáu, bạn phải đặc biệt cẩn thận đề phòng trạo cử, nhưng không cần làm thế ở giai đoạn bảy. Bạn còn có trạo cử hôn trầm ở giai đoạn bảy, nhưng không ở giai đoạn tám. Ởgiai đoạn tám, bạn còn cần nỗ lực nhưng không cần ở giai đoạn chín.
Ở giai đoạn bảy, bạn chỉ mới chấm dứt hôn trầm trạo cử. Không cần phải rất cẩn thận sợ bị rơi vào hai việc ấy. Giả sử bạn đi đánh giặc. Nếu thế giặc thua, bạn không cần cẩn thận quá mà chỉ cần dí nó xuống cũng đủ.
hoangtri
08-25-2020, 07:39 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY HAI MƯƠI HAI
Pabongka Dorje Chang kể một mẩu chuyện ngắn để chúng tôi khởi động lực.
Chandrakìrti nói:
Con ngỗng chúa dang đôi cánh trắng
Một cách tương đối, một cách chân như;
Bay đầu đàn ngỗng
Được đẩy mạnh bởi gió Phước
Băng qua hồ Thiện đức
Đến bờ các Đấng Chiến thắng vô thượng.
Nghĩa là, với hai loại bồ đề tâm tương đối và tuyệt đối, cùng với hai thứ tích lũy, bạn sẽ đạt đến tầm mức chư Phật. Bạn phải học cách nào để thực hiện điều này.
Khi ấy ngài ôn lại những tiêu đề trên về: cách luyện tâm tịnh chỉ - đào luyện năm hay sáu điều kiện tiên quyết; năm cạm bẫy và cách đối trị, tám sự điều chỉnh; và với những điều ấy làm căn bản, cách đạt đến chín trạng thái tâm.
a-2.1.4. Cách đạt trạng thái thái tâm nhờ sáu năng lực
Trạng thái thứ nhất đạt được nhờ năng lực của sự học, thứ hai nhờ năng lực của quán tưởng. Thứ ba và bốn nhờ năng lực của niệm; thứ năm và sáu nhờ năng lực của tỉnh giác; thứ bảy và tám nhờ năng lực tinh tấn; thứ chín nhờ năng lực của sự quen thuộc. Tôi đã bàn chi tiết điều này trong chương trên nói về mỗi trạng thái tâm riêng biệt đó.
a-2.1.5. Có bốn loại tiến trình tâm như thế nào
Hai trạng thái tâm đầu tiên là những loại tập trung gượng ép. Năm trạng thái kế kiếp là loại tập trung có gián đoạn. Loại thứ chín là hình thức tập trung tự nhiên không cần phải nỗ lực. Mỗi loại tiến trình tâm này được phân biệt bằng những sắc thái sau:
Hai trạng thái đầu chỉ có hôn trầm và trạo cử là chính yếu, không có chút nào tịnh chỉ. Chúng không đáng được cái tên gọi tịnh chỉ có gián đoạn hay không gián đoạn. Ở giai đoạn này bạn phải tinh tấn buộc mình đi vào những trạng thái tịnh chỉ này.
Bạn không cần phải dùng tỉnh giác để tự buộc mình phải đi vào năm trạng thái tâm kế tiếp. Tịnh chỉ của bạn cũng tuần tự trở nên vững chãi hơn. Vậy trạng thái tâm ở đây là trạng thái tập trung gián đoạn, vì tâm bạn gián đoạn bởi hôn trầm và trạo cử.
Trong trạng thái thứ tám bạn áp dụng một ít nỗ lực làm phương pháp đối trị ở đầu thời khóa thiền; thời gian còn lại không bị gián đoạn bởi hôn trầm hay trạo cử.
Ở trạng thái thứ chín bạn không cần nỗ lực để gợi lên pháp quán, như vậy sự tập trung xảy đến một cách tự nhiên.
a-2.1.6. Cách tâm tịnh chỉ thực thụ phatsinh từ điểm này.
Khi đạt giai đoạn chín, định tâm chuyên nhất cả bạnh thoát khỏi hôn trầm và trạo cử vi tế. Bạn có thể an trú trong trạng thái ấy một cách dễ dàng không cần dụng công, trong những thời gian dài. Tuy nhiên trạng thái ấy không phải là tịnh chỉ thực thụ, nó chỉ tương tợ như là tịnh chỉ. Muốn đạt đến tịnh chỉ thực thụ, bạn phải tiền định một cách chuyên nhất nhiều lần để đạt đến sự quen thuộc với nó. Khi ấy bạn cũng phải đạt được định xuất thân đặc biệt xảy đến cùng với sự mềm mại (nhu nhuyến) của thân tâm.
hoangtri
08-26-2020, 08:19 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Tâm nhu nhuyến phát sinh trước, nhưng hỉ lạc của thân nhu nhuyến lại phát sinh trước hỉ lạc của tâm nhu nhuyến. Những luồng khí lực độc hại trong thân thể đã được dẹp yên, bạn cảm thấy thoải mái, mặc dù bạn cảm thấy một thứ áp lực nơi sọ tương tự cảm giác một bàn tay nói sờ lên cái đầu bạn mới cạo. Khi đạt đến điều này, là bạn đã làm cho an tịnh những trạng thái tâm độc hại làm chướng ngại sự thi hành một đức hạnh nào bạn muốn thi hành. Bạn đã phát sinh tâm nhu nhuyến. Rồi bạn phát triển thân nhu nhuyến như là hậu quả của tâm nhu nhuyến này, và những luồng khí lực bây giờ khéo thích ứng và tuần hành khắp châu thân. Thân thể bây giờ không còn những trạng thái độc hại, không cảm thấy sự bất tiện nào khi bạn thực hành những thiện hành. Nó có thể được sử dụng bất cứ cách nào bạn muốn. Thân thể mềm mại và nhẹ như bông; bạn cảm giác một hỉ lạc lớn lao do thân nhu nhuyến ấy, và thân có những lạc thọ vật lý tuyệt trần. Từ đó, mỗi khi bạn đi vào tịnh chỉ, bạn có cảm giác thân thể tan vào đối tượng quán, đối với bạn không có gì khác hiện ra, ngay cả thân thể, vân vân. Đây là kinh nghiệm về trạng thái xuất thần của tâm nhu nhuyến, và tâm khi ấy tràn ngập hỉ lạc đến độ hầu như không thể nào tiếp tục ở trong pháp quán. Trạng thái bị hỉ lạc tràn ngập này sẽ lắng xuống, và khi ấy bạn cảm thấy giảm bớt hỉ lạc phần nào. Trong lúc ở trong tâm trạng này, là bạn đã đạt đến loại nhu nhuyến bất động có tương đương của nó là tịnh chỉ tương đương với cận hành này được gọi là “bắt buộc” vì đấy là đạo lộ phải kinh quá, nếu không, bạn không thể đạt các loại thiền chứng như thế gian và xuất thế gian. Từ điểm này bạn có thể đạt những định chứng tiếp theo chứng một loạt - quả thế bạn có thể thành tựu cả tám thiền chứng thuộc sắc giới và vô sắc. Tuy nhiên điều này khá vô ích, bởi thế chúng ta không triển khai những định chứng sau này. Ngoại đạo từ bỏ những vọng tưởng rõ rệt tương ưng với những định chứng sắc giới lên cho đến Vô sở hữu xứ thuộc Vô sắc. Và khi đạt đến định tâm tương ưng với Hữu đảnh (sắc cứu cánh) thì họ cho đó là giải thoát; nhưng điều này tuyệt nhiên không giải thoát họ khỏi sinh tử luân hồi. Như quyển Ca Tụng những gì đáng Ca Tụng nói:
Những người này, bị mù lòa bởi vô minh
Không theo Pháp của Ngài.
Học có thể đạt đến cõi Hữu đảnh
Nhưng rồi vẫn lại đau khổ.
Một Kinh nói:
Người thế tục rất tập trung thiền định,
Như chưa bỏ được ngã chấp
Nên mặc dù thật nhọc công
Với sự nhất tâm quán tưởng
Mà vọng tưởng vẫn trở lại tàn hại chúng.
Có ví dụ sau đây. Một hành giả sau nhiều khó nhọc, đã trú nhiều năm trong định an chỉ thuộc cảnh giới Sắc cứu cánh (hữu đảnh). Chuột gặm hết mớ tóc dài của ông ta. Về sau khi để ý đến điều này, ông nổi cáu! Thế là thiền chứng của ông suy tàn, và ông đi đến các đọa xứ.
Khi đạt tâm tịnh chỉ thù thắng, bạn có được sự sáng suốt đến độ có thể đếm những cực vi trong bức tường, v.v… Mỗi khi một trong mười tướng xuất hiện trước mắt bạn - nghĩa là năm đối tượng giác quán (sắc pháp, v.v..), ba độc, đàn ông, đàn bà - bạn sẽ nhớ đến lỗi lầm của chúng và phát sinh nhàm chán. Bạn sẽ ít vọng tưởng hơn trước, những vọng tưởng đã có sẽ phai mờ. Bạn sẽ phát triển những thiện đức như nghĩ mình nên phối hợp tịnh chỉ với giấc ngủ, vì sự vững chải của hình ảnh quá mãnh liệt.
Ngày nay có những người tìm tri kiến trong các giáo lý về Đại thủ ấn và Dzogchen bằng cách tham chiếu những bản kinh văn giản lược thay vì y cứ những cổ thư vĩ đại. Những người như thế sẽ thấy khó đạt được cái gì thực có giá trị được bàn trong cổ thư như tâm tịnh chỉ. Nhưng tịnh chỉ là pháp mà chúng ta cùng có chung với ngoại đạo. Theo bản kinh gốc về đại thủ ấn, thì sự theo dõi vận hành của tâm chỉ có làm cho bạn quen thuộc vối sự thật tương đối về tâm. Bởi thế bạn có thể nghĩ rằng pháp thiền theo cách ấy là tốt, song kỳ thực đấy chỉ như lầm tưởng đồng và vàng. Bạn chỉ có nước lang thang không mục đích trên những đường tà. Bạn có thể tăng thêm hôn trầm của tâm mà lầm cho là thiền định, nhưng cái thiền định ấy còn không thể đưa đẩy bạn lên được…….. của cõi sắc và vô sắc. Bạn chỉ có tạo nhân cho……. một con thú chẳng hạn. Hiền giả Sakya nói:
Những người mù thường khiến cho thiền đại thủ ấn
Trở thành nhân tái sinh làm thú vật.
Người nào khá hơn thì sẽ rơi vào
Thứ định làm ngưng dòng tâm thức của thanh văn;
Hoặc tái sinh vào các cõi Vô sắc.
Bạn có thể phân tích bản chất của tâm là không màu sắc hình dạng, nhưng không kèm theo một căn bản nào trong ba căn bản của đạo lộ; hoặc bạn có thể quen thuộc với chỉ giáo: “Đừng truy tầm quá khứ, đừng tìm kiếm vị lai” (nghĩa là, chỉ an trú trong hiện tại khi bạn thiền). Những pháp thiền định nô lệ ấy chỉ khiến cho người đời trở thành trống rỗng vô vị; không đưa bạn đến những cấp bậc cao của đạo lộ. Nhưng kèm với bồ đề tâm, từ bỏ, chánh kiến và quy y, thì sự tu tập như thế trở thành pháp Đại thừa đưa đến giải thoát, trở thành pháp Phật. Bạn phải đi vào con đường không lầm lỗi này. Nếu không, một mình sự thực chứng bản chất của tâm - là trong sáng, trống rỗng không bám víu v.v… - mà thôi, thì không thể tấn công vào thành trì ngã chấp của bạn. Nhiều nhất là những thiền định về kiểu ấy sẽ đạt được những hiệu quả giống như những dụng công của ngoại đạo đạt được. Vậy đừng xem những con đường thấp kém ấy là tốt lành. Bạn phải biết phân biệt chánh đạo và những con đường chỉ có vẻ là chân chánh.
hoangtri
08-27-2020, 08:15 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
a-2.2. Làm thế nào để luyện cốt tủy của trí tuệ - tuệ quán đặc biệt.
Có ba tiêu đề phụ: (1) xác quyết sự phi hữu của bản ngã cá biệt (nhân vô ngã); (2) xác quyết sự phi hữu của bản ngã các hiện tượng (pháp vô ngã); (3) cách phát triển tuệ quán đặc biệt.
a.2.2.1. Xác định tính phi hữu của bản ngã cá nhân
Có hai tiêu đề: (1) làm thế nào để nhập định như không gian; (2) khi tâm không nhập định, làm thế nào để có thái độ xem vạn pháp như huyễn.
(i) Làm thế nào để phát sinh định như không gian
Có bốn điểm then chốt cần xác định: (1) cái gì cần bác bỏ; (2) gì là toàn bộ những khả tính; (3) thế nào ngã và các uẩn không thể thực sự là một; (4) thế nào ngã và các uẩn không thực sự là khác.
Sau khi thành tựu tâm tịnh chỉ vững chắc, chúng ta không theo những pháp thiền đi sâu vào tâm an tịnh có tướng sắc giới và vô sắc giới thuộc các đạo lộ thế gian. Những thiền này chỉ đàn áp vọng tưởng rõ rệt. Điều chúng ta khao khát là giải thoát, bởi thế chúng ta phải triển khai loại tuệ quán siêu thế là tuệ quán đặc biệt phân tích ý nghĩa vô ngã. Điều này sẽ nhổ tận gốc rễ sinh tử luân hồi cho chúng ta. Nếu muốn phát sinh tuệ giác ấy, chúng ta phải đề phòng một cách có phương pháp tất cả những tệ hại của sinh tử luân hồi mà không cần đến thiền định đặc biệt về các cảnh giới thù thắng, như được nói trong tác phẩm Ca tụng Những Gì đáng Ca tụng:
Mặc dù những người theo Pháp của ngài
Không thực sự đạt đến những cõi thiền,
Song họ ngăn được tái sinh trong sinh tử
Làm cho Ma vương thất vọng đứng nhìn.
Chúng ta phải xác định gì là ý nghĩa của pháp sâu xa này, tức là tánh không. Nếu không đạt được thực chứng về tánh không, thì không thể nào đạt giải thoát; và cả đến những công việc khác của một người con Phật cũng chỉ trở thành một cái gì liên hệ đến sự chấp thủ những tướng nhị nguyên đối đãi.
Nếu bạn chỉ có phần nào sự phối hợp của phương pháp và trí tuệ, bạn sẽ không thể du hành đến quốc độ của một Đấng Chiến thắng. Bạn sẽ giống như con chim chỉ có một cánh. Phương pháp là tâm bồ đề; trí giác là sự thực chứng tánh không. Bạn không thể luyện cái này mà thiếu cái kia. Đức Tsongkapa nói:
Nếu bạn không có trí tuệ
Hiểu được cái cách vạn pháp tồn tại,
Thì bạn không thể nhổ tận gốc rễ sinh tử
Mặc dù bạn quen thuộc với sự từ bỏ
Và bồ đề tâm. Như vậy, hãy nỗ lực đạt phương tiện
Để thực chứng sự hỗ tương liên hệ của các pháp.
Mặc dù có khuynh hướng tin ở tánh không, có thể bạn còn vài hoài nghi. Ngài ta nói tánh không sẽ xé tan tành sự chấp thủ bản ngã nơi bạn: nó như một cơn mưa đá tàn hại mùa màng. Tác phẩm Bốn trăm bài kệ nói:
Ngay những người ít công đức
Không hoài nghi về Pháp này.
Ngay cả những người còn hoài nghi
Sẽ phá tan hiện hữu thành từng mảnh.
hoangtri
08-30-2020, 10:04 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Pháp thực hành này cũng cần những chuẩn bị tiên quyết: muốn phát sinh chánh kiến trong dòng tâm thức bạn phải có những nguyên nhân và điều kiện như sau. Bạn phải tận tụy với một bậc thầy thánh thiện có sự hiểu biết đúng về những điểm then chốt trong kinh điển, và được ông chỉ giáo về tánh không; bạn phải tích lũy công đức và thanh lọc chướng ngại; phải khẩn cầu bậc thầy và xem ông không khác gì thần hộ mạng của mình, vân vân. Nếu bạn không có đầy đủ những điều kiện này, bạn sẽ không thể đạt một thực chứng nào cả.
Có nhiều trình bày khác nhau về tri kiến giữa bốn trường phái ở Ấn, trước tiên là những nhà Trung quán. Đấy là những luận sư duy nhất giải thích rằng ý nghĩa của duyên khởi là tánh không, trong khi ý nghĩa của tánh không là duyên khởi.
Đức Đạo sư đầy từ mẫn của chúng ta dạy nhiều trình độ khác nhau cho những đệ tử có căn cơ từ thấp lên cao. Bởi thế, trước hết ngài dạy con người là trống rỗng, không thực chất, không có sự tồn tại độc lập. Ngài giảng điều này để đệ tử khỏi chấp thủ vào một bản ngã cá biệt. Vói những đệ tử thông minh hơn, Ngài phân tích giữa các pháp thực có và không thực có. Với những người khá hơn, Ngài dạy rằng các pháp không thực sự hiện hữu nhưng có thể thiết lập bởi bản chất chúng. Với những người khá hơn thế nữa, thì Ngài dạy tất cả các pháp tự bản chất là không hiện hữu. Cách cuối cùng này là nhất, và là tư tưởng tối hậu của đức Thế Tôn về vấn đề này.
Như đức Đạo sư chúng ta đã nói:
Một vị tăng danh tiếng sáng chói
Sinh ra ở miền nam Bhaita
Sẽ mang tên là “Rồng”
Sẽ phá hủy các chấp không chấp có.
Ở đây Long Thụ đã được huyền ký là vị sư vô song giảng giải đúng tư tưởng của Đấng Chiến thắng về sự làm thế nào để từ bỏ hai cực đoan chấp không và chấp hữu. Bởi thế chúng ta phải tìm học tri kiến này bằng cách theo bước chân ngài. Có nhiều tri kiến chỉ do người ta bốc đồng sáng chế ra cũng được công bố là sâu sắc, nhưng tri kiến tối hậu thì phù hợp với những tư tưởng của Long Thụ, và điều chắc chắn là, thay đổi những tư tưởng này tức là trình bày sai lạc tư tưởng của Đấng Chiến thắng. Và điều này không phải chi có dân Tây Tạng ngu ngốc mới làm. Ngay cả những học giả Ấn vĩ đại như Bhàvariveka và học giả Tây Tạng Jonangpa cũng lầm lẫn về những điểm then chốt trong tri kiến này. Lại có những người theo Long Thụ nhưng không hiểu ý ngài. Còn có những kẻ không những không theo Long Thụ mà còn cố bài bác. Tuy nhiên những người này và thừa kế của họ giảng dạy những quan điểm do họ sáng chế, và điều này không thuộc vào hệ thống của Long Thụ. Chandrakìrti nói:
Những con đường
Khác với con đường Long Thụ đã đi
Vượt ngoài hệ thống này, và không phải cách đạt đến an tịnh.
Chúng làm giảm giá trị tục đế và chân đế.
Với sự giảm giá hai đế lý, thì không thể đạt giải thoát.
Vậy, không có hai cửa ngõ dẫn đến sự an tịnh giải thoát, người nào không theo hệ thống này thì không thể nào đạt đến đấy. Atìsha nói:
Ai đã đạt ngộ chân không?
Chính Chandraikìrti:
Đức Như Lai đã huyền ký như vậy.
Vị ấy thấy được chân như của các pháp;
Và là đệ tử của Long Thụ.
Qua hệ phái chỉ giáo của ngài
Bạn sẽ thấy được chân như của các pháp.
hoangtri
08-31-2020, 09:32 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Nghĩa là, Nguyệt Xứng (Chandrakìrti) là đại đệ tử của Long Thụ. Nhiều bậc thầy Tây Tạng thuộc nhiều tông phái đã theo ngài trong kỳ truyền pháp đầu tiên tại Tây Tạng. Tư tưởng của những bậc thầy này còn ở trong phạm vi tư tưởng của những bậc thầy này còn ở trong phạm vi tư tưởng phái Trung quán (Pràsangikas), những bậc thầy Chandrakìrti đã dạy giáo lý nhiều cách để phù hợp trình độ các đệ tử, nên về sau, nhiều tín đồ không hiểu ý nghĩa chân thực của các bậc thầy này, và dần dần rơi vào lầm lạc. Có ít người có thẩm quyền định đoạt hình thức tối hậu của tri kiến, và đức Tsongkapa, hiện thân của Văn Thù, đã không tin tưởng những gì mà các người Tây Tạng này nói về tri kiến ấy. Bởi thế ngài định lên đường sang thánh địa Ấn để gặp bậc thầy Nàgabodhi, hành giả vĩ đại Maitripa, vân vân. Lhodrag Namkha Gyaeltsaen xin ngài bỏ dự định này. Với Namkha Gyaeltsaen làm trung gian (ngồi đồng). Tsongkapa hỏi Kim Cương Thủ (Vajrapani) những câu hỏi về tri kiến. Giáo lý của Kim Cương Thủ được ghi chép dưới dạng vấn đáp nhan đề là Chuỗi Cam Lồ Tối Thượng để trị bệnh. Giáo lý này khiến Tsongkapa càng hoài nghi thêm về những tri kiến được trình bày trong các sách hiện hành lúc bấy giờ. Ngài vẫn hoàn toàn bất mãn. Bởi thế ngài khẩn cầu bậc thầy mà ngài xem không khác gì Đức Văn Thù; ngài nỗ lực tích lũy công đức và thanh lọc bản thân, và thực hành nhiều đề tài thiền quán. Ngài tu hành một cách miên mật, và về sau đã thấy được linh kiến về Đức Văn Thù.
Nói chung có ba loại linh kiến. Một loại là thấy một ảo ảnh của một vị thần: điều này được kinh quá khi những luồng khí lực đi vào huyệt đạo. Một loại linh kiến khác là vị thần hiện ra trong tâm thức, loại hình này được kinh nghiệm trong lúc nhập định. Loại cuối cùng là người ta thực sự thấy vị thần bằng cảm quan có ý thức, có thể nói là trực tiếp đối diện. Tsongkapa có loại linh kiến sau cùng này về Đức Văn Thù, và có thể gặp Đức Văn Thù như trò gặp thầy. Những câu trả lời của Đức Văn Thù cho những câu hỏi của Tsongkapa đặt ra liên quan đến những điểm khó trong tri kiến thật quá sau xa. Mỗi khi Tsongkapa không hiểu điều gì, ngài thường thảo luận với Rendawa, tuy nhiên ngài vẫn không giải tỏa được những hoài nghi. Đức Văn Thù tuyên bố Tsongkapa nên dùng giáo lý này như khởi điểm và trong tương lai hãy nỗ lực tra cứu các cổ thư, rồi sẽ nhận thức được tri kiến sâu xa không cong quẹo. Việc xảy ra như thế.
Về sau, nhờ tích lũy công đức và thanh lọc chướng ngại, ngài có linh kiến về Buddhapàlita; bởi thế ngài đọc luận giải của vị này, nhan đề Sự tầm cầu Phật quả, và khởi sự triển khai tri kiến tuyệt đối của Trung quán (Prasangika) trong dòng tâm thức. Vào giai đoạn này trong đời, ngài đã có linh kiến về nhiều học giảvà hành giả Ấn Độ, nhưng ngài ít lưu ý đến họ. Đức Văn Thù bảo Tsongkapa - lúc ấy người trung gian ngồi đồng cho vị thần nhập vào là một vị lama tu chứng khá cao, có lẽ là ngài Umapa - rằng “ông nên chú ý đến linh kiến ấy, vì sẽ rất lợi lạc cho người khác và cho chính ông nếu ông căn cứ vào những kiệt tác của họ.”
Khi đức Tsongkapa trực ngộ được tri kiến không bị méo mó của phái Trung quán, đức tin của ngài vào đức Phật đấng Đạo sư càng dâng cao, và ngài đã làm một bài thơ ca tụng lý duyên khởi mà đức Phật đã giảng dạy. Tác phẩm này nhan đề Ca Tụng Lý Duyên Sinh Hay Tinh Túy Vắn Tắt Của Tài Hùng Biện. Choglae Namgyael ở Badong nghe một người hành khất đang đi chiêm bái hát bài này. Lúc đầu Namgyael tưởng đây là tác phẩm Long Thụ hay Nguyệt Xứng, nhưng ở phần cuối ông lại nghe tác giả bài thơ nói đã căn cứ vào tác phẩm của hai vị này, và được trả lời chính đức Tsongkapa vĩ đại đã viết. Namgyael phát sinh lòng tin kiên cố nơi Tsongkapa và khởi hành đi gặp ngài. Ông khám phá ra ngài đã từ trần. Ngài đã đi đến các cõi tịnh vì lợi lạc của những hữu tình khác. Không được gặp ngài, Namgyael bèn cầu nguyện cho được gặp, và tung những đồng tiền vàng và bạc lên hư không. Chúng đáp xuống đất tu viện Ganden. Những việc lạ như vậy có thể được tìm thấy trong tiểu sử của đức Tsongkapa.
Vậy trước tác của Tsongkapa thuyết minh ý nghĩa của những giáo lý sâu xa này, và gỡ rối cho những tư tưởng các bậc thầy khác về giáo lý. Tuy nhiên ngài không xem một bản kinh luận là thứ thiệt chỉ vì nó xuất xứ từ thánh địa Ấn. Ngài không sử dụng phần chính của những trước tác có thể đáp ứng tiêu chuẩn ngài để bảo đảm sự chính xác của tri kiến. Thay vì thế ngài đã thỉnh tôn ý của Đức Văn Thù vị thần bảo hộ ngài. Đức Văn Thù cho biết Nguyệt Xứng là một vị Bồ tát dũng cảm có địa vị cao, đến từ cõi Phật với ý định hoằng dương giáo lý của đức hộ pháp Long Thụ về tri kiến sâu xa. Bởi thiế đức Tsongkapa xem lời của Đức Văn Thù và những trước tác của Chandrakìrti là chính xác.
Những trước tác của Tsongkapa liên hệ đến tri kiến đề ra trong kinh điển thực khó cho chúng ta hiểu hay chứng trong lúc học tập quán tưởng, vì chúng quá sâu xa. Tuy nhiên, nếu học hỏi nhiều lần một cách chi tiết, ta sẽ triển khai được tuệ quán vào tánh không. những luận khác không sâu xa bằng, và ta sẽ thấu đạt được nhiều điều từ tác phẩm của ngài hơn bất cứ tác phẩm nào khác.
hoangtri
09-01-2020, 07:35 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
(1) Điểm then chốt thứ nhất: Cái gì nên bác bỏ
Bây giờ tôi sẽ dạy đề tài này một cách vắn tắc căn cứ trên tác phẩm Tsongkapa. Ngài đề cập trước hết làm thế nào để xác quyết nhân vô ngã. Bốn trăm bài kệ của Aryadeva (Thánh Thiên) nói:
Trước hết hãy lật ngược trạng thái vô cùng công đức của bạn;
Kế tiếp bác bỏ cái ngã;
Cuối cùng, tri kiến duy nhất bác tất cả.
Người nào biết như vậy là thiện xảo.
Điều này phù hợp với những chỉ giáo liên hệ đến thứ tự bạn nên theo trong pháp hành này. Trong Phạm Vi Nhỏ và Trung bình, bạn phải bác những kiến chấp như cho rằng không có nhân quả, v.v… Kế tiếp, bạn phải bác nhân ngã (cho rằng chủ thể có tự tính - DG), và cuối cùng bác pháp ngã (cho rằng đối tượng là thực có tự tính DG).
Không có khác nhau giữa những cái ngã phi hữu được đề cập trong lý thuyết về hai vô ngã. Tuy nhiên, trước hết tôi sẽ giảng về vô ngã trong tương quan với một vật đặc biệt là chủ thể hay con người. Xác định loại vô ngã này dễ hơn. Ngoài ra lại có một số lý luận về tánh không cần được xác định: những luận cứ dựa trên sự hỗ tương lệ thuộc ( duyên khởi), luận cứ xem những thành phần của một chiếc xe theo bảy cách vân vân. (CT. Ám chỉ luận lý gồm bảy phần của Chandrakìrti). Luận cứ dễ hiểu nhất cho người sơ cơ là ngã không phải một cũng không khác với năm uẩn. Ở điểm này, Tsongkapa và môn đệ bàn đến bốn điểm then chốt cho luận chứng ấy.
Điểm then chốt đầu tiên là xác định cái gì phải bác bỏ. Trong quyển Hành Bồ Tát Hạnh chúng ta đọc:
Khi bạn không chạm đúng tướng,
Thì bạn sẽ không nắm được rằng nó không thực.
Nói cách khác, nếu bạn không thể chỉ rõ “ngã” là gì - cái vật phải bị bác bỏ cho là phi hữu - thì bạn sẽ không nhận ra cái “không ngã” không còn hàm ẩn gì lưu lại sau tiến trình bác bỏ. Ví dụ: Bạn không thể bắn một mũi tên nếu không thể thấy mục tiêu, không thể bắt trộm nếu không thể nhận ra kẻ trộm. Bạn phải nhận ra cái ngã rồi mới bác bỏ được. Ngã là một cái gì không thật ra “không thật hữu,” một cái gì bản chất không thể độc lập tự do, một cái gì về phần nó không khác với cái khác. Luận về Bốn trăm bài kệ của Chandrakirti nói:
“Cái vật được biết là ngã là một thực thể mà bản chất nó không thể là hậu quả của một pháp nào khác có nhiệm vụ tạo tác ra nó. Vô ngã là sự phi hữu của cái ngã ấy.”
Như vậy ngã được giả thiết là một cái gì tự nó biệt lập, vì nó không là hậu quả của những điều kiện khác. Nó cũng được gọi là một thực thể tự tồn, vì nó không lệ thuộc vào bất cứ gì khác; nó cũng không là hậu quả của một cái gì khác.
Bạn có thể sử dụng những lời này trong cuộc tranh luận để bắt bí đối phương, nhưng nếu bạn chưa xác định được nó bằng kinh nghiệm thì bạn vẫn chưa nhận diện ra đối tượng của sự bác bỏ. Ví dụ, bạn sẽ không nhận ra kẻ ăn trộm chỉ nhờ những sự mô tả như “kẻ trộm là một con người” hay “kẻ ấy mặc áo trắng.” Bạn sẽ không hiểu được đối tượng này qua sự mô tả của người nào khác hoặc qua những hình ảnh trong tâm do danh từ gợi lên. Bạn phải nhận ra đối tượng của sự bác bỏ nhờ những kinh nghiệm tâm linh cá nhân sống động và thực thụ, qua một tiến trình phân tích. Nếu bạn chưa xác định đối tượng sự bác bỏ thì bạn có nguy cơ rơi vào cái bẩy là phản chứng lý duyên sinh của các pháp, mặc dù có sử dụng nhiều luận cứ để chứng minh chúng thiếu thực hữu. Ví dụ, quy ước về cái bình là hoàn toàn quen thuộc với bạn. bạn có thể nói, “cái miệng bình không phải là bình. Đáy bình không phải là bình,” vân vân, loại trừ từng phần của bình và cuối cùng thiền quán một cách nô lệ về tánh không mà chỉ do vì không thể tìm cái bình ở đâu được nữa. Nhưng với kiểu ấy bạn vẫn thiếu sự rõ ràng để bác bỏ đối tượng cần bác bỏ trên cơ sở của chính cái không ấy, và bạn chỉ có phá hủy cái giả danh về bình, và rơi vào trống không toàn diện. Tánh không này mà bạn đã tưởng tượng, là không nhằm chỗ.
Khi tìm kiếm cái đối tượng phải bị bác bỏ, ta phải tra tâm cái cách ta chấp thủ theo bản năng vào một cái tôi được xem là có tự tính. Khi chúng ta tra tầm “cái tôi” xuất hiện trong tâm theo bản năng, cách tâm bám lấy “cái tôi”, ta khám phá ra ta nghĩ, “Cái tôi này không chỉ là một cái gì tâm ta gán lên năm uẩn - nó được thiết lập cùng với năm uẩn.” Như vậy sự chấp thủ vào cái tôi theo bản năng (câu sanh ngã chấp) được tìm thấy ngay cả trong dòng tâm thức của những con kiến, trong tận cùng tâm khảm, ngay cả trong chiêm bao của chúng.
Nói chung có ba cách chấp thủ cái tôi dựa trên con người (nhân ngã). Đó là: (1) thứ chấp ngã của những người đã triển khai tri kiến về tánh không trong dòng tâm thức họ. Họ chỉ quy tội cái “tôi” trên khái niệm, trên giả danh. Cũng có những người chủ trương sự vật không thực hữu, song vẫn có kiểu chấp ngã như thế. (2) Cái cách mà người thường - những người mà dòng tâm thức chưa bị ảnh hưởng các lý thuyết - chấp thủ cái tôi. Cách chấp ngã này được thấy nơi những người bất chấp cái tôi ấy thực có tự tính hay không. (3) Hình thức chấp ngã của những người cho ngã là thực hữu, có tự tính.
Loại chấp thủ thứ hai trên đây là một nhận thức có giá trị thừa nhận cái tôi giả lập (tục đế). Chủ đề của nó chỉ là loại cái tôi này, một cái hiện hữu theo quy ước. Cũng đúng khi nói rằng nhân quả vận hành trên cái tôi giả lập này.
Loại chấp ngã thứ ba ở trên là một ý thức sai lầm và cần được phá hủy bằng một phương pháp đối trị. Chính khía cạnh cái tôi này là đối tượng để bác trong nhiều luận cứ khác nhau. Khi bạn bị lầm lạc để cái ngã thò ra theo bảng năng, tỉ dụ khi nghĩ, “tôi đã ăn xong,” thế là bạn đang chấp ngã.
Tâm thức khi không có thái độ phê phán, thường thỏa mãn với một cái tôi chỉ có tính cách gán ghép. Nhưng hoạt động như đi hay ngồi - như tôi đang đi, tôi đang ngồi - chỉ là những nhãn hiệu. Đấy là cách chúng ta đặt cho những hoạt động của mình, theo hệ thống Trung quán. Một phần của cách cái “ngã câu sanh” (cái tôi theo bản năng) ló ra cho bạn chính là ý tưởng cho rằng có một cái tôi theo quy ước ấy. Tuy nhiên, “ngã câu sanh” ấy không trình ra một cách nào rõ rệt để không bị lầm lẫn với đối tượng khác xuất hiện cùng lúc cho bạn. Bạn phải biết phân biệt giữa hai điều: cách xuất hiện của cái tôi được cho là thật có tự tính, và của cái tôi giả lập.
Hình thức chấp ngã theo bản năng (câu sanh ngã chấp) là một cái gì chúng ta luôn có trong dòng tâm thức, ngay cả khi mộng mị. Khi chưa gặp hoàn cảnh thì ta vẫn còn mờ mịt về cách xuất hiện của câu sanh ngã chấp ấy. Nhưng “cái tôi bản năng” ấy xuất hiện rõ rệt khi gặp cảnh vui hay buồn mãnh liệt, như khi bạn được ca tụng hay bị chỉ trích. Giả sử người nào buộc tội bạn là kẻ trộm, làm cho bạn tức giận. Lòng căm tức nổi lên nơi bạn, bạn nghĩ, “Tôi không có tội.” Rồi bạn nói: “tôi không còn nhịn được nữa!” Bạn không thể bài bác sự buộc tội ngay, mà thay vì thế bạn lại mất tự chủ. Điều ấy đương nhiên chỉ tăng cường sự buộc tội rằng bạn ăn trộm. Lý do làm bạn nói “tôi không có tội” là cảm giác của bạn về cái “tôi, tôi.” Cái tôi vươn lên một cách sống động từ trung tâm của trái tim bạn trong tất cả vẻ sáng chói của nó. Chính đây là cách mà đối tượng để bác bỏ sẽ trình diện cho bạn. Mỗi khi tư duy này xuất hiện trong bất cứ hoàn cảnh nào làm bạn vui, buồn, mừng, sợ, và mỗi khi sự chấp thủ theo bản năng - câu sanh ngã chấp - phát sinh một cách mạnh mẽ, thì bạn phải quán xét ngay tại chỗ cái cách nó thò đầu ra cho bạn thấy.
hoangtri
09-02-2020, 06:34 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Giả sử hai người đang đi cạnh nhau trên cùng một con đường, người này liếc mắt quan sát người kia. Điều này là hình ảnh điều nói sau đây. Trong khi tâm bạn tiếp tục hoặc động theo bản năng, và khi đối tượng cần bác bỏ trình ra trước bạn, bạn phải dùng một phần nhỏ của tâm để xem xét cách xuất hiện theo bản năng của đối tượng ấy. Nếu cái tâm xem xét ấy quá mạnh, thì bạn sẽ tuột mất không nắm được một phần của cái tôi, và phần ấy sẽ trở nên không rõ rệt. Bởi thế, điều cốt yếu là phải xem xét cái tôi một cách thiện xảo.
Trong tiến trình này, trong khi bạn đang nhìn xem cái tôi theo bản năng đó xuất hiện cách nào, cái tôi ấy có thể ló ra nhiều cách. Đôi khi “cái tôi” có thể là một cái gì gán cho thân thể, đôi khi gán cho thân ý. Đây không phải cách thực thụ cái tôi ló ra do sự chấp ngã theo bản năng. Thân và tâm, những cơ sở của sự gán ghép, cũng như con người - hiện tượng được gán - tất cả đều hòa thành một toàn bộ rộng rãi. Cái tôi hiển nhiên có vẻ như một cái gì còn hơn là một ý nghĩ gán trên toàn bộ này. Thay vì thế, nó xuất hiện như một cái gì tự tồn, biệt lập. Nếu cái tôi dường như là vậy, thì bạn phải thấy đúng cái cách mà đối tượng để bác bỏ xuất hiện cho bạn. Một khi đã nhận ra nó, thì rất dễ bác bỏ.
Điểm then chốt này rất tế nhị, đôi khi lỗi lầm là tại bạn đã đưa nó đi quá xa, đôi khi lỗi là không đủ xa. Nếu bạn không nhận diện đối tượng phải bác bỏ thì nó luôn luôn thò đầu ra; nhưng khi bạn cố nhận diện nó, nó lại ẩn nấp trong toàn bộ thân tâm, và bạn không thể tìm ra nó. Nếu bạn phải đi lên đến mép một mỏm đá cao chẳng hạn, trong khi sợ hãi bạn có cảm giác: “Tôi có thể rớt xuống,” hoặc “thân thể tôi có thể rớt xuống” hay “tâm tôi có thể rớt xuống.” Thân và tâm là hai cái, bất khả phân như nước với sữa. Cái tôi hiển nhiên, cái vật có thể rớt xuống vực kia, sẽ nổi lên trên đỉnh của thân và tâm. Đây là điều thường xảy ra. Khi bạn cỡi ngựa phi nước đại bạn không chỉ cốt thân hay tâm con ngựa khi bạn nói “ngựa.” Ngựa chỉ là một cái tên gán cho toàn bộ thân và tâm. Bạn hiểu “ngựa” là vật hiển nhiên được danh từ “ngựa” bao hàm. Khi bạn nói đến Sera hay Drepung, bạn không phân biệt những tòa nhà phía ngoài như điện thờ, và những tu sĩ ở trong viện. Căn bản của sự gán đặt tên ấy là tập thể gồm những khung cảnh vật lý của tu viện cùng với những gì nó chứa bên trong. Vươn lên trên tập thể này là cái vật thể bao quát hiển nhiên, được gồm trong danh từ Drepung hay Sera. Đây cũng là điều thường xảy ra. Khi bạn nói về một học giả, căn bản của sự đặt tên ấy chỉ là toàn bộ thân và tâm của ông ta. Nhưng còn có một cái gì hiển nhiên và hoàn toàn biệt lập với bất cứ cái gì khác, trình ra trước bạn.
Tóm lại, bất cứ một pháp nào cũng sẽ được gọi là “cái này” hay “cái kia.” “Cái này” hay “cái kia” hoàn toàn lấn lên căn bản của sự gán đặt và trình bày ra như thế nó hiện hữu biệt lập. Đây là đối tượng tối hậu của sự bác bỏ bằng luận lý. Nó đã được mô tả là “vật mà bạn hướng sự chấp thủ của mình đến vì cho là thực hữu,” “đối tượng của sự bác bỏ, được cho là thật có vì người ta không nhận ra một phần đối tượng bác bỏ và sử dụng một cách mà những vật được cho là thực hữu, xuất hiện. Hãy chấm dứt ở đấy, vì thật vô ích để đi tìm đối tượng của sự bác bỏ ở chỗ khác. Jangkya Roelpai nói:
Một số người có tâm sáng suốt hơn
Bám lấy những khẩu hiệu như
“Tự hữu” và “được lập là thật có,”
Nhưng duy trì những giả tướng hiển nhiên.
Họ dường như đi tìm để bác bỏ
Một vật gì trên đầu có sừng!
“Chân không” không phải nổi bật rõ rệt
Như cái mặt của một phụ nữ bỏ khăn che.
Nếu bạn nói nhiều quá
Mà không đánh trúng chỗ cần bác bỏ,
Thì người phụ nữ ấy sẽ chạy trốn mất!
{CT. ám chỉ “chân không”}
hoangtri
09-03-2020, 07:12 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác, đây là mối nguy hiểm lớn. Bởi vậy điều cốt yếu là phải tra tầm toàn triệt với một tâm phân biệt rất vi tế. Hãy làm việc này kèm theo những điều kiện bên ngoài thích hợp - như chỉ giáo của bậc thầy - và điều kiện bên trong thích hợp - như đã tích lũy công đức và thanh lọc bản thân. Nếu bạn có thể nhận diện các đối tượng để bác bỏ, thì những luận cứ - như mệnh đề luận lý liên hệ đến duyên khởi các pháp - sẽ làm sụp đổ ngọn núi chấp hữu của bạn. Tiêu chuẩn để biết đã nhận diện đúng đối tượng này là bạn trực ngộ chân không một cách không khó khăn gì cả.
Jangkya Roelpai Dorje nói:
Bạn không cần phải đi tìm nó:
Cái vật ấy, hỡi hành giả, ở ngay nơi bạn.
Nói cách khác, bạn không cần phải tìm đâu cho xa để thấy được chân không; vì nó cùng ở với bạn, con người tìm kiếm. Vậy, hãy thiền quán liên tục hàng tháng, hàng năm về sự nhận diện cái vật cần bác bỏ!
(2) Điểm then chốt thứ hai: Xác định toàn bộ những khả tính
Như chúng ta vừa nghe trên đây, một tâm ảnh đúng phát sinh từ kinh nghiệm trực tiếp về đối tượng để bác bỏ có thể xuất hiện rõ rệt trước tâm nhãn. Nếu một cái tôi - vật được chấp thủ theo bản năng - quả thực có tự tính, thì nó hoặc là một với năm uẩn, hoặc khác với năm uẩn. Không có khả tính thứ ba nào ngoài hai khả tính này. Thông thường, nếu một pháp (hay hiện tượng) hiện hữu, thì nó nhất thiết phải thuộc số ít hoặc số nhiều. Chắc chắn điều này bao gồm tất cả các trường hợp; bởi thế nó cũng áp dụng cho một “cái tôi”, mà chỉ có thể là một với các uẩn, hay khác với các uẩn.
Điểm then chốt này phải đưa bạn đến sự xác quyết rằng, “Nếu nó không phải là trường hợp ấy, thì nó không thể hiện hữu.” Bạn phải thiền định về điểm then chốt này không chỉ trong một hai ngày, mà cho đến khi bạn đạt đến lòng tin không lay chuyển.
(3) Điểm then chốt thứ ba: Quyết định Ngã và Uẩn không phải là một
Bây giờ bạn phải minh xác: giả như đối tượng cần bác bỏ có hiện hữu, thì nó hiện hữu cách nào. Sở dĩ người ta có thể lập rằng ngã và uẩn là một, chính vì chúng không xuất hiện trong tâm tách rời nhau; chúng hoàn toàn bất khả phân, vì chúng chỉ là một. Những lý lẽ ấy giới hạn chúng vào một thực thể duy nhất rõ rệt. Tuy nhiên cách chúng xuất hiện lại không phù hợp với cách chúng (giả thiết là) hiện hữu - điều này sẽ chứng minh chúng là giả ngay cả trên bình diện tương đối. Nhưng làm sao chuyện ấy có thể xảy ra khi một vật đã được lập là thực có: cách nó xuất hiện đáng lẽ phải tương ứng với nó hiện hữu. Nói rằng “các uẩn của ngã” thì không khác gì nói “uẩn của uẩn” hay ngã của ngã. “Sẽ là điều vô lý nếu phân biệt “ngã” với “các uẩn của ngã.” Tác phẩm Gốc rễ Trí tuệ của Long Thụ nói:
Khi bạn cho rằng
Cái ngã được đặt ra không thể hiện hữu
Nếu không có các uẩn mà nó bị ô nhiễm,
Thì các uẩn này khi ấy chính là cái ngã,
Và ngã mà bạn nói đó sẽ là thành phần phi hữu.
Nói cách khác, lỗi trong lập luận này là ngã sẽ thành phi hữu, vì nó được giả thiết là cái vật bị nhiễm các uẩn, và là một cái gì khác với năm uẩn - những vật mà ngã nhiễm phải. Dường như điều này chưa đủ, Hành Trung Đạo còn nói thêm:
Không nên lập luận rằng cái nhận ô nhiễm
Và cái vật làm nó ô nhiễm chỉ là một,
Vì khi ấy, người làm và việc làm sẽ thành một.
Nói cách khác, một lý luận như vậy phi lý, vì cái nhận ô nhiễm thành một. Thân xác và cái thực thể nhập xác trở thành một; tay chân và sinh vật có tay chân ấy thành một. Hơn nữa, nếu ngã và uẩn là một, thì như trong Hành Trung Đạo nói:
Nếu các uẩn là ngã, thì kết quả là
Uẩn số nhiều nên ngã cũng phải nhiều.
Nói khác đi, cũng như có năm uẩn, cái ngã cũng phải có năm.
Một kết quả phi lý khác nữa là, vì chỉ có một ngã, một cái không thể chứa đến năm uẩn - nên uẩn cũng phải là một. Khi cái ngã được giả thiết là năm uẩn, thì có sự phi lý và năm uẩn được xem tự bản chất chỉ là một, và thân xác được hỏa táng sau khi chết, ra tro, thì hóa ra cái tôi cũng đồng thời bị hỏa táng ra tro hay sao. Và hơn nữa, khi cái tôi đi đến tái sinh kế tiếp, thì thân xác cuối cùng của nó sẽ được thụ thai vào lúc nhập thai (trong một bào thai trứng, chẳng hạn). Hoặc, vì thân thể ấy sẽ không được nhập thai trong tái sinh kế tiếp, thì thân xác cuối cùng của nó sẽ được thụ thai trong lúc nhập thai (trong một bào thai hay trứng, chẳng hạn). Hoặc, vì thân thể ấy sẽ không được nhập thai như thế, thì cái tôi cũng sẽ không nhập thai trong tái sinh kế tiếp. Không thể có chuyện một cái ngã như vậy tái sinh vào cõi Vô sắc. Cái ngã sẽ là vật chất. Nếu tôi và tâm là một, thì cái “tôi” không thể nào cảm thấy lạnh hay đói, vì tâm không thể lạnh hay đói. Hậu quả phi lý là người ta không thể nói “tôi lạnh” hay “tôi đói” khi bị nóng lạnh, đói khát vân vân. Nếu cả thân và tâm đều là tôi thì sẽ không lý nghĩa gì để phân biệt “thân tôi” và “tâm tôi.” Hơn nữa, nếu ngã và uẩn được lập là một, thì chỗ ở của chúng, thời gian và mọi sự về chúng phải giống nhau. Như thế, như trong Gốc Rễ Trí Tuệ nói:
Nếu các uẩn là ngã,
Thì đấy sẽ là một vật được sinh ra rồi bị phá hủy.
hoangtri
09-04-2020, 07:03 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Nói cách khác, vì các uẩn có sinh diệt nên ngã cũng sinh diệt. Như thế, cũng như sắc uẩn có những sự gián đoạn trong quá khứ và vị lai và do vậy có sinh diệt, cai ngã cũng mất tương tục tính, và hậu quả vô lý là ngã cũng sinh diệt.
Nếu cái tôi tái sinh trong những đời khác và các uẩn của mỗi tái sinh quá khứ hay vị lai tự bản chất chỉ là một, thì cái tôi của những tái sinh quá khứ và cái tôi của tái sinh hiện tại sẽ hoặc là một hoặc là khác. Nếu là một, thì đáng ra trong đời hiện tại người ta phải bị câm và ngu ngốc như trong đời quá khứ khi làm súc sinh. Một hậu quả khác nữa là súc sinh ấy trong đời quá khứ cũng phải được cái hạnh phúc của một con người. Nhưng nếu cái tôi là tự nhiên tách biệt với những tái sinh quá khứ vị lai của một người, thì, như Hành Trung Đạo nói:
Vì những tướng ấy khác hẳn nhau
Như Di Lặc khác Ưu ba cúc đa,
Nên cũng không thuộc vào một tương tục duy nhất:
Tự bản chất, chúng không tách rời nhau.
Không đúng để bao gồm chúng
Trong một thực thể duy nhất.
Nói cách khác, hậu quả phi lý là luận cứ này không thể giải thích năng lực thần thông của một người có thể nhớ lại nhiều đời quá khứ của một chúng sinh, vì những đời này sẽ phải tách biệt nhau và không tương quan gì nhau như Maitreya và Upagupta, những vị có dòng tâm thức khác nhau Gốc rễ trí tuệ nói:
Nếu cái tôi quá khứ là khác,
Thì nó cũng sẽ trở thành phi hữu.
Lại nữa: nó sẽ không chết, mà sẽ tái sinh.
Rồi kết quả là
Vì người ta tách rời với những đời khác,
Nghiệp cũng tự động biến mất;
Những người sẽ đơn độc chịu đựng
Cái nghiệp do kẻ khác làm, vân vân.
Nghĩa là, sự biến mất của nghiệp đã làm là một tội lỗi trong luận cứ này. Bạn có thể tự hỏi: “Phải chăng cái ngã của một đời sau sẽ không chịu những nghiệp báo của cái ngã đời quá khứ? Nếu thế thì có sự phi lý này xảy ra là, một con người có tự tính riêng nó sẽ chịu những hậu quả của nghiệp do người khác - cũng có tự tính riêng nó sẽ chịu đựng hậu quả của nghiệp do một người khác - cũng có tự tính riêng nó - tích lũy. Điều này cũng bằng như gặp một quả báo mà nghiệp của nó đã không được gây ra vân vân.
Bạn đã xác định rằng ngã và uẩn không thực sự là một, khi bạn tin rằng ngã: “Ngã và năm uẩn đương nhiên không phải là một vật, một cái gì có tự tính riêng nó.”
(4) Điểm then chốt thứ tư: xác định Ngã, Uẩn không thực là khác
Khi đã chắc chắn ngã, uẩn không phải một, bạn sẽ nghĩ: “Bây giờ chỉ còn nước xem ngã và uẩn tự bản chất là riêng biệt.” Nếu ngã và uẩn được chứng minh là có tự tính riêng biệt, thì Gốc Rễ Trí Tuệ nói:
Chúng ta không thể chấp nhận rằng ngã
Là khác với các uẩn
Mà nó bị nhiễm phải.
Nếu ngã khác uẩn
Thì sẽ có thể thấy được nó
Mà không cần có uẩn nào,
Nhưng ta không thấy ngã như vậy.
Nói cách khác, khi bạn loại trừ dê và cừu trong một toán gồm dê cừu vàbò, thì bạn có thể chỉ con vật còn lại mà nói: “Đây là con bò!” Tương tự, bạn cũng phải có thể nhận diện một cách khác với năm uẩn gọi là “tôi” còn lại sau khi loại trừ từng uẩn một trong năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức. Nhưng sự thật là bạn không nhận ra được một cái gì như vậy.
Gốc rễ trí tuệ nói:
Nếu nó khác với các uẩn
Thì nó sẽ không có đặc tính của các uẩn.
Nghĩa là, ngã sẽ không có tính sinh, diệt… những đặc tính của pháp hữu vi. Lại nữa mặc dù các uẩn có sinh, già, chết, mà ngã sẽ không sinh già chết vân vân. Bất cứ gì động tới các uẩn cũng sẽ không làm tổi hại ngã. Những việc này và nhiều ví dụ khác nữa ngược lại với kinh nghiệm thông thường. Còn nhiều mâu thuẫn khác nữa. Người ta sẽ vẫn còn cái ý thức về một cái tôi khi không còn cơ sở là các uẩn. Nghiệp đã làm tan biến mất; lại còn điều phi lý tiếp theo như đã nói, là người ta sẽ gặp một điều mà nghiệp của nó họ đã không tạo, vân vân.
hoangtri
09-06-2020, 07:15 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Tiến trình xác định này - ngã và uẩn không thực sự khác nhau - là cốt để cho bạn tin chắc rằng “Ngã và uẩn nhất định không có tự tánh riêng biệt.”
Vậy, trong lúc nhớ lại cách xuất hiện của đối tượng mà bạn xác định là phải bị bác bỏ, thì hãy xem xét nó theo các luận cứ trên đây - rằng nó không phải một cũng không phải khác với các uẩn. Loại xác tín bạn có được - hoàn toàn bác bỏ cả hai trường hợp trên - được minh họa như sau. Giả sử chỉ có một con đường mòn giữa hai thung lũng, và bạn đã mất một con bò. Chỉ nói một lời “Không có bò trong thung lũng này,” sẽ không làm bạn thỏa mãn, bạn sẽ tìm con bò ở khắp cả hai thung lũng. Tim bạn đặt nơi cái vật bạn tìm kiếm, nhưng nếu bạn không tìm được, thì tự nhiên dù không muốn, trong tâm bạn cũng nảy sinh một ý nghĩ là con bò chưa từng có.
Cái tôi là chủ tể của sự bám víu của bạn vào một cái ngã do bản năng. Nhưng bạn đã thành tựu được tri kiến Trung quán khi bạn cảm thấy “Cái tôi không là một vật gì chắc thực để có thể thấy bằng mắt chẳng hạn, hay cầm bằng tay,” hoặc khi cái tôi ấy xuất hiện trở nên hoàn toàn trống rỗng, và bạn có thể được xác quyết sống động rằng nó không có thực hữu. Ở điểm này, người lợi căn do rất quen thuộc với vấn đề này, cảm thấy họ đã tìm ra được một cái gì rất quý báu. Người độn căn sẽ sợ hãi vì bỗng dưng họ thấy mất đi một vật yêu quý nhất đời. Tuy nhiên điều này cũng không sao. Một lần, khi đức Tsongkapa đang cho một khóa giảng về tri kiến này ở am thất Sera Choeding, Sherab Senge ngộ được tri kiến và đâm ra hãi sợ, tóm lấy cái ve áo tu của mình. Đức Tsongkapa hiểu được chuyện gì đã xảy ra, và điều ấy làm ngài sung sướng. Ngài nói: “Anh chàng ở Nartang kia đã khám phá ra chân lý tương đối trong ve áo của y!” Lại có câu chuyện về Ngulchu Togme Sangpo, khi ngài cho một bài giảng về tri kiến này, một số đệ tử của ngài đâm ra hoảng sợ.
Khi cái tôi trở nên hoàn toàn trống rỗng, bạn có thể có ý nghĩ rằng “Đây là tánh không! Tôi đã ngộ được nó!” Trong trường hợp ấy, hoặc là một sự phủ định có hàm ý sâu xa hơn, hoặc một xác định thẳng thừng đang đến trong tâm, bạn không nên nhầm lẫn. Nếu thay vì vậy, bạn chắc chắn rằng cái tôi - đối tượng của sự bác bỏ - không hiện hữu, sự hiểu của bạn phải có hai sắc thái. Nó phải không bị lay chuyển, trong niềm xác tín của nó là đối tượng bác bỏ tự bản chất là phi hữu; còn về cái xuất hiện cho bạn vào lúc ấy, phải có một sự trống rỗng hoàn toàn do phủ nhận mọi lập luận chấp thực có đối tượng ấy. Hãy giữ lại niềm xác tín này đừng quên, và luôn luôn theo đuổi nó. Nếu sự duy trì niềm xác tín này nơi bạn bắt đầu suy yếu hay rõ rệt, bạn có thể cần thiết hoặc không cần phải xuất định; nhưng hãy trở lại với sự phân tích nhờ các điểm then chốt như bạn đã làm trước đây. Khi tìm lại được sự xác tín, hãy tăng cường tính mãnh liệt của nó. Rồi nhập vào tịnh chỉ trong khi duy trì tính sống động ấy.
Trong khi bạn đang ở trong tịnh chỉ ấy, một sự trống rỗng hoàn toàn hiện ra cho bạn, giống như hư không. Tánh không này chỉ là không của sự thiết lập cho là thực hữu cái đối tượng để bác bỏ. Đây là cách bạn theo dõi định tịnh chỉ.
Ở điểm này cái tôi theo quy ước (tục đế -DG) không hiện ra cho bạn, và bạn không thể tìm tháy nó bằng cách xóa sạch tiến trình bác bỏ đối tượng cái ngã. Nhưng đừng sợ bạn đã rơi vào cái bẫy ngoan không; đi tìm cái tôi theo quy ước thì thật là điều không cần thiết và khá vô ích.
(ii) Khi không nhập định, làm thế nào để giữ thái độ mọi sự là như huyễn
Sau khi xuất khỏi thiền chứng này, khi bạn xét lại những gì còn lại sau khi bác bỏ, thì dường như chỉ còn lại cái giả danh là cái tôi. Đây chỉ là cái “tôi” theo quy ước. Hãy luôn luôn nhớ sự chắc chắn rằng cái này là cái tích lũy thiện và bất thiện nghiệp như thể trong một ảo cảnh, và trên cái loại “tôi” thông tục này sẽ chín những quả báo của hắc hay bạch nghiệp. Một ví dụ: mặc dù cảnh voi ngựa hiện ra cho nhà phù thủy, ông ta vẫn chắc chắn trong tâm rằng chúng không thực có. Nhưng, trong khi ông ta hoàn toàn chắc chắn sự xuất hiện của chúng chỉ là giả, ông vẫn cảm thấy những voi ngựa ấy làm những hoạt động đến đi một cách rõ ràng không chối cãi. Như trong trường hợp chúng ta, cái tôi - một cái chỉ có nhãn hiệu, không tự nhiên hiện hữu - vẫn tích lũy và kinh quá những vui khổ mặc dù nó không thực hữu. Như vậy bạn thấy bạn có thể chấp nhận sự kiện rằng cái tôi làm những hành vi qua sự sinh khởi hỗ tương lệ thuộc không thể chối cãi của nó; và mặc dù nó hiện ra trước bạn, song nó vẫn trống rỗng. Mặc dù trống rỗng, mà nó vẫn hiện ra trước mắt bạn như thể một ảo giác. Đây là cách bạn tập luyện cho mình nghĩ tưởng.
Khi mới tìm kiếm tri kiến này, chúng ta thấy thật khó mà chấp nhận tánh không trong tâm nhãn vì ta đã quá quen chấp thủ và thực hữu; nhưng về sau ta lại khó mà chấp nhận các tướng của sự vật {vì ta đã rơi vào cái bẩy ngoan không}.
hoangtri
09-07-2020, 07:19 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Như Long Thụ nói:
Tất cả pháp hữu vi bản chất là trống rỗng;
Nhưng đức Như Lai vô tỉ đã dạy
Luật duyên khởi của các pháp hữu vi.
Nói cách khác, tánh không dùng làm lý do cho duyên khởi của mọi sự vật; tánh không của chúng bao hàm ý nghĩa rằng chúng cũng có thể hiện ra các tướng. Với duyên khởi dùng làm lý lẽ, sự hỗ tương lệ thuộc của mọi sự đối với bạn cũng phải bao hàm mọi ý nghĩa mọi sự trống rỗng.
Luận lý hình thức bao gồm sự hỗ tương duyên sinh có tầm quan trọng lớn. Ví dụ: khi ta dẫn sự hỗ tương lệ thuộc làm bằng chứng để chứng minh rằng một chồi cây chẳng hạn không thực hữu, thì bằng chứng ấy phản bác cái cách người ta chấp thủ đối tượng theo bản năng - ở đây là chồi cây - như thể nó có thực, chứ không phải là cái tên gán cho nó. Sự bác bỏ như thế tiến hành như sau. Nếu chồi cây tự bản chất không thực hữu, thì đáng lẽ nó không phải là kết quả của những cái khác như nhân (vd hột giống -DG) và duyên (vd phân, nước, đất - DG), nó cũng không là một cái gì được dán nhãn hiệu lên đó. Nó phải là một cái biệt lập tự tồn. Nhưng sự thật không phải vậy. Chồi lớn lên nhờ một loạt nhân duyên - hạt giống, nước, phân, hơi ấm, ẩm, v.v… Điều này chứng tỏ nó lệ thuộc vào những thứ khác và là hậu quả của cái khác: đây là điều mà ta có thể chính mình quan sát thực sự. Như vậy chồi cây là một ví dụ về duyên khởi. Những lý luận và chứng cứ như thế liên hệ đến duyên khởi. Sẽ bác bỏ cực đoan cho rằng mọi sự là có tự tính và biệt lập với cái khác. Sự bác bỏ này được nói lên để trừ cực đoan chấp hữu - cho rằng mọi sự thực có như tướng nó xuất hiện. Như vậy, duyên khởi bao hàm tánh không.
Nếu hạt giống làcó tự tính của nó, thì không có nguyên nhân hay hoàn cảnh (duyên) nào có thể thay đổi nó được: bản chất của hạt giống nhất thiết không thay đổi. Nhưng vì nó không có tự tính, nên khi đã vượt qua giai đoạn chồi, cuối cùng nó sẽ lớn thành một cây nhỏ, và sẽ còn trải qua nhiều giai đoạn trung gian.
Duyên khởi có thể giải thích tất cả mọi giai đoạn của cái cây, và điều này có thể áp dụng thực tiễn vào trường hợp con người và súc vật. Điều này sẽ đưa đến sự xác tín rằng duyên khởi loại trừ các cực đoan chấp không hay chấp đoạn diệt.
Bởi thế mà nói tánh không cũng bao hàm duyên khởi. Những tư tưởng về vấn đề này có thể tìm thấy trong kinh Anavatapta thỉnh vấn:
Bất cứ gì do hoàn cảnh (duyên) sinh ra
Thì không phải là có sinh;
Nó không có bản chất của sự sinh.
Ta nói bất cứ gì hậu quả của duyên
Là trống rỗng.
Người hiểu được tánh không này là chính xác.
Trong Gốc Rễ Trí Tuệ ta đọc:
Nếu không có tướng nào hiện hữu
Mà không do duyên sinh,
Thì cũng không có tướng nào hiện hữu
Mà không trống rỗng.
Trong Hành Trung Đạo:
{Nói với một đối thủ:}
Vì bất cứ gì có nguồn gốc
Đều thuộc vào pháp hữu vi,
Quan điểm ngài không được cứu xét kỹ.
Như vậy những luận cứ này
Liên hệ đến duyên khởi
Sẽ cắt đứt mạng lưới tà kiến.
Như Tsongkapa nói:
Nội cái thấy rằng duyên khởi và tánh không
Đi liền nhau, không phải loại trừ nhau,
Rằng sự hỗ tương lệ thuộc mà không lầm lạc-
Sẽ phá tan mọi chấp thủ vào sự vật.
Ở điểm này bạn hoàn tất sự phân tích tri kiến.
Bạn loại trừ cực đoan chấp hữu;
Bạn loại trừ cực đoan chấp không.
Nếu bạn hiểu bằng cách nào
Tánh không trình ra nhân quả,
Thì tri kiến chấp thủ các cực đoan
Sẽ không ảnh hưởng đến bạn.
hoangtri
09-08-2020, 08:42 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
Nếu bạn có vài xác quyết rằng tánh không và duyên khởi không mâu thuẫn, mà bao hàm lẫn nhau, thì bạn sẽ hiểu những điều thực tế như duyên khởi và nhân quả. Bạn càng thấy giá trị của tánh không và duyên khởi nhiều hơn nữa, bạn sẽ có lòng bi mẫn, tâm bồ đề, và sẽ thực hành mọi lời khuyên, và tu tập một pháp tu không thiếu phương pháp cũng không thiếu trí tuệ. Có người không làm vậy, lại xem nhân quả như là chuyện dành cho người sơ học, và chỉ rút ra vài chỉ giáo đặc biệt cho đệ tử họ làm theo. Những giáo lý không đặt nặng nhân quả như thế thì không khác gì chủ nghĩa khoái lạc của Thuận thế ngoại đạo.
a-2.2.2. Xác định tính phi hữu của các pháp
Có hai: (1) hữu vi pháp không thực có; (2) vô vi pháp không có thực.
(i) Xác định các pháp hữu vi không tự nhiên mà có
Có ba phần: (1) xác định rằng sắc pháp (thuộc vật lý) không tự nhiên mà có;(2) xác định rằng tâm pháp không tự nhiên có; (3) xác định rằng những bất tương ưng hành không tự nhiên có.
(1) Xác định sắc pháp không tự nhiên có
Bạn phải sẵn sàng áp dụng cho các hiện tượng khác sự xác định mà bạn có thể có được về sự kiện một con người không hiện hữu biệt lập, có tự tính riêng. Một kinh nói:
Hãy áp dụng cùng một cách suy nghĩ ấy đối với mọi sự.
Như thái độ bạn đã có đối với ngã.
Aryadeva nói trong Bốn trăm bài kệ:
Sự thấy đúng đối với một pháp
Cũng là cái thấy đúng với tất cả mọi sư.
Tánh không đã đúng ở nơi một pháp
Cũng đúng cho tất cả pháp.
Vậy trước hết chúng ta xác định các sắc pháp không tự nhiên hiện hữu.
Cái tâm nằm trong dòng tâm thức của phàm phu chúng ta đã bị nhiễm vô minh, nên mỗi khi các sắc pháp vân vân hiện ra trước mắt ta, cái kiểu xuất hiện của chúng không khác gì là những vật có tự tính thật. Cái cách các pháp xuất hiện cũng là cách mà ngã - đối tượng cần bác bỏ - xuất hiện cho chúng ta, và ta phải bác bỏ những tướng giống như thật ấy.
Mọi hiện tượng (pháp) đều là những điển hình của duyên khởi, nghĩa là chỉ một nhãn hiệu được gán lên một vật, vật này là một hợp thể dùng căn bản để gán nhãn hiệu lên đấy. Lấy ví dụ cái bình. Đối với tâm thức phàm phu chưa đạt đến tri kiến tánh không, thì cái bình không có vẻ gì là một pháp giả danh, trái lại, cái tên bình và hiện tượng “bình” - vật được gán tên - hòa lẫn vào nhau một cách chặt chẽ đến nỗi cái bình như là một cái gì hiển nhiên thực có tự tính. Đây là cách xuất hiện của đối tượng cần bác bỏ (nhân ngã hay pháp ngã - DG) nó có thể xuất hiện như thế, nhưng khi bạn theo đuổi luận cứ cho rằng cái giả danh bình và hiện tượng bình tách rời nhau, thì bạn sẽ thấy rằng cái bình, mà bản năng xem là thực hữu, không thể được xem là một với giả danh cái bình. Hơn nữa, thì bạn áp dụng tiến trình loại bỏ cái được gọi là bình, thì những gì còn lại không có tướng gì là bình để bạn có thể chỉ ra. Thay vì thế, cái bình theo thông tục xuất hiện theo giả danh gán cho nó - nghĩa là toàn bộ miệng bình, bụng, đáy vân vân. Vậy bạn giả thiết rằng bình chỉ hiện hữu theo tục đế, vì nó không thể lập như một cái gì thực hữu tách rời với giả danh.
Vậy, nói chung, nếu một vật hiện hữu, nó phải hiện hữu hoặc đơn chiếc hoặc số nhiều. Cũng thế, nếu nó được lập là thật pháp, thì nó phải thật theo kiểu số ít hoặc số nhiều; nếu không thuộc số nào trong đó cả thì không thể là thực hữu. Vì lý do ấy, bình vân vân không thể chấp nhận được lập là thực hữu.
Tóm lại, từ cái bình suy ra, tất cả sắc pháp đều phải nương vào giả danh, chúng không tồn tại như một cái gì thực hữu tự bản chất. Bốn trăm bài kệ nói:
Những pháp ấy thiếu sự tự do
Bởi thế bản ngã không thực hữu.
Một cái bình thông thường là một pháp đơn độc, nhưng không đơn độc từ bản chất, vì nó phải lệ thuộc nhiều yếu tố cấu tạo nên nó. Lại nữa, cái bình và cái cột có thể rời nhau, nhưng cả hai chỉ giả lập là rời nhau. Sự giả lập ấy sụp đổ khi người ta gom chúng lại thành một đôi. Chúng chỉ được giả thiết là tách biệt nhau, song về phần chúng, bình và cột không được lập là những vật tách biệt. Nếu chúng được lập là những pháp riêng rẽ thì mỗi cái phải có khả năng tự tách riêng của chính nó. Điều này có hậu quả phi lý rằng mỗi cái không phải là một cá thể riêng biệt. Do đó, mặc dù bình và cột riêng nhau, mà cái bình không phải là một cá thể đơn độc, nó chỉ được gán cho cái giả danh là “một” hay “tách rời.” Nó không có những đặc tính của một cái tự hữu nội tại. Tác phẩm Gốc rễ Trí tuệ nói:
Tính “khác” tùy thuộc vào sự có những cái khác:
Khác mà không có cái gì khác
Sẽ không phải là sự khác.
Nếu một cái gì là “khác”
Mà không có cái khác
Thì nó sẽ thành “khác” trên chính nó.
hoangtri
09-09-2020, 09:42 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI HAI
__________________________________________________ ______________________________________
(2) Xác định tâm pháp không tự nhiên mà có
Cái vật ta gọi là “tâm” là sự thông minh sáng suốt, một hiện tượng vận hành tương quan với một đối tượng nào đó. Tuy nhiên, có một dọc rất dài những tâm vương và tâm sở, tất cả cùng kinh nghiệm cái cốt tủy và những nét đặc thù của đối tượng chúng. Một “tâm” chỉ là tên gọi dán lên cơ sở để gán tên ấy, mà trong những trường hợp này là một toàn bộ gồm những sát na quá khứ và vị lai. Như vậy một tâm không phải là cái gì có tự tính biệt lập. Tuy nhiên, đây không phải là cách nó xuất hiện cho chúng ta; với chúng ta nó có vẻ như một cái gì hoàn toàn độc lập và tự hữu, có tự do xử lý đối tượng của nó. Nó được xem như một cái gì được khám phá tách biệt với đối tượng. Đây là cách thức mà tâm, đối tượng cần bác bỏ, trình diện cho chúng ta. Nếu cái tâm này được lập là hiện hữu theo cách nó xuất hiện - lấy điển hình là tâm trong dòng tâm thức của bạn - thì nhất thiết nó phải được lập là một hay khác với những sát na tâm quá khứ và vị lai. Nếu nó là khác, thì cái gì còn lại sau khi loại trừ những tâm buổi sáng và tâm buổi chiều sẽ là tâm “của bạn.” Tuy nhiên, tiến trình loại bỏ này không thể được, do đó tâm bạn không thể lập là thực sự khác với tâm quá khứ hay vị lai.
Nếu tâm bạn sáng nay và tâm bạn chiều nay được lập là một, thì kết quả là tâm bạn có nhiều. Và vì tâm buổi sáng nay xảy ra vào buổi sáng, thì tâm buổi chiều nay cũng sẽ xảy ra vào buổi sáng mới phải. Lại nữa, vì tâm buổi chiều đã không xảy ra vào buổi sáng, nên kết quả là tâm hôm nay đã không xảy ra vào buổi sáng. Vân vân. Bởi thế, không thể nói là tâm của bạn là một hay khác với những thành phần của nó. Bạn phải làm việc theo đường hướng ấy để có được xác tín rằng tâm không thực hữu.
Nếu ba phương diện của tâm (đối tượng, tâm và sự bận tâm đến đối tượng) được lập là một, thì sẽ có hậu quả phi lý là năng tác sở tác là một. Nếu chúng được lập là khác, thì ta phải chấp nhận rằng có thể có một người biết mà không có cái gì để bị biết; hoặc có thể có hành vi biết mà không có người biết nào cả. Do những phi lý này và khác, nên ba phương diện của tâm không thể lập khác nhau.
Một “tâm” hay “trí thông minh” là một cái gì được xây dựng trên một giả lập mà chỉ là một loạt những sự vật hỗ tương lệ thuộc như những sát na quá khứ và vị lai, những thành phần của tâm. Một “tâm” là một cái gì được đặt tên bởi một nhận thức theo tục đế. Chúng ta có thể làm tất cả mọi hoạt động thuộc sinh tử và niết bàn trong phạm vi thứ tâm này.
(3) Xác định các “Tâm bất tương ưng hành” không thực hữu.
Ta hãy xét yếu tố thời gian. Một năm được lập theo nghĩa nó xuất hiện chỉ như một loạt 12 tháng. Tuy nhiên bạn phải xác định cho chính mình rằng cái cách đối tượng cần bác bỏ xuất hiện cho bạn là ngược lại với điều này. Năm và giả danh của nó - 12 tháng - không thể lập như là một, có tự tính, vì nếu thế thì năm hoặc thành 12 năm, hoặc chỉ một tháng. Chúng có thể lập khác nhau do bản chất, nhưng nếu ta loại trừ 12 tháng ra thì không còn gì để có thể nhận diện là một “năm” và như vậy “năm” chỉ là một nhãn hiệu gán đặt cho một khái niệm giả danh - 12 tháng - do nhận thức. Nó chi là một cái gì có thể trên ngôn từ, quyết định không thực hữu.
(ii) Xác định các vô vi pháp không tự nhiên có.
Vô vi pháp là những pháp như hai loại diệt (trạch diệt và phi trạch diệt), hư không, sự trống rỗng, vân vân. Những pháp này không do nhân và duyên mà sinh rra nên gọi là “vô vi.”
(“CT. Trạch diệt chỉ được chứng khi ở trong định an chỉ và ở địa vị kiến đạo. Phi trạch diệt là khi một cái gì không xảy ra hay một vật không sinh chỉ vì những nhân duyên và duyên cần thiết không hiện hữu.)
Lấy ví dụ hư không. Đối tượng bác bỏ không phải chỉ bao hàm khái niệm theo quy ước rằng “không gian” là cái vắng mặt của chướng ngại hay xúc tiếp, nghĩa là một sự phủ định không hàm ẩn gì thêm. Nếu hư không là một cái có thể được lập như một với các phương đông và tây của không gian sẽ giống nhau. Nếu thế thì khi bình minh lên trên bầu trời Đông thắng thần châu, nó cũng sẽ lên ở Tây ngưu hóa châu. Nếu hư không và các phương hướng của nó là khác, thì tổng số và các phần của nó sẽ là những vật khác nhau không có tương quan. Như thế thì phải còn lại một cái gì được nhận diện là không gian sau khi loại bỏ các thành phần của nó - bốn phương chính, bốn phương trung gian và trên dưới. Nếu không vậy, thì không gian không thực hữu.
Có người cho rằng tánh không là cái có thực. Điều này rất sai. Một kinh nói:
“Thật dễ dàng để giữ những chấp hữu lớn như núi Tu di; thật sai lầm khi cho rằng tánh không là thực hữu.”
Nói cách khác, chấp không là không đúng. Ngay cả tánh không cũng được chia làm nhiều thành phần dùng làm cơ sở cho giả danh ấy. Có nhiều thành phần của tánh không, và tánh không bao gồm toàn diện những cơ sở của những cái không đặc thù lớn nhỏ. Nhờ phân tích bạn sẽ biết được những thành phần ấy và có thể lập hoặc là một hay khác với tánh không ấy; hay một vật như bình - cơ sở của một cái không đặc thù - có biệt lập với tánh không của nó hay không. Kinh nói:
“Nếu đã có nhận thức đúng về thân xác,
Thì sao có thể nhận thức sai về chân như của thân xác?”
a-2.2.3. Cách triển khai tuệ quán đặc biệt
Mặc dù có thể bạn đã đạt đến tịnh chỉ hoàn toàn nhờ những phương pháp bao hàm chín trạng thái của định nhất tâm đã đề cập trước đây, và tâm tịnh chỉ của bạn chưa thối giảm, bạn cũng vẫn chưa đạt đến tuệ quán đặc biệt mà chỉ mới đạt được tâm nhu nhuyến. Lấy ví dụ tính vô ngã của chúng ta. Ngoài tâm tịnh chỉ bạn còn phải thực hành sự phân tích gồm bốn điểm như đã bàn; và khi làm như vậy, bạn phải triển khai một niềm xác tín sống động rằng cái tôi quyết định không có tự tính, mặc dù đấy là cách mà ta chấp thủ theo bản năng vào một cái ngã ở trên năm uẩn. Nếu bạn triển khai được niềm tin ấy, hãy tập trung vào đấy mà duy trì nó không quên. Hãy tỉnh giác đề phòng hôn trầm trạo cử, và nhập vào tịnh chỉ nhất tâm. Nếu năng lực của sự duy trì của sự tịnh chỉ bị suy giảm, niềm xác tín bớt rõ ràng, thì hãy làm lại sự phân tích gồm bốn điểm như trên, vân vân. Khi bạn đã lấy lại các niềm xác tín, hãy khởi sự thiền quán nhất tâm trên sự xác tín này. Đây là cách bạn phải tìm sự sáng sủa trong tánh không. Khi có được sự sáng sủa, hãy lập lại sự phân tịch gồm bốn điểm và những hình thức phân tích khác {không bàn ở đây} trong khi đang ở trong trạng thái thiền định tập trung. Điều này được dụ như một con cá lướt qua một cái hồ trong lặng không bị gió xao động. Ở đây bạn phải tập quen qua một thời gian dài, sử dụng vừa tịnh chỉ vừa tuệ quán. Như đã nói trên, bạn sẽ đạt chín trạng thái tâm, sau đó, nhờ phân tích, bạn sẽ đi đến một hình thức đặc biệt của sự mềm mại trong thiền quán còn lớn hơn sự mềm mại bạn đã có được khi đạt tâm tịnh chỉ. Thiền phân tích tự nhiên không cần nỗ lực sẽ theo sau thiền tập trung. Khi đạt đến trình độ này là bạn có được tuệ quán đặc biệt trực chỉ vào chân không. Bây giờ tâm tịnh chỉ của bạn đã phối hợp với tuệ quán đặc biệt.
hoangtri
09-10-2020, 08:11 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BA
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY HAI MƯƠI BA
Kyabje Pabongka Rinpoche kể một mẫu chuyện để giúp chúng tôi khởi động lực. Ngài trích dẫn Tsongkapa vua Pháp vĩ đại:
Khi hiểu đúng những điểm này
Về nòng cốt của đạo lộ,
Thì hãy độc cư và phát triển
Sức mạnh của tinh tấn;
Không bao lâu người sẽ hoàn tất hi vọng vĩnh cửu.
Ngài nhắc lại các tiêu đề đã bàn hôm qua và tiếp tục.
a-3. Làm thế nào để tu tập Kim cang thừa
Như tôi đã nói, khi đã đạt vài kinh nghiệm của sự từ bỏ Phạm Vi Nhỏ và Trung Bình, bấy giờ bạn nên cố mà kinh nghiệm về tâm bồ đề qua Phạm Vi Lớn nếu thành công, thì hãy nỗ lực đạt đến sự xác tín về tánh không, sau đó bạn phải đi vào các mật điển. Nhưng nếu khởi sự thực hành mật tông mà không có những chuẩn bị như thế, thì việc tu tập không trở thành những phương tiện cho bạn đạt giải thoát, hay dẫn đến vô thượng bồ đề. Có nguy cơ lớn là mật tông sẽ vô ích đối với bạn, và cũng nguy hiểm như việc một đứa bé cỡi một con ngựa bất kham. Nếu bạn đạt tuệ giác về ba nòng cốt của đạo lộ rồi mới đi sâu vào các mật điển thì chắc chắn bạn sẽ có lợi vì nhanh chóng phi thường của nó.
Mật giáo còn hi hữu hơn cả chư Phật. Nhờ con đường này mà bạn có thể đạt cảnh giới hợp nhất của bậc Vô học trong một đời ngắn ngủi vào thời đại suy đồi. Bởi thế đương nhiên là bạn nên tu luyện trong đạo lộ này. Nhưng thật không đầy đủ nếu chỉ thọ vài pháp tiểu quán đảnh về Hayagrìva. Kim cương thủ, vân vân, chỉ để khỏi bị vài hoàn cảnh không may. Bạn phải thọ cả bốn pháp quán đảnh một cách thích đáng và thuần tịnh - đó là vào mandala của một thần bảo hộ như Heruka, Yamàntaka hay Guyasamàja, từ một bậc thầy mật tông (kim cang sư ) đủ tư cách. Bốn pháp quán đảnh này chắc chắn sẽ gieo cho bạn hột giống của bốn thân Phật về sau. Và điều thật có ý nghĩa là phải giữ những giới đã thọ trong khi quán đảnh như là giữ tròng con mắt, và thực hành những gì đã tu học trong bài giảng sâu xa về hai giai đoạn. Khi ấy sự tu tập của bạn sẽ bao quát toàn bộ giáo lý.
Toàn đạo lộ kinh giáo và mật giáo phải được hiểu trọn vẹn để bạn biết rõ từng bước trên con đường. Đạo lộ khởi đầu bằng sự kính thờ một bậc thầy, lên tột đỉnh là sự hợp nhất của bậc Vô học. Tuy nhiên, khi có nhiều đệ tử chưa khai đạo vào các mật điển, thì theo tục lệ, người ta chỉ bàn sơ qua những tiêu đề về cách tu tập Kim cang thừa.
b. Cách huấn luyện bốn nhiếp sự để làm thuần dòng tâm thức đệ tử.
Trang nghiêm kinh của Maitreya nói:
Bốn nhiếp sự là:
Bố thí, để chúng sẽ thọ giáo;
Ái ngữ, để chúng sẽ theo ta;
Lợi hành, làm lợi ích chúng;
Và hãy thực hành những gì ta giảng.
CT của DG: Điều thứ tư trong bốn nhiếp sự này hơi khác với những gì Phật tử Việt thường học: “đồng sự” là cùng làm một việc với người để giáo hóa họ, Ba nhiếp sự trước không có gì khác]
hoangtri
09-11-2020, 09:27 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BA
__________________________________________________ ______________________________________
Khi chư Bồ tát muốn lợi ích hữu tình, họ sử dụng bốn cách để làm thuần dòng tâm thức của chúng. Bạn cũng phải làm lợi ích hữu tình bằng bốn cách ấy.
Cách thứ nhất: Những người thông thường dễ bị lôi cuốn bằng những quà cáp vật chất; bởi thế muốn đưa họ vào các giai đoạn của đạo lộ, trước hết bạn nên tặng họ bằng những món quà. Hành vi ấy làm họ hài lòng và sẽ muốn gia nhập vào vòng của bạn.
Cách thứ hai: Nói lời dễ nghe với những người đã đến với bạn. Cách nói chuyện của bạn phải đúng phép lịch sự và quan trọng hơn nữa, bạn phải nói cho họ nghe về Pháp sao cho thích hợp trình độ và ước muốn của họ.
Cách thứ ba: Làm lợi cho các đệ tử bạn bằng cách dạy cho họ con đường diệu pháp hợp căn cơ để họ có thể tu hành theo các giai đoạn của đạo lộ.
Cách thứ tư: Thực hành những gì bạn đã giảng dạy cho họ.
Tôi sẽ kết thúc phần trình bày ở đây. Bây giờ tôi sẽ bàn đến những tiêu đề tôi đã để dành lại mấy ngày trước.
hoangtri
09-12-2020, 04:09 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BA
__________________________________________________ ______________________________________
b. Phát tâm Bồ đề qua Nghi lễ thọ giới
Có hai tiêu đề: (1) Làm thế nào để có được những giới bạn chưa thọ; (2) sau khi đã thọ, làm thế nào giữ cho khỏi thối thất.
b-1. Làm thế nào để có những giới bạn chưa thọ
Mặc dù ta gọi đay là “phát tâm Bồ đề qua nghi lễ thọ giới,” song bạn chỉ nhận được những giới này nếu bạn đã kinh quá sự Bồ đề tâm, dù sơ sài cách mấy. Chỉ lập lại những công thức thọ giới mà không có một cảm giác nào là điều vô ích. Tuy nhiên việc thọ giới không có ý thức cũng tiêm nhiễm vào trong bạn một bản năng về tâm Bồ đề. Nhưng bạn phải xem trọng việc thọ giới. Những người nào mai đây sẽ cố gắng thực hiện các pháp quán, v.v… và thọ giới một cách chân thành, sẽ thọ giới Bồ đề tâm với những bậc thầy có nhiều năng lực. Tâm Bồ đề mà họ phát sinh càng ngày càng mạnh và sẽ rất kiên cố.
Có ba loại nghi lễ thọ giới Bồ đề tâm. Cách ngắn thì không có phần dẫn nhập. Cách trung bình vừa có dẫn nhập vừa có phần chính, nhưng cả hai phần đều cùng làm chung trong một ngày. Cách dài nhất là có một ngày để riêng dành cho phần chuẩn bị và một ngày nữa dành cho phần chính. Chúng ta sẽ theo cách cuối cùng này.
Theo lệ, người ta phải dạy phần chung của Lam-rim một cách đầy đủ trước khi truyền Bồ đề tâm giới, khi sự truyền giới này tiếp theo một lễ quán đảnh, giảng pháp hay khẩu truyền, v.v… mà trước đấy chưa giảng Lam-rim. Nhưng ở đây không thuộc trường hợp ấy, và không cần nói gì thêm nữa sau khi tôi đã giảng rộng rãi về Lam-rim. Bởi thế tôi có thể bỏ phần dẫn nhập dài dòng. Người hướng dẫn lễ trao Bồ đề tâm giới phải thi hành theo những cách trên đây, tùy theo lễ thọ giới có liên kết với một thời giảng về Lam-rim hay không.
[Khi ấy ngài bàn chi tiết cách sắp đặt đồ cúng trong nghi lễ chuẩn bị ngày mai. Ngài cũng giảng vắn tắt cách làm một số cúng dường mandala, khẩn cầu khi dâng mandala cúng dường, và khởi động lực trong khi chuẩn bị. Rồi ngài tiếp.]
Các bạn phải dành thật nhiều thì giờ tối nay và ngày mai để ôn lại các pháp quán tưởng [để làm trong buổi lễ]. Mai chúng ta sẽ thỉnh các bậc thầy chúng ta, chư Phật và Bồ tát để chứng giám cho sự phát Bồ đề tâm của chúng ta. Bởi thế chúng ta cần quét sạch và bày đồ cúng. Thật không phải cách nếu ta mời một ông vua đến căn chòi dơ dáy bụi bặm. Vậy sau thời chuẩn bị này, quý vị phải quét dọn sạch sẽ, như nhờ đừng làm tổn hại những côn trùng, vân vân. Rưới nước thơm để bớt bụi, và rắc hoa trên bục. Bạn cũng nên trang hoàng pháp tòa của bậc thầy bằng hoa và những thứ quý báu. Có lần Atìsha bảo rằng người Tây Tạng cúng phẩm vật tồi nên tâm Bồ đề họ không phát được. Vậy hãy dâng cúng đàng hoàng. Mặc dù người ta bảo nên bỏ ra một phần sáu gia tài để cúng, bạn hãy bày đồ cúng cách nào để người khác phải ngạc nhiên là được.
Bạn phải xây dựng sự tích lũy công đức, tịnh trừ nghiệp chướng, v.v… làm sao để ngày mai trong buổi lễ chính, bạn sẽ phát được tâm Bồ đề. Người ta bảo sáng mai bạn nên tụng Kinh tạng hoặc kinh Hoa Nghiêm, v.v…
[CT. Kinh Tạng gồm 108 tập dày; Hoa nghiêm gồm sáu tập dày. Vì một người không sao đọc cho hết, nên người ta chia ra mỗi người đọc lớn một phần của bộ Kinh và tất cả đồng thời tụng, như thế toàn bộ Kinh có thể tụng xong trong buổi sáng.]
Chúng ta không thể làm được chuyện này với thời gian ta có được, nhưng những vị nào tụng nhanh có thể tụng Bát nhã Bát thiên tụng hay Kinh Hiền kiếp. Khởi đầu lễ chính chúng ta nên làm một lễ dâng cúng nước và bánh lúa mạch cho ngạ quỷ và cúng đèn và bánh cho phi nhân.
Người thế tục thiết lễ ăn mừng những biến cố trọng đại trong đời này; họ làm ồn náo lên vào dịp tân niên - mà chỉ có nghĩa là những hạt cát thời gian đã chạy bớt đi một ít. Vậy thì tại sao chúng ta lại không đáng mừng? Chúng ta sắp phát tâm Bồ đề, vào đạo lộ đại thừa, và trở thành một người con của chư Phật,hãy mặc những y phục hạng nhất của bạn ngày mai. Những vị xuất gia nên dùng cả khăn quàng thêu lẫn khăn quàng thường của họ. Hãy tắm rửa, mặc y phục sạch, và mỗi người hãy đem cái gì theo làm lễ cúng dường tỏ dấu mình đã thọ giới Bồ đề tâm. Đây là một điều mà bạn sẽ tìm thấy trong lịch sử cuộc đời Phật. Khi đi qua đây, đừng xem chỗ này là một cái gì tầm thường. Hãy quán nó như một cung điện với bốn cổng thành, có Tứ thiên vương đứng bốn góc cùng với hàng trăm ngàn tùy tùng đứng canh gác. Những vị này lại được vây quanh bởi chư Thiên hộ trì giới; họ cũng đến để thọ giới. Có những bích họa trên bốn vách tường cung điện trình bày những hạnh Bồ tát mà đấng Đạo sư chúng ta đã làm khi Ngài còn đang trên đường tu tập. Hãy quán những việc như thế [trong bức bích họa] bây giờ đang thực xảy ra; hãy vui mừng và cầu nguyện khi bạn trông thấy được những cảnh tượng ấy.
hoangtri
09-13-2020, 06:48 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BA
__________________________________________________ ______________________________________
Trong khóa lễ thứ hai ngày mai, sau khi bậc Thầy an tọa, bạn phải tích tập công đức và thanh lọc nghiệp chướng vì những hành vi này sẽ làm căn bản cho sự phát Bồ đề tâm. Chúng ta sẽ thọ nghi lễ chuẩn bị dài. Hãy nghiêm túc quán tưởng tích lũy công đức và thanh lọc nghiệp chướng. Hãy tưởng tượng bậc Thầy chính là Đức Thế tôn Thích Ca Mâu Ni. Mỗi người phải tưởng tượng một cách rõ rằng phép quán theo lời mô tả của bậc Thầy.
Nói chung, hình thức phát nguyện của Bồ đề tâm chỉ là sự mong mỏi đạt thành Phật quả để lợi lạc hữu tình. Hình thức dấn thân của Bồ đề tâm (lập Bồ đề hạnh) là ước muốn làm những phận sự tiếp theo sau sự phát tâm Bồ đề. Phát tâm Bồ đề ví như người muốn đi Ấn Độ, lập bồ đề hạnh là như người đã thực sự khởi hành. có hai cách cử hành lễ họ Bồ đề tâm giới. Một cách là thọ hai phần ấy riêng biệt; điều này theo các tác phẩm Bồ tát địa của Vô Trước. Cách thứ hai là phần thọ cùng lúc, theo tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh của Shantideva. Bạn muốn theo cách nào cũng được, nhưng có người cho rằng một cách theo hệ thống Trung quán còn cách kia theo hệ thống Duy thức. Tuy nhiên về cách đề cập sự phát Bồ đề tâm thì hai hệ thống này không trái nhau. Theo truyền thống của tôi, thì sau khi bạn đã thọ giới theo hình thức phát Bồ đề nguyện, thì bạn không thể huấn luyện về những phận sự phận sự của Bồ tát, mà bạn chỉ có thể phát tâm Bồ đề. Khi bạn theo hình thức phát Bồ đề hạnh, thì theo truyền thống, bạn có thể làm cùng lúc cả hai việc. Ngày mai tôi sẽ cho cả hai hình thức thọ Bồ đề tâm. Là Bồ đề nguyện và Bồ đề hạnh.
Khi ấy chúng tôi dâng một mandala và tụng bài nguyện Lam-rim. Rồi ngài hướng dẫn cho chúng tôi lặp lại ba lần như sau:
Xin cho con phát triển được những đức tính của tâm Bồ đề tôn quý tối thượng
Mà con chưa phát triển
Xin cho Bồ đề tâm con tăng, không giảm
Và càng ngày càng mạnh thêm.
[Khi ấy chúng tôi tụng một lần bài “Mong cho tất cả hữu tình, những cha mẹ chúng con, được hạnh phúc…” tiếp theo tụng một bài “Xin cho thọ mạng bậc tôn sư chúng con không bị hiểm nguy…” Rồi khi kết thúc, chúng tôi tụng “Tất cả chư Phật Đấng Chiến thắng…”]
hoangtri
09-14-2020, 05:43 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
PHẦN NĂM
PHẠM VI LỚN
NGÀY HAI MƯƠI BỐN
Phần đầu của ngày được dành để học Kinh, cúng bánh lễ, v.v… Sau đây tường thuật về phần thứ hai. Khi Kyabje Pabongka Rinpoche thăng tòa, chúng tôi cử hành một nghi lễ chuẩn bị dài bao gồm những lễ cúng dường v.v… Trong khi chúng tôi dâng một Mandala để xin Bồ tát giới, mỗi khi dâng Mandala, những đồ cúng dường tượng trưng này được truyền qua đoàn thể thính giả làm thành một chồng đặt trước mặt bậc thầy. Rinpoche trích dẫn đức Tsongkapa vị pháp vương của ba cõi:
Phát Bồ đề tâm là đại lộ
Đưa đến Tối thượng thừa…
Ngài còn nhắc lại những lợi lạc của tâm Bồ đề và gợi cảm hứng cho chúng tôi bằng cách phác họa con đường tu tập, khởi tập là sự khó được tái sinh thân người. Rồi chúng tôi bắt đầu phép quán. Chúng tôi phải tưởng tượng được vây quanh bởi tất cả hữu tình dưới hình dạng loài người. Tất cả những chúng sinh nam tánh cùng đứng với cha chúng tôi ở bên tranh phải; tất cả chúng sinh nữ tánh gồm cả mẹ chúng tôi ở bên tay trái. Bậc thầy chúng tôi, được quán tưởng thành hình dạng đức Phật Thích Ca, được vây quanh bởi 1000 vị Phật trong thời tiền kiếp may mắn hiện tại, v.v… Với sự hiện diện của những bậc thầy, chư Phật và chư Bồ tát được mời đến, chúng tôi quỳ gối để xin quy y. Ngài nhắc lại bài kệ sau đây 3 lần:
Cho đến ngày giác ngộ con xin quay về nương tựa
Phật pháp và hội chúng vô lượng.
Với công đức con có được nhờ bố thí v.v…
Mong cho con thành Phật quả để lợi lạc hữu tình.
Nói ấy chúng tôi xin lập hình thức phát nguyện của Bồ tát (lập Bồ đề nguyện) bằng cách đọc như sau 3 lần.
Tôi nguyện đạt giác ngộ
Để giải thoát tất cả hữu tinh
Khỏi những kinh hoàng của sinh tử.
Bây giờ tôi đã lập nguyện này,
Thì tôi sẽ không bao giờ quên mất
Cho đến khi đạt thành Phật quả.
Kế tiếp đến phần chúng tôi thực sự lập cả 2 lời nguyện - phát Bồ đề nguỵên và phát Bồ đề hạnh, nghĩa là hình thức phát nguyện và hình thức dấn thân trong sự phát tâm Bồ đề. Ngài lập lại lời sau đây 3 lần trong đó, trước hết chúng tôi khẩn cầu chư Phật Bồ tát, sau đó lập lời thề nguyện:
Kính lễ các bậc thầy, chư Phật và chư Bồ tát!
Can khẩn cầu các ngài hãy lắng nghe con:
Như chư Phật trong quá khứ
Đã phát lời nguyện sẽ thành Phật
Rồi tuần tự trải qua những sự tu tập của một bồ tát,
Cũng vậy con hôm nay phát tâm bồ đề.
Vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, và sẽ tuần tự tu tập
Trong những hạnh bồ tát.
Sau đó chúng tôi đọc một lần bài sau đây để bày tỏ sự vui mừng vì đã thọ giới:
Bây giờ cuộc đời tôi đã có kết quả:
Tôi đã có được thân người thù thắng;
Hôm nay tôi đã được sinh vào
Dòng dõi của chư Phật,
Tôi đã trở thành một pháp tử của Chư Như Lai.
Kyabje Pabongka Rinpoche khi ấy đọc lên vài bài nói về giới Bồ tát, và giải thích ý nghĩa. Rồi ngài bảo các đệ tử:
Nếu chúng ta phát tâm Bồ đề, thì tất cả cõi Phật trong mười phương đều chấn động, những pháp tòa của chư Phật trong đó và những vật khác đều lung lay. Những tùy tùng của chư Phật sẽ hỏi lý do vì sao có chuyện này, và chư Phật sẽ trả lời cho họ rằng: “Tất cả những việc này xảy ra bởi vì tại xứ Tây Tạng, nơi ẩn cư tịch mịch Chuzang, trước mặt một vị Lama tên Taezin Trinlae Gyatso, đệ tử của ông ta có tên là…. đã phát tâm Bồ đề.” Các ngài sẽ cầu nguyện cho tâm Bồ đề ấy không thối chuyển và nam nữ giới tử sẽ hoàn tất phận sự của Bồ tát.
hoangtri
09-15-2020, 08:01 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
Khi ấy Pabongka Rinpoche nhận được vô lượng công đức nhờ giảng dạy và lắng nghe giáo lý Lam-rim. Hãy xét một cái công đức chúng ta đạt được do phát tâm Bồ đề! Để cho công đức chúng ta tích lũy được sẽ không biến mất. Chúng ta sẽ phó thác những công đức ấy cho bậc thầy che chở chúng ta, đức Di Lặc khi ngài đến châu lục này, hiển bày thắng ứng thân và làm những công việc của một đức Phật, thì chúng ta sẽ ở trong số những môn đồ của Đấng Chiến thắng này nhờ năng lực của công đức hôm nay. Chúng ta sẽ thưởng thức vị cam lồ của thời ngài và được ngài thọ ký tương lai sẽ thành Phật. Vậy chúng ta sẽ hồi hướng công đức cho mục tiêu này. Sau khi lập lại lần thứ 3 bài tụng hồi hướng, tôi sẽ dâng đồ cúng của quý vị lên hư không. Tất cả quý vị phải quán tưởng rằng những đồ cúng này chính là công đức của quý vị dưới hình dạng tám hướng tốt lành, bảy dấu hiệu của chuyển luân vương, v.v… Hãy tưởng tượng những đồ cúng này sẽ đậu lại trên cõi trời Đâu Suất xung quanh đức Di Lặc, ngài sẽ nói: “Những công đức này khiến ta hoan hỷ” và ngài cầu nguyện cho quý vị.
Sau đó ngài hướng dẫn chúng tôi lập lại 3 lần lời kệ sau đây:
Khi vừng thái dương Di Lặc đại hùng
Lên trên đỉnh đồi ở Bồ đề tràng,
Mong sao đóa sen trí tuệ con bừng nở;
Mong sao vô số hữu tình được toại ý.
Mong sao đức Di Lặc, Đấng Chiến thắng
Sẽ hoan hỷ đặt tay lên đầu con,
Thọ ký cho con thành bồ đề vô thượng.
Mong sao con sớm đạt giác ngộ
Vì lợi lạc cho tất cả hữu tình.
Sau khi lập lại lần thứ ba, ngài dâng cao đồ cúng lên hư không.
b-2. Làm thế nào để Bồ đề không thối chuyển
Có hai loạt lời khuyên
1. Lời khuyên liên hệ đến Bồ đề nguyện.
2. Lời khuyên liên hệ đến bồ đề hạnh.
b-2.1. Lời khuyên liên hệ đến Bồ đề nguyện
1. Khuyên tạo nhân lành để giữ tâm Bồ đề đã phát khỏi thối chuyển trong đời này.
2. Lời khuyên tạo nhân để không bao giờ rời tâm Bồ đề đã phát khởi trong những tái sinh còn lại.
b-2.1.1. Lời khuyên tạo nhân lành để giữ cho tâm Bồ đề đã phá khỏi thối chuyển, trong đời này
Có 4 mục như sau:
(1) Nhớ lại lợi lạc của sự phát tâm Bồ đề.
(2) Lập lại lời nguyện ba lần mỗi ngày và 3 lần mỗi đêm để khỏi quên Bồ đề tâm đã phát, và đông thời tăng trưởng nó.
(3) Ngăn ngừa sự phát sinh ý xấu, như là khi người nào làm trái ý bạn, bạn lạinghĩ “Tôi sẽ không làm việc vì lợi ích cho hắn.”
(4) Xây dựng hai thứ tích lũy của bạn để tăng trưởng Bồ đề tâm đã phát.
b-2.1.2. Lời khuyên tạo nhân lành để không bao giờ rời tâm Bồ đề trong những đời tái sinh còn lại.
Có hai đoạn:
(i) Bốn hành vi phát sinh hắc nghiệp báo cần từ bỏ. Đó là:
(1) Cố lừa thầy dạy, bổn sư, tu viện trưởng, thầy tuyền giới… với những lời dối trá.
(2) Cảm thấy buồn bã khi thấy người khác làm việc công đức.
(3) Vì sân giận mà nói những lời khiếm nhã đối với Bồ tát.
(4) Có hành vi lừa dối, không có tâm vị tha.
(ii) Bốn hành vi phát sinh bạch nghiệp báo cần làm:
(1) Tinh tấn từ bỏ mọi sự nói láo cố ý
(2) Giữ thiện chí đối với hữu tình, không lừa dối chúng sinh.
(3) Có thái độ xem Bồ tát như bậc thầy, ca tụng họ.
(4) Khiến cho các hữu tình được bạn săn sóc phải tôn trọng tâm Bồ đề.
hoangtri
09-16-2020, 07:03 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
b-2.2. Lời khuyên liên hệ đến Bồ đề hạnh
Kyabje Pabongka Rinpoche nói chi tiết về sự cần thiết phải học tập để giữ giới Bồ tát đã thọ một cách nghiêm túc, làm thế nào để không ô nhiễm bất cứ giới nào trong mười tám giới trọng hay 46 giới khinh. Rồi ngài tiếp tục:
Mặc dù tôi đã dạy quý vị con đường đưa đến giải thoát,
Hãy biết rằng sự giải thoát của bạn tùy thuộc vào chính bạn.
Hãy tu tập bất cứ pháp nào bạn có thể tu, để sự giảng dạy của tôi không phải là uổng công. Cũng như những thương gia chở hàng lên lên con lừa ngựa v.v… vừa sức chở của chúng, mỗi người trong các bạn ít nhất của phải thực hành tùy theo giới hạn và khả năng của mình, vì có người có tâm trí thù thắng, người khác kém hơn, trong khi những người khác có tâm trí hạ liệt. Nhưng trên tất cả phải lấy Bồ đề tâm làm pháp tu chính yếu của bạn. Bạn phải theo bất cứ đề mục thiền quán nào mà bạn biết sẽ giúp cho Bồ đề tâm của mình.
Trước hết bạn nên tận tụy với một bậc thầy và thực hành những chỉ giáo của vị ấy. Rồi phát tâm mong muốn rút tỉa được một vài ý nghĩa từ cuộc đời bạn. Nếu bạn không rút tỉa được tinh hoa ấy ngay từ bây giờ thì chắc chắn rằng sau khi bạn chết sẽ không thể chọn lựa chỗ tái sinh. Nếu bạn tái sinh vào đọa xứ thì bạn sẽ khổ không thể chịu nổi. Bởi thế bạn phải tìm cách nào cứu bạn khỏi điều này: tái sinh vào các đọa xứ. Hãy quan sát kỹ điều này, và chắc chắn bạn sẽ muốn được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Nhưng một mình bạn được giải thoát chưa đủ, vì tất cả hữu tình không ai khác hơn là cha mẹ bà con của bạn. Thật đáng khinh bỉ xiết bao nếu bạn ruồng bỏ họ. Vậy một mình bạn giải thoát khỏi sinh tử thì không đủ.
Như thế điều thích hợp là bạn đi vào Đại thừa ngay bây giờ bởi vì trước sau gì bạn cũng phải đi con đường ấy. Cổng vào Đại thừa duy nhất là phát Bồ đề tâm, bởi thế bạn phải nỗ lực tìm cách phát tâm Bồ đề. Nếu bạn có thể cảm thấy không cần nỗ lực mà vẫn có Bồ đề tâm thì khi ấy bạn có thể một mình chịu đựng lâu dài những khó nhọc trong khi làm việc cho tất cả hữu tình. Tuy nhiên bạn sẽ thấy thật là điều khó chịu khi tất cả hữu tình, những bà mẹ của bạn, đang bị đau khổ dày xéo. Đây là loại Bồ đề tâm đặc biệt sẽ làm cho bạn muốn đi vào con đường Mật tông, Tối thượng thừa. Như vậy bạn sẽ nhận bốn pháp quán đảnh từ một bậc thầy Kim Cương đầy đủ tư cách, để đi đến chỗ thuần thục; và theo cách ấy bạn thực sự đạt đến mọt sự cận hành của hợp nhất, sự phối hợp giữa ánh sáng và thân huyễn. Để thuần thục hơn, nghĩa là để đạt đến sự hợp nhất thực sự, bạn phải thiền quán giai đoạn phát sinh cũng như giai đoạn thành tựu. Qua những giai đoạn này, bạn chắc chắn sẽ đạt đến trạng thái hợp nhất của bậc Vô Học chỉ trong một đời ngắn ngủi vào thời đại suy đồi này.
Muốn thành tựu điều này, trước giai đoạn hợp nhất thực sự, bạn phải đạt đến cận hành của giai đoạn hợp nhất, cùng với những giai đoạn tịnh và bất tịnh của thân huyễn. Nhưng muốn đủ thuần thục để làm việc này, thì chắc chắn bạn phải hoàn toàn phát triển trong những cấp độ thô của giai đoạn phát sinh, và trước đấy bạn phải được bốn sự quán đảnh để gieo trồng trong bạn những hạt giống của bốn thân. Nhưng để trở thành một pháp khí thích hợp để nhận những phép quán đảnh này thì trước hết bạn phải thanh lọc dòng tâm ý bằng Bồ đề tâm - một phần của đạo lộ không chung với Thanh văn thừa. Vậy bạn phải có những nguyên nhân đẻ phát Bồ đề tâm như sau: có quá nhiều tâm bi mẫn không chịu nỗi sự đau khổ của hữu tình. Nguyên nhân chính để phát tâm bi mẫn là bạn không thể chịu đựng những nỗi khổ tổng quát và đặc biệt của sinh tử mà chính bạn đã trải qua. Điều này sẽ thúc đẩy bạn từ bỏ sinh tử. Nhưng trước đấy bạn phải phát sinh nỗi sợ hãi và kinh hoàng đối với những thống khổ trong các đọa xứ. Và làm sao bạn có thể triển khai những điều này nếu trước đó bạn không quan sát luật nhân quả và nỗi bấp bênh mà bạn sẽ phải đương đầu sau khi chết? Bạn phải triển khai những điều này. Cái nguyên nhân duy nhất khiến bạn nghĩ đến việc khởi hành trên một con đường như vậy chính là quán sát thân người khó được và hoàn toàn có ý nghĩa. Và muốn triển khai tất cả những điều này, thì trước hết bạn phải tận tụy với một bậc thầy có đức hạnh bằng tư tưởng và hành vi của bạn.
Như vậy bạn không đạt đến ngay những trình độ cao. Bạn phải luyện tâm bằng cách nghiên cứu toàn thể tiến trình của đạo lộ, bước đầu bằng sự thờ kính thầy. “Nghiên cứu sơ đồ của đạo lộ” có nghĩa là bạn học một đề mục thiền đặc biệt nào đó một thời gian, để làm cho bạn cảm thấy “tôi đã triển khai thực chứng trong dòng tâm thức.” Như thế bạn hãy đi suốt con đường qua những đề mục ấy khởi đầu bằng khởi điểm của Lam-rim là nhờ thầy đúng cách.. Hãy cố phát triển tuệ quán trong từng đề mục thiền. Sau khi làm như vậy, hãy luyện tập thêm nhờ thiền định phản quang. Nhưng hãy cố phát sinh tuệ giác bằng cách luyện tập bất cứ đề mục nào mà bạn chưa nắm vững được.
Trong đời này chúng ta dã gặp những giáo lý vô cấu này trong cả Kinh điển lẫn Mật điển không lỗi lầm. Với một cơ may như thế, mà nếu bạn không phát sinh ngay cả một ước muốn đối với Mật điển thì thật là đáng tiếc. Làm sao bạn có thể thực hành những thiền định phản quan vào các giai đoạn phát sinh và thành tựu của mật điển về một vị thần bảo hộ như Guhyasanmàja, Heruka hay Yamàntaka? Hãy làm một người làm những pháp thiền định phản quan về tất cả giáo lý! Đây sẽ là một sự tu tập toàn diện.
Nếu bạn đã có thể triển khai được tuệ quán gượng ép vào các đề mục cho đến Bồ đề tâm, thì bạn nên đi trở lui lại từ đầu; bây giờ bạn sẽ đạt được tuệ quán một cách không khó khăn vào mỗi một đề tài ấy. Cách làm việc xuyên qua suốt đạo lộ này cũng giống như du hành trên một con đường nhiều lần cùng một hướng. Trước hết hãy triển khai tuệ quán vào các đề mục đưa đến tâm Bồ đề bằng cách ấy, và sau đó hãy làm nỗ lực thêm ở từng giai đoạn của đạo lộ bằng các mật điển. Nếu làm như vậy bạn sẽ phát triển những thực chứng phi thường trong dòng tâm thức. Đây là lời tuyên bố được tìm thấy trong các Mật điển và những kiệt tác cũng những hành giả vĩ đại. Và cũng như bậc thánh Ensapa và môn đệ, chẳng bao lâu bạn cũng sẽ có thể thể hiện trạng thái Kim cương trì, sự hợp nhất, trong một đời ngắn ngủi vào thời đại suy đồi này.
Bây giờ chúng ta nên cầu nguyện ta sẽ hướng dẫn 6 loài chúng sinh cùng tận biên giới của hư không, đến quả vị Phật vô song, và chúng ta sẽ làm lắng dịu những thống khổ của chúng; và vì lý do đó mà ta sẽ phát triển tâm bồ đề, hành hạnh Bồ tát. Chúng ta hãy tụng bài nguyện sau cùng trong tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh. Đây không phải là pháp hành của bậc Tôn sư tôi, nhưng gần như đây là điều mà những vị giữ ngai tu viện Ganden và môn đệ họ đều đã làm. Đây cũng đủ lý do khiến chúng ta làm sống lại tập tục này. Yêu cầu quý vị hãy tụng bài ấy với tâm không phân tán.
[Khi ấy ngài hướng dẫn chúng tôi tụng bài hồi hướng rút ra từ tác phẩm Hành Bồ Tát Hạnh. Chúng tôi dâng một Mandala để tạ ơn được thụ giáo, và làm những cầu nguyện tiếp theo, những bài kệ cầu được điềm lành v.v..., điều này phù hợp với truyền thống Lam-rim, tinh túy của toàn thể nền giáo lý.ngài dã từ bi biết bao khi xua tan bóng tối khổng lồ của chúng tôi liên hệ đến 3 cõi. Lòng từ bi này vẫn còn mãi cho đến tận cùng thời gian.]
hoangtri
09-17-2020, 04:00 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
LỜI CUỐI TRANG SÁCH
CỦA TRIJANG RINPOCHE
Ôi bậc nhất trong giáo lý đức Như Lai!
Hỡi đấng Kim cương trì
Với làn kiếm từ bi, ngài đã phá hũy hiện hữu
Tâm ngài quảng đại bao la.
Ngài tuyên dương nền giáo lý
Tốt nhất trong các thiện sự của Phật.
Ngài thức tỉnh quần sanh khỏi giấc ngủ vô minh.
Như vừng trăng có những dấu ân tối hậu
Của chân không và bi mẫn,
Làm dâng nước triều hồ trong,
Ánh sáng của ngài làm cho hoa sen tâm con bừng nở;
Ôi hỡi chúa tể của tất cả bộ tộc chư Phật, hãy trở lại
Và một lần nữa hãy là viên châu báu trên đỉnh đầu con.
Hỡi đấng che chở con, chân ngôn của ngài.
Thật quý báu qua ba trăm ngàn thời kiếp,
Làm lắng dịu dục vọng của thế gian
Hay niềm bình an vị kỷ
Những kẻ may mắn xem lời Ngài
Vô cùng quý báu;
Những lời nghuệch ngoạc của con
Xin ghi lại những chỉ giáo của ngài.
Ôi hỡi vị nhập thể của toàn tri
Làm im bặt những kẻ phỉ báng,
Nơi ngài hội tụ tất cả
Những tầng bực của giáo ký đức Tsongkapa.
Bằng ánh quang minh vô tỉ
Của ngài về giáo lý và thân chứng
Ngài dẫn dắt chúng con qua cỗ xe Tối thượng
Bằng một cách thật hợp với tri thức chúng con.
Tất cả Kinh điển của đấng Mâu Ni thật tuyệt hảo,
Như châu ngọc đối với chúng con những hữu tình;
Lời chỉ giáo tối thượng này là để thực chứng.
Hãy nhìn mọi tướng đều là bậc thầy;
Nhận thức này dùng làm pháp tu
Sẽ làm hoan hỉ chư Phật;
Làm thất bại bốn loài ma
Và gióng lên hồi trống chiến thắng
Con đã đưa ra những tư tưởng sâu xa của đấng Mâu Ni không lầm lỗi.
Mong sao giáo pháp này lan rộng
Và dễ dàng hoàn tất hai mục đích.
Mong sao sẽ có nhiều người thực hành
Đạo lộ rất khó gặp này;
Mong sao họ hợp thành một biển lớn,
Hành vi họ không bị ô nhiễm,
Tâm trí họ thuần thục đi vào
Tinh túy của Con đường:
Ấy là thấy được tự tính bản lai.
Còn con đường nào khác cho hữu tình
Sáng sủa rõ ràng hơn là ý nghĩa duyên sinh,
Tính vô ngã của sinh và diệt?
Viên ngọc như ý
Cũng không sánh được với tái sinh thân người này.
Đừng ngụp lặn trong cuộc đời tầm thường;
Hãy lấy sự chứng đắc hạnh phúc tối hậu
Làm cứu cánh vĩnh viễn của ngươi.
Như thế thì ai không tiến trên đạo lộ Thượng thừa?
Những người mong muốn giải thoát
Sẽ không chịu xem một con đường có lý do là nhất.
Mà sẽ y cứ vào tinh túy sâu xa
Của một nền giáo lý toàn vẹn-
Để tất cả niềm hy vọng của họ được thỏa lòng.
hoangtri
09-18-2020, 04:03 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
Nguyện nhờ nỗ lực của tôi, kho công đức
Sẽ tràn ngập như Hằng hà. Mong nó trở thành
Một chuỗi ngọc trai lóng lánh ánh trăng
Dài vô tận để viền quanh hoàn vũ!
Duyên khởi pháp-
Một mầu nhiệm vô biên, thần thông quảng đại,
Giáo lý vô cấu của đức Như Lai,
Như một viên bảo châu trên đỉnh đầu của trời người
Một vừng trăng với những tia mát dịu.
Xin vầng trăng này hãy lên cao, tỏa ánh sáng
Trên những đóa lài diễm phúc.
Xin vầng trằng này tẩy trừ những đau đớn
Của ba cõi luân hồi.
Xin cho ánh sáng vầng trăng này lan tỏa
Trên mặt nước lăn tăn
Của biển giáo lý bất tận,
Làm hiển lộ tất cả kho tàng Pháp bảo.
Mong sao truyền thống Gelug cao quý sẽ bền lâu!
Hỡi hồ sen với những đóa hoa vàng viên mãn.
Taenzin Gyatso như chúa tể núi Tu di
Vươn lên trên tất cả những ngọn núi ở đời
Và những đỉnh bình an vị kỷ.
Toàn trí, từ bi và năng lực của tất cả chư Phật
Làm nên những cực vi của ngọn núi ngài.
Mong sao ngài ở với chúng con trăm ngàn kiếp!
Mong sao những thiện sự của ngài sáng chói
Như những hoa tai của chúa tể mặt trời, trăng.
Hỡi Lhasa quang minh, đô thị của hạnh phúc vĩnh cửu,
Một cõi Phật ở giữa miền đất nước chúng con:
Mong sao bầu trời Lhasa sẽ là một bảo cái
Với những vầng mây chở đầy công đức
Làm thỏa mãn chúng sinh với pháp vũ cam lồ
Hỡi bậc Tôn sư từ bi tối thượng,
Mong sao chúng con nương tựa ngài một cách thích đáng
Mong sao ngài luôn an trụ trong giọt tủy báu
Trên đỉnh đầu chúng con.
Mong sao chúng con sẽ được mang đi qua đạo lộ Thượng thừa
Trên đôi cánh chim thần Kim sí điểu!
Mong sao con hoàn tất những phận sự Ba la mật
Cho tất cả hữu tình đầy cả hư không;
Mong sao con đạt đến Mười lực
Dưới cội Bồ đề, và sớm thành Chánh giác
Như kim cương quang vinh.
Pabogka Dorje Chang bậc thầy của mọi hệ phái, là một hiện thân vô song, tinh túy của toàn trí, từ bi, năng lực và thiện sự của chư Phật Bồ tát trong ba đời. Do từ bi thúc đẩy, với những hành vi thiện xảo bất khả tư nghì, ngài đã chuyển hóa những kẻ chậm lụt như tôi thành những chúng sinh đủ may phước đẻ tu tập Tối thượng thừa. Đây là lòng tử tế vô tỉ của bậc thầy chúng ta, mà dainh hiệu tôi xin nêu lên: Jetsun Jampa Taenzin Trinlae Gyatso Paelzangpo. Ngài bố thí khóa giảng theo yêu cầu của Yangdzong Tsering, một phu nhân có đức tin vô song đã lập lời thỉnh cầu để hồi hướng công đức cho hai nhà quý tộc quá cố, Jigme Namgyael và Pungtsog. Khóa giảng được bố thí vào năm con chim sắt (1921) trong sân tranh luận của Am ẩn cư Chuzang tại Nyangtraen. Ngài phối hợp ba giáo lý về các giai đoạn của đạo lộ đến toàn giác; bản văn ngắn gọn Con Đường Nhanh, và hai hệ phía triển khai từ tác phẩm Lời Đức Văn Thù - một ở tỉnh trung ương và một ở miền Nam. Khóa giảng cũng bao gồm một chương về cách tu tâm gồm bảy điểm. Với lòng từ bi vô thượng ngài đã bố thí một thời giảng dạy sâu sắc theo kiểu nói chuyện thân mật.
hoangtri
09-19-2020, 07:46 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHẦN NĂM PHẠM VI LỚN _ Ngày thứ HAI MƯƠI BỐN
__________________________________________________ ______________________________________
Mặc dù tôi chỉ là kẻ sơ cơ bất tài, tôi đã có may mắn tham dự khóa giảng sâu rộng này và thưởng thức vị cam lồ trong đó. Dagyab Dongkong Ripoche từ miền Ra thượng đã ghi chú mỗi ngày, và Pabongka Dorje Chang đã duyệt lại cho đến đoạn số 4 ở phần nghi thức chuẩn bị “Cầu khẩn ruộng phước.” Ngài Pabongka Rinpoche, mà thiện sự lợi lạc hữu tình rộng lớn như hư không đã để lại tác phẩm trong tình trạng dở dang, và tôi lãnh trách nhiệm hoàn tất nó. Tôi rất sung sướng làm công việc này của bậc thầy mà đối với tôi như một người cha.
Thỉnh thoảng tôi nhận những gợi ý từ nhiều Lamas và Lamas tái sinh đã lắng nghe những chỉ giáo truyền khẩu của ngài, cũng như từ những vị geshes tinh thông có thực chứng ở khắp xứ Tây Tạng. Bởi thế tôi đã thêm nhiều chi tiết vào bản thảo các bài giảng của ngài về Lam-rim vào nhiều thời gian khác nhau. Tôi tham khảo một cách toàn triệt để đem tác phẩm này lên một tiêu chuẩn cao, v.v… Tuy nhiên, vì bị gián đoạn nhiều lần, và không có đủ thì giờ, nên công việc này, mà tôi xem là một lễ dâng hiến, đã phải mất một thời gian khá dài để hoàn tất.
Thư ký của Pabongka Rinpoche, Gelong Lzang Dorje, ghi nhớ những giáo lý truyền khẩu truyền không thua gì Anada. Ông đã duyệt tác phẩm này khi nhàn rỗi, và gợi ý nên để những tiêu đề chỗ nào, v.v… Ông đã giúp chúng tôi trong một thời gian dài và hi sinh thời giờ một cách không vị kỷ. Tôi cũng duyệt lại mỗi khi có giờ rảnh, chữa lại những chỗ không đúng với lời Thầy; và thêm một vài chỉ giáo khẩu truyền mà tôi có thể bảo đảm, vân vân.
Tôi đã khổ công trong việc biên tập sách này với hi vọng làm một người trung gian cho bậc Tôn sư từ mẫn của tôi và mong nó sẽ lợi lạc cho tất cả. Thầy tôi đã săn sóc tôi từ lúc tôi lên sáu tuổi, và dù hèn mọn tôi cũng đã được nâng lên nhờ năng lực gia trì tối thượng của Thầy, với lòng bi mẫn, tôi không đúng pháp, lười biếng, và điều tôi dạy bảo người khác thường mâu thuẩn với điều tôi làm. Tôi, Lozang Yeshe Taenzin Gyatso, còn tên gọi là Ganden Trijang Tulku, thầy giáo đạo của Đức Dalai Lama, đã hoàn tất sách này vào thứ Bảy, ngày thứ mười lăm tháng mười năm Con Chim Lửa (năm Dậu, Hành Hỏa - 1957), sao Rohinì. Đây thật là một ngày rất công đức vì đã hoàn tất được công trình.
Nguyện cầu cho nền giáo lý quý báu về những giai đoạn của con đường Giác ngộ này sẽ ở lại lâu dài với chúng ta! Mong sao giáo lý này sẽ lan rộng và truyền bá khắp mười phương mãi mãi!
Om svasti!
Omye dharma hetu Prabhavà hetun teshàn tathàgato hyavadat, teshànchayo nirodha evam vàdì mahà shramanahye svàhà!
Khởi dịch ngày mồng hai tháng ba năm Giáp Tuất tại am Tuệ Không, lúc bảy giờ sáng.
Dịch xong phần này (còn 30 trang phụ lục) vào ngày 21 tháng năm năm Giáp Tuất lúc 3 giờ 30 chiều.
Tổng cộng 79 ngày (trong đó có đi Huế hai lần 13 ngày)
hoangtri
09-20-2020, 09:00 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 3 BA NÒNG CỐT CỦA ĐẠO LỘ
__________________________________________________ ______________________________________
PHỤ LỤC 3
BA NÒNG CỐT CỦA ĐẠO LỘ
Kính lễ chư vị Tôn sư.
Tôi sẽ cố hết sức giảng giải
Ý nghĩa của tinh túy
Tất cả Kinh điển chư Phật,
Đạo lộ và các Đấng Chiến thắng
Và chư Bồ tát khen - cổng vào
Cho những người may mắn khao khát giải thoát.
Những người không màng hạnh phúc thế gian
Muốn cho đời người thuận lợi của mình có ý nghĩa,
Sẽ theo một con đường khiến chư Phật hài lòng.
Hỡi người diễm phúc! Hãy tịnh tâm lắng nghe.
Nếu không có sự từ bỏ thuần túy, thì không cách gì
Để lắng dịu nỗi khát khao đối với quả báo tốt
Trong biển luân hồi này;
Và vì tất cả hữu tình có thân
Đều khát khao hiện hữu,
Nên họ hoàn toàn bị trói buộc.
Bởi vậy ngay từ đầu, hãy tìm sự từ bỏ.
Thân người rất khó được,
Mạng sống không kéo dài;
Tâm thường nghĩ như vậy,
Để lơ chuyện đời này.
Quán sát thật sâu xa
Luật nhân quả không dối
Quán nỗi khổ luân hồi
Hết màng chuyện đời sau.
Khi quán chiếu như vậy, đến mức bạn không còn
Dù chỉ một sát na, ước ao những huy hoàng trong sinh tử,
Đến mức tư tưởng bạn ngày và đêm
Đều khát khao giải thoát,
Thế là sự từ bỏ trong bạn đã phát sinh.
Nhưng nếu không kèm với tâm Bồ đề thuần khiết
Thì ngay cả từ bỏ cũng không làm nhân
Đưa đến phúc lạc chọn lọc của Vô thượng Bồ đề.
Bởi thế người biết phân biệt
Sẽ phát tâm Bồ đề Vô thượng.
Bị cuốn phăng bởi bốn dòng thác mạnh
Bị trói buộc vì xiềng xích của nghiệp khó dừng,
Bị tóm bẫy trong lưới chấp thủ kiên cố
Bị ngộp thở trong luồng khói vô minh,
hoangtri
09-21-2020, 08:53 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 3 BA NÒNG CỐT CỦA ĐẠO LỘ
__________________________________________________ ______________________________________
PHỤ LỤC 3
BA NÒNG CỐT CỦA ĐẠO LỘ
.........
Hữu tình không ngừng sinh rồi tái sinh
Để liên tục bị hành hạ bởi ba khổ:
Đây là trạng huống của những cha mẹ ta;
Hãy quán sát tình huống này,
Để phát tâm bồ đề vô thượng.
Dù đã quen với từ bỏ và tâm bồ đề,
Song nếu không có trí tuệ
Hiểu rõ cách tồn tại của các pháp
Thì bạn cũng không nhỏ được gốc rễ của hữu khổ.
Vậy hãy nỗ lực trong các phương tiện
Để thực chứng pháp duyên sinh.
Người nào thấy rằng
Với tất cả pháp thuộc sinh tử hay niết bàn
Luật nhân quả là tất yếu,
Và đã làm chánh lại nhận thức của họ
Kẻ ấy đang đi trên đạo lộ làm chư Phật vui lòng.
Cái tướng các pháp duyên sinh
Không phải là ảo giác; nhưng có những kẻ
Lại hiểu rằng Tánh không là một cái gì
Vắng mặt tướng ấy.
Khi bạn không bao giờ hiểu được ý Như Lai.
Nhận thức rằng tánh không và duyên khởi
Đi liền nhau - rằng chúng không phải thay thế nhau,
Rằng lý duyên sinh là không lừa dối - nhận thức ấy
Sẽ phá hủy tất cả kiểu chấp thủ vào sự vật.
Như thế là bạn hoàn tất được tri kiến phân tích.
Bạn loại bỏ cực đoan chấp hữu,
Bạn loại bỏ cực đoan chấp không.
Nếu bạn hiểu tánh không xuất hiện thành nhân quả
Thì những quan điểm cực đoan không ảnh hưởng đến bạn.
Khi bạn thực sự hiểu đúng những điểm này
Về ba nòng cốt của đạo lộ,
Hay độc cư và phát triển tinh tấn lực;
Không lâu bạn sẽ đạt đến niềm hy vọng vĩnh cửu.
[Trên đây là lời khuyên của bậc tu sĩ đa văn Lozang Dragpa - tức Tsongkapa - cho Ngaang Dragpa, một quan chức ở Tsako.]
hoangtri
09-22-2020, 04:18 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
PHỤ LỤC 4
TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
Một nghi lễ chuẩn bị gồm từng đoạn ngắn gọn để tụng đọc trong lúc giảng dạy Lam-rim Con Đường Nhanh, do Lampael Lhendrub ở Dagpo soạn.
Trước bậc Thầy không khác đức Phật và đấng Kim Cang trì, con xin dập đầu kính lễ và quy y trong tất cả thì gian. Xin thầy vì lòng từ bi rộng lớn hãy che chở con.
Đây là những chỉ giáo của đức Gyelwa Ensapa về sự tụng đọc phải làm ở phần thứ sáu trước thời thiền quán Lam-rim như sau:
NGHI THỨ NHẤT: LAU NHÀ, BÀY CÁC BIỂU TƯỢNG THÂN KHẨU Ý GIÁC NGỘ.
NGHI THỨ HAI: KIẾM ĐỒ CÚNG HỢP PHÁP VÀ BÀY BIỆN ĐẸP MẮT
NGHI THỨ BA: NGỒI THEO THẾ CÓ TÁM SẮC THÁI CỦA TỲ LÔ GIÁ NA TRÊN BỒ ĐOÀN RỒI QUY Y VÀ PHÁT TÂM BỒ ĐỀ TRONG TÂM TRẠNG ĐẶC BIỆT THÀNH KHẨN.
Trước hết, quán đối tượng quy y:
Trong không gian trước mắt tôi là một bảo tòa rộng được nâng bằng tám con sư tử khổng lồ. Trên tòa ấy có một bồ đoàn làm bằng một đóa sen nhiều màu, một mandala nhật luân và nguyệt luân. Trên ấy an tọa một hình ảnh mà bản chất là bổn sư tôi dưới hình dạng đức Thích Ca. Thân ngài như vàng ròng, đỉnh đầu ngài có tướng nhục kế nhô cao. Ngài có một mặt hai tay, tay phải bắt ấn địa xúc, tay trái bắt ấn nhập định trong khi ngài cầm một bình bát đựng đầy cam lồ bất tử. Ngài khoác y vàng, được trang hoàng với đầy đủ các tướng hảo và tướng phụ; ngài cùng bản chất với ánh sáng và ngồi giữa một vùng quang minh từ thân ngài phát ra. Hai chân ngài bắt chéo theo thế ngồi kiết già hoa sen.
Xung quanh ngài là những bậc thầy của tôi và các bậc thầy trong hệ phái, những thần hộ mạng, chư Phật, Bồ tát, Nam Thần, Nữ Thần và Hộ pháp. Trước mỗi vị này là những Pháp mà họ khẩu truyền, dưới dạng những sách tờ rời có bản chất ánh sáng.
Những vẻ mặt của phước điền này chứng tỏ rất hài lòng về tôi. Về phần tôi, tôi hết lòng tin tưởng các ngài khi nhớ lại những đức tính và lòng từ bi của họ.
Từ vô thủy đến nay, con và tất cả hữu tình, đã từng là mẹ của con, đã bị trôi lăn trong sinh tử và trong một thời gian dài đã kinh qua vô lượng nỗi khổ luân hồi nói chung và những thống khổ trong ba đọa xứ nói riêng. Ngay cả giờ đây cũng thật khó mà thấu hiểu cho hết tầm mức sâu và rộng của nỗi khổ ấy. Nhưng bây giờ, con đã đạt được một điều đặc biệt khó có và rất lợi lạc, đó là thân người may mắn. Gặp được giáo lý Phật rất là khó khăn. Bây giờ con đã gặp được giáo lý ấy, nếu con không đạt thành quả Phật toàn giác - hình thức của sự giải thoát cao nhất khỏi mọi thống khổ sinh tử - con sẽ lại trải qua toàn bộ nỗi khổ sinh tử nói chung, và quan trọng ba đọa xứ là ở nơi bậc Thầy và Ba ngôi báu. Bởi thế, vì tất cả hữu tình, những bà mẹ của con về trước, con sẽ đạt thành Phật quả. Do vậy con xin quy y bậc Thầy và Ba ngôi báu.
hoangtri
09-24-2020, 08:25 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
Sau khi nghĩ như thế, hãy đọc công thức này ba lần hay càng nhiều càng tốt:
Con xin quay về nương tựa Thầy
Con xin quay về nương tựa Phật
Con xin quay về nương tựa Pháp
Con xin quay về nương tựa Tăng.
Lặp lại câu sau đây ba lần để phát tâm Bồ đề:
Cho nên đến ngày giác ngộ, con xin nương tựa
Phật, Pháp, và Hội chúng tối cao,
Với công đức có được nhờ bố thí vân vân,
Mong con thành Phật quả vì tất cả hữu tình.
Tụng bài sau đây ba hay nhiều lần, để thiền quán về bốn tâm vô lượng thấm nhuần dòng tâm của bạn.
Thật tốt biết bao nếu tất cả hữu tình trú tâm xả, thoát khỏi sơ yêu ghét. Mong sao họ đạt đến tâm trạng này. Tôi sẽ đưa họ đến tâm trạng này. Mong tôi được lực gia trì của các bậc Tôn sư và chư Thần để có năng lực làm việc ấy.
Thật tốt biết bao nếu tất cả hữu tình có hạnh phúc và nhân của hạnh phúc. Mong sao họ có được. Tôi sẽ làm cho họ có được. Mong tôi được gia trì của các bậc Tôn sư và chư Thần để có năng lực làm việc ấy.
Thật tốt biết bao nếu tất cả hữu tình thoát được khổ đau và nhân của khổ đau. Mong sao họ thoát. Mong sao họ đạt được điều này. Tôi sẽ làm cho họ đạt được này. Tôi sẽ làm cho họ đạt được điều này. Mong tôi được lực gia trì của các bận Tôn sư và chư Thần để có năng lực làm việc ấy.
Thật tốt biết bao nếu tất cả hữu tình không bao giờ rời khỏi hạnh phúc lạc tái sinh cao và giải thoát. Mong sao họ đạt được điều này. Tôi sẽ làm cho họ đạt được điều này. Mong sao tôi được lực gia trì của các bậc Tôn sư và chư Thần để có năng lực làm việc ấy.
Với những lời sau đây, hãy phát sinh tâm Bồ đề mãnh liệt:
Vì tất cả hữu tình, tất cả đều đã là mẹ tôi, tôi sẽ làm bất cứ gì để nhanh chóng, nhanh chóng đạt được Vô thượng Bồ đề. Bởi thế tôi sẽ nhập định về giáo lý dạy các giai đoạn của con đường đưa đến Giác ngộ - cánh cửa đi vào đạo lộ sâu xa của pháp Du già chư Thiên đạo sư.
Xin cho mặt đất khắp nơi
Không còn sỏi đá gai góc
Bằng phẳng như lòng bàn tay
Bản chất như ngọc lưu ly
Nhưng mà vẫn rất mềm dịu.
Mong sao những phẩm vật cúng dường của Nhân Thiên.
Có thực và do tâm biến hóa,
Những đụn mây đồ cúng vô tỉ của đức Phổ hiền
Sẽ tràn ngập khắp cả hư không.
Đọc ba lần:
Om namabhagavate, vajra sara pramardane tathgàtaya, arhate samyaksam buddhaya, tadyatha, om vajre vajre, mahà vajre mahà tejra vajre, mahà vidya vajre, mahà bodhichitta vajre, mahà bodhi mandopa samkramana vajre, sarva karma àvarana vishodhana vajre svàhà.
Làm phép các đồ cúng bằng những lời sau đây:
Do năng lực của Tam Bảo, do oai thần của chư Phật và Bồ tát gia trì, cùng với uy lực do hai thứ tích lũy của các Ngài, do năng lực của thanh tịnh bất khả tư nghì của pháp giới, tất cả hãy trở thành Chân như.
hoangtri
09-25-2020, 09:24 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
NGHI THỨ TƯ: QUÁN RUỘNG PHƯỚC
Trong hai truyền thống, chúng ta ta sẽ theo truyền thống Cúng dường đạo sư vì dễ tụng.
Phép quán phước điền:
Trong không gian, đạo lộ mà chư Thần sử dụng,
Được thấy như là phối hợp của phúc lạc và Tánh Không
Giữa những đồ cúng đường của Phổ Hiền
Như những lớp mây trùng trùng điệp điệp,
Có cây ước trang hoằng giữa lá hoa và trái.
Trên đỉnh cây có một bảo tòa rực rỡ năm màu
Trên bảo tòa một đóa sen to lớn
Với những vầng nhật nguyệt
Trên đó an vị Thầy gốc của tôi
Người đã ba lần tử tế với tôi.
Ngài tự bản chất vốn là tất cả chư Phật;
Nhưng mang dáng vẻ một thầy tu áo vàng
Với một gương mặt, hai bàn tay và nụ cười tỏa rạng.
Bàn tay phải của Thầy bắt ấn thuyết pháp;
Tay trái bắt ấn nhập định
Trong khi cầm một bình bát đựng đầy cam lồ.
Ngài mặc ba thứ pháp y màu vàng chói.
Đầu đội mũ học giả hiền trí màu vàng.
Nơi tim ngài là Thích Ca Mâu Ni và Kim Cương Trì
Dưới dạng một mặt hai tay đang cầm chuông và Kim cương chùy
Ngài cùng ngồi với Dhatvoshvarì
Họ thường thưởng thức vừa Đại lạc vừa Không tánh
Mang đồ trăng sức quý báu và thiên y lụa là.
Thầy tôi có những tướng quý và tướng phụ
Tỏa ra hàng ngàn tia sáng
Một áng cầu vồng ngũ sắc bao phủ ngài
Ngài ngồi thế hoa sen; năm uẩn thuần tịnh của ngài
Là năm vị Phật thiền;
Tứ đại của ngài là bốn bà vợ;
Giác quan, mạch máu, bắp thịt và khớp xương ngài
Thực sự là những Bồ tát;
Những lỗ chân lông nơi ngài
Là hăm mốt ngàn La hán;
Chân tay ngài - chư Thần phẫn nộ.
Những tia sáng từ thân thể ngài là Thần bảo hộ các phương.
Đế thích, Phạm thiên và chư Thiên khác
Đều lạy dài dưới chân Ngài.
Xung quanh Ngài an tọa:
Những bậc Thầy của tôi, rất nhiều vị Thần hộ mạng,
Mandala của họ, chư Thiên tùy tùng thị giả,
Chư Phật và Bồ tát.
Năm Thần Dakas và những Thần Hộ pháp.
Cả ba cửa thân khẩu ý các ngài đều có dấu ấn Kim cương.
Những tia sáng hình lưỡi câu tỏa ra những chữ HUM
Đem lại những thực thể trí tuệ từ chỗ tự nhiên
Bổng tan hòa vào nhau không thể phân biệt, và đọng lại.
hoangtri
09-27-2020, 09:13 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
[Triệu thỉnh]
Hỡi chư vị che chở mọi hữu tình,
Hàng phục Ma vương và quyến thuộc ma,
Người biết mọi sự và tùy tùng các ngài
Xin hãy đến đây. Ja hùm bam hoh:
Các ngài trở nên bất khả phân với những Bồ tát.
[Quán nhà tắm hiện ra:]
Đây là nhà tắm thơm tho
Nền bằng thủy tinh trong sáng
Cột nhà sáng đẹp tuyệt trần
Làm bằng đủ thứ châu ngọc
Trang trí với tàn lọng ngọc trai
[Lễ tắm rửa thân Phật:]
Ngay sau khi Phật ra đời
Chư thiên tắm rửa thân ngài;
Nay con cũng dùng nước chư thiên
Để tắm rửa thân các đấng Thiện
Om sarva tahtàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
Thân ngài sinh từ mười triệu đức hạnh thù thắng
Lời ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng hữu tình.
Ý ngài thấy mọi pháp khả tri đúng như thật:
Con xin tắm rửa thân ấy của đức Thích Ca - Kim cương trì.
Om sarva tahtàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
Con tắm rửa những thân thể của hệ phái Hành Động Quảng Đại
Con tắm rửa thân thể của Hệ phái Tri Kiến Sâu Xa
Con tắm rửa thân thể của của Hệ Phái Hành Động Dâng hiến
Con tắm rửa thân thể những bậc thầy trong hệ phái con theo.
Om sarva tahtàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
Con tắm rửa thân chư Phật, những bậc đạo sư của chúng con,
Con tắm rửa thân của Thánh pháp, đấng che chở cho chúng con,
Con tắm rửa thân của Tăng, những vị cứu tinh của chúng con.
Om sarva tahtàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
[Lau khô thân Phật:]
Con lau những thân thể của ngài với những thứ vải vô song
Sạch sẽ và thấm nhuần hương chọn lọc.
Om sarva tahtàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
[Xức dầu thơm:]
Con xức dầu thân thể sáng chói của Mâu ni
- Sáng chói như vàng ròng khéo luyện -
Với những thứ hảo hạng
Mà hàng tỷ thế giới có được để hiến dâng.
[Dâng y]
Do lòng tin kiên cố của con,
Con xin dâng thiên y - mềm, nhẹ,
Mong - cho ngài, người đã thành tựu
Thân kim cương bất hoại
Xin cho con cũng được thân kim cương
[Dâng đồ trang sức]
Tất cả chư Phật tự nhiên đã được trang sức
Bằng những tướng quý và vẻ đẹp,
Các ngài không cần đồ trang sức khác,
Nhưng con vẫn dâng lên ngọc ngà đẹp nhất
Để tất cả hữu tình sẽ có được
Cái thân đủ tướng quý của ngài
[Thỉnh chư Phật về chỗ an tọa]
Vì chư Phật thương xót
Nên con xin ngài hãy lưu lại
Bằng thần lực của ngài
Bao lâu con dâng đồ cúng.
hoangtri
09-28-2020, 04:23 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
NGHI THỨ NĂM: DÂNG LỜI CẦU NGUYỆN BẢY PHẦN VÀ MỘT MANDALA VŨ TRỤ:
CON ĐƯỜNG CHỨA MỌI ĐIỂM THEN CHỐT ĐỂ TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC VÀ TỊNH HÓA BẢN THÂN
Thân ngài sinh từ mười triệu thiện đức thù thắng
Lời ngài làm thỏa mãn niềm hi vọng của vô lượng hữu tình,
Ý ngài thấy đúng như thật mọi cái khả tri:
Con kính lễ bậc chúa tể dòng họ Sakya
Lòng bi mẫn bao la của đấng Kim Cương Trì,
Nhận thức tối thượng của Tilopa và Nàropa,
Ánh sáng chói lọi của Dombhìpa và Atìsha:
Con kính lễ Hệ phái của Hành Động Dâng Hiến.
Di Lặc, Vô Trước, Thế Thân, Vimuktisena,
Paranasena, Vinìtasena, Pháp Xứng,
Haribhadra, hai vị Kusalis và Suvarnadvìpi:
Con kính lễ Hệ phái Hành Động Quảng Đại.
Văn Thù, vị Bồ tát phá hủy hữu và phi hữu,
Long Thụ, Nguyệt Xứng và Vidyakokila
Cũng những pháp tử của Long Thụ những người theo đúng nghĩa Phật dạy:
Con kính lễ Hệ phái Tri Kiến Sâu Xa.
Atìsha, người nắm giữ chỉ giáo tối thượng về lý và về hạnh,
Dromtoenpa, cha đẻ của giáo lý phái Kadampa
Bốn hành giả khổ hạnh, ba anh em và những vị khác:
Con kính lễ những bậc thầy Kadampas.
Tsongkapa, phục hưng truyền thống tiên phong trên xứ Tuyết,
Gyaeltsab Je, nhà luận lý học lớn, thần thông quảng đại,
Kaedrub Je, chúa tể của Kinh giáo và Mật giáo:
Kính lễ Hệ phái của Cha và Con.
Đấng Kim Cương Trì, nhập thể của Ba chỗ quy y,
Mang hình hài những bậc thầy hướng đạo
Để điều phục các hàng đệ tử,
Người ban cho những thành tựu thế gian và xuất thế:
Con kính lễ những bậc thầy từ bi.
Ôi hỡi những con mắt giúp con thấy suốt Kinh điển rộng lớn,
Những cánh cửa tối thượng đưa người may mắn đến giải thoát,
Những người dùng phương tiện khéo thương yêu che chở con:
Con kính lễ những vị hướng đạo tâm linh.
Thần Guhyasamàja, thần Heruka đầy phúc lạc,
Thần Yamàntaka quang vinh và những vị khác,
Đấng che chở bốn Bánh xe của vô số mật điển:
Con kính lễ chư Thần bảo hộ.
Biển công đức nhiệm mầu do nguyện lực cao sâu
Hành vi không bao giờ có ai sánh kịp,
Thực hiện trong một thời kiếp may mắn:
Con kính lễ ngàn đức Phật Hiền kiếp.
Sunàman, Ratna, Suvarnabhadra, Thích Ca Mâu Ni,
Những vị hoàn tất tinh túy của những lời nguyện lớn nhất:
Con kính lễ tám đấng Thiện thệ.
Trí Bát nhã, bà Mẹ của chư Phật,
Đã phá hủy những hạt giống của tất cả phiền não đen tối
Đã tẩy trừ tận gốc những khổ đau:
Con kính lễ Phật của ba thừa.
Văn Thù, Kim Cương Thủ, Quán Thế Âm,
Địa Tạng, Sarvanivaranavishkambhi,
Hư Không Tạng, Di Lặc, Phổ Hiền:
Con kính lễ tám vị Pháp Vương Tử Bồ tát.
Những vị dã thiền quán về mười hai nhân duyên,
Đã thân chứng trí tuệ của bậc độc giác
Và trong độc cư đã thuộc lòng lý duyên khởi:
Con kính lễ các bậc thánh Độc giác.
Những vị nghe âm thanh thuyết pháp của đấng Mâu Ni
Đã dương cao ngọn cờ chánh pháp,
Angaja, Ajita, Vanavasin,
Kàlika, Vajrìbhadra
Kanakvatsa, Kanakabhadradvàja,
Thánh Bạc Câu La, La Hầu La,
Chu Lợi Bàn Đà Dà, Tân Đầu Lô Phả La Đọa,
(Chùdapanthaka, Pinđolabhravàja)
Bàn Đà Dà, Nàgasena, Gopaka và Abheda:
Kính lễ các bậc Trưởng lão và quyến thuộc Thanh văn.
Những vị đang nhìn xuống từ đất thiêng Kechari,
Những vị có thiên nhãn và thường làm các thần thông,
Săn sóc cho những hành giả như mẹ săn sóc con một:
Con kính lễ ba bộ loại nữ thần dakinis.
Từ quá khứ xa xăm, khi đức Thế tôn còn ở đời,
Các ngài đã theo hộ vệ, và
Như bà mẹ đối với con yêu,
Các ngài mỉm cười hoan hỉ về những người hành trì đúng pháp:
Con kính lễ chư thần Hộ pháp và bảo vệ.
Dhrtaràshtra, Virùdhaka,
Virùpàksha và Vaishhravana,
Các ngài thống lĩnh quyến thuộc và giữ bốn cổng:
Con kính lễ Bốn vị đại thiên vương.
Với tất cả những bậc đáng đảnh lễ,
Con lạy dài trong niềm tin tuyệt đối,
Với bao nhiêu thân thể
Nhiều như số cát bụi trong thế gian.
Kính lễ đấng thánh Manjushrì trẻ tuổi.
Kính lễ tất cả đức Như Lai trong ba thời gian - những đấng Sư tử trong nhân loại
Được tìm thấy trong mười phương thế giới:
Với thân lời ý thanh tịnh,
Con kính lễ từng vị một trong các ngài.
Với lời nguyện mãnh liệt những hành vi cao cả
Con lạy dài trước tất cả chư Phật:
Con quán tưởng con có nhiều thân
Như vi trần trong thế giới.
Trên mỗi vi trần có vô số Phật
Nhiều bằng số vi trần của vũ trụ; và chư Phật ấy ngồi giữa chúng hội Bồ tát.
Cũng thế con tin tưởng
Tất cả chư Phật ở đầy khắp hư không pháp giới.
Con ca tụng diệu đức của tất cả chư Như Lai
Dùng một biển vô tận những lời tán dương,
Với một biển lớn âm thanh tuyệt diệu
Để xưng tán tất cả các đấng Thiện thệ.
Con kính dâng lên chư Như Lai
Những hoa thơm và tràng hoa chọn lọc,
Những tiếng nhạc của xập xõa đánh vào nhau,
Nước thơm hảo hạng và lọng báu,
Đèn dầu và hương chiên đàn.
Con dâng lên chư Như Lai
Những y phục lụa là, hương quý nhất,
Những núi hương bột cao bằng Tu di sơn
Và một trưng bày tuyệt diệu toàn những thứ vô tỉ.
Tất cả đồ cúng nhiều và vô song ấy
Con quán tưởng để dâng cúng chư Như Lai.
Trước tất cả chư Như Lai con dập đầu kính lễ
Để cúng dường bằng năng lực
Của niềm tin nơi con vào các hành vi cao cả
hoangtri
09-29-2020, 04:33 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
Dâng mandala đọc:
Om vjjra bhùmi àh hùm: bình báu vàng. Om vajra rekhe àh hum: một dãy núi sắt quanh nó. Ở giữa là Tu di sơn, vua các ngọn núi. Phương đông là lục địa Thắng thần châu. Phương nam là Diêm phù đề. Phương tây là Ngưu hóa châu. Phương bắc là xứ Kuru (Bắc Cu lô châu). Rồi ở phương đông, các tiểu lục địa Deha và Videha; nam, Chàmara và Aparachàmara; tây Shàthà và Uttaramantrina; bắc, Kuru và Kaurava. Những núi châu báu, cây ước, bò ước, mùa màng không cần cầy cấy. Bánh xe báu, ngọc báu, nữ báu, quan báu, voi báu, ngựa báu, đại tướng báu. Bình báu lớn chứa châu ngọc. Những nữ thần của sắc đẹp, tràng hoa, nhạc, vũ, hương trầm, ánh sáng, hương hoa, Nhật nguyệt; lọng báu, tràng phan của chiến thắng tuyệt đối. Ở trung ương là tất cả tài sản mỹ lệ của chư thiên và nhân loại. Tất cả các thứ này con xin dâng hiến vị bổn sư đầy từ mẫn của con trong hệ phái, cùng vị Lama vĩ đại Lozang Tubwang Dorie Chang, chư thiên và quyến thuộc. Vì tất cả hữu tình, xin ngài từ bi nạp thọ những thứ này. Xin nhận lấy, và gia hộ cho con.
Con dâng bình này, xức đầy hương,
Rắc đầy hoa, trang hoàng bằng núi Tu di,
Các châu lục, trời, trăng -
Tất cả được quán thành cõi Phật.
Mong cho tất cả hữu tình thưởng thức đất tịnh này.
Con hiến dâng thân lời ý của con cùng tất cả hữu tình,
Những lạc thú của chúng con, những công đức cả ba thời;
Con dâng cúng trong tâm một mandala quý báu,
Và khối lượng đồ cúng của đức Phổ hiền,
Dâng hết cho các bậc tôn sư, chư thần và Ba ngôi báu.
Xin vì lòng đại bi mà nhận lấy, và gia hộ cho con.
Idam guru ratna mandalakam niryàtayàmi.
Bạn cũng có thể đọc bài Kinh Sám Hối những tội Phạm giới nếu muốn làm lễ chi tiết hơn.
Thần chú để tăng công đức:
Om sambhara samhbhara vimanasra mahà vajra hùm. Om smarasmara vimaanaskara mahà vajra hùm,
hoangtri
09-30-2020, 04:44 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
KINH SÁM HỐI NHỮNG TỘI PHẠM GIỚI
(HỒNG DANH BỬU SÁM)
Kính lễ đấng đạo Đạo sư, Thế tôn, Như Lai, Chánh đẳng giác, Đấng chiến thắng quanh vinh - Thích Ca Mâu Ni.
Kính lễ đức Như Lai chiến thắng bằng Tinh túy Kim cang (Vajramandapramardin - Kim Cang Bất Hoại Phật).
Kính lễ đức Như Lai Phát ra Tia sáng Quý báu (Rarmarchi - Bảo Quang Phật).
Kính lễ đức Như Lai Vua của loài rồng mạnh (Geyaràja - Long Tôn Vương Phật).
Kính lễ đức Như Lai Bộ lạc những Anh hùng ( Vorasena - Tinh Tấn Quân Phật).
Kính lễ đức Như Lai của Niềm hỉ lạc quang vinh (Voranandin - Tinh Tấn Hỉ Phật).
Kính lễ đức Như Lai Ngọn lửa Quý báu (Ratnàgni - Bảo Hỏa Phật).
Kính lễ đức Như Lai Ánh trăng quý báu (Ratnachandraprabha - Bảo Nguyệt Quang Phật).
Kính lễ đức Như Lai Rất ý nghĩa để chiêm ngưỡng (Amoghadarshin - Kiến Vô Ngu Phật?).
Kính lễ đức Như Lai như Mặt Trăng báu (Ratnachandra - Bảo Nguyệt Phật) .
Kính lễ đức Như Lai Không cấu uế (Vimala - Vô Cấu Phật).
Kính lễ đức Như Lai Bố thí chói sáng (Shrì datta - Dõng Thí Phật).
Kính lễ đức Như Lai Thanh Tịnh (Brahmà - Thanh Tịnh Phật).
Kính lễ đức Như Lai Ban bố sự thanh tịnh (Brahmàdatta - Thanh Tịnh Thí Phật).
Kính lễ đức Như Lai Chúa tể của Nước ( Varuna - Thủy Thiên Phật).
Kính lễ đức Như Lai Cao quý Sáng chói (Shrìbhadra - Kiên Đức Phật).
Kính lễ đức Như Lai Như Chiên đàn Sáng chói ( Chandanashrì - Chiên Đàn Công Đức Phật).
Kính lễ đức Như Lai Ánh Sáng Vô Lượng (Anantejas - Vô Lượng Cúc Quang Phật).
Kính lễ đức Như Lai Ánh sáng Quang vinh (Prabhasashrì - Quang Đức Phật).
Kính lễ đức Như Lai Không Sầu (Ashokashrì - Vô Ưu Đức Phật).
Kính lễ đức Như Lai Người không chấp thủ (Nàràyana - Na La Diên Phật).
Kính lễ đức Như Lai Như hoa Sáng chói (Kusumashrì - Công Đức Hoa Phật).
Kính lễ đức Như Lai Có thần thông hiển bày Ánh sáng thanh tịnh (Brahmajyotirvikrodhitàbhijna)
Kính lễ đức Như Lai có Thần thông hiển bày Ánh sáng như Hoa sen (Padmajyotirvikrodhitàbhijna - Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật).
Kính lễ đức Như Lai Tài sản quang vinh (Danashrì - Tài Quang Phật).
Kính lễ đức Như Lai Có niệm quang vinh (Smrtishrì - Đức Niệm Phật).
Kính lễ đức Như Lai Nổi tiếng về sự thanh tịnh sáng chói (Brahmàshrìsuparikìrti - Thiện Danh Xưng Công Đức Phật).
Kính lễ đức Như Lai Vua Cờ chiến thắng Bay trên cả Đế thích (Indraketudhvajaràja - Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật).
Kính lễ đức Như Lai Quang Vinh của sự Điều phục toàn vẹn nhất (Suvikràntashrì - Thiện Du Bộ Phật).
Kính lễ đức Như Lai Quang vinh vì đã đạt đến hoàn toàn tự chủ (Vikràntagàmishrì - Thiện Du Bộ Công Đức Phật).
Kính lễ đức Như Lai Khắp nơi đều có ánh sáng quang vinh (Samantàvabhàsavyuhashrì)
Kính lễ đức Như Lai Hoàn toàn điều phục bằng hoa sen báu (Ratnapadmavikràmin - Bảo Hoa Du Bộ Phật).
Kính lễ đức Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng giác, bậc quý báu ngồi trên Hoa sen, Vua của các ngọn núi (Shailendraràja - Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật).
hoangtri
10-02-2020, 05:25 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
Chư Phật này và tất cả đức Như Lai Ứng Cúng Chánh đẳng giác khắp mười phương thế giới - tất cả đức Thế tôn còn tại thế, xin chú ý nghe con đây:
Trong đời tái sinh này, và tất cả tình trạng tái sinh của con từ vô thỉ kiếp này trong vòng luân hồi sinh tử, con đã vi phạm nhiều hành vi tội lỗi, hoặc khuyến khích kẻ khác làm, hoặc vui thích về việc ác. Con đã ăn trộm những đồ cúng dâng cho tháp, cho tăng chúng, cho tăng chúng ở mười phương; con đã xúi giục kẻ khác làm và tán đồng những hành vi ấy. Con đã phạm tội nghịch, xúi kẻ khác phạm, tán đồng kể khác trong những tội ấy. Con đã phạm đầy đủ mười điều bất thiện, xúi kẻ khác phạm, tán đồng kẻ khác. Vì bị che mờ bởi đủ thứ nghiệp chướng, con đã làm dân địa ngục, con đã sinh vào loài súc sinh, vào loài quỷ đói, sinh vào những chốn xa xôi hẻo lánh, làm kẻ mọi rợ, làm trời trường thọ, làm người không đủ các giác quan, làm người tà kiến và làm những kẻ không biết vui mừng về sự xuất hiện của đức Như Lai. Dù bất cứ nghiệp chướng nào, con cũng xin phát lồ tất cả, nhận tất cả, trải bày tất cả, mở ra tất cả trước chư Phật Thế tôn, những đấng có trí tuệ căn bản và con mắt đại bi, có năng lực, có nhận thức đúng như thật và thấy tất cả toàn trí. Con nguyện chừa bỏ tất cả những hành vi ấy trong tương lai.
Xin chư Phật Thế tôn chú ý nghe con đây:
Con có thể có những công đức do bố thí trong đời này và các đời khác trong vòng luân hồi sinh tử từ vô thỉ - ngay cả công đức cho súc sinh một miếng nhỏ thức ăn. Con có thể có chút ít công đức do giữ giới; do tu phạm hạnh; con có thể có chút thiện căn do dạy dỗ hữu tình; do phát tâm bồ đề vô thượng; do tu tập trí giác vô thượng. Tất cả những thiện căn mà con có thể có ấy, con xin tập hợp chúng lại, gom góp chúng lại, để hồi hướng về quả vị Bồ đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Cũng như chư Phật Thế tôn trong quá khứ đã hồi hướng công đức của các ngài, và chư Phật Thế tôn trong đời vị lai sẽ hồi hướng công đức các ngài, con cũng xin hồi hướng công đức của con như thế. Con xin phát lồ sám hối mọi tội lỗi. Con xin tùy hỉ tất cả công đức. Con cầu khẩn với chư Phật cho con đạt được trí giác vô thượng. Con chắp tay cầu xin tất cả chư Phật hiện còn tại thế, đấng tối thượng trong nhân loại, xin tất cả đấng Chiến thắng trong quá khứ và vị lai; xin các ngài hãy che chở con.
(Ghi cuối sách: ngang đây chấm dứt bản Kinh Đại thừa nhan đề Ba Tịnh Tu.)
hoangtri
10-03-2020, 04:02 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
LỜI SÁM TỔNG QUÁT
Tất cả chư Phật thường ở trong mười phương như Bậc đạo sư Kim Cương Trì, chư Bồ tát và Thánh chúng! Xin hãy lắng nghe con đây. Con tên là……………. trong tất cả đời quá khứ từ vô thỉ luân hồi đến nay, vì bị mãnh lực của vọng tưởng tham sân si, con đã tạo mười bất thiện bằng thân, lời, ý; đã phạm năm tội nghịch; năm tội lỗi phụ; con đã phá giới Biệt giải thoát, đã phá giới Bồ tát, giới Mật tông. Con đã bất kính với cha mẹ con, với thầy Bổn sư và Thầy truyền giáo và những người đồng phạm hạnh. Con đã làm những hành vi có hại cho Tam Bảo; con đã từ bỏ nền diệu pháp; con đã phỉ báng Thánh chúng Tăng già; con đã làm hại hữu tình… Con đã làm một loạt điều bất thiện, xúi kẻ khác làm và tán đồng họ. Nói tóm lại, có bao nhiêu tội lỗi trầm trọng mà con đã làm, bao nhiêu nguyên nhân sẽ ngăn con giải thoát hay tái sinh lên thượng giới và sẽ khiến con tái sinh vào vòng sinh tử hay các đọa xứ, tất cả đấy con xin phát lồ, nhận tội, không dám che giấu. Con xin trải bày trước tất cả chư Phật mười phương, như bậc đạo sư Kim Cương Trì và chư Bồ tát. Con xin chừa tái phạm trong tương lai. Vì con đã phát lồ sám hối, xin cho đạt đến an lạc và trụ trong đó, điều này sẽ không xảy đến nếu con chưa sám hối.
(Nếu chỉ muốn làm lễ ngắn gọn thì hãy đọc:)
Do năng lực của tham sân và si
Con đã phạm nhiều tội lỗi
Với thân lời và ý
Con xin sám hối tất cả tội lỗi này.
Con xin tùy hỉ tất cả công đức
Của chư Phật mười phương,
Của Bồ tát, Duyên giác
Của Thanh văn và hữu học, vô học
Và của tất cả hữu tình.
Hỡi những ngọn đèn của thời gian trong mười phương
Những vị đã đạt đến sự không chấp thủ
Và ngang hàng với những bậc Giác ngộ,
Con khẩn cầu các ngài hãy chuyển bánh xe pháp.
Đối với những vị Phật nào mà dưới con mắt phàm,
Đang có ý muốn nhập Niết bàn,
Con xin chắp hai tay mà khẩn cầu:
Các ngài hãy ở lại trong đời nhiều kiếp số như cát bụi
Để giúp đỡ hữu tình và đưa chúng đến an lạc.
Chút ít công đức con có được
Do kính lễ, cúng dường, sám hối,
Tùy hỉ, thỉnh chuyển pháp luân, cầu Phật trụ thế,
Con xin hồi hướng tất cả để đạt Vô thượng Bồ đề.
(Ở điểm này hãy dâng một Mandala. Rồi cầu xin ba mục tiêu lớn:)
Con xin quy y bậc Thầy và ba ngôi báu. Xin hãy gia trì cho dòng tâm thức con. Xin gia hộ để con và tất cả hữu tình, những người đã từng là mẹ của con, sẽ chấm dứt các tà kiến - từ sự bất kính đối với bậc Thầy cho đến hai thứ chấp ngã. Xin gia hộ cho con dễ dàng phát sinh mọi tư duy chân chánh - từ sự kính trọng bậc Thầy vân vân. Xin gia hộ cho chúng con và tịnh hóa tất cả nội chướng ngoại chướng nơi chúng con.
hoangtri
10-04-2020, 04:24 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
NGHI THỨ SÁU:
KHẨN CẦU THÊM, SAU CHỈ GIÁO TRUYỀN KHẨU,
ĐỂ BẢO ĐẢM DÒNG TÂM THỨC ĐÃ THẤM NHUẦN PHÉP QUÁN
Hỡi Bổn sư tôn quý của con, xin hãy an vị
Trên tòa sen và nguyệt luân trên đỉnh đầu con.
Xin thương xót con vì lòng bi mẫn.
Cho con những thành tựu về thân lời ý.
Đấng đạo sư, Thế tôn của chúng con -
Bậc cứu thế vô song.
Di Lặc đấng vô địch - vị nhiếp chính của Đấng Chiến Thắng,
Thánh Asanga mà Phật đã tiên đoán sự ra đời:
Con dâng lời cầu khẩn đến ba đức Phật và Bồ tát.
Vasubandhu - viên ngọc tối tôn trong các triết gia Ấn Độ
Thánh Vimuktisena - người sáng lập Trung đạo,
Vimuktisenagomin - người vẫn còn được tin tưởng:
Con dâng lời khấn nguyện lên ba người bạn của hữu tình.
Paranasena - người thành tựu trạng thái siêu phàm,
Vinìtasena - người luyện tâm trong những đạo lộ sâu thẳm.
Vairochana - với hành động đầy quyền năng:
Con khẩn cầu ba vị đã mở con mắt thế gian.
Haribhadra - người hoằng dương con đường Bát nhã
Kusali - người nắm giữ tất cả giáo lý Phật,
Ratnasena - người thương yêu săn sóc hữu tình:
Con khẩn cầu ba vị thuyền trưởng của chúng sinh
Suvarnadvìpi - người có tâm Bồ đề kiên cố,
Dipamkàra Atìsha - nắm giữ truyền thống những bậc tiên phong
Dromtoenpa - người làm sáng tỏ thánh đạo:
Con khẩn cầu ba cột sống của nền giáo lý.
Thích Ca Mâu Ni - Bậc giảng dạy vô tỉ, vô thượng cứu tinh,
Đức Văn Thù - người nắm giữ tất cả trí tuệ chư Phật
Đức Long Thọ - bậc Thánh cao cả thấy được ý nghĩa sâu xa:
Con khẩn cầu ba châu báu tuyệt đỉnh trong các triết gia.
Chandrakìrti - người làm sáng tỏ thánh ý,
Vidyakokila - giỏi nhất trong hàng đệ tử của Chandrakìti,
Và em ngài - một Pháp vương tử chân chính
Con khẩn cầu ba nguồn tri thức dồi dào.
Atìsha - người nhận chân được chiều sâu Duyên khởi
Và nắm giữ con đường của những bực tiên phong
Và Dromtoenpa - người làm sáng tỏ thánh đạo:
Con khẩn cầu hai châu báu của đất Diêm phù
Gampopa - bậc hành giả hùng vĩ nhiều năng lực,
Neuzupa - nhất tâm tịnh chỉ sâu xa,
Tagmapa - người hộ trì tất cả ngành luật tạng:
Con khẩn cầu ba ngọn đèn soi sáng những chốn xa xôi.
Namkha Senge - hành giả tinh tấn vĩ đại
Namkha Gaelpo - người được chư thánh hộ trì
Namkha Zangpo - người từ bỏ tám bận tâm thế tục:
Con khẩn cầu đức Gyaelsae Zangpo.
Người với bồ đề tâm xem tất cả chúng sinh như con ruột,
Người được gia hộ và săn sóc bởi trời của những vị trời,
Hướng đạo sư tối thượng cho hữu tình vào thời mạt pháp:
Con khẩn cầu Namkha Gyaeltsaen.
Geshe Potowa - vị nhiếp chính của Đấng Chiến thắng,
Sharawa - người có trí tuệ không ai sánh bằng,
Chaekawa người nắm giữ hệ phái Bồ đề tâm:
Con khẩn cầu ba vị đáp ứng hi vọng của hữu tình.
Chilbupa - vị Bồ tát ngự trị những truyền thừa và tuệ giác,
Lhalung Wangchug - học giả vĩ đại và uyên bác về kinh
Goenpo Rinpoche - người che chở chúng sinh trong ba cõi:
Con khẩn cầu ba vị trưởng lão vô song.
Zangchenpa - người có giới hạnh vô cấu
Tsonawa - người duy trì trăm ngàn chương luật tạng,
Moendrapa - người hoàn tất những luận siêu hình lớn lao.
hoangtri
10-04-2020, 04:27 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
Con khẩn cầu ba đại cứu tinh của hữu tình.
Chúa tể của các Pháp rộng và sâu,
Đấng che chở tất cả hữu tình may mắn,
Mà công việc cao quý là hoằng truyền chánh giáo:
Con khẩn cầu một bậc tôn sư quang vinh.
Tsultrimbar - hoàng tử vĩ đại trong những học giả,
Zhoenus Oe - người đào luyện hướng đạo tâm linh của mình.
Gyergompa - người luyện tâm trên đạo lộ thượng thừa:
Con khẩn cầu ba Pháp tử của Đấng Chiến thắng.
Sangyaeboen - kho tàng những đức tính vi diệu,
Namkha Gyaelpo - được chư thánh hộ trì,
Senge Zangpo - người từ bỏ tám bận tâm thế tục:
Con khẩn cầu Gaelsae Zangpo.
Người với bồ đề tâm xem tất cả chúng sinh như con ruột,
Người được gia hộ và săn sóc bởi trời của những vị trời
Hướng đạo sư tối thượng cho hữu tình vào thời mạt pháp:
Con khẩn cầu Namkha Gyaeltsaen.
Đức Quán Tự Tại - kho tàng lớn của từ bi thấy đúng
Đức Văn Thù - đấng toàn tri vô cấu,
Đức Tsongkapa - bảo châu tối cao của những học giả xứ Tuyết:
Con khẩn cầu đức Lozang Gragpa.
Jampal Gyatso - vị hoàng tử vĩ đại trong những học giả
Kaedrub Rinpoche - mặt trời của những triết gia
Basoje - người giữ kho chỉ giáo bí mật:
Con khẩn cầu ba bậc đạo sư vô tỉ.
Choekyi Dorje - người đã đạt sự hợp nhất,
Gyaelwa Ensapa - người thành tựu ba thân,
Sangyae Yeshe - người gìn giữ sự truyền thừa và tuệ giác
Con khẩn cầu ba vị học giả uyên thâm.
Lozang Choekyi Gyaeltsean - người cầm cờ Pháp chiến thắng,
Koenchog Gyaeltsaen - đệ tử thân cận của ngài,
Lozang Yeshe - người rọi ánh sáng trên thánh đạo:
Ngagwang Jampa - người hoằng truyền giáo lý đức Thích Ca
Lozang Nyaendrag - được xem là đệ tử thân cận nhất của ngài,
Yoentaen Ta-yae - người có vô biên thiện đức:
Con khẩn cầu ba bậc thầy từ bi.
Taenpa Rabgyae - Người hoằng dương giáo lý của Lozang Yeshe,
Lodroe Zangpo - người làm việc để giải thoát tất cả hữu tình,
Lozang Gyatso - người giảng dạy thiện xảo
Con khẩn cầu ba bậc thầy vô song.
Với đức bổn sư tối thượng đầy từ bi của con (Jimpa Gyatso);
Đấng vô tỉ, người nắm giữ vừa giáo lý vừa thực hành,
Gìn giữ sự truyền thừa và tuệ giác
Cho bốn hạng người may mắn có khả năng đón nhận:
Con khẩn cầu với sự thành kính tột bực của thân lời ý.
Bậc đa văn học nhiều, người mở rộng
Mandala của chỉ giáo khẩu truyền
Và mở bày những hành trì ẩn mật của hai giai đoạn:
Con khẩn cầu ngài Taenzin Kaedrub.
Vị thầy tu nhập thể tử tế nhất, mà thân thể
Chứa đựng tất cả chỗ nương tựa quá hiện vị lai;
Lời ngài có sự hùng biện của Đức Văn Thù;
Tâm ngài như đại dương trí tuệ tự nhiên
Về ba môn học tăng thượng và về nhân quả:
Con khẩn cầu ngài Lozang Lhuendrub Gyatso.
{Bậc thầy tôn quý của con, thiện xảo về mọi ngành,
Tâm ngài phụng sự những bảo châu của bậc thánh
- Đầy đức từ bi -
Ngài mặc những tấm y thuộc bốn thiện sự rộng rãi.
Con khẩn cầu Jampa Taenzin Trinlae
Lozang Yeshe Tanzin Gyatso,
Nhập thể của trí tuệ căn bản
Của tất cả chư Phật;
Hỡi bậc tiên phong trong nền giáo lý vô cấu,
Hỡi đấng Che chở, Người phóng ra
Một số lượng lớn mandalas.
Con khẩn cầu bậc tớn đầy từ bi.
Ngài là con mắt thấy tường tận tất cả nền giáo lý
Ngài là cổng lớn đưa người may mắn đến giải thoát,
Ngài được điều động bởi từ bi, dùng phương tiện khéo:
Con khẩn cầu chư vị đạo sư, những người cho ánh sáng.
hoangtri
10-06-2020, 10:28 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
Sau khi thiết tha khẩn cầu như trên, hãy đọc
{rút từ Căn Bản Mọi Thiện Đức của Tsongkapa}:
Hỡi bậc thầy từ bi, căn bản của tất cả điều lành,
Phụng sự bậc thầy là căn bản của đạo lộ,
Xin thầy gia hộ cho con thấy được điều này
Và tinh tấn nương tựa bậc thầy với tâm cung kính.
Đời tái sinh lành mạnh tự do này, chỉ có một lần,
Con biết thân người khó được và vô cùng lợi ích.
Xin thầy gia hộ cho con có tư duy miên mật
Đêm ngày mong rút tỉa tinh túy của kiếp người.
Thân và mạng giống như bọt nổi trên nước,
Chẳng bao lâu nữa chúng sẽ hủy hoại; con thường nhớ chết,
Và sau khi chết thân con như một cái bóng
Con sẽ đi theo những hậu quả của nghiệp lành dữ đã làm.
Xin gia hộ cho con có được niềm tin chắc chắn
Và từ bỏ vô số lỗi lầm,
Cả đến những lỗi lầm vi tế nhất,
Để kiện toàn mọi đức tính và luôn luôn cẩn thận đề phòng.
Hãy phân tích để thấy đau khổ là cánh cửa đi vào sanh tử.
Vẻ huy hoàng của thế gian thật không đáng tin cậy.
Xin gia hộ cho con hiểu được những tai hại
Và phát sinh lòng khát khao phúc lạc của sự thoát ly.
Nhớ lại những ý tưởng trong lành nhất:
Chánh niệm, tỉnh giác và thận trọng
Xin gia hộ con thực hành cốt tủy của pháp tu,
Căn bản của giáo lý - biệt giải thoát giới,
Cũng như con đã rơi vào những tư tưởng thế tục
Cũng vậy tất cả hữu tình, đã từng là mẹ con;
Xin gia hộ cho con thấy rõ điều này,
Và nỗ lực tinh tấn trong Bồ tát giới.
Xin cho tâm con an tịnh không bị phân tán vào đường tà
Cho con dấn mình một cách thích đáng vào việc chánh;
Gia hộ cho con được điều phục, và sớm phát sinh
Tâm tịnh chỉ phối hợp với tuệ quán đặc biệt.
Mong cho con tu tập theo đạo lộ chung cả ba thừa
Và trở thành một pháp khí thích ứng,
Rồi gia hộ con có diễm phúc dễ dàng lãnh thọ
Giới Kim cang thừa, cửa ngõ vào cỗ xe tối thượng.
Căn bản để đạt đến hai thứ thành công
Chính là tuân giữ giới đã thọ;
Xin gia trì cho con niềm xác tín ghi nhớ điều này
Để giữ giới như giữ sinh mạng của con
Khi ấy con có thể nỗ lực thực chứng mọi điều
Về tinh túy của mật điển là hai giai đoạn
Xin gia hộ cho con đừng bao giờ lay chuyển
Tu tập bốn thời khóa Du già và hoàn tất thánh giáo.
Mong sao những bậc thầy giảng dạy những giáo lý này
Và những hành giả thánh thiện sẽ sống lâu
Xin gia hộ cho các ngài hoàn toàn tịnh hóa
Nội ma ngoại chướng.
Xin cho con trong tất cả đời kiếp
Sẽ không rời xa bậc thầy thanh tịnh
Cho con được hưởng những ánh sáng của diệu pháp,
Những thiện đức của giai đoạn và con đường
Cho con sớm thành tựu trạng thái hợp nhất.
hoangtri
10-08-2020, 09:37 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
{Nghĩ về ý nghĩa những lời này khi tụng đọc}.
Phép giải tán ruộng phước:
Hởi bổn sư tôn quý của con, xin hãy an vị
Trên tòa sen và nguyệt luân trên đỉnh đầu con.
Xin thương xót con vì lòng bi mẫn.
Cho con những thành tựu về thân lời ý.
Bậc Thầy dời lên đỉnh đầu bạn, và bạn làm một lễ cầu nguyện ngắn gồm bảy phần và dâng một mandala:
Thân ngài làm bằng mười triệu đức hạnh thù thắng,
Lời ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng hữu tình,
Ý ngài thấy như thật tất cả pháp khả tri:
Con kính lễ đấng chúa tể dòng họ Sakya.
Bậc thầy vô thượng: Phật bảo
Chỗ nương tựa vô thượng: Pháp bảo
Người cứu tinh vô thượng: Tăng bảo:
Con kính lễ thầy thấy như thật tất cả pháp khả tri:
Con kính lễ đấng chúa tể dòng họ Sakya.
Bậc thầy vô thượng: Phật bảo
Chỗ nương tựa vô thượng: Pháp bảo
Người cứu tinh vô thượng: Tăng bảo
Con kính lễ Thầy, bao hàm tát cả ba ngôi.
Con xin dâng mọi thứ cúng dường, có thật và tưởng tượng,
Con xin sám hối mọi tội phạm giới và vi việt
Mà con đã làm từ vô thỉ trong quá khứ.
Con xin tùy hỉ công đức của tất cả thánh hiền.
Xin thỉnh cầu chư Phật ở lại với chúng con
Cho đến khi sinh tử cùng tận
Và chuyển bánh xe Pháp cho hữu tình.
Con xin hồi hướng công đức của con và tất cả
Cho quả vị vô thượng bồ đề.
Con xin dâng lên bậc tôn sư, chư thần bảo hộ, Ba ngôi báu,
Con xin dâng bốn châu lục, núi Tu di, vầng nhật nguyệt,
Bảy thứ quý báu trong một mandala bằng châu ngọc,
Và mộ khối lượng tặng phẩm của đức Phổ Hiền.
Xin đấng từ bi hoan hỉ làm phước cho con.
Làm lời khẩn cầu sau đây với một bậc thầy duy nhất:
Bậc thầy thánh thiện của con, chúa tể của bốn thân,
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, chúa tể Pháp thân vô ngại
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, chúa tể Báo thân phúc lạc,
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, chúa tể vô lượng Ứng thân
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của tất cả bậc thầy,
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của tất cả vị trời
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của tất cả chư Phật,
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của tất cả Pháp
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của Tăng già,
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của tất cả nam thần
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của mọi thần Hộ pháp
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Bậc thầy thánh thiện của con, hiện thân của tất cả chỗ quy y.
Con khẩn cầu thầy: Thích Ca Mâu Ni - Kim Cương Trì.
Quán bậc thầy trên đỉnh đầu là Thích Ca Mâu Ni và đọc:
Kính lễ đức Thích Ca Mâu Ni, bậc Đạo sư, Đấng Chiến thắng
Con kính dâng ngài đồ cúng.
Con xin quay về nương tựa nơi ngài.
Om muni muni mahàmuniye svàhà.
hoangtri
10-12-2020, 10:08 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 4 TRANG HOÀNG YẾT HẦU NHỮNG NGƯỜI MAY MẮN
__________________________________________________ ______________________________________
Sau khi đọc hồng danh và chú này nhiều lần, tiếp đó lời hồi hướng công đức như sau:
Nhờ công đức này, mong cho con
Sớm thành một bậc thầy như Phật
Mong cho con dẫn đạo mọi hữu tình
Cũng đến địa vị ấy.
{Lời cầu nguyện theo Lam-rim}
Do hai thứ tích lũy mà con đã làm
Với nhiều nỗ lực trong thời gian dài
Công đức rộng lớn như hư không,
Mong con thành một đức Phật hùng lực
Để hướng dẫn hữu tình, những người tâm nhãn bị khép lại bởi vô minh.
Từ đây trở đi đời đời, kiếp kiếp
Xin Đức Văn Thù hãy săn sóc con,
Xin cho con tìm được đạo lộ tối thượng trong giáo lý
Tu tập theo đó, và làm chư Phật hài lòng.
Mong con sử dụng mọi điều đã chứng trên đạo lộ
Để xua tan bóng tối vô minh của chúng sinh
Nhờ từ bi mãnh liệt và phương tiện khéo;
Mong con bảo trì giáo lý của đức Như Lai.
Bất cứ nơi nàonền giáo lý chưa lan đến
Hay đã bị suy tàn,
Xin cho con với tâm đại bi thúc đẩy,
Sẽ gieo rắc ánh sáng kho tàng giáo lý này.
Do thiện sự của chư Phật Bồ tát
Và pháp tu thù thắng từng giai đoạn đến giác ngộ.
Mong rằng tâm những người cầu giải thoát sẽ được phong phú
Và công việc của chư Phật sẽ tiếp nối lâu dài.
Mong cho mọi sự đều hỗ trợ cho việc tu tập pháp lành.
Mong cho những gì làm chướng ngại Pháp sẽ tan biến,
Trong mọi đời kiếp, mong cho mọi người và loài phi nhân
Không đoạn tuyệt với con đường thanh tịnh mà chư Phật ngợi khen.
Mỗi khi những nghi thức chuẩn bị tối thượng thừa
Được làm đúng cách và nghiêm túc,
Xin những bậc có oai thần hãy công bố điều ấy,
Và mong cho một biển điềm lành lan khắp mọi phương.
{Tụng đọc như trên thật thành khẩn, hồi hướng công đức mà bạn đã có để thỏa mãn ước nguyện của bản thân và của hữu tình.}
Kaendaen Raggyae, tu viện trưởng hồi hưu của tu viện Bangrim Choede, nói: “Tôi muốn có một bài tụng đọc cho nghi lễ chuẩn bị buổi giảng dạy khúc chiết về các chặng đường đến giác ngộ, tức “Con Đường Nhanh dẫn đến Toàn trí.” Ông dã tha thiết yêu cầu như thế, và tôi đã soạn bản văn này để tu tập hàng ngày với hi vọng nó sẽ giúp ích cho những người trình độ như tôi.
Tôi Jampael Lhendrub đã soạn căn cứ trên chỉ giáo của hệ phái khẩu truyền của vị Pháp vương tử vô song là ngọn đèn của giáo lý phái Kadampa, tên là Kyabje Kaelzang Taenzin và hai đệ tử của ngài. Mong sao những hệ phái tâm truyền của Đức Văn Thù đấng Che chở hữu tình sẽ không biến mất, mà sẽ trở thành một lá cờ chiến thắng cho Pháp bảo.
hoangtri
10-13-2020, 05:15 PM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 5 PHÁP LUYỆN TÂM BẢY ĐIỂM
__________________________________________________ ______________________________________
PHỤ LỤC 5
PHÁP LUYỆN TÂM BẢY ĐIỂM
Om svasti.
{Kính lễ tâm đại bi}
Mặc dù có nhiều cách giảng dạy chỉ giáo về tu tâm Đại thừa, geshe Chaekawa đã lập ra truyền thống bảy điểm sau đây:
(1) dạy những chuẩn bị tiên quyết cho pháp này:ư
(2) luyện tâm bồ đề: nền tảng;
(3) chuyển hóa nghịch cảnh thành con đường giác ngộ,
(4) dạy một pháp tu để áp dụng suốt đời;
(5) tiêu chuẩn của một tâm đã thuần thục;
(6) những phát nguyện của pháp luyện tâm;
(7) lời khuyên trong sự luyện tâm.
A. NHỮNG CHUẨN BỊ CHO PHÁP NÀY
Có ba:
1. Thiền quán về thân người khó d;
2. quán về chết và vô thường;
3. quán về những lỗi lầm của sinh tử.
B. LUYỆN TÂM BỒ ĐỀ, NỀN TẢNG.
Có hai:
1. Bồ đề tâm tuyệt đối
2. Tương đối.
1. BỒ ĐỀ TÂM TUYỆT ĐỐI
Có ba tiểu mục:
a) chuẩn bị;
b) thời thiền quán;
c) giữa các thời thiền.
a) Chuẩn bị:
1/ Quy y và phát tâm bồ đề; 2/ khẩn cầu; 3/ dâng lời cầu nguyện bảy phần; 4/ thế ngồi cho đúng; 5/ thở hai mươi một hơi an tịnh.
b) Thời thiền quán:
Nghĩ các pháp như giấc chiêm bao.
Quán xét với căn bản của cái biết vô sanh.
Ngay cả pháp đối trị cũng sẽ tan vào nền của căn bản vạn pháp.
c) Giữa các thời thiền
Hãy như là người ở trong mộng.
2. QUÁN BỒ ĐỀ TÂM TƯƠNG ĐỐI
Có hai đoạn:
a) Trong thời thiền
b) Giữa các thời thiền.
a) Trong thời thiền
Luyện tâm cho và nhận
Trên hai luồng khí
b) Giữa các thời thiền
Ba chủ đề, ba độc tố, ba thiện căn.
Trong đời sống hàng ngày,
Đọc những bài thi kệ để buộc niệm,
Xây dựng sự “nhận lấy” khởi từ bản thân.
hoangtri
10-15-2020, 10:06 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 5 PHÁP LUYỆN TÂM BẢY ĐIỂM
__________________________________________________ ______________________________________
3. CHUYỂN NGHỊCH CẢNH THÀNH CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ
Khi vũ trụ đầy tội lỗi,
Thì hãy chuyển những hoàn cảnh không may
Thành con đường giác ngộ.
Có hai phần: a. bằng ý nghĩ; b. bằng hành động.
a) Bằng ý nghĩ
Có hai: i) tương đối; ii) tuyệt đối.
i) Tương đối:
Hãy trách cứ một điều duy nhất.
Thiền quán về sự tử tế của tất cả hữu tình.
ii) Tuyệt đối:
Xem mọi hiện tượng lừa dối
Đều như là bốn thân.
Đây là cách duy trì tuyệt hảo
Tánh không tuyệt đối.
b) Bằng hành động:
Phương tiện tối thượng có bốn hành vi
Hãy sử dụng ngay thiền quán
Càng nhiều càng tốt.
4. MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐỂ ÁP DỤNG SUỐT ĐỜI
Tinh túy của chỉ giáo ngắn gọn này
Là năm năng lực. Hãy thực hành
Chỉ giáo đại thừa về sự chuyển di
Liên hệ đến năm năng lực.
Hãy yêu mến hoạt động này.
5. TIÊU CHUẨN MỘT TÂM ĐÃ KHÉO LUYỆN
Tất cả pháp đều do tư tưởng mà có ra.
Hãy đề cao nhân chứng chính trong hai chứng nhân.
Luôn luôn đào luyện hỉ lạc nội tâm.
Bạn đã làm chủ được nó
Nếu có thể được như thế trong khi tâm phát tán.
hoangtri
10-16-2020, 08:26 AM
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
PHỤ LỤC 5 PHÁP LUYỆN TÂM BẢY ĐIỂM
__________________________________________________ ______________________________________
6. NHỮNG ĐIỀU LỆ CỦA PHÁP TU TÂM
Luôn luôn bám sát ba điểm chính.
Thay ước nguyện của bạn
Nhưng giữ nguyên phong thái độ cũng.
Đừng nhắc đến tay chân què quặt của người khác
Đừng bị ám ảnh bởi việc của người.
Trước hãy tịnh hóa vọng tưởng lớn nhất.
Hãy từ bỏ mọi hi vọng về quả báo.
Từ bỏ thực phẩm có chất độc.
Đừng nương tay với vọng tưởng.
Đừng điên tiết vì những lời lăng nhục.
Đừng chực để trả thù.
Đừng tấn công những điểm yếu.
Đừng đặt gánh nặng của con trâu dzo trên lưng trâu thường.
Đừng chạy đua.
Đừng bùa chú mất linh.
Đừng để thiên thần thành ác quỷ.
Đừng tìm hạnh phúc trong nỗi bất hạnh.
7. LỜI KHUYÊN VỀ SỰ LUYỆN TÂM
Tất cả pháp Du già đều được tu tập qua một pháp.
Áp dụng một pháp cho tất cả đau buồn.
Hai hành vi cho đầu và cuối.
Nhẫn nhục, nếu gặp một trong hai trường hợp xảy ra!
Giữ hai loại giới như giữ sinh mạng.
Luyện tâm trong ba khổ hạnh.
Tạo bao nhân duyên chính (để tu tập).
Thiền quán để có ba việc không thối.
Chớ để thân khẩu ý nhàn rỗi (không làm thiện)
Hãy bình đẳng đối với các đề mục, xem chúng là thanh tịnh;
Hãy thông thạo về pháp sâu và rộng
Và yêu mến tất cả.
Luôn thiền quán khi gặp khó khăn,
Đừng lệ thuộc hoàn cảnh.
Từ hôm nay hãy thực hành pháp tu chính yếu.
Đừng nhầm lẫn.
Đừng quá hi vọng.
Đừng tu theo từng cơn.
Hãy giải thoát nhờ hai pháp thiền,
Đừng kiêu căng
Đừng khinh người
Đừng trao đổi
Đừng mong được cảm ơn.
Hãy nhớ kỹ những lời khuyên ấy.
Năm sự suy đồi (ngũ trược) là đầy dẫy (trong thời mạt pháp)
Nhưng hãy chuyển hóa chúng thành con đường giác ngộ.
(nghĩa là hãy thực hành nhẫn nhục, nguyện lực, thưởng thức vị chân-không, tâm bi, tâm từ và tâm hỉ.)
Nguồn gốc chi giáo này:
Chỉ giáo này, tinh chất của cam lồ,
Xuất xứ từ hệ phái truyền thừa
Của Suvarnadvìpi
Hành giả vĩ đại Chaekawa tu luyện theo chỉ giáo này, đã nói:
Nhờ luyện tâm theo pháp này
Tôi đã khơi dậy niềm hỉ lạc
Nên tôi có nhiều lý do để tôn trọng pháp ấy.
Mọi câu chuyện về đau khổ đã chấm dứt.
Tôi cống hiến chỉ giáo này
Để hàng phục ngã ái.
Bây giờ tôi có thể chết không nuối tiếc.
{Ban văn gốc này về độ dài cũng như thứ tự của nó, được căn cứ theo giáo lý của Togme Rinpoche, Pháp tử của các Đấng Chiến thắng.}
HẾT
Powered by vBulletin® Version 4.2.3 Beta 3 Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.