PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Trích đăng Truyền Đăng Lục Quyển 6



lavinhcuong
06-29-2015, 05:17 PM
Trích đăng Truyền Đăng Lục Quyển 6

Bài 86.

ĐỜI THỨ NHẤT SAU THIỀN SƯ HOÀI NHƯỢNG


THIỀN SƯ ĐẠO NHẤT 道一 GIANG TÂY.


Người huyện Thập Phương Hán Châu, họ Mã. Dung mạo kỳ dị, dáng đi vững chãi như trâu, mắt nhìn sắc như cọp, lưỡi thè quá mũi, dưới bàn chân có hai hoa văn hình bánh xe. Tuổi nhỏ nương Hòa thượng Đường ở Tư Châu xuất gia, thọ cụ túc giới nơi luật sư Viên ở Du Châu.
Trong khoảng năm Khai Nguyên (713 – 741, Đường Huyền Tông), Sư thực tập thiền định ở viện Truyền Pháp Hành Nhạc, gặp Hòa thượng Hoài Nhượng. Sáu người đồng tham học (nhập thất), chỉ mình Sư thầm nhận tâm ấn.

(Đạo Nhất tiếp nối Hoài Nhượng còn Hy Thiên tiếp nối Hành Tư, cùng nguồn khác phái, thế nên thiền pháp bắt đầu hưng thạnh từ hai Sư. Lưu Kha nói “Đại Tịch (Mã Tổ) pháp chủ Giang Tây, Thạch Đầu pháp chủ Hồ Nam. Qua lại lăng xăng mà không biết hai vị đại sĩ, thật là ngốc”. Ở Tây Thiên Tổ Bát nhã Đa la sấm ký với Đạt ma “Nước Chấn Đán (Trung Hoa) tuy xa mà không khác đường, cần đến bàn chân cháu trai tiếp bước, gà vàng há miệng một hạt gạo, cúng dường mười phương La hán tăng”. Lại nữa Hòa thượng Huệ Năng Lục Tổ nói với Hoài Nhượng “Về sau Phật pháp hướng về ông, con ngựa tợ ông đạp chết người trong thiên hạ”, về sau pháp tự Mã Tổ Giang Tây truyền khắp thiên hạ nên thời nhân gọi Sư là Mã Tổ).

Mới đầu Sư từ núi Phật Tích ở Kiến Dương, kế dời đến Lâm Xuyên, rồi sau đó đến núi Cung Công ở Nam Khang. Trong năm Đại Lịch (766 – 779, Đường Đại Tông), tên Sư gắn liền với chùa Khai Nguyên ở Chung Lăng, Giang Tây. Bấy giờ Liên soái Lộ Từ Cung nghe đạo phong mà kính mộ, đích thân đến Sư thọ tông chỉ. Từ đó học giả bốn phương vân tập dưới tòa.

Một hôm Sư dạy chúng:

Những người các ông, mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm mình đó chính là tâm Phật. Đạt ma Đại sư từ nước Nam Thiên Trúc đến đây, đích thân tới Trung Hoa để truyền pháp thượng thừa nhất tâm, khiến các ông khai ngộ. Lại dẫn văn kinh Lăng Già để ấn chứng tâm địa chúng sanh, sợ các ông điên đảo chẳng tự tin pháp nơi tâm này, mỗi người đều có, nên kinh Lăng Già nói “Phật nói Tâm là Tông, vô môn là pháp môn”, lại nói : Phàm cầu pháp nên không có sở cầu, ngoài tâm không có Phật khác, ngoài Phật không có tâm khác, chẳng lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên sạch dơ đều chẳng nương cậy, đạt đến tánh tội rỗng không niệm niệm bất khả đắc. Vì vô tự tánh cho nên tam giới duy Tâm, sum la vạn tượng là sở ấn của nhất pháp, phàm là sắc được thấy đều là tâm hay thấy, tâm chẳng tự là tâm nhân sắc mới có tâm. Các ông chỉ cần tùy lúc nói năng, ngay sự là lý đều không chỗ ngại, đạo quả Bồ đề cũng lại như thế. Cái được sanh nơi tâm thì gọi là sắc, biết sắc rỗng không nên sanh tức chẳng sanh, liễu ngộ tâm này như thế thì có thể tùy lúc mặc áo ăn cơm, trưởng dưỡng thánh thai tùy duyên qua ngày tháng, còn có việc gì nữa?

Nhữ đẳng chư nhân các tín tự tâm thị Phật, thử tâm tức thị Phật tâm. Đạt ma Đại sư tùng Nam thiên trúc quốc lai, cung chí Trung hoa, truyền thượng thừa nhất tâm chi pháp, linh nhữ đẳng khai ngộ, hựu dẫn Lăng già Kinh văn, dĩ ấn chúng sinh tâm địa, khủng nhữ điên đảo bất tự tín, thử tâm chi pháp các các hữu chi, cố Lăng già kinh vân: “Phật ngữ tâm vi tôn, vô môn vi pháp môn”, hựu vân : Phu cầu pháp giả ưng vô sở cầu, tâm ngoại vô biệt Phật, Phật ngoại vô biệt tâm, bất thủ thiện bất xả ác, tịnh uế lưỡng biên câu bất y hỗ, đạt tội tính không niệm niệm bất khả đắc. Vô tự tính cố, cố tam giới duy tâm, sâm la vạn tượng nhất pháp chi sở ấn, phàm sở kiến sắc giai thị kiến tâm, tâm bất tự tâm nhân sắc cố hữu. Nhữ đãn tùy thời ngôn thuyết, tức sự tức lí đô vô sở ngại, Bồ đề đạo quả diệc phục như thị. Ư tâm sở sinh tức danh vi sắc, tri sắc không cố sinh tức bất sinh, nhược liễu thử tâm, nãi khả tùy thời trước y khiết phạn, trường dưỡng thánh thai nhâm vận quá thời, canh hữu hà sự?

汝等諸人各信自心是佛,此心即是佛心. 達磨大師從南天竺國來,躬至中華,傳上 乘一心之法,令汝等開悟,又引楞伽經文 ,以印眾生心地,恐汝顛倒不自信,此心 法各各有之,故楞伽經云,佛語心為宗, 門為法門. 又云:夫求法者應無所求,心外無別佛, 外無別心,不取善不捨惡,淨穢兩邊俱 依怙,達罪性空念念不可得. 無自性故,故三界唯心,森羅萬象一法之 所印,凡所見色皆是見心,心不自心因色 故有. 汝但隨時言說,即事即理都無所礙,菩提 道果亦復如是. 於心所生即名為色,知色空故生即不生, 若了此心,乃可隨時著衣喫飯,長養聖胎 任運 過時,更有何事 ?

Các ông nhận ta dạy, hãy nghe ta nói kệ:

Tâm địa tùy thời thuyết,
Bồ đề diệc chỉ ninh.
Sự lý câu vô ngại,
Đương sanh tức bất sanh.

心地隨時說  
菩提亦只寧
事理俱無礙  
當生即不生

Tâm địa tùy thời nói,
Bồ đề cũng vậy thôi.
Sự lý đều vô ngại,
Đương sanh tức bất sanh.

-----------

Tăng hỏi:
- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm là Phật (tức tâm tức Phật)?
Sư đáp:
- Vì vỗ con nít khóc.
Tăng hỏi:
- Hết khóc rồi làm gì?
Sư đáp:
- Chẳng phải tâm chẳng phải Phật (phi tâm phi Phật).
Tăng hỏi:
- Trừ hai hạng người đó ra, chỉ dạy thế nào?
Sư đáp:
- Nói với y chẳng phải vật (bất thị vật).
Tăng hỏi:
- Chợt gặp người trong ấy đến thì thế nào?
Sư đáp:
- Cứ bảo y thể hội đại đạo.

-----------

Tăng hỏi:
- Thế nào là ý Tây Lai?
Sư hỏi:
- Ngay bây giờ là ý gì?

-----------

Bàng cư sĩ hỏi:
- Như nước không có gân xương hay nâng nổi chiếc thuyền muôn hộc, lý đó thế nào?
Sư đáp:
- Ở đây không có nước cũng không có thuyền, nói gân xương nào?

----------

Một hôm Sư thượng đường. Một lát Bá Trượng cuốn chiếu lui ra trước mặt. Sư bèn hạ đường. Bá Trượng hỏi:
- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư đáp:
- Đang là chỗ ông buông bỏ thân mạng.
Sư hỏi Bá Trượng:
- Ông dùng pháp gì dạy người?
Bá Trượng đưa cây phất tử lên. Sư hỏi:
- Chỉ có cái này hay còn cái nào khác?
Bá Trượng buông cây phất tử xuống.

---------

Tăng hỏi:
- Làm sao được hợp đạo?
Sư đáp:
- Ta từ lâu chẳng hợp đạo?

----------

Tăng hỏi:
- Thế nào là ý Tây Lai?
Sư liền đánh, bảo:
- Nếu ta không đánh ông, các nơi sẽ cười ta.

----------

Có tiểu sư đi hành cước trở về, vẽ một vòng tròn trước mặt Sư, bước lên lễ bái rồi đứng gần Sư. Sư hỏi:
- Chắc ông muốn làm Phật chứ gì?
Đáp:
- Con giụi mắt chẳng biết.
Sư nói:
- Ta chẳng bằng ông.
Tiểu sư không đáp được.

---------

Đặng Ẩn Phong đến từ giã Sư. Sư hỏi:
- Đi đâu?
Đáp:
- Đi Thạch Đầu.
Sư nói:
- Đường Thạch Đầu trơn.
Đáp:
- Có mang theo gậy, gặp đâu vui đó.
Rồi ra đi. Mới tới Thạch Đầu liền nhiễu giường thiền một vòng, dộng tích trượng một tiếng, hỏi:
- Là tông chỉ gì?
Thạch Đầu kêu:
- Trời xanh, trời xanh!
Ẩn Phong không đáp được, trở về thuật lại cùng Sư. Sư nói:
- Ông hãy trở lại, gặp ông ấy kêu “Trời xanh, trời xanh” thì ông liền “Hư, hư”.
Ẩn Phong lại đi Thạch Đầu, lặp lại y như trước, hỏi:
- Là tông chỉ gì?
Thạch Đầu bèn “Hư, hư”. Ẩn Phong lại không đáp được.
Phong về thuật lại, Sư nói:
- Đã nói với ông đường Thạch Đầu trơn mà.

-----------

Có vị tăng vẽ bốn vạch trước mặt Sư, ở trên một vạch dài ở dưới ba vạch ngắn, rồi hỏi:
- Không được nói “một dài ba ngắn”, ngoại trừ bốn chữ đó, mời Hòa thượng đáp.
Sư liền vẽ trên đất một vạch, đáp:
- Không được nói “dài ngắn”, đáp ông rồi.
(Quốc sư Huệ Trung nghe, nói riêng một mình “Sao chẳng hỏi lão tăng”)

---------

Có một tăng giảng kinh đến hỏi:
- Chưa biết thiền tông truyền thừa pháp gì?
Sư hỏi lại:
- Tòa chủ truyền thừa pháp gì?
Kia đáp:
- Tạm giảng được hơn hai mươi cuốn kinh luận.
Sư nói:
- Đâu không phải là sư tử con?
Đáp:
- Chẳng dám.
Sư cất tiếng “Hư, hư”. Kia nói:
- Đó là pháp.
Sư hỏi:
- Là pháp gì?
Đáp:
- Pháp sư tử ra khỏi hang.
Sư bèn lặng thinh. Kia nói:
- Đó cũng là pháp.
Sư hỏi:
- Là pháp gì?
Đáp:
- Pháp sư tử ở trong hang.
Sư hỏi:
- (Sư tử) chẳng ra chẳng vô là pháp gì?
Kia không đáp được bèn từ giã ra ngoài cửa.
(Bá Trượng thay nói “Thấy gì?”).

----------

Sư gọi “Tòa chủ!”. Kia xoay đầu, Sư hỏi”Là gì?”, cũng không đáp được.
Sư nói “Ông thầy độn căn này!”

----------

Liêm sứ ở Hồng Châu hỏi:
- Đệ tử ăn thịt uống rượu là phải hay không ăn thịt uống rượu là phải?

Đệ tử khiết tửu nhục tức thị, bất khiết tức thị ?

弟子喫酒肉即是, 不喫即是 ?

Sư đáp:
- Ăn thịt uống rượu như thế là lộc của Ngài, không ăn là phước của Ngài.

Nhược khiết thị trung thừa lộc, bất khiết thị trung thừa phúc.

若喫是中丞祿, 不喫是中丞福.


*
* *

Đệ tử nhập thất của Sư gồm 139 người, mỗi người đi làm tông chủ một nơi giáo hóa vô cùng. Năm Trinh Nguyên thứ tư (788 - Đường Đức Tông), rằm tháng giêng Sư lên núi Thạch Môn ở Kiến Xương, đi kinh hành trong rừng cây, thấy chỗ đất bằng phẳng với hang động trống không. Sư bảo thị giả:
- Thân hư mục ta tháng tới sẽ về chỗ đó.

Nói xong rồi ra về. Đến ngày mùng bốn tháng hai 788, quả thật có bệnh nhẹ, Sư tắm gội xong ngồi kiết già nhập diệt. Trong khoảng năm Nguyên Hòa (806 – 820, Đường Hiến Tông), truy tặng thụy hiệu Đại Tịch Thiền Sư, tháp tên Đại Trang Nghiêm. Hiện nay (1004) còn đền thờ ở huyện Hải Hôn.

(Cao Tăng Truyện chép: “Thiền sư Đại Giác căn cứ vào bài minh ở tháp Sư do Quyền Đức Dư soạn thì Mã Tổ mất ở chùa Khai Nguyên, trà tỳ và xây tháp ở Thạch Môn. Đến năm Hội Xương (841 – 846) bỏ phế, sau đến tháng bảy năm Đại Trung thứ tư (850 – Đường Tuyên Tông), vua Tuyên Tông ban lệnh Quán sát sứ Giang Tây là Bùi Hưu xây dựng lại tháp và chùa, ban biển ngạch là Bảo Phong”).

hoatihon
06-29-2015, 06:15 PM
Vô sở cầu.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vosocau_zps47f3f271.jpg

hoatihon
06-29-2015, 06:16 PM
Tam giới duy Tâm.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tamgioiduytam_zps812356ec.jpg

hoatihon
06-29-2015, 06:18 PM
Phật pháp.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/phatphap3_zpsf3fda5d7.jpg

lavinhcuong
06-30-2015, 07:25 AM
ĐỜI THỨ HAI SAU THIỀN SƯ HOÀI NHƯỢNG

PHÁP TỰ CỦA MÃ TỔ.


1. THIỀN SƯ ĐẠI CHÂU HUỆ HẢI 大珠慧海, VIỆT CHÂU.


Người ở Kiến Châu (Phước Kiến), họ Châu. Sư thọ nghiệp nơi Hòa thượng Đạo Trí, chùa Đại Vân Việt Châu.
Ban đầu đến tham kiến Mã Tổ ở Giang Tây. Tổ hỏi:
- Từ đâu đến?
Đáp:
- Từ chùa Đại Vân ở Việt Châu đến.
Tổ hỏi:
- Đến đây muốn cầu việc gì?
Đáp:
- Đến cầu Phật pháp.
Tổ nói:
- Kho báu nhà mình chẳng đối nghĩ, bỏ nhà chạy rông làm gì? Ta trong đây một vật cũng không, cầu Phật pháp nào?
Sư bèn lễ bái, hỏi:
- Cái gì là “kho báu nhà mình” của Huệ Hải?
Tổ đáp:
- Chính là cái hiện đang hỏi ta. Đó là kho báu của ông, đầy đủ tất cả hoàn toàn không có thiếu thốn, tự do sử dụng, cần gì hướng ngoại tìm cầu?
Sư ngay lời nói tự biết bổn tâm, không do hiểu biết, hớn hở vui mừng lễ tạ.

Sư ở hầu Tổ sáu năm, sau vì thầy thọ nghiệp tuổi già, Sư vội trở về phụng dưỡng. Sư ẩn vết tích giấu công dụng, bên ngoài thị hiện như ngây dại; Sư tự soạn một quyển Luận “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn”, bị Huyền Yến là cháu trong pháp môn lén lấy đem ra khỏi Chiết Giang (Thiệu Hưng), trình Mã Tổ. Tổ xem xong bảo chúng:

- Việt Châu có đại châu (viên ngọc lớn), tròn sáng thấu suốt tự tại, không chướng ngại.

-----------

Khi ấy ở trong chúng có người biết Sư họ Châu, lần lượt rồi nhiều người biết. Họ rủ nhau đến xứ Việt tìm hỏi và nương tựa Sư (Nhân lời Mã Tổ nói, người bấy giờ gọi Sư là Hòa thượng Đại Châu).
Sư nói:
- Chư thiền khách, tôi chẳng hội thiền, hoàn toàn không có một pháp để dạy người. Không nên phiền các ông đứng lâu, hãy tự thôi dứt đi.
Bấy giờ học lữ đông dần, ngày đêm thưa hỏi. Việc bất đắc dĩ phải vừa hỏi vừa đáp, Sư biện tài vô ngại (Có quyển chép riêng trong Quảng Ngữ).

-----------

Bấy giờ có một số pháp sư đến yết kiến, hỏi:
- Muốn nêu một câu hỏi, không biết thầy có thể đáp không?
Sư nói:
- Bóng trăng dưới đầm sâu mặc tình rút lấy.
Hỏi:
- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Đầm nước trong trước mặt chẳng là Phật thì là gì?
Chúng đều mờ mịt . Hồi lâu vị tăng ấy lại hỏi:
- Thầy nói pháp gì độ người?
Sư đáp:
- Bần đạo chưa từng có một pháp độ người.
Hỏi:
- Nhà thiền sư chất phác như thế à?
Sư hỏi lại:
- Đại đức nói pháp gì độ người?
Đáp:
- Giảng kinh Kim Cang Bát Nhã.
Sư hỏi:
- Giảng mấy lần rồi?
Đáp:
- Hơn hai mươi lần.
Sư hỏi:
- Ai nói kinh đó?
Tăng lên tiếng gắt gỏng:
- Thiền sư khéo đùa nhau, đâu không biết Phật nói sao?
Sư nói:
- Nếu nói "Như Lai có nói pháp là chê bai Phật, người ấy chẳng hiểu nghĩa ta nói, nếu nói Kinh này không phải Phật nói là chê bai Kinh”. Mời đại đức nói xem.

Nhược ngôn Như lai hữu sở thuyết pháp, tắc vi báng Phật, thị nhân bất giải ngã sở thuyết nghĩa. Nhược ngôn thử Kinh bất thị Phật thuyết, tắc thị báng Kinh.

若言如來有所說法, 則為謗佛, 是人不解我所說義. 若言此經不是佛說,則是謗經.

Tăng yên lặng không đáp được.
Chốc lát Sư lại hỏi:
- Kinh nói “Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, người ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai”. Đại đức hãy nói cái gì là Như Lai?

Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như lai.

若以色見我
以音聲求我
是人行邪道
不能見如來

Đáp:
- Đến chỗ này tôi vẫn còn mê.
Sư nói:
- Từ nào đến giờ chưa ngộ, nói gì còn mê?
Tăng nói:
- Thỉnh thiền sư nói cho tôi nghe.
Sư nói:
- Đại đức giảng kinh trên hai mươi lần, còn chưa biết Như Lai.
Tăng ấy lại lễ bái cầu xin chỉ dạy.
Sư nói:
- “Như Lai đó, là nghĩa như của các pháp”, đâu thể quên được?

Như lai giả, thị chư pháp như nghĩa.

如來者, 是諸法如義.

Đáp:
- Phải, là nghĩa như của các pháp.
Sư nói:
- Đại đức nói “phải” cũng chưa phải.
Đáp:
- Văn kinh rõ ràng đâu thể chưa phải.
Sư hỏi:
- Đại đức như chăng?
Đáp:
- Như.
Sư hỏi:
- Gỗ đá như chăng?
Đáp:
- Như.
Sư hỏi:
- Đại đức Như, đồng gỗ đá Như chăng?
Đáp:
- Không hai.
Sư nói:
- Đại đức cùng gỗ đá đâu khác!
Tăng không đáp được. Hồi lâu lại hỏi:
- Thế nào được Đại Niết bàn?
Sư đáp:
- Chẳng tạo nghiệp sanh tử.
Hỏi:
- Thế nào là nghiệp sanh tử?
Sư đáp:
- Cầu Đại Niết bàn là nghiệp sanh tử, bỏ dơ lấy sạch là nghiệp sanh tử, có đắc có chứng là nghiệp sanh tử, không vượt khỏi môn đối trị là nghiệp sanh tử.

Cầu Đại Niết bàn thị sinh tử nghiệp, xả cấu thủ tịnh thị sinh tử nghiệp, hữu đắc hữu chứng thị sinh tử nghiệp, bất thoát đối trị môn thị sinh tử nghiệp.

求大涅槃是生死業, 捨垢取淨是生死業, 有得有證是生死業, 不脫對治門是生死業.

Hỏi:
- Làm sao mới được giải thoát.
Sư đáp:
- Vốn tự không trói buộc chẳng cần giải thoát, dùng thẳng hành thẳng là vô đẳng đẳng.

Bản tự vô phọc bất dụng cầu giải, trực dụng trực hành thị vô đẳng đẳng.

本自無縛不用求解, 直用直行是無等等.

Tăng nói:
- Như Hòa thượng thiền sư đây thật là hiếm có.
Tăng lễ tạ rút lui.
*
* *
Có hành giả (cư sĩ) hỏi:
- Tức tâm tức Phật, cái nào là Phật?
Sư bảo:
- Ông nghi cái nào chẳng phải là Phật, chỉ ra xem.
Cư sĩ không đáp được. Sư nói:
- Đạt thì khắp cảnh là Phật, chẳng ngộ hằng trái xa.

---------------

Có luật sư hiệu Pháp Minh, nói với Sư:
- Các thiền sư phần nhiều rơi vào không.
Sư nói:
- Trái lại các tòa chủ phần nhiều rơi vào không.
Pháp Minh giật mình, hỏi:
- Tại sao rơi vào không?
Sư nói:
- Kinh luận là giấy mực văn tự, giấy mực văn tự đều là không. Mượn ở âm thanh mà kiến lập các pháp, danh cú văn thân … đều là không. Tòa chủ chấp chặt hình thể giáo, đâu chẳng rơi vào không?
Pháp Minh hỏi:
- Thiền sư rơi vào không chăng?
Sư đáp:
- Chẳng rơi vào không.
Hỏi:
- Sao lại chẳng rơi vào không?
Sư đáp:
- Văn tự … đều từ trí tuệ mà sanh, đại dụng hiện tiền đâu thể rơi vào không?
Pháp Minh nói:
- Thế nên biết chẳng thành tựu nhất pháp, không gọi là tất đạt.
Sư nói:
- Luật sư không những rơi vào không mà còn dùng lầm danh ngôn.
Pháp Minh lộ vẻ giận, hỏi:
- Lầm ở chỗ nào?
Sư nói:
- Luật sư chưa rành phiên âm Hoa Phạn, làm sao giảng thuyết.
- Thỉnh thiền sư chỉ ra chỗ lầm của Pháp Minh.
Sư nói:
- Há chẳng biết “tất đạt” là tiếng Phạn sao?
Luật sư tuy biết lỗi, nhưng lòng vẫn còn giận.
(Tiếng Phạn “Siddhārtha Gautama”, Trung Quốc dịch nghĩa là “Nhất thiết nghĩa thành”. Xưa dịch là “Tất đạt đa” còn sai sót, lược mất Phạn âm).
Lại hỏi:
- Phàm Kinh Luật Luận là lời Phật, đọc tụng y giáo phụng hành, sao chẳng kiến tánh?
Sư đáp:
- Như chó điên đuổi mồi, sư tử cắn người. Kinh Luật Luận là dụng của tự tánh, việc đọc tụng là pháp của tự tánh.
Pháp Minh hỏi:
- Phật A-di-đà có cha mẹ và họ không?
Sư đáp:
- Họ của A-di-đà là Kiều-thi-ca, cha tên Nguyệt Thượng mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhan.
Hỏi:
- Xuất xứ từ kinh điển nào?
Sư đáp:
- Từ tập Đà la ni.
Pháp Minh lễ tạ, khen ngợi rồi lui.

lavinhcuong
06-30-2015, 07:33 AM
Bài 89.


THIỀN SƯ ĐẠI CHÂU HUỆ HẢI 大珠慧海, VIỆT CHÂU.

(Tiếp theo)

Có vị Pháp sư thông Tam tạng, hỏi:
- Chơn như có biến đổi không?
Sư đáp:
- Có biến đổi.
Tam Tạng nói:
- Thiền sư lầm rồi!
Sư lại hỏi Tam Tạng:
- Có chơn như chăng?
Đáp:
- Có.
Sư nói:
- Nếu không biến đổi nhất định là phàm tăng. Đâu chẳng nghe “Thiện tri thức hay chuyển ba độc thành ba tụ tịnh giới, chuyển sáu thức thành sáu thần thông, chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển vô minh thành chơn như đại trí”. Nếu không biến đổi thì đại đức đúng là ngoại đạo chủ trương tự nhiên.
Tam Tạng hỏi:
- Như vậy, Chơn như tức có biến đổi?
Sư đáp:
- Nếu chấp Chơn như có biến đổi cũng là ngoại đạo.
Hỏi:
- Thiền sư vừa nói Chơn như có biến đổi, giờ lại nói không biến đổi. Thế nào mới là thật đúng?
Sư đáp:
- Nếu là người kiến tánh rõ ràng, như châu ma ni hiện sắc thì nói biến đổi cũng được, nói không biến đổi cũng được. Nếu là người không kiến tánh nghe nói Chơn như biến đổi bèn hiểu là biến đổi, nghe nói không biến đổi bèn hiểu là không biến đổi.

Nhược liễu liễu kiến tính giả, như ma ni châu hiện sắc, thuyết biến diệc đắc, thuyết bất biến diệc đắc. Nhược bất kiến tính nhân, văn thuyết chân như biến tiện tác biến giải, văn thuyết bất biến tiện tác bất biến giải.

若了了見性者, 如摩尼珠現色, 說變亦得, 說不變亦得. 若不見性人, 聞說真如變便作變解, 聞說不變便作不變解.

Tam Tạng khen:
- Thế nên biết Nam Tông thật không thể lường.

------------

Có đạo hữu hỏi:
- Thế gian có pháp nào vượt hơn tự nhiên không?
Sư đáp:
- Có.
Hỏi:
- Pháp nào hơn được?
Sư đáp:
- Pháp hay biết được tự nhiên.
Hỏi:
- Nguyên khí là đạo chăng?
Sư đáp:
- Nguyên khí tự nguyên khí, đạo tự đạo.
Kia nói:
- Nếu như thế thì phải có hai.
Sư nói:
- Biết, không có hai người.
Lại hỏi:
- Thế nào là tà, thế nào là chánh?
Sư đáp:
- Tâm theo vật là tà, vật theo tâm là chánh.

------------

Có luật sư Nguyên đến hỏi:
- Hòa thượng tu đạo, có dụng công không?
Sư đáp:
- Dụng công.
Hỏi:
- Dụng công thế nào?
Sư đáp:
- Đói ăn cơm mệt thì ngủ.
Hỏi:
- Mọi người đều như thế, dụng công có đồng với Sư không?
Sư đáp:
- Không đồng.
Hỏi:
- Vì sao chẳng đồng?
Đáp:
- Khi ăn kia chẳng nhất định ăn, trăm thứ yêu sách; khi ngủ chẳng nhất định ngủ, ngàn thứ lo toan, vì thế chẳng đồng.

Tha khiết phạn thời bất khẳng khiết phạn, bá chủng tu sách, thụy thời bất khẳng thụy, thiên ban kế hào, sở dĩ bất đồng dã.

他喫飯時不肯喫飯, 百種須索, 睡時不肯睡, 千般計校, 所以不同也

Luật sư im miệng.
------------

Đại đức Uẩn Quang đến hỏi:
- Thiền sư tự biết chỗ sanh chăng?
Sư đáp:
- Chưa từng tử cần gì luận sanh? Biết sanh tức là pháp vô sanh, nói pháp vô sanh không lìa pháp sanh. Tổ sư nói “Đương sanh tức bất sanh”.
Hỏi:
- Người không kiến tánh cũng được như vậy chăng?
Sư đáp:
- Tự chẳng thấy tánh, chẳng phải không có tánh. Tại sao vậy? Thấy tức là tánh, không tánh thì không thể thấy. Thức tức là tánh nên gọi là thức tánh, liễu tức là tánh nên gọi là liễu tánh. Hay sanh muôn pháp gọi là pháp tánh cũng gọi là Pháp thân.
Tổ sư Mã Minh nói : Cái gọi là nói pháp, đều là vì tâm chúng sinh, nếu tâm sinh thì pháp sinh theo, nếu tâm không sinh thì pháp chẳng do đâu mà có, cũng không tên gọi. Kẻ mê nào biết Pháp thân vốn vô hình nhưng tuỳ chúng hiện hình. Có câu “Thanh thanh thuý trúc tổng thị Pháp thân, uất uất hoàng hoa vô phi bát nhã”. Nếu hoa vàng là bát nhã, bát nhã tức đồng vô tình; nếu trúc biếc là pháp thân, pháp thân tức đồng cỏ cây, như người ăn măng nên nhất định ăn Pháp thân. Những lối nói như thế đâu thể ghi hết được, mê Phật trước mặt nhiều kiếp mong cầu, ở trong toàn thể các pháp mà mê lại đi tìm cầu bên ngoài. Thế nên người hiểu đạo đi đứng nằm ngồi không gì chẳng là đạo, người ngộ pháp ngang dọc đều tự tại chẳng có gì không phải là Phật pháp.

Tự bất kiến tính bất thị vô tính. Hà dĩ cố ? kiến tức thị tính vô tính bất năng kiến, thức tức thị tính cố danh thức tính, liễu tức thị tính hoán tác liễu tính. Năng sinh vạn pháp hoán tác pháp tính, diệc danh Pháp thân.
Mã minh tổ sư vân : sở ngôn pháp giả, vị chúng sinh tâm, nhược tâm sinh cố nhất thiết pháp sinh, nhược tâm vô sinh pháp vô tùng sinh, diệc vô danh tự. Mê nhân bất tri pháp thân vô tượng ưng vật hiện hình. Toại hoán thanh thanh thuý trúc tổng thị pháp thân uất uất hoàng hoa vô phi ban nhược. Hoàng hoa nhược thị ban nhược, ban nhược tức đồng vô tình, thuý trúc nhược thị Pháp thân, Pháp thân tức đồng thảo mộc, như nhân khiết duẫn, ưng tổng khiết Pháp thân dã. Như thử chi ngôn ninh kham xỉ lục, đối diện mê phật trường kiếp hi cầu, toàn thể pháp trung mê nhi ngoại mịch. Thị dĩ giải đạo giả hành trụ toạ ngoạ vô phi thị đạo, ngộ pháp giả túng hoành tự tại vô phi thị pháp.

自不見性不是無性. 何以故 ? 見即是性無性不能見, 識即是性故名識性, 了即是性喚作了性. 能生萬法喚作法性, 亦名法身.
馬鳴祖師云: 所言法者, 謂眾生心, 若心生故一切法生, 若心無生法無從生, 亦無名字. 迷人不知法身無象應物現形. 遂喚青青翠竹總是法身欝欝黃華無非 若, 黃華若是般若, 般若即同無情, 翠竹若是法身, 法身即同草木, 如人喫筍, 應總喫法身也. 如此之言寧堪齒錄。對面迷佛長劫希 , 全體法中迷而外覓. 是以解道者行住坐臥無非是道, 悟法者縱橫自在無非是法.

Đại đức lại hỏi:
Thái hư hay sanh linh tri không?
Chơn tâm duyên nơi thiện ác không?
Người tham dục là đạo không?
Người chấp phải chấp quấy, về sau tâm thông không?
Người xúc cảnh sanh tâm, có định không?
Người trụ vắng lặng, có huệ không?
Người trong lòng ngạo vật, có ngã không?
Người chấp không chấp có, có trí không?
Người tầm văn thủ chứng, người khổ hạnh cầu Phật, người bỏ tâm cầu Phật, người chấp tâm là Phật. Các hiểu biết đó hợp đạo không?
Thỉnh thiền sư mỗi mỗi đáp cho.

Sư đáp:

Thái hư chẳng sanh linh trí.
Chơn tâm chẳng duyên thiện ác.
Người tham dục nhiều căn cơ cạn.
Người phải quấy lăng xăng tâm chưa thông.
Người xúc cảnh sanh tâm thiếu định.
Người yên lặng quên cơ (động dụng) là huệ chìm.
Người khinh người hợm mình là ngã lớn
Người chấp không chấp có đều ngu.
Người tầm văn thủ chứng thêm kẹt, người khổ hạnh cầu Phật đều mê, người bỏ tâm cầu Phật là ngoại đạo, người chấp tâm là Phật là ma.

Thái hư bất sinh linh trí
Chân tâm bất duyên thiện ác
Thị dục thâm giả cơ tiên
Thị phi giao tranh giả vị thông
Xúc cảnh sinh tâm giả thiểu định
Tịch mịch vô cơ giả tuệ trầm
Ngạo vật cao tâm giả ngã tráng
Chấp không chấp hữu giả giai ngu
Tầm văn thủ chứng giả ích trệ
Khổ hành cầu Phật giả câu mê
Li tâm cầu Phật giả ngoại đạo
Chấp tâm thị Phật giả vi ma

太虛不生靈智
真心不緣善惡
嗜欲深者機淺
是非交爭者未通
觸境生心者少定
寂寞忘機者慧沈
傲物高心者我壯
執空執有者皆愚
尋文取證者益滯
苦行求佛者俱迷
離心求佛者外道
執心是佛者為魔.

Đại đức nói:
- Nếu như thế rốt cuộc phải không tất cả?
Sư đáp:
- Rốt cuộc là đại đức, đâu phải rốt cuộc không tất cả.

Đại đức hớn hở lễ tạ rút lui.

hoatihon
06-30-2015, 07:38 AM
Cầu Đại Niết Bàn.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/cauDaiNietban2_zpsacd7be5e.jpg

hoatihon
06-30-2015, 07:40 AM
Liễu liễu kiến.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/lieulieukien2_zps433a797b.jpg

hoatihon
06-30-2015, 07:42 AM
Tự tại.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/tutai_zps05e043c8.jpg

lavinhcuong
07-01-2015, 07:47 AM
Bài 90.


2. THIỀN SƯ PHÁP HỘI 法會 NÚI LẶC ĐÀM, HỒNG CHÂU.

Sư hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây đến?
Tổ bảo:
- Nói nhỏ thôi. Lại gần đây.
Sư lại gần. Tổ tát cho một bạt tai, bảo:
- Sáu tai không đồng mưu, khi khác đến.
Hôm sau Sư đến còn vào pháp đường, nói:
- Thỉnh Hòa thượng nói:
Tổ bảo:
- Đi đi. Đợi khi lão già này thượng đường hãy ra, sẽ chứng minh cho ông.
Sư bèn ngộ, nói:
- Cảm tạ đại chúng chứng minh.

Rồi đi nhiễu quanh pháp đường một vòng, bỏ đi.

__________________________________________

3. THIỀN SƯ TRÍ KIÊN 智堅 SAM SƠN 杉山, TRÌ CHÂU.

Lúc đầu khi Sư cùng Quy Tông và Nam Tuyền hành cước, dọc đường gặp một con cọp, mỗi người đi qua tránh phía cọp. Qua rồi, Nam Tuyền hỏi Quy Tông:
- Vừa rồi thấy cọp giống con gì?
Tông đáp:
- Giống con mèo.
Tông lại hỏi Sư, Sư đáp:
- Giống con chó.
Tông lại hỏi Nam Tuyền, Tuyền đáp:
- Tôi thấy đó là đại trùng.

------------

Trong lúc Sư ăn cơm, Nam Tuyền thu dọn cơm sống nói là “sống”, Sư nói : “không sống” (vô sinh _ 無生).
Nam Tuyền nói:
- “Không sống” còn là ngọn. (vô sinh do thị mạt _ 無生猶是末)

Nam Tuyền đi ít bước. Sư gọi lại:
- Trưởng lão, trưởng lão!
Nam Tuyền xoay đầu hỏi “Gì thế?”. Sư nói:
- Chớ nói là ngọn. (mạc đạo thị mạt _ 莫道是末 )
----------

Một hôm toàn chúng lặt rau quyết (loài dương xỉ). Nam Tuyền đưa lên một cọng, nói:
- Cái này cúng dường rất tốt.
Sư nói:
- Không những cái đó mà món ngon trăm vị y cũng chẳng màng.
Nam Tuyền nói:
- Tuy nhiên như thế, mỗi thứ phải nếm nó mới được.
(Huyền Giác hỏi: “Là lời thấy hay lời chẳng thấy?”)

(huyền giác vân 。thị tướng kiến ngữ 。bất thị tướng kiến ngữ ? )
(玄覺云:是相見語, 不是相見語)
----------

Tăng hỏi;
- Thế nào là thân xưa nay?
Sư đáp:
- Cả thế gian không cái gì tương tợ. (cử thế vô tướng tự _ 舉世無相似)

__________________________________________________


4. THIỀN SƯ DUY KIẾN 惟建 NÚI LẶC ĐÀM, HỒNG CHÂU.

Một hôm Sư tọa thiền ở sau pháp đường Mã Tổ, Tổ thấy bèn thổi tai Sư, thổi hai lần Sư xuất định, thấy đó là Hòa thượng lại nhập định. Tổ về phương trượng, sai thị giả đem một chén trà cho Sư, Sư không để mắt đến trà và tự về pháp đường.

__________________________________________________ _


5. THIỀN SƯ ĐẠO HẠNH 道行 Ở MINH KHÊ, LỄ CHÂU.

Có lúc Sư nói:
- Ta có bệnh nặng chẳng phải thế gian trị được.

Ngô hữu đại bệnh phi thế sở y.
吾有大病非世所醫.

Sau, có tăng hỏi Tiên Tào Sơn:
- Nhân người xưa nói “Ta có bệnh nặng chẳng phải thế gian trị được”. Chưa biết gọi là bệnh gì?
Tào Sơn đáp:
- Bệnh mà cả đám đông không (bệnh) được.
Hỏi:
- Tất cả chúng sanh đều có bệnh đó không?
Tào đáp:
- Mọi người đều có.
Hỏi:
- Mọi người đều có, Hòa thượng có bệnh đó không?
Tào đáp:
- Đang tìm chỗ sanh khởi không thể được.

Chính mịch khởi xứ bất đắc.
正覓起處不得

Hỏi:
- Tất cả chúng sanh vì sao không bệnh (như Hòa thượng)?
Tào đáp:
- Chúng sanh nếu bệnh như thế tức chẳng phải chúng sanh.
Hỏi:
- Chưa biết chư Phật có bệnh thế không?
Tào đáp:
- Có.
Hỏi:
- Đã có, tại sao (nói) không bệnh?
Tào đáp:
- Vì ấy tỉnh táo. (vi y tinh tinh _ 為伊惺惺)

------------

Tăng hỏi:
- Tu hành thế nào?
Sư đáp:
- Phải, ông thầy đó không làm khách.
Tăng hỏi:
- Rốt cuộc thế nào?
Sư đáp:
- Để yên một chỗ thì không được.
Tăng lại hỏi:
- Thế nào là đường tu hành đúng đắn?
Sư đáp:
- Có sau Niết bàn.
Tăng hỏi:
- Thế nào là có sau Niết bàn?
Sư đáp:
- Không rửa mặt.
Tăng nói:
- Học nhân chẳng hội.
Sư nói:
- Không có cái mặt để rửa.

lavinhcuong
07-03-2015, 07:32 AM
Bài 91.


6. THIỀN SƯ HUỆ TẠNG 慧藏 THẠCH CỦNG, PHỦ CHÂU.

Vốn chuyên nghề săn bắn, không ưa thầy chùa. Nhân lúc đuổi theo bầy nai chạy qua trước am Mã Tổ, Tổ ra đón Sư.
Tạng hỏi:
- Hòa thượng thấy con nai chạy qua không?
Tổ hỏi:
- Ông là người nào?
Đáp:
- Thợ săn.
Tổ hỏi:
- Ông biết bắn không?
Đáp:
- Biết bắn.
Tổ hỏi:
- Một mũi tên ông bắn mấy con?
Đáp:
- Một mũi tên bắn một con.
Tổ nói:
- Ông không biết bắn!
Hỏi:
- Hòa thượng biết bắn không?
Tổ đáp:
- Biết bắn.
Hỏi:
- Một mũi tên Hòa thượng bắn mấy con?
Tổ đáp:
- Một mũi tên bắn một bầy.
Tạng nói:
- Đây kia đều là sanh mạng, cần gì bắn chúng một bầy?
Tổ bảo:
- Ông đã biết như vậy, sao không tự bắn đi.
Đáp:
- Nếu bảo tôi tự bắn thì không có chỗ hạ thủ.
Tổ nói:
- Gã này vô minh phiền não nhiều kiếp, hôm nay chóng dứt.
Bấy giờ Tạng bẻ bỏ cung tên, tự lấy dao cạo tóc, đầu Tổ xuất gia.


-----------

Một hôm Sư đang chấp tác trong nhà trù. Tổ hỏi:
- Làm gì?
Đáp:
- Chăn trâu.
Tổ hỏi:
- Chăn thế nào?
Đáp:
- Mỗi khi đi vào cỏ liền nắm lỗ mũi kéo lại.
Tổ nói:
- Ông chăn trâu đúng.
Sư bèn thôi.

-----------

Về sau trụ trì, Sư thường dùng cung tên tiếp căn cơ (Như chương Hòa thượng Tam Bình thuật rõ việc đó)
Sư hỏi Tây Đường:
- Ông biết bắt hư không chăng?
Tây Đường đáp:
- Biết bắt.
Sư hỏi:
- Làm sao bắt?
Đường dùng tay tóm hư không. Sư nói:
- Như thế làm sao bắt được hư không?
Đường lại hỏi:
- Sư huynh bắt thế nào?
Sư nắm kéo cái lỗ mũi Tây Đường. Tây Đường bị đau la lớn, nói:
- Kéo cái lỗ mũi người ta đau muốn chết, buông ra đi!
Sư nói:
- Phải như thế, bắt hư không mới được.

------------

Trong buổi chúng tăng tham vấn. Sư hỏi:
- Cái mới đây đâu rồi.
Có tăng đáp:
- Vẫn còn.
Sư hỏi:
- Còn ở đâu?
Tăng ấy khảy ngón tay một tiếng.

------------

Có tăng đến lễ bái. Sư hỏi:
- Đem được cái ấy đến không?
Tăng đáp:
- Đem được.
Sư hỏi:
- Ở đâu?
Tăng khảy ngón tay ba tiếng.


-----------

Hỏi:
- Làm sao khỏi sanh tử được?
Như hà miễn đắc sinh tử ?
如何免得生死?

Sư đáp:
- Khỏi để làm gì?
Dụng miễn tác thập ma ?
用免作什麼 ?

Tăng hỏi:
- Làm sao khỏi được?
Như hà miễn đắc ?
如何免得 ?

Sư đáp:
- Cái ấy không sanh tử !
Già để bất sinh tử !
遮底不生死 !

lavinhcuong
07-03-2015, 07:37 AM
Bài 92.

7. THIỀN SƯ ĐẠO THÔNG 道通 NÚI TỬ NGỌC, ĐƯỜNG CHÂU.


Người Lư Giang, họ Hà. Hồi nhỏ theo cha làm quan ở huyện Nam An Tuyền Châu, nhân đó xuất gia.
Năm đầu Đường Thiên Bảo 742 (Đường Huyền Tông), Mã Tổ xiển hóa Kiến Dương ở hang núi Phật Tích, Sư đến tham yết Tổ. Sau Tổ dời đến núi Cung Công ở Nam Khang, Sư cũng đi theo. Năm Trinh Nguyên thứ tư 788 (Đường Đức Tông), đầu tháng hai Mã Tổ sắp quy tịch, bảo Sư:
- Phàm ngọc thạch nhuận sơn xinh đẹp giúp ích cho đạo nghiệp ông, gặp cảnh đó nên ở.

Sư không hiểu lời nói đó. Mùa Thu năm ấy, Sư cùng thiền sư Tự Tại núi Phục Ngưu, đi Lạc Dương; khi đến Đường Châu trông thấy một hòn núi phía tây, ngọn núi nhọn đặc biệt kỳ dị, khác xa với những dải núi xung quanh. Nhân hỏi người địa phương, đáp là núi Tử Ngọc, Sư bèn leo lên đỉnh núi thấy đá vuông vức ngay ngắn óng ánh màu tía. Sư mừng, cảm thán:
- Tử Ngọc kia rồi!
Nhớ lại lời tiên sư đã huyền ký, Sư cắt tranh làm nhà và ở đó. Sau học đồ bốn phương tụ tập.
Tăng hỏi:
- Làm sao ra được tam giới?
Sư hỏi:
- Ông ở trong đó khoảng bao lâu rồi?
Tăng hỏi:
- Làm sao ra khỏi?
Sư đáp:
- Núi xanh chẳng ngại mây trắng bay.

Thanh sơn bất ngại bạch vân phi
青山不礙白雲飛

-----------

Vu Địch tướng công hỏi:
- Thế nào là hắc phong thổi thuyền bè trôi giạt vào cõi nước quỹ La sát?
Sư nói:
- Gã ở đợ Vu Địch này, muốn biết chuyện ấy ra sao hả?
Vu công thất sắc. Sư bèn chỉ công nói:
- Cái đó là trôi giạt vào nước quỹ La sát.
Vu lại hỏi:
- Thế nào là Phật?

Như hà thị Phật?
如何是佛?

Sư gọi “Vu Địch”, Địch ứng “Dạ”. Sư nói:
- Chớ cầu thêm cái nào khác.
(Có tăng nêu hỏi Dược Sơn, Dược Sơn đáp “Gã đó kẹt chết đi!”. Tăng hỏi “Hòa thượng thế nào?”. Dược Sơn cũng gọi tên ông tăng như thế, Tăng ứng “Dạ”. Dược Sơn hỏi “Là gì?”).
Năm Nguyên Hòa thứ tám (813 – Đường Hiến Tông), đệ tử Kim Tạng đã tham kiến Bá Trượng trở về, lễ ra mắt Sư.
Sư nói:
- Ông còn về đó, núi này có chủ.
Do đó giao phó Kim Tạng xong, Sư chống gậy đi thẳng đến Tương Châu, người đạo kẻ tục nghênh đón Sư. Đến ngày rằm tháng 7 năm 813, Sư không bệnh mà mất. Thọ 83 tuổi.


*
* *


8. THIỀN SƯ LAN NHƯỢNG 蘭讓, GIANG TÂY BẮC.

Trưởng lão Lượng ở Hồ Đường hỏi:
- Kính dâng sư huynh bức họa chơn tướng của Tiên sư, xin tạm mời chiêm lễ.
Sư dùng hai tay vạch ngực khai thị, Lượng liền lễ bái.
Sư nói:
- Đừng lễ, đừng lễ.
Lượng nói:
- Sư huynh lầm rồi, tôi không lễ sư huynh.
Sư hỏi:
- Ông lễ chơn tướng tiên sư?
Lượng hỏi:
- Tại sao bảo tôi đừng lễ?
Sư đáp:
- Có bao giờ lầm đâu?

lavinhcuong
07-03-2015, 07:40 AM
Bài 93.


9. THIỀN SƯ NHƯ MÃN 如滿 CHÙA PHẬT QUANG, LẠC KINH.

(Từng trụ chùa Kim Các ở Ngũ Đài Sơn).


Vua Đường Thuận Tông (805) hỏi:
- Phật từ đâu đến, chết rồi về đâu? Đã nói thường trụ thế gian, Phật nay ở đâu?

Phật tùng hà phương lai, diệt hướng hà phương khứ ? Kí ngôn thường trụ thế, Phật kim tại hà xứ ?
佛從何方來滅向何方去? 既言常住世, 佛今在何處 ?

Sư đáp:
Phật từ vô vi đến, chết rồi về vô vi. Pháp thân đồng hư không, thường còn ở chỗ vô tâm, có niệm thì quy về vô niệm, có trụ thì quy về vô trụ, đến vì chúng sanh đến, đi vì chúng sanh mà đi. Biển chơn như thanh tịnh, thể trạm nhiên thường trụ. Người trí khéo suy lường, lại chớ sanh lo nghĩ ngờ vực.

Phật tùng vô vi lai, diệt hướng vô vi khứ. Pháp thân đẳng hư không, thường tại vô tâm xứ. Hữu niệm quy vô niệm, hữu trụ quy vô trụ. Lai vi chúng sinh lai, khứ vi chúng sinh khứ, thanh tịnh chân như hải, đam nhiên thể thường trụ. Trí giả thiện tư duy, canh vật sinh nghi lự.
佛從無為來, 滅向無為去. 法身等虛空, 常在無心處.有念歸無念, 有住歸無住. 來為眾生來, 去為眾生去.清淨真如海, 湛然體常住. 智者善思惟,更勿生疑慮.

Vua lại hỏi:
- Phật đãn sanh ở cung vua, chết dưới cây song lâm, trụ thế 49 năm, lại nói không có pháp để thuyết. Núi sông và đại hải, trời đất cùng nhật nguyệt đến lúc đều trở lại không thì nói cái gì chẳng sanh diệt? Nghi tình còn như thế, mong bậc trí giả khéo vì phân biệt cho.

Phật hướng vương cung sinh, diệt hướng song lâm diệt, trụ thế tứ thập cửu, hựu ngôn vô pháp thuyết. Sơn hà cập đại hải, thiên địa cập nhật nguyệt, thời chí giai quy tận, thùy ngôn bất sinh diệt, nghi tình do nhược tư, trí giả thiện phân biệt.
佛向王宮生, 滅向雙林滅, 住世四十九,又言無法說. 山河及大海, 天地及日月, 時至皆歸盡, 誰言不生滅, 疑情猶若斯, 智者善分別.

Sư đáp:
- Phật thể vốn vô vi, theo mê tình mà vọng phân biệt, pháp thân đồng hư không chưa từng có sanh diệt. Hữu duyên Phật xuất thế hết duyên Phật nhập diệt, giáo hóa chúng sanh khắp mọi nơi như trăng trong nước, chẳng phải thường cũng chẳng phải đoạn, chẳng phải sanh cũng chẳng phải diệt, sanh cũng chưa từng sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Thấy rõ ràng chỗ vô tâm thì tự nhiên không có pháp để nói.
Phật thể bản vô vi, mê tình vọng phân biệt, pháp thân đẳng hư không, vị tằng hữu sinh diệt. Hữu duyên Phật xuất thế, vô duyên Phật nhập diệt, xứ xứ hoá chúng sinh, do như thuỷ trung nguyệt, phi thường diệc phi đoán, phi sinh diệc phi diệt. Sinh diệc vị tằng sinh, diệt diệc vị tằng diệt, liễu kiến vô tâm xứ, tự nhiên vô pháp thuyết.
佛體本無為, 迷情妄分別,法身等虛空, 未曾有生滅. 有緣佛出世, 無緣佛入滅, 處處化眾生, 猶如水中月,非常亦非斷, 非生亦非滅. 生亦未曾生, 滅亦未曾滅,了見無心處, 自然無法說.

Vua nghe xong rất vui mừng, càng kính trọng thiền tông.



*
* *



10. THIỀN SƯ ĐẠO MINH 道明NAM NGUYÊN, VIÊN CHÂU.

Sư thượng đường:
- Ngựa mau chóng một roi, người lanh lợi một lời (nhất ngôn). Hữu sự sao chẳng lộ đầu? Mỗi người tự vô sự. Trân trọng!


Sư bèn xuống tòa.
Có tăng hỏi:
- Một lời đó, ra sao?
Sư ngập ngừng đáp:
- Đợi ta có tướng lưỡi rộng dài (quảng trường thiệt tướng) sẽ nói với ông.


--------

Động Sơn đến tham kiến, vừa lên pháp đường. Sư nói:
- Thoạt nhìn đã biết.
Dĩ tướng khán liễu dã.
已相看了也.

Động Sơn liền đi xuống. Hôm sau Sơn lại lên, hỏi:
- Hôm qua nhờ ơn Hòa thượng từ bi, đại khái biết chỗ nào xin giúp cho, đâu là chỗ cái tướng của con biểu lộ ra ngoài?
Tạc nhật dĩ mông hòa thượng từ bi, đại tri thập ma xứ thị dữ, mỗ
giáp dĩ tướng khán xứ.
昨日已蒙和尚慈悲, 大知什麼處是與, 某甲已相看處.


Sư đáp:
- Tâm tâm không gián đoạn, hòa nhập vào tánh hải.
Tâm tâm vô gian đoán, lưu nhập ư tính hải.
心心無間斷, 流入於性海.


Động Sơn nói:
- Xin bỏ lỗi cho.
Kỉ phóng quá.
幾放過.

Động Sơn từ giã ra đi. Sư nói:
- Học nhiều Phật pháp, rộng làm việc lợi ích.
Động Sơn hỏi:
- Học nhiều Phật pháp thì không hỏi, thế nào là rộng làm việc lợi ích?
Sư đáp:
- Không bỏ một pháp nhỏ.
Nhất vật mạc vi tức thị.
一物莫違即是.

----------

Tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Không thể nói thế nào (là đúng) !
Bất khả đạo nhĩ thị dã.
不可道爾是也.

lavinhcuong
07-04-2015, 09:26 AM
Bài 94.

11. THIỀN SƯ TỰ MÃN 自滿 LY THÔN 酈村, HÀN CHÂU.


Sư thượng đường dạy:
- Pháp nhĩ như thế, xưa nay không khác, lại còn gì nữa? Tuy nhiên cái việc lớn này vẫn có người không thực hiện được.
Cổ kim bất dị pháp nhĩ như nhiên, canh phục hà dã. Tuy nhiên như thử, già cá sự đại hữu nhân võng thố tại.
古今不異法爾如然,更復何也. 雖然如此, 遮箇事大有人罔措在.

Bấy giờ có tăng hỏi:
- Chẳng rơi vào xưa nay, mời Sư nói thẳng.
Bất lạc cổ kim thỉnh sư trực đạo.
不落古今請師直道

Sư đáp:
- Biết ngay là ông trớt quớt !
Tình tri nhữ võng thố
情知汝罔措 !
Tăng định nói thêm. Sư bảo:
- Tưởng là lão tăng rơi vào "cái xưa nay" ấy.
Tương vị lão tăng lạc y cổ kim.
將謂老僧落伊古今

Tăng hỏi:
- Thế nào mới phải?
Sư đáp:
- Cá khó bay vượt qua giai cấp của Lão mắt biếc (Đạt Ma Tổ sư)
Ngư đằng bích hán giai cấp nan phi.
魚騰碧漢階級難飛.

Tăng hỏi:
- Làm sao mới tránh được lỗi đó?
Sư nói:
- Nếu là hình tướng con rồng, còn nói gì cao thấp?
Nhược thị long hình, thùy luận cao hạ.
若是龍形, 誰論高下.

Tăng ấy lễ bái. Sư nói:
- Khổ thay, nhục thay ! Có ai giống như ta?
Khổ tai quật tai thùy nhân tự ngã?
苦哉屈哉誰人似我 ?

-----------

Một hôm Sư bảo chúng:
- Dẹp hết sáng tối còn nói cái gì được, cái hay là chỗ đó.
Trừ khước nhật minh dạ ám canh thuyết thập ma, tức đắc trân trùng.
除却日明夜暗更說什麼, 即得珍重.

Lúc đó có vị tăng hỏi:
- Thế nào là câu nói không dính mắc?
Như hà thị vô tránh chi cú.
如何是無諍之句.


Sư đáp:
- Vang động trời đất.
Huyên thiên động địa.
喧天動地.

lavinhcuong
07-04-2015, 09:28 AM
Bài 95.

12. THIỀN SƯ HỒNG ÂN 洪恩 TRUNG ẤP 中邑, LÃNG CHÂU.

Ngưỡng Sơn mới lãnh thọ giới sa di, đến lễ tạ Sư truyền giới. Thấy Ngưỡng Sơn đến, Sư đang ngồi trên giường thiền vỗ tay, nói:
- Hòa hòa. (和和)

Ngưỡng Sơn qua bên Đông đứng, lại qua bên Tây đứng, rồi vào giữa đứng. Sau khi lễ tạ xong lại lui đằng sau đứng.

Sư hỏi:
- Được Tam muội đó ở đâu vậy?
Thập ma xứ đắc thử Tam muội ?
什麼處得此三昧 ?

Ngưỡng Sơn đáp:
- Dạ, con học được “con dấu cởi trói” đó ở Tào Khê.
Ư Tào khê thoát ấn tử học lai.
於曹谿脫印子學來.

Sư hỏi:
- Ông thử nói xem, Tào Khê dùng Tam muội đó tiếp người nào?
Ngưỡng đáp:
- Dùng Tam muội đó tiếp Nhất Túc Giác.
Ngưỡng hỏi:
- Hòa thượng được Tam muội đó ở đâu?
Sư đáp:
- Ta học Tam muội đó ở Mã Đại sư.
Hỏi:
- Thế nào được kiến tánh?
Sư đáp:
- Thí dụ có cái nhà, có sáu cửa sổ. Trong đó có một con khỉ, phía cửa Đông nó kêu "sơn sơn" (山山), ở ngoài cửa liền đáp "sơn sơn" . Sáu cửa đều kêu, đều đáp nhau như thế. (Chỉ là tiếng vọng, không thật !)

Ngưỡng Sơn lễ tạ, đứng dậy hỏi:
- Nhờ ơn Hòa thượng cho thí dụ con hiểu rõ rồi. Nhưng còn một việc, giả như con khỉ ở trong mệt ngủ, con khỉ ngoài muốn gặp nó thì làm sao?

Sư bước xuống giường thiền nắm tay Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói:

- Sơn sơn ! ta cùng ông gặp nhau rồi ! Ví như loài sâu tiêu minh làm tổ trên lông mi mắt con muỗi, hướng ra đầu ngã tư đường kêu to “Đất rộng mênh mông mà có thấy ai đâu !”.
Sơn sơn dữ nhữ tướng kiến liễu, thí như minh trùng, tại văn tử nhãn tiệp thượng tác khoà, hướng thập tự nhai đầu khiếu hoán vân, độ khoáng nhân hi tướng phùng giả thiểu.
山山與汝相見了, 譬如蟭螟蟲, 在蚊子眼睫上作窠, 向十字街頭叫喚云, 土曠人稀相逢者少.

(Vân Cư Tích nói:
- Lúc đó nếu Trung Ấp không xong với một câu nói đó của Ngưỡng Sơn thì ở đâu có Trung Ấp?
Sùng Thọ Trù hỏi:
- Có ai xác định được đạo lý đó không? Nếu xác định không được thì (Trung Ấp) chỉ là kẻ dùng tay chân để huyễn hoặc người, nghĩa Phật tánh ở chỗ nào?
Huyền Giác nói:
- Nếu không phải Ngưỡng Sơn, sao thấy được Trung Ấp? Hãy nói “Đâu là chỗ Ngưỡng Sơn thấy được Trung Ấp?”)

lavinhcuong
07-04-2015, 09:40 AM
Bài 96.


13. THIỀN SƯ HOÀI HẢI 懷海 NÚI BÁ TRƯỢNG百丈, HỒNG CHÂU.

Người Trường Lạc, Phước Châu. Tuổi nhỏ xuất gia, tam học đều biết kỹ và có nhiều kinh nghiệm.
Gặp lúc ngày Đại Tịch (Mã Tổ) xiển hóa ở Nam Khang, Sư hết lòng nương tựa, cùng thiền sư Tây Đường Trí Tạng đồng hiệu nhập thất. Bấy giờ hai vị đại sĩ nầy làm trụ cột ở đó.
Một buổi tối, hai vị đại sĩ theo hầu Mã Tổ ngắm trăng. Tổ hỏi:
- Bây giờ nên làm gì?
Chính nhẫm ma thời như hà ?
正恁麼時如何 ?

Tây Đường đáp:
- Nên cúng dường.
Chính hảo cung dưỡng.
正好供養.

Sư đáp:
- Nên tu hành.
Chính hảo tu hành.
正好修行

Tổ nói:
- Kinh vào Tạng (Trí Tạng), Thiền về Hải.

---------

Mã Tổ thượng đường, đại chúng vân tập. Tổ vừa thăng tòa một lát, Sư cuốn chiếu rồi lễ bái trước chúng. Tổ liền xuống tòa.

---------

Một hôm Sư đến Mã Tổ tái tham. Tổ lấy cây phất tử treo ở góc giường thiền dạy Sư. Sư nói:
- Chỉ là cái đó, đâu có chi khác.
Chỉ già cá canh biệt hữu.
只遮箇更別有.

Tổ lại để cây phất tử y chỗ cũ, hỏi:
- Thế ấy, về sau lấy gì dạy người?
Nhĩ dĩ hậu tương thập ma hà vi nhân ?
爾已後將什麼何為人?

Sư lại lấy cây phất tử đưa lên. Tổ nói:
- Chỉ là cái đó, đâu có chi khác.
Chỉ già cá canh biệt hữu.
只遮箇更別有.

Sư cầm cây phất tử treo vào chỗ cũ. Vừa đứng hầu, Tổ hét Sư.
Từ đó tiếng tăm Sư vang lừng, sau cùng đàn na tín thí thỉnh Sư đến vùng ranh giới Hồng Châu, Tân Ngô. Sư trụ ở núi Đại Hùng, vì nơi cư trú non cao hiểm trở nên thời nhân gọi Sư là Bá Trượng. Sư ở đây chưa đầy tháng mà khách tham học huyền môn bốn phương kéo đến, đứng đầu có Quy Sơn, Hoàng Bá.

----------

Một hôm Sư bảo chúng:
- Phật pháp không phải là chuyện nhỏ. Lúc trước, lão Tăng tái tham, được một tiếng hét của Mã Đại sư đến nỗi ba ngày điếc tai mờ mắt.
Phật pháp bất thị tiểu sự, lão Tăng tích tái mông Mã đại sư nhất ái, trực đắc tam nhật nhĩ lung nhãn hắc.
佛法不是小事, 老僧昔再蒙馬大師一喝, 直得三日耳聾眼黑.

Hoàng Bá nghe kể bất giác le lưỡi, thưa:
- Con chẳng biết Mã Tổ, nhưng lại chẳng gặp Mã Tổ.
Sư nói:
- Ông về sau sẽ nối pháp Mã Tổ.
Hoàng Bá nói:
- Con chẳng nối pháp Mã Tổ.
Sư hỏi:
- Vì sao?
Đáp:
- (Nếu con nối pháp Mã Tổ) Về sau sẽ mất hết con cháu của con.
Dĩ hậu tang ngã nhi tôn.
已後喪我兒孫.

Sư nói:
- Như thế, như thế.

-----------

Một hôm có tăng vào pháp đường, khóc.
Sư hỏi:
- Sao vậy?
Tăng thưa:
- Cha mẹ đều mất, xin thầy chọn ngày cho.
Sư nói:
- Ngày mai chôn luôn một lượt.
Minh nhật lai nhất thời mai khước.
明日來一時埋却.

------------

Sư thượng đường dạy:
- Dẹp hết cổ họng môi mép, hãy nói ra mau.
Tính khước ân hầu thần vẫn tốc đạo tương lai.
併却咽喉脣吻速道將來.

Quy Sơn thưa;
- Con nói không được, thỉnh Hòa thượng nói.
Mỗ giáp bất đạo thỉnh hòa thượng đạo.
某甲不道請和尚道.

Sư bảo:
- Chẳng từ chối nói với ông, chỉ e về sau mất hết con cháu ta.
Bất từ dữ nhữ đạo, cửu hậu tang ngã nhi tôn.
不辭與汝道, 久後喪我兒孫.

Cửu Phong nói:
- Hòa thượng cũng nên dẹp hết đi.
Hòa thượng diệc tu tính khước.
和尚亦須併却.

Sư bảo:
- Chỗ không có ai, ta bửa cái trán mà trông ông.
Vô nhân xứ, chước ngạch vọng nhữ.
無人處, 斫額望汝.

Vân Nham nói:
- Con có chỗ để nói, thỉnh Hòa thượng nêu.
Sư nêu:
- Dẹp hết cổ họng môi mép, hãy nói ra mau.
Tính khước ân hầu thần vẫn tốc đạo tương lai.
併却咽喉脣吻速道將來.

Vân Nham nói:
- Thầy hiện nay có rồi.
Sư nói:
- Mất hết con cháu ta!

--------------

Sư bảo chúng:
- Ta cần một người chuyển lời đến Hòa thượng Tây Đường, ai đi được?
Ngũ Phong thưa:
- Con đi.
Sư hỏi:
- Ông làm sao chuyển lời?
Ngũ Phong đáp:
- Đợi khi gặp Tây Đường mới nói.
Sư hỏi:
- Nói gì?
Ngũ Phong đáp:
- Vẫn nói giống như Hòa thượng.

-------------

Sư và Quy Sơn đang công việc, Sư hỏi:
- Có lửa không?
Quy Sơn đáp:
- Có.
Sư hỏi:
- Ở đâu?
Quy Sơn cầm một cành cây thổi vài hơi rồi đưa qua Sư.
Sư nói:
- Như loài trùng ăn cây.

------------

Hỏi:
- Thế nào là Phật?
Sư hỏi:
- Ông là ai?
Tăng đáp:
- Con.
Sư hỏi:
- Ông biết “con” không?
Tăng đáp:
- Cái rõ ràng.
Phân minh cá
分明箇

Sư đưa cây phất tử lên, hỏi:
- Ông thấy chăng?
Tăng đáp:
- Thấy.
Sư không nói nữa.

-----------

Nhân có lần tất cả chúng đang cuốc đất, nghe tiếng trống báo cơm chợt có một vị tăng giơ cái cuốc lên, cười to rồi trở về. Sư nói:
- Hay thay! Đây là cửa Quán âm nhập lý.
Về viện rồi, Sư gọi vị tăng ấy đến, hỏi:
- Vừa rồi thấy đạo lý gì mà như thế hả?
Đáp:
- Vừa rồi chỉ nghe tiếng trống động, trở về ăn cơm thôi.
Sư cười.

----------

Hỏi:
- "Y Kinh giải nghĩa oan cho Phật ba đời, lìa Kinh một chữ đồng như Ma nói", là sao?
"Y Kinh giải nghĩa Tam thế Phật oán, ly Kinh nhất tự như đồng ma thuyết" như hà ?
依經解義三世佛怨, 離經一字如同魔說如何 ?

Sư đáp:
- Cố chấp cái động dụng oan cho Phật ba đời, cầu Phật chỗ khác tức đồng ma nói.
Cố thủ động dụng Tam thế Phật oán, thử ngoại biệt cầu tức đồng ma thuyết.
固守動用三世佛怨, 此外別求即同魔說.

-----------

Nhân ông tăng hỏi Tây Đường.
- Có hỏi có đáp tự nhiên rồi ! không hỏi không đáp lúc đó thế nào?
Hữu vấn hữu đáp, bất vấn bất đáp thời như hà ?
有問有答, 不問不答時如何?

Tây Đường đáp:
- E rằng nát bét sao?
Phạ lạn khước tác ma ?
怕爛却作麼?

Sư nghe thuật lại, bèn nói:
- Trước giờ ta vẫn nghi Lão huynh đó.
Tùng lai nghi già cá lão huynh.
從來疑遮箇老兄.

Tăng thưa:
- Thỉnh Hòa thượng nói.
Sư đáp:
- “Nhất hợp tướng” không thể được.
Nhất hợp tướng bất khả đắc.
一合相不可得.

-----------

Sư dạy chúng:
“Có một người lâu rồi không ăn cơm mà chẳng kêu đói, có một người ăn cơm suốt ngày mà chẳng nói no”.
Hữu nhất nhân trường bất khiết phạn bất đạo cơ, hữu nhất nhân chung nhật khiết phạn bất đạo bão.
有一人長不喫飯不道饑, 有一人終日喫飯不道飽.

Chúng đều không đáp được.

-------------

Vân Nham hỏi:
- Hòa thượng mỗi ngày bận rộn vì ai?
Sư đáp:
- Có một người yêu cầu.
Nham hỏi:
- Sao chẳng bảo y tự làm lấy?
Sư đáp:
- Y không có việc nhà.

lavinhcuong
07-05-2015, 09:04 AM
Bài 97.


THIỀN SƯ HOÀI HẢI 懷海 NÚI BÁ TRƯỢNG 百丈.

(tiếp theo 1)

Tăng hỏi:
- Thế nào là pháp môn đại thừa đốn ngộ?
Sư đáp:
- Trước hết các ông ngưng các duyên, ngừng nghỉ muôn việc thiện và bất thiện, thế gian và xuất thế gian. Đừng ghi nhớ, đừng nghĩ đến tất cả các pháp, buông xả thân tâm cho nó tự tại. Tâm như gỗ đá không có chỗ để biện biệt, tâm không có chỗ để hành. Tâm địa rỗng không như thế thì mặt trời trí tuệ tự hiện, như vẹt mây mặt trời hiện.

Nhữ đẳng tiên yết chư duyên hưu tức vạn sự, thiện dữ bất thiện thế xuất thế gian. Nhất thiết chư pháp, mạc kí ức mạc duyên niệm, phóng xả thân tâm linh kì tự tại. Tâm như mộc thạch vô sở biện biệt, tâm vô sở hành, tâm địa nhược không, tuệ nhật tự hiện như vân khai nhật xuất .

汝等先歇諸緣休息萬事, 善與不善世出世間. 一切諸法, 莫記憶莫緣念, 放捨身心令其自在. 心如木石無所辯別, 心無所行心地若空, 慧日自現如雲開日出.

Cái tương tợ đều ngưng, hết sạch cái tình tham sân ái, cái chấp cấu tịnh và tất cả phan duyên; đối với ngũ dục bát phong mà không bị kiến văn giác tri trói buộc. Chẳng bị các cảnh giới làm mê hoặc thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người giải thoát.

Tướng tự câu yết, nhất thiết phàn duyên, tham sân ái thủ cấu tịnh tình tận; đối ngũ dục bát phong, bất bí kiến văn giác tri sở phọc. Bất bí chư cảnh sở hoặc, tự nhiên cụ túc thần thông diệu dụng, thị giải thoát nhân.

相似俱歇, 一切攀緣, 貪瞋愛取垢淨情盡; 對五欲八風, 不被見聞覺知所縛. 不被諸境所惑, 自然具足神通妙用, 是解脫人.

Đối với tất cả cảnh tâm không có tịnh loạn, không giữ không buông, thấu suốt tất cả thanh sắc … không còn vướng ngại, gọi là đạo nhân.

Đối nhất thiết cảnh tâm vô tĩnh loạn, bất nhiếp bất tán, thấu nhất thiết thanh sắc vô hữu trệ ngại, danh vi đạo nhân.

對一切境心無靜亂, 不攝不散, 透一切聲色無有滯礙, 名為道人.

Chỉ cần không bị tất cả việc thiện ác, dơ sạch, phước trí hữu vi thế gian bó buộc thì gọi là huệ Phật.
Các tri kiến về thị phi, tốt xấu, lý đúng lý sai đều sạch, tâm tự tại không có chỗ bị ràng buộc, đó gọi là Bồ tát sơ phát tâm sẽ lên Phật địa.

Đãn bất bí nhất thiết thiện ác cấu tịnh hữu vi thế gian phúc trí câu hệ, tức danh vi Phật tuệ. Thị phi hảo xú thị lí phi lí chư tri kiến tổng tận, bất bí hệ phọc xứ tâm tự tại, danh Sơ phát tâm Bồ tát, tiện đăng Phật địa.

但不被一切善惡垢淨有為世間福智拘 , 即名為佛慧. 是非好醜是理非理諸知見總盡, 不被繫縛處心自在, 名初發心菩薩, 便登佛地.

Tất cả chư pháp vốn chẳng tự nói mình không, chẳng tự nói sắc, cũng không nói phải quấy dơ sạch, cũng không có tâm ràng buộc người. Chỉ tự người chấp trước hư vọng suy tính, tạo ra biết bao thứ hiểu biết, sanh ra biết bao thứ tri kiến.

Nhất thiết chư pháp bản bất tự không, bất tự ngôn sắc, diệc bất ngôn thị phi cấu tịnh, diệc vô tâm hệ phọc nhân. Đãn nhân tự hư vọng kế trước, tác nhược can chủng giải, khởi nhược can chủng tri kiến.

一切諸法本不自空, 不自言色, 亦不言是非垢淨, 亦無心繫縛人. 但人自虛妄計著, 作若干種解, 起若干種知見.

Tâm cấu tịnh như thế hết sạch, chẳng trụ ràng buộc chẳng trụ giải thoát, không tất cả tâm lượng hữu vi vô vi, ràng buộc giải thoát bình đẳng, ở nơi sanh tử mà tâm ấy tự tại, rốt cuộc chẳng hòa hợp với các nhập sanh tử, uẩn giới trần lao hư huyễn. Xa hẳn, chẳng nương chẳng tựa tất cả, đi ở không ngại, đối với chuyện sanh tử đi về giống như cửa đã mở toang (muốn đi thì đi, muốn về thì về).

Nhược cấu tịnh tâm tận, bất trụ hệ phọc bất trụ giải thoát, vô nhất thiết hữu vi vô vi, giải bình đẳng tâm lượng, xứ ư sinh tử kì tâm tự tại, tất cánh bất dữ hư ảo trần lao uẩn giới sinh tử chư nhập hòa hợp. Huýnh nhiên vô kí nhất thiết bất câu, khứ lưu vô ngại, vãng lai sinh tử như môn khai tướng tự.

若垢淨心盡, 不住繫縛不住解脫, 無一切有為無為, 解平等心量, 處於生死其心自在, 畢竟不與虛幻塵勞蘊界生死諸入和合. 逈然無寄一切不拘去留無礙, 往來生死如門開相似.

Nếu gặp cảnh đủ thứ khổ vui chẳng xứng ý, mà tâm không thối lui, không nghĩ đến danh vọng y thực, không tham tất cả công đức lợi ích, thì không bị kẹt trong pháp thế gian.

Nhược ngộ chủng chủng khổ lạc bất xưng ý sự tâm vô thối quật, bất niệm danh văn y thực, bất tham nhất thiết công đức lợi ích, bất vi thế pháp chi sở trệ.

若遇種種苦樂不稱意事心無退屈, 不念名聞衣食, 不貪一切功德利益, 不為世法之所滯.


Tâm tuy tự thọ khổ vui mà trong lòng chẳng can hệ, ăn đơn sơ nuôi mạng sống, áo vá phòng nóng lạnh, ngây ngây như ngu như điếc mới có chút phần gần gũi.

Tâm tuy thân thụ khổ lạc bất can vu hoài, thô thực tiếp mệnh bổ y ngự hàn thử, ô ô như ngu như lung tướng tự sảo hữu thân phân.

心雖親受苦樂不干于懷, 麁食接命補衣禦寒暑, 兀兀如愚如聾相似稍有親分.


Ở trong sanh tử, học rộng tri giải, cầu phước cầu trí với lý đều vô ích, trái lại bị gió cảnh tri giải thổi, lại trở về trong biển sanh tử.

Ư sinh tử trung quảng học tri giải, cầu phúc cầu trí ư lí vô ích, khước bí giải cảnh phong phiêu, khước quy sinh tử hải lí.

於生死中廣學知解, 求福求智於理無益, 却被解境風漂, 却歸生死海裏.

Phật là người vô cầu, cầu đó liền trái lý, lý vô cầu thế đó, cầu đó tức hỏng. Nếu chấp nơi vô cầu lại đồng với hữu cầu.

Phật thị vô cầu nhân, cầu chi tức quai lí, thị vô cầu lí cầu chi tức thất. Nhược thủ ư vô cầu phục đồng ư hữu cầu.

佛是無求人, 求之即乖理, 是無求理求之即失. 若取於無求復同於有求.

Pháp đó vô thực vô hư, nếu hay một đời tâm như gỗ đá, không bị ấm giới ngũ dục bát phong lôi cuốn chìm nổi lênh đênh thì nhân sanh tử đứt đoạn, đi ở tự do, chẳng bị tất cả nhân quả hữu vi ràng buộc.

Thử pháp vô thật vô hư, nhược năng nhất sinh tâm như mộc thạch tướng tự, bất vi ấm giới ngũ dục bát phong chi sở phiêu nịch, tức sinh tử nhân đoán khứ trụ tự do, bất vi nhất thiết hữu vi nhân quả sở phọc.

此法無實無虛, 若能一生心如木石相似, 不為陰界五欲八風之所漂溺, 即生死因斷去住自由, 不為一切有為因果所縛.

Mai sau đem Thân không ràng buộc mà sống tương tợ, gần gủi giúp đở muôn loài; đem Tâm không vướng víu giáo hoá chúng sanh; đem Trí tuệ tuyệt đối soi sáng trần mê, cũng hay tùy căn cơ chúng sinh mà có phương tiện thích hợp.

Tha thời hoàn dữ vô phọc thân đồng lợi vật, dĩ vô phọc tâm ưng nhất thiết tâm, dĩ vô phọc tuệ giải nhất thiết phọc, diệc năng ưng bệnh dữ dược.

他時還與無縛身同利物, 以無縛心應一切心, 以無縛慧解一切縛, 亦能應病與藥.

hoatihon
07-05-2015, 09:08 AM
Vân khai nhật xuất.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/batruong1_zps5d746133.jpg

hoatihon
07-05-2015, 09:09 AM
Sơ phát tâm Bồ tát.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/batruong2_zps2845c5e5.jpg

hoatihon
07-05-2015, 09:11 AM
Không bỏ chúng sinh.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/batruong3_zpsdd2620dc.jpg

lavinhcuong
07-05-2015, 09:21 AM
Bài 98.


THIỀN SƯ HOÀI HẢI 懷海 NÚI BÁ TRƯỢNG 百丈.

(tiếp theo 2)

Tăng hỏi:
- Như hiện nay thọ trì giới, thân khẩu thanh tịnh rồi, đầy đủ các pháp thiện, được giải thoát không?
Đáp:
- Giải thoát ít phần, chưa được giải thoát tâm, chưa được giải thoát tất cả.
Hỏi:
- Thế nào là giải thoát tâm?
Đáp:

- Chẳng cầu Phật, chẳng cầu tri giải, thôi hết tình cảm dơ sạch cũng chẳng chấp đó là vô cầu. Đó cũng là chẳng trụ chỗ thôi hết, cũng chẳng sợ mắc Địa ngục, chẳng ham cái vui Thiên đường, chẳng vướng tất cả pháp mới gọi là giải thoát, vô ngại ngay thân tâm và tất cả gọi là giải thoát.

Bất cầu Phật bất cầu tri giải, cấu tịnh tình tận diệc bất thủ thử vô cầu vi. Thị diệc bất trụ tận xứ, diệc bất úy Địa ngục phọc, bất ái Thiên đường lạc, nhất thiết pháp bất câu, thuỷ danh vi giải thoát vô ngại, tức thân tâm cập nhất thiết giai danh giải thoát.

不求佛不求知解, 垢淨情盡亦不守此無求為. 是亦不住盡處, 亦不畏地獄縛, 不愛天堂樂, 一切法不拘, 始名為解脫無礙, 即身心及一切皆名解脫.


- Ông đừng nói có ít phần giữ giới và làm vài việc thiện, tưởng là được rồi, hãy còn có hằng sa pháp môn giới định tuệ vô lậu mà ông đều chưa hề trải qua một chút nào.

Nhữ mạc ngôn hữu thiểu phân giới thiện tương vi tiện liễu, hữu hà sa vô lậu giới định tuệ môn, đô vị thiệp nhất hào tại.

汝莫言有少分戒善將為便了, 有河沙無漏戒定慧門, 都未涉一毫在.


- Hãy nỗ lực dũng mãnh thực hiện sớm vậy, chớ đợi tai điếc mắt mờ, đầu bạc mặt nhăn, già khổ đến thân, nước mắt lưng tròng, trong lòng hốt hoảng vì chưa có chỗ đi, đến lúc ấy muốn điều chỉnh tay chân nào được đâu.
Dẫu có phước đức, trí thức, đa văn đều không cứu nhau được vì mắt tâm chưa mở (đèn lòng chưa sáng).

Nỗ lực mãnh tác tảo dữ, mạc đãi nhĩ lung nhãn ám đầu bạch diện trứu, lão khổ cập thân nhãn trung lưu lệ tâm trung chương hoàng vị hữu khứ xứ, đáo nhẫm ma thời chỉnh lí cước thủ bất đắc dã. Túng hữu phúc trí đa văn đô bất, tướng cứu vi tâm nhãn vị khai.

努力猛作早與, 莫待耳聾眼暗頭白面皺, 老苦及身眼中流淚心中慞惶未有去處, 到恁麼時整理脚手不得也. 縱有福智多聞都不相救為心眼未開.


- Chỉ có niệm duyên theo các cảnh mà không biết phản chiếu và không thấy Phật đạo. Các nghiệp thiện ác tạo một đời mình đều hiện ra trước mắt, hoặc hân hoan hoặc sợ hãi, thấy đầy đủ lục đạo ngũ uẩn trước mặt rất đẹp, nhà cửa ghe thuyền xe cộ sáng chói rực rỡ, tạo ra từ tâm tham ái. Cảnh thấy (sở kiến) đều biến làm cảnh đẹp, tùy theo cảnh thấy nào nặng phần tham ái mà thọ sanh, đều không có phần tự do, rồng súc sanh sang hèn cũng đều chưa quyết định được.

Duy duyên niệm chư cảnh bất tri phản chiếu, phục bất kiến Phật đạo. Nhất sinh sở hữu ác nghiệp tất hiện ư tiền, hoặc hân hoặc bố, lục đạo ngũ uẩn hiện tiền tận kiến, nghiêm hảo xá trạch chu thuyền xa dư quang minh hiển hách, vi túng tự tâm tham ái. Sở kiến tất biến vi hảo cảnh, tùy sở kiến trùng xứ thụ sinh, đô vô tự do phân, long súc lương tiện diệc tổng vị định.

唯緣念諸境不知返照, 復不見佛道. 一生所有惡業悉現於前, 或忻或怖, 六道五蘊現前盡見, 嚴好舍宅舟船車輿光明顯赫, 為縱自心貪愛. 所見悉變為好境, 隨所見重處受生, 都無自由分, 龍畜良賤亦總未定.


Hỏi:
- Thế nào được tự do?
Đáp:

- Như hiện nay đối với ngũ dục bát phong, không có cái tình lấy bỏ, cấu tịnh đều mất như vầng nhật nguyệt trên không chiếu soi không duyên cớ. Tâm như gỗ đá, giống như con hương tượng rẽ dòng nước qua sông hoàn toàn không ngừng trệ, người đó Thiên đường Địa ngục không thể bắt giữ.

Như kim đối ngũ dục bát phong tình vô thủ xả, cấu tịnh câu vong, như nhật nguyệt tại không, bất duyên nhi chiếu. Tâm như mộc thạch, diệc như hương tượng tiệt lưu nhi quá canh vô nghi trệ, thử nhân Thiên đường Địa ngục sở bất năng nhiếp dã.

答如今對五欲八風情無取捨, 垢淨俱亡, 如日月在空, 不緣而照. 心如木石, 亦如香象截流而過更無疑滯, 此人天堂地獄所不能攝也.


- Có phải đọc kinh xem giáo nói năng suông đâu, mà phải uyển chuyển quy về chính mình, nhưng tất cả ngôn giáo nhằm soi sáng tánh giác chính mình ngay bây giờ, tánh giác mình đều không bị tất cả các pháp cảnh hữu vô chuyển dời đó là Đạo sư.

Hựu bất độc kinh khán giáo ngữ ngôn, giai tu uyển chuyển quy tựu tự kỉ, đãn thị nhất thiết ngôn giáo, chỉ minh như kim giác tính tự kỉ, câu bất bí nhất thiết hữu vô chư pháp cảnh chuyển thị Đạo sư.

又不讀經看教語言, 皆須宛轉歸就自己, 但是一切言教, 只明如今覺性自己, 俱不被一切有無諸法境轉是導師.


- Hay chiếu phá tất cả cảnh pháp hữu vô, đó là kim cang, mới có phần độc lập tự do. Nếu không được như thế, dù tụng được 12 bộ Kinh, chỉ thành tăng thượng mạn, lại là hủy báng Phật, chẳng phải tu hành.

Năng chiếu phá nhất thiết hữu vô cảnh pháp, thị kim cương, tức hữu tự do độc lập phân. Nhược bất năng nhẫm ma đắc, túng linh tụng đắc thập nhị Vi đà Kinh, chỉ thành Tăng thượng mạn, khước thị báng Phật, bất thị tu hành.

能照破一切有無境法, 是金剛, 即有自由獨立分. 若不能恁麼得, 縱令誦得十二韋陀經, 只成增上慢, 却是謗佛, 不是修行.


- Đọc Kinh xem giáo theo thế gian là việc tốt lành, nhưng đối với người sáng lý thì người đó còn tắc nghẽn. Bậc Thập địa giải thoát, bỏ dòng Thánh vào sông sanh tử, chỉ không cần tìm cầu hiểu biết câu văn qua ngữ nghĩa, hiểu biết thuộc về tham, tham chuyển thành bệnh.

Độc Kinh khán giáo nhược chuẩn thế gian thị hảo thiện sự, nhược hướng minh lí nhân biên số thử thị Ủng tắc nhân. Thập địa chi nhân thoát bất khứ lưu nhập sinh tử hà, đãn bất dụng cầu mịch tri giải ngữ nghĩa cú, tri giải thuộc tham, tham biến thành bệnh.

讀經看教若准世間是好善事, 若向明理人邊數此是壅塞人. 十地之人脫不去流入生死河, 但不用求覓知解語義句, 知解屬貪, 貪變成病.


- Ngay bây giờ chỉ cần lìa tất cả pháp hữu vô thấu ra ngoài tam cú, tự nhiên cùng Phật không khác. Tự đã là Phật rồi lo gì Phật không biết nói pháp, chỉ sợ chẳng phải Phật, bị các pháp hữu vô chuyển dời, chẳng được tự do.

Chỉ như kim đãn li nhất thiết hữu vô chư pháp, thấu quá tam cú ngoại, tự nhiên dữ Phật vô sai. Kí tự thị Phật hà lự Phật bất giải ngữ, chỉ khủng bất thị Phật, bí hữu vô chư pháp chuyển bất đắc tự do.

只如今但離一切有無諸法, 透過三句外, 自然與佛無差. 既自是佛何慮佛不解語, 只恐不是佛, 被有無諸法轉不得自由.

- Vì vậy có phước trí trước mà chưa đứng vững trên lý thì phước trí lôi đi như kẻ hèn sai khiến người sang, chi bằng đứng vững nơi lý trước rồi sau mới có phước trí. Gặp thời làm nên, nắm đất thành vàng, biến nước biển thành tô lạc, phá núi Tu di làm vi trần, từ một nghĩa làm nên vô lượng nghĩa, nơi vô lượng nghĩa làm nên một nghĩa.

Thị dĩ lí vị lập tiên hữu phúc trí tái khứ, như tiện sứ quý, bất như ư lí tiên lập hậu hữu phúc trí. Lâm thời tác đắc, tróc độ vi kim, biến hải thuỷ vi tô lạc, phá tu di sơn vi vi trần, ư nhất nghĩa tác vô lượng nghĩa, ư vô lượng nghĩa tác nhất nghĩa.

是以理未立先有福智載去, 如賤使貴, 不如於理先立後有福智. 臨時作得, 捉土為金, 變海水為酥酪, 破須彌山為微塵, 於一義作無量義, 於無量義作一義.

------------

Năm Đường Nguyên Hòa thứ chín 814 (Đường Hiến Tông), ngày 17 tháng giêng, Sư quy tịch. Thọ 95 tuổi.
Năm Trường Khánh nguyên niên (821- Đường Mục Tông), vua ban thụy hiệu là Đại Trí Thiền Sư, tháp tên Đại Bảo Thắng Luân.



Hết quyển 6.