PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông



Trang : [1] 2 3

Thiện Tâm
06-24-2015, 12:02 PM
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Nhẫn Tế Thiền Sư dịch

-o0o-

Mục Lục

Lời Nói Đầu

Tiểu sử Ngài Thubten Osall Lama (Nhẫn Tế Thiền Sư)

PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN TỰA

Duyên khởi của Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông

Quyển I

1.2. Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông.
1.3. Tựa chung
1.4. Duyên khởi của kinh

PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

1.5. Mục Một: Gạn Hỏi Cái Tâm
1.5.1 Nguyên do của thường trụ và lưu chuyển
1.5.2. Chấp tâm ở trong thân
1.5.3. Chấp tâm ở ngoài thân
1.5.4. Chấp tâm núp sau con mắt
1.5.5. Chấp nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân
1.5.6. Chấp tâm hợp với chỗ nào thì liền có ở chỗ ấy
1.5.7. Chấp tâm ở chặng giữa
1.5.8. Chấp tâm không dính dáng vào đâu tất cả

1.6. Mục Hai: Chỉ Rõ Tánh Thấy
1.6.1. Cầu đi đến chỗ chân thật
1.6.2. Phóng quang nêu ra tánh thấy viên mãn sáng suốt
1.6.3. Hai thứ căn bản
1.6.4. Nương cái thấy, gạn hỏi cái tâm
1.6.5. Chỉ rõ tính thấy không phải là con mắt
1.6.6. Ý nghĩa chủ và khách

Thiện Tâm
06-24-2015, 12:06 PM
Quyển II

2.6.7. Chỉ tánh thấy không sanh diệt
2.6.8. Chỉ chỗ điên đảo
2.6.9. Lựa bỏ tâm phan duyên để chỉ tánh thấy không thể trả về đâu
2.6.10. Lựa riêng trần cảnh để nêu ra tánh thấy
2.7. Mục Ba: Phật Nêu Ra Tánh Thấy Ngoài Các Nghĩa Phải Và Chẳng Phải
2.7.1. Nghi tánh thấy hiện ở trước mắt
2.7.2. Chỉ ra không có cái gì tức là cái thấy
2.7.3. Chỉ ra không có cái gì ra ngoài tánh thấy
2.7.4. Ngài Văn Thù kính xin Phật phát minh hai thứ
2.7.5. Tánh thấy không có phải hay chẳng phải

2.8. Mục Bốn: Phá Những Thuyết Nhân Duyên, Tự Nhiên
2.8.1. Ghi Tâm Tính Tự Nhiên Như Thần Ngã
2.8.2. Chỉ ra không phải là tự nhiên
2.8.3. Nghi là nhân duyên
2.8.4. Tánh thấy không phải là nhân duyên, Rời các danh, tướng
2.8.5. Bác nhân duyên, tự nhiên
2.8.6. Chỉ thẳng tánh thấy

2.9. Mục Năm: Chỉ Ra Cái Vọng Thấy
2.9.1. Xin chỉ dạy tánh thấy chẳng do thấy
2.9.2. Chỉ ra hai thứ vọng thấy

2.10. Mục Sáu: Chỉ Rõ Ý Nghĩa Tánh Thấy Không Phải Là Cái Thấy, Viên Mãn Bồ Đề.
2.11. Mục Bảy: Tóm Thu Về Như Lai Tạng
2.I. Tóm Thu
2.A. Thu sắc ấm
2.B. Thu thọ ấm
2.C. Thu tưởng ấm
2.D. Thu hành ấm
2.E. Thu thức ấm

Thiện Tâm
06-24-2015, 12:10 PM
Quyển III

3.F. Thu sáu nhập
3.G. Thu mười hai xứ
3.H. Thu mười tám giới
3.I. Thu bảy đại
3.II. Đốn ngộ Pháp thân và phát nguyện

Quyển IV

4.12. Mục Tám: Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn
4.12.1. Ông Mãn Từ trình bày chỗ nghi
4.12.2. Vô minh đầu tiên
4.12.3. Nguyên nhân vọng thấy có thế giới
4.12.4. Chỉ rõ giác chẳng sanh mê
4.12.5. Chỉ các đại có thể tương dung
4.12.6. Chỉ tánh Diệu Minh là Như Lai Tạng, Rời cả hai nghĩa "Phi" và "Tức"
4.12.7. Chỉ mê vọng không có nhân, hết mê là bồ đề
4.12.8. Lại phá xích nhân duyên, tự nhiên
4.A. Xưa nay không vọng
4.B. Đưa vào bồ đề
4.13. Mục Chín: Chỉ Nghĩa Quyết Định
4.13.1. Các phép tu hành sau khi đốn ngộ, phát bồ đề tâm
4.13.2. Tâm nhân địa
4.A. Xét rõ gốc rễ phiền não
4.B. Đánh chuông để thể hiện tính thường
4.13.B.1. Nghi căn tánh không có tự thể
4.13.B.2. Chỉ bày tánh nghe là thường trụ

Thiện Tâm
06-24-2015, 12:13 PM
Quyển V

CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU

5.14. Mục Một: Nêu Ra Cái Căn Để Chỉ Chỗ Mê
5.14.1. Xin khai thị cách cởi nút
5.14.2. Mười phương Như Lai đồng một lời chỉ thị: Sáu căn là đầu nút sanh tử và niết bàn
5.14.3. Thấy rõ tánh của mối nút để tức thời giải thoát
5.14.4. Kệ tụng

5.15. Mục Hai: Cột Khăn Để Chỉ Mối Nút Và Cách Mở Nút
5.15.1. Cột nút
5.15.2. Cách mở nút
5.16. Mục Ba: Hỏi Đại Chúng Về Viên Thông
5.16.01. Viên thông về thanh trần
5.16.02. Viên thông về sắc trần
5.16.03. Viên thông về hương trần
5.16.04. Viên thông về vị trần
5.16.05. Viên thông về xúc trần
5.16.06. Viên thông về pháp trần
5.16.07. Viên thông về nhãn căn
5.16.08. Viên thông về tỷ căn
5.16.09. Viên thông về thiệt căn
5.16.10. Viên thông về thân căn
5.16.11. Viên thông về ý căn
5.16.12. Viên thông về nhãn thức
5.16.13. Viên thông về nhĩ thức
5.16.14. Viên thông về tỷ thức
5.16.15. Viên thông về thiệt thức
5.16.16. Viên thông về thân thức
5.16.17. Viên thông về ý thức
5.16.18. Viên thông về hỏa đại
5.16.19. Viên thông về địa đại
5.16.20. Viên thông về thủy đại
5.16.21. Viên thông về phong đại
5.16.22. Viên thông về không đại
5.16.23. Viên thông về thức đại
5.16.24. Viên thông về kiến đại

Quyển VI

6.17. Mục Bốn: Viên thông về nhĩ căn
6.17.1 Diệu lực vô tác thành tựu ba mươi hai ứng thân
6.17.2 Bốn công đức vô uý
6.18. Mục Năm: Chỉ Pháp Viên Tu
6.18.1. Phóng hào quang, hiện điềm lành
6.18.2. Phật bảo Ngài Văn Thù chọn căn viên thông
6.18.3. Lựa ra những căn không viên
6.18.4. Nhĩ căn viên thông hơn hết
6.18.5. Phụ Lục

Thiện Tâm
06-24-2015, 12:19 PM
Quyển VII

CHƯƠNG III: PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO

7.19.1 Khai thị đạo tràng tu chứng
7.19.2 Khai thị đạo tràng tu chứng
7.19.3 Tuyên thuyết thần chú
7.19.4 Khai thị đây là tâm chú của mười phương Như Lai
7.19.5 Sức của thần chú làm tiêu nghiệp chướng
7.19.6 Chú là phước đức như ý cho mình Và cho cả nước, bảo hộ cho người sơ học
7.19.7 Các thần hộ pháp phát nguyện bảo hộ rộng rãi

CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

7.20. Mục Một: Khai Thị Hai Cái Nhân Điên Đảo Và Ba Món Tiệm Thứ
7.20.1 Ông A Nan xin khai thị những danh mục, Thứ bậc tu hành
7.20.2 Khai thị hai cái nhân điên đảo

Quyển VIII

8.20.3 Khai thị ba tiệm thứ tu tập
8.21 Mục Hai: An Lập Các Thánh Vị Càn tuệ địa
8.21.1 Thập tín
8.21.2 Thập trụ
8.21.3 Thập hạnh
8.21.4 Thập hồi hướng
8.21.5 Tứ gia hạnh
8.21.6 Thập địa
8.21.7 Đẳng giác và diệu giác

8.22 Mục Ba: Chỉ Dạy Tên Kinh
8.22.1 Hỏi về sự sanh khởi và nhân quả của lục đạo
8.22.2.Khai thị về phận trong, phận ngoài Của chúng sanh
8.22.3.Chỉ ra mười tập nhân và sáu giao báo
8.22.4 Không tu theo chánh giác : thành các thứ tiên
8.22.5 Các cõi trời

Quyển IX

9.V Các cõi trời
9.A Sắc giới
9.B Vô sắc giới
9.C Bốn giống A Tu La
9.VI Phóng hào quang, hiện điềm lành Khai thị sự hư vọng của bảy loài để khuyên tu chân chánh
9.VII Phân biệt các ấm ma
9.A Nguyên do khởi các ma sự
9.B Phạm vi của sắc ấm
9.C Phạm vi của thọ ấm
9.D Phạm vi của tưởng ấm

Quyển X

10.E Phạm vi của hành ấm
10.F Phạm vi của thức ấm
10.VIII Sanh tử là vọng tưởng năm ấm mà có, lý tuy đốn ngộ, sự phải tiệm trừ.

PHẦN THỨ BA: PHẦN LƯU THÔNG

10.1 Được phước, tiêu tội hơn cả
10.2 Trừ ma hơn cả
10.3 Lưu thông chung

Thiện Tâm
06-25-2015, 05:03 PM
http://thuviensach.bodephatquoc.com/wp-content/themes/dhcthuviensach/timthumb.php?src=http://thuviensach.bodephatquoc.com/wp-content/blogs.dir/5/files/2015/01/KinhLangNghiemTongThong.jpg&w=240&h=300&a=t


KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Nhẫn Tế Thiền Sư

-o0o-

Lời Nói Đầu


Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn vào năm 1944, đến năm 1950 thì hoàn tất.

Nay, với mong muốn để nhiều người có cơ hội được đọc bộ kinh này, vì muốn được sự liễu ngộ Phật Đạo mà không đọc đến bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông thì khó bề được mỹ mãn. Nên chúng tôi, chúng đệ tử Tây Tạng Tự đời thứ ba, sau khi được sự chấp thuận của Thầy Bổn Sư, Hòa Thượng Thượng Tịch Hạ Chiếu, Nhị Tổ Tây Tạng Tự, đã biên tập lại bản dịch của Đức Sơ Tổ Thubten Osall Lama theo ngữ văn đương thời.

Trong công tác biên tập này, chúng tôi xin biết ơn chư tôn đức đã dịch kinh Lăng Nghiêm và các kinh khác sang Việt văn. Nhờ công trình của quí vị mà chúng tôi có được những danh từ chính xác, những chỉ dẫn bổ ích hỗ trợ cho công việc vốn khó khăn và quá sức chúng tôi.

Chúng tôi xin sám hối với chư Tổ và quí độc giả về những lỗi lầm ắt có trong việc giản lược một số chú thích và biên tập lại bản dịch nguyên được Ngài Thubten Osall Lama trong Định, Huệ viết ra. Ngưỡng mong nhận được những chỉ giáo quí báu của các bậc thiện tri thức.

Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh đều tròn thành Phật Đạo.

Chúng đệ tử đời thứ ba Tây Tạng Tự.

Thiện Tâm
06-25-2015, 05:58 PM
TIỂU SỬ NGÀI THUBTEN OSALL LAMA

(NHẪN TẾ THIỀN SƯ)



http://searchvn.net/TayTang/HinhAnhSuOng_files/image003.jpg


Ngài sanh ngày Rằm tháng Bảy năm Kỷ Sửu (1888), tại làng An Thạnh thuộc Búng - Lái Thiêu Tỉnh Bình Dương, trong một gia đình khá giả.

Từ thơ ấu Ngài đã thọ quy y với Hòa Thượng trụ trì Chùa Sắc Tứ Thiên Tôn Tự (ở Búng), được đặt pháp danh Nhẫn Tế. Sau đó, Ngài thọ giới cụ túc với Hòa Thượng Thiên Thai (ở Bà Rịa) làm chủ Giới Đàn, được đặt pháp hiệu Minh Tịnh.

Trải qua thời gian, phần lớn là tự tu, thấy không thỏa mãn chí nguyện, Ngài lên đường đi Ấn Độ tầm sư học đạo.

Tháng Tư năm Ất Hợi (1935), Ngài đến Ấn Độ. Trong thời gian trên đất Ấn, Ngài tùy thuận phong tục, đắp y theo xứ Sri Lan Ka. Ở Ấn Độ, Ngài cũng không thấy thỏa mãn, lại muốn sang Tây Tạng học hỏi.

Ngài được một vị Lama pháp danh Gava Samden, từ Tây Tạng sang cùng ba đệ tử là Lama Chamba Choundouss, Lama Ise và Lama Isess qua Ấn Độ rước Ngài về Tây Tạng. Do được thông báo, nên qua các trạm dẫn vào Tây Tạng Ngài đều được nghinh tiếp rất niềm nở và trọng đãi.

Ngài đến Lhasa vào tháng Sáu năm 1936.

Tại Tây Tạng, Ngài cầu pháp với Lama Quốc Vương và dự cuộc thi tuyển toàn quốc, chỉ có hai người được tuyển chọn ứng thí: một người Tây Tạng và người còn lại là Ngài, người Việt Nam. Khi đoạn dây chỉ bện màu đỏ thắt quanh cổ Ngài xiết lại, Ngài vẫn bình thản nhìn. Chỉ có Ngài qua được cuộc khảo thí.

Sau một trăm ngày ở Tây Tạng, Ngài được Đại Thượng Tọa Lama Quốc Vương ngự ý ban cho pháp danh THUBTEN OSALL LAMA và ấn chứng sở đắc Pháp Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự, Trực Chỉ Chơn Tâm Kiến Tánh Lập Địa Thành Phật tại triều đình nước Tây Tạng.

Dòng Tổ Sư Thiền đã dứt vào thời Đức Lục Tổ Huệ Năng nay lại được khơi nối lại ở Việt Nam từ ngày đó.

Ngài trở về Việt Nam ngày 20 tháng 6 năm 1937.

Cuộc hành trình cùng các hình ảnh được Ngài ghi chép cẩn thận trong nhật ký còn lưu lại tại Chùa Tây Tạng - Bình Dương.

Về Việt Nam, Ngài lập Chùa Thiên Chơn (ở Búng - Lái Thiêu). Sau đó, lại xây dựng Chùa Tây Tạng hiện nay tại Bình Dương.

Ngài thị tịch ngày 17 tháng Năm năm Tân Mão (1951) tại Chùa Tây Tạng, thọ 63 tuổi.

Vị kế thế Ngài là Hoà Thượng Thượng Tịch Hạ Chiếu hiện trụ trì Chùa Tây Tạng - Bình Dương.

Thiện Tâm
06-25-2015, 06:07 PM
PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN TỰA

DUYÊN KHỞI CỦA KINH LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG



Đề tựa: Núi Nam Nhạc, Quan Trương Kim Giản tên là Tăng Phụng Nghi, Thuấn Trưng Phụ.

Xưa, Ngài Thiên Thai Trí Giả theo học Đạo thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc, đắc Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên thông suốt. Đến khi Ngài giải thích ý nghĩa sáu Căn trong sạch trong kinh Pháp Hoa thì trầm ngâm rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với Ngài: Chỉ có kinh Thủ Lăng Nghiêm là nói rõ ràng công đức của sáu Căn, đủ để y chứng. Từ đó, Ngài Trí Giả khao khát ngưỡng mộ. Suốt mười sáu năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây lễ bái. Ở phía trái chùa Thiên Thai ở núi Nam Nhạc vẫn còn Đài Kinh. Sau Ngài hơn một trăm năm, kinh Lăng Nghiêm mới vào Trung Quốc.

Kinh do Tể Tướng Phòng Dung ghi chép, văn tự tao nhã, bởi thế các bậc học sĩ đại phu đều tụng kinh này. Tôi từng ba lần đến Bái Kinh Đài, lần nào cũng bồi hồi chẳng muốn về, thầm than:

- Người xưa ngưỡng mộ kinh này hơn mười mấy năm mà chẳng được thấy. Nay Lăng Nghiêm bày đầy thì người ta lại chẳng hề xem! Tại sao thế?

Nhơn đó, tôi bèn phát tâm viết bộ Lăng Nghiêm lên đá, thuê thợ chạm rồi xếp thành một tòa thạch thất, khiến người đến viếng Bái Kinh Đài sẽ đọc được mà đều nói: Kinh đã đến đây rồi! Như là vì Ngài Trí Giả mà bổ sung cho một sự thiếu sót. Vừa cầm bút định viết, chợt nghĩ: Chỗ ta viết đây là chữ, chẳng phải là nghĩa vậy!

Ngài Trí Giả mong bộ Kinh này đến đây là mong người người hiểu nghĩa của Kinh. Như Ngài Huyền Sa Sư Bị, nhân đọc Lăng Nghiêm mà phát minh tâm yếu, đó là thâm nhập vào nghĩa vậy. Cho đến thiền sư Linh Nham An, Trường Thủy Tuyền, Trúc Am Khuê, Hoàng Long Nam, Thiệu Long An Dân... đều do Lăng Nghiêm mà ngộ. Như vậy là các Ngài đã không cô phụ sự truyền sang của bộ kinh này. Nếu theo văn mà giải nghĩa, chú thích câu chữ, đến mấy mươi nhà mà nghĩa kinh càng ngày càng xa, đó là lỗi lầm do chẳng cầu ở tâm mình. Nếu tỏ ngộ tự tâm, thì tuy là kinh này chưa đến, mà chỗ y giáo lập nghĩa của Ngài Trí Giả, mỗi mỗi đều hợp với Lăng Nghiêm. Không ngộ được tự tâm, tuy là có kinh Lăng Nghiêm trước mặt, thì cũng như kinh ở tại Ấn vậy. Tức là kinh điển đầy nhà mà nào có ích! Việc nhà của các thiền sư là quét sạch văn tự kiến giải cho là chẳng đủ để sùng thượng, thật có lý lắm thay! Nhưng khi tiếp dẫn hàng sơ cơ, xuất lời thổ khí, lời lẽ ý tứ thật tợ Lăng Nghiêm. Cho đến sự phát minh hướng thượng, chứng nhập Bồ Đề, thì cùng với hai mươi lăm chỗ chứng viên thông, cơ duyên không khác. Tức là chẳng tụng Lăng Nghiêm, mà Lăng Nghiêm đã sẵn đủ hiện giờ. Tức là Lăng Nghiêm chưa đến cõi này, mà cõi này chẳng phải là chưa có Lăng Nghiêm.

Tôi chẳng biết tự lượng sức, góp khắp lời của Tông Môn, phối hợp vào kinh văn. Hoặc để thầm hợp, hoặc để cùng thấy, hoặc suy rộng ý kinh, hoặc bày tỏ chỗ chưa bày tỏ. Tôi cũng không ngờ mình làm nổi. Trong khoảng trời đất làm sao có được thứ nghị luận này. Âu cũng do túc nguyện nhiều đời vậy.

Đây là tôi nhờ các vị Lão Túc để làm rõ nghĩa kinh chứ chẳng phải tự do tôi, và lấy Thiền Tông để soi sáng kinh chớ chẳng phải lấy văn tự kiến giải mà giảng. Bèn đặt tên là Tông Thông. Tông Thông cùng với Thuyết Thông. Phải tự đắc Bản Tâm thì mới cùng với các bậc Lão Túc mặc áo gặp nhau. Chẳng những một hội Lăng Nghiêm nghiễm nhiên chưa tan, mà Ngài Trí Giả đến nay cũng vẫn còn đó.

Bài văn tán ngợi rằng:

Sáu vạn ba ngàn lời mười trang,
Giáo, Hạnh, Lý, Không, Giả, Trung quán.
Viên thông hoa tạng Tín Hạnh Giải,
Chứng rồi Định Huệ xứ Niết Bàn.
Phá Vọng hiển Chân, Chân Nhất thật,
Phản văn nung Ấm, Ấm tiêu tan.
Tội lỗi vô minh mười phương ngục,
Tội ấy băng tiêu, tọa Phật tràng.

Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Thánh HiềnTăng

Thiện Tâm
06-26-2015, 05:22 PM
QUYỂN I

ĐẠI PHẬT ĐẢNH, NHƯ LAI MẬT NHÂN, TU CHỨNG LIỄU NGHĨA,
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH, KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG



Đời Đường, Ngài Bát Lạt Mật Đế, sa môn xứ Thiên Trúc, dịch; Ngài Di Già Thích Ca, Sa môn xứ Ô Trường, dịch ngữ. Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới đệ tử chép.

Đời Minh, Bồ Tát Giới đệ tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi, Tông Thông.

Thông rằng: Kinh này tại sao lại đặt tên là Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm?

Kinh chép:

- Khi ấy, Đức Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử từ trong đại chúng, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật mà thưa rằng:

- Phải gọi kinh này tên gì? Tôi cùng với chúng sanh làm thế nào phụng trì? Phật dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

- Kinh này tên Đại Phật Đảnh, Tát Đát Đa Bát Đát Ra (Bạch Tán Cái), ấn báu vô thượng, Hải Nhãn trong sạch của mười phương Như Lai. Cũng gọi là cứu hộ người thân, độ thoát A Nan, và Tánh Tỳ kheo ni ở trong hội này, đắc tâm Bồ Đề, bước vào biển Biến Trí. Cũng gọi là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa. Cũng gọi là Đại Phương Quảng, Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú. Cũng gọi là Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm. Ông nên thọ trì.

Đoạn kinh trên gồm nhiều nghĩa, chỉ cần ba chữ Đại Phật Đảnh là bao gồm hết. Bởi vì Phật Đảnh thần chú, tức là mười phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú, tức là Quán Đảnh Chương Cú, tức là độ thoát A Nan và Tỳ kheo ni Tánh, do đó khỏi lập lại. Chú này là Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra, dịch là Đại Bạch Tán Cái, là cái Lọng Trắng Lớn Che Trùm. Ròng trắng phau trong sạch, trùm che hết thảy, nên gọi là lớn. Đại Phật Đảnh thần chú này, chẳng thể nghĩ bàn, mới gọi là Nhân Địa Bí Mật của Như Lai, cái Liễu Nghĩa của Tu Chứng. Vạn Hạnh của Bồ Tát do đây mà sẵn đủ, nên cả thảy rốt ráo bền chắc vậy. Pháp có thể Tiệm mà không thể Đốn, thì không thể gọi là Đại. Có thể Đốn mà không thể Viên, thì cũng không gọi là Đại (lớn) được. Nay nói là Mật, là Liễu, tức là đã gồm nghĩa Đốn. Nói là Tu Chứng, nói là Vạn Hạnh là ngầm nghĩa Viên. Duy cái pháp môn Viên Đốn nầy, cùng với Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, không khác. Từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng cho đến Diệu Giác là đã bao gồm trong Hoa Nghiêm; còn Nhĩ Căn Viên Thông trọn cùng phẩm Phổ Môn tương ứng. Gồm đủ chỉ thú của hai bộ kinh trên, kinh Lăng Nghiêm thật rộng lớn biết bao!

Chưa ngộ, thì chuyển: Cái chẳng có Sanh Diệt thành ra: Cái Sanh Diệt, tức chẳng phải Liễu Nghĩa. Ngộ rồi, thì chuyển: Cái Sanh Diệt thành ra: Cái Chẳng Có Sanh Diệt, tức là: Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố. Cho nên, một đường đi lên , không ngộ thì không được. Thế thì Chú và Ngộ liên quan thế nào, Ngộ và Chú quan hệ với nhau ra sao, mà đều cũng gọi là Đại Phật Đảnh? Chú không thể nghĩ bàn, Ngộ cũng không thể nghĩ bàn. Chú tức là cảnh giới của Ngộ, Ngộ tức là cảnh giới của Chú. Đây là chỗ: Ngôn Ngữ Đạo Đoạn, Tâm Hành Xứ Tuyệt, thấy do lìa cái Thấy, thì cái Thấy là siêu việt. Cho nên giữ cái Phật Đảnh, lìa cái Tướng Thấy của mình là vậy. Các dòng giống của Phật Đảnh, một phen vượt lên nhập thẳng vào, đó là pháp môn cực tôn cực quý vậy. Hiệp Luận đặt tên là Tôn Đảnh vì lẽ này.

Có vị tăng hỏi Ngài Hoàng Bá rằng:

- Vô Biên Thân Bồ Tát vì sao chẳng thấy Đảnh Tướng của Như Lai? Ngài Bá đáp:

- Thật không thể thấy. Vì sao thế? Vô Biên Thân Bồ Tát tức là Như Lai, không thể trở lại thấy. Chỉ cần ông không tạo ra cái Phật Kiến thì không rơi vào Phật Biên. Không tạo ra cái Thấy Chúng Sanh thì không lạc vào giới hạn chúng sanh. Không gây ra cái Thấy Có thì không lạc vào giới hạn của cái Có. Không tạo ra cái Thấy Không thì không rơi vào giới hạn của cái Không. Không tạo ra cái Thấy của phàm phu thì không rơi vào giới hạn của phàm phu. Không tạo ra cái Thấy của Thánh thì không rơi vào giới hạn của Thánh. Chỉ "Không" tất cả mọi cái Thấy, tức là Vô Biên Thân. Nếu có chỗ Thấy, tức là ngoại đạo. Ngoại đạo thì ham các cái Thấy. Bồ Tát nơi mọi cái Thấy mà chẳng động. Như Lai là nghĩa Như của tất cả các Pháp, nên nói: Di Lặc cũng là Như. Như tức là không có Sanh ra, Như tức là không có Diệt mất. Như tức là không có Thấy, Như tức là không có Nghe. "Đảnh" tức là Viên (tròn), cũng không có cái thấy Viên, nên chẳng rơi vào biên giới của Viên. Bởi thế, thân Phật là "Vô Vi", không rơi vào giới hạn. Tạm lấy Hư Không làm thí dụ. Tròn đầy như Hư Không rộng lớn, không thiếu không dư. Hãy nhàn nhã vô sự, chớ gắng gượng biện biệt cảnh giới giác ngộ, biện biệt thì thành Thức.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Bá Trượng:

- Bồ Tát Vô Biên Thân không thấy Đảnh Tướng của Như Lai là vì sao? Tổ Trượng rằng:

- Vì gây ra cái Thấy Hữu Biên, cái Thấy Vô Biên, nên chẳng thấy được Đảnh Tướng Như Lai. Chỉ như bây giờ đây trọn không có cả thảy cái Thấy Hữu Vô, cũng không phải là không có cái Thấy, thì đó là thấy Đảnh Tướng.

Xem hai vị tôn túc nói ra nghĩa Phật Đảnh, thật như viên ngọc tròn lăn trên bàn. Nếu biết chỗ ấy mới cho là trên cửa Đảnh, có được: Con Mắt Lẻ. Đã nói là Như Lai Mật Nhân, tức chẳng cậy mượn sự Tu Chứng. Lại nói:

- Tu Chứng Liễu Nghĩa là để phân biệt với Chẳng Có Liễu Nghĩa, vậy. Như Lai, ấy là nói về quả vậy. Kinh Kim Cang:

- Nếu có người nói: Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm, thì người ấy chẳng hiểu nghĩa chỗ ta nói. Vì sao thế? Như Lai là: Không Từ Chỗ Nào Đến, Cũng Không Đi Về Đâu, nên gọi là Như Lai.

- Đến không từ chỗ nào, đi không về đâu, quả là vật gì? Thế mới gọi là Mật vậy. Phật Đảnh Thần Chú là Mật Ngữ của Như Lai, thì hai cái Mật (Mật Ngữ và Như Lai) đó không phải là hai. Lấy cái Mật này làm Nhân, tức lấy cái Mật ấy đắc quả. Như đóa bông sen, nhân quả đồng thời sẵn đủ. Dùng cái này mà tu, thì tu mà không tu. Dùng cái này để chứng, thì chứng mà không chứng. Kinh nói:

- Nào mượn sự cực nhọc tu chứng. Đây tức là ý chỉ của Liễu Nghĩa. Nếu không được như thế là vì chưa liễu ngộ vậy.

Xưa, Huệ Minh đuổi kịp Đức Lục Tổ để giành lấy y bát. Tổ dạy:

- Ông đã vì Pháp mà đến, hãy an dừng các duyên, không sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà nói.

Ông Huệ Minh im lặng hồi lâu, Tổ nói:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay khi ấy, là Bản Lai Diện Mục của Minh Thượng Tọa.

Ông Huệ Minh nghe xong, đại ngộ.

Lại hỏi:

- Ngoài lời mật, ý mật ấy, còn cái ý mật nào không?

Tổ đáp:

- Đã nói cùng ông, tức chẳng phải Mật. Nếu ông soi trở lại, thì Mật ở tại bên ông. Thầy Minh thưa:

- Tôi mặc dầu ở Huỳnh Mai, mà thật chưa tỏ ngộ được mặt mũi của mình. Nay nhờ ơn chỉ bày, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Nay hành giả tức là thầy của tôi vậy. Tổ dạy:

- Ông đã như vậy, thì nay tôi và ông cùng một thầy Huỳnh Mai. Hãy khéo tự hộ trì.

Thiện Tâm
06-26-2015, 05:30 PM
Ngài Hoài Nhượng ban đầu ra mắt Đức Trung Sơn An thiền sư, hỏi:

- Thế nào là ý Tổ Sư từ phương Tây đến? Tổ An nói:

- Sao không hỏi cái ý của chính ông? Ngài bèn hỏi:

- Thế nào là ý của chính mình? Tổ Sơn đáp:

- Cần quán xét cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng. Hỏi:

- Như thế nào là cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng? Tổ Sơn dùng mắt mở, nhắm chỉ bày đó. Sư Nhượng không lãnh hội được. Tổ Sơn bèn bảo Ngài ra mắt Đức Lục Tổ. Tổ hỏi:

- Từ đâu đến?

Sư Nhượng đáp:

- Tung Sơn.

Tổ hỏi:

- Vật gì đó? Đến thế nào?

Sư chẳng đáp dược. Trải qua tám năm, mới bạch với Tổ rằng:

- Tôi đã có chỗ am hiểu. Tổ hỏi:

- Như thế nào?

Ngài đáp:

- Nói giống như một vật là chẳng trúng! Tổ hỏi:

- Lại có thể tu chứng chăng?

Đáp rằng:

- Tu chứng thì chẳng phải là không, mà ô nhiễm thì chẳng thể được. Tổ rằng:

- Hay lắm! Cái chẳng có ô nhiễm ấy, là chỗ hộ niệm của chư Phật. Ông đã y vậy, ta cũng y vậy.

Như hai vị tôn túc ấy, khế hợp sâu xa cái Mật Ý, được Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy.

Sau, có vị sư hỏi Tổ Bá Trượng:

- Trước đến giờ, chư Tổ đều có Mật Ngữ trao truyền cho nhau là thế nào? Tổ đáp:

- Không có lời Mật. Như Lai không có Bí Mật Tạng. Chỉ như bây giờ soi tỏ ý nghĩa cho rõ ràng, tìm kiếm hình tướng, rõ là bất khả đắc, đó là Mật Ngữ. Từ bậc Tu Đà Hoàn (Nhập Lưu) trở lên cho đến Thập Địa, bất quá chỉ có Chữ và Lời (Ngữ Cú), còn là thuộc về pháp Trần Cấu hết thảy. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều nằm trong phiền não. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều thuộc về Bất Liễu Nghĩa. Chỉ có lời nói, tức chẳng được chấp nhận vậy. Liễu Nghĩa Giáo đều chẳng phải là gì hết thảy (Phi), thì còn tìm kiếm Mật Ngữ nào?

Theo chỗ thấy của Tổ Bá Trượng, thì một chữ Mật cũng phải mửa ra luôn, Liễu Nghĩa Giáo cũng chẳng lập, mới có thể gọi là hướng lên ngàn Phật Đảnh mà đi.

Các vị Bồ Tát muôn Hạnh chưa lìa tu chứng thì sao lại gọi là Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố? Sở dĩ như vậy vì các Bồ Tát chưa tới địa vị Quán Đảnh, phải có tu, có chứng. Đến địa vị Quán Đảnh rồi, tức là siêu nhập đồng đẳng bậc Diệu Giác, thì có cái gì tu chứng? Các Hành tuy vô thường, nhưng từ trong Diệu Giác lưu xuất ra tất cả sự pháp, đương xứ tịch diệt, nên gọi là Rốt Ráo Kiên Cố.

Kinh nói:

- Có cái Tam Ma Địa (Chánh Định), gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, sẵn đủ muôn Hạnh. Mười phương Như Lai do một cửa này mà siêu xuất, đây là con đường Diệu Trang Nghiêm.

Tam Ma Đề này là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, lối Diệu Trang Nghiêm sẵn đủ muôn Hạnh, chẳng phải rời lìa muôn Hạnh mà riêng có cái gọi là Định. Tất cả đều Định, nên gọi là tất cả sự Rốt Ráo Kiên Cố.

Đức Phó Đại Sĩ, ngày thì kinh doanh gây tạo, đêm thì hành Đạo. Thấy Đức Thích Ca, Đức Kim Túc, Đức Định Quang ba vị Phật phóng quang phủ lên mình Ngài Đại Sĩ mới nói: Ta được Định Thủ Lăng Nghiêm. Thuở đó, kinh này chưa đến mà tên Định đã nêu, lạ lùng thay.

Tứ Tổ Đạo Tín dạy Ngài Lại Dung ở núi Ngưu Đầu rằng:

- Trăm ngàn pháp môn đều quy về Tâm, hằng sa Diệu Đức gồm tại nguồn Tâm. Tất cả Giới Môn, Định Môn, Huệ Môn, thần thông biến hóa đều tự sẵn đủ, chẳng rời tâm ông. Hết thảy Phiền Não, Nghiệp Chướng xưa nay rỗng rang vắng lặng. Hết thảy Nhân Quả đều như mộng huyễn. Chẳng có ba cõi để lìa, không có Bồ Đề nào để tìm cầu. Người cùng chẳng phải người, Tánh Tướng bình đẳng. Đại Đạo rỗng suốt, tuyệt nghĩ, tuyệt lo. Cái Pháp như thế, ông nay đã được, tuyệt không thiếu hụt, cùng Phật không khác, nào có Pháp nào khác nữa. Ông chỉ mặc dùng tự tại, chớ khởi Quán Hạnh, cũng chẳng lóng Tâm, chẳng khởi Tham Sân, chẳng giữ lo buồn, thênh thang vô ngại, mặc ý dọc ngang. Chẳng làm các điều thiện, không gây các điều ác. Đi, đứng, nằm, ngồi, chạm mắt gặp duyên, thảy đều là Diệu Dụng của Phật. Vui sướng không lo nên gọi là Phật.

Được nghe thế, Ngài Lại Dung mở ra một chi phái, gọi là: Quán Đảnh Chương Cú.

Ngài Pháp Nhãn dạy:

- Tu hành trải qua ba đời sáu chục kiếp, bốn đời một trăm kiếp hay tăng kỳ kiếp cho đến thành quả mà cổ nhơn còn nói là chẳng bằng một niệm duyên khởi Vô Sanh, siêu quá hàng Tam Thừa Quyền Học.

Nên chi nói rằng:

- Gảy móng tay mà viên thành tám vạn Pháp Môn, trong sát na dứt hết ba a tăng kỳ kiếp. Trong Thiền Tông quả có chuyện kỳ đặc đó, há phải vạn hạnh đầy đủ, rồi sau mới đắc Định Thủ Lăng Nghiêm ư?

Kinh là Thường Đạo vậy. Cuốn Thuyết Văn Giải Tự viết:

- Dệt vải có sợi dọc (kinh), sợi ngang (vĩ): sợi dọc thì thường hằng, mà sợi ngang thì thay đổi. Kinh này do Ngài Long Thọ ở dưới Long Cung mặc tụng đem lên. Vua Ngũ Thiên trân trọng giữ kín chẳng có truyền ra. Há chẳng biết rằng quyển kinh này người người sẵn có, đâu có ai không! Thế mới là Thường Đạo, nào phải là bí mật.

Có vị tăng hỏi Ngài Thủ Sơn:

- Tất cả Chư Phật đều do kinh này mà có ra. Thế nào là kinh này? Tổ Sơn đáp:

- Nói nhỏ! Nói nhỏ! Vị tăng hỏi:

- Thọ trì thế nào? Tổ Sơn rằng:

- Chẳng nhiễm ô.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Nước chảy Côn Luân, núi nổi mây,
Người đến, tiều ngư chẳng có hay.
Nếu biết núi cao, sông tràn nước,
Ắt chẳng quăng rìu với bỏ dây.

Dịch:

Thủy xuất Côn Luân, sơn khởi vân,
Điếu nhân, tiều phụ muội lai nhân.
Chỉ tri hồng lãng, nham loan khoát,
Bất khẳng phao ty khí phụ cân.

Tổ Dược Sơn bình thường không cho người ta xem kinh. Có lần tự Ngài xem kinh. Một vị tăng hỏi:

- Hòa Thượng bình thường không cho người xem kinh, sao Hòa Thượng lại xem?

Tổ Sơn rằng:

- Ta chỉ cần che mắt. Vị tăng hỏi:

- Tôi bắt chước Hòa Thượng được không? Tổ Sơn nói:

- Ông muốn xem thì phải suốt qua tấm da trâu đã. Cho nên, rõ được chỗ che mắt này, thì mới được cái Diệu của sự Thọ Trì. Mà có xuyên thủng mới chẳng nhiễm ô vậy.

Thiện Tâm
06-28-2015, 04:26 PM
QUYỂN I

TỰA CHUNG

Kinh:

- Như thế, tôi được nghe, một thời Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt, cùng với chúng đại Tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc Vô Lậu Đại A La Hán.

Thông rằng: Tất cả các kinh đều mở đầu bằng: "Như thị ngã văn nhất thời". Đây là Đức A Nan tuân theo ý chỉ của Đức Phật, kết tập các kinh, trước xướng sáu chữ này, giải tan mọi nghi ngờ. Như Thị, Như Thị ấy là chỉ có thể tự tin lấy, không cần ngôn thuyết. Nếu hiểu được cái Pháp Như Thị, là chỗ phó chúc bí mật của Phật Tổ, tức là những lời lòng vòng sau này, đều là lời cước chú chua thêm vậy.

Có vị tăng vào tham lễ quốc sư Huệ Trung, sư hỏi:

- Làm sự nghiệp gì?

Tăng đáp:

- Giảng kinh Kim Cang.

Sư hỏi:

- Hai chữ đầu hết là cái gì?

Đáp:

- Như thị .

Sư hỏi:

- Đó là cái gì?

Tăng không đáp được.

Sư bảo:

- Than ôi! Vậy thì lấy gì mà giảng kinh?

Lại còn thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn hỏi một vị tòa chủ:

- Hai chữ Như Thị là tất cả khoa văn, vậy thì bản văn là làm sao?

Vị tòa chủ không đáp được.

Đức Ngũ Vân đáp thay rằng:

- Lại chia làm ba đoạn rồi.

Hãy nói chỗ Đức Ngũ Vân mở lời, là khoa văn hay là bản văn?

Chữ Tỳ Kheo có ba nghĩa: Khất Sĩ; là Phá Ác; là Bố Ma (làm cho ma sợ).

Chữ A La Hán cũng có ba nghĩa là Ứng Cúng, là Sát tặc (giết giặc), là Vô Sanh.

Đại là để phân với Tiểu.

Lậu cũng có ba loại: Vô Minh Lậu, Dục Lậu và Hữu Lậu.

Kinh nói:

- Ông thường nghe trong Luật của Ta có ba nghĩa quyết định tu hành, đó là Nhiếp Tâm làm Giới, do Giới sanh Định, nhờ Định phát Huệ. Đó là ba môn Vô Lậu Học. Cấm Răn (Giới) tức là không lọt ra cái Ham Muốn Dâm Dục (Dục Lậu), Yên Tĩnh (Định) ắt không có Phiền Não (Hữu Lậu), sáng tâm (Huệ) ắt không có Vô Minh Phiền Não. Ba món Vô Lậu này gọi là nghĩa quyết định. Tựa hồ lấy Huệ làm chỗ cực tắc.

Nên Đức Động Sơn nói với Ngài Tào Sơn rằng:

- Ở thời mạt pháp, người ta phần nhiều là Huệ Khô Khan (Càn Huệ). Để phân biệt thiệt hay giả, thì có ba loại rỉ chảy (sấm lậu): Một là, Kiến( )sấm lậu: chưa lìa phàm phu, sa vào trong biển độc. Hai là, Tình sấm lậu: vướng mắc vào thuận nghịch, chỗ thấy không được quân bình. Ba là, Ngữ sấm lậu: cứu xét chỗ huyền diệu mà mất đi Tông chỉ, sau trước Cơ Trí đều mê muội tối tăm, trí dơ lưu chuyển. Đối với ba loại này, thầy phải nên biết.

Trong cái Càn Huệ, lại chia làm ba thứ này, nếu không có con Mắt Pháp phân biệt thì không thể chiếu phá. Do đó, bậc A La Hán hồi hướng về Đại Thừa, hẳn phải tư duy quán xét lời dạy của Ngài Động Sơn, thì mới đầy đủ cái nghĩa Vô Lậu vậy.

Kinh:

- Các vị Phật Tử trụ trì, khéo vượt lên các Hữu. Ở các quốc độ, thành tựu uy nghi. Theo Phật chuyển pháp luân, kham lãnh xứng đáng di chúc của Phật. Nghiêm tịnh Giới Luật để mở rộng khuôn phép cho ba cõi. Hiện thân vô số, cứu thoát chúng sanh, tột đời vị lai, khỏi các Trần ràng buộc.

Thông rằng:

-Trụ Trì: là cái Giác Tánh Thường Trụ, (hằng còn), hay nắm giữ (trì) vạn Pháp. Đoạn kinh này chỉ mười mấy chữ, thật bao quát hết ý chỉ của cả bộ kinh.

Nói rằng:

- Khéo Vượt Lên Các Hữu, tức là Ngũ Ấm, Lục Nhập, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới, cho đến bảy Đại đều chẳng có thể làm chướng ngại, thì nghĩa Phá Vọng đã đầy đủ hết.

Nói rằng:

- Thành Tựu Uy Nghi, tức là dựng lập Đạo Tràng, ba món tiệm thứ. Năm mươi lăm địa vị, tức là con đường Bồ Đề, thì nghĩa Hiển Chơn đã đầy đủ.

Nói rằng:

- Diệu Kham Di Chúc, thì hai mươi lăm pháp môn viên thông đều chứng Tự Tánh, đồng kham thọ ký thành Phật, mà cái tông chỉ Kiến Tánh tự còn.

Nói rằng:

- Mở Rộng Khuôn Phép Trong Ba Cõi, thì bộ kinh này phù trì Giới Luật, dặn dò cẩn thận bốn Cấm Giới, Thập Thiện và chín loại Định để nêu rõ quy tắc cho ba cõi. Ngài A Nan thị hiện dâm sự để mở đầu bộ kinh là cũng vì vậy.

Nói rằng:

- Ứng Thân Vô Lượng, là dạy các vị Bồ Tát và A La Hán hiện thân trong đời mạt pháp, hóa làm đủ thứ hình dạng, cứu vớt các chúng sanh luân hồi vậy. Vì phòng ngừa cho chúng sanh đời mạt pháp khỏi các ma sự, Siêu Khỏi Các Trần Ràng Buộc, chứng đến chỗ viên thông. Thật là lời dặn dò khuôn mẫu sau chót của Như Lai vậy.

Ngài Phong Huyệt Chiểu thiền sư có lời dạy rằng:

- Nếu lập một mảy trần, dẫu nước nhà đang hưng thịnh, lão quê này cũng buồn rầu. Không lập một mảy trần, dẫu nước nhà sụp đổ, lão quê này cũng vui ca.

Ngài Tuyết Đậu dựng cây trụ trượng lên mà nói:

- Lại còn có vị tăng cùng sống cùng chết nào không? Ý chỗ lập trần là ở đó.

Tụng rằng:

- Lão tăng dạy dỗ chẳng nhướng mày.
Mong cho nhà nước vững nền ngay.
Mưu thần dũng tướng giờ đâu tá.
Vạn dặm gió trong, chỉ tự hay.

Ngài Tuyết Đậu ở trong cửa Phật sự, chẳng bỏ một Pháp. Ngài Thiên Đồng ở nơi Thực Tướng chẳng thọ một mảy trần. Hai Pháp song hành bình đẳng, cùng một chỗ xuất ra.

Tụng rằng:

Sông Vị trắng trong thả nhợ câu,
Nào giống Di Tề chết đói đâu.
Chỉ tại mảy trần sanh lắm vẻ,
Nghiệp tốt, danh cao, khó bỏ thay.

Lại còn Tổ Trường Khánh nói rằng:

Mọi chuyện giống như ngày nay là bởi Lão Hồ có chỗ cho người ta ngưỡng vọng.

Tổ Bảo Phước nói:

- Mọi sự giống như ngày nay là vì Lão Hồ tuyệt hết mọi chỗ cho người ta ngưỡng vọng. Ngài Thiên Đồng dạy thêm:

- Giàu, ngàn miệng ăn vẫn cho là ít. Nghèo, một thân này vẫn hận là nhiều. Xét chỗ khai thị của các vị tôn túc, tất cả đều vì người, nào có khác với tâm cứu độ chúng sanh đời sau của Phật, Tổ. Nên sao chép lại để làm cái pháp Trụ Trì.

Thiện Tâm
06-29-2015, 09:45 PM
Kinh:

- Các vị là Đại Trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà làm Thượng Thủ. Lại có vô số các vị Bích Chi Vô Học và Sơ Tâm đồng đến chỗ Phật giảng đạo. Nhằm ngày các vị tỳ khưu mãn hạ Tự Tứ, các vị Bồ Tát từ mười phương đến, xin Phật giải quyết nghi hoặc, kính vâng Đức Từ Nghiêm, thỉnh cầu Nghĩa Thâm Mật.

Đức Như Lai trải pháp tọa, ngồi khoan thai, vì cả Pháp Hội mà tỏ bày cái mật nhiệm sâu xa. Chúng hội trong sạch, được việc chưa từng có.

Thông rằng: Đây là nói về chỗ bắt đầu của kinh. Nói là các vị Bồ Tát thỉnh cầu Mật Nghĩa, mà chẳng có nói: Cái Gì Là Mật. Nói đức Phật tỏ bày cái thâm áo, mà chẳng nói: Cái Gì Là Thâm Áo, thì làm sao chúng hội thanh tịnh lại được chỗ chưa từng có?

Xưa, Đức Thế Tôn một hôm lên tòa pháp. Đức Văn Thù bạch chùy rằng:

- Hãy xem rõ Pháp Vương Pháp. Pháp Vương Pháp như thế. Đức Thế Tôn bèn xuống pháp tòa. Tổ Thiên Đồng tụng:

Một đoạn của nhà có thấy không,
Miên man trời đất chạy thoi nhanh.
Gấm cổ dệt thành, bao Xuân sắc,
Ngại gì tiết lộ bởi Đông Quân.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Thánh chúng đương nhiên ắt hiểu ngay,
Pháp Vương, Pháp Lệnh chẳng như đây.
Hội này mà có Thiền gia khách,
Văn Thù nào phải hạ một chùy.

Nếu đối với chỗ Đức Thế Tôn lên tòa yên ngồi mà đã rõ thông tin tức, mới thật diệu khế cái Áo Mật, mà chẳng cần nhờ đến lời lẽ phiền phức vậy.

Hàng Bích Chi, còn có hạng Sơ Phát Tâm là học trò của hàng Bích Chi.

Hưu Hạ Tự Tứ là trong Luật có dạy ba ngày ra Hạ là Mười Bốn, Mười Lăm và Mười Sáu tháng Bảy.

Kinh:

- Tiếng của Phật hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, vang khắp mười phương. Hằng sa Bồ Tát đến chốn đạo tràng, có Ngài Văn Thù Sư Lợi làm Thượng Thủ.

Thông rằng: Chim Ca Lăng Tần Già khi còn trong trứng đã đủ tiếng hay, các loài chim khác không so sánh kịp. Thí dụ cho Đốn Giáo vào ngay dòng giống Phật, không cần mượn tu tập, Tam Thừa không bì kịp. Phật dùng âm thanh này để dạy cho hàng căn cơ Đốn Ngộ.

Thuở xưa, có lần Ngài Mục Kiền Liên muốn cùng tột âm thanh của Phật, dùng hết thần lực, đi qua hằng sa cõi, đến một cõi Phật có Báo Thân rất lớn. Ngài chống trượng đi trên miệng bát cơm của chư vị cõi đó. Các đệ tử ở đấy đều thưa với đức Phật cõi đó:

- Tại sao lại có loại trùng giống hệt con người?

Đức Phật kia đáp:

- Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử của phật Thích Ca ở cõi Ta Bà. Chớ thấy hình vóc nhỏ nhoi mà xem thường! Rồi đức Phật hỏi Ngài Mục Kiền Liên đến đây làm gì.

- Ngài trả lời là muốn cùng tột âm thanh của Phật.

Đức Phật dạy:

- Âm thanh của Phật vô tận, ông không thể cùng tột được đâu. Ngài Mục Kiền Liên bèn trở về.

Nên nói:

- Khắp Hết Mười Phương, là đúng vậy.

Hằng sa Bồ Tát mỗi mỗi đều có chỗ ở, như những cõi kể trong kinh Hoa Nghiêm, vũ trụ vô cùng, chỗ nào mà chẳng phải là Trụ Xứ của Bồ Tát? Nay nghe âm thanh Phật, các Bồ Tát đi đến với Phật.

Văn Thù tức là Diệu Đức, để bày tỏ cái Thiệt Trí. Mở bày Đốn Giáo thì đúng là Cơ của Ngài, nên Ngài làm Thượng Thủ. Xưa, Ngài Vô Trước Văn Hỷ thiền sư đến động Kim Cương ở núi Ngũ Đài chiêm bái Đức Văn Thù. Ngài gặp một ông già đang dắt trâu đi và mời Ngài vào chùa.

Ông già gọi:

- Sa di!

Thì có một đồng tử ứng tiếng dạ, chạy ra tiếp. Ông già thả trâu đi, dắt thiền sư lên nhà khách. Nhà cửa đều chói lọi ánh vàng. Ông già ngồi lên giường, chỉ một cái đôn gấm mời Ngài ngồi.

Ông nói:

- Ông từ đâu tới? Sư Văn Hỷ đáp:

- Phương Nam. Ông hỏi:

- Phật Pháp ở phương Nam trụ trì thế nào? Sư đáp:

- Đời mạt Pháp các Tỳ Kheo ít phụng trì Giới Luật. Ông hỏi:

- Chúng nhiều ít? Sư đáp:

- Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm. Sư Văn Hỹ trở lại hỏi:

- Phật Pháp ở đây trụ trì thế nào? Ông già trả lời:

- Rồng rắn lẫn lộn, phàm Thánh ở chung. Sư hỏi:

- Chúng nhiều ít? Ông đáp:

- Trước ba ba, sau ba ba. Ông kêu đồng tử đem trà và váng sữa lại. Sư dùng xong, tâm ý thông suốt. Ông già cầm chén pha lê lên hỏi:

- Phương Nam có thứ này không? Sư đáp:

- Không có. Ông hỏi:

- Bình thường lấy gì uống trà? Sư không đáp được. (Tiếc thay! Đang khi ấy chỉ nên đập nát nghiến cái chén pha lê! ) Văn Hỷ thấy trời đã tối, bèn hỏi ông ở lại một đêm được chăng. Ông già nói:

- Ông còn cái tâm chấp không thể ở lại. Sư nói:

- Tôi đâu có tâm câu chấp. Ông già hỏi:

- Ông đã thọ Giới chưa? Sư đáp:

- Thọ Giới đã lâu. Ông già nói:

- Nếu không có cái tâm chấp, thì thọ Giới để làm gì? Sư cáo từ. Ông già bảo đồng tử tiễn Ngài về. Ngài hỏi đồng tử:

- Trước ba ba, sau ba ba là nhiều ít? Đồng tử gọi lớn:

- Đại Đức! Sư ứng tiếng dạ. Đồng tử nói:

- Đó là nhiều ít? Sư Hỷ lại hỏi:

- Đây là chỗ nào?

Đáp rằng:

- Đây là động Kim Cương, chùa Bát Nhã. Sư Văn Hỷ mới tỉnh ngộ ra rằng ông già tức là Văn Thù vậy. Không thể ra mắt trở lại được nữa, bèn cúi đầu trước đồng tử, xin một lời nói để từ biệt.

Đồng tử đọc bài kệ:

Trên mặt không sân _ đồ cúng dường,
Trong miệng không sân _ xuất Diệu Hương.
Trong tâm không sân _ là châu báu,
Không dơ, không nhiễm _ tức Chân Thường.

Nói xong, cả người lẫn chùa đều ẩn mất.

Thầy Hỷ sau tham học với Tổ Ngưỡng Sơn, chóng ngộ tâm khế, giữ chức Điển Tòa. Khi nấu ăn, Đức Văn Thù thường hiện hình trên nồi cháo. Sư Văn Hỷ lấy cái đũa tre quậy cháo đánh mà nói rằng:

- Văn Thù tự mặc Văn Thù. Văn Hỷ tự mặc Văn Hỷ.

Đức Văn Thù bèn nói bài kệ:

Bầu đắng rễ cũng đắng,
Dưa ngọt tận cuống ngọt.
Tu hành ba đại kiếp,
Lại bị lão tăng từ (chối).

Thấu đến Trong Ấy lại còn nói có tâm câu chấp nữa ư?

Tổ Tuyết Đậu tụng rằng:

Ngàn đỉnh nhấp nhô một màu lam,
Ai là Văn Thù để đối đàm.
Nực cười Thanh Lương nhiều ít chúng,
Trước ba ba sau cũng ba ba.

Chỗ này mà thấu thoát được mới cho gặp mặt Đức Văn Thù.

Thiện Tâm
06-30-2015, 06:31 PM
DUYÊN KHỞI CỦA KINH


Kinh:

- Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày kỵ (giỗ) phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thọ trai. Tự Ngài đứng nơi cung dịch nghinh rước Đức Như Lai, dọn bày các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ Tát. Trong thành lại có các trưởng giả, cư sĩ cùng dự lễ Trai Tăng chờ Phật đến chứng minh. Phật khiến Ngài Văn Thù phân lãnh các vị Bồ Tát và A La Hán đi đến nhà các trai chủ.

Duy có Ông A Nan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chúng. Ông về một mình, không có Thượng tọa hay A xà lê cùng đi, và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ, ông mang bình bát vào trong một thành, trên đường đi tuần tự khất thực. Ban đầu, trong lòng cầu được một người bố thí tối hậu để làm trai chủ, không kể sang hèn, đều hành tâm Từ bình đẳng. Phát tâm viên thành cho tất cả chúng sanh được vô lượng công đức.

Ông A Nan đã biết đức Phật quở ông Tu Bồ Đề và Ông Đại Ca Diếp làm bậc A La Hán, mà tâm chẳng bình đẳng. Ông kính vâng lời khai thị của Phật, lìa thoát mọi nghi báng. Đi đến bên thành, thong thả vào cửa, nghiêm chỉnh oai nghi, kính giữ phép hóa trai.

Thông rằng: Vua Ba Tư Nặc cùng các vị trưởng giả, cư sĩ đồng thời cùng dự lễ Trai Tăng, sao ân cần như vậy? Vì công đức Trai Tăng rất lợi ích. Phật có thuyết cho Ông Cấp Cô Độc về quả báo của bố thí: hoặc là bố thí nhiều mà quả báo ít, hoặc là bố thí ít mà quả báo nhiều. Cúng dường cho ngàn vị Phật, không bằng cúng dường cho một vị Tịnh Hạnh. Cho đến cúng dường trăm ngàn vị Phật không bằng cúng dường cho một một vị Không Niệm, Không Trụ, Không Tu, Không Chứng.

Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói rằng:

- Phật dạy: Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người giữ Ngũ Giới ăn. Cho một vạn người giữ Ngũ Giới ăn không bằng cúng dường một vị Tu Đà Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu Đà Hoàn không bằng cúng dường một vị Tư Đà Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư Đà Hàm không bằng cúng dường một vị A Na Hàm. Cúng dường một ức vị A Na Hàm không bằng cúng dường một vị A La Hán. Cúng dường mười ức vị A La Hán không bằng cúng dường một vị Bích Chi Phật. Cúng dường một trăm ức vị Bích Chi Phật không bằng cúng dường ba đời Chư Phật. Cúng dường ngàn ức ba đời Chư Phật không bằng cúng dường cho một vị Không Niệm, Không Trụ, Không Tu, Không Chứng.

Thiện Tâm
06-30-2015, 06:40 PM
Đại lược hai đoạn trên tương đồng với nhau.

Có vị sư hỏi Tổ Lạc Phổ:

- Cúng dường trăm ngàn vị Phật chẳng bằng cúng dường một vị đạo nhân không tâm (Vô Tâm). Trăm ngàn chư Phật có lỗi gì? Người đạo nhân Vô Tâm có đức gì? Tổ đáp:

- Một mảnh mây trắng qua trước hang. Biết bao chim chóc lạc ổ về. Ngài Đơn Hà tụng rằng:

Thập Đắc bơ thờ không tỏ hiểu,
Hàn Sơn uể oải chẳng biết về.
Trước tiếng (thanh tiền) một câu viên âm đẹp,
Ngoài vật ba núi mảnh trăng soi.

Dịch:

Thập Đắc số dung phi giác hiểu,
Hàn Sơn lại đọa bất tư quy.
Thanh tiền nhất cú viên âm mỹ,
Vật ngoại tam sơn phiến nguyệt quy.

Câu ba: Viên Âm là tiếng vọng trải khắp mầu nhiệm, thuộc ẩn. Câu bốn là hiển.

Đây là riêng tụng về đạo nhân Vô Tâm đó vậy.

Ông Cam Chi hành giả một ngày kia vào chỗ Ngài Nam Tuyền bày Trai cúng, gặp Tổ Huỳnh Bá làm Thủ Tòa. Ông xin được bố thí tiền của.

Tổ Bá nói:

- Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

Ông Cam Chi nói:

- Nói thế nào để tiêu được cái của cúng của tôi? Bèn ra về.

Một lát, lại trở vào, nói:

- Xin được thí tài. Tổ Bá nói:

- Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

Ông Cam Chi bèn dâng cúng. Lại một ngày nọ, ông vào chùa dọn cháo, xin Tổ Nam Tuyền tụng niệm cho. Tổ Tuyền mới bạch chùy, nói:

- Xin đại chúng vì chồn, trâu già mà niệm: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ông Cam Chi bèn phất tay áo đi ra. Dùng cháo xong, Tổ Tuyền hỏi thầy Điển Tòa:

- Hành giả đâu rồi?

Đáp:

- Liền khi nãy đi rồi.

Tổ Tuyền bèn đập nát cái nồi.

Ngài Sớ Sơn tụng rằng:

Một mình bày cháo khoe anh tuấn,
Nào hay vương lão lại phong lưu.
Đập tan nồi cháo bày vụng xấu,
Chồn với trâu già một lượt thâu.

Như Ông Cam Chi mới đáng gọi là có thể cúng dường đạo nhân Vô Tâm vậy.

Thiện Tâm
07-01-2015, 03:51 PM
Hành khất có năm nghĩa: Một là, trong chứng bình đẳng, ngoài không thấy tướng giàu nghèo. Hai là, rời cái tâm tham lam kiêu mạn ngã theo điều lợi. Ba là, có sức Đại Định, chẳng có sợ các độc dữ của nhà gái dâm. Bốn là, lìa bỏ sự nghi ghét của phàm phu. Năm là, phá chỗ phân biệt của Nhị Thừa.

Đức Duy Ma Cật nói rằng:

- Nơi ăn mà bình đẳng, thì nơi pháp cũng bình đẳng. Chẳng luận sang hèn, dơ sạch đều chứng Bồ Đề. Đó là viên thành vô lượng công đức của tất cả chúng sanh. Ông Tu Bồ Đề thì bỏ nghèo theo giàu. Ông Đại Ca Diếp thì bỏ giàu theo nghèo. Thế tức là lòng Từ chẳng quân bình, chẳng gọi là lòng Từ bình đẳng. Nhưng khi Ông A Nan trong tâm vừa khởi niệm như thế, là đã rơi vào ý thức phân biệt, bèn thuộc về cái kế sanh nhai của nhà quỷ, nên ma mới có cơ hội.

Làm sao sánh được với sự hành khất như thế này: Thuở trước, có vị Hòa Thượng, thường dùng gậy quảy một cái bao bố với cái nệm rách. Bao nhiêu đồ dùng đều bỏ hết ráo trong cái bao ấy. Vào chợ búa xóm làng, thấy vật gì thì xin. Hoặc thịt chua cá mặn, vừa lấy thì bỏ vào miệng, còn lại thì bỏ trong bao. Đời ấy người ta gọi là Trường Đinh Tử. Một hôm, có vị tăng đi trước mặt, Sư bèn vỗ vào lưng, vị tăng quay đầu lại. Sư nói:

- Cho ta một đồng tiền.

Tăng nói:

- Nói được thì cho ông một đồng tiền.

Sư bỏ cái bao bố xuống, khoanh tay mà đứng sững. Lại một ngày nọ, Ngài đứng ở chợ. Có vị tăng hỏi:

- Hòa Thượng tại Trong Ấy làm cái gì? Ngài đáp:

- Đồng với: Con Người.

Tăng rằng:

- Đến rồi vậy, đến rồi vậy.

Ngài nói:

- Ông chẳng phải là con người ấy đâu. Tăng hỏi:

- Thế nào là con người đó?

Ngài đáp:

- Cho ta một đồng tiền!

Ngài có bài kệ:

Một bát cơm ngàn nhà,
Cô thân muôn dặm xa.
Mắt xanh, người ít thấy,
Mây trắng hỏi đường qua.

Bản gốc:

Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Thanh mục đỗ nhân thiển,
Vấn lộ bạch vân đầu.

Nếu khế hợp được chỗ ấy, có thể nói là được Nghi Thức của Chư Phật vậy.

Thiện Tâm
07-01-2015, 03:56 PM
Một hôm, đức Phật bảo A Nan:

- Đã đến giờ, ông nên vào thành đi trì bát.

A Nan vâng lời. Thế Tôn nói:

- Ông đã ôm giữ bát thì phải y theo Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ.

Ông A Nan mới hỏi:

- Như thế nào là Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ? Thế Tôn gọi lớn:

- A Nan!

Ông A Nan ứng dạ.

Thế Tôn rằng:

- Ôm bát đi! (Ôi, nếu Ông A Nan sớm hiểu chỗ này, thì đâu có việc Ma Đăng Già!)

Kinh:

- Khi đi khất thực, Ông A Nan đi qua nhà người dâm nữ Ma Đăng Già, bị phép huyền thuật của cô ta, là tà chú Ta Tì Ca La của ngoại đạo, bắt vào giường riêng dựa kề vuốt ve làm cho ông gần phá giới thể.

Đức Như Lai biết Ông A Nan mắc phải dâm thuật, dùng trai xong liền trở về. Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong được nghe Pháp yếu.

Khi ấy, trên đỉnh Thế Tôn phóng ra ánh sáng rực rỡ Vô Úy, trong hào quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, trên có Hóa Thân của Phật ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú khiến Ngài Văn Thù Sư Lợi đem chú này đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú rồi đưa Ông A Nan và nàng Ma Đăng Già về chỗ của Phật.


Thông rằng: Bộ Hiệp Luận nói Đức Phật thương xót chúng sanh bị trôi lăn trong Tam Giới đều do mắc vào Dục. Trong các thứ Dục, chỉ có cái Dâm Dục là nặng hơn hết, nên bộ kinh này mở đầu bằng việc cô Ma Đăng Già. Để nhấn mạnh là nếu bị chìm đắm vào đó là một hoạn nạn lớn, mà diệt trừ được lại là một lợi ích lớn. Ví như chăn dê thì đánh ở sau, nên hễ có cơ hội là răn nhủ cẩn thận.

Có vị tỳ kheo ni tên là Bảo Hương, thọ Bồ Tát giới mà lại lén làm chuyện dâm, lại nói xằng rằng Dâm Dục chẳng phải giết hại hay trộm cắp nên chẳng có sự trả Nghiệp. Liền từ nữ căn sanh ra ngọn lửa lớn rồi dần dần thiêu luôn cả cơ thể, đọa vào Vô Gián địa ngục.

Còn Ngài Ô Sắc Ma thì nghe Phật dạy rằng người đa dâm như đống lửa lớn, nên tu mà hóa Tánh Dâm thành Hỏa Quang Tam Muội, chứng quả A La Hán. Ngài nói rằng:

- Các phiền não đã tiêu, sanh ra ngọn lửa quý báu, lên bậc Vô Thượng Giác. Ôi! Vô Thượng Giác là địa vị Phật mà nhờ quán sát Dâm Tánh thì có thể lên được! Địa ngục Vô Gián là đường dữ mà vì theo chuyện dâm nên đang còn sống mà đã bị đọa vào. Luận về mười loại Tập Nhân thì Dâm Tập đứng đầu. Nói là Dâm Tập đứng đầu vì đó là sự giao tiếp, phát sinh từ sự cọ xát, nên có ngọn lửa rất mạnh phát ra ở bên trong. Cớ nên Phật bảo sự Hành Dâm gọi là Lửa Dục. Sau mới đến những tội Tham Lam, Kiêu Mạn. Trong Bộ Luật, nói về ba Nghĩa Quyết Định Tu Hành, đó là nhiếp tâm làm Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ, gọi là ba Vô Lậu Học. Sự đoạn trừ Sát, Đạo, Dâm, Vọng thì kinh này nói Đoạn Dâm trước hết.

Thiện Tâm
07-01-2015, 04:15 PM
Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ Tát tự kể về ba mươi hai Ứng Thân thuyết pháp của Ngài, nói rằng:

- Phạm Thiên Vương nhờ Dục tâm được Minh Ngộ mà cùng với Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đồng gọi là Giải Thoát, còn hai mươi tám hạng kia chỉ có tên thành tựu mà thôi. Lại năm thứ Mùi Cay là thứ làm phát Dâm, tăng Oán Giận nên dạy lập ba món Tiệm Thứ để đoạn trừ, gọi là Tăng Tiến Đệ Nhất. Lại dạy rằng phải quán sát Dâm Dục hơn cả rắn độc, nếu thành tựu được Cấm Giới thì với con mắt thịt của cha mẹ sinh ra có thể thấy suốt cả mười phương.

Đó là gặp cơ hội thì dặn dò kỹ lưỡng vậy. Bộ Luận này quả đã uốn nắn cho ngay ngắn toàn thể mạch lạc của kinh, dặn dò kỹ lưỡng, tỏ liễu sâu xa chỗ mở dạy của bộ kinh mà lấy việc dứt lìa cái Dâm Dục làm đầu, khiến cho người ta sợ hãi đến dựng tóc gáy, lạnh xương sống. Tuy nhiên, người chứng Thật Trí, thì thấy tất cả Thanh, Sắc đều như huyễn như mộng, việc dữ kia chẳng có bóng dáng nào cả ở trong ấy.

Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói:

- Người nhiều Ái Dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất phải bị cháy tay.

Thiên Thần dâng Ngọc Nữ để thử Phật, muốn xem đạo ý Ngài ra sao.

Phật nói:

- Cái bao da chứa đồ dơ kia đến đây làm gì. Hãy đi đi! Ta chẳng dùng đến. Vị Thiên Thần rất kính trọng, thưa hỏi ý đạo. Phật dạy cho, liền đắc quả Tu Đà Hoàn.

Lại còn Kinh Duy Ma Cật có đoạn ông Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ:

- Sao cô chẳng chuyển thân nữ?

Thiên nữ đáp:

- Từ mười hai năm nay, tôi tìm cầu hình tướng người nữ mà chẳng thể được. Vậy thì phải chuyển cái gì? Ví như một nhà huyễn thuật, tạo ra một người nữ huyễn.

Như có người hỏi cô ấy:

- Sao cô không chuyển thân nữ đi? Người ấy hỏi có đúng không?

Xá Lợi Phất trả lời:

- Không đúng! Huyễn không có tướng nhất định, thì có gì mà chuyển.

Thiên Nữ nói:

- Tất cả Chư Phật cũng lại như thế. Hết thảy đều không có định tướng, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ?

Liền đó, Thiên Nữ dùng thần thông biến Ông Xá Lợi Phất thành Thiên Nữ và Thiên Nữ thì hóa thân thành như Xá Lợi Phất; rồi hỏi rằng:

- Sao ông chẳng chuyển thân nữ?

Ông Xá Lợi Phất trong hình tướng thân nữ đáp rằng:

- Không hiểu sao tôi lại biến thành thân nữ? Thiên Nữ nói:

- Nếu Ông Xá Lợi Phất có thể chuyển thân nữ này, thì hết thảy người nữ cũng có thể chuyển. Như Xá Lợi Phất chẳng phải là người nữ mà lại hiện thân nữ, tất cả người nữ lại cũng như thế, tuy hiện thân nữ mà chẳng phải là người nữ.

Thế nên, đức Phật nói rằng:

- Tất cả các pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ.

Thiên Nữ liền thu lại thần lực, Ông Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên Nữ bảo:

- Này, Ông Xá Lợi Phất, sắc tướng thân nữ bây giờ ở đâu? Xá Lợi Phất nói:

- Sắc tướng thân nữ không có ở đâu mà không đâu chẳng có. Thiên Nữ nói:

- Tất cả các pháp lại cũng như thế, không có ở đâu mà không đâu chẳng có.

Ôi! Thần lực của Thiên Nữ có thể chuyển Ông Xá Lợi Phất, còn chú Tiên Phạm Thiên có thể hủy phá Giới Thể của Ông A Nan. Nghĩa hai đoạn kinh có thể so sánh cho rõ ràng vậy.

Thiện Tâm
07-01-2015, 04:19 PM
Kinh:

- A Nan thấy Phật, cúi lạy buồn khóc, căm hận mình từ vô thủy đến nay một bề nghe rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực. Tha thiết xin Phật dạy cho những Pháp Xa Ma Tha (Chỉ), Tam Ma (Quán), Thiền Na (Thiền, Chỉ Quán Viên Tu) vi diệu, là những phương tiện tu hành đầu tiên nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Bồ Đề.

Lúc ấy, lại có hằng sa Bồ Tát, Đại A La Hán và Bích Chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe lời Phật dạy, lui về chỗ ngồi, yên lặng lãnh thọ Thánh chỉ.

Thông rằng: Ông A Nan phát ra lời hỏi đây, là cái xương sống của toàn bộ kinh. Từ đầu đến cuối, Thế Tôn trả lời không bỏ sót chỗ nào. Xa Ma Tha gọi là Chí Tĩnh, là Không Quán. Tam Ma Bát Đề gọi là Lực Dụng Biến Hóa (Như Huyễn), là Giả Quán. Thiền Na là Tịch Diệt, nghĩa là chẳng giữ cái huyễn hóa cũng chẳng trụ tướng Tịnh, tức là Trung Quán.

Kinh Viên Giác nói:

- Tịch tỉnh Xa Ma Tha, như kính soi muôn tượng. Như Huyễn Tam Ma Đề, như mầm giống dần dần tăng trưởng. Thiền Na là Tịch Diệt, như tiếng vang trong chuông. Ba loại diệu Pháp Môn gọi là Giác Tùy Thuận, nhờ chúng mà mười phương Như Lai cùng chư Đại Bồ Tát được thành đạo. Viên chứng được cả ba thứ là rốt ráo Niết Bàn.

Ông A Nan một bề nghe nhiều học rộng, chứ nếu vẫn tu tập ba Pháp Môn này thì đâu còn phải hỏi. Nay ông bị huyễn thuật ắt là trước đây các công phu Quán Hạnh, Thiền Định đều chẳng được gì, nên mới nghĩ mười phương Như Lai hẳn phải có điều vi diệu về các thứ này.

Xét một chữ Diệu, tợ hồ phảng phất thoáng thấy: nào phải mượn đến sự tu hành khó nhọc lao khổ! Chỉ vì chẳng biết cái phương tiện ban đầu hết là do Ngộ Nhập đó vậy.

Kinh Viên Giác cũng có nói:

- Chỉ trừ bậc Đốn Giác, thì không theo Pháp Môn. Vốn có một Pháp Môn Đốn Ngộ, chỉ lấy việc Thấy Tánh (Kiến Tánh) làm Tông. Cho nên, nếu thấy được Tánh, thì Vô Tâm đối với Chỉ, Quán mà Chỉ Quán tự có sẵn. Không thấy Tánh, tuy hằng ngày có tu Chỉ Quán cũng khó địch với cảnh ma.

Chỉ có Thấy Tánh mới được Diệu.

Đoạn kinh sau có nói đến: Diệu Minh Chân Tâm, Biển Diệu Trang Nghiêm, Diệu Minh Minh Diệu... đều để trả lời cho ý nghĩa của chữ Diệu, mà chấm dứt bằng bài kệ:

Gọi đó Diệu Liên Hoa,
Kim Cương Vương, Bảo Giác.
Như huyễn Tam Ma Đề,
Khẩy tay, vượt Vô Học.
Pháp này là Vô Thượng,
Một đường trực nhập Niết Bàn,
Của mười phương chư Phật.

Pháp Đốn Ngộ này, chẳng phải các loại Chỉ Quán, Thiền Định tầm thường có thể so sánh.

Thiện Tâm
07-03-2015, 08:27 PM
Thuở xưa, Ngài Tuyết Phong ba lần tham yết Tổ Đầu Tử, chín lần thưa hỏi Tổ Động Sơn, cũng đã là bậc đa văn. Kế thế Tổ Đức Sơn rồi, cùng Tổ Nham Đầu đến núi Ngao Sơn ở Lễ Châu. Gặp lúc tuyết rơi, Tổ Đầu mỗi ngày chỉ lo ngủ, còn Ngài Tuyết Phong cứ một mạch tọa thiền.

Một hôm, Ngài kêu lớn rằng:

- Sư huynh, Sư huynh! Dậy đi chớ!

Tổ Nham Đầu rằng:

- Làm cái gì? Ngài đáp:

- Đời này chẳng lo xong thì gặp cái lão Văn Thúy ấy sẽ bị lão trói đấy. Ngày nay đã đến đây, vậy mà chỉ lo ngủ.

Tổ Nham Đầu hét to:

- Cây cột phướn, ngủ đi! Hằng ngày cứ ngồi như ông Thổ Địa trong làng rồi sau nầy đi làm nam nữ ma mị nhà người!

Ngài tự chỉ vào ngực mà nói:

- Tôi đây trong cái ấy chưa yên, chẳng dám tự dối mình.

Tổ Nham Đầu nói:

- Tôi sắp nói rằng ngày sau ông sẽ hướng lên đỉnh núi trơ trụi trên tảng đá kết thảo am, xiển dương đại giáo, sao ông lại nói như thế?

Ngài nói:

- Tôi ở trong ấy quả thật không yên. Tổ Nham Đầu nói:

- Nếu ông thật như thế, thì cứ theo chỗ thấy của ông, mỗi mỗi nói ra hết đi. Đúng, tôi sẽ chứng minh cho. Không đúng, tôi sửa sang đẽo gọt cho.

Ngài nói:

- Mới đầu, tôi đến tham yết Ngài Giám Quan, nghe buổi giảng nêu lên cái nghĩa Sắc Không, bèn có chỗ vào.

Tổ Nham Đầu nói:

-Chuyện ấy đã ba mươi năm rồi, rất kỵ nêu lại!

Ngài nói:

- Lại thấy bài kệ của Tổ Động Sơn:

Thiết kỵ tùng tha mích,
Điều điều dữ ngã sơ.
Cừ kim chính thị ngã,
Ngã kim bất thị cừ.

Dịch:

Rất kỵ tìm nơi khác,
Mỗi mỗi càng cách xa.
Y nay chính là ta,
Ta giờ chẳng phải y.



Tổ Nham Đầu nói:

- Nếu cho là như thế thì tự cứu cũng chẳng xong.

Ngài lại nói:

- Sau đến hỏi Ngài Đức Sơn: Việc xưa nay trong Tông Thừa người tu học có được phần nào chăng?

Tổ Đức Sơn đánh cho một gậy, mà rằng:

- Nói gì vậy? Khi ấy, tôi như thùng vỡ đáy.

Tổ Nham Đầu hét to:

- Ông há chẳng nghe nói: Từ cửa mà vào ắt chẳng phải là của báu nhà mình, sao?

Ngài hỏi:

- Ngày sau như thế nào mới phải?

Tổ Nham Đầu đáp:

- Ngày sau mà muốn hoằng dương đại giáo, mỗi mỗi đều từ trong ngực mình tuôn ra. Ngày sau hãy cùng ta mà trùm trời trùm đất đi.

Ngài Tuyết Phong nghe xong đại ngộ, bèn làm lễ, mừng rỡ la lên rằng:

- Sư huynh ơi, hôm nay mới đúng là Ngao Sơn thành đạo.

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay. Đâu phải cứ một bề ngồi thiền mà có được thứ thoại đầu này!

Thiện Tâm
07-04-2015, 07:09 PM
QUYỂN I

PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC MỘT: GẠN HỎI CÁI TÂM

I - NGUYÊN DO CỦA THƯỜNG TRỤ VÀ LƯU CHUYỂN

Kinh:

Phật bảo Ông A Nan:

- Ông với Ta đồng phái, tình như anh em ruột. Khi ông mới phát tâm, thì ở trong Phật Pháp, thấy tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng của thế gian?

Ông A Nan bạch Phật:

- Tôi thấy ba mươi hai tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly. Thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do Dục Ái sanh ra. Vì sao? Thứ dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sanh được thân vàng chói trong sạch sáng ngời như vậy, nên tôi khao khát ngưỡng mộ xuống tóc mà theo Phật.

Thông rằng: Ông A Nan nhờ có cái suy nghĩ này làm gốc rễ cho tâm đạo ban đầu, nên khi gặp huyễn thuật, chẳng có quá đỗi hoa mắt mê loạn, dù đã vào nhà dâm mà chưa phá hủy Giới Thể. Nhưng chỉ lấy ba mươi hai tướng tốt mà thấy Như Lai, không khỏi dùng Sắc mà thấy, lấy Tiếng mà cầu, nên còn trong tà giải, đối với Chân Pháp Thân của Phật còn xa xôi lắm.

Thiền sư Tùy Châu Pháp Vi thượng đường rằng:

- Cái Pháp Thân không có hình tướng, chẳng thể dùng âm thanh tìm cầu. Diệu đạo tuyệt hết lời nói, đâu phải lấy văn tự mà hiểu. Cho dù siêu Phật, vượt Tổ vẫn còn rơi vào thềm bực. Dù cho có nói diệu, bàn huyền rốt cuộc cũng treo môi răng. Cần phải: chỗ công đức chẳng hưởng chút công lao, hình ảnh vết tích chẳng còn lưu lại; cây khô hang lạnh rốt thảy vô tri; người huyễn ngựa gỗ, tình thức đều không. Chừng ấy mới thỏng tay vào chợ, chuyển thân loài khác. Không thấy đạo, thì: Nơi đất vô lậu nào ở được. Đành về cát lạnh khói sương nằm.

Đối với chỗ này tỏ hiểu thì nào phải đợi thấy cái thân vàng chói trong sạch mới gọi là Như Lai ư?

Kinh:

Phật dạy:

- Lành thay, A Nan! Các ông phải biết tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sống chết nối nhau, đều do không biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Thể Tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà lại dùng các Vọng Tưởng. Các tưởng này chẳng chân thật, nên mới có sự chuyển động trôi lăn.

Thông rằng: Ông A Nan ân cần, tha thiết thưa hỏi Pháp Môn Vi Diệu Xa Ma Tha, Tam Ma, Thiền Na là những phương tiện ban đầu nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Chánh Giác. Chính là muốn biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể trong sạch sáng suốt, là cái Bản Thể Bất Diệt không bị xoay chuyển luân hồi. Ông đã nói: Tướng ấy chẳng phải do Ái Dục sanh ra, là đã hiểu rõ rằng Dục Ái nhơ nhớp, Vọng Tưởng tạp loạn chính là cái gốc rễ Sanh Tử từ vô thủy đến giờ. Cho nên Phật mới khen rằng:

- Lành thay! Cái Chân Tâm Thường Trụ, vốn không sanh ra và diệt mất. Vừa khởi Vọng Tưởng liền nhập luân hồi. Không phải chỉ có Dục Ái nặng nề, nghiệp dữ đa mang đều chẳng phải chơn, mà bậc Thanh Văn, Duyên Giác chưa hết lòng chấp trước thì cũng đều là Vọng. Vọng tưởng hết sạch thì Tánh Thể sáng suốt, vốn tự Vô Sanh, làm sao mà có luân chuyển. Toàn cả bộ kinh đều phát minh ý chỉ này. Cho nên, biết cái Chân Tâm Thường Trụ, tức là Thấy Tánh, Thấy Tánh thì Vô Sự vậy.

Ngài Linh Vân thượng đường dạy:

- Hỡi các nhân giả, hễ có dài có ngắn là chẳng có Thường. Hãy xem bốn mùa hoa cỏ, hoa nở lá rơi. Xưa nay trời người bảy nẻo, Đất Nước Gió Lửa, thành hoại chuyển vần, nhân quả nối nhau, ba đường ác khổ, mảy lông cọng tóc chưa từng thêm bớt, chỉ có cái gốc thần thức là thường còn. Hạng Thượng Căn gặp bạn lành soi sáng, ngay đây là Giải Thoát, trước mắt là đạo tràng. Bực Trung, bực Hạ si mê ám độn, chẳng soi suốt được, mê chìm trong ba cõi, luân chuyển tử sinh. Đức Thích Tôn vì họ, tất cả Trời người, mà dạy dỗ chứng minh, tỏ bày con đường Vô Thượng. Các ông lại am hiểu chăng?

Có vị tăng hỏi:

- Làm sao để ra khỏi Sanh Lão Bệnh Tử?

Ngài đáp:

Thanh sơn nguyên bất động,
Phù vân nhậm khứ lai.

Dịch:

Núi xanh nguyên chẳng động,
Mặc tình mây lại qua.

Câu này đủ để chú thích đoạn kinh trên. Không thể thêm bớt một chữ.

Thiện Tâm
07-04-2015, 07:13 PM
Kinh:

- Nay ông muốn học đạo Bồ Đề Vô Thượng, phát minh Chơn Tánh thì phải lấy Tâm Ngay Thẳng (Trực Tâm) mà trả lời chỗ Ta hỏi. Mười phương Như Lai đồng một con đường mà ra khỏi Sanh Tử đều là bởi Tâm Ngay Thẳng. Tâm mà nói là Ngay Thẳng, tức là từ địa vị đầu tiên cho đến cuối cùng, suốt trong khoảng giữa, cứ như thế, một mực không có những tướng quanh co.

Thông rằng: Hiệp Luận nói ở đây, đặc biệt là: Chân Phát Minh Tánh, vậy thì cũng có "Vọng Phát Minh Tánh" sao? Có chứ. Làm sao để phân biệt?

Đáp:

- Vô tâm tùy mặc xoay vần mà khắp biết, vốn mầu nhiệm sáng soi mà hằng vắng lặng, ấy là Chân Phát Minh Tánh.

Chỗ nói: Mười phương Như Lai đều cùng một đường mà ra khỏi Sanh Tử đều do Trực Tâm, là thế. Còn nghịch với thời tiết, bỏ lỡ nhân duyên, lấy vọng tưởng mà gắng gượng hiểu biết, là: Vọng Phát Minh Tánh.

Chỗ nói: Dùng các vọng tưởng, vọng tưởng này chẳng chân thật nên có luân hồi, chính là thế. Vốn là một Thể, nhưng bởi vì không có tự tánh, không có thời gian, nên tùy chỗ dùng mà có sai khác đó thôi. Tùy mặc xoay vần, hằng hằng vắng lặng mà Hay Biết, ắt hợp với Bổn Tánh nhiệm mầu. Nghịch thời lỡ duyên mà Biết, ắt hợp với Trần Cảnh hư vọng.

Ngài Mã Minh dạy:

- Cái Bổn Tánh vốn trong sạch, bởi vì Vô Minh bất giác mà hiện ra tướng tâm ô nhiễm. Tuy có tâm ô nhiễm, Bổn Tánh vẫn thường sáng suốt trong sạch. Cái tướng của tâm ô nhiễm là Vô Minh đang hiện hành. Còn Bổn Tánh sáng sạch là cái Trí Thể Bất Động.

Có vị tăng hỏi Tổ Vân Am:

- Luận Tạp Hoa nói: Cái vô minh đang hiện hành tức là Như Lai Bất Động Trí. Điều này thật khó tin, làm sao hiểu được?

Khi ấy có một đồng tử đang quét đất.

Tổ Am bèn gọi. Đồng tử quay đầu lại.

Tổ Am nói:

- Chẳng phải là Bất Động Trí đó sao?

Lại hỏi:

- Cái Phật Tánh của ngươi như thế nào?

Đồng tử nhìn qua trái, qua phải, như không vậy rồi bỏ đi.

Tổ Am nói:

- Chẳng phải là vô minh hiện hành đó sao? Chân Phát Minh Tánh ấy, như ánh sáng của hạt minh châu, thường tự soi hạt châu.

Thiện Tâm
07-04-2015, 07:15 PM
Kinh:

A Nan, nay Ta hỏi ông:

- Đương khi ông do ba mươi hai tướng của Như Lai mà phát tâm thì ông lấy cái gì mà thấy và cái gì ưa thích?

Thông rằng: Đây là chỗ từ từ dẫn dụ trước hết của Thế Tôn.

Đức Thế Tôn há chẳng biết rằng: Sự Thấy thuộc về con mắt, ưa thích thuộc về cái tâm, hay sao?

Nhưng cái Thấy Có đó, là cái Thấy về hình tướng hữu vi. Cái "có chỗ ưa thích" ấy, là cái ưa về hình tướng hữu vi. Nên hỏi ai thấy, ai yêu, cốt để A Nan ngay lúc ấy nhận ra và nắm lấy con người thực xưa nay của mình vậy. Nếu có thể hồi quang phản chiếu, tìm cầu cái Thấy ấy, chợt hiểu Bất Khả Đắc, hết thảy ưa muốn vốn chưa từng có gốc rễ, tức thì nhập ngay vào Định Thủ Lăng Nghiêm. Thế chẳng khoái sao? Về sau, nhà Thiền hay dùng cái cơ chốt này.

Có nhà sư hỏi Tổ Bá Trượng:

- Như sao là Phật?

Tổ Trượng hỏi:

- Ông đó là ai?

Đáp:

- Tôi đây vậy.

Tổ Trượng rằng:

- Ông biết cái Tôi đó chăng?

Đáp:

- Rõ ràng vậy.

Tổ Trượng bèn dựng đứng cây phất tử lên, rằng:

- Ông lại thấy chăng?

Đáp:

- Thấy.

Tổ Trượng bèn chẳng thốt lời nào.

Chỗ hỏi của vị tăng là Phật, mà Tổ Trượng lại chẳng nói gì đến Phật, chỉ ở Chỗ Thấy của vị tăng mà nhắc nhở. Một tắc này, rõ ràng bày tỏ được cái khuôn mẫu của Lăng Nghiêm.

Thiện Tâm
07-04-2015, 07:23 PM
Kinh:

A Nan bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, sự ưa thích đó là dùng cái tâm và con mắt của tôi. Do mắt thấy tướng tốt của Như Lai, tâm sinh ưa thích, nên tôi phát tâm nguyện lìa bỏ sanh tử.

Phật bảo Ông A Nan:

- Như chỗ ông nói, thật do tâm và con mắt mà có ưa thích. Nếu không biết tâm và mắt ở đâu, thì chẳng dẹp được trần lao. Ví như bậc quốc vương bị giặc xâm lăng, phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần nhất phải biết chỗ ở của kẻ giặc. Khiến ông bị luân hồi, thì tâm và mắt là thủ phạm. Nay ta hỏi ông:

- Tâm và mắt ấy hiện ở chỗ nào?

Thông rằng: Chỗ hỏi của Thế Tôn là riêng tỏ về chỗ Hướng Thượng Nhất Lộ. Nói: Lấy cái gì mà thấy, lấy ai ưa thích, rõ ràng là chỉ thẳng mặt trăng. Chỗ đáp của Ông A Nan chưa rời khỏi thường tình, chỉ biết hợp theo Trần mà chẳng biết hợp với Giác. Xoay lưng lại với Giác mà hiệp theo Trần, là lỗi của ai? Sáu Giặc (sáu Căn) làm môi giới, tự cướp lấy của báu nhà mình. Cho nên, chỗ Ông A Nan nói: Tâm và Mắt, chỉ là Căn và Thức, lôi kéo theo trần lao, lưu chuyển cùng sanh tử. Cái Thường Trụ Chân Tâm như vua trong nước, vì bị giặc xâm lấn, nên vốn trong sạch mà gọi là dơ, vốn sáng soi mà gọi là mờ ám. Tâm và mắt thật là lũ giặc của Chân Tánh vậy. Do đó, phải thấu đến cùng sào huyệt của chúng mà diệt trừ. Nghịch dòng trôi lăn, giữ tròn Chân Tánh, Lục Dụng (sáu Thức) chẳng hiện hành, mà phát ra sự sáng rỡ trong sạch vốn có, sáu Căn đồng dùng thay lẫn cho nhau, con mắt thịt do cha mẹ sanh ra thấy suốt mười phương, thì còn đâu các lỗi bị lưu chuyển nữa!

Thiền sư Tử Hồ Tung có đêm la lớn:

- Có cướp! Có cướp!

Đệ tử choàng dậy tranh nhau đuổi bắt. Ngài chụp lại một người, nói rằng:

- Bắt được một tên rồi.

Người đệ tử ấy nói:

- Không phải đâu, chính là tôi đây.

Ngài buông ra nói rằng:

- Chính là. Chỉ bởi vì Chẳng Chịu Nhận Lấy đó thôi!

Cho nên, nếu chịu nhận lấy thì giặc cướp tức là con cái. Chẳng thể kham lấy, con cái trở lại làm giặc. Đoạn thuyết thoại này đối với chuyện vị quốc vương đem binh trừ giặc, thật là một phen hý lộng, riêng cho Bực Có Mắt, đó thôi.

Thiện Tâm
07-06-2015, 06:29 PM
PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC MỘT: GẠN HỎI CÁI TÂM

II - CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN


Kinh:

Ông A Nan bạch với Phật:

- Thưa Thế Tôn, tất cả mười loài chúng sanh ở thế gian đều cho cái Thức Tâm Hay Biết là ở trong thân. Thiết nghĩ, thì con mắt như hoa sen xanh của Như Lai cũng ở trên mặt Phật. Nay tôi thấy con mắt vật chất của tôi cũng ở trên mặt tôi. Như vậy thì cái Thức Tâm thật ở trong Thân.

Phật bảo Ông A Nan:

- Hiện nay ông ngồi trong giảng đường của Như Lai. Ông hãy xem rừng Kỳ Đà ở đâu?

- Thưa Thế Tôn, giảng đường cao lớn thanh tịnh này ở trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà hiện thật ở ngoài giảng đường.

- A Nan, nay ông ở trong giảng đường, thì ông thấy cái gì trước tiên?

- Thưa Thế Tôn, tôi ở trong giảng đường, trước hết là thấy Như Lai, sau đó là đại chúng, rồi nhìn ra ngoài thấy vườn rừng.

- A Nan, do đâu ông thấy được vườn rừng?

- Thưa Thế Tôn, do các cửa giảng đường mở rộng, nên tôi ở trong này mà thấy được ra ngoài xa.

Thông rằng: Phù Căn Tứ Trần cũng giống như sáu Căn, đây chỉ về Nhãn Căn mà thôi. Đất, Nước, Lửa, Gió: Tánh chúng xưa nay vốn trong sạch; mà Tướng của Đất, Nước, Lửa, Gió mỗi mỗi đều dao động như bụi bặm, gọi là Trần. Khi sáu Căn tạo thành thì nương theo tứ Trần này: Sáu Căn chìm vào trong, bốn Đại trôi nổi ở bên ngoài, cho nên gọi là Phù Căn Tứ Trần. Với cả mười loài, Thức Tâm đều ở trong, mắt ở trên mặt thì không nói cũng biết rồi. Con mắt của Như Lai ở trên mặt, nhưng không dám xác quyết Thức Tâm là ở trong, vì Như Lai đã rời lìa cái Thức rồi, vì cái Pháp Thân thì tròn đầy không có trong hay ngoài vậy. A Nan nói ra thật đắn đo, mà người dịch cũng cẩn thận. Thế Tôn muốn bày rõ cái nghĩa: Tâm chẳng ở trong, nên trước hết lấy giảng đường, rừng vườn, cửa nẻo làm ví dụ. Giảng đường ví như trong thân, vườn rừng ví như ngoại vật, cửa nẻo ví như lục căn. Nếu Ông A Nan là người tỏ suốt, thấy được con người đích thực của A Nan, vốn chẳng thuộc giảng đường, chẳng thuộc vườn rừng, chẳng thuộc cửa nẻo, thì ông sẽ đến đi tự tại, không làm gì có trong có ngoài. Nếu chấp chặt tâm này, lầm lạc cho là ở trong Sắc Thân, lấy tạng phủ làm nhà nhốt kín, lấy sáu căn làm cửa nẻo, ôm lấy ngoại cảnh làm vườn rừng, rồi nghĩ rằng ngoài những thứ đó thì không có chỗ an thân. Một mai, nhà hư cửa nát, cảnh đổi, cái Thấy tiêu vong, thì còn chỗ nào để an được. Thế Tôn tuy nương theo chỗ bình thường biện biệt thứ tự trong ngoài, cũng chỉ rõ ràng sắc thân vốn như huyễn, chẳng phải là chỗ để bám chấp được. Như giảng đường, cửa cái, cửa sổ đối với ta chẳng có tương can gì.

Ngài Trí Huy Thiền sư trước khi tịch có bài kệ:

Ngã hữu nhất gian xá,
Phụ mẫu vị tu cái.
Vãng lai bát thập niên,
Cận lai giác tổn hoài.
Tảo nghị di biệt xứ,
Sự thiệp hữu tắng ái.
Đãi tha tồi hủy thời,
Bỉ thử vô phòng ngại.

Dịch:

Ta có một căn nhà,
Xây lợp bởi mẹ cha.
Tám mươi năm lui tới,
Gần đây rõ sắp hoại.
Sớm liệu dời nơi khác,
Nào có chuyện ghét thương.
Đợi lúc kia sập nát,
Đây kia không ngăn ngại.

Rồi ngồi kiết già mà đi. Đó là thương ghét đều quên, đến đi không trở ngại, cái Năng Kiến đã tiêu vong thì còn nói gì đến chuyện trong ngoài nữa.

Thiện Tâm
07-10-2015, 10:21 AM
Kinh:

Khi ấy, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, đưa cánh tay sắc vàng xoa đầu Ông Anan, dạy ông và đại chúng rằng: “Có Pháp Tam Ma Đề, tên là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, gồm đủ muôn hạnh. Mười phương Như Lai, đều do một pháp môn là con đường Diệu Trang Nghiêm ấy mà siêu xuất. Nay ông hãy nghĩ kỹ!”

Ông Anan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.

Thông rằng:

Một pháp môn siêu xuất này rõ ràng chỉ ra con đường Đốn Ngộ cốt ở chỗ chuyển Thức thành Trí. Tinh thuần dùng Kim Cang Càn Huệ mới có thể nói là con đường đạo Chân Thật. Sau này, trong kinh có nói: “Diệu Pháp này, vô lượng Chư Phật trong hằng sa kiếp đời quá khứ, nhờ khai ngộ cái tâm này mà được đạo Vô Thượng. Thức Ấm tận hết, thì ngay đây các Căn của ông có thể dùng thay cho nhau được [Tai có thể thấy, mắt có thể nghe... ]. Từ trong chỗ dùng thay nhau đó mà có thể thấu vào Kim Cương Càn Huệ của Bồ Tát. Cái Tâm thuần nhất tròn sáng ở trong phát chiếu ra, như ngọc lưu ly trong sạch, ngậm mặt trăng quý báu ở trong. Như vậy rồi vượt lên hàng Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm, đến chỗ tu hành của Kim Cương Thập Địa Bồ Tát, đến địa vị Đẳng Giác Tròn Sáng, nhập vào cái Biển Trang Nghiêm Mầu Nhiệm của Như Lai, tròn đầy cái Đạo, quy về trong cái Vô Sở Đắc”.

Đầu đuôi ứng nhau, tất lấy việc siêu xuất Thức Ấm làm cái quy tắc rốt ráo. Đức Thế Tôn thấu suốt rằng sự tiếp nối nhau của sanh tử thế gian chỉ là sự tiếp nối nhau của mỗi mỗi vọng tưởng, mê mờ chẳng hề biết quay trở lại. Thức Ấm hết ráo, đó là Chân Tâm Thường Trụ, hiện bày trước mắt, Thể Tánh trong sạch sáng soi, cùng Phật không khác. Cho nên, phá được Thức Ấm, tức nhập Đốn Môn. Ông Anan tuy thông minh học rộng, rốt cuộc chẳng ra khỏi thức tình phân biệt. Thức tình chưa trừ, chỉ là ở chỗ “Có đắc”. Mà chứng Bồ Đề, chỉ ở tại chỗ “Không đắc”. Cho nên, phần sau của kinh, nơi bảy chỗ hiển bày cái Tâm, Ông Anan mỗi mỗi cứ lấy chỗ “Có đắc” mà tự trói, còn Thế Tôn thì thảy thảy đều lấy chỗ “Không đắc” mà quét sạch. Kinh Lăng Già nói: “Có tướng để đắc là Thức, không có tướng để đắc là Trí”. Đây thật là Đốn Môn liền chứng Bồ Đề vậy.

Đức Nhị Tổ Thần Quang [Tổ Huệ Khả. Người đời Bắc Ngụy, xứ Lạc Dương. Lúc Đạt Ma đại sư ở núi Tung Sơn, tại Chùa Thiếu Lâm, đức Thần Quang cầu đạo rất mực. Đến đêm hôm trời tuyết, chặt lìa cánh tay trái. Đức Đạt Ma cảm chịu. Cải đổi tên là Huệ Khả. Sau, thọ y bát của Tổ Đạt Ma, nối pháp của thiền tông, làm Tổ Thứ Hai], chặt tay trước mặt Sơ Tổ Đạt Ma cầu xin pháp môn An Tâm.

Tổ nói: “Đem cái tâm lại đây ta an cho!”

Ngài Thần Quang thưa: “Tìm hết tâm rồi, rốt là không thể đắc!” [Mích tâm liễu bất khả đắc]

Sơ Tổ nói: “Ta an tâm cho ông rồi đó”.

Nếu Ông Anan có thể tin được bảy chỗ trưng bày tâm đều bất khả đắc, thì y bát đâu có riêng truyền cho Ông Ca Diếp!

Thiện Tâm
07-10-2015, 10:28 AM
Kinh:

Phật bảo Ông Anan: “Như lời ông nói: ở giảng đường, do cửa mở rộng nên ông thấy được vườn rừng ở xa. Liệu có chúng sanh nào ở trong giảng đường, không thấy Như Lai mà lại thấy được ngoài giảng đường không?”

Ông Anan thưa: “Thưa Thế Tôn, ở trong giảng đường không thấy Như Lai mà lại thấy được rừng suối bên ngoài, thật không có lẽ đó”.

Phật dạy: “Anan, ông cũng như thế. Cái tâm linh của ông, hết thảy đều rõ biết. Nếu hiện nay cái tâm rõ biết đó của ông thật ở trong thân, thì trước hết nó phải rõ biết trong thân thể. Vậy có chúng sanh nào, trước thấy bên trong thân rồi sau mới thấy những vật ở bên ngoài không? Dầu không thấy được tim, gan, tì, vị nhưng móng tay mọc, tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy, đúng ra phải rõ, sao lại không biết? Đã không biết bên trong, làm sao biết được bên ngoài? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay rõ biết đó trụ ở thân, không có lẽ nào như vậy”.

Thông rằng:

Do mắt thấy mà tâm biết, chẳng rời căn trần, do bởi phía trong mà biết phía ngoài, đó là cái thấy bình thường thế tục. Đức Thế Tôn bèn ở nơi cái thấy thường tình mà bác bỏ rằng “Đã không biết phía trong làm sao ở phía trong?” Tuy người có Trí cũng phải khuất phục bởi lý luận này. Thật ra, tim gan tì vị, không gì mà chẳng biết rõ. Móng tóc gân mạch, không gì mà chẳng hay. Nếu không hay biết, thì hóa ra chỉ là một vật ù lì vậy sao?

Ngài Phó Đại Sĩ [Họ Phó, tên Hấp, tự Huyền Phong, là đạo sĩ để tóc. Lấy họ mà gọi là Phó Đại Sĩ; còn theo xứ mà gọi là Đông Dương Đại Sĩ. Tự ngài xưng là Thiện Huệ Đại Sĩ.] có bài kệ:

“Đêm đêm ôm Phật ngủ

Sáng sáng cùng Phật dậy

Đứng ngồi vẫn theo nhau

Nói nín đồng vừa vặn

Mảy tơ chẳng lìa nhau

Tương tự như hình, bóng

Muốn biết chỗ Phật ở

Lời nói âm thanh đó”.

(Dạ dạ bảo Phật miên

Triêu triêu hoàn cọng khởi

Khởi tọa trấn tương tùy

Ngữ mặc đồng cư chỉ

Túng hào bất tương ly

Như thân ảnh tương tự

Dục thức Phật khứ xứ

Chỉ giá ngữ thanh thị).

Theo lời nói này đây, thì nói rằng “Cái tâm rõ biết ở trong Thân” cũng chẳng phải là không đúng!

Ngài Vân Môn [Tổ Văn Yến thiền sư, tại núi Vân Môn, nối kế Tổ Tuyết Phong. Sắc phong các hiệu Khuôn Chơn thiền sư, Đại Từ Vân Khuôn Chơn Hoằng Minh thiền sư. Để lại nhiều thoại đầu công án như Vân Môn Nhất Bửu, Vân Môn Tam Cú, Vân Môn Thể Lộ Kim Phong... ] nói rằng: “Luận Bảo Tạng nói “Trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu, ẩn tại Non Hình (thân thể). Cầm lồng đèn hướng vào trong Phật điện, đem ba cửa đến để trên lồng đèn, để làm gì?”

Ngài tự thay thế mà nói: “Theo vật, ý dời”.

Lại nói: “Mây nổi sấm động”.

Ngài Tuyết Đậu [Một vị cao tăng. Tuyết Đậu là tên núi. Được ngài Vân Môn truyền pháp. Tại núi này còn có Thường Thông thiền sư, Minh Giác đại sư đều lấy tên núi làm hiệu] tụng rằng:

Xem đi,

Bến cổ ai kia nắm cần câu

Mây trùng trùng, nước mênh mông

Trăng sáng, bông lau, anh tự thấy!.

Đoạn công án này nói cái Năng Tri Tỏ Biết và cái Bổn Giác Tròn Sáng rất dễ lẫn lộn, cũng tương tợ như trăng sáng và bông lau, nên cần soi xét phân biệt. Nếu soi xét phân biệt ra được, thì không chỉ lồng đèn và lộ trụ [Lộ trụ: cây cột trước chùa. Là một công án của Tổ Vân Môn: Cổ Phật với cây lộ trụ tương giao, đó là cơ thứ mấy?], mà còn đốn triệt được Tâm Tông của Tổ Vân Môn, và cái vật báu trong thân cũng cùng với Tăng Triệu [Tăng Triệu: người viết bộ Bảo Tạng Luận còn gọi là Triệu Luận] khế hợp.. Đâu phải là bọn ma mị tinh hồn giỡn cợt tầm thường có thể mượn lời mà nói được.

Thiện Tâm
07-11-2015, 05:34 PM
III. CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN

Kinh:

Ông Anan cúi đầu bạch Phật: “Tôi nghe lời Phật dạy như vầy, mới rõ tâm tôi thật ở ngoài thân. Tại sao như thế? Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải chiếu trong phòng, sau mới do cửa chiếu sáng ngoài sân. Tất cả chúng sanh không thấy bên trong thân mà chỉ thấy bên ngoài, cũng như ngọn đèn, để ở ngoài phòng, không thể chiếu sáng trong phòng. Nghĩa ấy rõ ràng, chắc là không lầm, chưa biết có đúng với liễu nghĩa của Phật hay không?”

Phật bảo Ông Anan: “Vừa rồi, các tỳ kheo theo Ta đi khất thực trong thành Thất La Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Ta đã thọ trai rồi, giờ ông hãy xem trong chúng tỳ kheo, khi một người ăn thì các người khác có no không?”

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, không. Vì rằng các tỳ kheo tuy là A La Hán nhưng thân xác khác nhau, làm sao một người ăn mà các vị kia no được”.

Phật bảo Ông Anan: “Nếu cái tâm tỏ hiểu, thấy biết của ông thật riêng ở ngoài thân, thì thân và tâm ở ngoài nhau, chẳng dính líu gì với nhau. Vậy thì cái gì tâm biết thì thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết. Nay Ta đưa tay nhu nhuyễn lên cho ông xem, khi mắt ông thấy thì tâm ông có phân biệt không?”

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, đúng vậy”.

Phật bảo Ông Anan: “Nếu thân và tâm cùng hay biết một lúc thì làm sao tâm lại ở ngoài thân? Vậy, phải biết rằng ông nói cái tâm rõ biết trụ ở ngoài thân, thật không thể có điều ấy”.

Thông rằng:

Chỗ thấy của Ông Anan chưa chân thật nên không tránh khỏi việc theo lời mà sanh ra sự hiểu biết. Cái tri giải sanh ra theo lời nói ấy chính là chỗ ở của thức tình. Đức Thế Tôn cốt nhổ dứt cái thức căn nên mỗi mỗi đều chặt bỏ, khiến cho Ông Anan không có chỗ để bám víu. Đấy mới thật là giống như quốc vương đi dẹp giặc, biết chỗ của giặc mà diệt trừ.

Ông Anan cho rằng cái tâm ở ngoài thân, là đúng với chỗ liễu nghĩa của Phật, chẳng phải là không có kiến thức đâu. Bởi vì cái tâm ấy, ngầm ẩn nơi Trời thì là Trời, ngầm ẩn nơi Đất bèn là Đất, cùng khắp vũ trụ, rộng trải nhiều đời, chứ đâu phải ràng buộc mãi trong một thân này. Thế nên ông mới nói “Tỉnh ngộ biết cái tâm tôi thật ở ngoài thân”. Lại thêm “Nghĩa ấy rõ ràng, chắc là không lầm”.

Đức Thế Tôn lấy ví dụ “Người khác ăn tất chẳng phải ta no”, để chỉ rằng nếu cái tâm ở ngoài thì có quan hệ gì đến thân ta. Cái thân mạng là hình tướng, nên ăn chẳng thể tương thông, làm sao người này ăn người kia no được. Còn cái tri giác là thần nhiệm, trong ngoài nào có trở ngại được. Chỉ vì Ông Anan chấp chặt “Tâm ở ngoài”, như một vật sáng, chỉ chiếu bên ngoài mà không thể chiếu bên trong. Thế thì ngoài thân là tâm, còn trong thân chẳng phải là tâm sao! Nếu tâm ở ngoài thân, thì thân không thể biết : như người khác ăn, ta chẳng thấy no. Nhưng mắt thấy cái gì, tâm liền phân biệt ngay cái ấy, thế thì cái tâm ấy lại chẳng thường ở trong ư? Cho nên nói ở ngoài là sai lầm.

Ngài Tào Sơn [Bổn Tịch thiền sư, kế pháp Tổ Động Sơn Lương Giới thiền sư. Phái Tào Động. Tào Sơn là tên gọi theo chỗ ở] một hôm nghe tiếng chuông, bèn nói: “Ối chà, ối chà!”

Có nhà sư hỏi: “Hòa Thượng làm sao thế?”

Ngài bảo: “Đánh trúng tâm ta”.

Nhà sư không có chỗ đối lại.

Ngài Ngũ Tổ Giới nói thay rằng: “Làm tâm của thằng giặc hoảng hồn!” [Tác tặc nhân tâm hư]

Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ:

“Xóm làng các Phật, tại thế giới

Bốn biển núi sông, sanh đầy khắp

Phật với chúng sanh đồng một Thể

Chúng sanh là giả danh của Phật

Như cần thấy Phật: xem ba quận

Rừng ruộng, nhà vườn, ở khắp nơi

Hoặc ở không trung bay quanh quẩn

Hoặc cho sông núi tiếng vang lừng

Hoặc kết bạn bè đi khắp xứ

Hoặc lại cô đơn bước một mình

Hoặc khiến ban ngày xuôi ngược chạy

Hoặc khiến ban đêm đi gác canh

Hoặc đen, hoặc đỏ, rồi hoặc trắng

Hoặc tía, hoặc hồng với vàng, xanh

Hoặc to hoặc nhỏ mà mới dưỡng

Hoặc trẻ hoặc già lúc xưa sanh

Hoặc có cây đàn trên lông cánh

Hoặc mang đèn đóm ở thắt lưng

Hoặc giữa hư không bay loạn xạ

Hoặc sanh cây cỏ mặc tung hoành

Hoặc vô ngôn hạnh mà ra cửa

Hoặc vào hang đất tạm ký sanh

Hoặc xoi lỗ cây làm quê quán

Hoặc kết cỏ cây làm thành, ổ

Hoặc dệt võng lưới làm đường thôn

Hoặc nằm đất đá làm thềm ốc

Chư Phật Bồ Tát đều như thế

Cái ấy tên là Xá Vệ thành”.

Nơi này mà khế chứng [Hợp tự biết thực tình] thì nói cái tâm Giác Liễu Năng Tri trụ ở ngoài thân cũng không phải là chẳng trúng vậy!

Thiện Tâm
07-12-2015, 08:36 PM
IV. CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT

Kinh:

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy: vì không thấy bên trong thân, nên tâm không ở trong thân. Vì thân và tâm cùng biết một lần, không thể rời nhau nên tâm không riêng ở ngoài thân được. Nay tôi suy nghĩ, biết tâm ở một chỗ!”

Phật bảo: “Chỗ ấy ở đâu?”

Ông Anan bạch Phật: “Cái tâm Hay Biết ấy đã không biết bên trong mà lại thấy bên ngoài. Theo như tôi xét nghĩ, thì nó nấp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt, con mắt tuy là có vật úp vào nhưng không bị trở ngại, con mắt ấy vừa thấy thì liền phân biệt được ngay. Cái tâm hay biết của tôi không thấy bên trong là vì tâm ấy ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài rõ ràng không ngăn ngại, vì tâm nấp sau con mắt”.

Phật bảo Ông Anan: “Theo chỗ ông nói : tâm nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly. Vậy thì người kia đang khi lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, trông thấy núi sông thì có trông thấy chén lưu ly không?”

- Thưa Thế Tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt thật có thấy chén lưu ly.

Phật bảo Ông Anan: “Nếu tâm ông nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly, thì khi trông thấy núi sông sao không trông thấy con mắt? Nếu thấy con mắt, thì con mắt cũng là ngoại cảnh, không thể mắt liền thấy mà tâm liền biết được. Nếu không thấy được con mắt, thì sao lại nói rằng tâm nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly? Vậy, nên biết rằng ông nói cái tâm Hay Biết nấp sau con mắt như con mắt nấp sau chén lưu ly, thật không đúng vậy”.

Thông rằng:

Luận Bát Thức Quy Củ nói “Kẻ ngu khó phân biệt được Căn và Thức”. Vậy thì Căn và Thức khó phân biệt từ xưa rồi. Nếu nói Căn chẳng phải là Thức thì Căn tự là Căn, Thức tự là Thức. Thức thường thấy cái Căn. Nếu nói Căn tức là Thức, thì người chết kia, con mắt cũng hiện còn, tại sao chẳng thấy. Cho nên biết rằng năm Căn chỉ là vật sắc trong suốt soi cảnh vật mà thôi, còn Thức thì hiểu biết phân biệt. Chủng Tử và Hiện Hành của hai thứ huân tập chẳng giống nhau. Năm Căn tức là sắc pháp, là Tướng Phần của Thức Thứ Tám, đủ cả hai nghĩa Chấp (Giữ) và Thọ (Lãnh), có tánh vô ký và trắng sạch suốt. Năm Thức thuộc về tâm pháp, tức là Kiến Phần của Thức Thứ Tám, đủ cả ba Tánh (Thiện, Ác, Vô Ký), hay hiểu biết rõ ràng gọi là Tánh Cảnh thuộc về Hiện Lượng, nên Luận nói “Tánh Cảnh, Hiện Lượng thông ba tánh”. Đến Thức Thứ Sáu mới có Phân Biệt, thuộc về Tỷ Lượng [So sánh, suy lường], Phi Lượng [Biết lầm lạc]. Đây là chỗ phân biệt giữa Căn và Thức.

Ông Anan nói rằng “Căn ấy vừa thấy liền phân biệt ngay” là đúng. Nhưng nói tiếp “Cái tâm nấp ở trong Căn như chén lưu ly úp lên mắt”, thì sai. Vì, nếu quả như khi chén lưu ly úp lên mắt, thì mắt thấy núi sông cũng thấy được chén lưu ly, cũng thế, tâm khi thấy núi sông, cũng phải thấy con mắt. Nay tâm chẳng thấy con mắt, tức là rõ ràng tâm chẳng phải ngầm ẩn trong con mắt. Ví dụ để so sánh của ông chẳng chân thật, chính thuộc Phi Lượng. Xét chỗ chỉ bày của Ông Anan thì cái tâm Tri Giác chỉ là sáu Thức Phân Biệt vậy. Sáu Thức này do đâu khởi ra? Đó là do sự truyền tống, chuyển đưa của Thức Thứ Bảy và do sự hàm tàng, chứa giữ của Thức Thứ Tám. Dầu cho sự phân biệt dễ bỏ, mà Hành Ấm khó trừ. Dầu cho Hành Ấm dễ tiêu, mà chủng tử khó chuyển hóa.

Nay đối với sáu Thức Phân Biệt mà Ông Anan còn chưa biết chỗ ở của chúng, huống hồ lại biết được cái Thức Thứ Bảy và Thức Thứ Tám? Chỗ ở còn không biết, nói gì đến chuyện đem binh đi đánh dẹp?

Kinh này mới đầu phá hang ổ của sáu Thức, nên mới có bảy chỗ trưng bày của Tâm. Sau cùng công kích các cơ quan đầu não của Thức Thứ Tám, cho đến lúc Thức Ấm hết sạch. Đây là đại lược việc chuyển Thức thành Trí. Văn sau của kinh nói rằng “Tuy để được Sáu tiêu [Tức là sáu Thức tiêu.] hết, dường còn chưa mất cái Một”[Cái Thức Thứ Nhứt, A Lại Da]. Đến khi Một, Sáu đều tiêu, rồi không chỗ dựa, mới nhìn lại cái đoạn “Nấp trong con mắt giống như lấy chén lưu ly mà úp” này, lại không phát ra một tiếng cười lớn hay sao! Tuy nhiên, nếu khéo thí dụ, thì không gì mà chẳng được!.

Xưa, Trung Ấp Hồng [Tổ Hồng Ân thiền sư] thiền sư, có Ngài Ngưỡng Sơn đến tạ ơn truyền Giới, xong rồi hỏi rằng: “Cái nghĩa Phật Tánh như thế nào?”

Tổ Ấp đáp: “Tôi sẽ nói một ví dụ cho ông: giống như cái nhà có sáu cửa sổ, trong ấy có nhốt một con khỉ lớn, ở ngoài có con khỉ lớn kêu rằng: “Đười ươi”, thì con ở trong liền ứng đáp. Y vậy, cả sáu cửa đồng kêu vang, đồng ứng đáp”.

Ngài Ngưỡng Sơn [Tổ Huệ Tịch thiền sư, ở Giang Nam, núi Đại Ngưỡng Sơn, tên hiệu Ngưỡng Sơn. Tổ có ba chỗ công án: Ngưỡng Sơn Chẩm Tử, Ngưỡng Sơn Chỉ Tuyết và Ngưỡng Sơn Đằng Điều] lễ tạ rồi đứng lên thưa rằng: “Nhờ ơn Hòa Thượng thí dụ, không gì chẳng rõ. Lại còn có một sự: nếu con khỉ ở trong mê ngủ, con khỉ lớn ở ngoài muốn cùng gặp nhau, thì làm sao?”

Tổ Ấp bước xuống khỏi chỗ ngồi, nắm tay Ngài Ngưỡng Sơn nhảy múa mà nói: “Đười ươi cùng ông gặp nhau rồi đó. Ví như con tò vò làm tổ trên lông nheo con muỗi, hướng về ngã tư đường mà hô hoán rằng: “Đất rộng người thưa, tương phùng ấy ít”.

Tổ Vân Cư [Vân Cư Sơn: núi tại Giang Nam, huyện Khương Kiến Xương. Trên đỉnh thường có mây, nên đặt tên Vân Cư. Lại còn gọi là Âu Sơn, vì có đức Âu Ngập thành đạo tại đó. Đây có nhiều Tổ ở, hóa đạo nên thường lấy tên núi làm hiệu] Tích nói rằng: “Khi ấy mà Trung Ấp không được một lời nói ấy của Ngưỡng Sơn, thì làm gì có Trung Ấp!”

Tổ Trung Thọ Trù nói: “Có người nào định được đạo lý này chăng? Nếu định chẳng được thì chỉ là kẻ bắt tay chơn của tinh hồn làm trò hý lộng. Nghĩa Phật Tánh ở tại chỗ nào?”

Thiền sư Huyền Giác [Đức Huyền Giác, đời Đường. Ban đầu thuần thông phép Chỉ Quán của Thiên Thai. Thường tu thiền quán. Sau đến Tào Khê, một đêm mà khế ngộ yếu chỉ. Đặt tên Nhất Túc Giác. Trở về Vĩnh Gia, học trò gọi hiệu là Chơn Giác Đại Sư.] nói: “Nếu chẳng phải là Ngưỡng Sơn, làm sao được thấy Trung Ấp. Hãy nói đâu là chỗ Ngưỡng Sơn được gặp Trung Ấp?”

Tổ Thiên Đồng tụng rằng:

Nhà tuyết ngũ vùi năm sắp hết

Cửa rêu đêm chẳng mở, thâm u

Vườn rừng khô lạnh xem biến đổi

Gió xuân thổi dậy luật Đồng Khôi [Một loại sáo].

Bài tụng này rõ ràng ca ngợi chỗ ngủ của Ngài Ngưỡng Sơn, chẳng đọa vào sự khô chết. Đó tức là chỗ Ngài Trung Ấp và Ngưỡng Sơn gặp nhau, quả là cái cảnh giới Một, Sáu điều tiêu, nhưng cái chuyện “Vườn rừng biến thái như luật Đồng Khôi” với lại “Tay chân tinh hồn” thì khác nhau biết bao!

Thiện Tâm
07-13-2015, 07:21 PM
V. CHẤP NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ THẤY BÊN TRONG THÂN


Kinh:

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy: trong thân thể chúng sanh nầy, tạng phủ ở bên trong, khiếu huyệt ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng. Nay tôi trả lời với Phật rằng: mở mắt thấy sáng, gọi là thấy bên ngoài. Nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào?”

Phật bảo Ông Anan: “Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, thì cái cảnh tối ấy là đối với con mắt hay không đối với con mắt”. Nếu đối với mắt thì cái tối ở trước mắt sao lại thành ở trong thân? Còn cái tối đó thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hay của đèn, thì cái gì ở trong nhà tối đó đều là phủ tạng của ông hết hay sao? Còn nếu cái tối không đối với Mắt, thì làm sao thành ra có thấy? Nếu cho rằng rời cái thấy sáng bên ngoài thì thành ra cái thấy tối đối với bên trong, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong thân, thì khi mở mắt thấy sáng sao lại không thấy cái mặt ? Nếu không thấy cái mặt thì cái thấy tối đối với bên trong cũng không thành được. Còn như thấy được cái mặt, thì cái tâm Hay Biết ấy và con mắt đều ở giữa hư không, sao lại thành ở trong thân được? Nếu tâm và con mắt ở giữa hư không thì tất nhiên không phải là thân thể của ông, vì không lẽ hiện nay Như Lai thấy mặt ông cũng là thân của ông hay sao? Và như thế thì con mắt của ông đã biết mà thân của ông lại chẳng biết. Thế là theo lời nói chấp trước của ông, thân và mắt ở riêng như thế đều có Tánh Biết, thì ông lại có hai Tánh Biết, rồi chính một thân ông sẽ thành hai đức Phật hay sao? Vậy, phải biết rằng ông nói thấy tối gọi là thấy bên trong thân, thật không có lẽ ấy”.

Thông rằng:

Ông Anan chỉ vì nghi vướng vào lời nói “Chẳng thể thấy bên trong” mà sanh ra bao nhiêu là suy đoán. “Nấp sau con mắt” đã chẳng phải, thì “Cái thấy tối xoay vào trong” lại đúng hay sao? Cái “Thấy tối” này lại càng suy ra nhiều suy tính hơn. Ông Anan tuy chưa tỏ lời mà Đức Thế Tôn mỗi mỗi đem ra phá sạch. Ban đầu là hỏi cái cảnh tối đó là đối với mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì thành cảnh ở ngoài, còn nếu không đối với mắt thì chẳng thấy được, thì cái tối đó không thể gọi là ở trong vậy. Đã cho là cái Thấy của “Năng Kiến” là do nhìn trở lại chứ không nhờ con Mắt, thì nếu nhắm mắt nhìn vào trong thấy tối, ắt mở mắt quay lại nhìn cũng có thể thấy mặt. Mặt không thấy được, làm sao thấy được cái tối, vậy thì cái Thấy ấy không thể thấy bên trong. Nếu lại dùng tâm thức im lặng suy xét, đây là tạng phủ, đây là mặt mày, mà gọi là cái Thấy, thì cái tâm Nhãn ấy, chẳng phải ở tại hư không sao?

Nếu cho là Tâm, mắt vốn ở tại hư không, có thể thấy mặt mày của mình, thì thân của Như Lai cũng là thân của ông sao? Nếu cho rằng cái Thấy của Như Lai là cái Thấy của ông, thân Như Lai là thân của ông thì một thân Anan có thể thành hai vị Phật sao?

Từ cái chỗ “Thấy bên trong” này mà sanh ra bao nhiêu là suy tính. Cái “Thấy đối với bên trong” đã chẳng thể thành, thì thấy tối không thể gọi là “Thấy bên trong” được. Tuy nhiên, cái Năng Kiến ấy nó vốn tự tối, vậy thì ai thấy đó?

Ngài Vân Môn hạ lời: “Người người tự có quang minh cả. Khi xem chẳng thấy, tối thui thui. Thế nào là quang minh của người người?”

Tự trả lời thay rằng: “Kho bếp ba cửa”.

Lại nói: “Việc tốt chẳng bằng không”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Tự chiếu bày độc sáng

Vì ông thông một đường

Hoa tàn cây không bóng

Khi xem ai chẳng thấy

Thấy, chẳng thấy

Cỡi ngược trâu, hề, vào Phật điện”.

(Tự chiếu liệt cô minh

Vi quân thông nhất tuyến

Hoa tạ thụ vô ảnh

Khán thời thùy bất kiến

Kiến bất kiến

Đảo kỵ ngưu hề nhập Phật điện).

Nếu hiểu được chỗ “Cỡi ngược trâu vào Phật điện”, thì nói “Thấy tối tức là thấy bên trong” cũng không phải là không đúng!

Thiện Tâm
07-14-2015, 03:21 PM
VI. CHẤP TÂM HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ LIỀN CÓ Ở CHỖ ẤY

Kinh :

Ông Anan bạch Phật: “Tôi thường nghe Phật chỉ dạy tứ chúng: Do tâm sanh nên thảy thảy pháp sanh. Do pháp sanh nên thảy thảy tâm sanh”. Nay tôi suy nghĩ thì cái Thể Suy Nghĩ đó thật là tâm tánh của tôi, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa”.

Phật bảo Ông Anan: “Nay ông nói rằng: do Pháp sanh nên các thứ tâm sanh, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Cái tâm ấy nếu không có tự thể thì không thể hợp được, chứ nếu không có tự thể mà vẫn hợp được thì Giới Thứ Mười Chín cùng Trần Thứ Bảy hợp lại được hay sao? Nghĩa ấy không đúng.

“Còn nếu có tự thể thì khi ông lấy tay tự gãi thân ông, cái tâm biết gãi của ông ở trong thân ra hay từ ngoài vào? Nếu từ trong thân ra, thì phải thấy trong thân. Còn nếu từ ngoài vào, thì trước hết phải thấy cái mặt”.

Ông Anan bạch Phật: “Thấy là con Mắt, còn tâm thì Biết chứ không Thấy như con Mắt, nói tâm thấy là không đúng nghĩa”.

Phật dạy: “Nếu con mắt thấy được, thì khi ông ở trong phòng, cái cửa có thấy được không? Lại những người chết rồi vẫn còn con Mắt, lẽ ra phải thấy được vật, mà nếu thấy được vật thì sao gọi là chết?

“Anan, lại nếu cái tâm hay biết của ông phải có tự thể thì có một thể hay có nhiều thể? Nay tâm ở nơi thân ông, thể ấy cùng khắp cả mình hay không cùng khắp? Nếu tâm có một thể thì ông lấy tay gãi một chi, lẽ ra cả tứ chi đều biết, mà nếu đều biết thì lại không biết gãi ở chỗ nào. Nếu biết chỗ gãi thì cái thuyết một thể của ông tự nhiên không thành. Nếu như có nhiều thể thì thành ra nhiều người, còn biết cái thể nào là thể của ông. Nếu cái thể ấy là cùng khắp thì lại như trước kia, không biết được chỗ gãi. Còn nếu như không cùng khắp thì khi ông chạm trên đầu, đồng thời cũng chạm dưới chân, hễ đầu có biết, lẽ ra chân phải không biết, nhưng hiện nay ông lại không phải như thế”.

“Vậy, nên biết rằng “Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền ở chỗ đó”, thật không có lẽ ấy”.

Thông rằng:

Chạm đầu: đầu biết, chạm chân: chân biết, há chẳng phải là “Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền tùy có ở chỗ đó” hay sao? Nhưng nếu thế thì ở chỗ không hợp, thì tâm hoàn toàn không có. Đó chẳng phải là tà kiến “Đoạn, Thường” hay sao? Đức Thế Tôn hẳn không vô cớ trách rầy chuyện này.

Chỉ ở nơi một chữ “Hợp” mà biện rõ chỗ sai lầm. Hợp tức phải là có tự thể. Nếu không có tự thể, nghĩa Hợp không thành. Cũng như không có Trần Thứ Bảy, tất không có Giới Thứ Mười Chín. Còn nếu có tự thể, thì thể này đã chẳng phải từ ngoài vào, lại cũng chẳng phải từ trong ra. Cái tâm thể ấy là một thể hay nhiều thể? Ở nơi thân con người, nó là thể biến khắp hay là thể không biến khắp? Lấy tay gãi một chi, thì cái Biết tùy do gãi mà có, nếu cái Biết ấy là một thể thì phải ở khắp nơi, còn nếu là nhiều thể thì thành ra nhiều người! Cái Biết ấy nếu có ở khắp nơi thì khi gãi không rõ chỗ gãi; còn nếu không ở khắp nơi thì khi gãi lại có chỗ không biết. Có bốn điều trên đều chẳng phải, tức là cái tự thể không định được, vậy do đâu mà hợp? Nói là “Tùy chỗ mà hợp” ấy, thì hợp với một thể ư ? Hợp với nhiều thể ư? Hợp với thể biến khắp ư? Hợp với Thể chẳng biến khắp ư? Hợp với kia thì bỏ đây, hợp với đây thì bỏ kia. Vả chăng phải một, chẳng phải nhiều, chẳng phải khắp, chẳng phải không khắp, mà cuối cùng chẳng có thể hợp. Đã không thể hợp, làm sao thấy “Cái tùy theo mà có”?

Đức Thế Tôn tuy biện biệt cái sai lầm của thuyết “Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền tùy có ở chỗ đó”, nhưng cũng chỉ bày cái diệu mầu của Chân Tâm vô thể. Vô thể ắt vô hiệp, Tâm Cảnh chẳng đến nhau, ngay đây Giải Thoát [Rảnh rang], vốn tự Vô Sanh. Thế thì làm sao nói được “Pháp sanh thì thảy thảy tâm sanh”? “Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh” cùng với ý chỉ “Tam Giới Duy Tâm” không khác, nên không cần phải biện luận. “Pháp sanh thì thảy thảy tâm sanh” thì tâm vốn Vô Sanh, nhân Cảnh mà có soi chiếu, cũng tự là không bệnh.

Nhưng Ông Anan dẫn lời dạy của Phật để chứng minh là “Hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó”, thì ấy là cái tâm theo sóng đuổi sóng, chẳng phải cái tâm hiện cảnh mà tịch diệt vậy. Nên ngộ được cái tâm vô thể thì sự hiện cảnh không làm ngăn ngại, nên duyên khởi mà Vô Sanh là vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Giáp Sơn [Giáp Sơn: tên núi. Tổ sư tu tại núi này nên lấy tên núi làm hiệu]: “Khi dẹp Trần thấy Phật thì sao?”

Tổ Sơn rằng: “Chính liền vung kiếm! Nếu không vung kiếm, ngư ông nghỉ ổ!”

Nhà sư đem hỏi Tổ Thạch Sương [Tổ tên Sở Viên, tự Trần Minh, cháu sáu đời của Ngài Lâm Tế Nghiã Huyền (Tổ Lâm Tế tông). Nương ở Thạch Sương Sơn, ban đầu học Nho. Hai mươi mốt tuổi đi tu, kế pháp nơi Lạc Dương Chiêu]: “Dẹp Trần thấy Phật thì như thế nào?”

Tổ Sương đáp: “Hắn không quốc độ, chỗ nào gặp hắn?”

Nhà sư trở về nói lại y vậy cho Tổ Giáp Sơn.

Tổ Sơn thượng đường nói rằng: “Cái bày vẽ của môn đình [Nhà Thiền]chẳng như lão tăng. Thấu lý, luận sâu còn cách Thạch Sương trăm bước!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Phất thanh kiếm lớn tẩy binh oai

Dẹp loạn công đầu ấy là ai?

Một sớm, khí trần thanh (trọng) bốn biển

Rủ y (áo), trời đất tự vô vi.

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

Một câu khế lý, ngọc reo vang

Nội ngoại long lanh, mắt lạnh tràn

Cõi Vô Lậu ấy dừng chẳng được

Trong bóng trăng hoa khó thấy thay!

Một tắc này đây, “Dẹp trần thấy Phật”, mà tự mình còn chẳng thấy, huống là hợp với trần mà tìm Phật, tìm Giác thì thật là quá sức điên đảo! Tuy nhiên, một mặt trăng hiện khắp tất cả mặt nước. Tất cả mặt trăng dưới nước thu nhiếp vào một mặt trăng. Thì sự “Tùy chỗ mà hợp” lo gì chẳng có!

Thiện Tâm
07-15-2015, 07:05 PM
VII. CHẤP TÂM Ở CHẶNG GIỮA

Kinh:

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, trong khi Phật nói Thực Tướng với các vị Pháp Vương Tử như Ngài Văn Thù, Thế Tôn cũng nói ràng “Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài”. Theo tôi suy nghĩ : tâm ở trong thân, sao lại không thấy bên trong; tâm ở bên ngoài thân thì thân và tâm sao lại không cùng biết. Không biết bên trong nên tâm không thể ở bên trong. Thân và tâm cùng biết nên nói tâm ở ngoài là không đúng lý. Nay thân và tâm cùng biết, lại không thấy bên trong thân, nên tâm phải ở chặng giữa!”

Phật bảo Ông Anan: “Ông nói “Ở chặng giữa”, thì cái Giữa ấy chắc không lẫn lộn và không phải không có chỗ. Nay ông nhận định cái Giữa ấy chỗ nào, ở nơi cảnh hay ở nơi thân? Nếu ở nơi thân mà ở một bên thì không phải là ở giữa, còn nếu ở giữa thân thì cũng là ở trong thân rồi. Nếu cái giữa ấy ở nơi cảnh thì có thể nêu ra được hay không nêu ra được? Không nêu ra được thì cũng như không có, còn nếu nêu ra được thì lại không định được. Vì sao? Ví như có người lấy một cây nêu, nêu một chỗ làm cái Giữa, thì phương Đông nhìn qua, cái nêu lại ở phương Tây, phương Nam lại thấy thành phương Bắc. Cái Giữa nêu ra đã lẫn lộn thì tâm phải tạp loạn”.

Ông Anan bạch Phật: “Cái Giữa của tôi nói chẳng phải là hai thứ ấy. Như Đức Thế Tôn đã nói: Nhãn Căn duyên nơi Sắc Trần sanh ra Nhãn Thức. Nhãn Căn có phân biệt, Sắc Trần vô tri, Nhãn Thức sanh ở giữa thì tâm ở tại đó”.

Phật dạy: “Nếu tâm ông ở giữa Căn và Trần, thì cái thể của tâm ấy gồm cả hai bên hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì vật và tâm thể xen lộn, vật thì vô tri khác với tâm thể tỏ biết, thành ra hai bên đối địch lẫn nhau, lấy cái gì làm cái ở giữa? Gồm cả hai cũng không được, vì như thế thì chẳng phải là biết hay không biết, tức là không có thể tánh, lấy cái gì làm cái tướng ở giữa?

“Vậy, nên biết rằng ông nói cái tâm là ở chặng giữa, thật không có lẽ ấy”.

Thông rằng:

Đến đây, Ông Anan mới bày tỏ ra là Thức sanh ở chính giữa. Nói rằng sáu Thức phân biệt ở giữa Căn và trần, so với cái thuyết núp trong con mắt thì có căn cứ hơn. Nhưng chỗ gọi là ở giữa đó, đã không ở trong lại chẳng ở ngoài, chỉ do Căn và Cảnh giao nhau, từ giữa đó mà có cái Thức phân biệt, bèn cho là tâm. Thật ra, không biết rằng ba thứ Căn, Trần, Thức nương nhau mà thành lập, như những cành lau gác lên nhau, vốn không có tự tánh. Nay xác định nó mà nói là ở giữa, vậy nếu cái giữa đó có vị trí thì gồm cả Căn và Trần hay không gồm? Nếu gồm, thì Căn biết mà Trần lại vô tri, sự đối địch lập ra mà cái ở giữa không thành. Nếu không gồm, thì chẳng phải biết, chẳng phải không biết, không có tự thể nên cái ở giữa cũng không thành. Vậy cái giữa ở đâu? Nên nói tâm ở chặng giữa là sai vậy.

Nếu luận về Chân Tâm, thì cũng gồm cả hai, cũng chẳng gồm cả hai. Sao gọi là gồm cả hai? Trong Như Lai Tạng, vốn có đủ cả Kiến Phần và Tướng Phần. Như sau này, kinh nói: Tánh của Sắc là Chân Không [Cái Không Chân Thật], Tánh Không là Chân Sắc, thế thì làm sao có sự lộn xộn, tạp loạn được. Sao gọi là không gồm cả hai? Vì, đó là Cái Linh Quang độc sáng, vượt khỏi Căn Trần, thì Căn không có chỗ gặp, nào từng không thể tánh sao? Như tin được rằng cái tâm này chẳng phải biết cũng chẳng phải không biết, vốn không tự tánh, cũng không có cái Tướng ở chính giữa, mới biết rõ sâu xa Cái Chính Giữa là ra sao.

Vị quốc vương xứ Đông Ấn sau khi thỉnh Tổ Thứ Hai Mươi Bảy là Ngài Bát Nhã Đa La thọ trai xong, bèn hỏi rằng: “Mọi người đều chuyển [Đọc, tụng] kinh, chỉ có thầy tại sao không chuyển?”

Tổ đáp: “Bần đạo thở vào chẳng ở trong ấm, giới; thở ra chẳng dính dáng với các duyên. Thường chuyển kinh ấy trăm ngàn vạn ức quyển, chứ chẳng phải một hai quyển đâu!”

Vua bèn lễ bái.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Trâu mây giỡn nguyệt sáng miên man

Ngựa gỗ chơi xuân chẳng buộc ràng

Dưới mày ngọc lạnh xanh đôi mắt

Nào phủng da bòø [Ngưu bì] mới khán kinh”.

Lại tụng tiếp:

“Rõ ràng tâm siêu muôn kiếp trống

Anh hùng ra sức phá vòng vây

Trời nhiệm lời yếu chuyển linh cơ

Hàn Sơn quên mất đường xưa lại

Thập Đắc song song nắm tay về”.

Đây là thói nhà [Môn phong] của Tổ Sư, chẳng lập hai bên, không an trụ trung đạo, đạo lớn rỗng suốt nhiệm mầu, chân tông không bám chấp, chính là Thứ Nhất. Cho nên, đó chẳng phải là chỗ sáu Thức, Căn và Trần đến được. Như hai Ngài Hàn Sơn, Thập Đắc: đi, đến tự tại, thong dong, nhàn nhã, trong lòng dạ tuyệt không còn một mảy tơ Tình Thức, đủ để cùng Tổ Thứ Hai Mươi Bảy tương kiến.

Thiện Tâm
07-19-2015, 10:24 AM
VIII. CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ


Kinh:

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, trước đây, tôi thấy Phật với bốn đại đệ tử là Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất cùng chuyển Pháp luân, Phật thường dạy: cái Tâm Tánh Hiểu Biết Phân Biệt cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chính giữa, đều không ở chỗ nào cả, tất cả không dính bám, tạm gọi là tâm. Nay tôi không dính bám, thì gọi là tâm chăng?”

Phật bảo Ông Anan: “Ông nói “Cái tâm Tánh Hiểu Biết Phân Biệt đều không ở đâu tất cả”. Vậy các vật tượng thế gian như hư không và các loài dưới nước, trên đất, bay, chạy, nghĩa là tất cả sự vật mà ông cho là không dính bám đó, là có hay không có? Không có, thì đồng với lông rùa sừng thỏ, có gì để gọi là không dính bám? Đã có cái không dính bám thì không thể gọi là không. Không có tướng thì tức là không, chẳng phải không mà lại có tướng. Có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính bám được?

Vậy, nên biết rằng ông nói cái không dính bám vào đâu tất cả là tâm hiểu biết, thật không có lẽ đó”.

Thông rằng:

Cái không dính bám của Ông Anan dẫn ra đó, chưa từng chẳng phải. Nhưng hiểu cho rõ hai chữ “Tất cả”, thì cái “Vô Trước” ấy là đối với Cảnh mà có. Cảnh mà có thì có vô trước, còn cả hai đều không có, thì hóa ra đoạn diệt! Nói sao cũng mâu thuẫn. Nếu tất cả vật tượng đều không có, thì còn có chỗ nào nữa để mà không dính bám? Mà đã có Cái không dính bám thì vật tượng không thể nói là không có! Nếu không có Tướng không dính bám, thì mới có thể nói là không có tất cả vật tượng. Có Sự không dính bám, tức là có Tướng rồi. Có tướng không dính bám, tức là có tâm ở đó rồi. Tâm đó ở Chỗ không dính bám thì sao lại gọi là “Đều không ở chỗ nào cả”. Tâm đã có chỗ ở thì sao lại nói là “Không dính bám”? Trước thì ở nơi cái Năng để làm rõ cái Sở, chẳng thể gọi là không có. Tiếp sau, là dùng cái Sở để làm rõ cái Năng; cái Tướng đã có ắt phải có cái hiện hữu, nên cái nghĩa Vô trước không thành được.

Xưa, Nghiêm Dương tôn giả hỏi Tổ Triệu Châu [Người xứ Tào Châu, học xét ở Quan Âm Viện, xứ Triệu Châu. Kế pháp Tổ Nam Tuyền. Tổ có nhiều công án truyền đạo]: “Một vật chẳng có đem lại thì như thế nào?”

Tổ Châu rằng : “Buông bỏ đi”.

Ông Nghiêm rằng : “Một vật chẳng có đem lại, thì buông bỏ cái gì?”

Tổ Châu nói rằng : “Thế thì vác lên mà đi!”

Tôn giả nghe xong, đại ngộ.

Ngài Hoàng Long [Tổ Phổ Giác thiền sư, tên Huệ Nam, ở núi Hoàng Long. Thọ pháp Tổ Từ Minh Viên thiền sư ở Hoàng Long. Tổ để lại nhiều sự tích] tụng rằng:

“Một vật chẳng mang lại

Hai vai vác chẳng nổi

Vừa nghe, rõ lỗi mình

Trong lòng vui không xiết

Độc ác đã quên rồi

Rắn cọp là tri kỷ

Rỗng rang ngàn trăm năm

Gió mát chưa ngừng thổi”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Chẳng ngờ tế hạnh trước trao tay

Từ rõ lòng quê, thẹn gõ đầu

Phá thoát, ngang lưng rìu cán mục

Rửa trong (sạch) phàm cốt, với tiên chơi”.

Bài tụng này thì Vô Trước cũng không, nên tự do, tự tại. Phần nhiều đều ở nơi cảnh, thì thấy có Vô Trước, lìa Cảnh tức là không Vô Trước. Ở nơi Tánh thấy Vô Trước, thì cái Vô Trước đó tức là Tự Tánh. Dầu còn chỉ một cái ý Vô Trước, bèn là hỏng hết vậy.

Thiện Tâm
07-20-2015, 11:24 AM
PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC HAI: CHỈ RÕ TÁNH THẤY

I. CẦU ĐI ĐẾN CHỖ CHÂN THẬT

Kinh:

Bấy giờ, Ông Anan ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo phải, đầu gối phải chấm đất, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng : “Con là em nhỏ nhất của Như Lai, nhờ Phật thương yêu, nay tuy đã xuất gia, còn ỷ lại nơi lòng thương của Phật. Vì thế, học rộng nghe nhiều mà chưa được quả Vô Lậu, không chiết phục nổi chú Ta Tỳ La, theo chỗ nó chuyển mà chìm nơi nhà dâm. Nguyên do vì không biết đường đến nơi Chân Tế (Phật Tánh Tự Tâm). Cầu xin Thế Tôn Đại Từ thương xót, chỉ bày cho chúng con con đường Chánh Định, cũng khiến cho những kẻ không tin trừ bỏ ác kiến”.

Thưa như vậy xong, rạp cả mình xuống đất, cùng tất cả đại chúng hết lòng mong nghe lời Phật dạy.

Thông rằng:

Xét chỗ thấy của Anan lúc ấy dường chưa thể đè bẹp thức tình để đến chỗ trong lặng không dao động, chỉ vì chưa được Vô Lậu [Hết phiền não]. Mới đầu thì cho cái tâm Giác Liễu Năng Tri là có vật, nên mới nói “Ở trong, ở ngoài, ở nơi Căn”. Đến khi đã biết là chẳng phải vật, nhưng còn cho là có Thức, nên mới nói là “Tùy chỗ Hiệp mà có”, “Thức sanh ở chặng giữa”. Đến lúc cái Tri, cái Thức đều tiêu hết, rồi mới tin là “Chẳng có dính bám (Vô Trước)”. Nhưng đã có cái ý “Không dính bám” thì cũng đã dính bám rồi vậy. Nhưng tất cả không có dính bám mới chỉ đoạn trừ được cái Thức Thứ Bảy, chứ chưa đến cái địa vị lặng lẻ. Mà dù có đến được địa vị lặng lẽ, thì vẫn còn ngồi trong hang ổ của Thức Thứ Tám, chỗ ngoại đạo gọi là Minh Đế [Đế Thứ Nhất trong hai mươi lăm Đế của Số Luận Sư (ngoại đạo) Lập ra. Đó là cái nguồn cội của muôn vật mù mịt, không chơn chánh nên gọi là Minh Đế, còn gọi là Minh Tánh]. Nếu con đường tu Định chỉ là phương tiện bờ mé của việc chuyển Thức thành Trí, mà Thánh giải còn tuyệt chẳng dung chú niệm, huống gì là lại bám lấy phàm tình để bị kéo lôi? Cho nên, tình phàm ý Thánh đều hết, thì Chân Thường hiển lộ, mới gọi là Chân Tế. Thấu suốt Chân Tế mới không bị dâm thuật chuyển đảo. Chẳng phải chỉ tự mình hiểu biết hẳn hoi đầy đủ chỗ Tịch Tịnh [Tự chứng tịch tịnh] mà còn giúp cho hết thảy phàm phu chưa đủ lòng tin phá trừ được ác kiến vậy.

Ngài Đoan Sư Tử đọc Lăng Nghiêm có bài tụng:

“Bảy chỗ bày Tâm, tâm chẳng thỏa

Ngơ ngác Anan không liếc tới

Hiện mà bày được, thấy vô tâm

Ấy chính trong bùn rửa đất cục”.

Có thể nói là bực có con mắt đầy đủ.

Thiện Tâm
07-20-2015, 11:26 AM
II. PHÓNG QUANG NÊU RA TÁNH THẤY VIÊN MÃN SÁNG SUỐT

Kinh:

Bấy giờ từ mặt Đức Thế Tôn phóng ra các thứ hào quang, ánh sáng rực rỡ như trăm nghìn mặt trời. Khắp các thế giới của chư Phật, sáu thứ chấn động. Các cõi nước nhiều như vi trần của mười phương hiện ra trong một lúc. Oai thần của Phật khiến các thế giới hợp lại thành một thế giới. Trong thế giới này, tất cả các vị Bồ Tát hiện có đều an trụ ở nước mình chấp tay nghe lời Phật dạy.

Thông rằng:

Phóng quang động địa, xưa cho là cảnh giới không thể nghĩ bàn, nhưng cũng có thể hiểu được. Các đạo gia, tinh thần đầy đủ, vững chắc, thì trong đêm tối, mắt vẫn có sáng tỏ mà không vật gì chẳng thấy. Huống hồ Đức Thế Tôn nhiều kiếp thành tựu, thì hào quang chẳng có chói lọi rực rỡ sao ? Hạng cầu đảo vận động nguyên khí có thể kêu mây mưa xuống, huống là Pháp Thân thanh tịnh của Thế Tôn không bờ không bến thì khắp các thế giới của chư Phật chẳng chấn động sao? Thế Tôn dựng cây cờ Pháp lớn, tất trước tiên phải có chỗ tỏ bày. Chỗ nói là “Khiến tất cả các thế giới hợp lại thành một cõi” là đã ẩn cái ý Hội Vọng quy Chơn vậy. Nếu là hạng thượng căn [Kẻ mắt, tai tất cả các căn nhanh lẹ, sáng láng] lợi trí thì thấy ánh sáng như thế, nhìn sự việc như thế, liền được Bổn Tâm, chứng Vô Sanh Nhẫn.

Thiền sư Viên Chiếu [Tổ xuất gia lúc mười tuổi, nghiên cứu xét cùng nghiã lý Duy Ma pháp, nhơn đó rõ biết Duy Thức; bàn cứu sách Nho; chuyên về Luật Tạng] lên tòa giảng, nói rằng: “Hãy xem! Ánh sáng tốt lành rực rỡ, chiếu sáng cả Đại Thiên thế giới. Trăm ức vi trần cõi nước, trăm ức đại hải, trăm ức núi Tu Di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức bốn Châu thiên hạ, cho đến cõi Phật vi trần đều ở trong ánh sáng phát hiện ra cùng một lúc. Các nhân giả! Có thấy chăng? Nếu thấy được, thì chính các ông đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành ấy. Không thấy được, đừng nói là ánh sáng tốt lành chẳng có chiếu soi. Hãy tham!”

Ai ai cũng đều có ánh sáng này. Vì sao Tổ Viên Chiếu thấy còn mọi người chẳng thấy? Đó là ngộ với chẳng ngộ vậy. Pháp Tánh vốn khắp cả, vọng trần chẳng ngăn cách được. Cái Trí Cảnh vốn tròn đầy, thức tình nào ngăn ngại được. Nếu ngộ Tự Tâm, bèn biết hết thảy, đấy đều là việc trong nhà.

Thiện Tâm
07-20-2015, 11:36 AM
III. HAI THỨ CĂN BẢN

Kinh:

Phật bảo Ông Anan: “Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay, đủ thứ điên đảo, mầm giống Nghiệp tự nhóm lại như chùm quả ác xoa. Những người tu hành không thành được Bồ Đề Vô Thượng, đến nỗi riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành ngoại đạo, Chư Thiên, Ma Vương, hay bà con quyến thuộc của Ma. Tất cả đều do không biết hai loại căn bản, lầm lộn tu tập, cũng như nấu cát mà muốn thành món ngon, dầu trải qua số kiếp nhiều như bụi, rốt cũng chẳng được.

“Thế nào là hai loại căn bản? Anan, một là, Cội Gốc (Căn Bản) của Sanh Tử vô thủy. Tức là ông hiện giờ và các chúng sanh dùng cái tâm Bám Níu Theo Duyên (Tâm Phan Duyên) mà làm Tự Tánh. Hai là, cái Thể bản lai thanh tịnh Bồ Đề Niết Bàn vô thủy. Tức là cái Chân Tâm vốn sáng soi của ông hiện giờ, hay sanh các duyên nhưng ông lại duyên theo các tướng duyên đó mà bỏ quên nó. Vì các chúng sanh bỏ quên cái Vốn Tự Sáng này nên tuy trọn ngày sử dụng nó mà chẳng tự biết, uổng oan lạc vào sáu nẻo.

Thông rằng:

Bảy chỗ bày cái tâm, đều là chẳng phải, vì dùng Tâm Phan Duyên làm tự tánh.

Ông Anan cũng biết cái tâm này chưa được Vô Lậu, không chiết phục nổi chú Ta Tỳ La, mà còn bị nó chuyển. Ông nói: “Nguyên do là vì không biết chỗ vào Chân Tế, là cũng đã lờ mờ trộm thấy cái Thể trong sạch của Bồ Đề Niết Bàn (Niết Bàn là Tịch Diệt), nên xin Phật chỉ bày. Do đó, Thế Tôn phân tích rõ ràng mà dạy cho. Trước, Phật đã dạy: Dùng các vọng tưởng, các tưởng này chẳng chân thật, nên mới bị luân chuyển. Điều đó, ở đây Ngài dạy: Dùng Tâm Phan Duyên mà làm Tự Tánh, đó là cái gốc rễ của sanh tử từ vô thủy đến nay vậy. Trước, Phật dạy: Đều chẳng biết cái Chơn Tâm chẳng sanh chẳng diệt, tánh nó chẳng ô nhiễm, thể nó vốn sáng suốt. Tức ở đây là: Bồ Đề Niết Bàn, vốn thể nó trong sạch, đó là gốc rễ chẳng sanh chẳng diệt xưa nay vậy.

Xoay chuyển nơi sống chết: Hoặc, Nghiệp, Khổ ba thứ này sanh ra, đồng nhau tụ hợp giống như chùm trái ác xoa. Không những Thiên Ma, ngoại đạo chắc chắn ở trong luân hồi, mà ngay cả Thanh Văn Duyên Giác tu tập lầm lộn, đều gọi là điên đảo.

Tại sao thế? Vì lấy Sanh Diệt làm Nhân Địa tu hành vậy. Mà cái Nguyên Minh vốn sáng soi, sinh ra các duyên thì vốn tự chẳng sanh chẳng diệt, chỉ vì duyên theo cái Sở mà bỏ quên nó.

Như đoạn sau, kinh nói rằng “Tánh Nguyên Minh ấy chiếu mà sanh ra cái Sở. Cái Sở đã riêng lập thì Tánh Chiếu Soi bị bỏ quên”, thì ý chỉ cũng giống đoạn này. Đấy tức là nguyên do sanh ra các vọng tưởng, mà đã lạc vào vọng tưởng, bèn mất đi Bản Tánh. Quên mất cái Nguồn Gốc Sáng Suốt này, nên rơi vào các nẻo, mà không thành Bồ Đề Vô Thượng.

Có vị khách làm Thượng Thơ ra mắt Tổ Trường Sa.

Tổ Sa gọi: “Thượng Thơ!”

Vị này lên tiếng dạ.

Tổ Sa nói: “Đã chẳng phải là bổn mạng Thượng Thơ đó sao?”

Thượng Thơ rằng: “Chẳng thể lìa bỏ. Nhưng nay vừa đối diện, lại riêng có chủ nhân thứ hai rồi”.

Tổ Sa nói: “Gọi Thượng Thơ là Chí Tôn được không?

Nói rằng: “Như thế, suốt cả khi không đối, đã không phải là chủ nhân của đệ tử sao?”

Tổ Sa nói: “Chẳng phải chỉ khi đối hay không đối, mà từ đời vô thủy đến nay, đó là cái Căn Bản sanh tử của ông vậy”.

Lại tụng rằng:

“Cái người học đạo chẳng biết Chân

Chỉ bởi xưa nay nhận Thức Thần

Gốc rễ tử sanh, từ vô thủy

Kẻ si lại gọi Bổn Lai Nhơn”.

(Học đạo chi nhơn bất thức Chơn

Chỉ vị tùng lai nhân Thức Thần

Vô thủy kiếp lai sanh tử bổn

Si nhơn hoán tác Bổn Lai Nhơn).

Như vậy thì chủ nhơn xưa nay, do đâu mà biết?

Phẩm Xuất Hiện của kinh Tạp Hoa nói: “Phật tử, không có chúng sanh nào mà không vốn đủ Trí Huệ Như Lai, chỉ vì bám giữ lấy vọng tưởng điên đảo mà chẳng chứng [Tự biết lấy rõ ràng] được. Nếu lìa vọng tưởng, thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí, tự hiển bày trước mắt”.

Ngài Thiên Đồng tụng:

“Trời che đất chở, nên khối, thành hòn

Khắp pháp giới nhưng không bờ mé

Chẻ lân hư mà không ở trong

Nuốt trọn huyền vi

Nào phân sau, trước.

Phật Tổ đến đây trả nghiệp miệng”

Hỏi lấy Nam Tuyền, Vương Lão Sư [Tổ Phổ Nguyện thiền sư, kế pháp Đức Mã Tổ, hoằng đạo ở Nam Tuyền, thường xưng mình là Vương Lão Sư.]

Người người ăn chỉ rau, một cọng”.

Đã là chuyện ai ai cũng có, sao chẳng thể cùng chứng Bồ Đề mà đến nỗi riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác?

Kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng sanh vọng thấy có lưu chuyển. Chán ghét lưu chuyển, lại vọng thấy có Niết Bàn. Do vậy mà chẳng nhập vào cái Giác vốn trong sạch. Chẳng phải Giác cản chống lại người-nhập. Vì, chỉ có người-nhập, chẳng phải cái Giác có sự nhập”.

Nhưng, biết chọn giữ lấy cái Căn Bản Không Sanh Không Diệt, ngoài sự đại triệt ngộ, thì không thể.

Thiện Tâm
07-21-2015, 04:29 PM
IV. NƯƠNG CÁI THẤY, GẠN HỎI CÁI TÂM.

Kinh:

“Anan, nay ông muốn biết đường tu Xa Ma Tha, nguyện ra khỏi sống chết, thì Ta lại hỏi ông. Liền đó, Như Lai đưa cánh tay kim sắc lên, co năm ngón lại, bảo Ông Anan: “Ông có thấy không?”

Ông Anan đáp: “Có thấy”.

Phật bảo: “Ông thấy cái gì?”

Anan trả lời: “Tôi thấy Như Lai đưa tay lên, co ngón thành nắm tay sáng ngời, sáng chói tâm và mắt của tôi”.

Phật hỏi: “Ông lấy cái gì mà thấy?”

Anan trả lời: “Tôi và đại chúng đều lấy con mắt mà thấy”.

Phật bảo Ông Anan: “Nay ông trả lời: Như Lai co ngón tay làm thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và con mắt của ông. Con mắt ông thì thấy, còn ông lấy cái gì làm tâm đối với nắm tay chói sáng của Ta?”

Ông Anan thưa: “Nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, mà tôi thì lấy tâm suy nghĩ xét tìm. Tức là Cái Năng Biết Suy Nghĩ đó, tôi lấy nó làm tâm”.

Phật bảo: “Ôi, Anan! Cái đó chẳng phải là Tâm ông đâu”.

Ông Anan hoảng hốt rời chỗ ngồi, đứng dậy chắp tay mà thưa rằng: “Cái ấy không phải là tâm tôi thì gọi là cái gì?”

Phật bảo Ông Anan: “Đó là cái Tưởng tạo nên các tướng hư vọng của tiền trần, nó làm mê lầm Chân Tánh của ông. Do từ vô thủy cho đến nay, ông nhận tên giặc đó làm con, mất đi cái Vốn Là Thường Hằng (Nguyên Thường) của ông nên phải chịu luân hồi”.

Thông rằng:

Đây là lần dẫn dụ từng bước lần thứ hai của Thế Tôn. Ngài hỏi “Ông nay có thấy không?” Anan đáp “Thấy”. Chỉ ở chỗ này mà đột nhiên tỉnh ngộ, bèn thấy Bản Tánh Nguyên Minh, chẳng cho phép luận bàn, chẳng đợi chỗ xếp đặt. Bồ Đề Niết Bàn vốn tự đầy đủ, vừa mống khởi phân biệt đã lọt vào tỷ lượng [So sánh, phân biệt], bị buộc vào sự sai sử của Lục Thức, chìm sâu vào trí thức, bỏ mất Chân Tánh xa lắm vậy. Cho nên Phật mới quở rằng “Cái đó chẳng phải là tâm của ông”. Nếu trong khi bị quở, rỗng rang mà tự mất bặt, bỗng nhiên hồi quang, thì ngay liền đó là Bổn Giác tự tại. Chứ sao lại nói “Rời cái Hay Biết (Giác Tri) đó, thì hoàn toàn không có gì?” Cái giác tri đó, đối đãi với Trần Tướng trước mắt mà có phân biệt, trần mất thì không có nữa, nên gọi là “Cái Tưởng hư vọng bám chấp lấy tướng”. Còn cái Bổn Giác thì chẳng nương theo Trần mà sanh diệt theo, nên mới gọi là Chân Tánh. Nhưng Chân Tánh chỉ có một mà thôi. Vì cái giác tri này che đậy cái Bổn Giác trước mắt, nên cái giác tri ấy thật là tên giặc của Bổn Giác. Nếu nhận cái giác tri đó làm Tự Tâm, tức là nhận giặc cướp làm con, bỏ cái chẳng sanh diệt mà ôm lấy cái sanh diệt, thì sự luân chuyển còn nghi ngờ gì. Tuy nhiên, lìa cái giác tri hay biết này mà tìm riêng cái Bổn Giác ở nơi khác, lại không thể được.

Ngài Thiên Đồng nêu sơ lược rằng: “Nếu cái hay suy nghĩ đó là tâm của ông, tức là nhận giặc làm con!”

Ngài Tu Sơn Chủ nói: “Nếu cái hay suy nghĩ đó chẳng phải là tâm của ông, tức là nhận giặc làm con!”

Ngài Thiên Đồng đưa ra rằng: “Như giờ hãy xét là con, là giặc : mua nón vừa đầu, ăn cá bỏ xương”.

Bèn như Thiên Đồng, lại chọn lựa không?

Đức Lục Tổ dạy: “Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ Đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ là Phật. Niệm trước bám cảnh là phiền não, niệm sau lìa cảnh, tức là Bồ Đề”. Điều này cũng như nói lật sấp lật ngữa cũng là bàn tay vậy. [Đức Lục Tổ Huệ Năng đại sư, họ Lư Thị, người xứ Tân Hưng. Từ giã mẹ, thẳng đến Huỳnh Mai Động Sơn. Sau khi đắc pháp, trở về Chùa Pháp Tánh tại Nam Hải. Mở cửa pháp Động Sơn. Sau về Bửu Lâm tự. Ngài tọa tịch, có tháp tại Tào Khê, nay là Nam Hoa Tự.]

Ngài Vĩnh Gia nói: “Thật tánh của Vô Minh tức là Phật Tánh. Huyễn hóa không thân tức Pháp Thân”. Quả là tỏ suốt cái cửa Bất Nhị vậy.

Thiện Tâm
07-21-2015, 04:31 PM
Kinh:

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, tôi là em yêu của Phật, vì lòng mến mộ Phật nên tôi xuất gia. Tâm tôi nào phải chỉ cúng dường Như Lai, mà còn khắp trải hằng sa quốc độ, thừa sự Chư Phật và các thiện trí thức. Phát đại dũng mãnh làm tất cả những pháp sự khó làm, đều dùng cái tâm này. Dầu cho hủy báng Chánh Pháp, đời đời lui sụt căn lành, cũng bởi cái tâm này.

“Nay Phật phát minh cái này chẳng phải là tâm, tôi bèn không có tâm, giống như gỗ đá. Lìa cái giác tri này, rốt chẳng còn gì nữa. Tại sao Như Lai nói cái ấy không phải là tâm? Tôi thật kinh sợ. Cùng với đại chúng đây, không ai là không nghi hoặc. Xin Phật rủ lòng từ bi, chỉ bày cho người chưa ngộ”.

Thông rằng:

Ông Anan tình thức và sở kiến khô kiệt, mới nói là “Không có Tâm”, giống như gỗ đá. Chỗ này chính là nên thừa thọ đảm đương, thì đỡ được biết bao tâm lực. Sá gì một cái giác tri mà cứ ôm giữ lấy, sao chẳng chịu bỏ quách.

Xưa, thầy Đại Lãng, mới đầu đến tham vấn Đức Mã Tổ.

Ngài hỏi: “Đến đây cầu gì?”

Đáp: “Cầu Tri Kiến Phật”.

Tổ nói rằng: “Phật không có tri kiến, tri kiến [Thấy biết] là Ma. Ông từ đâu tới?”

Bạch rằng: “Từ Nam Nhạc đến”. [Tổ Hoài Nhượng thiền sư, đời Đường, ở Hành Nhạc, Chùa Bát Nhã, nên xưng là Nam Nhạc. Lục Tổ Huệ Năng có hai đại đệ tử là Nam Nhạc và Thanh Lương]

Tổ nói rằng: “Ông từ Nam Nhạc đến, mà chưa biết tâm yếu của Tào Khê [Hiệu riêng của Lục Tổ Huệ Năng]. Ông mau trở về đó, chẳng nên đi nơi khác”.

Thầy Lãng trở về Tổ Thạch Đầu, bạch hỏi: “Thế nào là Phật?”

Tổ Thạch Đầu nói rằng: “Ngươi không có Phật Tánh”. [Hy Thiên thiền sư, ở Hành Sơn Nam Tự. Phía Đông chùa có tảng đá hình cái đài, cất am trên đó, người đời ấy kêu là Thạch Đầu Hòa Thượng]

Thầy Lãng nói rằng: “Các loài cựa quậy, bay nhảy lại ra làm sao?”

Tổ Đầu nói: “Các loài cựa quậy, bay nhảy đều có Phật Tánh”.

Bạch rằng: “Huệ Lãng này vì sao không có?”

Tổ Đầu nói: “Vì ông không chịu nhận lãnh”.

Thầy Huệ Lãng nghe xong, tin nhập.

Về sau, hễ có người học đạo đi đến, đều nói rằng: “Đi đi! Ngươi không có Phật Tánh”.

Sự tiếp cơ dạy dỗ đại khái như thế. Há đâu phải lìa cái giác tri là không có gì nữa sao?

Thiện Tâm
07-21-2015, 04:34 PM
Kinh:

Khi ấy, Thế Tôn khai thị cho Ông Anan và đại chúng, muốn cho được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nơi tòa sư tử xoa đầu Ông Anan mà nói: “Như Lai thường nói: các pháp sanh ra đều duy tâm hiện. Tất cả nhân quả, thế giới, vi trần đều do tâm mà thành thể. Anan, như trong các thế giới, hết thảy sự vật hiện có, cả đến ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút....tìm hỏi nguồn gốc thì đều có thể tánh. Ngay cả hư không còn có tên, có tướng, huống là cái Chân Tâm sáng suốt, trong sạch, nhiệm mầu, tánh của hết thảy tâm mà lại không có tự thể sao?

“Nếu ông quyết chấp cái phân biệt giác quan, hiểu biết là Tâm thì cái tâm ấy phải rời hành tướng của các trần: Sắc, Hương, Vị, Xúc, Pháp... riêng có Toàn Tính. Chứ như hiện nay, ông vâng nghe pháp âm của Ta, đó là nhân cái Tiếng mà có phân biệt: dầu cho có diệt hết tất cả cái Thấy, Nghe, Hay, Biết, bên trong giữ lấy trống rỗng u nhàn, thì đó cũng còn là sự phân biệt bóng dáng pháp trần [Một trong sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp). Tất cả pháp là chỗ duyên (sở duyên) Của ý thức, gọi chung là pháp trần] mà thôi.

“Ta không bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải chính nơi tâm ông, suy xét chín chắn. Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, thì đó mới là Chân Tâm của ông. Còn nếu cái tánh phân biệt mà lìa tiền trần không có tự thể, thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng tiền trần. Tiền trần không thường trụ, vậy khi chúng biến diệt, thì cái tâm nương vào tiền trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ, ắt Pháp Thân của ông cũng đồng với đoạn diệt. Còn gì để chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn?”

Thông rằng:

Chỗ các pháp sanh ra, là độc chỉ do tâm biến hiện, như bóng hình trùng trùng đều độc chỉ trong cái gương hiện bày ra. Sáu trần như hình, cái phân biệt (Thức Tâm) như bóng. Bóng nhờ hình mà có, tâm thức nhờ cái trần mà có. Cái này đây ắt là sự phân biệt bóng dáng tiền trần [Là lục trần, cảnh hiện bày trước cái vọng tâm]. Dao động thuộc về tiền trần, yên tịnh thuộc về pháp trần. Cho nên, ở trong giữ cái trống rỗng u nhàn thì tuy không có bóng dáng tiền trần nhưng vẫn còn cái bóng dáng trống rỗng u nhàn, đó còn là sự phân biệt bóng dáng của pháp trần.

Cái chấp ấy là cái Thức, mà chẳng phải là cái Bổn Giác Chân Tâm Thường Trụ. Chân Tâm Thường Trụ lìa khỏi tất cả phân biệt, như cái gương lớn tròn sáng [Đại Viên Cảnh Trí của Duy Thức Tông] lìa khỏi cả hai thứ Động (sáu Trần) và Tĩnh (Thức). Cái Tâm này vốn tự không nhiễm, nên nói là Tịnh, nhiễm mà chẳng nhiễm, nên nói là Diệu Tịnh. Tất cả nhân quả, thế giới nhiều như vi trần, nhân nó mà lập thành, nó cũng là cái Bổn Tánh của vọng tâm tạo thành chín Cõi [Lục đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát]. Nên nói là cái Tánh của cả thảy Tâm. Nếu thấy Tâm này, thì lìa phân biệt mà an trụ Tự Tánh, đó là cái Tự Tánh không tùy theo phân biệt mà hoặc có hoặc không. Sắc lìa Thức phân biệt như trần lìa bóng, liền là Bản Thể của gương, Thể của gương không theo bóng của trần mà sanh mà diệt. Nếu chấp cái Giác Tri Phân Biệt làm Tự Tánh, tức là chấp bóng làm gương vậy. Cái Hay Biết Phân Biệt đó, đối với trần thì có, lìa trần thì không, như bóng trong gương, vốn không tự thể, rốt là đoạn diệt, như thế làm sao chứng Vô Sanh? Cho nên, phải biết cái Tâm tự có bản thể, chẳng phải đoạn diệt.

Đoạn trước, Phật quở “Cái đó chẳng phải là Tâm ông”, vì cái chỗ Ông Anan nhìn nhận chỉ là cái tâm đoạn diệt giả dối, chẳng phải là cái tâm Xưa Nay Chân Thật vậy. Chứ đâu phải thật không có tâm ư?

Tổ Huyền Sa [Tổ Tông Nhứt thiền sư, tên Sư Bị, ở núi Huyền Sa. Khi nhỏ làm nghề chài. Ba mươi tuổi bổng ham mộ đi tu, vào học với Tổ Phù Dung, xuống tóc, lãnh cụ túc giới. Rồi tìm đến Tổ Tồn thiền sư tại núi Tuyết Phong, thâu hạp, tỏ ngộ huyền chỉ. Ban đầu trú tại Phổ Ứng Viện, sau dời về Huyền Sa] Sư Bị thượng đường rằng: “Hiện có một thuyết cho là: linh linh, sáng sáng là cái Trí Tánh linh đài, hay thấy, hay nghe, hướng vào trong miếng ruộng-thân ngũ uẩn làm chủ tể. Đó là kẻ dối gạt lớn của thiện trí thức, biết chăng? Ta nay hỏi các ông, nếu nhận cái linh linh sáng sáng đó là cái Chân Thật của các ông, thì tại sao khi ngủ mê, lại chẳng còn là sáng sáng linh linh nữa? Nếu lúc ngủ mê chẳng có thì tại sao lại có cái lúc sáng sáng, linh linh? Có hiểu chăng? Cái đó gọi là nhận giặc làm con, là căn bản của sanh tử, tập khí duyên ra Vọng Tưởng. Các ông muốn biết căn do ư? Ta nói cho nghe: Cái sáng sáng linh linh chỉ do tiền trần Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà có phân biệt, rồi nói bậy đó là cái sáng sáng linh linh. Nếu không tiền trần, thì cái sáng linh linh này của các ông, cũng như lông rùa sừng thỏ.

“Này các ông, cái Chân Thật ở tại chỗ nào? Nay các ông muốn thoát khỏi cái chủ tể của ruộng-thân ngũ uẩn, chỉ cần biết nắm lấy cái Thể Kim Cang Bí Mật của các ông. Cổ nhân hướng về các ông mà nói: Trọn thành Chánh Biến, khắp đầy Pháp Giới. Nay ta chút phần vì các ông, người Trí có thể qua thí dụ mà hiểu được. Các ông có thấy mặt trời của Nam Diêm Phù Đề không? Cái chỗ sanh sống của người đời: làm lụng, kinh doanh, nuôi sống sinh mạng, đủ thứ tâm hành, không gì chẳng nhờ ánh sáng mặt trời mà thành lập. Vậy mà cái thể của mặt trời có chăng bấy nhiêu tâm hành? Vậy mà có chỗ nào mà không cùng khắp?

“Muốn biết cái Thể Kim Cang, cũng phải nhìn như thế. Chỉ như hiện đây, núi sông, đất rộng, mười phương cõi nước, sắc không, sáng tối, cho đến thân tâm các ông, không có cái gì mà chẳng trọn nhờ cái Oai Quang Viên Thành ấy của các ông mà hiển bày. Ngay đến Trời, người, chúng sanh, Nghiệp Báo, Hữu Tình, Vô Tình không có cái gì chẳng trọn nhờ cái Oai Quang của các ông. Cho đến chư Phật, thành Đạo, thành Quả, tiếp vật lợi sanh, không gì mà chẳng trọn nhờ Oai Quang của các ông. Như cái Thể Kim Cương ấy, có phàm phu cùng chư Phật không ? Có tâm hành của các ông không? Không thể nói là không có, bèn tận dụng được vậy. Biết không?”

Tổ Huyền Sa nhờ xem Lăng Nghiêm mà phát minh tâm địa. Do đó, Ngài ứng cơ nhạy bén, thầm hợp với khế kinh. Đoạn Ngài nói ở trên, mỗi mỗi đều chẳng khác ý chỉ của kinh, cho đến nói “Tất cả đều nhờ vào lực của Oai Quang”, cùng với câu kinh “Các pháp sinh ra là duy một tâm hiện” lại càng thần diệu.

Lại nữa, Tổ Trúc Am Khuê [Tổ Khả Quan, hiệu Trúc Am], kế pháp của Tổ Phật Nhãn, cùng với người bác là cư sĩ Trì Nhất, cùng thích Lăng Nghiêm.

Tổ Trúc Am Khuê nói: “Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, đó chính là căn bản của sanh tử”.

Cư sĩ hoảng hồn, nói: “Phật nói lầm hay sao?”

Tổ Am nói: “Phật cố nhiên là không lầm. Nhưng hiện giờ cái tâm đối diện hỏi han của cư sĩ quả thật ở đâu?”

Cư sĩ bèn tán thán rằng: “Phật nói: hiểu cái Đệ Nhất Không, gọi là Sư Tử Hống, Ngài làm rồi mà không vướng mắc đấy”.

Tổ Am, sau đó thượng đường mà rằng : “Khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy ấy chẳng phải là cái Thấy Chân Thật (Chánh Kiến). Thấy do lìa tất cả tướng thấy, cái thấy ấy là siêu việt (Giải Thoát) [Từ kinh Lăng Nghiêm : Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập]. “Hoa rơi hữu ý theo giòng nước. Giòng nước vô tình đưa hoa rơi”. Các thứ có thể trả về được dĩ nhiên chẳng phải là ông. Còn ông không thể trả về được, nếu chẳng phải là ông, thì là ai? “Thường hận xuân đi không chỗ kiếm. Chẳng hay trở lại chốn xưa ra”. Hét lên một tiếng mà rằng: “Ba mươi năm sau, chớ nói Phật, Tổ dạy hư con cái nhà người!”

Theo chỗ thấy của Tổ Trúc Am, thì lìa tiền trần cũng không có cái Tự Tánh Phân Biệt nào nữa để được. Người tự khéo chuyển Lăng Nghiêm thì một đoạn chân phong “Thấy do lìa thấy, thấy ấy siêu việt” có thể cùng với Tổ Huyền Sa đồng tham vậy.

Thiện Tâm
07-22-2015, 11:49 AM
V. CHỈ RÕ TÍNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CON MẮT


Kinh :

Khi ấy Ông Anan cùng tất cả đại chúng lặng im, ngơ ngác.

Phật bảo Ông Anan: “Hết thảy những người tu học trong thế gian, hiện tuy thành được chín bậc Định thứ lớp mà chẳng được hết lậu [Hết phiền não] để thành A La Hán, đều do chấp lấy cái vọng tưởng sanh tử này mà lầm cho là chân thật. Thế nên, ông nay tuy được đa văn mà không thành quả Thánh”.

Thông rằng:

Chín bậc Định thì sau này có nêu ra: Tứ Thiền, Tứ Không... Nhưng chỉ nói quả vị mà không nói cách tu. Đây nói là người tu hành chín bậc Định thứ lớp, vì từ một bậc thiền này sang bậc thiền kia, theo thứ tự mà tu. Như Đại Bát Nhã nói “Lìa Dục, Ác, Bất Thiện Pháp, có tìm có xét. Lìa thì sanh Hỷ, Lạc, nhập Sơ Thiền. Tìm, xét đã vắng lặng, trụ ở trong tâm trong sạch hoan hỷ. Không tìm, không xét nghĩ, Định sanh ra Hỷ, Lạc, nhập Nhị thiền. Lìa Hỷ trụ Xả, đầy đủ niệm chánh tri, thân thọ lãnh sự vui trong sạch bậc Thánh, nói được xả được, đầy đủ niệm lạc trụ nhập Tam Thiền. Dứt vui dứt khổ, trước là cái vui vẻ, lo buồn biến mất, không Khổ không Lạc, niệm Xả thanh tịnh, nhập Tứ Thiền. Vượt lên cả Sắc Tưởng, diệt tưởng có đối tượng, chẳng tư duy hết thảy các Tưởng, nhập vào Không Vô Biên là Không Vô Biên Xứ Định. Vượt lên tất cả Không, nhập Thức Vô Biên là Thức Vô Biên Xứ Định. Vượt lên tất cả Thức Vô Biên, nhập Vô Sở Hữu Xứ Định. Vượt Vô Sở Hữu Định, nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Vượt tất cả Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhập Diệt Thọ Tưởng Định”.

Đó là chín phép Định theo thứ lớp, đều là cái công dụng Hữu Vi, ưa thích thiện quả hữu vi nên nói là “Mê những cõi Trời hữu lậu, hiểu đấy là vô vi”. Vì cái mê chấp ấy, nhập vào cái thức vi tế sanh diệt vọng tưởng mà tu, chưa thể thấy được Chân Tánh Vô Sanh, Hiện Tiền Tịch Diệt (Niết Bàn) chính là Pháp Vô Vi Chân Thật, nên chưa được hết hữu lậu. Như bậc Đại A La Hán, đã chứng Diệt Thọ Tưởng Định, nên gọi là Vôâ Lậu. Nay tại sao trong chín cấp Định thứ lớp cũng chứng Diệt Thọ Tưởng Định mà lại gọi là hữu lậu? Vì có vọng tưởng mà chứng Niết Bàn, nên dù có được Diệt Tận Định vẫn chưa phải là chân thật.

Tổ Hoàng Bá nói rằng: “Cả thảy chúng sanh luân hồi, sanh tử chẳng ngừng nghỉ là do ý duyên khởi tạo cái tâm trong sáu nẻo chẳng ngừng, đến nỗi khiến chịu bao nhiêu thứ khổ.

“Kinh Duy Ma nói: Loài người khó dạy, tâm như khỉ vượn, nên phải dùng biết bao pháp môn để chế ngự tâm này, sau mới điều phục. Bởi vì tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt.

“Cho nên, phải biết rằng tất cả các pháp đều do tâm tạo, cho đến Trời người sáu nẻo, địa ngục, Tu La đều do tâm tạo. Như nay chỉ học Vô Tâm, dứt ngay các duyên, không sanh vọng tưởng phân biệt, không người không ta, không Tham, Sân, không Yêu Ghét, không Hơn Thua. Chỉ cần trừ bỏ hết bấy nhiêu thứ vọng tưởng, thì Tự Tánh vốn xưa nay vẫn là trong sạch, đó gọi là tu hành Bồ Đề, Pháp, Phật...[Như thế là tu hành chân thật]. Nếu chẳng hiểu như thế, thì dù cho học rộng, cần khổ tu hành, ăn cây mặc cỏ, mà chẳng biết Tự Tâm, đều gọi là tà hạnh, đều làm Thiên Ma ngoại đạo, các thần đất, nước. Tu hành mà thế, nào có ích gì?”

Tổ Chí Công dạy: “Bản thân là do tâm tạo ra, nào phải trong chữ nghĩa tìm cầu. Như hiện giờ chỉ rõ biết Tự Tâm, tuyệt dứt tư duy vọng tưởng thì trần lao, phiền não tự nhiên chẳng sinh”.

“Kinh Duy Ma nói: Chỉ để một cái giường, nghỉ ngơi tật bệnh mà nằm, là tâm chẳng khởi vậy. Như người nằm bệnh, các duyên đều hết, vọng tưởng tiêu ma, đó là Bồ Đề.

“Còn nếu giờ đây trong tâm phân vân chẳng định, thì dầu cho có học đến Tam Thừa, Tứ Quả, Thập Địa cũng chỉ là hướng trong phàm Thánh mà ngồi. Các hành trọn quy về vô thường, thế lực đều có lúc hết. Như bắn tên lên không, hết đà rơi xuống, lại rơi vào vòng sanh tử luân hồi. Tu hành kiểu đó là chẳng hiểu ý Phật, uổng công nhọc mệt, há chẳng là lầm to?”

Tổ Chí Công lại nói: “Chưa gặp bậc Minh Sư ra đời, uống thuốc pháp Đại Thừa cũng uổng”.

Than ôi! Thuốc pháp Đại Thừa còn chẳng thể giúp, huống là chín bậc Định thứ lớp? Nên phải biết: tu tập lầm lạc, khó thành quả Thánh.

Thiện Tâm
07-22-2015, 11:53 AM
Kinh :

Ông Anan nghe xong lại đau xót khóc lóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ thẳng chấp tay mà bạch Phật: “Từ khi tôi theo Phật phát lòng xuất gia, ỷ lại oai thần của Phật, thường tự nhủ: chẳng nhọc đến mình tu, Như Lai sẽ ban cho mình Pháp Chánh Định, mà chẳng biết rằng thân tâm không thể thay thế. Bỏ mất Bản Tâm của mình, nên tuy thân thể xuất gia, tâm chẳng nhập đạo. Ví như đứa con cùng khổ, bỏ cha trốn lánh. Ngày nay mới biết: dù có đa văn, nếu chẳng tu hành thì có khác gì người chưa được nghe, như người nói chuyện ăn thì rốt cuộc chẳng được no.

“Thưa Thế Tôn, chúng tôi giờ đây bị hai Chướng buộc ràng, là do chẳng biết cái Tâm Tánh Tịch Thường. Độc chỉ cầu xin Như Lai xót thương kẻ cùng đường, mà khai phát cái Tâm Diệu Minh, mở con mắt đạo cho tôi”.

Thông rằng:

Bỏ cha trốn đi thì ở kinh Pháp Hoa cũng có ví dụ. Cùng đường ở phương xa, mong được chỉ cho hạt châu trong áo, dần dần có ý muốn về nhà.

Hai cái Chướng là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng. Phiền Não Chướng thì chướng ngại tâm, tâm chẳng giải thoát, kết nghiệp mà thọ quả báo. Sở Tri Chướng ngăn trở cái Tánh Sáng (Huệ). Tánh Sáng bị buộc ràng, chẳng hiểu Pháp Không vậy.

Anan biết rõ bị hai Chướng ràng buộc, lại cũng biết cái gọi là Tâm Tánh Tịch Thường, cớ sao con Mắt Đạo chẳng mở ra? Thấu thoát quả là khó khăn lắm vậy.

Có nhà sư bạch hỏi Tổ Dược Sơn: “Kẻ học nhơn định trở về quê thì như thế nào?”

Tổ Sơn nói: “Cha mẹ ông khắp mình sưng đỏ, nằm trong rừng gai góc, ông về chỗ nào?”

Sư hỏi: “Như thế tức là chẳng về ư ?”

Tổ rằng: “Ông lại cần phải về. Nếu ông về ta chỉ cho ông món ăn làm thuốc tốt đẹp để đi đường”.

Sư rằng: “Xin nói”.

Tổ Sơn nói: “Hai buổi thượng đường, không cắn bể một hột gạo”.

Sau, có vị sư bạch hỏi Tổ Lạc Phổ: “Kẻ học nhơn định trở về quê thì như thế nào?”

Tổ Phổ rằng: “Nhà tan, người mất, ông về chốn nào?”

Sư rằng: “Như vậy tức là chẳng về ư ?”

Tổ Phổ rằng: “Trước sân tuyết sót (tuyết tàn), mặt trời tan. Trong thất bụi hồng, ai bảo quét”.

Lại đọc bài kệ:

“Lòng quyết về quê cũ

Cỡi thuyền qua Ngũ Hồ

Nhổ sào trăng sao lặn

Dừng chèo mặt trời cô

Mở neo lìa bến ngụy

Trương buồm ra dòng Chơn

Đến nơi, người mất sạch

Khỏi làm đứa ngu (trong) nhà”.

Tổ Đơn Hà tụng rằng :

“Quê nước thái bình nẻo chẳng xa

Về, hứng miên man, ý vô bờ

Buông tay, nhà đến: nơi nào có?

Bóng trăng lồng điện báu lưu ly”.

(Thái bình hương quốc lộ không xa

Quy hứng du tu tư mạc nhai

Tát thủ đáo gia hà xứ hữu

Lưu ly bảo điện tỏa thiềm hoa).

Các vị lão túc một phen chỉ ra phương tiện về nhà. Đáng gọi là con mắt Đạo mở sáng, thật biết cái Tâm Tánh Tịch Thường vậy.

Thiện Tâm
07-22-2015, 12:10 PM
Kinh:

Liền khi ấy, Như Lai từ chữ VẠN (*) ở ngực, phóng ra ánh sáng báu. Hào quang ấy rực rỡ, có trăm ngàn sắc, chiếu khắp cùng một lúc tất cả thế giới chư Phật mười phương, số như vi trần. Hào quang rưới khắp đảnh các Như Lai của mười phương cõi báu, xoay về soi đến Ông Anan và cả đại chúng.

Phật bảo Ông Anan: “Ta nay vì ông dựng cờ Pháp lớn, cũng khiến cho tất cả chúng sanh của mười phương được cái Tâm Tánh nhiệm mầu, vi mật, sáng sạch và được con Mắt Trong Sạch (Thanh Tịnh Nhãn).

Thông rằng :

Trước thì từ mặt phóng ra ánh sáng, mười phương cõi nước đồng thời khai hiện, khiến tất cả thế giới hợp thành một cõi, là biểu thị Chân Vọng chẳng hai. Chỉ bày hai loại Căn Bản, thì lấy Đoạn Vọng làm đầu vì vọng tưởng chẳng dứt thì dù đến chín bậc Định thứ lớp cũng chẳng thành quả Thánh. Cái mặt mũi ấy có thể nghiệm xét mà thấy như soi gương vậy. Nay từ chữ VẠN ở ngực phóng ra ánh sáng, rưới đảnh của chư Như Lai rồi trở về chiếu Anan và đại chúng, là biểu thị Thánh phàm chẳng hai. Chỉ bày rằng tiền trần tự tối, cái Thấy nào có thiếu hụt. Nhẫn đến cái đầu tự động chao, cái Thấy hoàn toàn chẳng động. Bàn tay tự mở, nắm; cái Thấy không có trải ra, cuốn lại. Đó là chỉ ra một đường hướng thượng, người người sẵn đủ, khả dĩ an ấn (truyền pháp yếu) vậy.

Xưa, Tổ Ngưỡng Sơn đang ngồi, có vị tăng đến làm lễ. Tổ Sơn chẳng đoái hoài.

Vị tăng mới hỏi Tổ: “Biết chữ chăng?”

Tổ đáp : “Tùy phận”.

Tăng bèn đi quanh phía phải một vòng rồi nói: “Đó là chữ gì?”

Tổ Sơn vẽ trên đất chữ thập đáp lại.

Vị tăng lại đi quanh phía trái một vòng rồi hỏi: “Đó là chữ gì?”

Tổ Sơn đổi chữ thập thành chữ Vạn.

Vị tăng vẽ tướng vòng tròn, rồi dùng hai tay nâng lên như bàn tay của Tu La trong thế Nhật Nguyệt, nói: “Đây là chữ gì?”

Tổ Sơn bèn vẽ tướngĠ đáp lại.

Vị tăng làm ra cái tướng Đức của Phật Lâu Chí.

Tổ Sơn rằng: “Như thế, như thế. Đây là chỗ hộ niệm của Chư Phật. Ông cũng như thế, ta cũng như thế. Hãy khéo tự hộ trì”.

Vị tăng lễ tạ, bay lên không mà đi mất.

Lúc ấy, có một vị đạo nhân thấy được.

Sau đó năm ngày, bạch hỏi Tổ Ngưỡng Sơn.

Tổ hỏi: “Ông có thấy không?”

Đạo giả đáp: “Tôi thấy người ấy ra cửa phòng lên không đi mất”.

Tổ rằng: “Đó là vị A La Hán bên Tây Thiên, đến thử đạo ta đó”.

Đạo giả nói: “Tôi tuy thấy đủ thứ Tam Muội mà chẳng rành rẻ cái Lý”.

Tổ Ngưỡng Sơn rằng: “Để tôi vì ông dùng nghĩa mà giải thích ra. Đây là tám loại Tam Muội: ấy là Giác Hải [Cái Giác Tánh ví như biển] biến làm Nghĩa Hải [Cái nghĩa lý của Giác Tánh rộng lớn như biển], Thể đồng như nhau. Cái Nghĩa này có Nhân có Quả; Tức Thời, Khác Thời; Tổng Tướng, Biệt Tướng chẳng rời Ẩn Thân Tam Muội”.

Nếu biết cái Tam Muội Giác Hải biến ra Nghĩa Hải của Ngài Ngưỡng Sơn, thì chữ Vạn nơi ngực của Phật phóng ra ánh sáng quý báu cũng là Diệu Dụng trong cái Bất Tư Nghì, ắt phải được cái Tâm Tánh Diệu Mật Sáng Sạch làm cội gốc vậy.

Tổ Quy Sơn từng hỏi Tổ Ngưỡng Sơn: “Chỗ Diệu Tịnh Minh Tâm, theo ông hiểu làm sao?”

Tổ Ngưỡng đáp: “Núi sông đất đai, nhật nguyệt tinh tú”.

Tổ Quy nói: “Ông chỉ được cái Sự”.

Tổ Ngưỡng rằng: “Hòa Thượng vừa hỏi cái gì đó?”

Tổ Quy: “Cái Diệu Tịnh Minh Tâm”.

Tổ Ngưỡng: “Kêu là cái Sự không được sao?”

Tổ Quy rằng: “Như thế, như thế”.

Chỉ do Tổ Ngưỡng Sơn hiểu được cái Diệu Tịnh Minh Tâm, được con mắt trong sạch, cho nên cái Tam Muội rõ nghĩa chữ (Tự Tam Muội), vượt xa hẳn tầm thường.

-------------

(*)

http://www.clearwisdom.net/emh/article_images/2007-9-16_lantauBuddha.jpg

Thiện Tâm
07-23-2015, 08:52 PM
Kinh:

“Ông Anan, trước đây ông đã trả lời Ta rằng thấy nắm tay chói sáng. Sự chói sáng ấy của nắm tay do đâu mà có? Làm sao thành ra nắm tay? Ông lấy cái gì mà thấy?”

Thông rằng:

Đây là lần dẫn dụ từ từ thứ ba của Thế Tôn, có thể nói là tâm Lão Bà [Tâm Từ Bi] quá tha thiết. Trước đã hỏi “Ông lấy gì thấy?” Ông Anan trả lời “Đều lấy mắt mà thấy” để rồi bị Phật quở nhận giặc làm con. Đến đây hỏi lại “Ông lấy gì thấy?”, chính là muốn Ông Anan hồi quang phản chiếu để hốt nhiên thấy được cái Kiến Tính Minh Nguyên [Cái Tánh Thấy vốn sáng suốt], chẳng do con Mắt. Tiếc thay, ông chẳng tỉnh ngộ được.

Có vị tăng đứng hầu Tổ Trường Sa.

Tổ lấy gậy chỉ trên đất trước mặt một điểm bất kỳ nào đó rồi hỏi: “Có thấy không?”

Đáp rằng: “Thấy”.

Hỏi như vậy ba lần, vị tăng cũng ba lần trả lời như vậy.

Tổ Sa nói: “Ông cũng thấy ta cũng thấy. Vì sao lại nói là không hiểu?”

Ngày khác, lại lấy cây gậy cắm trên đất, hỏi Tổ Trường Sanh: “Tăng thấy, tục thấy, nam thấy, nữ thấy, còn ông thấy làm sao?”

Đáp rằng: “Hòa Thượng có thấy Kiến Xứ (chỗ thấy) của Kiểu Nhiên (Trường Sanh) không?”

Tổ Trường Sa nói: “Người hiểu nhau khắp thiên hạ, nhờ có câu trả lời này của Kiểu Nhiên, bèn cùng Huyền Sa thấy mặt!”

Phải chi Ông Anan tự biết cái Kiến Xứ ấy chẳng có cái Kiến (Thấy) nào đến được, thì đâu đến nỗi Thế Tôn phải cực nhọc lắm lời!

Thiện Tâm
07-23-2015, 08:56 PM
Kinh:

Ông Anan thưa: “Toàn thân Phật như vàng Diêm Phù Đàn, sáng ngời như núi báu, do Thanh Tịnh sanh ra nên có ánh sáng. Quả thật, tôi lấy mắt mà thấy năm ngón tay Phật co nắm lại, đưa ra cho đại chúng coi, nên có tướng nắm tay”.

Phật bảo Ông Anan: “Như Lai hôm nay, xác thật dạy ông. Những người có Trí cần lấy thí dụ mà được khai ngộ. Ông Anan, ví như nắm tay của Ta, nếu không có bàn tay ta thì không thành nắm tay Ta. Nếu không có con mắt của ông thì không thành cái Thấy của ông. Vậy thì lấy Nhãn Căn của ông mà so với Nắm Tay của Ta, cái nghĩa có tương xứng không?”

Ông Anan bạch Phật: “Đúng vậy, thưa Thế Tôn. Đã không có con mắt của tôi thì không thành cái Thấy của tôi. Lấy Nhãn Căn của tôi mà so với nắm tay của Phật, sự nghĩa giống nhau”.

Phật bảo Ông Anan: “Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao thế ? Như người không có bàn tay thì tuyệt nhiên không có nắm tay. Còn người không có mắt kia, không phải hoàn toàn không thấy. Tại sao như thế? Ông thử ra đường hỏi người mù: Anh thấy gì? Những người mù chắc sẽ trả lời: Hiện nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, chứ không thấy gì khác. Lấy nghĩa ấy mà xét thì tiền trần tự tối, chứ cái thấy nào có hao kém gì?”

Thông rằng:

Vì sao Đức Thế Tôn lại lấy người mù làm ví dụ? Bởi vì, Ông Anan chấp chặt lấy cái Thấy của con mắt làm cái Thấy Chân Thật, vậy là chẳng rời Căn và Trần, mà Thức sanh ra ở giữa.

Người mù không có mắt, sao cũng thấy tối thui? Do đó, có thể biết rằng: chờ có Nhãn Căn mới thấy, đó là cái thấy của tiền trần phân biệt, chẳng phải là cái thấy của cái Vốn Xưa Nay Trong Sạch [Bổn Tâm] vậy. Tiền trần phân biệt thuộc Thức Thứ Sáu, nên mắt còn thì nó còn, mắt mất thì nó mất, nên phải chờ có Căn thì mới hiện ra được.

Cái ánh sáng trong sạch của Tâm, chẳng đợi đến cái Căn mà còn, chẳng tùy theo Căn mà diệt, nên nó là không sanh diệt. Đó là cái Thấy không sanh diệt của cái Vốn Xưa Nay Trong Sạch ai ai cũng sẵn đủ. Chẳng phải vì không có mắt mà người mù không có.

Ông Anan chấp chặt là chỉ có con mắt mới thấy, thì đó là cái Căn sanh diệt. Thế Tôn chỉ ra cái Thấy không hề thiếu hụt, đó là cái “Căn” không sanh không diệt. Đánh thức như thế, có thể nói là đã cùng cực.

Xưa, tướng quốc Thôi Công Quần ra mắt Tổ Như Hội thiền sư, hỏi rằng: “Thầy lấy gì mà được?”

Tổ Hội trả lời: “Lấy Tánh Thấy mà được”.

Tổ Như Hội đang bị đau mắt.

Ông Quần chọc rằng: “Đã nói là Tánh Thấy, còn con mắt thì sao đó?”

Tổ Hội rằng: “Tánh Thấy chẳng phải là con mắt, con mắt bệnh nào có hề gì!”

Ông Quần bèn cúi đầu tạ lỗi.

Sau này, Tổ Pháp Nhẫn nói rằng: “Con mắt ấy của Tướng Công há thấy được chỗ trả lời của Tổ Như Hội, mà còn can thiệp đến giáo ý hay sao?”

Thiện Tâm
07-23-2015, 08:59 PM
Kinh :

Ông Anan thưa: “Trước mắt những người mù chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy được?”

Phật bảo Ông Anan: “Các người mù không có con mắt chỉ thấy tối đen, so với người có mắt ở trong nhà tối, thì hai cái tối đen ấy khác nhau hay không khác nhau?”

- Thật vậy, thưa Thế Tôn, người có mắt ở trong nhà tối với những người mù, so sánh hai cái tối đen của họ, thật không khác nhau.

- Anan, nếu người mù không có mắt, thấy trước mắt hoàn toàn tối đen, bỗng nhiên được con mắt sáng thì thấy lại nơi tiền trần đủ mọi loại sắc mà gọi là con mắt thấy; thì người ở trong nhà tối kia, thấy trước mắt hoàn toàn tối đen bỗng nhiên được cái đèn sáng, nên thấy nơi tiền trần đủ mọi loại sắc, lẽ ra phải gọi là cái đèn thấy. Nếu cái đèn tự nó thấy được, thì không thể gọi là đèn. Lại ngọn đèn nó thấy, thì liên can gì tới ông! Vậy, nên biết rằng: Đèn làm sáng các hình sắc, nhưng thấy như vậy là Mắt chứ không phải đèn. Mắt làm sáng tỏ các Sắc, nhưng Tánh Thấy như vậy là Tâm chứ chẳng phải là Mắt.

Thông rằng:

Đây là Đức Thế Tôn phân tích rõ ràng, nên nói là “Xác thật bảo ông”. Đèn và con Mắt, đều là cái duyên cho sự thấy, thể của chúng chẳng phải Hay Thấy. Cái Hay Thấy là tâm vậy. Ở trước, nói “Cửa có thấy không?” là đã đủ nghĩa này. Ở đây, lại lấy ngọn Đèn ví dụ là con mắt, lấy Mắt mà so với Tâm. Đèn không thể thấy, Mắt có thể thấy được sao? Cái Thấy của con Mắt chẳng phải là Tánh Thấy. Nếu sáu Căn có thể dùng thay nhau, thì Tai cũng thấy được vậy, đâu phải chỉ có mắt mới thấy. Chỗ Ông Anan nói: “Quả thật tôi dùng con mắt mà thấy” thì rõ ràng chấp lấy Vọng mà làm cái Chơn. Nếu biết đèn chỉ có thể hiển cái sắc còn cái Năng Kiến thuộc về con mắt, thì đã lìa Sở Vọng. Lại biết mắt chỉ hiển sắc, còn Tánh Thấy thuộc về Tâm, thì lìa luôn cả cái Năng Vọng. Năng, Sở đều lìa, duy chỉ một Tâm. Tâm siêu vượt khỏi con mắt nên không sanh diệt. Dùng cái Thấy không sanh diệt mà thấy nắm tay của Như Lai thì chưa từng không thấy. Nhưng không thể nói là con mắt thấy.

Xưa, thiền sư Khô Mộc [Đời Đường, các vị thiền sư am hiểu rồi cứ ngôøi tu tĩnh, người đời gọi là đám thầy cây khô] Tổ Nguyên [Tự là Tử Nguyên, hiệu Vô Học, đời Tống. Mười bốn tuổi đến Kính Sơn học cùng thầy Phật Giám; mười bảy tuổi có chỗ tỉnh ngộ. Sau khi thầy Phật Giám tịch, đi khắp nơi. Ba mươi sáu tuổi liễu nhiên đại ngộ] theo học Ngài Đại Huệ ở am Vân Môn. [Tổ Phật Nhật thiền sư, tên Tông Cảo, đời Tống. Kế vị Viên Ngộ thiền sư. Bảy mươi hai tuổi tịch, sắc tứ hiệu Đại Huệ] Trời sắp tối, thấy vị tăng sửa soạn đèn mới tỏ ngộ thấu đáo, làm bài kệ rằng :

“Vừa soạn đèn là lửa đến

Vô Minh bao kiếp soi phá

Về nhà đụng gặp Thánh Tăng

Suýt nữa đối mặt lầm qua

Chẳng lầm qua thì thế nào?

Mười lăm năm trước tưởng lạ kỳ

Y xưa, chỉ là cái đó!”.

(Khởi đăng lại thị hỏa

Lịch kiếp Vô Minh chiếu phá

Quy đường chàng kiến Thánh tăng

Kỷ hồ đương diện tạ quá

Bất tạ quá, thị thậm ma

Thập ngũ niên tiền kỳ đặc

Y tiền chỉ thị giá cá).

Ngài Đại Huệ bèn tặng cho một bài kệ:

“Vách núi muôn tầm, giải phóng thân

Xưa nay như cũ, vẫn minh minh

Đói ăn khát uống toàn vô sự

Há luận người xưa, chẳng phải xưa!”.

(Vạn nhận nhai đầu giải phóng thân

Khởi lai y cựu khước tinh tinh

Cơ xan khát ẩm hồn vô sự

Há luận tích nhơn phi tích nhơn).

Ôi, việc sửa soạn đèn đâu có ăn nhằm gì tới chuyện tu thiền mà lại tỏ ngộ. Thế mới biết Thế Tôn nói rằng cái thấy đó là con mắt chớ chẳng phải đèn; cái Tánh Thấy là Tâm chớ chẳng phải con mắt. Nên Ngài Tổ Nguyên mới nói vừa soạn đèn là lửa đến. Như cách vách thấy sừng thì biết chắc là trâu. Phải triệt chứng như thế mới gọi là Thấy Tánh.

Thiện Tâm
07-23-2015, 09:05 PM
Kinh:

Ông Anan tuy được nghe lời Phật dạy như vậy, cùng với đại chúng miệng tuy im lặng nhưng Tâm chưa khai ngộ, còn mong Như Lai từ tâm chỉ bày, chắp tay lắng lòng đợi Phật thương xót dạy bảo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn duỗi tay Đâu La Miên sáng ngời, mở năm ngón tay mà bảo Ông Anan và đại chúng rằng: “Lúc Ta vừa thành đạo ở vườn Lộc Uyển có dạy nhóm Ông A Nhã Đa năm vị Tỳ kheo và bốn chúng rằng: Tất cả chúng sanh không thành Bồ Đề cùng bậc A La Hán đều do những phiền não khách trần mê hoặc. Lúc ấy, các ông nhờ đâu mà khai ngộ, đắc thành Thánh quả?”

Thông rằng:

Đức Thế Tôn lời thật chỉ bày rõ ràng mà Ông Anan và đại chúng còn chưa khai ngộ cũng vì cơ duyên chưa dễ nhóm tụ. Do lòng từ bi, Đức Thế Tôn còn e lời nói vi diệu chưa dễ hiểu được. Nhưng trong hàng tỳ kheo cũng có vị đã hiểu ngộ rồi, vậy thì dùng chỗ đã hiểu biết dìu dẫn cho hiểu biết thì dễ dàng ngộ nhập. Bởi thế nên dạy các vị tỳ kheo mỗi vị tự thuật lại nguyên do khai ngộ để Ông Anan dễ lãnh ngộ. Đoạn sau, hai mươi lăm vị Thánh thuật lại chỗ chứng Viên Thông của mình cũng là dùng cách này. Ở đây là Biết Vọng sau mới Chứng Chơn, không phải không có chỗ sâu cạn khác nhau, nhưng phương tiện dắt dẫn chỉ là một.

Nói rằng “Chẳng thành Bồ Đề đều do phiền não khách trần làm mê lầm”, đó chính là sự đắp đổi hóa thành lẫn nhau của hai loại căn bản sanh tử, tỏ ngộ cũng không dễ.

Có vị tăng hỏi Ngài Nam Dương Huệ Trung quốc sư : “Cái gì là Phật?”

Tổ đáp : “Tức Tâm là Phật”.

Hỏi: “Tâm có phiền não không?”

Tổ rằng: “Phiền não, tánh tự lìa”. [Ly : lìa, giải thoát]

Tăng rằng: “Há chẳng đoạn trừ sao?”

Tổ đáp: “Đoạn trừ phiền não, kêu bậc Nhị Thừa. Phiền não chẳng sanh, gọi đó là Đại Niết Bàn”.

Tăng hỏi: “Ngồi thiền khán tịnh thì như thế nào?”

Tổ đáp: “Không dơ không sạch thì đâu cần khởi tâm khán tướng tịnh?”

Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Không khởi tu thiền định, không vọng trừ phiền não. Phật thọ ký cho người này thành Phật không nghi”.

Học sĩ Trần Tú Ngọc có lần hỏi Tổ Vạn Tùng [Tổ Vạn Tùng Hanh Tú thiền sư. Xuất gia tại Tịnh Độ Tự, đi học khắp xứ, cuối cùng ra mắt Tổ Tuyết Nham ở chùa Đại Minh, hạp tỏ ngộ tâm ấn. Tìm về chùa Tịnh Độ dựng lập Vạn Tùng Hiên.] rằng: “Đức Di Lặc Bồ Tát vì sao chẳng tu thiền định, chẳng dứt trừ phiền não?”

Tổ Tùng đáp: “Chân Tâm vốn tịnh, nên chẳng tu thiền định. Vọng tưởng vốn không, nên chẳng dứt lìa phiền não”.

Học sĩ lại đem câu này hỏi Ngài Hương Sơn Đại Nhuận Hòa Thượng. Ngài đáp: “Tâm Thiền vốn định, chẳng trở lại tu. Phiền não tịch diệt, chẳng cần lại đoạn”.

Học sĩ lại đem hỏi Ngài Trúc Lâm Hải Cự Xuyên. Tổ Xuyên đáp: “Vốn không có thiền định, phiền não!”

Học sĩ nói: “Chỉ có thế này mới khoái!”

Ở chỗ này mà tin tới được, mới biết việc chỉ bày ở Lộc Viên chỉ vì người mới học.

Thiện Tâm
07-26-2015, 09:07 AM
PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC HAI: CHỈ RÕ TÁNH THẤY




VI. Ý NGHĨA CHỦ VÀ KHÁCH

Kinh:

Khi ấy, Ông Kiều Trần Na đứng dậy bạch Phật: “Tôi nay già cả, ở trong đại chúng riêng được cái danh là Hiểu. Do tôi ngộ được hai chữ Khách Trần mà thành quả. Thưa Thế Tôn, ví như người khách đi đường, vào trọ nơi quán xá, hoặc ngủ lại, hoặc ăn. Ăn, ngủ xong xếp đồ đạc lên đường không ở lại được. Nếu thật là người chủ, tự không phải đi đâu. Tôi nghĩ như vầy: Không ở yên mãi được thì gọi là Khách, còn ở mãi thì gọi là Chủ. Lấy cái sự Không ở yên mãi được làm ý nghĩa chữ Khách. Lại như trời mới tạnh, mặt trời chiếu sáng trên cao, ánh sáng xuyên qua khe hở chiếu rõ bụi bặm trong khoảng không. Bụi trần thì dao động, hư không lặng yên. Như vậy mà suy nghĩ: đứng lặng gọi là hư không, lay động gọi là Trần. Tôi lấy Sự lay động làm ý nghĩa chữ Trần”.

Đức Phật nói: “Chính vậy”.

Thông rằng:

Khách là thí dụ cho cái thô trọng của Sở Tri; Trần là ví dụ cho cái vi tế của phiền não. Niệm niệm đổi dời, sanh ra rồi diệt mất chẳng ngừng, nên thí dụ như khách đi đường vào trọ quán xá. Khởi lên sự mê lầm, gây ra nghiệp, bỏ cũ theo mới, nên thí dụ là ăn, ngủ xong thì thu dọn lên đường. Cái Chân Tánh Thường Trụ vốn chẳng có chuyện ấy, nên thí dụ như người chủ chẳng đi đâu cả. Thô chướng thì dễ trừ mà cái mê lầm vi tế thì khó biết, nên phải do bầu trời Bản Tánh tạnh ráo sáng trong có mặt trời Trí Huệ soi chiếu, qua khe hở của Ngũ Ấm soi rõ Bản Tánh rỗng trống, mới biết hư vọng tự rối động ở trong. Do đó, mới lấy thí dụ “Trời tạnh, mặt trời chiếu sáng, ánh sáng vào trong lỗ hở, phát hiện rõ ràng bụi bặm trong hư không”.

Phiền não thì rối động. Chân Tánh vốn tịch nhiên. Như ngộ được là vốn không, thường trụ chẳng động, tức biết Tâm Tánh thường tịch vậy.

Tổ Triệu Châu nói: “Các ông từ một phen thấy lão tăng trở về sau, lại chẳng phải là người nào khác, chỉ thật là người chủ nhân ông. Cái ấy đây lại hướng ra ngoài tìm kiếm làm chi? Chính lúc này đây, chớ chuyển đầu đổi não. Nếu chuyển đầu đổi não tức mất ngay vậy”.

Lại một hôm, Ngài đang quét đất, có vị tăng hỏi: “Hòa Thượng là bậc đại Thiện Tri Thức vì sao lại còn quét đất?”

Tổ Châu nói rằng: “Bụi từ ngoài đến”.

Tăng hỏi: “Đã là chốn Già Lam trong sạch, làm sao có bụi?”

Tổ Châu nói: “Lại một hạt bụi nữa kìa”.

Ngài Triệu Châu, ánh sáng con mắt Ngài soi nát bốn châu thiên hạ, biện rõ nghĩa Khách Trần, chẻ vào thấu cái nhỏ nhiệm. Nếu ở chỗ này mà soi ra được rành rẽ, thì quả thật là vị Sa Di có chủ, ở đời chẳng nhiễm, chứ đâu chỉ được mang tiếng là Giải [Giải: hiểu].

Thiện Tâm
07-26-2015, 09:11 AM
Kinh:

Khi ấy, Đức Như Lai ở giữa đại chúng nắm năm ngón tay lại. Nắm rồi lại mở, mở rồi lại nắm.

Rồi hỏi Ông Anan rằng: “Nay ông thấy gì?”

Ông Anan đáp: “Tôi thấy bàn tay Bách Bảo Luân của Như Lai ở giữa đại chúng lúc mở lúc nắm”.

Phật bảo Ông Anan: “Ông thấy tay ta ở giữa đại chúng khi mở khi nắm, đó là tay ta có mở có nắm hay là cái Thấy của ông có mở có nắm?”

Ông Anan thưa: “Bàn tay báu của Phật ở giữa đại chúng khi mở khi nắm. Tôi thấy bàn tay Như Lai tự mở tự nắm, chẳng phải cái Tánh Thấy của tôi có mở có nắm”.

Phật bảo: “Cái gì Động, cái gì Tĩnh?”

Ông Anan thưa: “Bàn tay Phật không ở yên, chứ Tánh Thấy của tôi còn không có tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên được?”

Phật dạy: “Đúng thế”.

Thông rằng:

Ông Kiều Trần Na nhờ ngộ hai chữ Khách Trần, chỉ rõ biết được cái bờ mé của phiền não. Đức Thế Tôn ắt chỉ ngay (Trực Chỉ) cái Bồ Đề mà nói. Trước hết là ở nơi ngoại cảnh mà biện rõ cái Chân Tánh. Cảnh có nắm mở mà cái Thấy thì không động hay tĩnh, đây là chỗ người ta dễ biết. Đức Thế Tôn nhân cái chỗ dễ biết đó mà dẫn dắt. Quả nhiên, Ông Anan tin là cái tay có nắm có mở, còn cái Thấy không có nắm mở, mà nói “Tánh Thấy của tôi còn không có cả cái tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên?” Tìm tướng động tĩnh tuyệt chẳng thể được. Cũng gần thấy được vị chủ nhân thường trụ rồi. Nếu không phải là sự thức tỉnh vi diệu của Thế Tôn làm sao được như vậy.

Xưa, có Ngài Tây Đường [Bực trưởng thượng tôn túc lui ẩn nơi chùa khác, đến tạm trú chùa mình, gọi là Tây Đường] hỏi Tổ Bá Trượng: “Về sau, ông làm sao khai thị cho người?”

Tổ Trượng dùng tay mở nắm lại hai lượt.

Ngài Tây Đường hỏi: “Lại làm cái gì?”

Tổ Trượng lấy ngón tay điểm ba cái.

Thử nói cái hiển dụng như thế của Tổ Bá Trượng là hợp với cơ phong của Lăng Nghiêm hay không, hay là có đạo lý gì khác?

Lại như Hòa Thượng Câu Chi, thuở mới trụ am, có vị ni tên là Thực Tế đến am, đi thẳng vào chẳng hề cất nón, cầm tích trượng đi quanh thiền sàng ba vòng, rồi bảo: “Nói được thì bỏ nón”.

Hỏi vậy ba lần, thầy Câu Chi không có chỗ đáp được. Vị ni bèn đi.

Thầy Câu Chi nói: “Trời sắp tối rồi, hãy nghĩ lại một đêm”.

Ni sư nói rằng: “Nói được thì ở lại”.

Thầy Câu Chi lại không có chỗ đáp lại. Ni sư bèn đi.

Sư Câu Chi than rằng: “Ta tuy có cái hình tướng trượng phu mà không có khí phách của trượng phu!” Bèn nổi lòng hăng tức muốn rõ biết việc này, định bỏ am đi các nơi tham hỏi.

Đêm ấy, vị thần Núi bảo rằng: “Chẳng nên lìa đây, ngày mai sẽ có vị Bồ Tát xác phàm đến đây vì Hòa Thượng nói pháp”.

Hôm sau, Tổ Thiên Long đến am, Ngài Câu Chi nghinh lễ rồi kể lại đầy đủ câu chuyện. Tổ Thiên Long chỉ dựng đứng một ngón tay mà khai thị cho. Ngài Câu Chi hoát nhiên đại ngộ.

Từ đó về sau, hễ có ai hỏi, Ngài chỉ dựng đứng một ngón tay. Khi sắp thị tịch, Ngài nói với chúng rằng: “Ta được nơi Ngài Thiên Long một ngón tay Thiền, suốt đời dùng chẳng hết. Có hội chăng?” Rồi dựng lên một ngón tay mà tịch.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Lão Câu Chi một ngón tay Thiền

Hai mươi năm dùng mãi không cùng

Tin có đạo nhân, nhiều phương thuật

Rõ không tục vật, trước mắt nhìn

Chỗ được quá giản dị

Ban bày khắp rộng thay!

Đại thiên sát hải uống đầu lông

Vô hạn rồng, lân vào tay kẻ?

Nhậm Công trân trọng nắm cần câu”.[Nhậm Công : sách Trang Tử nói “Ông Nhậm Công làm cần câu lớn, sợi rất to. Năm chục con trâu làm mồi...”.]

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Rất khen, thương lắm lão Câu Chi

Vũ trụ xưa nay chẳng có gì

Từng hướng đại dương buông gỗ nổi

Sóng đêm khúc gỗ tiếp rùa đui”.

Kinh Pháp Hoa : “Như con rùa một mắt gặp lỗ bộng của khúc gỗ trôi nổi, không bị nạn chết chìm”. Đức Thế Tôn từ lúc mở nắm ngón tay cho đến đây, không chỗ nào là không chỉ bày Tri Kiến [Chỗ Thấy Biết] của Phật, khiến người được chỗ yên ổn. Sao lại chẳng bắt chước cái kế của con rùa đui?

Thiện Tâm
07-26-2015, 09:21 AM
Kinh :

Lúc ấy, Như Lai từ trong bàn tay phát ra một đạo hào quang báu qua bên phải Ông Anan, Ông Anan liền quay đầu trông qua bên phải. Phật lại phóng ra một đạo hào quang qua bên trái Ông Anan, Ông Anan lại quay đầu trông qua bên trái.

Phật bảo Ông Anan: “Hôm nay đầu ông vì sao dao động?”

Ông Anan thưa: “Tôi thấy Như Lai phát hào quang báu qua bên phải rồi qua bên trái, nên tôi trông qua bên phải và bên trái, đầu tự dao động”.

- Ông Anan, ông xem hào quang của Phật mà dao động cái đầu qua phải qua trái. Đó là đầu ông động hay là cái Thấy động?

- Thưa Thế Tôn, đầu tôi tự động chứ Tánh Thấy của tôi thì dừng đứng còn chẳng có, lấy gì mà dao động?

Phật dạy: “Đúng vậy”.

Thông rằng :

Đoạn này là ở trong thân mà biện rõ cái Chân Tánh: đầu tự dao động, còn cái Thấy (Tâm Tánh) không chỗ động. So với đoạn trước, tay tự nắm mở, còn cái Thấy không có chỗ động thì lại càng vi mật. Ở nơi thân của một người, có thấy động tức là đầu động, làm sao nói được là đầu tự động lay mà cái Thấy thì không động? Cái tùy theo đầu mà có phải có trái ấy là Tình Kiến. Cái chẳng theo đầu mà có động có tĩnh là Chân Kiến (cái Thật Tánh). Tình Kiến thuộc Thức, nên có khởi có diệt. Chân Kiến thuộc Tánh, vốn không làm, không dừng lại. Làm sao nghiệm chuyện này? Đầu có động, có tĩnh thì có thể thấy được, cái Thấy không có động tĩnh để có thể chỉ ra. Bởi thế, nên biết cái không có động tĩnh để chỉ ra được, đó là Chân Kiến. Trước đây, Ông Anan chấp Thức làm Tâm, chỉ biết Tình Kiến mà cho là cái Thấy. Nay nhờ phương tiện chỉ dạy của Như Lai, cái Trí Sáng tạm hiện ra, mới tin hiểu đầu tự dao động còn cái Thấy thì không chỗ động. Cái Tánh Thấy vốn chẳng động này, thì động cũng như thế, tĩnh cũng như thế; khi thấy chẳng phải có, khi không thấy chẳng phải là không, trong ấy còn không có cái ngừng yên, có gì mà dao động. Đó là cái Thể Không Tịch Ly Trần vậy. Ông Anan đối theo đây mà biết Tánh đó vậy. Đã nói là biết Tánh, sao còn lắm thứ đa nghi? Ấy vì Ông Anan nhờ Phật đưa bàn tay ra, rồi phóng ánh sáng, lại nắm mở bàn tay, so sánh với đầu dao động. Cái Thấy bàn tay nắm mở không động, cái Thấy của đầu day qua phải qua trái cũng không động. Đây là cái biết do suy nghĩ đo lường chứ không phải là sự nhiệm mầu của tự mình tỏ ngộ. “Theo cửa mà vào, chẳng phải của báu trong nhà”, ở đây lại càng rõ ràng tin hiểu.

Thiền sư Vô Nghiệp ban đầu ra mắt Đức Mã Tổ, bạch hỏi rằng: “Văn học của Tam Thừa đã nghiên cứu sơ lược ý chỉ. Từng nghe Thiền Tông nói “Tức Tâm là Phật”, thật chưa hiểu được”.

Đức Mã Tổ nói: “Chỉ cái tâm chưa hiểu đó là phải (tức thị), ngoài ra không có vật nào khác”.

Sư Nghiệp hỏi: “Thế nào là mật truyền tâm ấn của Tổ Sư từ Tây sang ?”

Đức Mã Tổ nói: “Đại Đức đang ồn ào không ở yên ở trong ấy, hãy đi, khi khác đến”.

Sư Nghiệp vừa đi ra, Đức Tổ gọi: “Đại Đức!”

Sư Nghiệp quay đầu lại.

Ngài Mã Tổ nói: “Đó là cái gì?”

Sư Nghiệp liền lãnh ngộ, bèn lễ bái.

Ngài nói rằng: “Cái gã ngu này, lễ bái làm chi vậy?”

Lại có thiền sư Ngũ Duệ Linh Mặc từ xa đến ra mắt Ngài Thạch Đầu, rồi hỏi: “Một lời hợp nhau thì ở, chẳng hợp thì đi”.

Tổ Đầu cứ ngồi. Sư Duệ bèn đi.

Tổ Đầu theo sau, gọi: “Xà Lê!”

Sư Duệ quay đầu lại.

Tổ Đầu nói: “Từ sanh đến tử, chỉ là cái Ấy, quay đầu chuyển não làm gì!”

Sư Duệ ngay dưới câu nói đại ngộ, bèn bẻ ném cây trụ trượng mà ở lại.

Hãy nói hai Ngài Vô Nghiệp và Ngũ Duệ quay đầu, chuyển não thì liền ngộ, so với Ông Anan là nhiều, ít?

Thiện Tâm
07-26-2015, 09:24 AM
Kinh:

Lúc bấy giờ Như Lai bảo với cả đại chúng: “Như các chúng sanh lấy cái dao động mà gọi là Trần, lấy cái không ở yên mà gọi là Khách, thì các ông hãy xem Ông Anan : đầu tự dao động mà cái Thấy không có chỗ động; lại hãy xem bàn tay Ta tự mở tự nắm mà cái Thấy không duỗi không co. Cớ sao các ông hiện nay lại lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, từ đầu đến cuối niệm niệm sanh diệt, bỏ mất Chân Tánh, làm việc điên đảo, mất chỗ Chân Thật, nhận Vật làm Mình, luân hồi trong ấy, tự mình chọn lấy sự trôi nổi đổi thay?”

Thông rằng:

Bàn tay của Phật chẳng dừng trụ, mà Tánh Thấy thường trụ, đó là Chủ Nhân Ông chân thật. Đầu tự dao động, Tánh Thấy không động, thật là cái Thể Chơn Không. Nay chẳng nhận Chủ mà nhận Khách, chẳng nhận cái Không mà nhận cái Trần, há chẳng phải là làm chuyện điên đảo hay sao? Cũng vì niệm niệm sanh diệt, phiền não nối nhau, đến nỗi bỏ mất Chân Tánh, chẳng nên đạo Bồ Đề, là do Khách Trần mê hoặc mới đến nỗi như thế.

Kinh Viên Giác nói “Lầm nhận bốn Đại làm thân tướng của mình, bóng dáng sáu Trần duyên ảnh làm tâm tướng của mình”. Chính là chỗ ở đây nói “Lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, nhận vật làm mình”. Đã nhận cái vọng động chạy theo cảnh đó làm Tự Tâm, thì cái Chân Tâm Bất Động bèn mê trong cái trôi lăn, nên gọi là “Bỏ mất” chứ chẳng phải nói Bỏ mất là không hiện còn vậy. Giống như nước đã thành băng, tánh nước biến mất.

Đoạn trước, nói “Hay sanh cái duyên, nhưng duyên theo cái Sở nên bỏ mất. Bỏ mất cái Vốn Tự Sáng này, tuy suốt ngày dùng mà chẳng tự giác, uổng oan sa vào các nẻo”. Như thế thì làm sao mà ra khỏi sanh tử? Cho nên nói “Luân hồi xoay chuyển trong đó, tự chọn giữ lấy cái trôi nổi xoay vần”. Trước, nói “Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sanh tử nối nhau, đều do không biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể Sáng Sạch. Dùng các vọng tưởng, những tưởng này chẳng chân thật nên có luân chuyển”. Chính là nói chỗ này.

Xưa, Tổ Động Sơn hỏi một vị tăng : “Ông tên gì?”

Đáp: “Tôi đây”.

Tổ Sơn hỏi: “Vậy cái gì là Chủ Nhơn Ông của thầy Xà Lê?”

Đáp: “Cái Thấy đối diện”.

Tổ Sơn rằng: “Khổ thay, khổ thay! Người đời nay hết thảy đều như thế này. Chỉ nhận ra lừa trước, ngựa sau [Chỉ bọn nô lệ, tôi tớ hầu chủ chạy theo trước đầu lừa, đuôi ngựa. Thành ngữ này chê bai người đời dùng thức tình phân biệt, lấy thức tình làm thức ăn, đeo theo sự phân biệt vật chất, làm nô lệ cho nó] đấy thôi mà lấy làm cái Chính Mình. Phật Pháp chìm đắm là do đó vậy. Chủ trong Khách [Tân Trung Chủ, một trong ngũ vị quân thần của Tông Tào Động] còn chưa phân biệt được, làm sao phân biệt nổi Ông Chủ trong Chủ (Chủ trung Chủ)”.

Vị tăng liền hỏi: “Như sao là Chủ trong Chủ?”

Tổ Sơn nói: “Thầy Xà Lê tự nói lấy”.

Vị tăng đáp: “Tôi mà nói được thì đó là Chủ trong Khách, còn như thế nào là Chủ trong Chủ?”

Tổ Sơn nói rằng: “Nói ra thì dễ biết bao, mà tương tục nối nhau thì quá khó!”

Bèn khai thị bằng bài tụng:

“Ôi thấy đời nay học đạo đông

Ngàn ngàn vạn vạn nhận cửa ngoài

Cũng tợ vào kinh chầu Vua Thánh Chúa

Chỉ đến cửa triều đã vội ngừng”.

Do đây mà xét, thật Thức Tình Phân Biệt mà so với cái Kiến Tinh Bất Động hãy còn cách xa mấy dặm đường, mà cái Kiến Tinh Bất Động so với Chân Tánh Tịch Thường vẫn còn phải tự mình biện biệt. Như đoạn kinh sau nói “Thấy do lìa Thấy, cái Thấy không bì kịp”, thì cơ hồ đã vượt cửa triều mà thấy Vua rồi đó.

Thiện Tâm
07-27-2015, 09:25 PM
VII. CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG SANH DIỆT


Kinh :

Lúc bấy giờ Ông Anan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thủy đến nay bỏ mất Bản Tâm, vọng nhận bóng dáng do phân biệt tiền trần. Ngày nay khai ngộ, như hài nhi mất sữa bỗng gặp mẹ hiền, chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như Lai bày tỏ cái chân, vọng, cái hư thật ở nơi thân tâm, và ở ngay hiện tiền phát minh ra hai cái Sanh Diệt và Chẳng Có Sanh Diệt.

Thông rằng:

Trước, nói rằng: “Cái Thấy không có chỗ động, cái Thấy không có mở ra cuốn vào để chỉ bày rõ ràng cái Tánh không có sanh ra, không có diệt mất. Nhưng cái Tánh Bất Sanh Bất Diệt này hiện tìm thấy ở trong cái Thân Sanh Diệt. Cái Chơn Phát Minh Tánh là cái căn bản không sanh không diệt. Còn cái Vọng Phát Minh Tánh là cái căn bản sanh diệt. Ở trong ấy, hư thật khó biện rõ, nên cầu mong Như Lai bày rõ cho.

Xưa, Ông Tiết Giản hỏi Đức Lục Tổ: “Chư vị thiền đức ở chốn kinh đô đều nói rằng “Muốn được hiểu đạo, phải ngồi thiền, tập định. Nếu không nhờ thiền định mà được giải thoát là điều không hề có”. Chưa rõ chỗ dạy của Sư ra sao?”

Tổ đáp: “Đạo do tâm ngộ, đâu phải ở ngồi. Kinh nói: Nếu nói Như Lai có ngồi, có nằm, thì đó là hành tà đạo. Vì sao thế? Không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không có sanh, không có diệt, là pháp thiền trong sạch của Như Lai. Chư pháp Không Tịch [Rỗng lặng] đó là sự ngồi trong sạch của Như Lai. Rốt ráo không chỗ chứng, huống là ngồi ư?”

Tiết Giản thưa: “Sáng ví dụ Trí Huệ, tối ví dụ phiền não. Nếu chẳng dùng Trí Huệ soi phá phiền não, nhờ đâu mà vượt khỏi sanh tử từ vô thủy?”

Tổ nói: “Phiền não tức Bồ Đề, không hai, không khác. Nếu dùng Trí Huệ soi phá phiền não, đó là kiến giải của Nhị Thừa, là căn cơ của xe dê, xe nai. Bậc Thượng Căn Đại Trí ắt chẳng như thế”.

Ông Tiết thưa: “Như thế nào là kiến giải Đại Thừa?”

Tổ nói rằng: “Cái Minh và cái Vô Minh, phàm phu thấy là hai. Với người Trí liễu đạt thì cái Tánh của chúng là không hai. Tánh Không Hai đó là Thật Tánh. Thật Tánh ấy, ở phàm ngu chẳng diệt, tại Hiền Thánh cũng chẳng tăng, trong phiền não cũng không loạn, nơi thiền định cũng không hề lặng dứt. Chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi. Chẳng ở giữa, chẳng trụ trong, ngoài. Không sanh không diệt, Tánh Tướng như như. Thường trụ chẳng dời, gọi ấy là đạo”.

Tiết Giản thưa: “Thầy nói không sanh không diệt, khác gì ngoại đạo đâu?”

Tổ nói rằng: “Chỗ ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt ấy, là lấy Diệt dứt Sanh, lấy Sanh tỏ bày Diệt. Thế là diệt mà xem như chẳng Diệt, sanh mà nói Chẳng Sanh. Ta nói chẳng sanh chẳng diệt ấy, là Vốn Tự Không Sanh, nay cũng chẳng diệt, nên chẳng đồng ngoại đạo. Nếu ông muốn biết cái tâm yếu, chỉ với tất cả thiện ác đều chẳng dính dấp tới thì tự nhiên thấu vào được cái Tâm Thể trong sạch, trong trẻo như nhiên, hằng hằng vắng lặng, diệu dụng không cùng”.

Ông Tiết Giản nhờ lời chỉ dạy, hoát nhiên khai ngộ.

Đây là chỗ hiện tiền thấy có Sanh Diệt, bày rõ cái Chân Tánh chẳng có Sanh Diệt. Nếu chẳng phải là bực Phật với nhau thì không thể hiển bày rõ ràng như vậy.

Thiện Tâm
07-27-2015, 09:28 PM
Kinh:

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật: “Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy bảo, tôi thấy các Ông Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói “Thân này chết rồi thì mất hẳn gọi là Niết Bàn. Nay tuy được gặp Phật, nhưng tôi vẫn còn hồ nghi. Xin Phật chỉ rõ làm thế nào chứng biết chỗ chẳng Sanh Diệt của Tâm này. Hiện giờ các hàng Hữu Lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy”.

Phật nói: “Đại Vương, thân ông hiện đây, nay ta hỏi ông: cái thân xác thịt của ông có giống được như kim cương, còn hoài chẳng hoại, hay lại biến đổi và tan rã?”

- Thế Tôn, cái thân hiện đây của tôi, rốt cuộc cũng thay đổi và tiêu diệt.

Phật bảo: “Đại Vương, ông chưa từng diệt, làm sao biết là phải bị diệt?”

Thông rằng :

Đức Thế Tôn nhủ lời, bước bước đều quay về Chân. Như hỏi “Ông chưa từng diệt, làm sao biết diệt?” Nếu là bậc Thượng Căn Lợi Trí thì liền ngộ “Cái người biết sự diệt, vốn chưa từng sanh diệt”, liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Cư : “Mới sanh ra vì sao chẳng biết có?”

Đáp : “Chẳng cùng sanh”.

Hỏi : “Khi chưa sanh thì như thế nào?”

Đáp : “Chưa từng diệt”.

Hỏi : “Khi chưa sanh thì ở đâu?”

Đáp : “Có chỗ chẳng thu nạp”.

Hỏi : “Vì sao người chẳng thọ diệt?”

Đáp : “Diệt ấy chẳng thể được”.

Xem chỗ đối đáp của Tổ Vân Cư như thế, há phải mơ hồ! Cần rõ chuyện bên đó mới có thể xem lời nói này!

Thiện Tâm
07-27-2015, 09:31 PM
Kinh:

“Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường biến hoại của tôi đây tuy chưa diệt, song hiện giờ, tôi xét nó niệm niệm dời đổi, mãi mãi chẳng ngừng, như lửa thành tro dần dần tiêu mất. Tiêu mất chẳng ngừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất”.

Phật dạy: “Đúng thế! Đại Vương, tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé như thế nào?”

- Bạch Thế Tôn, hồi còn bé nhỏ, tôi da thịt mịn màng, đến lúc trưởng thành, khí huyết đầy đủ, nay thì tuổi già, ngày thêm suy lão, hình sắc gầy ốm, tinh thần mõi mệt, tóc bạc da nhăn, sống chẳng còn lâu, so sánh thế nào được với thời trẻ mạnh?”

Phật bảo: “Đại Vương, hình dung của ông đâu có hư hao ngay”.

Vua bạch: “Thưa Thế Tôn, sự biến hóa âm thầm dời đổi nên tôi chẳng hay biết. Mưa nắng đổi dời lần đến như vầy. Vì sao? Tôi khi năm hai mươi tuy gọi là trẻ nhưng mặt mày đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi, lại suy sút hơn hồi hai mươi và đến nay sáu mươi hai, trông lại lúc năm mươi thì khi ấy còn khoẻ hơn nhiều. Bạch Thế Tôn, tôi thấy sự âm thầm thay đổi như thế, thân này tuy nay đã suy yếu, nhưng trong sự thay đổi còn chia từng mười năm một. Nếu tôi suy xét chín chắn hơn nữa thì cái sự biến đổi ấy đâu phải từng mười năm mà thật là mỗi năm mỗi thay đổi. Lại đâu phải mỗi năm mỗi thay đổi mà là mỗi tháng mỗi thay đổi, không những mỗi tháng thay đổi mà là mỗi ngày thay đổi. Suy cùng xét kỹ, thì sát na sát na, khoảng giữa mỗi niệm, không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân này rốt cuộc phải biến đổi và tiêu diệt”.

Phật bảo: “Đại Vương, ông thấy biến hóa dời đổi không ngừng, rõ là phải diệt. Vậy ông niệm niệm tiêu diệt như thế, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”

Thông rằng: Sắc Thân huyễn hóa rốt cuộc phải biến diệt. Cái Pháp Thân thanh tịnh vốn chẳng có sanh diệt. Chẳng phải ngoài cái sắc thân riêng có Pháp Thân. Pháp Thân như biển lớn, Sắc Thân như bọt nước. Bọt nước có sanh có diệt, nước biển nhất như. Bậc Đại Ngộ thì “Huyễn hoá, không thân tức Pháp Thân”. Vậy nên biết, trong thân có cái chẳng hề hoại diệt vậy.

Tổ Thạch Đầu có bài kệ rằng:

“Hỏi am này: hư, chẳng hư?

Hư, chẳng hư vẫn nguyên ông chủ

Chẳng ở Nam Bắc với Đông Tây

Nền tảng vững bền, quan trọng nhất”.

(Vấn thử am, hoại bất hoại

Hoại dữ bất hoại, chủ nguyên lai

Bất cư Nam Bắc dữ Đông Tây

Cơ chỉ kiên lao dĩ vi tối).

Lại tụng:

“Trụ am này, thôi kiến giải

Ai khoe bày chiếu, muốn người mua

Hồi quang phản chiếu bèn về vậy

Rỗng suốt Linh Căn, không sau trước”.

(Trụ thử am hưu tác giải

Thùy khoa phô tịch đồ nhơn mãi

Hồi quang phản chiếu tiện quy lai

Khuyếch đại Linh Căn phu hướng bối).

Than ôi! Người người sẵn đủ Tánh chẳng sanh diệt này, sao lại theo dòng đuổi bắt sóng để chẳng thể hồi quang phản chiếu!

Thiện Tâm
07-27-2015, 09:34 PM
Kinh:

Vua Ba Tư Nặc chấp tay bạch Phật: “Tôi thật không biết”.

Phật dạy: “Nay Ta chỉ cho ông cái Tánh không sanh diệt. Đại Vương! Ông năm mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng?”

Vua bạch: “Khi tôi lên ba, mẹ tôi dẫn đi làm lễ Thần Kỳ Bà Thiên [Thần Trường Thọ], có đi qua sông ấy. Lúc ấy, tôi liền biết đó là nước sông Hằng”.

Phật bảo: “Đại Vương, như lời ông nói “Lúc hai mươi tuổi thì suy hơn lúc mười tuổi”, cho đến nay đã sáu mươi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi thay. Vậy, khi ông ba tuổi, thấy nước sông này, rồi đến khi mười ba tuổi thì nước ấy thế nào?”

Vua bạch: “Thưa, cũng như khi lên ba, in hệt như nhau không khác gì, và đến nay tuổi đã sáu mươi hai, cũng vẫn không khác”.

Phật bảo: “Nay ông tự buồn là mình tóc bạc, da nhăn. Mặt ông hẳn phải nhăn hơn hồi trẻ. Vậy cái Thấy sông Hằng hiện giờ của ông so với cái Thấy sông Hằng lúc nhỏ có già trẻ gì không?”

Vua bạch: “Thưa Thế Tôn, không”.

Phật bảo: “Này Đại Vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng Tánh của cái Thấy (Kiến Tinh Tánh) ấy chưa hề bị nhăn. Cái nhăn thì thay đổi còn cái không bị nhăn thì chẳng thay đổi. Cái thay đổi thì phải diệt, còn cái không thay đổi kia thì vốn không sanh không diệt, làm sao trong ấy lại có sanh tử cho ông thọ nhận mà ông lại còn dẫn lời của nhóm Mạt Già Lê kia, nói rằng “Thân này chết rồi thì diệt hẳn!”

Vua nghe xong lời dạy này, tin biết rằng thân này về sau, bỏ đời này qua đời khác, cùng với đại chúng nhảy nhót vui mừng, được sự chưa từng có.

Thông rằng:

Ngoại đạo có sáu ông thầy:

Một là, Phú Lan Na Ca Diếp: cho rằng các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt.

Hai là, Mạt Già Lê Câu Xa Lê Tử: cho rằng chúng sanh tuy có khổ vui, nhưng không có nhân duyên, tự nhiên mà vậy thôi.

Ba là, Sán Đà Xa Tỳ La Chi Tử: cho rằng chúng sanh theo vận, thời gian chín muồi thì đắc đạo, đầy đủ tám vạn kiếp thì tự nhiên đắc đạo.

Bốn là, A Kỳ Da Sí Xá Khâm Ba La: cho rằng chúng sanh hiện chịu khổ báo, sau thì hưởng thọ vui sướng của Niết Bàn.

Năm là, Ca Lâu Cưu Đà Ca Chiên Diên: cho rằng các pháp cũng có, cũng không.

Sáu là, Tỳ Kiện Đà Nhã Đề Tử: cho rằng tất cả đều do Nghiệp định, không thể trốn lánh.

Tất cả đều là Đoạn Kiến vậy [Nhị kiến có hai thứ: Đoạn Kiến và Thường Kiến.- Đoạn Kiến : cái thấy sai lầm (vọng kiến), chấp chặt thân tâm con người dứt diệt (chết) Rồi chẳng còn nối sanh nữa, tức Vô Kiến]. Tuy cũng nói là chẳng sanh chẳng diệt, nhưng đó là đối với sanh diệt mà nói. Nhơn bởi sừng trâu Có (Hữu), mà nói sừng thỏ Không có (Vô). Đã có đối đãi, rốt cuộc thuộc về sanh diệt.

Nếu cái thấy sông y nhiên không khác thì có thể trộm thấy cái Chân Tánh bất biến. Ngay trong chỗ thấy trước mắt có sanh diệt mà hiển bày cái Tánh chẳng sanh diệt, thế mới biết trong thân có cái chẳng có Diệt đang hiện hữu. Tuy nói bỏ đời sống này qua đời sống khác, kỳ thực là diệt mà chẳng diệt. Há cái Đoạn Kiến của ngoại đạo có thể có nói được sao?

Có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Thầy của con có nói “Khi thế giới hoại, Tánh này chẳng hoại”. Thế nào là cái Tánh này?”

Tổ Châu nói: “Tứ Đại, Ngũ Ấm”.

Vị tăng hỏi: “Cái ấy còn là hư hoại, thế nào là cái Tánh này?”

Tổ Châu nói: “Tứ Đại, Ngũ Ấm”.

Ngài Pháp Nhãn nói: “Ấy là một cái? Ấy là hai cái? Ấy là hoại? Ấy là chẳng hoại? Hãy hiểu làm sao? Thử quyết đoán xem!”

Có vị tăng hỏi Tổ Đại Tùy: “Kiếp Hỏa thiêu hết, Đại Thiên đều hoại. Chưa rõ cái Ấy hoại hay chẳng hoại?”

Tổ Tùy đáp: “Hoại”.

Vị tăng rằng: “Như thế thì theo nó đi ư?”

Tổ Tùy rằng: “Theo nó đi”.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Long Tế: “Kiếp Hỏa thiêu hết, Đại Thiên đều hoại. Chưa rõ cái Ấy hoại hay chẳng hoại?”

Tổ Tế đáp: “Chẳng hoại”.

Vị tăng rằng: “Vì sao chẳng hoại?”

Tổ Tế đáp: “Vì đồng Đại Thiên”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Hoại, chẳng hoại, theo nó mà đi

Cảnh giới Đại Thiên, ở trong câu rõ

Không ai khóa buộc, đầu chân lại bị dây leo quấn

Hiểu, chẳng hiểu?

Chuyện thật rõ ràng, căn dặn kỹ

Biết Tâm, đem ra đừng thương lượng

Đưa ta phải đi cùng mua bán”.

Đại Tùy nói hoại, Long Tế nói chẳng hoại. Ấy là một? Ấy là hai? Tổ Tế bảo “Vì đồng Đại Thiên”. Tổ Tùy bảo “Theo nó đi!” Y nhiên là cái tông chỉ “Tứ Đại, Ngũ Ấm” của Ngài Triệu Châu. Khi thế giới hoại, Tánh này chẳng hoại. Chính phải ở trong Tứ Đại, Ngũ Ấm mà tìm cái chốn an ổn mới được!

Thiện Tâm
07-29-2015, 09:26 AM
VIII. CHỈ CHỖ ĐIÊN ĐẢO


Kinh:

Ông Anan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật, chắp tay, quỳ dài, bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, nếu cái Thấy-Nghe này thật không Sanh Diệt thì tại sao Đức Thế Tôn lại bảo rằng chúng tôi đều bỏ mất Chân Tánh, làm việc điên đảo, lộn ngược. Xin Phật mở lòng từ bi rửa sạch trần cấu [Bụi dơ] cho chúng tôi”.

Khi ấy, Đức Như Lai liền duỗi cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo Ông Anan: “Như nay ông thấy tay Mẫu Đà La [Mudra, còn gọi là Kiết Tường Thủ. Tức là kiết cái ấn quyết định (Quyết Định Ấn)]của Ta là chánh hay đảo (ngược)?”

Ông Anan bạch: “Chúng sanh thế gian cho đó là đảo ngược, còn tôi thì chẳng biết cái nào là chánh, cái nào là đảo”.

Phật bảo Ông Anan: “Nếu người thế gian cho vậy là đảo, thì người thế gian cho thế nào là chánh?”

Ông Anan bạch Phật: “Đức Như Lai đưa cánh tay lên, tay Đâu La Miên chỉ lên không thì gọi là chánh”.

Phật liền đưa cánh tay lên và bảo Ông Anan: “Cái điên đảo (lộn ngược) như thế chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau thôi. Các người thế gian đều điên đảo gấp bội mà xem mà thấy. Nay lấy cái thân ông và Pháp Thân thanh tịnh Như Lai so sánh mà phát minh thì Thân của Như Lai gọi là Chánh Biến Tri, còn thân của các ông gọi là tánh điên đảo. Tùy ông xét kỹ: Thân ông, Thân Phật, cái gọi là điên đảo lộn ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là điên đảo?”

Thông rằng:

Cái Pháp Thân thanh tịnh là cái Diệu Tâm mầu sáng, thuần chân vậy. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết (Kiến Văn Giác Tri) là vật bày hiện ra [Cái Dụng] ở trong Diệu Tâm vậy. Về gốc là Chánh, đuổi theo ngọn là Đảo (ngược). Thí như bọt nước sanh ra nơi biển, nhận biển là Chánh, nhận bọt là Đảo.

Phật hỏi Ông Anan: “Nay ông thấy Ta thả tay xuống là chánh hay đảo?”, thì chỉ nên ở nơi chỗ tự thấy mà tỉnh ngộ mạnh mẽ: cái nào chánh, cái nào đảo, chớ chẳng nên ở nơi tay Như Lai mà phân chánh, phân đảo.

Như ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh trong hang núi, thấy Pháp Thân Như Lai chẳng duyên với Căn, Thức đó gọi là Chánh Biến Tri. Còn nếu lấy con mắt của Ông Anan để đối với tay của Như Lai, lại còn ở tay mà phân Chánh, phân Đảo đây bèn là chỗ động dụng của sáu Thức, bỏ gốc theo ngọn, đã lìa chánh vị nên gọi là tánh điên đảo, lộn ngược.

Mới đầu, Ông Anan lấy tay buông xuống làm đảo, lời nói còn mơ hồ. Đến khi hỏi “Lấy gì làm Chánh?”, thì lấy tay đưa lên làm chánh, mới biết chỗ Ông Anan cho là chánh và đảo đó chỉ là sự biện biệt căn cứ vào tay, chẳng phải ở nơi cái Thấy mà biện biệt. Sự ngắm nhìn đó đã là điên đảo vậy. Tay buông xuống, đầu đuôi thuận nhau, vốn là chánh, mà người đời cho đó là đảo! Tay đưa lên, đầu đuôi đổi chỗ, vốn là đảo mà người đời cho đó là chánh! Thế là ở trong sự ngắm nhìn điên đảo, lại còn chồng thêm điên đảo! Cho nên, so sánh phát minh thì bỏ mất cái Pháp Thân trong sạch mà nhận Thấy, Nghe, Hay, Biết đã là điên đảo. Lại chấp cái Thấy, Nghe, Hay, Biết ở trong sắc thân cho là chẳng sanh diệt mà bảo rằng đó là chánh chứ chẳng phải đảo, thì chẳng phải là trong điên đảo lại chồng thêm điên đảo sao?

Có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn: “Bình thường Ngài dạy học nhơn hành điểu đạo [Đường chim, chỉ địa vị đến chỗ khó trên đường tu thiền : Hiểm khổ như đường chim. Lại còn chỉ địa vị đến đường rộng lớn mênh mông, không bờ cõi (như trên trời rộng lớn), như dấu vết con chim trong thinh không], chưa rõ thế nào là điểu đạo?”

Tổ Sơn nói : “Không gặp một người”.

Hỏi: “Hành (đi) như thế nào?”

Tổ Sơn: “Chính phải dưới chân không tư riêng”.

Hỏi: “Chỉ như chỗ hành điểu đạo, chẳng phải ấy là Bổn Lai Diện Mục [Cái xưa nay trước mắt] đó sao?”

Tổ Sơn rằng: “Thầy Xà Lê nhân sao điên đảo quá lắm?”

Hỏi: “Chỗ nào là điên đảo của kẻ học nhân?”

Tổ Sơn rằng: “Nếu không điên đảo, vì sao lại nhận tôi tớ làm chồng?”

Hỏi: “Như thế nào là Bổn Lai Diện Mục?”

Tổ Sơn nói : “Chẳng hành điểu đạo”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Lối cổ tiêu nhiên dựa Thái Hư

Nẻo nhiệm còn như trải gập gềnh

Chẳng lên điểu đạo tuy là diệu

Kiểm điểm về sau đã đụng đường”.

(Cổ lộ tiêu nhiên ỷ Thái Hư

Hành huyền du thị thiệp kỳ khu

Bất đăng điểu đạo tuy vi diệu

Kiểm điểm tương lai dĩ xúc đồ).

Ôi! Điểu đạo sâu xa nhỏ nhiệm đến thế, gần với chuyển công thành đạo mà môn hạ phái Động Sơn còn cho là điên đảo, huống là cái Thấy Nghe (Kiến Văn) rõ ràng còn dấu vết thô thiển mà lại cho là chẳng sanh diệt, thì sao đủ để đối sánh với cái Bồ Đề Vô Thượng ư?

Thiện Tâm
07-29-2015, 09:32 AM
Kinh:

Khi ấy, Ông Anan cùng cả đại chúng sửng sốt nhìn Phật, mắt chẳng chớp nháy, chẳng biết thân tâm chỗ nào điên đảo.

Phật phát lòng Từ Bi, thương xót Anan và đại chúng, phát tiếng Hải Triều, bảo khắp trong hội: “Các trai lành, Ta thường dạy rằng: Sắc tâm, các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên đều duy tâm mà hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra ở trong cái Diệu Tâm Mầu Sáng Thuần Chân. Tại sao các ông bỏ mất cái Tâm Tánh vốn nhiệm mầu, tròn sáng, quý báu để nhận lấy mê lầm trong cái Vốn Đã Giác Ngộ?

“Mê muội thành có hư không. Trong hư không mê muội ấy, kết cái tối ám thành sắc, sắc xen lẫn vọng tưởng ra hình tướng làm thân. Nhóm các duyên dao động bên trong, rong ruổi theo bên ngoài, rồi lấy cái tướng mù mịt lăng xăng đó làm Tâm Tánh. Một phen mê lầm cái tướng ấy làm tâm thì đưa tới cái lầm quyết định là tâm ở trong sắc thân, mà chẳng biết rằng cái sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất đai bên ngoài, hết thảy đều là vật hiện trong cái Diệu Minh Chân Tâm này.

Thông rằng:

Thân Ông là Tướng Phần, Tâm Ông là Kiến Phần. Tướng Phần gồm cả Căn, Trần, các pháp sở duyên, núi sông, đất đai, sáng tối, sắc không cả thảy. Kiến Phần gồm tám Thức và năm mươi mốt Tâm Sở, thiện ác nghiệp hành, tà chánh, nhân quả hết thảy. Cả Tướng Phần và Kiến Phần đều ở trong Như Lai Tạng lưu xuất, nên nói “Duy Tâm mà hiện ra”. Cái Tâm này vốn nhiệm mầu, chẳng nhờ tu tập. Làm sao thấy được cái Vốn Diệu đó?

Nói về Thể, thì gọi là Viên Diệu Minh Tâm. Từ cái mầu đẹp (Diệu) khởi ra cái Sáng Soi (Minh), nên gọi là Trọn Vẹn (Viên).

Nói về Dụng, thì gọi là Bửu Minh Diệu Tánh. Tức là ngay nơi Sáng Soi (Minh) mà Mầu Đẹp (Diệu), nên gọi là Quý Báu (Bảo).

Mầu Đẹp mà Sáng Soi, Sáng Soi mà Mầu Đẹp, không dấu vết nhiễm ô, tức là Đại Viên Cảnh Trí. Tất cả Tướng Phần, Kiến Phần đều là bóng hiện ra trong cái gương Đại Viên Cảnh Trí ấy. Nay bỏ quên cái Vốn Diệu ấy (Chân Tâm) mà nhận Thấy, Nghe (Tâm Thức) thì cũng như bỏ cái gương vốn có mà nhận bóng huyễn trong gương. Tuy là có biết đó mà kỳ thật là biết ở trong Mê, cho nên nói Mê trong Ngộ.

Từ chỗ “Nhận mê trong ngộ...” cho đến “Rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng làm Tâm Tánh”, phải đọc một hơi mới được.

Mê cái Tánh Diệu Minh mà thành Vô Minh. Do cái Vô Minh [Không biết Bổn Tánh] này mà thành ra cái Ngoan Không, nên nói “Mê muội thành Hư Không”. Cái Sở Biến là Ngoan Không và cái Năng Biến là Vô Minh, cả hai hòa hiệp, biến ra Tứ Đại để làm cái Ngoại Sắc của Y Báo [Vũ trụ, thế giới, tất cả sự vật ở thế gian thân tâm dựa nương ở. Nhân bởi nghiệp đời trước cảm ứng ra]. Lấy cái Sắc của bốn Đại xen lẫn với vọng tưởng của Tâm biến ra Nội Sắc của Chánh Báo [Căn thân. Theo nguyên nhân của nghiệp đời trước cảm ứng ra (thường gọi là trả báo) ngay nơi thân thể] chúng sanh.

Tưởng là vọng tưởng; tướng là vọng sắc. Tướng Tưởng làm Thân thì Kiến Phần và Tướng Phần đều đầy đủ, tức là Thức Thứ Tám. “Nhóm các duyên dao động bên trong” tức là Thức Thứ Bảy. “Rong ruổi theo cảnh ngoài” tức là Thức Thứ Sáu. Lấy cái Vô Minh này biến ra cái Tướng mờ mịt lăng xăng lẫn với duyên trần, rồi nhận cái đó làm Tự Tâm, há chẳng mê muội sao?

Cái Chân Tâm Diệu Minh tức là Pháp Thân trong sạch dọc suốt ba tế [Quá khứ, hiện tại và vị lai], ngang khắp mười phương chứ đâu phải ràng buộc trong thân sao? Còn cái thấy, nghe này thì rời mắt ắt không thấy, xa tai thì chẳng nghe; lấy nó làm Tâm, đó là cái lầm quyết định cho Tâm ở trong sắc thân. Đâu có biết rằng cái sắc thân này cho đến những thứ bên ngoài như núi sông, đất đai đều là những vật ở trong cái Chân Tâm Diệu Minh này. Như bóng dáng trùng trùng cũng đều là ảnh trong gương. Cho nên, nhận ra gương, là ngộ ở trong ngộ, gọi là Chánh Biến Tri. Còn nhận lấy bóng, tức là mê trong ngộ, gọi là tánh điên đảo.

Tổ Trường Sa nói rằng: “Nếu ta cứ một mực nêu cao Thiền thì trong pháp đường cỏ sẽ lên cao cả thước! Cực chẳng đã mà nói với các ông: Cùng khắp mười phương thế giới là con mắt của Sa môn! Cùng khắp mười phương thế giới là toàn thân của Sa môn! Cùng khắp mười phương thế giới là quang minh của chính mình! Cùng khắp mười phương thế giới không ai chẳng phải là chính mình. Ta thường nói với các ông: Ba đời Chư Phật, Pháp Giới, Chúng Sanh là cái ánh sáng của Ma Ha Bát Nhã. Khi ánh sáng chưa phát ra, hết thảy các ông hướng về chỗ nào mà rõ biết? Ánh sáng chưa phát còn không có bóng dáng Phật và chúng sanh, thì chỗ nào có được núi sông, quốc độ này đây?”

Khi đó, có nhà sư hỏi: “Như thế nào là con mắt của Sa môn?”

Tổ Sa rằng: “Mút mắt, ra chẳng khỏi”.

Lại nói: “Thành Phật, thành Tổ ra chẳng khỏi! Sáu nẻo luân hồi ra chẳng khỏi!”

Nhà sư rằng: “Chưa rõ cái gì ra chẳng khỏi?”

Tổ Sa rằng: “Ngày thấy mặt trời, đêm thấy sao”.

Hỏi: “Học nhân chẳng hiểu”.

Tổ Sa rằng: “Núi Cao Sơn [Tu Di] xanh lại càng xanh”.

Hãy nói là lời này của Tổ Trường Sa là chỉ cái Thức Tinh Nguyên Minh [Thức Tinh Vốn Sáng] hay là cái Bảo Minh Diệu Tánh? Hãy phân biệt rõ ràng xem!

Thiện Tâm
07-29-2015, 09:34 AM
Kinh:

“Ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một cái bọt nước mà cho nó là toàn thể cả nuớc, cùng hết các biển lớn. Các ông là những kẻ mê lầm nhiều lớp, như cánh tay Ta buông xuống không khác gì. Như Lai gọi là đáng thương xót đó.

Thông rằng:

Biết “Cái thấy sông” thật chẳng sanh diệt, hình như thuộc về ngộ, nhưng chấp Cái thấy sông này là ở trong sắc thân thì đó là mê trong ngộ. Cũng như bỏ biển cả mà nhận lấy bọt nước đã là mê, lại còn cho rằng bọt nước là toàn thể biển cả thì chẳng phải là mê trong mê hay sao?

Bỏ mất Chân Tánh mà nhận lấy cái Thấy-Nghe đã là mê, lại cho rằng cái Thấy-Nghe là cái Tánh chẳng sanh diệt, chẳng phải là mê trong mê sao? Chẳng ngộ mà mê, thì chỉ một lớp mê. Còn ngộ mà trong mê thì cái tình chấp lại càng sâu dày lắm, chẳng phải là chồng thêm nhiều lớp mê sao?

“Như cánh tay Ta buông xuống”, cái Thấy của ông có phân biệt, đã là điên đảo. Huống là đầu đuôi đổi nhau, xuôi ngược lầm lẫn thì há chẳng phải là điên đảo gấp bội sao? Đã ở trong điên đảo mà còn hỏi “Sao Đức Thế Tôn lại bảo chúng tôi là điên đảo?”, là điên đảo ở trong cái điên đảo vậy. Đó là cái mê ở trong mê vậy! Nên mới nói “Các ông là những người mê lầm nhiều lớp”.

Ngài Quốc sư Kính Sơn Khâm đang ngồi với Quốc sư Huệ Trung ở nội đình [Cung vua], thấy vua ngựï đến, Ngài đứng dậy.

Vua nói: “Thầy sao lại đứng dậy?”

Ngài nói: “Đàn việt đâu có thể hướng vào bốn oai nghi mà thấy bần đạo”.

Vua vui lòng.

Lại vua Túc Tông hỏi Ngài Huệ Trung Quốc sư : “Ngài ở Tào Khê được Pháp gì?”

Ngài đáp : “Bệ hạ có thấy một mảnh mây trong hư không chăng ?”

Vua đáp : “Thấy”.

Ngài đáp rằng : “Đóng đinh vào đó. Treo dính lên đó”.

Vua lại hỏi : “Thế nào là mười Thân của Phật ?”

Ngài bèn đứng thẳng lên mà rằng: “Am hiểu chăng?”

Vua nói: “Không hiểu”.

Ngài nói rằng: “Đưa qua đây cho lão tăng cái tịnh bình”.

Vua lại hỏi: “Thế nào là Vô Tránh [Không tranh cãi] Tam Muội?”

Ngài nói: “Đàn việt nhảy lên đỉnh Tỳ Lô mà đi”.

Vua hỏi: “Ý ấy thế nào?”

Ngài nói: “Chớ nhận Pháp Thân trong sạch của chính mình (tự kỷ)”.

Vua lại hỏi mà Ngài đều chẳng nhìn đến. Vua nói: “Trẫm là vua nước Đại Đường, Thầy sao lại chẳng nhìn đến?”

Ngài nói: “Vua có thấy hư không chăng?”

Vua đáp: “Thấy”.

Ngài nói: “Hư không ấy có chớp mắt nhìn Bệ hạ không?”

Xem chỗ chỉ bày của hai Ngài, một vị thì lấy “Sự chẳng thể hướng vào bốn oai nghi mà thấy bần đạo”, một vị thì lấy “Cái hư không có chớp mắt nhìn Bệ hạ chăng?”, thật đâu có hề lầm là ở trong sắc thân. Cái Thấy này với Cái thấy sông cách nhau như trời khác đất. Đáng cùng với Ông Tu Bồ Đề thấy Pháp Thân Phật, đồng gọi là Chánh Biến Tri. Tóm lại, lấy Niệm làm Tri thì Tâm chẳng khắp.

Ngài Mã Minh dạy: “Nếu cái tâm có động thì chẳng phải là Cái Biết Chân Thật. Cái tướng động đó là niệm khởi lên làm ngăn ngại vậy. Lìa tất cả các niệm ngăn ngại thì cái Biết bèn cùng khắp”.

Thiện Tâm
08-01-2015, 09:56 AM
IX. LỰA BỎ TÂM PHAN DUYÊN ĐỂ CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG THỂ TRẢ VỀ ĐÂU


Kinh:

Ông Anan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc khoanh tay bạch Phật rằng: “Tuy tôi vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được cái Tâm Nguyên Diệu Minh là cái Tâm Địa tròn đầy thường trụ, nhưng tôi ngộ được pháp âm Phật vừa nói, là tôi hiện lấy tâm phan duyên mà thỏa mãn chỗ ước mong. Được tâm ấy một cách mơ hồ, chưa dám nhận là Tâm Địa xưa nay. Mong Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc rễ nghi ngờ cho tôi để được trở về đạo Vô Thượng”.

Phật bảo Ông Anan: “Các ông còn lấy tâm phan duyên để nghe pháp thì cái pháp đó cũng là cái được duyên, chẳng phải được Pháp Tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người kia, thì người kia phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Chứ nếu người kia nhìn ngón tay mà cho đó là cái Thể của mặt trăng, thì không những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay nữa. Tại sao thế? Vì lấy ngón tay chỉ mặt trăng mà làm mặt trăng vậy. Chẳng những bỏ mất ngón tay mà lại cũng không biết đâu là sáng và tối. Vì sao thế? Vì lấy cái Thể của ngón tay làm Tánh Sáng của mặt trăng, không biết hai tánh sáng, tối. Ông cũng như vậy đó”.

Thông rằng:

Ông Anan ngộ được cái Tâm Nguyên mầu sáng tròn đầy vốn chẳng phải là duyên. Tâm Địa thường trụ vốn là Ông Chủ vậy. Nhưng nay nhìn Phật, nghe Pháp, là còn thuộc vọng tâm phan duyên, chưa biết cái Tâm Địa Bổn Nguyên do đâu mà rõ biết? Nói tức là cái này, thì không dám. Nói lìa cái này mà có thì hiện ở đâu? Đức Phật sắp phá cái sai lầm của tâm phan duyên, nên trước chỉ bày rằng cái Pháp đang nói ra cũng chỉ là cái sở duyên, bởi thế Phật dạy “Cái Pháp đang được ông nghe đó cũng chỉ là sở duyên, chớ chẳng phải được Pháp Tánh”. Pháp bày ra là để thấy Tánh, thấy được Tánh thì Pháp không còn chỗ dùng. Kinh Kim Cang nói: “Ví như cái bè. Pháp còn nên bỏ huống là chẳng phải pháp”. Ở đây lại lấy ví dụ ngón tay chỉ mặt trăng, thấy được mặt trăng thì bỏ quên ngón tay đi vậy. Các bậc Cổ đức dẫn dụ phần nhiều tương hợp với chỗ này.

Có câu :

Trong bóng mây màu người tiên hiện

Tay cầm quạt hồng-la che mặt

Cần gấp đưa mắt xem người tiên

Chớ nhìn cây quạt trong tay tiên.

Lại còn nói :

Một thỏ phi thân ngang lối xưa

Ưng xanh vừa thấy liền bắt sống

Đến sau chó săn không linh tính

Chỉ hướng cây khô chỗ cũ tìm.

Ông Tô Đông Pha có bài văn: “Có một người mù hỏi hình thể mặt trời ra sao? Người kia lấy cái mâm đồng mà chỉ cho, người mù gõ lên nghe có tiếng. Ngày khác, nghe tiếng chuông cho đó là mặt trời!”

Có vị tăng hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Ngón tay thì chẳng hỏi, thế nào là mặt trăng?”

Tổ Nhãn nói: “Ngón tay mà ông chẳng hỏi đó, là cái gì thế?”

Lại có vị tăng hỏi: “Mặt trăng thì chẳng hỏi, thế nào là ngón tay?”

Tổ Nhãn đáp: “Mặt trăng”.

Vị tăng nói: “Kẻ học nhân hỏi ngón tay, Hòa Thượng vì sao lại trả lời mặt trăng?”

Tổ Nhãn nói: “Vì ông hỏi ngón tay”.

Nếu rõ được gia phong [Thói nhà] của Pháp Nhãn tức thì ngón tay, mặt trăng bày rõ. Chẳng thế, thì ngay mặt lại lầm qua.

Thiện Tâm
08-01-2015, 09:57 AM
Kinh:

“Nếu lấy cái phân biệt pháp âm của Ta mà làm tâm của ông, thì cái tâm ấy phải rời sự phân biệt tiếng nói mà tự nó có tánh phân biệt. Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, chẳng thể thường trụ mãi. Còn người chủ trạm thì không đi đâu cả, mới gọi là chủ trạm. Ở đây cũng thế, nếu thật là Tâm của ông thì chẳng đi đâu cả.

Thông rằng:

Pháp âm đang nói là cái sở duyên. Chỗ sở duyên ấy, không thể chấp lấy làm Chân. Cái phân biệt pháp âm là cái năng duyên. Cái năng duyên đó há lại có thể y vào nó mà cho là Chân? Ngay khi cái Tâm và cái Tiếng gặp nhau, thì có sự phân biệt rõ ràng, nhưng Cái Phân Biệt đó cũng chỉ tạm thời, giống như người khách. Đến khi cái Tâm và cái Tiếng rời nhau ra, cái phân biệt mất hết, nhưng cái Tánh Phân Biệt không mất. Tánh này chẳng bởi nghe pháp mà có, chẳng bởi không nghe pháp mà thành không, nên gọi là chủ nhân. Nơi chỗ này thấy được, mới gọi là thấy Tánh. Nếu chấp lấy cái tâm phan duyên nghe pháp làm Tự Tánh, thì cũng giống như nhận khách làm ông chủ vậy.

Thầy Đại Điên [Đại Điên Hòa Thượng. Được mối thiền Tào Khê, nối pháp Tổ Thạch Đàu, ở Ấp Tây U Lãnh, dưới chân núi lập thiền viện Linh Sơn, truyền pháp cho đệ tử cả ngàn người] ban đầu tham học với Tổ Thạch Đầu.

Tổ hỏi: “Cái gì là Tâm ông?

Thầy Đại Điên nói: “Thấy ngôn ngữ là đó”.

Tổ Đầu bèn hét đuổi ra.

Qua một tuần, thầy Đại Điên bèn hỏi: “Cái trước đã chẳng phải, trừ cái ấy, ngoài ra cái gì là Tâm?”

Tổ Đầu nói: “Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem Tâm lại đây!”

Thầy Điên nói: “Không có Tâm có thể đem lại được”.

Tổ Đầu rằng: “Xưa nay là có Tâm, sao nói không Tâm? Không Tâm cũng như báng pháp!”

Thầy Đại Điên nghe xong đại ngộ.

Một hôm, đứng hầu Ngài Thạch Đầu, Tổ hỏi: “Ông là tăng tham thiền hay là tăng tu Tịnh Nghiệp (Tịnh Độ) của Châu, Huyện?”

Đại Điên: “Là tăng tham thiền”.

Tổ Đầu: “Cái gì là thiền?”

Đại Điên: “Nhướng mày, chớp mắt”.

Tổ Đầu: “Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem cái Bổn Lai Diện Mục của ông trình ra xem!”

Đại Điên: “Xin Hòa Thượng dẹp hết nhướng mày chớp mắt ra ngoài để soi xét”.

Tổ Đầu: “Ta dẹp rồi”.

Đại Điên: “Đem trình ra rồi vậy”.

Tổ Đầu: “Ông đã đem trình, Tâm ta thì sao?”

Đại Điên: “Chẳng khác Hòa Thượng”.

Tổ Đầu : “Chẳng liên quan việc ông”.

Đại Điên: “Vốn không vật”.

Tổ Đầu: “Ông cũng không vật”.

Đại Điên: “Đã không vật tức là chơn vật”.

Tổ Đầu: “Chơn Vật là Bất Khả Đắc, tâm ông thấy như vậy phải rất hộ trì”.

Cha con Thạch Đầu mấy phen lật qua, lật lại biện xét cốt để thẩm định Chơn Tâm, vốn là vô sở đắc, gọi là Chơn Chủ Nhân.

Thiện Tâm
08-01-2015, 10:02 AM
Kinh:

“Tại sao lìa tiếng lại không có tánh phân biệt? Nói như thế chẳng những đối với tâm phân biệt các tiếng, mà cái phân biệt hình dung của Ta nếu rời các sắc tướng cũng không có tánh phân biệt.

“Như vậy cho đến mọi phân biệt đều không có, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, mà nhóm Câu Xá Ly mê lầm cho là Minh Đế, thì rời các pháp duyên cũng không có tánh phân biệt. Như vậy, Tâm Tánh của ông mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm chủ?

Thông rằng:

Phân biệt âm thanh, phân biệt Sắc, Hương, Vị, Xúc, các Trần đều là bóng dáng phân biệt tiền trần. Tại sao lìa các tiền trần liền chẳng có tự tánh phân biệt? Dù cho diệt hết tất cả Thấy, Nghe, Hay, Biết cho đến phân biệt cũng không còn, ở trong giữ lấy cái Không-Không u nhàn, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không mà ngoại đạo chấp lấy làm Minh Đế thì cũng mới chỉ là rời cảnh chứ chưa rời pháp, vẫn còn là bóng dáng phân biệt pháp trần.

Tại sao lại rời pháp duyên thì không có tự tánh phân biệt? Nhờ tiền trần mà có thì rời tiền trần bèn không. Nhờ pháp trần mà có, thì rời pháp trần bèn không có. Cái tánh phân biệt này, mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm ông chủ? Một cái Động (phân biệt tiền trần), một cái Tĩnh (phân biệt pháp trần) đều thuộc về bóng trong gương: bóng có chỗ trả về, gương thì chẳng có trả về đâu hết. Một lần đến, một lần đi đều thuộc về khách. Khách có về, chủ không có chỗ về. Không nhận gương mà nhận bóng, không nhận chủ mà nhận làm khách thì Tâm Tánh của ông cũng đồng với đoạn diệt, lấy gì làm Chân Tâm Thường Trụ?

Tổ Đại Điên thượng đường dạy rằng: “Phàm là người học đạo, cần phải biết cái Bổn Tâm của nhà mình. Thường thấy kẻ học đạo đời nay chỉ lấy nhướng mày, nháy mắt, một nói một nín rồi tự ấn khả mà cho là tâm yếu, như vậy thật là chưa rõ. Nay ta vì các ông mà nói ra rõ ràng, mỗi người nên nghe lãnh: chỉ dẹp trừ hết thảy hiện lượng tưởng niệm vọng động, đó tức là Chân Tâm. Cái Tâm này dầu với trần cảnh hay khi giữ vắng lặng, tuyệt không có giao thiệp, dính dáng gì. Tức Tâm là Phật, chẳng đợi tu hành, sửa chữa. Tại sao thế? Ứng cơ tùy chiếu, an nhiên tự dùng. Cùng tột chỗ dùng vốn bất khả đắc. Gọi đó là Diệu Dụng, ngay ấy là Bổn Tâm, phải rất hộ trì, không thể dễ dãi”.

Tổ Đại Điên chỉ ra rõ ràng ông chơn chủ, tiết lộ quá nhiều! Do đây có thể biết là Chơn Tâm cách biệt hẳn với Minh Đế của ngoại đạo.

Phái Số Luận phân tích vũ trụ gồm hai mươi lăm Đế, trừ Minh Đế là chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, chẳng phải Tâm, còn lại đều chẳng ra ngoài Sắc, Không và Tâm.

Giác Đế Ngã Tâm, năm Tri Căn, năm Tác Nghiệp Căn, Tâm Bình Đẳng Căn cho đến Thần Ngã thuộc về Tâm. Năm Trần, năm Đại thuộc về Sắc. Không Đại thuộc về Không.

Cái Đế đầu tiên hết gọi là Minh Tánh, suy nghĩ cho là thường tồn. Cái Đế thứ hai mươi lăm gọi là Thần Ngã cũng cho là thường. Thần Ngã suy nghĩ về Thánh cảnh của mình thì Minh Tánh bèn biến đổi thành hai mươi ba Đế còn lại để cho Thần Ngã dùng. Chỗ mà Ngã thọ dụng, thì bị cảnh trói buộc, chẳng được giải thoát. Nếu Ngã chẳng suy nghĩ thì Minh Đế chẳng biến tức không trói buộc, cái Ngã bèn giải thoát. Đây là tông chỉ của phái này.

Ông Cáo Tử dạy rằng: “Chẳng được nơi lời thì chớ cầu nơi Tâm. Chẳng được nơi Tâm, chớ cầu nơi Khí”, rõ là một lối với Minh Đế, có người nói đó là Thiền, thật lầm to!

Thiện Tâm
08-01-2015, 10:03 AM
Kinh:

Ông Anan thưa: “Nếu cái Tâm Tánh của tôi mỗi mỗi đều có chỗ trả về, thì cái Diệu Minh Nguyên Tâm mà Như Lai nói đó sao lại không trả về? Xin Phật thương xót chỉ bảo cho tôi điều ấy”.

Phật bảo Ông Anan: “Hãy lấy cái Kiến Tinh Minh Nguyên [Cái Thấy Vốn Sáng] của ông thấy tôi đây. Tuy cái Thấy này không phải là cái Minh Tâm Diệu Tinh [Chân Tâm], nhưng nó như mặt trăng thứ hai, chứ chẳng phải là bóng của mặt trăng (trên mặt nước). Ông nên nghe kỹ, nay Ta chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.

“Này Ông Anan, cái đại giảng đường này mở rộng về phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm không trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm. Chỗ có các cửa thì thấy thông suốt, chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bít. Chỗ phân biệt được thì thấy cảnh sắc duyên. Chỗ trống rỗng toàn là hư không. Khi bụi nổi lên thì cảnh tượng mù mịt. Mưa tạnh trời quang lại thấy trong sạch.

“Này Ông Anan, ông đều xem rõ các tướng biến hóa ấy. Nay ta trả mỗi thứ về chỗ bản nhân của chúng. Thế nào là Bản Nhân? Ông Anan, các thứ biến hóa này: cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao thế? Vì không mặt trời thì không sáng, ánh sáng thuộc về mặt trời, nên trả về cho mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng. Thông suốt trả về cho các cửa. Ngăn bít trả về cho tường vách. Sắc duyên trả về cho phân biệt. Trống rỗng trả về cho hư không. Mù mịt trả về cho bụi bặm, trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả những sự vật gì trong thế gian đều không ra ngoài những loại ấy.

“Còn cái Thấy (Kiến Tinh Minh Tánh) của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu? Tại sao thế? Nếu trả nó về cho cái sáng, thì lúc không sáng chẳng thể thấy tối. Tuy là sáng tối các thứ có sai biệt, còn cái Thấy không có sai biệt.

“Các thứ có thể trả về, tự nhiên chẳng phải là ông, còn cái không trả về được, không phải chính ông thì là ai? Thế mới biết rằng Tâm ông vốn nhiệm mầu, sáng sạch, ông tự mê muội bỏ mất Bổn Tánh mà chịu luân hồi sanh tử, thường bị chìm đắm. Thế nên Như Lai gọi là đáng thương xót!”.

Thông rằng:

Cái Thấy phân biệt duyên trần với cái Kiến Tinh Minh Nguyên khác nhau ở chỗ Năng, Sở. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đối với cái Minh Tâm Diệu Tinh phân ra ở chỗ Thể, Dụng. Bởi thế, cái Minh Tâm Diệu Tinh như mặt trăng thật, cái Kiến Tinh Minh Nguyên như mặt trăng thứ hai (do đè lên mắt mà thấy), còn cái Thấy phân biệt duyên Trần như bóng mặt trăng trong nước.

Trong hư không, nói cho cùng chỉ có tám thứ : sáng, tối, thông, bít... tới, lui, nên nói “Không ngoài các thứ ấy”. Cũng phảng phất tương tự như Bát Quái : trong sáng và mù mịt là tượng của Càn Khôn. Ngày sáng, đêm tối là tượng của Khảm, Ly. Thông, bít là tượng của Cấn, Đoài. Sự phân biệt thuộc động, tượng của Chấn. Tánh hư không tựa gió, nên là tượng của Tốn vậy.

Còn nơi Tâm người thì “thông, bít” gồm đủ cả mê, ngộ. “Duyên, sắc, hư không” đủ cả Hữu, Vô. Đục, trong gồm đủ cả thế trần và giác ngộ. Sáng, tối đủ cả Thánh, phàm. Tất cả đều là cảnh. Cảnh thì có sai biệt, cái Thấy không có sai biệt. Có sai biệt thì có chỗ trả về, còn không sai biệt thì vốn tự bất động. Các thứ có thể trả về là Cảnh, là Vật, chẳng phải là ông. Cái “Tự ông” chẳng thể trả về cho vật là cái Thấy, chẳng phải Vật, đó là cái Chơn Kiến Tinh của ông vậy. Có thể trả về gọi là Khách, không trả về đâu được là Chủ. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đã là như vậy, huống gì là cái Chơn Tâm vốn nhiệm mầu, sáng sạch không rơi vào cái Thấy, là Ông Chủ ở trong Ông Chủ. Ông Chủ trong Ông Chủ là cái căn bản chẳng sanh chẳng diệt, người người đều sẵn đủ, chẳng ở ngoài đến. Chẳng tự mình làm Ông Chủ, lưu lạc làm Khách là cũng bởi không nhận ra mặt trăng thật, mà lại nhận bóng mặt trăng trong nước làm Tự Tâm, làm sao khỏi đắm chìm sanh tử?

Có vị tăng hỏi Tổ Tào Sơn: “Cổ đức nói “Hết cả đại địa độc chỉ có một người này”, chưa biết là người nào?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng thể có mặt trăng thứ hai”.

Hỏi : “Như thế nào là mặt trăng thứ hai?”

Tổ Sơn nói : “Cái đó cần lão huynh định lấy!”

Hỏi : “Thế sao là mặt trăng thứ nhất?”

Tổ Sơn nói : “Nguy!”

Một chữ Nguy này đủ thấy Tổ Tào Sơn chẳng dám bỏ mất Tánh Bổn Nhiên mà chịu luân hồi, chỗ tối thân thiết vậy.

Thầy Báo Từ Văn Toại thường nghiên cứu Thủ Lăng Nghiêm, ra mắt Tổ Pháp Nhãn, kể lại chỗ sinh sống của mình rất phù hợp với ý chỉ của kinh. Tổ Nhãn rằng : “Kinh Lăng Nghiêm há chẳng có cái nghĩa “Tám chỗ trả về” ư ?”

Sư Toại đáp : “Dạ, có”.

Tổ hỏi : “Cái sáng trả về cái gì?”

Đáp : “Sáng trả về mặt trời”.

Tổ hỏi : “Mặt trời trả về cái gì?”

Sư Toại ngẩn ngơ, không đáp được. Từ đó, khâm phục Tổ mà cầu học.

Thế mới biết cái chuyện Ông Chủ trong Ông Chủ chẳng phải là chỗ mà Chú, Sớ đến được.

Ngài Đoan Sư Tử tụng rằng:

“Giáo pháp Bát Hoàn có đã lâu

Từ xưa Chư Tổ mỗi phanh phui

Dầu chi hoàn được không hoàn được

Ấy cũng sức tôm chẳng khỏi thau”.

(Bát Hoàn chi giáo thùy lai cửu

Tự cổ tông sư các phân phẫu

Trực nhiên hoàn đắc bất hoàn thời

Dã thị hà khiên bất xuất đẩu).

Thiện Tâm
08-03-2015, 07:26 AM
X. LỰA RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA TÁNH THẤY

Kinh:

Ông Anan bạch: “Tuy tôi biết Tánh Thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi?”

Phật bảo Ông Anan: “Nay tôi hỏi ông: hiện ông chưa được đạo quả Vô Lậu Thanh Tịnh, nhờ thần lực của Phật mới thấy cõi Sơ Thiền không chướng ngại. Ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem quả Am Ma La trong bàn tay. Các vị Bồ Tát thấy trăm ngàn cõi. Mười phương Như Lai thì cùng tột các quốc độ thanh tịnh nhiều như vi trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng sanh thì thấy rõ được không quá gang tấc.

“Anan, nay tôi cùng ông hãy xem cung điện của Tứ Thiên Vương, chặng giữa xem khắp các loài Thủy, Lục, Không, Hành. Tuy có nhiều hình tượng sáng tối khác nhau, nhưng không có cái gì không phải là tiền trần phân biệt ngăn ngại. Ông hãy ở đó, phân biệt mình, vật. Nay tôi để ông lựa chọn trong sự thấy đó: cái gì là Ngã Thể (Tự Tánh) của ông, cái gì là hình tướng của vật?

“Anan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật chứ chẳng phải ông, cho đến bảy núi Kim Sơn, xem xét cùng khắp tuy có những thứ ánh sáng nhưng cũng là vật chớ không phải ông. Lần lần xem đến: mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối, núi sông, cỏ rác, người vật đều là vật chứ không phải là ông.

“Anan, các vật xa gần đó tuy sai khác nhau nhưng đồng do cái Thấy (Kiến Tinh) trong sạch của ông trông thấy, thì các vật đó tuy có sai khác mà Tánh Thấy không sai khác. Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông”.

Thông rằng:

Ban đầu, Ông Anan hỏi cái Nguyên Tâm Diệu Minh tại sao không trả về. Đức Phật thấy cái Chân Tâm ấy không dấu vết, khó mà chỉ bày nên nương vào cái Kiến Tinh Minh Nguyên mà phương tiện chỉ bày. Cái Kiến Tinh rất gần với Chân Tâm, như mặt trăng thứ hai rất gần với mặt trăng thật. Nhưng cái Thấy này cũng là Vọng, cũng cần phải trả về, chỉ có mặt trăng thật ví dụ cho Chân Tánh là không thể trả về.

Văn sau có nói “Khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy này không phải là cái thấy chân thật”. Thì há không phải cái Thấy này cũng có thể trả về hay sao? Ông Anan tuy biết cái Kiến Tinh không trả về, đã ngộ được cái nghĩa mặt trăng thứ hai, lại hỏi “Làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi?”, đó là muốn nghiệm xét cái nghĩa Mặt trăng thứ nhất, cái Tánh không thể trả về này hiện phải có phương tiện nào để khiến ta tự biết, tự tin vậy. Phật vẫn dùng cái Kiến Tinh mà phân tách, chỉ bày: cái bị Thấy là Vật, cái Thấy là ông. Vật có sai khác, cái Thấy không sai khác. Không sai khác là Kiến Tinh, cái Thấy.

Nói “Trông thấy trong sạch”, là vì tuy nhờ sắc căn trong sạch là con mắt để thấy bốn Đại, nhưng cũng do Tánh Thể Trong Sạch xưa nay phát khởi, không do tạo tác nên tự mầu đẹp (Diệu) mà sáng soi (Minh), gọi là Tánh Thấy. Cái Thấy (Kiến Tinh) đã là Chân Kiến của ông thì cái Tánh Thấy chẳng phải là Chân Tánh của ông sao? Cho nên nói “Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông”.

Vốn là Tánh thì chỉ có Một. Nhưng cái mức trong sạch của sự Thấy thì chẳng bằng nhau, tức là do thấu cùng cái Tánh hay chẳng thấu cùng cái Tánh mà có sai khác.

Phật Nhãn thì cùng tột mười phương quốc độ trong sạch của Như Lai nhiều như vi trần, không chỗ nào là không thấy. Pháp Nhãn là con mắt của Chư Bồ Tát thì thấy trăm ngàn thế giới. Huệ Nhãn là như Ông Tu Bồ Đề thấy Pháp Thân Phật. Thiên Nhãn, như Ông A Na Luật thấy cõi Diêm Phù Đề như thấy trái Am Ma La trong bàn tay. Nhục Nhãn, là chúng sanh thì thấy không quá gang tấc. Ông Anan chưa được thanh tịnh vô lậu, nhưng nhờ thần lực của Phật nên thấy cõi Sơ Thiền, đó là Nhục Nhãn mà được Thiên Nhãn. Chỗ thấy của năm loại Nhãn chẳng đồng, nhưng cái Thấy thì không hai, nên mới nói là “Không sai khác”. Hẳn là phải đến Phật Nhãn mới thấu cùng các cõi như vi trần, mới tròn đủ cái Dụng của Tánh Thấy.

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Như thế nào là Tổ Sư Tây lai ý?”

Tổ đáp: “Suốt ngày xem núi”.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

“Thản nhiên tăng hỏi lão sư yên

Dường đặng Thiều Dương một câu truyền

Suốt ngày xem núi, tay tiên lộ.

Đêm khuya vượn hú, nguyệt ngoài hiên”.

Hãy nói “Suốt ngày xem núi” là chỉ cái Thấy hay chỉ Tánh Thấy, đối cùng “Tổ Sư Tây lai ý” hiểu thế nào đây?

Ngài Vân Cư Trí nói rằng: “Cái Tánh Trong Sạch xưa nay trong lặng, chẳng có một chút động lay, không thuộc Hữu, Vô, lìa ngoài Nắm, Bỏ, Tánh Thể làu làu, vốn tự như nhiên. Thấy rõ ràng như vậy, mới gọi là Thấy Tánh (Kiến Tánh). Tánh tức Phật, Phật tức Tánh nên nói là “Kiến Tánh thành Phật”.

Hỏi : “Tánh vốn trong sạch, chẳng thuộc Hữu, Vô sao lại còn có thấy?”

Đáp : “Thấy không chỗ thấy”.

Hỏi : “Đã không có chỗ thấy, sao lại còn có Tánh?”

Đáp : “Kiến Xứ (chỗ thấy) cũng không”.

Hỏi : “Như vậy thì khi thấy là ai thấy?”

Đáp : “Không người để thấy”.

Hỏi : “Rốt cùng thì như thế nào?”

Đáp : “Tính toán hư vọng mà cho là Có, liền có năng, sở: bèn mang tiếng là mê. Theo cái Thấy hư vọng đó sanh chuyện hiểu biết, liền đọa sanh tử. Người thấy biết rõ ràng thì chẳng có vậy. Suốt ngày thấy mà chưa hề thấy. Tìm cầu danh, xứ, thể, tướng bèn chẳng có được. Năng, sở đều dứt tuyệt, gọi là Thấy Tánh”.

Hỏi : “Cái Tánh này trải khắp cả thảy nơi chăng?”

Đáp : “Không đâu chẳng khắp”.

Hỏi : “Phàm phu đủ chăng?”

Đáp : “Đã nói là không đâu chẳng khắp thì phàm phu sao lại chẳng đủ?”

Hỏi : “Cớ sao Chư Phật, Bồ Tát chẳng bị sanh tử ràng buộc, mà chỉ có phàm phu bị trói cột vào cái khổ này, thì sao lại trải khắp?”

Đáp : “Phàm phu ở ngay trong Tánh trong sạch này vọng thấy có năng, có sở : bèn sa vào sanh tử. Chư Phật, Bồ Tát khéo biết trong Tự Tánh trong sạch nào có hữu, vô nên chẳng lập năng, sở”.

Hỏi : “Nếu nói như vậy thì có người hiểu, người chẳng hiểu hay sao?”

Đáp : “Cái hiểu còn chẳng thể được, há có người hiểu sao ?”

Hỏi : “Tột lý như thế nào?”

Đáp : “Ta lấy yếu lý mà nói, ông phải biết rằng trong Tánh trong sạch không có hữu, vô, phàm, Thánh; cũng chẳng có người hiểu, người không hiểu. Phàm với Thánh, cả hai chỉ có danh. Nếu theo danh mà khởi sanh hiểu biết liền đọa vào sanh tử. Nếu biết mọi sự đều giả danh, không thật, tức thì không có cái mang danh”.

Ngài lại nói: “Đây là chỗ tột rốt ráo : như cho rằng ta hiểu, kia chẳng hiểu, tức là đại bệnh. Thấy có phàm Thánh, dơ sạch, cũng là đại bệnh. Khởi niệm không có phàm Thánh, lại là bác không có nhân quả. Thấy có cái Tánh trong sạch để có thể trụ dừng, cũng là đại bệnh. Khởi kiến giải chẳng có trụ dừng cũng là đại bệnh. Như vậy, trong Tánh trong sạch, chẳng phá hoại phương tiện ứng dụng mà hưng vận từ bi. Như thế, chỗ đạo tràng hưng vận đó, tức toàn Tánh trong sạch, nên nói là Thấy Tánh thành Phật”.

Lời dạy trên của Tổ Vân Cư rất gần với câu “Thấy Tánh do lìa tướng Thấy” của kinh, nên trích ra đầy đủ.

Thiện Tâm
08-03-2015, 07:34 AM
Kinh:

“Nếu cái Thấy là vật thì chắc ông cũng có thể thấy được cái Thấy của Ta. Nếu ông cho rằng khi chúng ta cùng thấy sự vật là ông thấy cái Thấy của Ta, thì khi ta không thấy sao ông không thấy được chỗ không Thấy của Ta? Nếu cho là ông thấy được cái không Thấy của Ta, thì cái không Thấy của Ta làm gì có tướng để cho ông thấy? Còn nếu không thấy được chỗ không Thấy của Ta thì cái Thấy tự nhiên chẳng phải là vật, sao nó lại chẳng phải là ông?”

Thông rằng :

Quả là Đức Phật nêu lên cái ý của Ông Anan, thế giới như cái lồng đèn trên cây cột, đều có Danh, có Tướng thì “Cái Kiến Tinh Minh Nguyên là cái vật gì, xin khiến cho tôi được biết?” Phật bèn gợi ý rằng: “Khi ta thấy cái đài hương, thì ông làm sao?”

Anan nói : “Tôi cũng thấy đài hương, tức là thấy chỗ Thấy của Phật”.

Đức Phật nói: “Ta thấy cái đài hương thì ông cũng dễ biết, còn khi ta chẳng thấy đài hương, thì ông thế nào?”

Anan đáp: “Tôi cũng không thấy cái đài hương, tức là thấy chỗ chẳng Thấy của Phật”.

Đức Phật nói: “Ông nói rằng khi không Thấy thì tự ông biết. Vậy thì cái chỗ không Thấy của người khác, ông làm sao mà biết được?”

Người xưa đến trong cái Ấy, chỉ khá tự mình biết lấy, với người khác nói chẳng được! Chỉ như Thế Tôn nói: “Khi Ta không thấy, cũng như con linh dương treo sừng, tiếng vang, dấu vết, tin tức đều tuyệt dứt, ông hướng về đâu tìm kiếm?”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Toàn tượng (voi), nguyên trâu mù hết thảy

Xưa nay gây nghiệp, gọi chung khuôn

Như nay muốn gặp Hoàng Đầu Lão [Chỉ Phật]

Cõi Phật vi trần tại giữa đường”.

Ngài Tuyết Đậu đưa ra con mắt Giáo Pháp, chỉ tụng thấy Phật. Ngài Thiên Đồng thâm đắc ý kinh, tụng chỉ ngay cái Chân Kiến.

Tụng rằng:

“Biển cả giọt khô, hư không đầy ứ

Thầy tu lỗ mũi dài, Cổ Phật đầu lưỡi cụt

Đàn vừa qua chín khúc, thể ngọc một phen đổi

Ngay đó gặp nhau, ai biết hắn

Mới tin người ấy chẳng bạn bè”.

Tắc này là cơ duyên của hai lớp công án, hết sức phát huy mà chỉ nói được một nửa!

Thiện Tâm
08-03-2015, 07:39 AM
Kinh:

“Lại nữa, nếu cái Thấy là vật thì đang khi ông thấy vật, ông đã thấy vật rồi thì vật cũng phải thấy ông. Thế là Thể và Tánh xen lộn, tức là ông với Ta cùng với cả thế gian không an lập được.

“Ông Anan, nếu khi ông thấy, đó chính là ông nào có phải Ta, thì cái Tánh Thấy cùng khắp đó chẳng phải là chính ông thì còn là ai? Tại sao lại tự nghi Chân Tánh của mình. Tánh của ông vốn không Chân hay sao mà bám lấy Ta cầu tìm cái thật?”

Thông rằng:

Bộ Hiệp Luận nói rằng “Nghĩa của đoạn kinh này phát sanh từ một câu “Làm sao biết đó là Chân Tánh của tôi?” Nên Đức Thế Tôn mới khai thị cái tướng của sự không Thấy để khiến hiểu rõ Chân Tánh mà chẳng nên tìm cầu ở nơi phân biệt”.

Ngài Mã Minh nói “Tất cả Như Lai đều là Pháp Thân, bởi vì không có cái thấy kia-đây, sai khác, đồng nhau”. Nên nói rằng “Nếu thấy cái chẳng thấy thì tự nhiên đó không phải là cái tướng không thấy của người kia”. Nói “chẳng phải người kia” thì chỉ là cái tướng chẳng thấy của Anan đó thôi, mà không phải là cái chẳng thấy của Đức Thế Tôn. Vậy ắt là chỗ không thấy của Thế Tôn thì Anan không thể thấy được, chỉ có Thế Tôn thấy được. Nên nói rằng “Nếu không thấy được chỗ không thấy của Ta, thì cái thấy của ông chẳng phải là vật”. Nói “Chẳng phải vật” không phải là cái thấy của Thế Tôn, mà chỉ là cái tướng của cái chẳng thấy của Anan. Nếu Đức Thế Tôn cũng thấy cái thấy của Anan và Anan cũng thấy cái thấy của Thế Tôn” thì tức là cái Tánh Thấy trong sạch thành ra cái vật có hình tướng. Nên mới nói “Thể, Tánh lộn xộn chẳng có an lập”. Cái chỗ chẳng thấy là chỗ căn bản, quyết chẳng thể nào thấy được. Cũng như trồng cây mà hằng này cứ moi rễ lên xem thì cây sống sao được.

Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ :

“Có vật trước trời đất

Vốn phẳng lặng không hình

Hay làm chủ muôn tượng

Chẳng theo bốn mùa tàn”.

Bài này chỉ ra rõ ràng cái Chân Tánh, chẳng phải là chỗ cái thấy đến được. Vậy mới là mặt trăng thứ nhất, chứ chẳng phải riêng cái Kiến Tinh Minh Nguyên mới là không thể thấy được mà thôi đâu.

Đoạn kinh này ý nghĩa rất vi diệu, không có chỗ nào chẳng phát minh cái Tinh Diệu Minh, thật là cái Tánh Thấy của ông. Sao lại nói: “Cái thấy này là ông chứ không phải là vật”? Sở dĩ nói “Cái thấy không phải là vật”, vì nếu cái thấy là vật, thì cái thấy của tôi, ông có thể thấy. Nhưng cái thấy của tôi thì hẳn là ông không thể thấy được. Nếu bảo khi ông và tôi cùng thấy là ông thấy cái thấy của tôi, thì khi tôi thấy, ông có thể thấy cái thấy ấy. Còn khi tôi không thấy, thì ông vẫn thấy được chứ tại sao lại không được? Nếu bảo rằng khi tôi thấy, thì thấy cái thấy ấy; khi tôi không thấy thì thấy cái chẳng thấy mà cho đó là thấy chỗ chẳng thấy của tôi, thì đã tự mình không thấy chứ sao lại nói là thấy được cái tướng không thấy của tôi? Muốn lấy cái tướng chẳng thấy của tôi làm chỗ thấy của ông, rõ ràng đó là cái tướng của thấy mà chẳng phải là cái tướng của không thấy. Cái chỗ chẳng thấy đó hẳn nhiên ông không thể thấy được. Khi chỗ chẳng thấy đã không thể thấy, vậy khi cùng thấy cũng chẳng có thể thấy. Thấy cùng chẳng thấy đều không thể chỉ ra, thì cái thấy của tôi rõ ràng chẳng phải là vật.

Cái thấy của tôi đã không phải là vật thì cái thấy của ông rõ ràng cũng không thể là vật. Cái thấy của ông đã chẳng phải vật, tức là không thuộc về vật, tại sao chẳng phải là ông? Đây tức là lấy sự chẳng thể Thấy để biện rõ cái chẳng phải là vật vậy. Giả sử có thể thấy được, thì cái thấy cũng là vật thì làm sao làm chủ muôn tượng mà an lập thế gian? Cho nên, có cái Không Hình mới hiện ra hình tướng, có cái Không Phải Vật mới hay biết sự vật.

Cái thấy của tôi, cái thấy của ông, đã chẳng phải vật thì chẳng có ranh giới giáp nhau, đầy khắp pháp giới, không thiếu hụt, dư thừa chỗ nào. Hữu Tình và Vô Tình đều do cái ấy mà kiến lập, gọi đó là Chân Tánh. Cái Tánh mà chẳng thật là ông, thì cái thấy cũng chẳng thuộc về ông mới phải. Nhưng rõ ràng cái thấy là của ông mà chẳng phải là của tôi, thì cớ sao lại tự nghi nó chẳng chân thật, mà phải bám vào Ta để cầu xin cái Thật? Giả sử ta có thể đem cho ông được, thì chẳng phải là cái Chân Thật của ông vậy.

Có vị sư hỏi thiền sư Thượng Lam Siêu: “Thế nào là việc bổn phận của Thượng Lam?”

Tổ Lam rằng: “Chẳng theo ngàn Thánh mượn. Há hướng vạn sự cầu?”

Nhà sư hỏi: “Không mượn, không cầu, thì như thế nào?”

Tổ Lam rằng: “Chẳng thể cầm nắm. Trong tay Xà Lê đưa ra được ư?”

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

“Một phiến Linh Minh vốn diệu viên

Ở trong không chánh cũng không thiên [Nghiêng]

Núi báu, cỏ lành không gốc rễ

Chẳng đợi Chúa Xuân, sắc tự nhiên”.

(Nhất phiến Linh Minh bổn diệu viên

Cá trung phi chánh diệc phi thiên

Bửu phong thoại thảo vô căn đế

Bất đải Xuân Công sắc tự tiền).

Ngộ chỗ này ắt biết Chân Tánh vốn không vật. Không vật thì không hỗn tạp. Không hỗn tạp nên vật và ta đồng nguồn, hồn nhiên đầy đủ. Nếu hướng theo người tìm cầu cho được, đều là chẳng phải.

Thiện Tâm
08-03-2015, 07:42 AM
Kinh :

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, nếu cái Tánh Thấy ấy thật là tôi chứ không phải ai khác, thì khi tôi cùng Như Lai xem cung điện quí báu của Tứ Thiên Vương, xem mặt trời, mặt trăng, cái Thấy ấy cùng khắp cõi Ta Bà, khi lui về tịnh xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì chỉ thấy một chái nhà. Thưa Thế Tôn, cái Thấy như thế, Thể của nó xưa nay cùng khắp một cõi. Vậy mà nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng, thế là cái Thấy rút lại từ lớn thành nhỏ hay tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn? Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Thế Tôn vì tôi từ bi chỉ rõ”.

Phật bảo Ông Anan: “Tất cả mọi thứ trong, ngoài, lớn, nhỏ của thế gian đều thuộc về tiền trần, không nên nói cái Thấy có co, có duỗi. Ví như trong đồ vật hình vuông thì thấy hư không vuông. Ta lại hỏi ông: “Cái hư không vuông ở trong đồ vật vuông ấy là nhất định vuông hay không nhất định vuông? Nếu nhất định vuông, thì khi thay cái đồ vật tròn vào lẽ ra hư không không tròn! Nếu không nhất định thì tại trong đồ vật vuông lẽ ra đã không có hư không vuông! Ông nói: Không biết nghĩa ấy do đâu; nghĩa đó như thế, chứ còn do đâu nữa?

“Anan, nếu muốn vào được cái không vuông, không tròn thì chỉ cần trừ bỏ cái vuông của đồ đạc, chứ cái Thể của hư không thì vốn không vuông. Chẳng nên nói rằng: lại phải trừ cả cái tướng vuông của hư không nữa!

“Lại như lời ông hỏi: Khi vào phòng, rút cái Thấy làm cho nhỏ lại, vậy thì khi ngẩng xem mặt trời, há lại kéo cái Thấy lên bằng mặt trời? Nếu xây tường nhà mà chia cắt cái Thấy làm cho đứt đoạn, thì khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu nối? Nghĩa ấy không đúng vậy!

“Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê mình mà làm vật, bỏ mất Bản Tâm, bị vật xoay chuyển, cho nên ở trong đó mà thấy lớn thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn sáng. Đó là Đạo Tràng Bất Động, trên đầu một mảy lông, trùm chứa mười phương quốc độ”.

Thông rằng:

Ông Anan nói “Tánh Thấy có khắp chính là tôi chứ không ai khác. Thì chỗ Thấy của tôi cũng đồng với Phật Nhãn, tại sao khi xem mặt trời, mặt trăng thì khắp cõi Ta Bà, mà nay ở trong nhà thì chỉ đầy một nhà, vậy là cái Thấy này có co duỗi, lớn bé chẳng đồng, sao lại bảo là không sai khác ?” Đó là không biết rằng có lớn, có bé là do ở tiền trần, chớ chẳng quan hệ gì tới cái Tánh Thấy. Ví như vuông, tròn là do ở đồ vật, nào dính dáng gì đến hư không. Ở trong đồ vật mà xem hư không thì hình như có tướng vuông, tròn. Chỉ dẹp bỏ đồ vật đi, thì hư không ắt chẳng có vuông, tròn nào có thể chỉ ra được. Duyên theo trần mà xét cái Thấy thì hình như có tướng co, duỗi. Chỉ lìa tiền trần, thì Tánh Thấy vốn chẳng có co duỗi nào có thể được. Cái Thấy mà xoay chuyển theo tiền trần, cũng như xét hư không mà chẳng ở trong chính thái hư, lại nhìn trong một món đồ.

Thế nên, ở trong ấy thấy lớn thấy nhỏ, đó là mê mình là vật vậy. Còn nếu chuyển được vật, tức thì tất cả Sắc đều là Phật Sắc, tất cả mọi cái Thấy đều là cái Thấy của Phật. Một phen thân tâm quang đãng, rỗng không thì vật không còn chướng ngại, nên nói là thân tâm tròn sáng. Ở trong cái Viên đó, một tức là tất cả, nơi đầu một mảy lông trùm chứa khắp mười phương quốc độ, lại chẳng đồng với Phật Nhãn sao?

Có vị tăng hỏi Ngài Huỳnh Bá: “Đã nói Tánh tức là Thấy, Thấy tức là Tánh. Nếu như Tánh vốn không chướng ngại, không giới hạn thì sao cách vật chẳng thấy? Lại như trong hư không, gần thì thấy, xa thì không thấy là thế nào?”

Tổ Huỳnh Bá nói: “Đó là ông vọng sanh dị kiến. Nếu cách vật thì nói là không thấy, không có vật ngăn ngại thì nói là thấy, rồi cho là Tánh có cách ngại thì quả là chẳng hiểu gì cả. Tánh chẳng phải Thấy, chẳng phải không Thấy. Pháp cũng chẳng phải Thấy, chẳng phải không Thấy. Như người thấy Tánh thì chỗ nào mà chẳng phải là Bổn Tánh của mình? Nên chi sáu đường, bốn loại, núi sông, đất đai đều là cái Tánh trong sạch sáng suốt của ta. Thế mới nói : thấy Sắc tức là thấy Tâm. Sắc và Tâm chẳng hai, chỉ vì giữ lấy cái tướng mà khởi sanh Thấy, Nghe, Hay, Biết. Trừ bỏ vật trước mặt mới cho là Thấy, tức là sa vào kiến giải nương theo sự Thấy, Nghe, Hay, Biết của hàng Nhị Thừa. Trong hư không mà gần thì thấy, xa thì chẳng thấy, đó thuộc về ngoại đạo. Rõ ràng là: Đạo chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, chẳng gần cũng chẳng xa. Quá gần mà không thể thấy, đó là Tánh của muôn sự muôn vật. Quá gần mà còn không thể thấy, huống là nói “Xa nên chẳng thể thấy”, thì đâu có ý nghĩa gì?”

Tổ Kính Thanh hỏi nhà sư: “Tiếng gì ngoài cửa vậy?”

Nhà sư rằng: “Tiếng giọt mưa”.

Tổ Thanh rằng: “Chúng sanh điên đảo, mê mình theo vật”.

Nhà sư hỏi: “Hòa Thượng như thế nào?”

Tổ Thanh rằng: “Nhuần nhã chẳng lầm lạc mình”.

Nhà sư hỏi: “Nhuần nhã chẳng lầm lạc mình, ý chỉ thế nào?”

Tổ Thanh rằng: “Lìa thân (xuất thân) còn khá dễ, thoát thể nói khó thay!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Nhà im, tiếng giọt mưa

Nhà sư khó đáp lại

Nếu bảo từng Nhập Lưu [Vào dòng]

Như trước, sao chẳng hiểu!

Hiểu, chẳng hiểu?

Non Nam, núi Bắc chuyển mưa rào”.

Đây khá gọi là khắp pháp giới chẳng từng che dấu vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Cốc Ẩm Thông: “Nếu hay chuyển vật, tức đồng Như Lai. Muôn tượng là vật, làm sao chuyển được?”

Tổ Thông đáp: “Ăn cơm rồi, tuyệt không ý trí. Như có ý trí, tức bị vật chuyển vậy”.

Lại có vị sư hỏi Ngài Thiều Quốc sư: “Thế nào là Chuyển vật tức đồng Như Lai?”

Tổ Thiều đáp: “Ông gọi cái gì là vật?”

Nhà sư nói: “Như thế tức là đồng với Như Lai?”

Tổ Thiều nói: “Đừng làm con giả can mà tru! Suy nghĩ so sánh chuyện đồng với Như Lai, tức xa ngàn dặm, vạn dặm!”

Có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu: “Trong mười hai thời dụng tâm thế nào?”

Tổ Châu nói: “Ông bị mười hai thời sai sử, lão tăng sai sử được mười hai thời”.

Đó là sự Chuyển Vật chân thật vậy.

Ngài BaÏch Vân Đoan tụng rằng:

“Nếu hay chuyển vật tức Như Lai

Xuân ấm hoa rừng chốn chốn khai

Vẫn có một đôi tay khô đét

Chưa từng rẻ rúng múa ba đài”.

(Nhược năng chuyển vật tức Như Lai

Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai

Tự hữu nhất song cùng tưởng thủ

Bất tằng dung dị vũ tam đài).

Ngài Chơn Như Triết tụng rằng:

“Nếu hay chuyển vật tức Như Lai

Cửa mở nơi nơi, thấy Thiện Tài

Trong ngõ liễu hoa bày nhảy múa

Say theo chín nẻo, ngủ lâu đài”.

(Nghược năng chuyển vật tức Như Lai

Xứ xứ môn khai kiến Thiện Tài

Hoa liễu hạng trung trình vũ hý

Cửu cù thừa túy ngọa lâu đài).

Nơi đầu một mảy lông trùm chứa khắp mười phương quốc độ. Với Phật Nhãn, thế giới hiện toàn chân chắc được, còn chúng sanh có thể như vậy không?

Ông Thứ Sử đất Giang Châu là Lý Bột hỏi Tổ Quy Tông: “Trong kinh giáo có nói: “Núi Tu Di ngậm chứa hột cải”, thì Bột này chẳng nghi. Nhưng nói: “Hột cải ngậm chứa núi Tu Di”, thì phải chăng là nói dối?”

Tổ Tông nói: “Người ta đồn Thứ Sử đọc vạn quyển sách, có thật không?”

Đáp: “Có vậy”.

Tổ Tông nói: “Rờ từ đầu đến gót chỉ như trái dừa lớn, vậy vạn quyển sách để ở chỗ nào?”

Ông Lý Bột cúi đầu mà thôi.

Do đây mà suy, tâm lượng của chúng sanh cùng với Như Lai nào có sai khác!

Thiện Tâm
08-04-2015, 03:39 PM
PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG


CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC BA: PHẬT NÊU RA TÁNH THẤY NGOÀI CÁC NGHĨA “PHẢI” VÀ “CHẲNG PHẢI”



I. NGHI TÁNH THẤY HIỆN Ở TRƯỚC MẮT

Kinh:

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, nếu cái Thấy đó (Kiến Tinh) thật là Diệu Tánh của tôi, thì cái Chân Tánh đó hiện đang ở trước mắt tôi. Cái Thấy đó thật là tôi, thì thân tâm tôi hiện giờ lại là vật gì? Mà nay thân tâm này thật có phân biệt, còn cái Thấy kia lại không phân biệt riêng gì với thân tôi. Nếu nó thật là Tâm tôi, khiến cho tôi hiện nay có thấy, thì cái Tánh Thấy ấy thật là tôi mà thân này không phải là tôi. Thế thì đâu có khác gì trước kia Như Lai đã hỏi vặn rằng “Vật thấy được tôi”. Xin Phật rũ lòng đại từ, mở bày cho kẻ chưa ngộ”.

Thông rằng:

Đoạn trước nói “Nhận vật lấy làm mình”, đoạn này nói “Mê mình làm vật”. Trước thì “Ở nơi Vọng mà lựa chọn cái Chân”, tức là tự Thân Mình mà lại gọi là vật. Ở đây thì “Lấy Chân mà hòa với Vọng”, thì muôn vật không có gì chẳng phải là Mình. “Ở nơi Vọng mà chọn lựa cái Chân”, mà nói Mình và Vật khác nhau, còn có thể tự biện ra. Chứ đến chỗ “Lấy Chơn mà hòa với Vọng” để nói Ta với Vật đều đồng thì thật là khó hiểu. Vì thế Anan nói “Nếu hay chuyển được vật tức đồng Như Lai”. Vậy thì cái Thấy này có khắp pháp giới, chỗ Thấy là núi là sông đều là Diệu Tánh của ta đó, nhỉ. Nay cái Diệu Tánh này bày trước mặt ta. Nếu cái Thấy ở trước mặt đã là Chân Tánh của ta, thì cái thân tâm phụ thêm này lại là cái gì? Nếu nói cái thân tâm chẳng phải là Tánh thì hiện giờ thân tâm vẫn hay biết rành rẽ. Nếu nói cái bày trước mặt đều là Tánh thì cái Thấy đó chẳng phân biệt được thân ta.

Nếu nói cái Thấy ấy vô hình, hồn nhiên cùng vật đồng thể, đúng là Bổn Tâm ta, có cảm mà ứng, khiến cho ta hiện giờ có thể thấy được, vậy Tánh Thấy chính thật là ta, đầy khắp trước mặt, mà sao lại có một cái thân trơ trọi ù lì lại chẳng phải là ta! Nào khác gì trước đây Như Lai đã hỏi vặn “Ông đã thấy vật, vật cũng phải thấy ông”. Cái Thấy này cũng bèn là ở ngoài, sao lại nói được đó là Chơn Tánh của ta?

Cứ theo chỗ thấy của Ông Anan tựa hồ trộm thấy được cái Tịch Diệt hiện tiền. Chỉ vì Ngã Kiến chưa trừ, ánh sáng chưa thấu thoát, trước mặt còn mơ hồ có vật, nên chưa thể hòa lẫn “Ta-Vật”, tiêu hết “Phải-Trái” vậy.

Tổ Thạch Đầu nhân xem bộ Triệu Luận đến chỗ “Hội muôn vật làm mình, thì chỉ có bậc Thánh Nhân mà thôi. Không có Mình nên không có chỗ nào chẳng phải là Mình ! Pháp Thân không hình tượng, ai đâu có ta-người ? Gương tròn chiếu diệu giữa hư không, muôn vật nhiệm mầu mà tự hiện. Gương Trí còn chẳng phải một, nào nói được chuyện đến-đi?”

Tuyệt làm sao lời nói ấy!

Sau này có vị tăng hỏi Tổ Trường Sa: “Làm sao chuyển được núi sông, quốc độ trở về nơi mình?”

Tổ Sa nói: “Làm sao chuyển được tự mình thành núi sông, quốc độ?”

Tăng nói: “Thưa, chẳng hiểu”.

Tổ Sa nói:

“Dưới thành Hồ Nam thích nuôi dân.

Gạo rẻ, củi nhiều đủ bốn phương”.

Vị tăng không có lời nói. Ngài bèn khai thị bằng bài kệ:

“Ai nói sông núi chuyển?

Sông núi chuyển về đâu?

Viên thông không hai phía

Pháp Tánh vốn không về”.

(Thùy vấn sơn hà chuyển

Sơn hà chuyển hướng thùy

Viên thông vô lưỡng bạn

Pháp Tánh bổn vô quy).

Đọc lời của hai vị tôn túc mà có nghi cái nghi của Ông Anan, thì có thể vỡ lở băng tan vậy.

Thiện Tâm
08-04-2015, 03:43 PM
II. CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ TỨC LÀ CÁI THẤY

Kinh:

Phật bảo Ông Anan: “Nay ông nói rằng “Cái Thấy ở trước mắt ông”, nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái Thấy ấy (Kiến Tinh) đã có chỗ ở, không phải không thể chỉ ra được. Nay tôi và ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, trông khắp rừng, suối và các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước đối có sông Hằng. Nay ông bây giờ trước tòa sư tử của tôi, đưa tay chỉ bày trong các thứ hình tướng kia : chỗ im mát là rừng, cái sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây, mảy mún, nhỏ lớn khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là không chỉ thẳng ra được. Vậy, nếu quả cái Thấy hiện ở trước mắt ông, thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích xác cái gì là cái Thấy. Anan, ông nên biết: nếu hư không là cái Thấy thì hư không đã thành cái Thấy, cái gì mới là hư không? Nếu vật là cái Thấy, thì vật đã thành cái Thấy, cái gì mới là vật? Ông hãy chia chẻ tỉ mỉ muôn tượng để tách ra cái Thấy trong sạch, sáng suốt mà chỉ bày cho Ta như các vật kia, rõ ràng không nhầm lẫn”.

Ông Anan bạch Phật: “Nay tôi ở trong giảng đường này, xa trông đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng. Đưa tay chỉ ra, đưa mắt mà xem thì những cái chỉ ra được đều là vật, chứ không có cái gì là cái Thấy. Thế Tôn, như lời Phật dạy, chẳng những hàng hữu lậu sơ học, Thanh Văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng muôn vật chỉ ra cái Thấy mà lìa ngoài tất cả vật lại có riêng tự tánh”.

Phật nói: “Đúng thế, đúng thế!”

Thiện Tâm
08-04-2015, 03:48 PM
III. CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ RA NGOÀI TÁNH THẤY

Phật lại bảo Ông Anan: “Như lời ông nói: Không có cái Thấy mà lìa ngoài tất cả vật lại riêng có tự tánh, do đó trong tất cả các vật chỉ ra được, không có cái gì là cái Thấy cả. Nay ta lại bảo ông: Ông cùng Như Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, lại xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng, đủ thứ hình tượng khác nhau, chắc không có cái Thấy cho ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái gì chẳng phải là cái Thấy?”

Ông Anan bạch: “Quả thật, tôi nhìn khắp rừng Kỳ Đà này chẳng biết trong đó có cái gì không phải là cái Thấy. Tại sao thế? Nếu cái cây chẳng phải là cái Thấy thì làm sao thấy được cây? Còn nếu cái cây là cái Thấy thì sao lại là cây? Như thế cho đến nếu hư không chẳng phải là cái Thấy, thì làm sao thấy hư không. Nếu hư không tức là cái Thấy, thì sao lại là hư không? Tôi lại suy nghĩ: trong muôn vật đó, phát minh cho kỹ lưỡng, thật không có cái gì chẳng phải là cái Thấy cả”.

Phật nói: “Đúng thế, đúng thế!”

Thông rằng:

Ông Anan đã biết “Cái chỉ được đều là vật, không có cái gì là cái Thấy” thì thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài, không có Tánh Thấy riêng biệt có thể chỉ ra được, mà sao lại nói “Nay cái Diệu Tánh ấy hiện bày trước mặt tôi”? Hơn nữa, đã biết “Trong muôn tượng, không có cái gì chẳng phải là cái Thấy”; tức thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài không có cái gì chẳng phải là Tánh Thấy, sao lại còn hỏi “Tánh Thấy thật là tôi, mà thân chẳng phải là tôi”?

Đức Thế Tôn bèn khiến ông tự phát huy, khiến cái nghi ngờ từ trước được giải tan ngay.

Xưa, thầy Thủ Tòa Tử Chiêu hỏi Hòa Thượng Pháp Nhãn: “Hòa Thượng khai đường kế pháp người nào?”

Tổ Nhãn rằng : “Ngài Địa Tạng”.

Thầy Chiêu nói: “Rất phụ phàng Tiên Sư Trường Khánh!”

Tổ Nhãn: “Tôi chẳng hiểu một lời chuyển ngữ của Ngài Trường Khánh”.

Thầy Chiêu nói : “Sao không hỏi?”

Tổ Nhãn : ““Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân [Vạn tượng chi trung độc lộ thân]” ý là sao?”

Thầy Chiêu bèn dựng đứng cây phất tử.

Tổ Nhãn : “Đó là cái học được ở chỗ Ngài Trường Khánh, còn riêng Thủ Tòa thì sao?”

Thấy Chiêu không nói được.

Tổ Nhãn nói : “Chỉ như Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân, đó là bác bỏ muôn tượng hay không bác bỏ muôn tượng?”

Thầy Chiêu đáp : “Chẳng bác bỏ”.

Tổ Nhãn nói : “Hai cái!”

Hỏi những người chung quanh, đều nói : “Bác bỏ muôn tượng”.

Tổ Nhãn nói: “Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân, cái Phù trừ quỉ!”.

Về sau, Thượng Tọa Tử Phương cũng từ Trường Khánh đến.

Tổ Nhãn lại đưa ra câu nói ấy. Thầy Tử Phương cũng dựng phất tử.

Tổ Nhãn nói: “Như thế này thì lại tranh cãi được!”

Thầy Phương nói: “Tôn ý của Hòa Thượng như thế nào?”

Tổ Nhãn đáp: “Kêu cái gì làm muôn tượng?”

Thầy Phương: “Người xưa chẳng bác bỏ muôn tượng!”

Tổ Nhãn nói: “Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân. Nói gì bác, chẳng bác?”

Thầy Tử Phương bỗng tỏ ngộ lời nói trước của Tổ Pháp Nhãn.

Cái loại cơ duyên này vốn từ chỗ Ngài Địa Tạng mà đắc, làm sao chẳng phải nói pháp Ngài Địa Tạng!

Mới đầu, Tổ Pháp Nhãn cùng với thầy Thiệu Tu, Pháp Tấn ba người đi đến Ngài Địa Tạng. Ngồi sưởi mà bàn về bộ Triệu Luận. Đến câu “Trời đất cùng ta đồng gốc”, Ngài Địa Tạng hỏi: “Núi sông, đất đai với tự kỷ của Thượng Tọa là đồng hay khác?”

Ngài Pháp Nhãn đáp: “Khác”.

Tổ Tạng đưa lên hai ngón tay.

Ngài Nhãn nói: “Đồng”.

Tổ Tạng lại đưa lên hai ngón tay, rồi đứng lên bỏ đi.

Tuyết ngưng, ba người từ giã ra về.

Tổ Tạng đưa tiễn ra cửa, rồi nói: “Bình thường, Thượng Tọa hay nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Bèn chỉ phiến đá ngoài sân, hỏi: “Hãy thử nói phiến đá kia là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?”

Ngài Pháp Nhãn nói: “Ở trong tâm”.

Tổ Tạng nói: “Người hành cước vì lý do nào mà lại để phiến đá ở trong tâm?”

Ngài Pháp Nhãn cùng quẫn, không sao đáp được, bèn ném áo xuống chiếu, ở lại để cầu quyết trạch. Hơn một tháng, ngày kia Ngài trình kiến giải, nói cái lý đạo.

Tổ Tạng nói: “Phật Pháp chẳng phải như thế”.

Ngài Pháp Nhãn nói : “Tôi đã hết lời, tuyệt lý rồi”.

Tổ Tạng nói: “Nếu luận Phật Pháp, thì hết thảy hiện thành”.

Ngài Pháp Nhãn, ngay dưới câu nói đại ngộ. Mới tin rằng chỗ học được với Ngài Trường Khánh là chưa tới.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Lìa niệm: thấy Phật

Dẹp trần: ra kinh

Hiện thành gia pháp

Nào lập môn đình?

Trăng cùng thuyền lướt, sông trong vắng

Xuân theo ngọn cỏ ngấn tươi xanh

Bác, chẳng bác - Nghe cho kỹ!

Ba đường hoang trống về liền được

Tùng cúc thuở xưa hương vẫn thơm”.

(Ly niệm kiến Phật

Phá trần xuất kinh

Hiện thành gia pháp

Thùy lập môn đình

Nguyệt trục chu hành giang luyện tịnh

Xuân thùy thảo thượng thiên ngấn thanh

Bác, bất bác thinh đinh ninh

Tam kính tựu hoang quy tiện đắc

Cựu thời tùng cúc thượng phương hình).

Hãy lấy tắc công án này cùng với đoạn kinh trên, lật đi lật lại cho rõ ràng mùi mẻ, thì chẳng biết là Ông Quách Tượng [Nhà chú giải Trang Tử Nam Hoa Kinh] giải thích Trang Tử, hay Trang Tử giải thích Quách Tượng?

Thiện Tâm
08-05-2015, 03:01 PM
Kinh:

Khi ấy, trong đại chúng những vị chưa chứng quả Vô Học nghe Phật nói thế, mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng thời sợ hãi, mất chỗ bám níu.

Như Lai biết đại chúng tâm niệm rối loạn, sanh lòng thương xót, an ủi Ông Anan và đại chúng rằng: “Này các trai lành, bậc Vô Thượng Pháp Vương, thật là Chân Thật Ngữ: như tánh Chân Như mà nói, không dối, không vọng, không phải là bốn thứ nghị luận càn dở Bất Tử của nhóm Mạt Già Lê. Ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương mến của Ta”.

Thông rằng:

“Mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy trước sau thế nào?” Trước là, “Cái Thấy chẳng phải là vật”. Sau là, “Cái Thấy chẳng phải là không phải vật”. Cái trước tức là “Chân Tánh hiện tiền”, cái sau tức là “Không thể chỉ ra được”. Cho nên mờ mịt mất chỗ bám níu vậy.

Chân Thật Ngữ v.v... tức là năm lời nói trong Kim Cang Bát Nhã:

- Phật Chân Ngữ thì chung với Nhị Thừa;

- Phật Thật Ngữ thì chung đồng với hàng Bồ Tát;

- Phật Như Ngữ thì không chung với Bồ Tát hay Nhị Thừa;

- Phật Vô Thật Ngữ;

- Phật Vô Hư Ngữ.

Vô Hư nên không là lời lừa dối, Vô Thật nên chẳng có khác lời. Chỗ thấy chưa dứt khoát cho nên nói “Chẳng khác”. Đây chỉ để nói tóm là không vọng ngữ.

Trong Luận Bà Sa: “Ngoại đạo cho trời là thường trụ, gọi là Bất Tử, cho rằng đáp lời mà chẳng rối loạn thì sanh về cõi trời kia. Nếu thật chẳng biết mà vội trả lời, thì sợ thành Kiểu Loạn [Dối trá, lộn xộn]. Nên khi hỏi thì đáp những lời bí mật, không cần phải nói ra đây. Hoặc là đáp một cách bất định. Phật quở rằng : Đó thật là kiểu loạn ”.

Đức Thế Tôn, nhân có ngoại đạo hỏi: “Hôm qua Ngài thuyết pháp gì ?”

Phật đáp : “Thuyết định pháp”.

Ngoại đạo lại hỏi: “Hôm nay thuyết pháp gì?”

Ngài đáp: “Bất định pháp”.

Ngoại đạo nói: “Hôm qua giảng định pháp, hôm nay sao lại giảng bất định pháp?”

Đức Phật nói: “Hôm qua định, hôm nay chẳng định”.

Hãy nói xem lời nói này của Thế Tôn là như Tánh Chân Như mà nói hay là kiểu loạn? Hãy tham!

Thiện Tâm
08-05-2015, 03:04 PM
IV. NGÀI VĂN THÙ KÍNH XIN PHẬT PHÁT MINH HAI THỨ

Kinh:

Lúc ấy, Ngài Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi thương xót hàng tứ chúng, ở giữa đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, các đại chúng đây không ngộ được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa Tức Là (Thị) và Chẳng Phải Là (Phi Thị) nơi hai thứ Cái Thấy và Sắc Không. Thưa Thế Tôn, nếu những hình tượng tiền trần sắc không trước mắt tức là cái Thấy thì phải có chỗ chỉ ra được. Còn nếu chẳng phải là cái Thấy thì lẽ ra không thể thấy được. Nay đại chúng không rõ nghĩa ấy về đâu, nên mới kinh sợ, chứ không phải căn lành đời trước kém thiếu. Kính mong Như Lai thương xót, phát minh cho rõ: các vật tượng này và cái Thấy ấy vốn là vật gì mà ở trong đó không có các nghĩa Phải (Thị) cùng Chẳng Phải (Phi Thị)?”

Phật bảo Ngài Văn Thù cùng tất cả đại chúng rằng: “Mười phương Như Lai và các Đại Bồ Tát ở trong Tự Trụ Tam Ma Địa, thì trong ấy, cái thấy và cái được thấy cùng các chỗ Tưởng Tướng đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không chỗ có. Cái thấy cho đến những cái được thấy, tất cả vốn là Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu. Làm sao ở trong đó lại có Phải hay Chẳng Phải?”

Thông rằng:

Đức Văn Thù là thầy của bảy vị Phật thời quá khứ, quen thuyết Như Lai Thiền, nên yêu cầu Thế Tôn phát minh ra các vật tượng và cái Thấy vốn là vật gì. Trước, Đức Thế Tôn đã dạy “Sao chẳng biết sắc thân cho đến núi sông, hư không, đại địa đều là vật ở trong cái Chân Tâm Diệu Minh này”. Đã mở toang rõ ràng ra rồi, còn nói gì nữa! Vậy mà ở trong đó, bác bỏ vạn tượng thì mới có cái Chẳng Phải, không bác bỏ vạn tượng thì bèn có cái Phải. Hai tướng Phải, Chẳng Phải thật cùng cực vi tế, chỉ có cái Thấy chân chánh trực tiếp Thể Bồ Đề Vô Thượng mới có đường thoát thân. Cái Tâm Tánh Diệu Tịnh sáng suốt này tức là Tự Trụ Tam Ma Địa của Bồ Tát. Ở trong cái Tự Định này thì thoát hẳn căn trần nên cái Thấy cùng cái Được Thấy đều bất khả đắc.

Sắc Không là duyên cho cái Thấy, cho đến Tưởng Tướng là duyên của cái Ý, thuộc về sáu Trần. Thấy, Nghe, Hay, Biết thuộc về sáu Thức. Chứng Bồ Đề, không chỉ là Sở không, mà Năng cũng không. Nên nói “Vốn không chỗ có”, Năng Sở đều không. Cái Thấy cùng cái Được Thấy, hiện là vắng lặng. Tức đó là cái Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu, chẳng kịp luận bàn, chẳng dung phân biệt. “Nhất Thiết Trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, vì không riêng, không dứt” [Kinh Đại Bát Nhã] là vậy. Trong đó, làm sao có được phân biệt để mà nói “Cái này phải thật cái Thấy, cái này chẳng phải cái Thấy”? Nếu gượng sanh Phải hay Chẳng Phải, thì cũng như mắt bệnh, vọng thấy Không hoa. Nơi Chân Tánh Bồ Đề, nào đâu dính dáng!

Ngài Thạch Sương ban đầu đến viếng Tổ Đạo Ngô, hỏi rằng: “Như thế nào là “Chạm mắt là Bồ Đề”?”

Tổ Ngô liền gọi: “Sa di!”

Sa di lên tiếng dạ.

Tổ nói: “Thêm nước vào tịnh bình đi!”

Chập lâu rồi hỏi lại Ngài Thạch Sương: “Ông vừa mới hỏi cái gì thế?”

Ngài Thạch Sương vừa định nói, Tổ Ngô bèn quay về phương trượng.

Ngài Thạch Sương bèn tỉnh ngộ.

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

“Buông tay trở lại, khéo làm Cơ!

Trong tiếng bình thường trí súng, cờ

Hỏi trùng, định đáp, về phương trượng

Câu ấy, phân minh lại chẳng ngờ”.

Muốn biết cái đạo lý “Chẳng Ngờ”, phải hỏi Ngài Thạch Sương mới được!

Về sau, có nhà sư hỏi Tổ Thạch Sương: “Trong khoảng gang tấc, vì sao chẳng thấy mặt thầy?”

Tổ Sương, cách cửa sổ, lên tiếng rằng: “Đạo ta cùng khắp chẳng từng che!”

Nhà sư lại đem đến hỏi Tổ Tuyết Phong : “Cùng khắp chẳng che”, ý chỉ thế nào?”

Tổ Phong đáp: “Có chỗ nào mà chẳng phải là Thạch Sương?”

Tổ Sương nghe được rồi nói rằng: “Cái lão già ấy bám vào để chết cho lẹ!”

Tổ Phong nghe được, bèn nói: “Tội lỗi của lão tăng vì chỉ dư một chữ “là”, mà dẫn người vào trong hang Tình giải, may gặp Thạch Sương mổ xẻ, phanh phui”.

Trong khoảng mảy lông, chẳng phải là bậc có mắt thì nào có biện ra nổi!

Thiện Tâm
08-06-2015, 03:57 PM
V. TÁNH THẤY KHÔNG CÓ PHẢI HAY CHẲNG PHẢI


Kinh:

“Văn Thù, nay ta hỏi ông: “Như ông chính là Văn Thù, vậy thì còn có Văn Thù nào tức là Văn Thù nữa hay không?”

- Bạch Thế Tôn, đúng thế! Tôi chính thật là Văn Thù, không có cái gì tức là Văn Thù nữa. Tại sao thế? Nếu có cái Tức Là nữa thì thành ra hai Văn thù, nhưng giờ đây tôi chẳng phải không là Văn Thù. Trong đó, quả thật không có hai tướng Tức Là hay Chẳng Phải.

Thông rằng:

Câu “Tôi chính thật là Văn Thù” trả lời nghĩa thứ nhất, bày ra cái Tâm Thể Bồ Đề sáng sạch, nhiệm mầu.

Câu “Không có cái gì tức là Văn Thù nữa” trả lời nghĩa thứ hai, phá cái chấp Sắc Không là cái Thấy.

Câu “Chẳng phải không là Văn Thù” trả lời nghĩa thứ ba, phá cái chấp Sắc Không chẳng phải là cái Thấy”.

Nếu bảo rằng “Sắc Không là Chơn Kiến”, thế là từ Vọng mà biện Chơn, do đó, đối với Cái Chơn của không Vọng thành ra hai nghĩa, nên nói: Nếu có Tức là Văn Thù thì thành ra hai Văn Thù.

Nếu bảo rằng “Sắc Không chẳng phải là Chân Kiến”, thế mà toàn thể vọng cảnh là chân, nên mới nói “Giờ đây tôi chẳng phải là không Văn Thù”.

Tổ Lạc Phổ bảo với đại chúng: “Nay có một việc muốn hỏi các ông: nếu nói là Phải tức là trên đầu chồng thêm đầu, nếu nói là Chẳng Phải, tức là chặt đầu mà cầu sống”.

Thầy Đệ Nhất Thủ Tòa nói: “Núi xanh thường cất bước, dưới mặt trời chẳng khêu đèn”.

Tổ Phố nói: “Đó là thời tiết nào mà nói lời ấy?”

Khi ấy, có thầy Thượng Tọa Ngạn trả lời rằng: “Lìa hai lối ấy, xin Hòa Thượng chớ hỏi!”

Tổ Phố nói rằng: “Chưa đúng trong đó. Nói lại đi!”

Thầy Ngạn đáp: “Ngạn này theo thì nói không cùng tận!”

Tổ Phố nói: “Ta chẳng kể ông cùng tận hay chẳng cùng tận!”

Đáp: “Ngạn theo hay không theo ấy, chỉ đối với Hòa Thượng”.

Tổ Phố bèn thôi.

Ngài Tu Sơn Chủ kệ rằng :

“Tức là cột, chẳng thấy cột

Chẳng phải cột, chẳng thấy cột

Thị [Tức là], Phi [Chẳng phải]đã bỏ hết

Trong Thị Phi, mời dùng”.

(Thị trụ bất kiến trụ

Phi trụ bất kiến trụ

Thị Phi dũ khứ liễu

Thị Phi lý tiến thủ).

Đối với hai tắc trên mà thấu thoát, thì Thị, Phi có thể tiêu tan hết!

Xưa, Ngài Phong Can muốn đi chiêm bái Ngũ Đài Sơn, hỏi Ngài Hàn Sơn và Thập Đắc rằng: “Các ông cùng ta đi thăm Ngũ Đài, tức là đồng lưu của ta; nếu chẳng cùng ta đi thăm Ngũ Đài thì chẳng phải là đồng lưu của ta!”

Ngài Hàn Sơn hỏi: “Ông đi Ngũ Đài làm gì?”

Ngài Phong Can đáp: “Lễ bái Văn Thù”.

Ngài Hàn Sơn nói: “Ông chẳng phải là đồng lưu của ta”.

Ngài Phong Can một mình đi vào Ngũ Đài, gặp một ông lão, bèn hỏi: “Chẳng phải là Văn Thù ư?”

Đáp: “Há lại có hai Văn Thù?”

Ngài bèn lễ bái, chưa kịp đứng lên, bỗng nhiên chẳng còn thấy.

Tổ Triệu Châu nói thay rằng: “Văn Thù, Văn Thù, lại Văn Thù! Ba phen bỏ Hạ, Ông Ca Diếp muốn bạch chùy đuổi ra. Vừa cầm dùi lên thì thấy có trăm ngàn, vạn, ức Văn Thù. Ông Ca Diếp dùng hết thần lực mà chùy không dỡ nổi. Đức Thế Tôn bèn hỏi Ông Ca Diếp: “Ông định đuổi Văn Thù nào?” Ông Ca Diếp không đáp được”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Ông Đầu Đà sắc vàng [Ca Diếp] có tâm mà không có mật. Cứ hết lệnh mà làm! Chớ bảo trăm, ngàn, vạn, ức Văn Thù. Ngay cái Lão Cù Đàm mặt vàng ấy cũng phải đuổi ra! Nếu có thể như vậy thì không những dựng thẳng Chân Phong mà cũng khiến người sau biết rằng học trò của thầy tu ta khỏi cho rằng ông ngăn cản Phật Tổ chẳng được!”

Khoái thay! Khoái thay! Phải nên như vậy mà thấy. Ắt là cái Tâm Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu cũng không có chỗ bám níu, làm sao mà có được hai tướng Thị, Phi?

Thiện Tâm
08-06-2015, 04:17 PM
Kinh:

Phật dạy: “Tánh Thấy mầu sáng này cùng các thứ Không, Trần cũng lại như thế. Vốn là Chân Tâm Bồ Đề Vô Thượng, tròn sáng, mầu sạch mà lầm nhận cho là Sắc, Không cho đến các thứ Thấy, Nghe. Như mặt trăng thứ hai. Hai mặt trăng ấy, cái nào là mặt trăng thật, cái nào chẳng phải là mặt trăng ? Văn Thù ! Chỉ có một mặt trăng thật, trong đó tự không có cái Tức Là mặt trăng hay cái Chẳng Phải là mặt trăng!

Thông rằng:

Câu “Vốn là Chân Tâm Bồ Đề Vô Thượng, tròn sáng mầu sạch mà lầm nhận là Sắc, Không cùng với các thứ Thấy, Nghe” cùng với câu ở đoạn trước: “Mê muội thành ra hư không, trong cái hư không mê muội ấy, kết cái tối tăm thành ra có Sắc, Sắc xen lẫn với vọng tưởng, tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay động bên trong, rong ruổi theo cảnh vật bên ngoài, rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng đó làm Tâm Tánh”, thì chỗ sanh khởi giống nhau, đều do lấy vọng tưởng làm chỗ sùng mộ vậy. Vọng tưởng là gốc bệnh, như dụi mắt mà thấy vậy. Vốn là một Chân Tâm Mầu Sáng mà lấy cái thấy vọng tưởng phân biệt để nhìn, bèn có cái thấy sắc không, nghe-thấy. Cái vọng thấy và cái vọng-được-thấy này há có thể lìa Chân Tâm mà có tự thể sao? Đã gọi nó là Sắc, Không, Nghe, Thấy thì cách Chân Tâm xa rồi vậy. Ví như vốn một mặt trăng chơn thật, mà dùng cái thấy phân biệt của sự dụi mắt mà nói là có mặt trăng thứ hai. Cái mặt trăng thứ hai này há có thể lìa ngoài mặt trăng thật mà có tự thể sao? Đã gọi nói là mặt trăng thứ hai thì cách xa mặt trăng thật rồi đó. Cho nên, ở nơi Sắc, Không, Nghe, Thấy mà vọng làm chuyện đo lường mò mẫm rồi cho Sắc, Không, Nghe, Thấy tức là Chân Tâm cũng không được, mà cho rằng chẳng phải Chân Tâm cũng không được! Lấy Vọng tìm Chơn : Chơn theo Vọng mà chuyển! Cũng như ở nơi mặt trăng thứ hai mà vọng làm chuyện tính toán mò mẫm, lấy đó cho rằng tức là mặt trăng thì không được, mà cho là chẳng phải mặt trăng cũng không được! Lấy cái dụi mắt tìm trăng, trăng tùy theo dụi mắt mà chuyển!

Cái Tâm này vốn Chơn, bởi tùy Vọng Tưởng mà đổi. Như mặt trăng vốn thật, bởi do dụi mắt mà dời. Chỉ dứt trừ vọng tưởng ắt chỉ còn một Tâm Thể tròn sáng nhiệm mầu, không thấy có sắc, không, không thấy cái thấy-nghe, thì Phải, Chẳng Phải do đâu mà lập ? Chỉ trừ sự dụi mắt, ắt độc một mặt trăng, xưa nay vẫn thế, có đâu mặt trăng thứ hai mà Phi mà Thị?

Chỗ này tức là đoạn văn trước nói “Tôi chính thật Văn Thù... Trong đó thật không hề có hai tướng phải cùng chẳng phải”, nên đoạn này nói “Cũng lại như thế”.

Xưa, Ngài Vân Nham đang quét sân.

Tổ Đạo Ngộ nói: “Việc nhỏ mọn quá”.

Vân Nham nói: “Cần biết có cái chẳng nhỏ mọn”.

Tổ Đạo Ngộ nói: “Như thế ắt có mặt trăng thứ hai vậy”.

Ngài Vân Nham đưa chổi lên, nói : “Cái này là mặt trăng thứ mấy?”

Tổ Đạo Ngộ bèn thôi mà bỏ đi.

Tổ Huyền Sa riêng nói rằng: “Đích thị là mặt trăng thứ hai!”

Tổ Trường Khánh rằng: “Bị người ta xây ngược chổi che đến mặt, còn làm quái gì nữa!”

Tổ Sa bèn thôi.

Tổ Vân Môn nói: “Tôi thấy tớ thì ân cần”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Nhờ nhau như thế rõ môn đầu

Được dụng, tùy nghi cũng tiện thôi

Xương voi trước hang tay rắn múa

Chỗ làm hồi nhỏ, già biết thẹn”.

Tổ Tuyết Phong từng khai thị chúng rằng: “Núi Nam có một con miết tỵ xà [Con ba ba lỗ mũi rắn], tất cả các ông cần phải xem cho kỹ”.

Tổ Vân Môn cầm cây gậy ném ra trước mặt, làm bộ sợ hãi.

Chỗ này há chẳng phải là “Tôi thấy tớ thì ân cần” sao? Cùng với Tổ Vân Nham đưa cây chổi lên nào có khác! Cho nên mới nói “Già biết thẹn” vậy.

Thiền sư Tây Viên Tạng một ngày kia tự nấu nước tắm. Có nhà sư hỏi: “Sao chẳng sai Sa di?”

Tổ Viên vỗ tay ba lần.

Vị sư kể lại với Tổ Tào Sơn. Tổ Sơn nói: “Cái vỗ tay, tựu trung là việc kỳ quái của Tây Viên. Một-ngón-tay-Thiền của Câu Chi, cũng vì chỗ thừa đương mà chẳng chịu kham nhận vậy”.

Vị sư lại hỏi: “Ngài Tây Viên vỗ tay, há chẳng phải là chuyện một bên mé của con tôi, cái tớ [Nô nhi, tỳ nữ]sao?”

Tổ Sơn nói: “Phải”.

Hỏi: “Hướng thượng [Từ ngọn chỉ gốc] lại có chuyện hay không?”

Tổ Sơn rằng : “Có”.

Hỏi: “Như thế nào là chuyện hướng thượng?”

Tổ Sơn nói: “Cái đồ con tôi, cái tớ”.

Xem cái lối đề xướng ấy của các vị lão túc, chính là sợ cho người nhận “Tớ làm chồng”, sa vào trong kiến giải mặt trăng thứ hai.

Thiện Tâm
08-06-2015, 04:28 PM
Kinh:

“Vậy nên, hiện nay các ông phát minh các thứ Xem Thấy và trần cảnh đều là vọng tưởng, thì không thể ở trong đó mà chỉ ra Phải hay Chẳng Phải. Nhưng do tất cả đều là Chân Tâm nhiệm mầu sáng suốt nên có thể làm cho các ông ra khỏi các nghĩa Chỉ được và Không chỉ được”.

Thông rằng:

Nếu chưa thấy Tánh thì Tánh ở trong cái Thấy, cùng tên là Kiến Tinh, đủ các thứ vọng tưởng phân biệt thì làm sao ra khỏi Tức là hay Chẳng Phải được. Nếu thấy Tánh, thì Tánh thoát ngoài cái Thấy, nên chẳng gọi là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Tất cả phân biệt đều không, nên thoát ra ngoài sự Chỉ được hay Không chỉ được.

Câu “Không thể ở trong đó chỉ ra các nghĩa Phải và Chẳng Phải”, thì như mặt trăng thứ hai: cái nào Tức là mặt trăng ? Cái nào Chẳng Phải mặt trăng?

Câu “Nên có thể làm cho các ông ra ngoài các sự Chỉ được và Không chỉ được”, thì như một mặt trăng thật, trong đó tự nhiên chẳng có thật hay giả.

Vật là cái được chỉ ra, như đoạn trước nói “Những cái chỉ ra được đều là Vật”. Cái Thấy không có chỗ nào để chỉ ra, như đoạn trước nói “Chứ không phải là cái Thấy”. Ông Anan tuy có thể phát minh được hai nghĩa “Tiền trần chẳng phải là cái Thấy” và “Tiền trần tức là cái Thấy”, nhưng còn bị Thị, Phi trói buộc, chẳng thể thoát ra, cũng do bởi vì không biết chỗ quy về của cái nghĩa này, chỗ đó là Thấy Tánh vậy.

Nếu thấy cái Chân Tánh tròn sáng, nhiệm mầu vốn hằng hằng giác ngộ, thì cái Thấy cùng cái Được Thấy vốn không chỗ có, chỗ nào có cái “Chỉ ra”? Cái Thấy này cùng cái Được Thấy vốn là Tâm Thể Bồ Đề sáng sạch nhiệm mầu, thì chỗ nào mà chỉ ra chẳng được? Trong Thể Bồ Đề ấy, không có cái gì gọi là Phải hay Chẳng Phải, mới là con đường thoát thân (xuất thân). Chữ Xuất (thoát ra) ở chánh văn rất có ý vị. Sở dĩ ra được phải do chỗ này, nên kinh nói “Do thị”, chỉ rằng phải vào trong Kiến Tánh mới có thể ra được.

Có nhà sư hỏi Tổ Thiều Sơn: “Chỗ thị phi không đến, còn có câu biện luận không?”

Tổ đáp: “Có”

Nhà sư hỏi: “Đó là câu gì?”

Tổ Sơn nói: “Một mảnh mây trắng chẳng lộ bày vẻ xấu”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Khắp thân che chở, chẳng phạm tôn nghiêm. Bỏ địa vị lui về, ở một bên nâng đỡ. Cần nên uyển chuyển. Có thấy hình tướng của Thiều Sơn ở chốn nào? Nếu tận lực tìm cha, hãy hướng vào trong ấy!”

Tổ Động Sơn kệ rằng:

“Núi xanh: cha mây trắng

Mây trắng: con núi xanh

Mây trắng suốt ngày dựa

Núi xanh vốn chẳng hay”.

(Thanh sơn bạch vân phụ

Bạch vân thanh sơn nhi

Bạch vân chung nhật ỷ

Thanh Sơn tổng bất tri)

Tổ Thiều Sơn nói: “Một mảnh mây trắng chẳng lộ bày vẻ xấu” vốn là đây”.

Có vị tăng hỏi thị giả Cổ Phong Kiền: “Như thế nào là nối bề ngoài?”

Ngài Phong nói rằng: “Chẳng nhờ việc trong nhà người khác”.

Hỏi: “Như thế nào là nối bề trong”.

Ngài đáp : “Nếu tìm cha, hãy hướng vào trong ấy!”

Tổ Thiên Đồng nói: “Tận lực tìm cha, hãy hướng vào trong ấy, vốn là chỗ này”.

Lại Tổ Đầu Tử tụng rằng :

“Mây trắng không hề đến đỉnh non

Mắt đầy khói, ráng, cảnh muôn ngàn

Một câu ngâm lạnh, ngàn xưa điệu

Muôn trùng xanh biếc, mọc trăng non”.

Phải biết rằng cái Tánh mầu sáng vốn hằng hằng Giác Ngộ, vượt ngoài Phải cùng Chẳng Phải, như mặt trăng thứ nhất. Phải rốt ráo được tông chỉ của Tông Tào Động mới được chỗ vi diệu.

Thiện Tâm
08-07-2015, 06:09 PM
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC BỐN: PHÁ NHỮNG THUYẾT NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN

I. NGHI TÂM TÍNH TỰ NHIÊN NHƯ THẦN NGÃ.

Kinh:

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, thật như chỗ Pháp Vương [Phật]dạy: Cái Giác Duyên [Tâm Tánh] cùng khắp mười phương thế giới, lặng trong, thường trụ, tánh chẳng có sanh diệt. So với thuyết Minh Đế của nhóm Ông Phạm Chí Ta Tỳ Ca La [Thuộc ngoại đạo], hay cái thuyết Chân Ngã cùng khắp mười phương của các nhóm ngoại đạo Đầu Khôi [La hán tiểu thừa. Hoặc vào phép Hỏa Định (ngồi định mà chết, lấy lửa phép đốt tiêu cái thức đầu thai và cái nghiệp luân hồi); hoặc do thiêu xác (dùng giàn hỏa) Nên sắc thân tiêu dứt ra tro] có gì là khác?

“Thế Tôn cũng từng ở núi Lăng Già vì các Bồ Tát Đại Huệ mà giảng bày nghĩa này: Các ngoại đạo kia thường nói Tự Nhiên, còn Ta nói Nhân Duyên, chẳng phải cảnh giới của họ. Nay tôi xem cái Giác Tánh ấy, thấy là Tự Nhiên, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, lìa xa tất cả hư vọng điên đảo, hình như chẳng phải là Nhân Duyên, cũng không phải là Tự Nhiên của họ.

“Xin Phật khai thị thế nào để chúng tôi khỏi lạc vào tà kiến, được cái Tâm Tánh chân thật, mầu sáng, giác ngộ”.

Thông rằng:

Chỗ nói Minh Đế của ngoại đạo, Thể chẳng sanh diệt, nói có Thần Ngã cùng khắp mười phương, chỉ là lấy cái Thức Thứ Tám làm Tông, chỉ được cái mùi vị vui thú mờ mờ mịt mịt, chớ chẳng phải có cái nhiệm mầu của Đại Viên Cảnh Trí. Đã có Thần Ngã, tức là căn bản sanh tử, sao được là cái Nhân Địa Chân Chánh?

Phật nói Nhân Địa Chân Chánh tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, lấy cái chẳng sanh chẳng diệt làm cái Nhân Địa tu hành, chẳng phải là cái nhân duyên thế tục.

Ông Anan vừa mới tin được, bỗng khởi nghi mà nói “Hình như chẳng phải là Nhân Duyên, cũng không phải là Tự Nhiên của ngoại đạo”, mà còn cho Giác Tánh là Tự Nhiên, nói rằng Giác Tánh lìa xa hai tướng Thị và Phi, lặng trong, thường trụ nên gọi là Tự Nhiên. Trước thì chấp cái Thấy Sông [Thấy Sông : xem Quyển I, phần II] là chẳng Sanh Diệt, đã là chưa đạt đến cội gốc. Nay thì chỉ ra cái “Tánh lìa khỏi cái Thấy”, cho đó là Tự Nhiên, lại càng chưa siêu thoát. Nên ông cầu xin Thế Tôn khai thị cho khỏi lạc vào những tà kiến hư vọng điên đảo của các thuyết Tự Nhiên và Nhân Duyên.

Tổ Trường Sa Sầm khiến vị tăng hỏi Hòa Thượng Hội: “Khi chưa thấy Nam Tuyền thì như thế nào?”

Ngài Hội im lặng hồi lâu.

Vị tăng hỏi: “Sau khi thấy thì thế nào?”

Ngài Hội nói: “Không thể riêng có!”

Vị tăng về thưa lại với Tổ Trường Sa. Tổ Sa nói :

“Đầu sào trăm thước đã được ngồi

Tuy rằng nhập được vẫn chưa Chân

Đầu sào trăm thước cần tiến bước

Mười phương thế giới hiện toàn thân”.

(Bách xích can đầu tọa để nhơn

Tuy nhiên đắc nhập bất vi Chơn

Bách xích can đầu tu tấn bộ

Thập phương thế giới hiện toàn thân).

Vị tăng hỏi: “Đầu sào trăm thước làm sao tiến bước?”

Tổ Sa đáp: “Núi Lãng Châu, sông Lễ Châu”.

Vị tăng thưa: “Dạ, chẳng am hiểu”.

Tổ Sa rằng: “Bốn biển, năm hồ vua trị trông”.

Ngài Thiên Đồng tụng:

“Một tiếng gà phá mộng ngọc nhân [Người ngọc]

Nhìn lại cuộc đời sắc sắc bằng

Có tin xuân sấm dục trùng nở

Đào lý vô ngôn, tự thành đường (lối)

Đến thời tiết, gắng sức cày

Ai ngại ruộng xuân bùn lút cẳng?”.

Cũng như họp nhau ngồi ở chỗ sạch sẽ, chẳng thể xuống nước, xuống bùn, ra tay ngang dọc bèn là cùng sanh diệt chống trái. Nên tuy là có nhập nhưng chẳng phải chân thật. Chỗ ngoại đạo gọi là Minh Đế, đại khái tựa hồ như đây.

Tổ Trường Sa nói: “Mười phương thế giới hiện toàn thân. Ngoại đạo cũng nói có Thần Ngã cùng khắp mười phương. Chỗ nào chẳng đồng, thử tham coi!”

Thiện Tâm
08-07-2015, 06:14 PM
II. CHỈ RA KHÔNG PHẢI LÀ TỰ NHIÊN

Kinh:

Phật bảo Ông Anan: “Nay Ta phương tiện chỉ bày chân thật bảo ông như thế, ông còn chưa ngộ mà lầm cho là Tự Nhiên!

“Anan, nếu chắc là Tự Nhiên, tự phải chỉ rõ thể tánh của Tự Nhiên. Ông hãy xét trong cái Thấy Diệu Minh đó, lấy cái gì làm tự thể? Cái Thấy đó lấy cái sáng làm tự thể ư? Lấy cái tối làm tự thể ư? Lấy hư không làm tự thể ư? Lấy cái ngăn bít làm tự thể ư?

“Anan, nếu cái sáng là tự thể thì lẽ ra không thấy cái tối! Nếu lấy cái không làm tự thể thì lẽ ra không thấy được ngăn bít. Như vậy cho đến lấy cái tướng tối làm tự thể thì đến khi sáng, thì cái Tánh Thấy phải diệt mất, làm sao còn thấy cái sáng?”

Thông rằng:

Nói rằng Tự Nhiên tức là nói tự thể vốn y nhiên thường trụ chẳng biến đổi. Vậy cái Tánh Thấy mầu sáng này lấy cái thấy sáng làm Tự Nhiên ư? Lấy cái thấy tối làm Tự Nhiên ư? Lấy thấy hư không làm Tự Nhiên ư? Lấy ngăn bít làm Tự Nhiên ư? Nếu tự nhiên thấy Sáng thì lẽ ra không thấy Tối! Nếu tự nhiên thấy hư không thì lẽ ra không thấy ngăn bít! Nếu tùy Duyên mà biến đổi thì cái Thể chẳng phải là Tự Nhiên vậy.

Hoặc nói cái Thấy ấy là cái thể của Tự Nhiên; sáng, tối, hư không, ngăn bít tùy duyên mà thấy, há chẳng phải Tự Nhiên ư? Nhưng giả sử không có sáng, tối, hư không và ngăn bít thì cái Thấy dùng vào đâu? Cái gọi là Tự Nhiên ấy đều thành đoạn diệt đấy thôi.

Ở đây chỉ bác bỏ là không thể lấy Tự Nhiên làm Tánh Thấy, chứ chẳng phải nói rằng cái Tánh Thấy do sáng, tối, không, bít mà có. Nếu luận về chỗ sanh khởi từ đâu thì Tánh Thấy tuy chẳng do sáng, tối, không, bít mà có, lại từ Bổn Giác Diệu Minh lưu xuất ra. Nhưng thế thì Bổn Giác Diệu Minh lấy gì làm tự thể, thật mở miệng chẳng nói được!

Tổ Thạch Sương ban đầu ở Tổ Quy Sơn làm người giã gạo. Một hôm, đang sàng gạo, Tổ Quy Sơn nói: “Vật của thí chủ chớ làm rơi rớt”.

Ngài nói: “Chẳng có rơi rớt”.

Tổ Quy Sơn nhặt được một hột gạo trên mặt đất, rồi nói: “Ông nói chẳng rơi rớt, vậy cái này là cái gì?”

Ngài Thạch Sương không đáp được.

Tổ Quy Sơn lại nói: “Chớ khinh thường một hột gạo này. Trăm ngàn hột đều do một hột này sanh ra”.

Ngài Thạch Sương nói rằng: “Trăm ngàn hột từ một hột ấy sanh ra, chưa rõ một hột ấy từ chỗ nào sanh?”

Tổ Quy Sơn ha hả cười lớn, quay về phương trượng.

Tối đến, Tổ Quy thượng đường nói: “Này đại chúng, trong hột gạo có sâu, các người hãy xem cho kỹ!”

Ôi! Tìm cầu tự thể của cái sanh ra này chẳng thể được! Chỗ nào để an lập cái tên Tự Nhiên đây? Cho nên gọi ấy là Tự Nhiên thì chẳng phải!

Thiện Tâm
08-07-2015, 06:23 PM
III. NGHI LÀ NHÂN DUYÊN

Kinh:

Ông Anan thưa: “Chắc là cái Tánh Thấy mầu nhiệm này Tánh nó chẳng phải là Tự Nhiên, thì nay tôi phát minh là nói do Nhân Duyên sanh, nhưng tâm trí còn chưa rõ, xin hỏi Như Lai, nghĩa lý thế nào cho hợp với Tánh Nhân Duyên?”

Thông rằng:

Ông Anan thường nghe Thế Tôn lấy Nhân Duyên phá Tự Nhiên. Giờ đây, cái Tánh Thấy này đã chẳng phải là Tự Nhiên, ắt phải thuộc về Nhân Duyên. Bèn nghi cái nghĩa Nhân Duyên: vô thường, sanh diệt, đây có, kia không, thể chẳng thường khắp. Thế thì há đồng với Giác Tánh lặng trong thường trụ sao? Hành tướng trái nhau, làm sao hợp với Tánh Nhân Duyên? Cái nghi này rất vi tế. Luận Trung Quán nói: “Không có vật gì từ Duyên mà sanh khởi. Không có vật gì theo Duyên mà diệt mất. Khởi chỉ là các Pháp khởi. Diệt chỉ là các Pháp diệt”. Cũng như vẽ trên nước thành chữ, chưa từng sanh ra hay diệt mất. Như thế thì làm sao mà hợp với tính nhân duyên?

Thiền sư Báo Ân Minh thường nêu lên bài Minh ở tháp của Ngài Tuyết Phong mà hỏi các vị lão túc: “Phàm từ Duyên mà có: trước sau đều thành, hoại. Chẳng từ Duyên mà có: trải kiếp vẫn lâu bền. Bền chắc với hư hoại, dẹp qua một bên! Ngài Tuyết Phong ngày nay ở tại chỗ nào?”

Ngài Pháp Nhãn riêng nói rằng: “Chỉ nay, đấy là thành, đấy là hoại!”

Các bậc lão túc đương thời chẳng thể đối đáp.

Chỗ này há có thể lấy sự nông cạn mà dòm ngó sao?

Thiện Tâm
08-07-2015, 06:26 PM
IV. TÁNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ NHÂN DUYÊN, RỜI CÁC DANH, TƯỚNG

Kinh:

Phật dạy: “Ông nói Nhân Duyên, Ta hỏi ông: “Nay ông do nhân bởi cái Thấy, Tánh Thấy hiện tiền. Vậy cái Thấy này nhân cái sáng mà có thấy? Nhân cái tối mà có thấy? Nhân hư không mà có thấy? Nhân ngăn bít mà có thấy?

“Anan, nếu cái Thấy nhân cái sáng mà có thì lẽ ra không thấy được tối; còn như nhân cái tối mà có thì lẽ ra không thấy được cái sáng. Như vậy cho đến nhân hư không, nhân ngăn bít thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối.

“Lại nữa, Anan, cái Thấy ấy lại là nương cái sáng mà có thấy? Nương cái tối mà có thấy? Nương hư không mà có thấy hay nương ngăn bít mà có thấy? Anan, nếu nương hư không mà có thấy thì lẽ ra không thấy được ngăn bít. Nếu nương ngăn bít mà có thấy thì lẽ ra không thấy được hư không. Như vậy cho đến nương cái sáng, nương cái tối cũng đồng như nương hư không, nương ngăn bít.

“Nên, biết rằng cái Tinh Giác Diệu Minh như thế chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên, cùng chẳng phải Tự Nhiên, chẳng phải Không Tự Nhiên. Không có cái Không Phải hay Không Không Phải, không có Tức Là hay Không Tức Là, lìa cả thảy tướng, tức là cả thảy pháp. Nay ông làm sao ở trong ấy mà khởi tâm, dùng những danh tướng hý luận thế gian mà phân biệt cho được? Như lấy tay mà nắm bắt hư không, chỉ thêm tự làm nhọc mình. Hư không làm sao lại để cho ông nắm bắt?”

Thông rằng :

Nương vào vật là Nhân; theo với vật là Duyên. Nhân thì gần, Duyên thì xa, nên phân làm hai môn. Tánh Thấy hiện tiền, nếu nói là Thông Bít mà hiển bày, thì được; chứ nói: tánh Thấy nhân sáng, tối, thông bít mà có, thì không được. Nói rằng Tánh Thấy duyên sáng, tối, thông, bít mà phát ra tác dụng, thì được, chứ nói: Tánh Thấy duyên sáng, tối, thông, bít mà khởi, thì không được.

Cho nên nói Nhân Duyên là sai. Vì sao thế?

Cái Tinh Giác Diệu Minh vốn không có hình tướng. Nếu nói là Nhân Duyên, là Tự Nhiên thì thuộc về tướng Nhân Duyên, tướng Tự Nhiên rồi. Bởi vậy, ban đầu nói “Chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên, cũng chẳng phải Tự Nhiên”, là để trừ bỏ Tướng. Nhưng còn cái chẳng phải Tướng ở trong đó. Kế đến nói “Chẳng phải Không Nhân Duyên, chẳng phải Không Tự Nhiên”, là để trừ bỏ Phi Tướng. Nhưng mà còn cái Không Phải Phi Tướng ở trong đó. Cuối cùng thì nói “Không có Không Phải hay Không Không Phải, không có Tức là hay Không Tức là. Đó là cái chỗ mà Phải và Chẳng Phải đều không tới được, chẳng cho phép sự luận bàn, chẳng dung tha suy tính, tức là cái thực tướng Tinh Giác Diệu Minh vậy.

Các tướng Phải hay Chẳng Phải kia đều là vọng tình biến kế phân biệt. Bản Thể Diệu Minh vốn không có chuyện đó, nên nói “Lìa cả thảy Tướng”. Biến kế vọng tưởng phân biệt đã lìa thì đó là cái Thể Viên Thành Thật, chạm vào đâu là hiện bày trước mắt. Thế nên mới nói “Tức cả thảy Pháp”.

Cổ Đức nói “Chỉ lìa vọng duyên tức Như Như Phật”, là nói chỗ này đây vậy.

Xưa, Tổ Sơ Sơn đến chỗ ở của Tổ Quy Sơn bèn hỏi: “Thầy tôi có nói: “Câu có, câu không, như dây leo bám cây. Bỗng nhiên cây ngã, dây khô, câu về chốn nào?”

Tổ Quy Sơn ha hả cười lớn.

Sơ Sơn nói: “Tôi mua vải làm giày, từ bốn ngàn dặm đến đây, Hòa Thượng đâu nên đùa cợt”.

Tổ Quy Sơn gọi thị giả: “Lấy tiền trả lại cho Ông Thượng Tọa này”.

Rồi dặn rằng “Sau này sẽ có con rồng một mắt vì thầy mà chỉ phá cho”.

Sau, Ngài Sơ Sơn đến Tổ Minh Chiêu, kể chuyện cũ.

Tổ Minh Chiêu nói: “Ngài Quy Sơn, có thể nói là đầu chánh, đuôi chánh, chỉ vì chẳng gặp tri âm!”

Ngài Sơ Sơn bèn hỏi: “Cây ngã, dây khô, câu về xứ nào?”

Tổ Chiêu nói: “Lại khiến Quy Sơn phát tiếng cười mới”.

Ngài Sơ Sơn ngay dưới lời nói có tỉnh ngộ, bèn nói: “Thì ra trong cái cười của Quy Sơn vốn có chứa đao!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Dây khô, cây ngã, hỏi Quy Sơn

Ha hả cười to, há chẳng màng?

Trong cười có dao sắc, nhìn ra được

Không đường suy, nói, bặt cơ quan [Máy then]”.

(Đằng khô thọ đảo vấn Quy Sơn

Đại tiếu kha kha khởi đẳng nhàn

Tiếu lý hữu đao không đắc phá

Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan).

Tổ Quy Sơn trong chỗ ấy, trước sau chỉ có ha hả cười to, như một dấu ấn ấn ra.

Ngài Sơ Sơn nói “Trong cái cười có đao!”, bèn chụp được hư không vậy.

Tổ Thạch Củng hỏi Thầy Tây Đường: “Ông có nắm bắt được hư không chăng?”

Ngài Tây Đường đáp: “Nắm bắt được”.

Tổ Củng nói: “Bắt thế nào?”

Tổ Đường lấy tay chụp nắm hư không.

Tổ Củng nói: “Ông chẳng biết chụp!”

Tổ Đường hỏi lại: “Sư huynh bắt như thế nào?”

Tổ Thạch Củng nắm mũi Ngài Tây Đường kéo đi.

Ngài Tây Đường nhịn đau, nói: “Gã đại hung thần này kéo lỗ mũi người!” Liền muốn thoát ra.

Tổ Thạch Củng nói: “Phải như thế mới bắt hư không được”.

Nên chi, lấy danh tướng hý luận mà nắm bắt hư không: Ôi, khó thay! Khó thay!

Thiện Tâm
08-08-2015, 10:44 AM
V. BÁC NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN

Kinh:

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, nếu quả cái Tánh Diệu Giác chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên thế sao Thế Tôn thường chỉ dạy cho chúng Tỳ Kheo rằng Tánh Thấy có đủ bốn thứ Duyên, đó là: Nhân Hư Không, Nhân Ánh Sáng, Nhân Tâm Thức và Nhân Con Mắt. Nghĩa ấy thế nào?”

Phật bảo: “Anan, Ta nói như thế, là nói về các tướng nhân duyên của thế gian, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa. Anan, Ta lại hỏi ông: Các người thế gian nói “Tôi thấy được”, thì thế nào gọi là thấy? Thế nào gọi là không thấy?”

Anan thưa: “Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng, đèn mà thấy mọi thứ hình tướng thì gọi là thấy. Nếu không có ba thứ ánh sáng đó thì không thấy được”.

- Anan! Nếu khi không có ánh sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy tối. Nếu có thấy tối, thì đó chỉ vì không có ánh sáng chứ đâu phải là không thấy? Anan, nếu trong khi tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy, thì khi sáng, không thấy tướng tối, cũng gọi là không thấy. Như thế thì cả hai tướng sáng, tối đều gọi là không thấy cả. Còn nếu như hai cái sáng, cái tối tự lấn đoạt nhau, chứ không phải trong đó cái Tánh Thấy của ông có lúc không có. Như thế thì biết: cả hai lúc sáng và tối đều gọi là thấy, chớ sao lại nói là không thấy?”

Thông rằng:

Chỗ này, Thế Tôn trước là phá cái tướng Nhân Duyên của thế gian, sau là hiển bày cái Đệ Nhất Nghĩa Đế. Thế gian cho rằng cái Thấy nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà có. Nhưng không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn đâu phải là không có cái Thấy, cũng là thấy Tối, thấy Sáng đó vậy. Sáng, Tối tự chúng thuộc về tiền trần, cái Thấy (Kiến Tinh) vốn không sanh diệt. Do đó mà nói “Cái Thấy của thế gian cũng là chẳng phải Nhân, chẳng phải Duyên”, huống tiến đến chỗ này ư?

Thiền sư Cửu Phong Kiền thọ tâm ấn nơi Tổ Thạch Sương. Có nhà sư hỏi: “Trong kinh có nói: Đủ ba duyên ánh sáng mới thành cái Thấy. Ba Duyên chưa có, có thành cái Thấy không?”

Tổ Kiền nói: “Duyên có sai khác, cái Thấy không thiếu hụt”.

Vị sư hỏi: “Đã không thiếu hụt, ở trong tối sao chẳng thấy vật?”

Tổ Kiền nói: “Tuy chẳng thấy vật, đâu phải không thấy tối?”

Nhà sư hỏi: “Lìa hết ba duyên, như thế nào là chỗ Chân Kiến?”

Tổ Kiền nói: “Giáp vòng trái đất, mặt trời đen tợ sơn đen”.

Trong bài Tham Đồng Khế của Ngài Thạch Đầu có câu: “Ngay trong sáng có tối, chớ dùng tối gặp nhau! Ngay trong tối có sáng, chớ dùng sáng thấy nhau!”

Chính là đồng với cái ý chỉ này. Đây thật là nào có đồng bậc với sáng tối, cần phải có mắt mới phân biệt được.

Thiện Tâm
08-08-2015, 10:49 AM
VI. CHỈ THẲNG TÁNH THẤY

Kinh:

“Cho nên, Anan, bây giờ ông nên biết rằng: Khi thấy sáng, cái thấy chẳng phải là sáng. Khi thấy tối, cái thấy chẳng phải là tối. Khi thấy không, cái Thấy chẳng phải là không. Khi thấy ngăn bít, cái thấy chẳng phải là ngăn bít. Bốn nghĩa đó đã thành rồi, ông lại nên biết: khi Thấy mà có tướng Thấy, cái Thấy đó chẳng phải là Tánh Thấy. Cái Thấy mà do lìa tướng Thấy, đó là Tánh Thấy Siêu Việt (Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập).

“Vậy thì làm sao lại nói các tướng Nhân Duyên, Tự Nhiên hay Hòa Hợp?”

Thông rằng:

Chỗ này Đức Thế Tôn hiển bày Đệ Nhất Nghĩa Đế, cái gọi là Con Đường Bồ Đề Nhiệm Mầu. Kiến và Kiến Duyên đủ năm thứ nghĩa: Sáng, Tối, Hư Không, Ngăn Bít là bốn thứ; Kiến Duyên và Kiến Tinh (cái Thấy) là một thứ Vọng Kiến. Thế Tôn ở chỗ này mà lựa ra cái Kiến Tinh chẳng phải là bốn thứ Sáng, Tối, Không, Bít. Lấy bốn nghĩa này suy ra để rõ được cái Thấy lìa duyên trần mà vẫn tự có. Ngay ở đây lại lựa ra cái Chơn Kiến (Tánh Thấy) soi rõ Kiến Tinh, là cái mà cái Thấy không thể bì kịp. Đây chính là mặt trăng thứ nhất, cho nên cái Thấy vẫn còn là vọng. A ha! Cái Chơn Kiến còn lìa cả mọi tướng thấy thì chỗ nào có hơi thở, bóng dáng gì để theo đó mà mô phỏng ra nó? Nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên, nói Hòa Hiệp, há chẳng là hư vọng ư?

Tổ Bá Trượng hỏi vị tăng: “Thấy không?”

Đáp: “Dạ, thấy”.

Tổ Trượng rằng: “Sau khi thấy thì như thế nào?”

Đáp: “Thấy chẳng có hai”.

Tổ Trượng nói: “Đã nói là thấy thì không hai, tức là không lấy cái Thấy mà thấy nơi Cái Vốn Thấy. Nếu Cái Vốn Thấy mà trở lại thấy, thì cái Thấy trước là đúng hay cái Thấy sau là đúng? Như nói, “Khi Thấy mà còn có tướng Thấy, đó chẳng phải là Chơn Kiến. Thấy mà do lìa tất cả tướng Thấy, cái Thấy ấy là Siêu Việt [Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập]”. Bởi thế, chẳng hành cái Pháp Thấy, chẳng hành cái Pháp Nghe, chẳng hành cái Pháp Giác Ngộ, thì Chư Phật liền thọ ký”.

Lại nữa, kinh Bảo Tích nói: “Pháp Thân chẳng có thể lấy Thấy, Nghe, Hay, Biết mà tìm cầu. Chẳng phải là chỗ thấy của con mắt thịt, vì là không có Sắc. Chẳng phải là chỗ thấy của Thiên Nhãn vì không Hư Vọng. Chẳng phải chỗ thấy của Huệ Nhãn, vì lìa hình tướng. Chẳng phải chỗ thấy của Pháp Nhãn, vì lìa các Hành. Chẳng phải là chỗ thấy của Phật Nhãn, vì lìa hết thảy Thức. Nếu chẳng tạo ra các thứ Thấy như vậy, thì gọi đó là cái Thấy của Phật”.

Xưa, thiền sư Thiệu Long ban đầu ra mắt Tổ Trường Lô, được chỗ đại lược. Nhân có người đưa đến bộ Ngữ Lục của Ngài Viên Ngộ, sư đọc mà than rằng: “Nghĩ đến chua thì chảy nước miếng. Tuy chưa rửa sạch gan ruột, đã khiến người được vui sướng. Chỉ hận là chưa được giáp mặt chuyện trò”.

Bèn từ giả Ngài Trường Lô mà qua chỗ Ngài Trạm Đường. Trước làm khách của Ngài Hoàng Long, hỏi Tổ Tử Tâm; kế đó tham yết Ngài Viên Ngộ.

Một hôm, đang nhập thất thì Ngài Viên Ngộ nói: “Khi thấy mà có tướng Thấy, cái Thấy ấy không phải là cái Thấy Chân Thật. Thấy do lìa tướng Thấy, cái Thấy ấy siêu việt”.

Rồi đưa tay lên mà nói: “Thấy không?”

Sư Long nói: “Thấy”.

Tổ Viên Ngộ nói: “Trên đầu để thêm cái đầu!”

Sư Long nghe thì tức thời khế ngộ.

Tổ Viên Ngộ quát nạt rằng: “Thấy cái gì?”

Thiệu Long đáp: “Tre dày chẳng ngại nước chảy qua”.

Tổ Viên Ngộ chấp nhận, khiến trông coi chỗ cất kinh.

Có người hỏi Ngài Viên Ngộ: “Thiệu Long yếu như thế, sao làm nổi?”

Ngài đáp: “Con cọp ngủ đó!”

Thiền sư Đức Sơn Quyên thượng đường dạy rằng: “Khi thấy mà có tướng Thấy, đó chẳng phải là Chơn Kiến. Thấy do lìa tướng Thấy, đó là cái Thấy siêu việt”.

Rồi hét lên rằng: “Cá kình uống hết biển, lộ ra nhánh san hô”.

Trong đại chúng bỗng có ông tăng bước ra, nói: “Trưởng Lão thôi đừng nói chiêm bao, mới hứa cho y đủ một con mắt lẻ”.

Người xưa ở nơi câu này (“Kiến kiến chi thời,...”) đều nhờ ngón tay mà thấy mặt trăng. Một hột thuốc Tiên biến đổi cốt phàm, quả chẳng dễ dàng!

Kinh: “Hàng Thanh Văn các ông hẹp hòi không biết, chẳng có thể thông đạt Thật Tướng thanh tịnh. Nay ta khuyên dạy ông hãy khéo tư duy, chớ nên trễ nải trên đường Bồ Đề Mầu Nhiệm”.

Thông rằng: Cái Thật Tướng thanh tịnh ai ai cũng sẵn đủ. Vậy tại sao hàng Thanh Văn chẳng có thể thông đạt? Bởi vì chấp trước vậy. Cái ý thức chấp trước, chốn chốn đều thọ duyên theo. Chỉ có cái là không thể duyên với Bát Nhã. Nên Đức Thế Tôn thương xót, khuyên hãy khéo tư duy. Phải ở nơi Thấy mà lìa thấy, chứng Diệu Bồ Đề. Đó tức là chỗ chẳng phải cái Thấy đến được vậy.

Tổ Giáp Sơn nói: “Trước mắt không có pháp. Trước mắt là ý, chẳng phải trước mắt là pháp. Đó chẳng phải là chỗ tai, mắt đến được. Diệu khế chỗ này”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Cái lão Giáp Sơn mở banh cái bao bố, đem đồ châu báu thảy ra trước mặt các ông. Chính ngay khi đó thì làm sao đây? Trên đường chẳng lượm của rơi, người quân tử mới khen là tốt đẹp”.

Ngay cái thoại đầu tuyệt diệu thế này mà còn chẳng cho giữ lại trong ngực, Thật là đến chỗ của Kiến do lìa kiến vậy.

Thiện Tâm
08-09-2015, 09:41 PM
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC NĂM: CHỈ RA CÁI VỌNG THẤY


I. XIN CHỈ DẠY TÁNH THẤY CHẲNG DO THẤY

Kinh:

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như Đức Thế Tôn vì chúng tôi mà chỉ dạy về Nhân Duyên, Tự Nhiên, các tướng Hòa Hợp và Chẳng Hòa Hợp, tâm tôi còn chưa khai ngộ. Nay lại nghe Phật dạy: Tánh Thấy chẳng do thấy, thì lại càng thêm mê muội.

“Cúi mong Phật thương xót, bố thí cho con mắt Đại Huệ, chỉ bày cho chúng tôi cái Giác Tâm sáng sạch”.

Nói vậy xong, khóc lóc cúi lạy, vâng nghe lời dạy.

Khi ấy, Thế Tôn thương xót Ông Anan và cả đại chúng, sắp muốn hiển bày pháp Đại Tổng Trì (Đà La Ni), các Tam Ma Đề là Con Đường Vi Diệu của sự tu hành, nên mới bảo Ông Anan rằng: “Ông tuy có trí nhớ mạnh mẽ, nhưng chỉ thêm phần đa văn, chứ nơi pháp Xa Ma Tha quán chiếu vi mật, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt chỉ bày, cũng là khiến cho những kẻ hữu lậu mai sau được quả Bồ Đề”.

Thông rằng:

Tịch mà thường Chiếu, cho nên có thể soi rõ Kiến Tinh (cái Thấy) là hư vọng. Chiếu mà thường Tịch cho nên biết: “Tánh Thấy chẳng phải là cái thấy (Kiến phi thị kiến)”. Chỗ này mà hàng ngày chẳng viên dung ba Pháp Quán [Không, Giả và Trung] thì chưa dễ hiểu nổi.

Sư Thạch Môn Uẩn Huy làm vườn ở chỗ Tổ Thanh Lâm.

Một ngày kia đang đứng hầu, Tổ nói: “Hôm nay ông làm gì?”

Đáp: “Trồng rau”.

Tổ Lâm nói: “Khắp pháp giới, đó là thân Phật, ông hướng chỗ nào trồng”.

Sư đáp: “Cày vàng chẳng động đất, mầm linh tại chỗ sanh”.

Tổ Lâm hân hoan.

Hôm sau, Tổ Thanh Lâm vào vườn, gọi: “Uẩn Xà Lê!”

Sư Uẩn lên tiếng: “Dạ”.

Tổ Lâm rằng: “Trồng thêm cây không ảnh, để lại cho người sau xem”.

Sư Uẩn nói: “Nếu là cây không ảnh, há để chịu trồng ư?”

Tổ Lâm nói: “Không chịu trồng thì để đó! Ông từng thấy nhánh lá nó không?”

Đáp: “Chẳng từng thấy”.

Tổ Lâm: “Đã chẳng từng thấy, sao biết nó chẳng chịu trồng?”

Đáp: “Chỉ vì nó chẳng từng thấy, cho nên nó chẳng chịu trồng”.

Tổ Lâm rằng: “Đúng vậy, đúng vậy”.

Nếu ngộ được Tánh Thấy lìa mọi Tướng Thấy, thì tất cả Nhân Duyên, Tự Nhiên, Hòa Hợp do cái Thấy lập ra từ đâu mà sanh khởi?

Thiền sư Trí Cự ban đầu hỏi Tổ Tiên Tào Sơn rằng : “Người xưa nâng giữ cho người bên ngoài mé, kẻ học nhân này làm sao lãnh hội?”

Tổ Sơn đáp: “Lui bước liền tựu thành mình, muôn ngàn chẳng mất một!”

Thiền sư Trí Cự, ngay dưới lời, liền tiêu tan hết kiến giải, mới từ biệt đi. Sau đó, tham học khắp nơi.

Một hôm, đang xem kinh thì có vị sư hỏi: “Tâm của Thiền Tăng chẳng treo nhẫn đến một chữ cái, đâu thể học nhiều?”

Ngài đáp: “Văn tự thì khác nhau, muôn pháp thể vốn không. Mê thì câu câu đều là ghẻ lở. Ngộ thì lời lời đều là Bát Nhã. Ví không lấy, bỏ, nào hại Vẹn Tròn kia.

Cho nên nhớ nhiều, đa văn mà được như Ngài Trí Cự thì cái gì mà chẳng có thể?

Thiện Tâm
08-10-2015, 04:19 PM
II. CHỈ RA HAI THỨ VỌNG THẤY

Kinh:

“Anan, tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai cái Vọng Thấy điên đảo phân biệt. Ngay nơi Tâm Tánh mà phát sanh, ngay theo nghiệp mà xoay vần. Thế nào là hai cái Vọng Thấy? Một là, cái Vọng Thấy Biệt Nghiệp của chúng sanh. Hai là, cái Vọng Thấy Đồng Phận của chúng sanh.

Thông rằng:

Sắp nói rõ cái Kiến Tinh (cái Thấy) là hư vọng, nên dùng hai cái Vọng Kiến Biệt Nghiệp và Đồng Phận mà chỉ bày. Đã rõ Biệt Nghiệp là hư vọng thì cái hư vọng của Đồng Phận có thể suy ra vậy. Đã biết Đồng Phận là hư vọng, thì có thể suy ra cái hư vọng của Kiến Tinh. Biết Kiến Tinh là hư vọng thì rõ ngay Tánh Thấy chẳng hư vọng. Hiểu suốt chỗ này thì Tánh Thấy chẳng phải là cái Thấy, có thể tự suốt nhiên không nghi ngờ gì nữa.

Thấy, Nghe, Hay, Biết cũng cùng là hư vọng điên đảo, vậy sao chỉ biện rõ ở cái Thấy mà thôi? Ở đoạn trước đã nói, “Khiến cho ông bị trôi lăn là lỗi ở tâm và con mắt”. Cho nên trôi nổi bôn ba theo sắc, chỉ có cái Thấy là khó trị nhất.

Ông Anan bị Cô Ma Đăng Già mê hoặc, đó chẳng phải Cô Ma Đăng Già mê hoặc Ông Anan, mà chính là do cái Vọng Thấy của Anan làm nên bệnh. Huống gì cái Vọng Thấy lưu chuyển này lại thuộc về sanh diệt, mà cái Thấy Chân Thật (Chơn Kiến) thì chẳng thể trả về đâu, lặng trong thường trụ. Cho nên lấy cái Thấy của người mù mà thấy sắc, thì sắc chẳng đáng ưa! Lấy cái Thấy của thấy tối mà thấy ánh sáng, tức là cái Thấy vốn chẳng có sáng, có tối. Đạt thẳng đến cái gốc nguồn của mọi cái Thấy, thì rõ suốt cái Tánh Thấy vốn không có cái Thấy nào đến được, thế thì còn đâu cái lầm lỗi trôi lăn?

Xưa, Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn : “Chúng sanh trong đại địa, cái nghiệp thức mang mang, vốn không có gốc rễ, căn cứ. Ông làm sao biết kia có hay không có?”

Ngưỡng Sơn đáp: “Huệ Tịch này có chỗ nghiệm xét”.

Khi ấy, có một vị tăng đi ngang trước mặt, Ngài Ngưỡng Sơn gọi: “Thầy Xà Lê!”

Vị tăng quay đầu lại.

Ngưỡng Sơn nói: “Thưa Hòa Thượng, cái này chính là nghiệp thức mang mang, không có gốc rễ, căn cứ”.

Tổ Quy Sơn nói: “Đây thật là một giọt sữa sư tử, làm tiêu sáu đấu sữa lừa!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Một gọi, quày đầu biết ta không?

Lưới trăng thưa thớt lại thành cong (như móc câu)

Con quí ngàn vàng vừa lưu lạc

Mờ mịt đường cùng chắc thấy sầu”.

Một tắc này đây, gọi là Vọng Kiến Biệt Nghiệp thì được đó!

Ông Thượng Thơ Trần Tháo đang cùng những bạn đồng liêu ở trên lầu thì thấy có vài nhà sư đi tới.

Có một vị quan nói: “Những người đi tới đó đều là tăng hành cước”.

Trần Tháo nói: “Chẳng phải đâu”.

Vị quan nói rằng: “Sao biết chẳng phải?”

Tháo nói: “Chờ tới rồi thẩm nghiệm xem”.

Chốc lát, các vị sư đi tới trước lầu. Ông Tháo đột nhiên kêu lớn: “Thượng Tọa!”

Các nhà sư đều ngẩng đầu lên.

Ông liền nói với các vị quan rằng: “Chẳng tin đạo”.

Các quan ngơ ngác.

Ngài Thiên Đồng nêu lên rằng: “Trần Thượng Thơ ngay mặt mà nêu rõ, dối Ngài Trường Lô một điểm chẳng được!”

Tức một tắc này, gọi là Vọng Kiến Đồng Phận thì được lắm ! Nhưng nếu trong các vị sư, có vị khi nghe la mà chẳng quay đầu, ắt khiến Ngài Ngưỡng Sơn phải nhổ lưỡi ra và Ông Trần Tháo phải xin lỗi đấy.

Thiện Tâm
08-10-2015, 04:37 PM
Kinh:

“Thế nào là Vọng Kiến Biệt Nghiệp?

“Anan, như người thế gian con mắt bị nhặm đỏ thì ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có riêng một bóng tròn năm màu bao phủ. Ý ông thế nào? Cái bóng sáng tròn hiện ra nơi ngọn đèn đó là sắc của ngọn đèn hay sắc của cái Thấy?

“Anan, nếu như đó là cái sắc của ngọn đèn thì sao những người không nhặm mắt lại không có thấy, mà chỉ có người nhặm mắt mới thấy cái bóng tròn? Nếu đó là sắc của cái Thấy thì cái Thấy đã thành sắc rồi, vậy người nhặm mắt thấy bóng tròn kia gọi là cái gì?

“Lại nữa, Anan, nếu cái bóng tròn ấy rời đèn mà riêng có, thì lẽ ra các bức bình phong, màn, bàn, ghế, cũng phải có bóng tròn. Còn nếu rời cái Thấy mà riêng có, thì lẽ ra không thể thấy được, cớ sao người nhặm mắt lại thấy cái bóng tròn ấy?

“Vậy nên biết rằng : Sắc thật ở nơi đèn, cái Thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cái bóng tròn và cái thấy có bóng tròn đều là bệnh nhặm. Cái Thấy Được Bệnh Nhặm thì vốn chẳng phải là bệnh.

“Rốt cuộc, không nên nói rằng cái bóng tròn ấy là ngọn đèn hay là cái Thấy, vì ở trong đó, cái bóng tròn không phải từ ngọn đèn, cũng không phải từ cái Thấy. Cũng như mặt trăng thứ hai, chẳng phải mặt trăng thật, cũng chẳng phải là cái bóng của mặt trăng. Tại sao thế? Bởi thấy cái mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà có. Cho nên những người Trí không nên đi tìm cái căn nguyên của mặt trăng do dụi mắt mà thành là hình tướng hay chẳng phải hình tướng, là lìa cái Thấy hay chẳng phải cái Thấy. Bóng tròn cũng như thế : nó do nhặm mắt mà thành. Muốn gọi cái gì là ngọn đèn hay cái gì là cái Thấy cũng còn chẳng được, huống hồ phân biệt cái bóng tròn là không phải ngọn đèn hay không phải là cái Thấy?

Thông rằng :

Sắp chỉ rõ rằng Tánh Thấy chẳng phải là cái Thấy, nên lấy mắt nhặm làm ví dụ. Cái thấy-bệnh của mắt nhặm thì vọng thấy có bóng tròn. Người không nhặm làm sao thấy có bóng tròn? Nhặm mắt đó là bệnh, nhưng cái Thấy Được Bệnh Nhặm thì chưa từng bệnh vậy. Đó là để so sánh với cái Thấy (Kiến Tinh) là hư vọng, nên vọng thấy có Tâm Cảnh. Cái Tánh Thấy thì không hư vọng, nên không thấy có Tâm Cảnh. Vậy thì cái Thấy là hư vọng chứ Tánh Thấy chưa từng hư vọng vậy. Nếu ở nơi chỗ vọng thấy có Tâm Cảnh lại sanh khởi thêm cái thấy về Nhân Duyên, Tự Nhiên, Thị Phi thì cũng giống như người nhặm mắt thấy cái bóng tròn rồi truy tìm cái căn nguyên phát sanh của nó!

Cho cái bóng lòa ấy là ngọn đèn, là cái Thấy tức nói cái bóng tròn do ngọn đèn, do cái Thấy mà có: đó là nghĩa Nhân Duyên.

Cho cái bóng lòa ấy chẳng phải ngọn đèn hay cái Thấy, là nói cái bóng tròn lìa ngọn đèn, lìa cái Thấy mà riêng có: đó là nghĩa Tự Nhiên.

Đã chẳng phải là Nhân Duyên, lại chẳng phải là Tự Nhiên, thời chỉ do mắt nhặm mà thành có bóng tròn vậy.

Cái nhặm mắt thấy có bóng tròn, và cái dụi mắt thấy mặt trăng thứ hai, đồng là một cái bệnh-thấy. Nếu suy xét cái chỗ phát sinh của mặt trăng thứ hai này là hình tướng hay là cái Thấy, lìa hình tướng hay lìa cái Thấy thì quả là mê muội thay! Cũng như nói cái bóng tròn là ngọn đèn, là cái Thấy, hay chẳng phải ngọn đèn, chẳng phải cái Thấy, thì gọi là người Trí được sao?

Ở hai trường hợp này, biết rõ là hư vọng, suy cứu cái nghĩa Nhân Duyên, Tự Nhiên còn không thể được huống gì trong cái Bổn Giác Minh Tâm chẳng phải là nhặm mắt hay dụi mắt các thứ, vốn không có tướng tròn hay mặt trăng thứ hai thì ở chỗ nào mà vọng lập ba thứ hý luận Nhân Duyên, Tự Nhiên!

Cho nên, lấy Nhân Duyên, Tự Nhiên, Hòa Hợp mà luận về cái Thấy, cũng còn trong bệnh nhặm mắt vậy thôi, người Trí không thế, vì đó là Biệt Nghiệp Vọng Kiến.

Tổ Quy Sơn thấy lửa đồng [Dã hỏa], hỏi Ngài Đạo Ngô: “Có thấy lửa không?”

Đạo Ngô nói: “Dạ, thấy”.

Tổ Sơn: “Từ đâu khởi ra?”

Đạo Ngô: “Dẹp hết sự đi, đứng, nằm, ngồi xin thầy riêng đưa một câu hỏi xem?”

Tổ Quy làm thinh.

Tổ Phật Giám nêu ra rằng:

Rực rực lửa đồng

Người người đều thấy

Chỉ có Đạo Ngô

Thấy ra khắc hẳn.

Tổ Hương Lâm Viễn đang giãy cỏ, có vị tăng hỏi: “Hãy xem nhà người đời mất lửa”.

Tổ Viễn nói rằng: “Lửa trong chỗ nào?”

Vị tăng nói: “Chẳng có thấy sao?”

Tổ Viễn nói rằng: “Chẳng thấy”.

Vị tăng nói: “Cái lão già mù này”.

Khi ấy, chúng đều nói: “Viễn Thượng Tọa thua rồi!”

Sau Ngài Minh Giáo Khoan nghe chuyện, than rằng: “Phải là huynh Viễn ta mới được”.

Cái Thấy này xa khác lắm thay, chẳng rời Chánh Vị [Tự Tâm thường trụ]. Với cái Kiến Tinh của thế gian giống như bệnh nhặm mắt, làm sao sánh được?

Lại Tổ Quy Sơn, hỏi Ngài Đạo Ngô: “Đi đâu về đó?”

Ngài Đạo Ngô đáp: “Thăm bệnh về”.

Tổ Sơn: “Bao nhiêu người bệnh?”

Đáp: “Có người bệnh, có người không bệnh”.

Tổ Sơn: “Người không bệnh có phải là Trí Đầu Đà?”

Tổ Ngô nói: “Nói được cũng chẳng ăn nhằm gì”.

Tổ Thiên Đồng ở chỗ “Chẳng ăn nhằm [Giao thiệp] gì”, tụng rằng:

“Thuốc diệu nào từng qua miệng

Thần y không thể cầm tay

Nhược Tồn [Nhược Tồn : nếu còn.. ] nó vốn chẳng phải không

Chí Hư [Chí Hư : rỗng không.. ] nó vốn chẳng phải có

Chẳng Diệt mà sanh, chẳng mất mà thọ

Siêu hết trước Phật Oai Âm

Một mình bước sau Không Kiếp

An bình thì trời che đất chở

Vận chuyển thì thỏ chạy quạ bay”.

(Diệu dược hà tằng quá khẩu

Thần y mạc năng trốc thủ

Nhược Tồn dã cừ bổn phi vô

Chí Hư dã cừ bổn phi hữu

Bất Diệt nhi sanh, bất vong nhi thọ

Toàn siêu Oai Âm chi tiền

Độc bộ Kiếp Không chi hậu

Thành bình dã thiên cái địa kình

Vận chuyển dã ô phi thố tẩu)

Tắc này ở trong Chân Kiến mà nhổ sạch gốc bệnh. Bệnh với không bệnh cũng chẳng có liên quan gì, huống là phân biệt nhặm với chẳng nhặm!

Thiện Tâm
08-10-2015, 04:42 PM
Kinh:

“Thế nào là Vọng Kiến Đồng Phận?

“Anan, cõi Diêm Phù Đề này, ngoài nước biển cả ra, trong đó đất liền có ba ngàn châu. Châu lớn chính giữa, bao quát từ Đông sang Tây có đến hai ngàn ba trăm nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển, trong đó có châu đến hai trăm, ba trăm nước hoặc có mười, hai mươi cho đến ba mươi, bốn mươi, năm mươi nước.

“Anan, nếu ở trong đó có một châu nhỏ chỉ có hai nước mà riêng người trong một nước đồng cảm ác duyên, thì chúng sanh trong nước đó thấy tất cả những cảnh giới không tốt. Hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng khác như Vựng, Thích, Bội, Quyết, Tuệ, Bột, Phi, Lưu, Phụ Nhĩ, Hồng Nghê. Chỉ nước đó thấy, còn chúng sanh nước bên kia thì không thấy mà cũng không nghe.

Thông rằng:

Bộ Hiệp Luận nói “Vựng là khí chung quanh mặt trời. Thích là điều xấu ở mặt trời, mặt trăng. Bội, Quyết: khí xấu gần mặt trời. Tuệ là sao chổi. Bột : một loại sao chổi. Phi là phi tinh, một loại sao từ dưới bay lên. Lưu là lưu tinh, một loại sao từ trên rơi xuống. Phụ là phụ khí, khí giống như cõng mặt trời. Nhĩ là nhĩ khí, khí bên cạnh mặt trời như cái tai. Hồng Nghê là cầu vồng, cái sáng gọi là Hồng, cái tối gọi là Nghê”.

Sách Xuân Thu Truyện chép : năm Thứ Sáu đời vua Ai Công, nước Sở có điềm mây như con quạ đỏ ôm lấy mặt trời mà bay trong ba ngày. Vua sai hỏi Châu Thái Sử, Thái Sử nói: “Ứng vào thân vua”. Ông Đỗ Dự bàn thêm : “Mặt trời là vua của con người, yêu khí ôm lấy thì ứng vào vua. Chỉ có nước Sở thấy, thì vua nước khác không hề gì!”

Đời Lỗ Châu Công, năm Thứ Hai Mươi Sáu, tháng Một [Mười Một]nước Tề có sao chổi. Tề Hầu sai cầu đảo.

Ông Án Tử thưa: “Vô ích, làm vậy là mê tín. Đạo trời chẳng thay đổi, đâu có hai mệnh thì cầu đảo làm gì? Đạo trời có sao chổi là để trừ uế khí. Nếu vua không có uế đức thì cầu đảo làm gì? Còn nếu có uế đức thì cầu đảo sao được?” Ông Đỗ Dự bàn thêm : “Chỉ có nước Tề thấy, nước Lỗ không thấy”.

Hai đoạn trên để nghiệm câu trong kinh: “Có một châu chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước đồng cảm ác duyên thì chúng sanh trong nước đó thấy những cảnh giới không tốt”. Thật rõ ràng vậy.

Cảm ứng ác duyên có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp thì không thể tránh. Bất định nghiệp thì có thể thay đổi.

Ví dụ, như Tổ đời Hai Mươi Ba, là Ngài Hạc Lặc Na [Haklena. Lặc Na: âm tiếng Phạn. Hạc: âm tiếng Hán; tôn giả sau khi sanh ra, có bầy hạc cảm mến bay theo nên gọi vậy] tôn giả, biết trước vị Tổ đời Hai Mươi Bốn là Sư Tử tôn giả sẽ gặp nạn. Một hôm, bỗng nhiên Tổ chỉ về hướng Đông Bắc, hỏi rằng: “Đó là khí tượng gì?”

Tổ Sư Tử thưa: “Tôi thấy khí như cái mống trắng khắp cả trời đất, lại có năm luồng hắc khí chạy ngang trong đó”.

Tổ nói: “Điềm đó thế nào?”

Ngài Sư Tử thưa: “Tôi không biết được”.

Tổ dạy: “Sau khi tôi mất năm mươi năm, nước Bắc Thiên Trúc sẽ có nạn nổi lên, chạm đến thân ông”.

Sau này, Ngài Sư Tử tôn giả quả bị vua nước Kết Tân giết. Cánh tay phải của vua tự nhiên rụng xuống đất, bảy ngày sau thì chết. Thái Tử Quang Thủ than rằng: “Vua cha ta cớ sao tự mình chiêu lấy tai họa”. Bấy giờ có vị Tiên núi Bạch Tượng rõ sâu nhân quả nên rộng nói cho Thái Tử nghe việc đời trước, mở thoát lưới ngờ. Đây là chỗ gọi là định nghiệp không thể tránh được vậy.

Vua Tống Cảnh Công bị sao Hỏa Tinh nên lo sợ, mời Ông Tử Vi vào hỏi.

Ông Tử Vi nói: “Bị sao Hỏa Tinh là điềm trời phạt, họa ứng vào thân bệ hạ, nhưng có thể dời qua quan Tể Tướng”.

Cảnh Công bảo: “Tể tướng để trụ nước, nếu dời qua mà chết thời không nên. Thôi, để quả nhân xin tự gánh chịu vậy”.

Ông Tử Vi nói: “Có thể dời qua nhân dân”.

Vua đáp: “Dân chết rồi thì làm vua với ai. Thôi, để trẫm chết một mình”.

Ông Tử Vi thưa: “Có thể dời vào năm”.

Vua đáp: “Năm đói kém thì dân chết đói. Làm vua mà muốn giết dân để tự mình sống thì còn ai xem ta là vua nữa. Âu cũng là mạng đã hết của quả nhân vậy. Khanh chẳng nên nhiều lời”.

Ông Tử Vi vội vàng quỳ xuống lạy mà tâu rằng: “Hạ thần xin chúc mừng bệ hạ. Trời ở trên cao mà nghe dưới thấp. Vua đã có được ba lần lời nói của người nhân, trời ắt thưởng vua ba lần. Đêm nay chắc sao sẽ dời chỗ, vua sống thêm hai mươi mốt năm”.

Cảnh Công nói: “Khanh làm sao biết?”

Ông Tử Vi thưa: “Vua có ba điều thiện thì được thưởng ba lần, do đó sao dời ba lần. Mỗi lần bảy năm, ba lần là hai mươi mốt năm. Nên tuổi thọ dài thêm hai mươi mốt năm. Nếu sai, hạ thần xin chịu chết”.

Vua ưng chịu.

Đêm đó, sao dời ba lần như Ông Tử Vi đã nói. Đây là chỗ gọi là bất định nghiệp có thể chuyển dời vậy.

Tóm lại, định nghiệp và bất định nghiệp ở nơi Tự Tánh nào có thêm bớt, cũng là Như Huyễn. Chấp Huyễn mà cho là thật, thì chỉ vì vọng thấy vậy thôi.

Thiện Tâm
08-12-2015, 06:24 PM
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM


MỤC SÁU: CHỈ RÕ Ý NGHĨA TÁNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CÁI THẤY, VIÊN MÃN BỒ ĐỀ.

Kinh:

“Anan, nay Ta đem hai việc ấy lui tới, kết hợp mà chỉ rõ.

“Anan, như cái Vọng Kiến Biệt Nghiệp của chúng sanh kia, thấy nơi ngọn đèn hiện ra bóng tròn, tuy giống như tiền cảnh mà thật ra là do bệnh nhặm của người ấy tạo thành. Nhặm thì mắt lòa, chẳng phải sắc tạo ra. Nhưng cái Thấy Được Bệnh Lòa vẫn không có lỗi lầm gì về sự thấy cả.

“So sánh với hiện giờ, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng sanh, đều là do cái Bệnh Thấy từ vô thủy tạo thành. Cái Thấy và Cái Được Thấy hình như hiện ra tiền cảnh, thật ra vốn chỉ là cái Bệnh Lòa, thấy có năng kiến và sở kiến ở trong cái Giác Minh mà thôi.

“Những sự Thấy, Biết đều là bệnh nhặm, còn cái Bổn Giác Minh Tâm thấu suốt các duyên vốn không có bệnh nhặm. Cái Biết và Cái Được Biết đều là bệnh nhặm, còn cái Bổn Giác thì không ở trong bệnh nhặm. Đó là cái Tánh Thấy Hằng Thấy, làm sao gọi được là sự Thấy, Nghe, Hay, Biết?

“Vậy nên, nay ông nhìn thấy Ta, nhìn thấy ông, cùng mười loại chúng sanh trong thế gian đều là cái Thấy Nhặm, mà chẳng phải là cái Thấy Chân Thật thấy được bệnh nhặm. Cái Tánh Thấy Chân Thật kia vốn chẳng hề nhặm, cho nên không gọi là Thấy nữa.

Thông rằng:

Lấy cái bóng tròn mà so với Tiền Cảnh, lấy mắt nhặm mà so với cái Bệnh Thấy, lấy cái Thấy Lòa mà so với cái Giác Minh [A Lại Da Thức còn có nhiễm ô], lấy cái Thấy Được Bệnh Nhặm so với Tánh Bản Giác [A Lại Da Thức không còn nhiễm ô, gọi là Bạch Tịnh Thức.]thì không gì mà chẳng rõ. Dù văn nghĩa khúc mắc, nhưng không có chỗ nào không phát minh cái Thấy là bệnh nhặm, mà cái Tánh Thấy Hằng Thấy vốn chẳng hề nhặm. Cái Thấy và Cái Được Thấy, đó là Căn và Cảnh hòa hợp, mà hiện ra có núi sông, cõi nước và chúng sanh, cũng giống như sự hiện ra của Cảnh vật trước mắt, thật cũng chỉ như cái bóng tròn thấy nơi ngọn đèn. Bóng tròn chẳng do sắc tạo ra, thì các thứ trên cũng không phải do Cảnh tạo ra. Nguyên là cái Giác Minh của ta vọng thấy có chỗ duyên, như con mắt nhặm thì thành ra có bóng tròn.

Cái Giác Minh này vọng thấy, nhân ở Minh mà lập ra Cái Sở, rồi lại duyên bám theo ngoại cảnh, đó là bệnh nhặm. Còn cái Bổn Giác Minh Tâm nào rơi vào nơi chốn, thường giác các tướng sanh khởi của các duyên, chẳng đuổi theo các duyên mà trôi lăn, thì vốn chẳng hề nhặm. Vậy, nên biết do cái Giác Minh của ta duyên nơi tiền cảnh mà thành cái Sở Giác (Cái Được Biết). Cái Sở Giác là bệnh nhặm, mà cái Tánh Bổn Giác thật là cái Thường Biết. Cái Bổn Giác Minh Tâm đã thường tỏ biết cái nhặm, biết cái nhặm là bệnh, vốn tự tại, nào có sa vào chuyện nhặm ? Nói là “Cái Biết và Cái Được Biết đều là bệnh nhặm”, nghĩa là cái Giác Minh của ta thấy có chỗ duyên bèn là bệnh nhặm, lấy cái Biết và Được Biết ấy làm duyên mà có. Nói là “Cái Bổn Giác không ở trong bệnh nhặm”, là tương ưng với Cái Bổn Giác Minh Tâm thường rõ các Duyên, mà không có bệnh nhặm; ở nơi phù trần chưa khởi, chẳng sa vào cái nhặm của Thức Giới. Đây chẳng phải là cảnh giới của Thấy, Nghe, Hay, Biết cho nên nói “Đây thật là Tánh Thấy Hằng Thấy, sao gọi được là sự thấy, nghe, hay, biết?”

Nếu lấy cái sự thấy, nghe, hay, biết mà cho đó là Tánh, thì chẳng khác nào lấy con mắt nhặm mà cho là con mắt trong sạch, sao mà thông cho nổi?

Ngài Tam Bình có bài kệ :

“Chỉ Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe

Tuyệt không thanh, sắc để trình ông

Trong đây nếu rõ, toàn vô sự

Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”.

(Chỉ thử kiến văn phi kiến văn

Vô dư Thanh, Sắc khả trình quân

Cá trung nhược liễu toàn vô sự

Thể, Dụng hà phòng phân, bất phân).

Tổ Vân Môn nêu ra: “Ngay “Chỉ Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe”: gọi cái gì là Thấy, Nghe? “Tuyệt không thanh, sắc để trình ông”: có thanh, sắc nào ở nơi miệng? “Trong đây nếu rõ, toàn vô sự”: có chuyện gì đâu? “Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”: lời nói là Thể, hay Thể là lời nói?”

Ngài lại đưa cây trụ trượng lên mà nói: “Trụ trượng là Thể, đèn lồng là Dụng, thế là phân hay chẳng phân? Chẳng thấy nói “Nhất Thiết Trí Thanh Tịnh” ư?”

Sau, Ngài Bạch Vân Đoan nêu ra rằng: “Vân Môn chỉ hiểu y theo khuôn sáo mà vẽ chân mày, viên thông thì chẳng thế!”

“Ngay “Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe. Tuyệt không thanh, sắc để trình ông”: mắt là mắt, tai là tai!

““Trong đây nếu rõ, toàn vô sự. Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”: Bốn, năm trăm cành hoa liễu (trong) ngõ. Hai ba ngàn chỗ xướng ca lầu”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Thật gặp nhau, chẳng giao thiệp

Sáu cửa mở toang, bốn đường tuyệt dấu

Khắp cõi là quang minh, suốt thân không sau trước

Sợi tơ chẳng bận chuyện con thoi

Hoa mỹ tung hoành riêng ý khác”.

Ngài Tam Bình riêng có một bài tụng:

“Thấy, Nghe, Hay, Biết vốn chẳng (nguyên)nhân

Đương Thể rỗng mầu, tuyệt vọng, chân

Thấy Tướng, chẳng sanh si ái nghiệp

Rỗng nhiên, toàn hết : Thích Ca Thân”.

Lại nữa, Tổ Huệ Siêu thượng đường dạy rằng: “Này các Thượng Tọa, Thấy, Nghe, Hay, Biết thì chẳng phải là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Thể hội chăng? Cùng với các vị Thượng Tọa nói rõ lắm rồi đó, nhưng phải chờ chư vị ngôï mới được!”

Hợp các đoạn trên để chú giải đoạn kinh này.

Thiện Tâm
08-12-2015, 06:26 PM
Kinh:

“Anan, cái Vọng Kiến Đồng Phận của chúng sanh kia so với cái Vọng Kiến Biệt Nghiệp của một người thì một người đau mắt cũng đồng như một nước kia.

“Người đau mắt thấy bóng tròn là do mắt nhặm hư vọng sanh ra; còn trong một nước kia hiện ra các điềm xấu là do ác duyên đồng phận của chúng sanh tạo nên. Cả hai đều là do cái Thấy hư vọng từ vô thủy sanh ra.

“Suy ra, ba ngàn Châu trong cõi Diêm Phù Đề, cùng bốn biển lớn, Ta Bà thế giới, cho đến các cõi Hữu Lậu mười phương cùng các chúng sanh đồng ở trong Diệu Tâm Vô Lậu, nhưng do cái bệnh duyên hư vọng tạo thành Thấy, Nghe, Hay, Biết hòa hợp mà giả dối sanh ra, hòa hợp mà giả dối diệt mất. Nếu xa lìa các bệnh duyên hòa hợp và chẳng hòa hợp này, tức thì diệt trở lại được các nguyên nhân sanh tử, tròn đủ Thể Bồ Đề không sanh không diệt, đó là cái Bản Tâm Xưa Nay Trong Sạch, cái Vốn Giác Ngộ Thường Trụ Xưa Nay vậy.

Thông rằng:

Lấy con mắt nhặm để hiển bày cái Vọng thì dễ, lấy cái điềm xấu mà hiển bày cái Vọng thì khó, cho nên lấy Biệt Nghiệp mà so với Đồng Phận vậy. Hơn nữa, cái Vọng là các điềm xấu trong Đồng Phận còn dễ biết, chứ cái Bệnh Duyên hư vọng là các cõi nước Hữu Lậu thì quả là khó tin. Cho nên lấy dễ mà suy ra khó vậy.

Chỗ thấy có núi sông, cõi nước cùng mười loại chúng sanh trong thế gian tuy thuộc hư vọng, nhưng đồng là cái Diệu Tâm Vô Lậu. Nói Diệu, tức là vật mà chẳng phải vật, tức là Cảnh mà chẳng phải Cảnh. Chỉ vì quay lưng lại với Giác mà hợp với Trần thì thành Hữu Lậu. Hữu Lậu thì bị vật chuyển, cùng với bệnh nhặm bèn đồng. Còn nếu trái với Trần, hợp với Giác thì vốn tự Vô Lậu. Vô Lậu thì chuyển được vật, tức đồng với không nhặm. Đồng một Giác Minh, mà Vô Lậu tức là Bổn Tâm Thanh Tịnh, Bổn Giác Thường Trụ; còn Hữu Lậu thì chẳng biết Chơn mà chạy theo Vọng, trôi lăn sanh tử, hòa hợp mà vọng sanh ra, hòa hợp mà vọng diệt mất. Tương ưng với đoạn trước: “Ngay trong đó mà lại phát sanh, do Nghiệp bèn chịu xoay vần”. Chơn, Vọng vốn hòa hiệp, mà nói riêng về Vọng bởi vì Chân Như đang ở trong phiền não vậy. Các tướng hòa hợp, tức là tại trong ba cõi mà lưu chuyển. Các tướng bất hòa hợp là cái kiến chấp chẳng sanh diệt, Tự Nhiên của ngoại đạo. Cả hai thứ duyên hòa hiệp và chẳng hòa hiệp này chính là gốc rễ, nguyên nhân của sanh tử, đều là cái vọng kiến điên đảo. Nếu cái Vọng Thấy mà tiêu tan, chỉ còn một Bổn Giác. Cũng như bệnh nhặm tiêu tan, thì chỉ còn một con mắt thuần túy sáng sạch. Há đó chẳng phải là Tánh Bồ Đề tròn đủ, bất sanh bất diệt sao ? Đến trong cái Bồ Đề tròn đầy ấy rồi mới tin được “Thấy do lìa Thấy, Thấy ấy siêu việt” vậy.

Tổ Huyền Sa thượng đường dạy rằng: “Tôi nay hỏi các ông, các ông đang đảm đương chuyện gì vậy? Ở thế giới nào mà an thân lập mạng đây? Có thấy ra được không? Nếu chẳng nhìn ra được thì khác nào dụi mắt sanh ra hoa đốm, thấy toàn chuyện hư vọng. Có biết thế không? Như nay trước mắt thấy đủ núi sông, đất đai, sắc, không, sáng, tối, vô vàn sự vật đều là hoa đốm điên cuồng nhọc mệt. Phải gọi tất cả những thứ đó là tri kiến điên đảo.

“Phàm là người xuất gia, phải rõ Tâm, thấu đạt Cội Nguồn mới được gọi là Sa Môn. Nay các ông đã cạo đầu, khoác y làm nên hình tướng Sa Môn, tức là đã có phần tự lợi, lợi người mà nay chỉ thấy toàn là tối đen như mực, thì tự cứu còn chẳng xong huống là giải thoát cho người?

“Này các nhân giả, nhân duyên với Phật Pháp là sự lớn lao, chớ có dễ ngươi, xúm nhau mà nói tầm phào cho qua ngày qua buổi. Tháng ngày khó được, tiếc thay cho bậc đại trượng phu! Sao chẳng tự tỉnh sát, nhìn xem đó là vật gì? Chỉ như đây là Tông Thừa từ xưa, là dòng giống Phật Đảnh. Bởi vì các ông chẳng kham nhận lãnh, nên tôi mới phương tiện khuyên răn: Cần theo cửa Ca Diếp mà nối gót đốn siêu.

“Một cái cửa này vượt hẳn phàm Thánh, nhân quả, siêu việt thế giới Hải Diệu Trang Nghiêm của Phật Tỳ Lô, siêu việt các pháp môn phương tiện của Phật Thích Ca. Ngay đây là vĩnh kiếp: chẳng dạy cho các ông có được một vật gì để khởi lên nhãn kiến, sao chẳng tự mình gấp gấp nghiệm lấy? Để khỏi cần nói “Ta phải chờ hai, ba kiếp góp chứa nghiệp lành”.

“Này các nhân giả, Tông Thừa là cái việc gì mà chẳng thể do sự dụng công trang nghiêm của ông mới đắc, mà dù có tha tâm thông, túc mạng thông cũng không thể đắc? Hội chăng?

“Như Đức Thích Ca ra đời làm ra biết bao nhiêu trò biến hóa giỡn đùa, thuyết Mười Hai Thời Giáo như xối nước, làm nên một trường Phật Sự. Thế mà đối với pháp môn này thì một điểm dùng cũng chẳng được, dùng một chút nghề như mảy lông cũng chẳng được! Biết chăng? Như đồng trong việc mộng, thì có nói cũng là nói mớ thôi. Bậc Sa Môn chẳng có ra đời, không cùng việc mộng, bởi vì rõ biết. Các ông có biết không? Rõ được tức là người Đại Giải Thoát, Đại Triệt Ngộ. Bởi thế mà siêu phàm vượt Thánh, ra khỏi sanh, lìa khỏi tử, rời xa nhân quả, siêu Tỳ Lô, vượt Thích Ca, chẳng bị phàm Thánh, nhân quả dối lừa, chốn chốn nơi nơi không người biết được ông. Hiểu thế chăng?

“Đừng tham luyến hoài cái lưới ân ái sanh tử, bị nghiệp thiện, ác móc kéo lôi đi, chẳng có phần nào tự do. Dầu ông có luyện được cái thân, tâm giống như hư không chăng nữa, dù cho ông có đến được cái chỗ chẳng lay động của Tinh Minh trong trẻo đi nữa, thì cũng chẳng ra khỏi Thức Ấm. Cổ nhân gọi cái ấy như dòng nước chảy xiết, chảy xiết mà chẳng hay, nên lầm cho là yên tĩnh. Tu hành như đó mà đòi ra khỏi bờ cõi luân hồi thì không thể được, vẫn như trước mà bị luân hồi. Bởi thế, mới nói “Các Hành là vô thường”, ngay cả công quả của Tam Thừa, thấy thế cũng nên sợ hãi. Nếu không có Đạo Nhãn thì chẳng có gì là rốt ráo. Đâu bằng như nay kẻ bạc địa phàm phu, chẳng dùng một tơ hào công phu, liền đốn siêu tức khắc. Biết rõ chỗ đặt hết tâm lực chăng? Trở lại cầu muốn cái gì? Xin khuyên các ông! Ngay đây đang chờ các ông đó! Không dạy các ông gia công tu luyện! Như nay mà chẳng như vậy còn chờ đến khi nào? Được không?”

Rồi bèn xuống tòa.

Tổ Huyền Sa nhân đọc kinh Lăng Nghiêm mà phát minh Tâm Địa. Thốt lời, nhả khí mỗi mỗi đều hợp với kinh này. Ở nơi đấy mà tin nhập, liền ngay tròn đủ Bồ Đề Bổn Giác thường trụ, còn có vọng kiến nào là bệnh ư?

Thiện Tâm
08-12-2015, 06:51 PM
Kinh:

“Anan, ông tuy đã ngộ cái Bản Giác Diệu Minh vốn chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên nhưng còn chưa rõ cái Bản Giác như thế không phải Hòa Hợp mà sanh, cũng không phải Không Hòa Hợp.

“Anan, nay tôi lại lấy tiền trần hỏi ông, bởi vì ông còn lấy hết thảy những tính Nhân Duyên Hòa Hợp của vọng tưởng thế gian mà tự nghi ngờ rằng chứng Tâm Bồ Đề cũng do Hòa Hợp mà phát khởi. Vậy thì hiện nay cái Thấy Mầu Sạch của ông là hòa với cái sáng? Là hòa với cái tối? Hòa với thông suốt Hay hòa với cái ngăn bít? Nếu hòa với cái sáng, mà nay ông đang thấy sáng, thì cái sáng hiện đó, ở chỗ nào xen lẫn với cái Thấy? Cái Thấy, cái sáng có thể nhận rõ, còn hình tượng xen lộn thì như thế nào? Nếu cái sáng chẳng phải là cái Thấy thì làm sao thấy được cái sáng? Nếu cái sáng tức là cái Thấy thì làm sao thấy được cái Thấy? Nếu cái Thấy cùng khắp thì còn chỗ nào để hòa được với cái sáng? Nếu cái sáng cùng khắp thì lẽ ra không Hòa được với cái Thấy. Cái Thấy đã khác với cái sáng thì khi xen lẫn tất phải làm mất tính cách của cái sáng. Cái Thấy xen vào làm mất tính chất của cái sáng, mà nói hòa với cái sáng thì không đúng nghĩa. Đối với cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít thì cũng như vậy.

“Lại nữa, Anan, hiện nay cái Thấy Mầu Sạch của ông hợp cùng cái sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông suốt hay hợp với cái ngăn bít? Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái Thấy đó không hợp với cái tối thì làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tối mà không hợp với cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng! Mà đã không thấy được sáng thì làm sao hợp với cái sáng và rõ biết cái sáng không phải là tối. Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít thì cũng như vậy.

Thông rằng:

Cái Bổn Giác Diệu Minh chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, Ông Anan trước đã tỏ ngộ sơ qua là nó hình như chẳng phải là Nhân Duyên hay Tự Nhiên, nhưng lại chấp rằng ba duyên ánh sáng của thế gian họp lại thì thành ra cái Thấy. Ông còn nghi rằng chứng Bồ Đề Tâm hẳn do Hòa Hợp mà phát khởi.

Cái Thấy của thế gian kia không những thấy cái sáng, mà còn thấy cả cái tối, thì rõ ràng là không phải nhờ các duyên vậy. Huống là cái Bồ Đề Bổn Giác vốn thường trụ, lìa ngoài mọi cái Thấy, há có thể gọi là Hòa Hợp sao?

Nói là Hòa, thì như nước hòa với đất, trộn lẫn không phân biệt được. Nay cái Thấy và cái sáng, cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít làm sao hòa được? Cái Thấy thuộc về Hữu Tình, cái Cảnh thuộc về Vô Tình, rõ ràng có thể biện biệt. Như hai cái đó hòa trộn lẫn nhau thì làm nên hình trạng gì? Cái Thấy thì thấy được cái sáng, nên hình như là trộn lẫn được. Nhưng cái sáng thì không thể tự thấy, mà chỉ có cái Thấy mới có thể thấy, thì hai cái hẳn không thể trộn lẫn. Nếu có thể trộn lẫn, ắt là phải có chỗ chẳng cùng khắp, mà nay cái Thấy là Kiến Phần và cái Bị Thấy là Tướng Phần, mỗi cái đều tròn vẹn, đầy khắp pháp giới, còn chỗ nào để mà hòa đây? Giả sử có thể trộn lẫn, thì cái Thấy đã trộn lẫn với cái Cảnh, vậy còn đâu là cái Thấy nữa? Và cái Cảnh Tướng đã trộn lẫn với cái Thấy, thì không thể gọi là Cảnh Tướng. Cái Thấy cùng với Tướng Bị Thấy phải khác nhau, chẳng thể hòa vậy.

Nói là Hợp, thì như cái nắp và cái hộp hợp với nhau, nương nhau mà chẳng lìa. Nay thì cái Thấy cùng với tiền cảnh là sáng, tối, thông, bít làm sao hợp được? Vì nếu cùng cái sáng hợp thì không thể thấy cái tối. Đã không hợp với cái tối, mà có thể thấy được cái tối thì cũng phải không hợp với cái sáng mới có thể thấy được cái sáng. Còn nếu hợp với cái sáng thì không thấy được cái sáng vậy! Đã không thể thấy sáng thì không thể gọi là hợp nhau, làm sao lại cùng với cái sáng hợp được! Biết rằng Sáng chẳng phải tối, thì cả hai cái thấy sáng và cái thấy tối đều không hợp nhau được. Cái thấy hẳn là khác với tiền cảnh, không thể hợp được.

Đã là cái Kiến Tinh này thì sáng, tối, thông, bít đều chẳng phải là cái Thấy, nên mới nói là Trong Sạch (Tịnh). Nhưng sáng, tối, thông, bít chẳng có cái nào không phải là cái Thấy, nên gọi là Diệu. Nói Kiến Tinh là Diệu Tịnh vì nó là cái Tịnh Sắc Căn, chẳng dính dáng với vọng trần, chẳng phải do Hòa Hợp mà sanh ra, huống là cái Tánh Thấy vốn là Giác Ngộ, trong sạch cực cùng, mầu nhiệm cực cùng, há lại do căn trần hòa hợp mà hiện hữu ư?

Tổ Chương Kính thượng đường, nói: “Tột Lý quên lời, người đời chẳng hiểu. Gượng ép tu tập việc ngoài, cho là công phu. Chẳng biết rằng Tự Tánh vốn không dính dáng đến trần cảnh, đó là cái pháp môn Vi Diệu Đại Giải Thoát. Vốn có cái gương hằng giác, không nhiễm ô, không ngăn ngại. Cái Quang Minh đó chưa từng mai một, vô thủy đến nay không hề đổi khác. Cũng như mặt trời, xa gần đều soi chiếu. Tuy đến các sắc tượng mà chẳng hòa hợp với tất cả, Linh Diệu Độc Sáng, chẳng nhờ rèn luyện. Chỉ vì chẳng biết nên đeo giữ hình tướng. Chẳng khác nào dụi mắt thấy Không-hoa, uổng tự nhọc nhằn, qua nhiều đời kiếp. Nếu liền phản chiếu thì không có được người thứ hai! Làm lụng bày biện này kia, nào chẳng kém hao Thật Tướng!”

Ngài Không Thất Đạo Nhân Trí Thông nhân xem cuốn Pháp Giới Quán liền tỏ ngộ, làm hai bài kệ:

Bài Một :

Mênh mông trần thế một Tánh Như

Dọc ngang xen lẫn ấn Tỳ Lô

Toàn sóng là nước, sóng chẳng là nước

Toàn nước thành sóng, nước tự mình!

(Hạo hạo trần trung thể Nhất Như

Tung hoành giao hỗ ấn Tỳ Lô

Toàn ba thị thủy, ba phi thủy

Toàn thủy thành ba, thủy tự thù).

Đây là nghĩa Chẳng Hòa Hợp.

Bài Hai :

Ta, Vật vốn không khác

Trùng trùng gương, bóng đồng

Sáng trong, siêu chủ bạn

Tỏ tỏ, triệt Chân Không

Một Thể trùm muôn pháp

Trong lưới báu nhập nhau

Trùng trùng, không cùng tận

Động, tĩnh vốn viên thông

(Vật ngã nguyên vô dị

Sum la cảnh tượng đồng

Minh minh siêu chủ bạn

Liễu liễu triệt Chơn Không

Nhất Thể hàm đa pháp

Giao tham đế võng trung

Trùng trùng vô tận xứ

Động tĩnh tất viên thông).

Đây lại là nghĩa Chẳng phải Không Hòa Hợp.

Thiện Tâm
08-12-2015, 06:55 PM
Kinh:

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như chỗ tôi suy nghĩ: cái Tâm Tánh này đối với các trần cảnh và các tâm niệm không Hòa Hợp chăng?”

Phật dạy : “Nay ông lại nói Tánh Giác không Hòa Hợp, thì ta lại hỏi ông: Cái Thấy Mầu Nhiệm này mà gọi là chẳng Hòa Hợp đó, là không hòa với cái sáng, là không hòa với cái tối, là không hòa với sự thông suốt, hay là không hòa với sự ngăn bít? Nếu không hòa với cái sáng, thì giữa cái Thấy và cái sáng phải có ranh giới. Ông nay hãy xét kỹ: chỗ nào là cái sáng? Chỗ nào là cái Thấy? Nơi cái Thấy, nơi cái sáng thì lấy từ đâu làm ranh giới? Anan, nếu ở trong ranh giới của cái sáng chắc không có cái Thấy, hai cái không đến với nhau, cái Thấy tự chẳng biết được cái sáng ở đâu, thì ranh giới làm sao thành lập? Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít thì cũng như thế.

“Lại cái Thấy mà gọi là chẳng có hòa hợp đó, là không hợp với cái sáng, không hợp với cái tối, không hợp với cái thông suốt, hay không hợp với cái ngăn bít? Nếu không hợp với cái sáng, tức là cái Thấy và cái sáng tánh trái ngược nhau, cũng như lỗ tai với cái sáng hoàn toàn không liên quan gì nhau. Nếu vậy thì cái Thấy không biết được cái sáng ở đâu, làm sao mà phân biệt ra được cái lẽ Hợp hay Chẳng Hợp? Đối với cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít thì cũng như thế.

Thông rằng:

Chỗ Không Hòa Hợp mà Ông Anan nghi ấy là hai pháp Chơn và Vọng, hình như chẳng có tương nhập, vì ông chưa có thể dung thông Chơn, Vọng làm một.

Tạm nói là Không Hòa, thì cái Thấy và cái sáng phải có ranh giới. Tạm nói là Không Hợp, thì cái Thấy và cái sáng, tánh tướng trái ngược nhau. Nay đều chẳng phải vậy, nên biết rằng chẳng phải Không Hòa Hợp.

Ở đoạn trước, Ông Anan nói “Không thể ở nơi hình tướng của muôn vật trước mặt mà phân tách ra được cái Thấy có riêng tự tánh, lìa ngoài mọi vật”, thì cũng tương tự chỗ này. Đã nói Không Hòa Hợp là từ nơi sự diệu tịnh của cái Thấy mà nói, tịnh cho nên chẳng dung chứa sự xen tạp. Lại nói Chẳng phải Không Hòa Hợp, là từ riêng sự Diệu của cái Thấy mà nói, Diệu thì không chỗ nào mà không có.

Cuốn Bách Môn Nghĩa Hải nói “Thấu đạt Vô Sanh là hiểu rằng Trần Cảnh là Duyên của Tâm, và Tâm là Nhân của Trần Cảnh. Nhân Duyên hòa hiệp thì các huyễn tướng mới sanh ra. Do từ Duyên sanh, nên Vô Tự Tánh. Tại sao thế ? Vì nay Trần chẳng thể tự duyên mà phải chờ có tâm. Tâm chẳng thể tự mình làm tâm, tất phải chờ có duyên Trần. Do nương nhau mà có, nên không thể định. Do đó, Duyên Sanh tức là Vô Sanh, chứ chẳng phải bỏ Duyên Sanh mà nói Vô Sanh”.

Tổ Thiệu Tiên thượng đường, nói : “Vo chẳng dính, đập chẳng tan, phơi nắng không khô, ngâm nước không thối. Một mực treo giữa Thái Hư, mặc người mắt lạnh cạnh bên nhìn”.

Hòa Thượng Bì Thọ đang hơ lửa.

Ngài Đạo Ngô hỏi: “Làm gì thế?”

Tổ Thọ nói: “Hòa hiệp”.

Đạo Ngô: “Như thế tức là ngay đó mà thoát ư?”

Tổ Thọ rằng: “Cách xa bao nhiêu thời gian rồi vậy?”

Ngài Đạo Ngô phất tay áo, bỏ đi.

Một hôm, Ngài Đạo Ngô ở ngoài về, Tổ Bì Thọ hỏi: “Từ đâu về đó?”

Ngài Đạo Ngô đáp: “Gần đây thôi”.

Tổ Thọ rằng: “Dùng sàng sảy hai miếng da đó làm gì?”

Ngài Ngô: “Mượn”.

Tổ Thọ rằng: “Kia có thì cho ông mượn, còn không thì làm sao?”

Đạo Ngô: “Chỉ vì có nên mới mượn”.

Xem chỗ cử xướng của chư tôn túc như thế, thì cái Diệu Giác Nguyên đó cùng các duyên trần và các tâm niệm là Hòa Hợp hay chẳng Hòa Hợp? Cần có mắt mới được!

Thiện Tâm
08-14-2015, 05:57 PM
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM


MỤC BẢY: TÓM THU VỀ NHƯ LAI TẠNG


I. TÓM THU

Kinh:

“Anan, ông còn không biết rằng hết thảy các tướng huyễn hóa của tiền trần ngay nơi chỗ mà sanh ra, tùy theo chỗ mà diệt mất. Hư huyễn vì mê vọng nên nói là tướng, chứ thật tánh chúng là Diệu Giác Minh Thể. Như vậy, cho đến năm Ấm, sáu Nhập, mười hai Xứ và mười tám Giới đều là: - Nhân Duyên hòa hợp: in tuồng có sanh ra; - Nhân Duyên chia lìa : in tuồng diệt mất. Quyết chẳng biết rằng sanh, diệt, đến, đi vốn là Như Lai Tạng Tánh thường trụ, mầu sáng, bất động, tròn khắp, tánh diệu Chân Như. Trong Tánh Chân Thường ấy mà tìm cầu cho ra tướng đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử rốt là không được.

Thông rằng:

Ở đây bày thẳng Đốn Môn, mở ra con đường Diệu Bồ Đề, tức là ngay trong phù trần huyễn hóa mà chứng Chân Như. “Trong Tánh Chân Thường mà tìm cầu cho ra tướng đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử rốt là không được”.

Các thứ Ấm, Nhập, Xứ, Giới chỉ có tướng huyễn vọng. Huyễn không tự tánh, nương Chân mà lập như hoa đốm khởi lên giữa hư không, toàn thể hoa đốm là hư không. Như sóng sanh trên nước, toàn sóng là nước. Cho nên kinh nói “Tánh của chúng thật là Diệu Giác Minh Thể”, Thể này chính là Pháp Thân. Tự nó gồm chứa vô lượng công đức nên gọi là Như Lai Tạng. Vốn chẳng đến đi, nên gọi là Thường Trụ. Vốn chưa từng mê muội, nên gọi là Diệu Minh. Vốn không sanh diệt, nên gọi là Bất Động. Vốn tự sẵn đủ nên nói là Tròn Khắp, Châu Viên. Một vị Thường Trụ nên Đến Đi bất khả đắc. Một vị Diệu Minh nên mê ngộ bất khả đắc. Một vị Bất Động nên sanh tử bất khả đắc. Một vị Tròn Khắp nên Chân Thường.

Cái gọi là Tánh Chân Như Mầu Nhiệm ở đây kỳ thật là cái “Xưa nay không một vật” vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Kẻ học nhân này chẳng hiểu, Hòa Thượng chỉ bày như thế nào?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Ta không có một vật nào hết. Từ xưa đến giờ chẳng từng đem ra một món vật cho người. Ông từ vô thủy đến nay chỉ vì bị người ta chỉ bày rồi tìm kiếm chuyện Khế Hợp, tìm kiếm chuyện Hiểu Ngộ. Như thế thì chẳng phải cả thầy trò đều lọt vào nạn vua sao ? Ông chỉ cần biết rằng, một niệm chẳng thọ tức là không có cái Thân Thọ. Một niệm không tưởng đến tức là không có cái Thân Tưởng. Quyết chẳng có trôi theo sự tạo tác, tức là không có cái Thân Hành. Chẳng có nghĩ suy, so sánh, phân biệt tức là không có cái Thân Thức. Nay ông vừa khởi ra một niệm tức thì có ngay vòng Thập Nhị Nhân Duyên : Vô Minh duyên ra Hành, vừa Nhân vừa Quả; cho đến Lão, Tử cũng vừa Nhân vừa Quả.

“Cho nên đồng tử Thiện Tài đi một trăm mười nơi cầu thiện tri thức, chỉ là hướng vào Thập Nhị Nhân Duyên mà cầu. Sau rốt gặp Đức Di Lặc. Đức Di Lặc lại chỉ đến gặp Đức Văn Thù. Văn Thù ấy, chính là cái Bổn Địa Vô Minh của ông. Nếu tâm tâm riêng khác, hướng ngoài mà tìm cầu thiện trí thức, thì một niệm vừa sanh liền diệt, vừa diệt liền sanh. Bởi thế, Tỳ Kheo các ông cũng sanh, cũng lão, cũng bệnh, cũng tử. Trả Nhân đền Quả xưa nay, tức là sự sanh diệt của năm Tụ. Năm Tụ là năm Ấm. Một niệm chẳng khởi tức là mười tám Giới bèn không, ngay thân là hoa trái Bồ Đề, ngay tâm tức là Bát Nhã. Nếu có chỗ dừng bám, thì ngay thân là xác chết, cũng gọi là quỉ giữ xác chết”.

Lời nói này của Tổ Hoàng Bá chẳng phải làm sáng tỏ câu kinh “Hư huyễn vì mê vọng nên nói là tướng, chứ thật tánh của chúng chính là Diệu Giác Minh Thể” đó sao?

Ông Hạo Nguyệt cúng dường, hỏi Tổ Trường Sa: “Rõ thì nghiệp chướng vốn là không. Chưa rõ, nợ xưa đành trang trải [Chứng Đạo Ca]”, vậy thì Tổ Sư Tử Tôn giả và Nhị Tổ Huệ Khả vì sao phải trả nợ xưa?”

Tổ Sa nói: “Đại Đức chẳng biết Bổn Lai Không [Cái xưa nay vốn Không].”

Hỏi: “Như thế nào là Bổn Lai Không?”

Đáp: “Là nghiệp chướng”.

Hỏi: “Như thế nào là nghiệp chướng?”

Đáp: “Là Bổn Lai Không”.

Rồi Tổ Sa dùng bài kệ chỉ bày:

“Giả Có, vốn chẳng Có

Giả Diệt, cũng chẳng Không

Nghĩa Niết Bàn, trả nợ

Một Tánh, chẳng khác gì”.

(Giả Hữu nguyên phi Hữu

Giả Diệt diệc phi Vô

Niết Bàn, thường trái nghĩa

Nhất Tánh, cánh vô thù).

Lời dạy này của Tổ Trường Sa chẳng phải làm rõ câu “Sanh diệt, đến đi đều vốn là Tánh Chân Như tròn khắp, bất động, mầu sáng, thường trụ của Như Lai Tạng” đó sao?

Lại Tổ Giáp Sơn về Tổ Định Sơn vừa đi vừa nói chuyện.

Tổ Định Sơn nói: “Trong sanh tử mà không có Phật, thì không có sanh tử”.

Tổ Giáp Sơn nói: “Trong sanh tử mà có Phật thì chẳng mê sanh tử”.

Hai bên chẳng chịu nhau, bèn có đến Tổ Đại Mai.

Giáp Sơn bèn thuật lại và hỏi chỗ thấy, hiểu của ai gần hơn.

Tổ Mai nói: “Một gần, một xa”.

Giáp Sơn lại hỏi: “Cái nào gần”.

Tổ Mai rằng: “Thôi về đi, ngày mai đến”.

Hôm sau, Giáp Sơn lại tới hỏi nữa.

Tổ Mai nói: “Gần thì chẳng hỏi, hỏi thì chẳng gần”.

Sau này, Ngài Giáp Sơn tự bảo : “Lúc đó mất một con mắt lẻ”.

Đây là một tắc, chẳng phải làm rõ câu “Trong Tánh Chân Thường mà cầu cho ra những cái đến đi, mê ngộ, sanh tử rốt là không được” đó sao?

Bản chú giải xưa cho rằng: Từ bảy chỗ trưng tâm và biện ra cái Thấy cho đến đây là rộng phá Chấp Ngã, là pháp Quán Không, Xa Ma Tha. Từ đây trở xuống là rộng phá Chấp Pháp, tức là pháp Quán Giả, Tam Ma Đề. Đối với chỗ “Chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh thành Phật” còn cách xa một đoạn đường.

Như thế là chưa hiểu rằng pháp Diệu Xa Ma Tha mà Ông Anan hỏi, thì ở đây, được đáp là Diệu Chân Như Tánh. Chỉ một chữ Diệu, thật khó hình dung, người ngộ tự biết lấy.

Thiện Tâm
08-16-2015, 10:57 AM
A. THU SẮC ẤM

Kinh:

“Anan, thế nào năm Ấm vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng:

Năm Ấm cũng gọi là năm Uẩn. Uẩn nghĩa là chứa nhóm, tích tụ. Ấm nghĩa là che đậy. Tích tụ hữu vi, che đậy Chân Tánh, cho nên cùng gọi là phạm vi của năm Ấm, rất là khó phá. Ở đây nói “Vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh” là nói suy từ gốc thì năm Ấm duyên khởi từ trong Như Lai Tạng mà lưu xuất ư? Hay là nói năm Ấm đều Không, tức hiển bày Tánh Diệu Chân Như ư? Điều này thuộc về Đốn Môn, tức là ở đoạn trước gọi là “Con Đường Diệu Tu Hành các Tam Ma Đề Đại Tổng Trì”. Chính là ở đây chỉ rằng : Ngũ Ấm tức là Như Lai Tạng, tức là Tánh Diệu Chân Như, không hai, không khác! Như thế thì dẹp tan Ngũ Ấm, cũng không có thứ lớp. Như luận về Lý Đốn Ngộ, phải ngay đây thấy được năm Ấm đều tự Vô Sanh, đều tự Tịch Tĩnh, cầu tướng năm Ấm rốt là không thể được. Thế thì năm Ấm đâu chẳng phải là Chân Như, mà Chân Như nào chẳng hề là Ngũ Ấm ư?

Có nhà sư hỏi Tổ Quy Sơn An rằng: “Rời bỏ năm Ấm, thế nào là cái thân xưa nay?”

Tổ An nói: “Đất, Nước, Lửa, Gió, Thọ, Tưởng, Hành, Thức”.

Vị sư nói: “Cái đó là năm Ấm”.

Tổ An nói: “Cái đó chẳng phải năm Ấm”.

Lại hỏi: “Cái Ấm này đã hết mà cái Ấm kia chưa sanh, thì như thế nào?”

Tổ An nói: “Cái Ấm này chưa hết, Đại Đức là cái gì?”

Đáp: “Chẳng hiểu được”.

Tổ An nói: “Nếu hiểu cái Ấm này, bèn rõ Ấm kia”.

Như theo Tổ An, quả là thấu suốt Ngũ Ấm vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

Thiện Tâm
08-16-2015, 11:01 AM
Kinh:

“Anan, ví như có người dùng con mắt trong sạch xem hư không trong tạnh, chỉ thấy một hư không trong sáng, vắng lặng chẳng có gì. Người ấy khi không chẳng lay động con mắt, nhìn sững hồi lâu nên mỏi mắt, bèn ở nơi hư không riêng thấy hoa đốm loạn xạ, lại thấy có tất cả những tướng giả dối lăng xăng. Nên biết rằng Sắc Ấm cũng là như thế.

“Anan, các hoa đốm lăng xăng ấy chẳng phải từ hư không mà đến, chẳng phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, Anan, nếu nói từ hư không mà đến, đã từ hư không đến thì phải lại trở vào hư không. Nếu có ra, có vào như thế thì đã chẳng phải là hư không. Hư không mà chẳng phải trống rỗng thì tự nhiên không thể dung chứa hoa đốm sanh diệt ở trong ấy, cũng như thân thể Anan không thể dung chứa được một Anan khác.

“Còn cho rằng hoa đốm từ con mắt mà ra, đã từ con mắt ra thì phải trở vào con mắt. Lại cái tính hoa đốm ấy đã từ con mắt mà ra thì lẽ ra phải có Tánh Thấy. Nếu có Tánh Thấy thì khi đã ra làm hoa đốm giữa hư không, phải trở lại thấy được con mắt. Nếu không có Tánh Thấy, thì khi đi ra phải che lấp hư không, khi trở vào phải che lấp con mắt! Hơn nữa, khi thấy hoa đốm, đáng lẽ con mắt phải không lòa, chứ sao thấy hư không trong sáng thì mới gọi là con mắt trong sạch?

“Vậy, nên biết rằng: Sắc Ấm hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Ngài Long Thọ có bài kệ:

“Các pháp chẳng tự sanh

Cũng chẳng do (cái) khác sanh

Chẳng chung, chẳng không nhân

Nên gọi là vô sanh”.

(Chư pháp bất tự sanh

Diệc bất tùng tha sanh

Bất cọng bất vô nhân

Thị cố thuyết vô sanh).

Phàm các pháp chẳng tự sanh, vì chờ có các Duyên vậy. Chẳng do cái khác sanh, vì các Duyên đều vô tự tánh. Chẳng cùng sanh vì thể của trí và tu hành là không; vô tự tánh nên không hợp, không tán. Chẳng không Nhân, vì phải chờ tu hành giác ngộ mới hiển lộ, chứ chẳng phải tự nhiên mà thành.

Hãy biết rằng cái Diệu Giác Minh Thể này lìa ngoài hết thảy mọi lỗi lầm, vốn Tự Vô Sanh vậy. Từ năm Ấm, sáu Nhập, mười hai Xứ, mười tám Giới cho đến bảy Đại chẳng có chỗ nào không làm rộng sáng cái ý này. Ngộ được Vô Sanh tức là Con mắt thanh tịnh. Xưa nay vốn tự không hoa đốm, chỉ vì nhìn sững mà hoa mắt. Trái với Chân, hiệp với Vọng, bèn thấy có hoa. Hoa vốn không Thể, chẳng từ đâu sanh. Chỉ hết bệnh nhặm, hoa cuồng loạn tự diệt. Nếu ở nơi hoa đốm lăng xăng mà cho là có chỗ sanh ra, tức là tánh Nhân Duyên; nói là không có chỗ phát sanh, là tánh Tự Nhiên. Nay xét chỗ sanh ra, thì chẳng ở hư không mà sanh, cũng chẳng ở con mắt mà sanh, thì rõ là chẳng phải Nhân Duyên. Nếu quả là Tự Nhiên mà có thì khi thấy hoa đốm lẽ ra tự mình không có bệnh nhặm. Nếu không có bệnh nhặm mà thấy hoa đốm thì con mắt thấy hoa đốm phải gọi là con mắt trong sạch! Và thấy hư không trong sáng phải là con mắt nhặm! Thế, tại sao khi thấy hư không trong sáng lại gọi là con mắt trong sạch? Hoa đốm này chắc phải do bệnh nhặm mà sanh, chứ rõ ràng chẳng phải tự nhiên vậy!

Ôi! Hoa đốm đã thế, thì Sắc Ấm cũng thế. Vốn đều hư vọng, vốn vô tự tánh, tức Sắc tức Không. Cho nên gọi đó vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.

Đức Mã Tổ dạy chúng rằng: “Ba cõi duy chỉ là Tâm, muôn hình vạn tượng đều là một Pháp Ấn. Phàm thấy sắc là thấy tâm. Tâm chẳng tự là tâm, nhân sắc mà có. Các ông chỉ tùy thời mà nói năng, thì sự tức là lý, đều không chỗ ngại. Đạo quả Bồ Đề cũng lại như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc. Biết sắc là không thì sanh tức là chẳng sanh. Nếu hiểu ý này mới khá tùy thời ăn cơm mặc áo, nuôi lớn Thánh Thai [Điạ vị Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng thuộc về Tam Hiền, gọi là Thánh Thai. Do chỗ tự dùng mình gieo làm nhân, bạn lành làm duyên, nghe chánh pháp mà tu tập nuôi lớn đến bậc Sơ Địa, thấy được Đạo, sanh trong nhà Phật], mặc tình qua ngày qua buổi, còn chuyện gì đâu! Các ông thọ lãnh giáo pháp của ta, hãy nghe kệ rằng:

“Tâm địa tùy thời nói

Bồ Đề chỉ là thế

Sự, lý đồng không ngại

Đang sanh tức chẳng sanh”.

(Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ Đề diệc chỉ ninh

Sự, Lý cu vô ngại

Đương sanh tức bất sanh).

Tổ Vân Môn dạy chúng rằng: “Chân Không chẳng hoại Có. Chân Không không khác Sắc”.

Có vị sư hỏi: “Cái gì là Chân Không?”

Tổ Môn nói: “Ông có nghe tiếng chuông không?”

Đáp: “Đó là tiếng chuông”.

Tổ Môn nói: “Năm Lừa [Năm Lừa : năm không có trong mười hai chi] mộng thấy được sao?”

Thiền sư Cao An Nhân dạy chúng rằng: “Bình thường chẳng muốn hướng theo lời trước, câu sau mà cổ vũ đùa giỡn với nam nữ nhà người. Vì sao? Vì thanh chẳng phải thanh, sắc chẳng phải sắc”.

Có vị tăng hỏi: “Như thế nào là thanh chẳng phải thanh?”

Đáp: “Gọi là sắc được không?”

Hỏi: “Như thế nào là sắc chẳng phải sắc?”

Đáp: “Gọi là thanh được chăng?”

Vị tăng làm lễ tạ.

Tổ Bèn nói: “Hãy thử nói xem: vì ông mà nói? Hay đáp lại lời ông? Nếu có người rõ được thì có chỗ nhập”.

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

“Sắc tự sắc, hề, thanh tự thanh

Oanh non hót liễu, khói mong manh

Cửa cửa đều thông về kinh quốc

Nghiêng nghiêng ba đảo, biển đầy trăng

(Sắc tự sắc hề thanh tự thanh

Tân oanh đề xứ liễu yên kinh

Môn môn hữu lộ thông kinh quốc

Tam đảo tà hoành hải nguyệt minh).

Cho nên, biết Sắc Ấm vốn là Tánh Diệu Chân Như, liền đạt Vô Sanh đó.

Thiện Tâm
08-17-2015, 06:16 PM
B. THU THỌ ẤM

Kinh:

“Anan, ví như có người tay chân yên ổn, năm vóc điều hòa, bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận. Người ấy khi không lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư không, thì nơi hai bàn tay ấy giả dối sanh ra những Cảm Xúc trơn rít, lạnh nóng. Nên biết Thọ Ấm cũng lại như thế.

“Anan, các Cảm Xúc giả dối kia không phải từ hư không mà đến, không phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy, Anan, nếu từ hư không mà đến thì đã sanh Cảm Xúc nơi bàn tay, sao lại không sanh Cảm Xúc nơi thân thể, không lẽ hư không lại biết lựa chỗ để sanh ra Cảm Xúc? Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai tay phải hợp lại. Lại đã từ bàn tay mà ra thì khi bàn tay hợp lại, biết có Cảm Xúc, đến khi bàn tay rời ra thì Cảm Xúc phải chạy vào, và xương tủy cánh tay phải biết đường vào của Cảm Xúc. Rồi hẳn phải có tâm hay biết, biết ra, biết vào và phải có một vật gì đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là Cảm Xúc?

“Vậy, nên biết rằng: Thọ Ấm hư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng:

Trong cái Tạng Tánh không có các lãnh thọ. Khởi ra xúc tình nơi Cảnh, đem Cảnh vào tâm thì gọi là Thọ. Cho nên lấy hai tay xoa vào nhau thì hư vọng sanh ra trơn rít, lạnh nóng... Lạnh nóng vốn không có, do tiếp xúc mà có, nên gọi là huyễn xúc. Nếu Thọ Ấm do Nhân Duyên hay Tự Nhiên mà sanh thì không thể gọi là hư vọng. Nay Thọ chẳng phải từ hư không cũng chẳng phải từ bàn tay, tức là chẳng phải Nhân Duyên. Phải chờ hợp lại mới biết tức là chẳng phải Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, đương thể Tịch Diệt. Vốn tự chẳng sanh thì không phải là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh sao? Gọi là Nhiệm Mầu (Diệu), vì Thọ mà thật chẳng Thọ.

Đức Thế Tôn nhân có vị Phạm Chí Trường Trảo đến để nghị luận, và cam đoan trước rằng: “Nếu cái nghĩa của tôi rớt, tôi sẽ tự chặt đầu”.

Thế Tôn nói: “Nghĩa của ông lấy gì làm Tông?”

Ông Phạm Chí đáp: “Tôi lấy “Tất cả đều chẳng lãnh thọ làm Tông”.

Thế Tôn nói: “Cái Thấy đó có thọ không?”

Vị Phạm Chí phất tay áo bỏ đi. Đến giữa đường, ông bèn tỉnh ngộ mà bảo với đệ tử rằng: “Ta phải trở lại dâng đầu cho Thế Tôn!”

Các đệ tử nói: “Trước đại chúng trời, người, Ngài đã thắng cuộc, sao lại chém đầu?”

Ông đáp: “Ta thà ở trước người Trí mà chém đầu còn hơn ở giữa người vô Trí mà đắc thắng”.

Rồi than rằng: “Nghĩa của ta bị rớt vào cả hai chỗ : Cái Thấy mà có thọ, là rơi vào phần thô. Cái Thấy mà không thọ, là rơi vào phần tế. Tất cả trời, người và hàng Nhị Thừa đều chẳng biết chỗ rơi kẹt của cái nghĩa ta đưa ra. Chỉ có Thế Tôn và các Đại Bồ Tát biết được cái nghĩa của ta bị rớt”.

Bèn trở lại chỗ Thế Tôn và thưa rằng : “Nghĩa của tôi bị rớt kẹt ở hai nơi, xin tự chặt đầu dâng Ngài”.

Đức Thế Tôn dạy: “Trong pháp của ta không có việc như vậy. Ông nên hồi tâm mà hướng về đạo”.

Ông Phạm Chí bèn cùng năm trăm đệ tử xuất gia theo Phật và chứng A La Hán.

Ôi, Thọ Ấm vi tế đến như vậy, đâu dễ gì phá!

Thiện Tâm
08-17-2015, 06:18 PM
C. THU TƯỞNG ẤM

Kinh:

“Anan, ví như có người khi nghe nói đến trái mơ chua thì trong miệng chảy nước miếng. Khi nghĩ đến đứng trên vực núi thì lòng bàn chân thấy rợn rợn. Nên biết Tưởng Ấm lại cũng như vậy.

“Anan, câu chuyện mơ chua như thế chẳng từ trái mơ mà sanh ra, chẳng phải do cái miệng mà vào. Thật vậy, Anan, nếu do quả mơ sanh ra thì trái mơ tự nói lấy, nào phải chờ đến người nói? Nếu do cái miệng mà vào thì cái miệng tự nghe lấy, cần gì đến lỗ tai! Nếu chỉ có lỗ tai nghe, thì nước miếng kia sao không từ lỗ tai chảy ra! Chuyện nghĩ đến đang đứng trên vực núi lại cũng như vậy.

“Vậy, nên biết rằng: Tưởng Ấm là hư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng:

Tư tưởng vốn không có thật tướng, do tâm mà thành có tướng, nên gọi là Tưởng. Nghĩ tưởng đến trái mơ chua thì chảy nước miếng. Nghĩ tưởng đến vực cao thì cảm thấy lòng bàn chân rợn rợn. Trái mơ nào có miệng, chỉ có nói đến thôi, thì nước miếng do đâu mà tới? Nên có là do Tưởng vậy. Lại nữa, trong mộng mà nói đến trái mơ chua, người nói chẳng phải là người thật, cái Nghe lại chẳng phải lỗ tai, thì nước miếng do đâu mà tới, đó là kết quả của Tưởng vậy. Nếu cái Tưởng này là tánh Nhân Duyên thì chắc là không thể ngoài trái mơ chua và miệng mà có. Nay việc nói chẳng phải là từ quả mơ, việc nghe chẳng do miệng, lỗ tai lại chẳng chảy nước miếng, mà trong miệng lại có nước sanh ra, thì rõ ràng không phải là Nhân Duyên.

Nếu cái Tưởng này là tánh Tự Nhiên, thì khi nói trái mơ chua lẽ ra lòng bàn chân phải thấy rờn rợn, nói đứng trên vực thẳm thì lẽ ra nước miếng chảy ra. Mà nay mỗi thứ đều tùy theo chủng tử, tập khí, chẳng phải không lý do mà tự nhiên có, nên rõ ràng là không phải Tự Nhiên.

Chẳng phải là Nhân Duyên, chẳng phải là Tự Nhiên, ngay đang lúc Tưởng, tức là Vô Tưởng, Như Như, một Tánh Nhiệm Mầu vậy.

Có một vị đạo sĩ hỏi Tổ Vạn Tùng: “Kẻ đệ tử này hơn ba mươi năm trừ dẹp vọng tâm mà không xong!”

Tổ Tùng nói: “Tôi có bốn câu hỏi đưa ra để tỏ cái Toàn Chân:

“Câu hỏi thứ nhất: Vọng tâm đã có từ lâu mau rồi?

“Câu hỏi thứ hai: Xưa nay vốn có Vọng Tâm không?

“Câu hỏi thứ ba: Vọng tâm làm sao mà đoạn?

“Câu hỏi thứ tư: “Vọng tâm đoạn là phải hay không đoạn là phải?”

Vị tăng lạy tạ rồi đi.

Ngài Hoàng Sơn Triệu Văn Nhụ thân cận Viên Thông quốc sư, từng có bài tụng:

“Vọng tưởng xưa nay vốn là Chân

Khi trừ lại dấy một lớp trần

Nói, suy, động, tĩnh nhờ gì đó?

Kỹ lưỡng mà xem, ai khác đâu”.

(Vọng Tưởng nguyên lai bổn tự Chơn

Trừ thời hựu khởi nhất trùng trần

Ngôn, tư, động, tĩnh thừa thùy lực

Từ tế khán lai vô biệt nhơn).

Thuở Phật còn tại thế, có ba người anh em nghe ở nước Tỳ Da Ly có người dâm nữ tên là Am La Bà Li. Lại nghe ở nước Xá Vệ có người dâm nữ là Tu Mạn Na, lại nghe ở thành Vương Xá có người dâm nữ tên là Ưu Bát La Bàn Na. Tất cả đều tuyệt sắc. Ngày đêm nhớ nghĩ, mới mộng thấy cùng các nàng đó ân ái. Đến khi tỉnh dậy, nhớ lại mới nghĩ rằng: “Người nữ chẳng tới, ta cũng không đi, mà chuyện dâm đã thành đầy đủ”.

Nhân đó mà tỏ ngộ tất cả các pháp đều như thế cả, do đó đốn chứng Duy Tâm.

Ôi! Như ba người ấy đáng gọi là tỏ suốt được sự hư vọng của Tưởng Ấm. Đốn chứng Duy Tâm chẳng phải là đã thấy Tánh Diệu Chân Như sao?

Thiện Tâm
08-17-2015, 06:19 PM
D. THU HÀNH ẤM

Kinh:

“Anan, ví như dòng nước chảy xiết, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết Hành ấm lại cũng như thế.

“Anan, Tánh Chảy như vậy không nhân hư không mà sanh, không nhân nước mà có, cũng không phải tánh nước, cũng không rời hư không và nước. Thật vậy, Anan, nếu nhân hư không mà sanh, thì mười phương hư không vô tận thành ra dòng nước chảy vô tận, thế thì thế giới đều bị chìm đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì dòng chảy ấy bản tánh lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay đã có thể chỉ ra tướng của dòng chảy và tướng của nước khác nhau. Nếu Tánh Chảy tức là Tánh Nước, thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa. Nếu Tánh Chảy rời hư không và nước mà có, thì không thể có cái gì ở ngoài hư không cả, và ở ngoài nước không thể có dòng nước.

“Vậy nên biết rằng: Hành Ấm hư vọng, vốn không phải Tánh Nhân Duyên, không phải Tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Thức A Đà Na [Thức A Lại Da, Thức Thứ Tám] vi tế, tập khí hiện hành như dòng nước chảy xiết, tưởng chừng là đứng yên, gọi là Thức Thứ Tám. Gắn dính cái vọng động vào Tánh trong lặng, niệm niệm đổi dời, biến đổi chẳng hề ngừng nghỉ, gọi là Thức Thứ Bảy, đó là Hành Ấm. Hành Ấm [Cái Thức thi hành âm thầm] giống như dòng nước chảy xiết, theo Cảnh mà đổi dời. Nhưng cái dòng chảy đó, không phải từ Cảnh mà sanh, không phải từ Tâm mà sanh, chẳng phải tức là Tâm Cảnh, chẳng phải lìa ngoài Tâm Cảnh. Tất cả bởi vì Thức Thứ Bảy ở trong dựa vào Thức Thứ Tám, ngoài thì nương theo Thức Thứ Sáu, vốn không có tự tánh khá được. Đã vô tự tánh, tức là hư vọng vậy.

Nói dòng nước chẳng phải từ hư không sanh ra thì còn dễ hiểu, nhưng nói “Dòng nước chẳng phải từ nước mà có” thì khó biện ra. Cái Năng Hữu [Cái Có] là nước, cái Sở Hữu [Được Có] là dòng nước chảy. Cũng như cây sanh ra trái, thì trái chẳng phải là cây, rõ ràng có thể chỉ ra là cây khác trái. Thế mà dòng nước chảy và nước, hai tướng ấy không thể riêng ra mà tự có, thì tức là dòng nước không phải do nước mà riêng có, đã rõ ràng vậy. Dòng nước chảy chẳng phải tức là hư không hay nước, nghĩa là không phải Nhân Duyên. Chẳng lìa ngoài hư không và nước, tức chẳng phải Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên thì đương nhiên là hư vọng. Thấu suốt được là hư vọng, hiện giờ vốn tự Vô Sanh, đó là Tánh Diệu Chân Như.

Kinh Lăng Già nói “Có tướng thì sanh chấp ngại, có tưởng thì sanh vọng tưởng. Sự trôi chảy (lưu chú) sanh thì theo vọng mà trôi lăn. Nếu đến được Vô Công Dụng Địa thì vẫn còn trong tướng lưu chú. Cần phải vượt ra được cái sanh tướng lưu chú thứ ba, mới là tự tại khoái hoạt”.

Có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Trẻ nhỏ sơ sanh có đủ sáu Thức hay không?”

Tổ Châu nói: “Trên dòng nước xiết, đánh cầu”.

Vị tăng lại hỏi Tổ Đầu Tư: “Trên dòng nước xiết đánh cầu, ý chỉ thế nào?”

Tổ Đầu Tử đáp: “Niệm niệm chẳng dừng”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Sáu Thức vô công, hỏi một câu

Tác gia [Tiếng xưng hô của thiền tông, chỉ kẻ thật có chỗ then chốt. Nghiã là tông sư; như Triệu Châu gọi là tác gia] chung sức biện mối đầu

Mênh mông chảy xiết: cầu vẫn đánh

Chỗ ấy chẳng ngừng, ai biết xem?”.

(Lục Thức vô công thân nhất vấn

Tác gia tầng vọng biện lai đoan

Mang mang cấp xuất đả cầu tử

Lạc xứ bất đình thùy giải khán).

Đây là hoạt cú của Ngài Tuyết Đậu. Thử nói bài tụng đến vào chỗ nào? Nếu nhìn thấy được mới tin nổi Hành Ấm tức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

Thiện Tâm
08-17-2015, 06:20 PM
E. THU THỨC ẤM

Kinh:

“Anan, ví như có người lấy bình tần già [Bình giống hình chim Tần Già (Kalavinka - Ca lăng tần già). Phật dùng làm thí dụ không có sự qua lại của cái không, không có sự sống chết của cái thức (tâm thức hay uẩn thức).] bịt cả hai lỗ, rồi vác cái bình đầy hư không đi xa ngàn dặm đem cho nước khác. Nên biết rằng Thức Ấm cũng lại như thế.

“Anan, cái hư không ấy không phải đến từ phương kia, cũng không phải nhập vào phương này. Thật vậy, Anan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư không đem đi, ở phương kia lẽ ra phải thiếu một bình hư không! Nếu đưa vào phương này thì khi mở miệng bình trút ra, lẽ ra phải thấy hư không ra!

“Vậy, nên biết rằng: Thức Ấm hư vọng, vốn không phải tánh Nhân Duyên, không phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Bộ Tông Cảnh Lục nói “Nếu chấp là có Thức, theo thân mà qua lại, nơi này Thức Ấm diệt, qua nơi kia Thức Ấm sanh thì cũng giống như đem hư không của xứ này qua cho xứ khác ở xa. Nếu ở nơi này Thức Ấm thật diệt mất, thì chỗ này phải thiếu hư không. Nếu ở nơi kia Thức Ấm lại sanh ra, thì khi mở nắp đổ bình, phải thấy hư không chảy ra. Bởi thế nên biết rằng: hư không bất động, Thức không đến-đi, Thức Ấm là hư vọng vậy.

Tổ Ôn Lăng nói: “Cái Tánh Không Chơn Giác cùng khắp pháp giới một khi đã mê thì là Thức, Thức cũng như hư không ở trong bình. Trong ngoài đều là một hư không: ví dụ cho Tánh và Thức vốn là một Thể. Bịt cả hai đầu: ví dụ cho hư vọng phân ra là Đồng, là Khác. Hư không không có sự đến-đi: ví dụ cho Tánh không có sanh, không có diệt. Cái bình: ví dụ cho cái nghiệp hư vọng. Hư không trong bình: ví dụ cho Thức hư vọng. Nghiệp mang Thức đi, như cái bình mang hư không. Đi qua nước khác: ví dụ cho sự luân chuyển hư vọng trong sáu nẻo luân hồi”.

Kinh Pháp Cú nói: “Cái tinh thần ở trong hình hài như con chim sẻ nhốt trong bình. Bình vỡ thì chim bay mất”.

Cái bình tần già này cũng giống như hình hài, hai ý giống nhau.

Quan Đại Phu Lục Tuyên hỏi Tổ Nam Tuyền: “Người xưa có nuôi trong bình một con chim, dần dần lớn lên, không ra khỏi bình được. Nay nếu không được hủy bình, không được làm hư hao chim, làm sao ra được?”

Tổ Nam Tuyền kêu lớn: “Đại Phu!”

Ông Lục Tuyên ứng tiếng dạ.

Tổ Tuyền nói: “Ra rồi vậy”.

Ông Lục Tuyên do chỗ đó mở tỏ, bèn lạy tạ.

Một hôm, lại hỏi Tổ Nam Tuyền: “Đệ tử theo Lục Hợp mà đến, trong ấy lại còn có thân chăng?”

Tổ Tuyền nói: “Phân minh nhớ giữ, cử động tựa chủ nhân”.

Ông Lục Tuyên nói: “Hòa Thượng thật không thể nghĩ bàn, đến chỗ nào thế giới thành tựu chỗ đó”.

Tổ Tuyền nói: “Thật ra, đều là chuyện của phần ông đó!”

Hòa Thượng Báo Ân Minh hỏi hai vị thiền khách: “Thủ Tòa vừa rời chỗ nào?”

Đáp: “Kinh đô”.

Tổ Minh nói: “Thượng Tọa rời kinh đô đến núi này, thì kinh đô thiếu Thượng Tọa mà núi này dư Thượng Tọa! Dư tức là ngoài tâm có pháp; thiếu thì tâm, pháp chẳng cùng khắp! Nói được lý đạo thì nên ở, chẳng hiểu thì nên đi”.

Hai vị này không đáp được.

Như thiền sư Thiên Y Hoài, chỗ thấy tự rành rẽ. Tổ Thiên Y đến ngọn núi Sam, được mời vào chùa, thượng đường nói : “Suốt hai mươi năm mến mộ núi này, hôm nay mừng đã đến được, quả là đầy đủ nhân duyên. Sơn tăng chưa đến núi này mà thân đã đến trước. Kịp tới khi đến đây, thì núi Sam đã ở trong thân của sơn tăng”.

Ở chỗ này mà mỗi mỗi đều thấu triệt, mới tin Thức Ấm là hư vọng, vốn chẳng hề có đến, có đi. Như bọt nước sanh ra, diệt mất, không lìa ngoài biển cả. Bọt nước là biển cả, thì Thức lại chẳng phải là Tánh Diệu Chân Như đó ư?

Thiện Tâm
08-19-2015, 09:30 AM
F. THU SÁU NHẬP

Kinh:

“Lại nữa, Anan, như sao là Lục Nhập vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng:

Lục Nhập cũng gọi là Lục Xứ, là cái chỗ để cho Cảnh do đó mà Nhập vào vậy. Ở đây chỉ lấy Căn làm Nhập. Lục Căn sao lại là Diệu Chân Như Tánh? Chẳng phải là “Một Căn đã trở về nguồn thì sáu Căn đều thành Giải Thoát” sao? Bởi thế, sáu Căn tức đó là Phật Tánh vậy.

Vua Dị Kiến hỏi tôn giả Ba La Đề : “Cái gì là Phật?”

Tổ đáp : “Thấy Tánh là Phật”.

Vua hỏi : “Thầy thấy Tánh chăng?”

Tổ đáp : “Tôi thấy Phật Tánh”.

Vua hỏi : “Cái Tánh ở chỗ nào?”

Tổ nói : “Tánh ở trong tác dụng”.

Vua hỏi : “Ấy là tác dụng nào mà tôi không thấy?”

Tổ nói : “Nay hiện là tác dụng mà vua tự chẳng thấy”.

Vua hỏi : “Hiện nơi tôi có chăng?”

Tổ nói : “Vua mà tác dụng thì không có gì chẳng phải là đó; vua mà chẳng dùng, Thể ấy khó thấy”.

Vua hỏi : “Như khi đang dùng thì xuất hiện mấy chỗ?”

Tổ đáp : “Như khi xuất hiện thì hiện có tám chỗ”.

Vua nói : “Xin vì tôi nói ra tám chỗ xuất hiện ấy”.

Tổ Ba La Đề nói bài kệ:

“Ở thai làm Thân

Ở đời làm Người

Ở mắt là Thấy

Ở tai là Nghe

Ở mũi Ngửi mùi

Ở miệng Đàm Luận

Ở tay Cầm Nắm

Ở chân Đi Chạy

Hiện khắp đồng đều pháp giới

Thâu lại trong một vi trần

Tỏ hiểu, biết đó là Phật Tánh

Không hiểu, lại gọi là tinh hồn”.

Vua nghe xong bài kệ, tâm liền khai ngộ.

Ông Trình Minh Đạo đọc Trung Dung có câu thơ “Diều bay tận trời. Cá nhảy trong vực”, nói rằng “Trên dưới đều rõ ràng vậy”. Đây là Ông Tử Tư quả là vì người mà gắng sức. Biết được thì đời sống quá đổi tự do. Chẳng biết, thì chỉ là “Đùa giỡn với tinh hồn”. Những lời nói ấy, người học vẫn thường nghe. Vì sao vua Dị Kiến lại tỏ ngộ, nhỉ?

Thiền sư Phật Nhật Tài thượng đường: “Gió mưa tiêu điều lấp kín Tai ông! Lá rụng lại qua lấp kín Mắt ông! Hương mùi loạn xạ lấp kín Mũi ông! Lạnh nóng, ngọt bùi lấp kín Lưỡi ông! Áo gấm ấm mát lấp kín Thân ông! Vọng tưởng điên đảo lấp kíp ý ông! Này chư vị thiền đức, cho dù các ông có lật lại được chăng nữa thì cũng là đống xương đất bằng! Tham!”

Chỗ này chẳng tham thì không được!

Thiện Tâm
08-19-2015, 09:32 AM
Kinh:

“Anan, tức nơi tròng mắt kia, ngó sững sanh ra mỏi lòa. Cả hai cái: con mắt và sự mỏi lòa đều là cái tướng sinh mỏi lòa do nhìn chăm chăm của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần sáng và tối phát ra cái Thấy ở bên trong, thu nạp các trần tướng mà gọi là cái Thấy. Cái Thấy này rời ngoài hai Trần sáng và tối, rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, phải biết rằng cái Thấy đó chẳng phải từ nơi sáng, nơi tối mà đến, chẳng phải từ căn mắt mà ra, chẳng phải từ hư không mà sanh. Vì sao thế? Nếu từ cái sáng mà đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được cái tối ! Nếu từ cái tối mà đến thì khi sáng phải theo cái tối mà diệt, lẽ ra không thấy được cái sáng! Nếu do căn mắt mà sanh, hẳn không có sáng, có tối thì cái Thấy như vậy vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra thì ngó tới trước phải thấy các trần tượng, quay về phải thấy con mắt! Lại nữa, hư không mà tự thấy nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông.

“Thế nên, phải biết Nhãn Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên.

Thông rằng:

Ngó sững chặp lâu thì mắt mỏi mà phát lòa, nên thấy hoa đốm loạn xạ, cái căn mắt phân biệt cũng là cái tướng lòa ở trong Giác Tánh Bồ Đề, nên nói “Cả con mắt và cái lòa đều là cái tướng mỏi sanh ra lòa của Bồ Đề”. Mượn con mắt lòa tạo thành sắc ấm để ví dụ là Nhãn Nhập hư vọng vậy. Nếu mắt chẳng mỏi, tướng lòa tự là không, nguyên một Tinh Minh lấy đâu mà vọng? Cái Thấy này lìa ngoài hai trần sáng, tối rốt ráo không tự thể. Rõ ràng hiển bày cái Chân Kiếân Vô Sanh, chẳng vì thấy sáng, thấy tối mà có, chẳng vì lìa sáng, tối mà không. Chân Kiến là Chân Thật, còn cái Thấy này là hư vọng, có thể thấy rõ ràng vậy.

Đoạn trước nói “Hoa đốm chẳng phải từ hư không sanh, chẳng từ con mắt sanh ra” chỉ thẳng sắc ấm vốn không. Ở đoạn này, nói “Tánh Thấy chẳng từ hư không sanh cũng chẳng do con mắt sanh ra” để chỉ bày Nhãn Nhập là hư vọng. Vọng vốn không tự tánh, Đương Thể tức Chân. Nên nói “Tức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh” vậy.

Tổ Triệu Châu nói: “Cầm chắc Càn Khôn Nhãn, làu làu chẳng lọt mảy lông. Mong ông hiểu thấu, ông lại làm gì nữa?”

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Trở lại đầu mối được chưa? Dù cho ông ở trong ấy hiểu được bảy lỗ, tám hang đi nữa, ta cũng biết ông chẳng ra khỏi cái nôi mây kết tróùi của Tổ Triệu Châu đâu!”

Lại có nhà sư hỏi Tổ Cửu Phong Kiền: “Như thế nào là con Mắt Càn Khôn?”

Tổ Phong nói : “Càn Khôn ở trong ấy!”

Nhà sư hỏi : “Con Mắt Càn Khôn ở đâu?”

Tổ Phong nói : “Chánh đó là con Mắt Càn Khôn”.

Sư hỏi : “Lại có chiếu sáng không?”

Tổ Phong nói : “Chẳng nhờ đến thế lực của ba loại ánh sáng”.

Sư hỏi: “Đã chẳng nhờ sức của ba loại ánh sáng thì nhờ vào đâu mà chiếu sáng, mà gọi là con Mắt Càn Khôn?”

Tổ Phong nói: “Nếu chẳng như thế thì trước sọ khô thấy quỷ ma vô số!”

Hợp hai tắc này lại mà xem xét, nếu mà có nương nhờ thì đó chính là chỗ rỉ giọt [Sấm lậu], cho dù có hiểu được cũng là trước mắt thấy quỉ. Chỉ nơi một câu “Con Mắt Càn Khôn ở tại chỗ nào?” mà trộm thấy suốt được thì mới nắm chắc. Tướng mỏi sanh lòa từ chỗ nào mà khởi ra thế?

Thiện Tâm
08-19-2015, 09:34 AM
Kinh:

“Anan, ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt lỗ tai, do căn tai mỏi, trong đầu hóa ra có tiếng. Cả hai cái: lỗ tai và cái mỏi mệt, đều là tướng lâu mà sanh ù mỏi của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần động và tĩnh phát ra cái Nghe ở trong, thu nạp cái trần tượng đó mà gọi là cái Nghe. Cái Nghe đó rời hai trần động tĩnh rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, ông nên biết cái Nghe đó không phải từ nơi động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ lỗ tai mà ra, không phải nơi hư không mà sanh. Tại sao thế? Nếu cái Nghe ấy từ nơi tĩnh mà đến thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được cái động. Nếu từ nơi động mà đến thì khi tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không nghe thấy cái tĩnh. Nếu do lỗ tai mà sanh, hẳn là không có động, không có tĩnh, thì cái Nghe như vậy vốn không có tự tánh. Nếu do hư không mà ra, thì đã có tánh nghe, chắc không phải là hư không nữa. Lại nữa, hư không mà tự nghe nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Vậy, nên biết rằng Nhĩ Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh Tự Nhiên, chẳng phải tánh Nhân Duyên.

Thông rằng:

Từ Nhãn Nhập đến Ý Nhập đều như hoa không, nên nói “Đều là cái tướng mỏi mệt sanh ra của Bồ Đề”. Căn Tai mỏi ù, thì trong đầu có ra tiếng. Giác Tánh Bồ Đề phát sanh mỏi, ắt trong tai thành có cái Nghe. Cái Nghe này hư vọng mà sanh ra, cũng như hoa không vậy. Cái Nghe này rời hai vọng trần động và tĩnh thì rốt ráo không có tự thể. Trần đến thì có, trần đi thì không. Cái Nghe ấy vốn không gốc gác nên gọi là hư vọng. Cái Nghe hay phân biệt được động, tĩnh nên chẳng từ cảnh mà sanh. Cái Nghe thật linh mẫn, còn hư không thì trơ trơ, nên chẳng phải từ hư không mà ra. Như cái Thể Nghe của Nhĩ Căn, mỗi mỗi đều có mặt, sao lại nói là không tự tánh? Vì lìa ngoài tiền trần ắt là vô phân biệt. Nếu có phân biệt, đáng lẽ phải chỉ ra được. Nay không thể chỉ ra, thì biết là không tự tánh. Nghiệm xét cái Nghe ở nơi cảnh, ở nơi căn, ở nơi hư không đều không có cái Thể nhất định để tìm ra được, tức là cái Nghe hư huyễn này vốn chẳng phải tính Nhân Duyên, chẳng phải tính Tự Nhiên, bèn là tức huyễn tức chơn vậy. Nếu mà có Nhân Duyên hay Tự Nhiên khá được thì cái Nghe ấy bèn là pháp sanh diệt, sao có thể gọi đó là Diệu Chân Như Tánh?

Có vị tăng hỏi Ngài Huyền Sa: “Nhờ Hòa Thượng dạy “Cái Tánh Nghe cùng khắp pháp giới”. Ngài Tuyết Phong đánh trống ở trong ấy vì sao chẳng nghe?”

Tổ Sa nói: “Ai biết chẳng nghe?”

Lại có vị tăng hỏi Tổ Tào Sơn: “Gần bạn đạo nào để được hằng nghe chỗ chưa nghe?”

Tổ Sơn nói: “Cùng chung nhau một cái trùm che khắp hết”.

Hỏi: “Cái này cũng như là Hòa Thượng được nghe. Như sao là hằng nghe ở chỗ chưa nghe?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng đồng với gỗ đá”.

Hỏi: “Cái nào là trước, cái nào là sau?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng thấy nói “Hằng nghe ở chỗ chưa nghe” sao?”

Thế mới biết, hằng nghe ở chỗ chưa nghe thì cái Nghe này cùng khắp vậy.

Thiện Tâm
08-19-2015, 09:35 AM
Kinh:

“Anan, ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi. Bịt lâu thành ra mỏi mệt, thì ở trong mũi nghe có cảm giác lạnh. Nhân những cảm xúc như vậy mà phân biệt được là thông, là bít, là rỗng, là đặc cho đến các mùi thơm, thối. Cả hai cái: Ngửi và cái mỏi mệt, đều là cái tướng bịt lâu phát mỏi của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần thông và bít phát ra cái Ngửi ở trong, thu nạp các trần tượng mà gọi là cái Ngửi. Cái Ngửi đó rời ngoài hai trần thông và bít rốt ráo không có tự thể. Thế nên, phải biết cái Ngửi ấy chẳng phải từ thông, bít mà đến, chẳng phải nơi căn mà ra, chẳng từ hư không mà phát sanh. Tại sao thế? Nếu từ cái thông mà đến thì khi bít, cái Ngửi đã mất rồi làm sao mà biết được cái bít? Nếu nhân cái bít mà có thì khi thông, không còn cái Ngửi làm sao biết được các mùi thơm, thối? Nếu từ lỗ mũi sanh ra hẳn không có cái thông, cái bít thì cái Ngửi như vậy vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra thì cái Ngửi đó phải xoay lại ngửi được lỗ mũi của ông! Lại nữa, hư không mà tự ngửi được nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Vậy, nên biết rằng Tỷ Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải là tánh Nhân Duyên, chẳng phải là tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Bịt mũi là bịt ngừng hơi thở, khí không ra vào. Cái lạnh nhân nín thở mà có, không nín thì không có. Nhân nín thở mà biết có thông, bít, rỗng, đặc. Nhân thông, bít mà phân biệt các mùi thơm, thối. Cái Ngửi đó, rõ ràng nhân hư vọng mà có vậy. Như chẳng có cái thông, bít, cái Ngửi thấy đó hiện đang ở chỗ nào ? Ở tai thì gọi là cái Nghe thấy, ở mũi thì gọi là cái Ngửi thấy. Công năng lớn nhỏ có thể thấy được. Cái Nghe thì đâu cũng khắp, cái Ngửi thì phát ra do tiếp xúc với tiền trần. Tuy nhiên, căn mũi là hư vọng, vốn không có chỗ chỉ ra được, huống là cái việc hướng thượng nằm ngay trên mũi mình, lại càng khó sờ nắm!

Có vị tăng hỏi thiền sư Hải Yến ở chùa Chửng Mê rằng: “Như thế nào là chùa xưa một lư hương?”

Tổ nói: “Qua nhiều đời không có người ngửi”.

Hỏi: “Người ngửi như thế nào?”

Tổ nói: “Sáu Căn đều chẳng đến”.

Ngài Ba Lăng Giám [Tổ Hạo Giám tại Ba Lăng, Nhạc Châu. Người nối kế chánh pháp của Tổ Vân Môn] ban đầu ra mắt Tổ Vân Môn.

Tổ Vân Môn nói : “Hòa Thượng Tuyết Phong nói “Mở cửa ra thì Đạt Ma đến”, tôi hỏi ông làm sao đây?”

Ngài Giám nói: “Ở trên lỗ mũi Hòa Thượng!”

Tổ Môn nói: “Địa Thần nổi dữ, cầm núi Tu Di đập một cái, nhảy tót lên trời Phạm Thiên, bứt phá lỗ mũi của Đế Thích. Ông vì sao mà hướng về trong nước Nhật Bản ẩn mình?”

Ngài Giám nói: “Hòa Thượng không lừa dối người thì tốt”.

Tổ Môn nói: “Ở trên lỗ mũi của lão tăng, lại làm sao?”

Ngài Giám không có lời đáp. Tổ Môn nói: “Hãy biết ông chỉ là phường “Học nói”.

Nếu tham suốt được lời nói của Tổ Vân Môn thì thật như nửa đêm rờ trúng lỗ mũi, xưa nay chỉ ở trên mặt!

Thiện Tâm
08-19-2015, 09:37 AM
Kinh:

“Anan, ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sanh ra mỏi. Nếu người đó đang bệnh thì thấy có vị đắng, còn người không bệnh thì có chút vị ngọt. Do cảm xúc ngọt, đắng mà hiện ra có căn lưỡi, khi không động thì vẫn có tánh nhạt. Cả cái Nếm cùng cái Mỏi đều là cái tướng lâu mà sanh mỏi của Bồ Đề.

“Nhân hai thứ vọng trần nhạt và ngọt đắng phát ra cái Nếm ở bên trong, thu nạp các trần tượng đó mà gọi là cái Nếm Biết. Cái Nếm Biết này ngoài hai vọng trần nhạt và ngọt đắng kia, rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, phải biết rằng cái Nếm Biết được đắng, nhạt như vậy không phải từ ngọt đắng mà đến, không phải nhân tánh nhạt mà có, cũng không từ căn lưỡi mà ra, cũng không từ hư không mà sanh. Vì sao thế?

“Nếu từ các vị ngọt, đắng mà đến thì khi nhạt, cái Nếm Biết đã diệt mất làm sao biết được vị nhạt? Nếu từ cái nhạt mà ra, thì khi ngọt, cái Nếm Biết đã mất rồi làm sao biết được vị ngọt đắng? Nếu do cái Lưỡi sanh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và nhạt, thì cái Căn Biết Mùi Vị đó rõ là vốn không tự tánh. Nếu do hư không mà ra thì hư không tự nếm biết, chẳng phải lưỡi ông biết được vị. Hơn nữa, hư không mà tự biết thì có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông đâu?

“Vậy, nên biết rằng, Thiệt Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải là tánh Nhân Duyên, chẳng phải là tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Cái Căn biết Mùi đây, biết ngọt, biết đắng, biết nhạt. Vị ngọt, đắng, nhạt không thường còn nên cái Căn Nếm Biết cũng tùy theo mà thay đổi. Cái Biết Vị này không phải từ ngọt, đắng, nhạt mà đến, không phải từ hư không mà ra thì còn dễ biết, nhưng tại sao không từ lưỡi mà sanh? Cái lưỡi vốn không mùi vị, nên không có tự tánh khá được. Chỉ do tiếp xúc với mùi vị mà nếm biết sanh ra, mùi vị hết thì phải diệt, vốn đều là hư vọng. Bám chấp mà cho là có thì không biết nó ở đâu ra! Bám chấp mà cho là không thì lại rõ ràng ra đó! Cho nên mới nói là Diệu. Ở đây mà chẳng biết mùi vị là cái gì thì không có đủ sức để bàn luận vậy.

Ngài Sam Sơn đang lựa rau quyết, Tổ Nam Tuyền nhặt lên một cọng, nói: “Cái này dùng rất tốt”.

Ngài Sơn nói: “Không những cái này mà món ngon trăm vị hắn ta cũng chẳng thèm đoái tới”.

Tổ Tuyền nói: “Tuy là như thế, mỗi cái phải nên nếm qua mới được”.

Ngài Huyền Giác nói rằng: “Đó là lời tương kiến hay không phải là lời tương kiến?”.

Ngài Thiên Đồng nói: “Hỏi lấy Nam Tuyền Vương Lão Sư, ai ai cũng chỉ ăn một cọng rau”.

Có thể nói là biết mùi vị vậy.

Thiện Tâm
08-19-2015, 09:39 AM
Kinh:

“Anan, ví như có người dùng bàn tay lạnh rờ bàn tay nóng. Nếu bên lạnh nhiều hơn thì bên nóng lạnh theo. Nếu bên nóng nhiều hơn thì bên lạnh thành nóng lên. Như vậy, do cảm xúc nhận biết trong lúc hợp lại mà rõ sự nhận biết lúc rời ra. Cái thế chênh lệch giữa nóng và lạnh này thành là do mỏi mệt mà có ra cảm xúc. Cả hai thứ: Thân biết cảm xúc và cái Mỏi đều là cái tướng sanh mỏi do chăm chú của Bồ Đề.

“Nhân nơi hai thứ vọng trần lìa và hợp phát ra cái Hay Biết ở bên trong, thu nạp các trần tượng đó mà gọi là cái Biết Cảm Xúc. Cái Biết như vậy lìa ngoài hai trần lìa và hợp, trái và thuận kia, rốt ráo không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, phải biết rằng cái Cảm Xúc đó không phải từ cái lìa, cái hợp mà tới, không phải từ nghịch thuận mà có, chẳng phải do nơi thân căn mà ra, cũng không phải do hư không mà sanh ra. Vì sao thế?

“Nếu từ hợp mà đến, thì khi lìa, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được cái lìa. Đối với hai tướng nghịch thuận thì cũng như thế. Nếu từ thân căn mà có ra, hẳn không có những tướng lìa, hợp, nghịch, thuận thì cái Biết Cảm Xúc của thân vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không mà sanh ra thì hư không tự biết lấy, nào có liên quan gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Thế nên, phải biết Thân Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng :

Cái Biết do hợp lại mà có thì khi lìa ra bèn không có. Nhưng lìa ra rồi mới biết Cảm Xúc là Thuận hay Nghịch. Cái Biết do đụng chạm với thân này, hơi khác với cái Biết ở lưỡi. Tùy theo cái thế tương quan mà có hơn thua. Ví như cái nóng chạm cái lạnh, mà nóng mạnh hơn, thì cái lạnh nóng lên và ngược lại. Lạnh và nóng can thiệp nhau, hai tướng thành ra, chẳng có cái cảm xúc mỏi nhọc thì chẳng có việc nóng lạnh ấy. Cảm xúc dễ chịu thì nói là thuận, cảm xúc nghịch với thân thì gọi là trái nghịch. Nếu không có bốn tướng: lìa, hợp, thuận, nghịch, chỉ còn mỗi cái thân thì cái Biết Cảm Xúc này ở tại nơi nào? Cho nên mới nói vốn là không tự tánh. Tức là cái Biết của thân này không do trần mà sanh, không do căn thân mà có ra, hẳn chẳng phải phân biệt mà biết. Không phải từ hư không mà sanh ra, hẳn chẳng phải là Tự Nhiên. Chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, gọi đó là Diệu Chân Như Tánh. Cái chuyện Thấy, Nghe, Hay, Biết ở trên là năm cái Thức bên ngoài, do đối với Cảnh mà biết, chẳng phải là cái Biết của ý thức phân biệt. Tất cả đều là chỗ bày biện của Như Lai Tạng Tánh vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn: “Lạnh, nóng đến làm sao mà trốn tránh?”

Tổ Động Sơn nói: “Sao chẳng ở trong chỗ không nóng lạnh?”

Hỏi: “Như thế nào là chỗ không hề nóng lạnh?”

Tổ Sơn nói: “Lạnh thì lạnh chết Xà Lê, nóng thì nóng chết Xà Lê!”

Lại Tổ Tào Sơn hỏi một nhà sư: “Nóng như thế này, hướng về chỗ nào trốn tránh?”

Sư đáp : “Trốn vào trong vạc nước sôi, lò lửa!”

Tổ hỏi : “Trong vạc nước sôi, lò lửa làm sao trốn tránh?”

Sư đáp : “Các khổ không thể đến!”

Đây là những lời trong nhà, như ra từ một miệng.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Buông tay lại đồng vách núi muôn tầm

Chánh, Thiên nào cần đến việc an bài

Cổ điện lưu ly trăng chiếu sáng

Nực cười binh mạnh bắc thang lên không!”.

(Thùy thủ hoàn đồng vạn nhận nhai

Chánh Thiên hà tất tại an bài

Lưu ly cổ điện chiếu minh nguyệt

Nhẫn tuấn hàn lư không thượng giai).

Rõ được ý này thì Thõng tay vào chợ cũng đồng là Núi cô riêng đứng một mình [Tự do, Giải thoát]. Về nguồn rõ Tánh và Sai Biệt Trí đều chẳng khác nhau. Chẳng khế hợp sâu xa với Tông Tào Động, chưa dễ nói được chỗ này.

Thiện Tâm
08-19-2015, 09:40 AM
Kinh:

“Ví như có người mỏi mệt thì ngủ. Ngủ chán thì thức dậy. Xem trần cảnh thì nhớ, hết nhớ thì quên. Các thứ Sanh, Trụ, Dị, Diệt điên đảo này hấp thu những kết tập thói quen đưa vào bên trong, mỗi mỗi liên tục, gọi đó là Ý Căn. Cả hai cái : Ý và Mỏi Mệt, đều là tướng phát mỏi do chăm chú của Bồ Đề.

“Nhân hai thứ vọng trần sanh và diệt kết tập cái Biết ở bên trong, thu nhóm nội trần, dùng thấy, nghe chảy ngược vào trong, chảy không chỗ đến, mà gọi là cái Ý Hay Biết. Cái Ý Hay Biết này rời ngoài hai trần thức và ngủ, sanh và diệt rốt ráo là không có tự thể.

“Thật vậy, Anan, nên biết rằng cái Căn Hay Biết đó chẳng từ thức hay ngủ mà đến, chẳng phải từ sanh diệt mà có, chẳng phải nơi căn ý mà có ra, cũng chẳng phải hư không sanh. Tại sao thế?

“Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức diệt mất, lấy gì để thành ra cái ngủ mê? Nếu quả là lúc sanh mới có, thì lúc diệt đã không còn, lấy ai mà thọ cái diệt? Nếu từ cái diệt mà có, thì khi có cái sanh: cái diệt không có, có ai để biết cái sanh? Nếu từ căn mà ra thì hai tướng thức và ngủ theo thân mà có mở, có khép. Nếu rời ngoài hai tướng thức, ngủ này thì cái Ý Hay Biết đó cũng giống như hoa đốm trên không, rốt ráo là vô tự tánh. Nếu từ hư không mà sanh ra, thì hư không tự biết lấy, dính dáng gì đến chỗ thâu nhập của ông?

“Vậy, nên biết rằng: Ý Nhập là hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Trong mộng hiện cảnh, bởi ngủ nên có ra, cái thân thơ thới mà là hư giả. Đã tỉnh thức, chẳng rõ là giả, rồi nhận mà tưởng nhớ đến, cho là chân thật, chuyện ấy là điên đảo vậy. Các hình tướng hữu vi cũng thế. Động tâm thì sanh ra cảnh, đã là hư vọng lại do cái thức phân biệât nhớ giữ mà cho là thật có, thì đều là điên đảo. Nhớ đến thì sanh ra, quên đi thì diệt mất, nên bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt rõ ràng, rời rạc trôi ra chẳng ngừng, sát na sát na liên tục nối tiếp, đó là Ý Căn.

Khi ý chẳng duyên ra, thức ngủ là một. Cầu lấy cái tướng thức ngủ còn chẳng thể có, huống là có các tướng Sanh, Trụ, Dị, Diệt sao? Ngay khi cái ý cùng theo pháp tướng duyên ra, thu nạp các tập khí vào trong đã thành ngay cái tướng mỏi mệt. Thế nên cái Bồ Đề mà bất giác khởi động để thành ra cái ý, thế là lọt vào chỗ mỏi nhọc của thế trần.

Bộ Tông Cảnh Lục [Của thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ] nói rằng: “Các giác quan níu giữ lấy Cảnh bên ngoài, niệm niệm chảy vào cõi ý”.

Từ ngoài đưa vào trong nên gọi là chảy ngược dòng. Cái ý đã có chỗ duyên, tức “Thức xem trần cảnh thì nhớ”, gọi làm cái sanh. Còn câu “Chảy không chỗ đến” là nói trong khi ngủ mê, các căn không duyên với trần thì không có ngoại trần chảy vào trong đất ý, ý cũng không có chỗ duyên gặp, nên kinh nói “Khi ngủ thì hết nhớ mà quên”, đó là sự diệt vậy.

Phân ra như thế hình như là gượng ép, bởi vì trong ngủ cũng có mộng, trong thức cũng có quên, nghĩa là thức hay ngủ đều có hai tướng sanh và diệt, làm sao mà cho là khi thức chỉ thuộc về sanh, còn ngủ chỉ thuộc về diệt ư? Theo ngu ý của tôi: cái Thấy, Nghe của tai, mắt thì thuận chiều ra đến bên ngoài; còn cái Thấy, Nghe của ý căn thì ngược chiều chảy vào trong. Khi ý căn hấp thu nội trần, mắt như có thấy, tai như có nghe, ẩn hiện dường như không dấu vết, chảy vào chỗ mà thấy, nghe không đến được, chỉ có ý căn biết được mà thôi, chẳng phải là chỗ tai mắt đến được vậy. Bởi thế, năm căn mỗi cái đều có vị trí của nó, mà ý căn thì vô hình, chỉ nương gởi vào các tướng thức, ngủ, sanh, diệt mà thôi. Lìa ngoài thức ngủ, sanh diệt không lấy gì thấy cái ý được. Do đó, ở kinh không nói “Nếu từ căn sanh thì hẳn không có thức, ngủ, sanh, diệt”, mà lại nói “Nếu từ căn sanh thì hai tướng thức, ngủ tùy theo cái ý mà có mở, khép”. Cái ý mà đã lìa ngoài hai tướng này thì cái Ý Hay Biết này tuy có sanh, có diệt cũng giống như không hoa, có chỗ nào để nương vào mà tỏ bày cái ý ! Ý đã lìa hình tướng, hình tướng cũng rời ý, rốt chẳng có tướng thức, ngủ, sanh, diệt làm sao có tự tánh ư? Nên mới nói do căn sanh ra là chẳng đúng vậy. Mở Khép, hai chữ này hình dung hai tướng thức, ngủ rất kỳ diệâu. Thức thì Hình mở ra, ngủ thì Hình khép lại. Cái thức, ngủ, sanh, diệt này là cái chỗ ở của ý. Cho nên kinh mới nói là “Lấy gì để làm ra cái ngủ mê?”, “Lấy ai mà thọ cái diệt?”, thật chẳng phải là Trí vậy. Thế là cái Ý Hay Biết này chẳng phải từ Nhân Duyên sanh, chẳng phải từ Tự Nhiên mà sanh, tức đó là cái Bản Thể của Vô Trụ, mà không gọi ấy là Diệu Chân Như Tánh thì gọi là cái gì?

Ban đầu, Tổ Ngưỡng Sơn hỏi Tổ Quy Sơn: “Như sao là Trụ Xứ Chân Thật của Phật?”

Tổ Quy Sơn nói: “Hãy suy nghĩ chỗ nhiệm mầu của cái Vốn Không Suy Nghĩ, trở lại suy nghĩ chỗ Vô Cùng Linh Diệu, niệm hết bèn đó là Nguồn, Tánh Tướng đều thường trụ, Sự Lý không hai là Chân Phật Như Như”.

Ngài Ngưỡng Sơn ngay dưới lời mà đốn ngộ.

Sau này, có vị sư tên Tư Ích hỏi Tổ Ngưỡng Sơn: “Thiền tông đốn ngộ, rốt ráo cái ý vào cửa là như thế nào?”

Tổ Ngưỡng nói: “Ý ấy rất khó. Nếu thật là môn hạ của Tổ Tông, thượng căn thượng trí, một nghe ngàn ngộ, đắc Đại Tổng Trì. Còn căn nhỏ, trí hèn nếu chẳng ở trong thiền định thì đến vào trong ấy ắt phải hoang mang!”

Hỏi : “Ngoài một đường ấy ra, lại còn có chỗ khác để vào không?”

Tổ Ngưỡng đáp : “Có”.

Hỏi : “Như sao là phải?”

Tổ nói : “Ông là người xứ nào?”

Đáp : “Người xứ U Châu”.

Hỏi : “Ông còn nghĩ đến xứ ấy chăng?”

Đáp : “Thường vẫn nhớ nghĩ”.

Tổ Ngưỡng nói : “Cái suy nghĩ ấy là tâm, cái chỗ suy nghĩ là cảnh. Xứ ấy nào nhà cửa, vườn rừng, ngựa xe... đầy dẫy. Ông hãy xoay sự suy nghĩ trở lại để suy nghĩ cái tâm ấy, thật có bao nhiêu thứ đó chăng?”

Đáp : “Tôi đến trong ấy toàn chẳng thấy có gì!”

Tổ Ngưỡng nói : “Tín vị thì phải, nhưng nhân vị thì chưa phải”.

Hỏi : “Ngoài cái ấy ra, riêng còn có ý hay không?”

Tổ nói : “Riêng có, riêng không thì chẳng kham được vậy”.

Hỏi : “Đến trong đó, làm gì là phải?”

Tổ Ngưỡng nói : “Cứ theo chỗ ông hiểu, chỉ được một cái huyền, được an nhiên mặc áo, về sau tự xem”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Không có ngoài, nên dung chứa

Không có ngại, nên an hòa

Tường vách chất ngất

Cửa khóa trùng trùng

Rượu thường vui mà dẹp khách

Cơm tuy no mà chẳng cày

Độât nhiên ra khỏi hư không, hề, cánh mầu cuốn gió

Đạp lật lại biển cả, hề, sấm tiển rồng chơi”.

Bài tụng này là Đầu sào trăm thước cần tiến bước. Không thể chấp bám cảnh giới của ngộ, tự cho là đủ. Nếu chỉ tuyệt không thấy có một lời, chỉ làm rỗng không ý căn, thì đối với cái chỗ Chân Phật Như Như còn rất xa lắm lắm.

Thiện Tâm
08-20-2015, 04:17 PM
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

MỤC BẢY: TÓM THU VỀ NHƯ LAI TẠNG


I. TÓM THU (tt)

G. THU MƯỜI HAI XỨ

Kinh:

“Lại nữa, Anan, như sao là mười hai Xứ vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?"

Thông rằng:

Mới đầu, ở trong năm Ấm thì dùng phép tỷ dụ để phá tình chấp, vì ngũ Ấm vốn không, nếu không so sánh thì khó hiển bày. Tiếp đến, ở trong sáu Nhập chỉ ra cái sự việc giả để hiển bày cái vọng tướng của chúng. Sáu Nhập vốn vọng, nên dùng vọng để dẫn đến vọng, có thể suy ra mà thông hiểu. Đoạn này nói đến Mười Hai Xứ cho đến đoạn sau là Bảy Đại thì lấy ngay cái cảnh thấy, nghe trước mắt mà chỉ bày cái Như Lai Tạng Tánh của chúng. Thật là mỗi cõi Phật độ, mỗi hạt trần rành rành không hở sót vậy.

Đức Tam Tổ Tăng Xán nói: “Chẳng ghét sáu trần. Liền đồng Chánh Giác”, là đã thấy sâu xa chỗ này vậy.

Thiền sư Kim Sơn Thiện Minh thượng đường nói với đại chúng rằng: “Người xưa nói: Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi hương, ở lưỡi là bàn luận, ở thân là cảm xúc, ở ý là bám níu. Tuy nhiên như thế là chỉ thấy đầu dùi nhọn, chẳng thấy đầu đục vuông!

“Nếu là Kim Sơn tôi ắt chẳng phải thế: Có mắt mà nhìn chẳng thấy, có tai mà lắng chẳng nghe, có mũi mà chẳng biết mùi, có lưỡi mà chẳng hề đàm luận, có thân mà chẳng biết cảm xúc, có ý mà chẳng bám níu. Một niệm tương ưng, sáu căn liền giải thoát. Dám hỏi các vị thiền đức: Thử nói xem là đối với lời trước là đồng hay khác? Nếu có bậc cụ nhãn thì xin bước ra làm cho rõ thông tin tức. Còn nếu không có, xin vì các ông mà giải nghĩa trùng trùng. Buông mở ra thì riêng thông xe, ngựa. Nắm tóm lại thì mảy lông cũng chẳng còn. Nếu là bậc thiền gia cự phách thì kham hết mọi trái phải, phân chia”.

Một đoạn chỉ bày này quả là cùng đoạn kinh trên trùng trùng giải thích.

Thiện Tâm
08-20-2015, 04:20 PM
Kinh :

“Anan, ông hãy xem rừng cây Kỳ Đà và các suối ao đó. Ý ông thế nào? Như thế là sắc trần sanh ra cái Thấy hay là cái Thấy sanh ra sắc tướng?

“Anan, nếu Nhãn Căn sanh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không không có sắc tướng lẽ ra cái tánh của sắc đã tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất thì tỏ rõ hết thảy đều không. Sắc tướng đã không thì lấy gì rõ được tướng hư không? Đối với hư không thì cũng như vậy.

“Lại nếu sắc trần sanh ra cái Thấy, thì khi thấy hư không bèn không có sắc, cái Thấy hẳn tiêu mất. Tiêu mất thì tất cả đều không, lấy gì mà rõ được hư không và sắc tướng?

“Thế nên, phải biết cái Thấy cùng với sắc, không đều không có xứ sở. Tức Sắc Trần và cái Thấy, cả hai Xứ đó đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Ở đoạn trước dựa trên sáu Nhập để phá sáu căn thì tuy dùng sáu trần để đối biện mà ý chánh vẫn ở tại căn. Hiện đây là nói về Mười Hai Xứ, thì tuy là phá cả căn lẫn trần, mà chánh là phá cái trần. Sau này, nói về Mười Tám Giới, thì chỉ chuyên phá cái Thức. Đoạn trước về sáu Nhập thì luôn luôn có câu “Đều là tướng phát mỏi do chăm chú của Bồ Đề”, đó là từ trên Căn mà nói. Đoạn này nói “Hãy xem rừng Kỳ Đà và các suối ao” là từ trên Sắc mà khởi nói.

Nếu nói là sắc sanh ra cái Thấy, thì chắc hư không chẳng sanh ra cái Thấy. Vậy lấy cái gì giúp thấy sắc, lại rõ thấy hư không? Nếu nói là con mắt sanh ra sắc tướng, thì chắc là nó không thể sanh ra tướng hư không, thì cái gì giúp hiển bày sắc, lại hiển bày hư không? Do đây mà nói: Con mắt không thể sanh ra sắc, con mắt vốn tự tịch diệt, nào cùng với sắc ư? Sắc không thể sanh ra con mắt, sắc vốn tự tịch diệt, đâu cùng với mắt ư? Chỉ lấy hư không mà hình dung ra sắc thì sắc trần tự phá. Cái Thấy cùng với sắc, không đều không có xứ sở. Sắc là Không mà cái Thấy cũng Không đó vậy. Sắc và cái Thấy đều Không, lấy gì làm Nhân Duyên, lấy gì làm Tự Nhiên, thì chẳng gọi đó là Tánh Chân Như sao?

Xưa, Tổ Ngưỡng Sơn chỉ con sư tử ở ngoài tuyết nói: “Có vượt qua được cái sắc này không, nhỉ?”

Tổ Vân Môn nói: “Hiện giờ nên cùng nhau đẩy ngã cho xong”.

Ngài Tuyết Đậu nói: “Chỉ biết đẩy ngã, chẳng biết đỡ dậy”.

Ngài Phật Giác tụng rằng :

“Một sắc không qua chỉ bày người

Trong cõi bạc trắng luống than van

Vượt ngoài “xô ngã” và “đỡ dậy”

Cũng tựa gió Đông đón sáng Xuân”.

(Nhất Sắc vô quá chỉ thị nhân

Bạch ngân thế giới lý tần thân

Siêu nhiên thôi đảo hoàn phù khởi

Tranh tợ Đông phong hú nhật tân).

Ngài Thiên Đồng tụng rằng: “Một ngã một dậy, sư tử sân tuyết. Khéo không phạm đến nhưng chứa lòng nhân. Mạnh mẽ ở chỗ làm mà thấy nghĩa. Ánh sáng trong suốt soi mắt mà tựa người mê. Rõ ràng đổi thân sa vào địa vị. Là kẻ thầy tu, rõ không nương gởi, cùng tử cùng sanh, nào đây, nào đó? Tin ấm nứt cây mai, hề, Xuân đến lạnh cành. Gió mưa lay rụng lá, hề, Thu lặng mưa đầy”.

Tổ Vạn Tùng nói: “Đã kêu là Sắc ắt cùng với con mắt mà đối nhau. Cái Sắc vượt qua màu trắng, chỉ là một Vô Sắc, nên không có với mắt đối nghịch”.

Tổ Vân Môn nói: “Sở dĩ nói “Hiện nên cùng đẩy ngã”, vì nếu hướng về chỗ trắng, chỗ không trắng mà nhận lấy thì thật đã rơi vào trong cõi Vô Sắc. Ngài Tuyết Đậu sở dĩ riêng chỉ ra một con đường để sống lại, ấy là hướng về chỗ xô ngã mà dạy đỡ dậy”.

Tổ Phật Nhãn nói: “Nếu ở trong ấy mà giúp đỡ nâng cho đứng dậy thì liền sanh có thứ lớp”.

Như các vị tôn túc đối với một sắc tướng nhỏ nhặt mà còn cần phá sạch hết ráo, huống gì là trước mắt thấy có đủ thứ sao?

Thiện Tâm
08-20-2015, 04:24 PM
Kinh:

“Anan, ông lại nghe trong vườn Kỳ Đà này, khi thức ăn dọn rồi thì đánh trống, khi chúng nhóm lại thì đánh chuông. Tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối tiếp nhau. Ý ông thế nào? Như vậy là cái Tiếng đến bên cái Nghe hay cái Nghe đến chỗ cái Tiếng?

“Anan, nếu như cái tiếng đó đến bên cái Nghe, thì cũng như ta khất thực trong thành Thất La Phiệt, ở rừng Kỳ Đà không có ta nữa. Cái tiếng đó đã riêng đến bên cái Nghe của Ông Anan, thì lẽ ra Ông Mục Liên, Ông Ca Diếp không cùng nghe được một lần. Huống gì trong này có một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn, một khi nghe tiếng chuông thì đồng đến chỗ ăn cơm cả.

“Lại như cái Nghe của ông đến chỗ cái tiếng, thì cũng như ta đã về rừng Kỳ Đà rồi, trong thành Thất La Phiệt không còn ta nữa. Vậy, khi ông nghe tiếng trống, cái Nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi có lúc tiếng chuông phát ra, đáng lý ông không thể cùng nghe, huống nữa, ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, bò, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu chúng không đi đến với nhau thì lại là không có nghe gì cả.

“Thế nên, phải biết rằng cái Nghe và cái Tiếng đều không có xứ sở. Tức cái Nghe và Thanh Trần, hai Xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Câu “Cũng như Ta khất thực trong thành Thất La Phiệt, tại rừng Kỳ Đà không có Ta nữa” để thí dụ cho cái Tiếng đến bên cái Nghe, thì các chỗ khác không còn có cái tiếng, vậy sao một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn lại còn cùng nghe? Câu “Cũng như ta đã về rừng Kỳ Đà rồi, trong thành Thất La Phiệt không còn có ta nữa” để thí dụ cho cái Nghe đến chỗ cái tiếng thì các chỗ khác phải không còn cái Nghe, vậy thì tại sao lại nghe tiếng voi, ngựa, bò, dê và nhiều tiếng khác nữa? Câu “Nếu không đi đến với nhau” tức là rơi vào ngoan không. Nghĩa Nghe không thành lập được, thì cái Tiếng và cái Nghe đều không có dấu tích. Uyển chuyển mà cùng khắp, gặp chỗ đều thông suốt, có xứ sở nào đâu? Cho là Nhân Duyên, thì không có chỗ Duyên. Cho là Tự Nhiên, thì cũng chẳng có chỗ nào mà Tự. Ngay ấy là hư vọng, bèn là không có gì chẳng phải là Chân Thể, nên gọi đó là Tánh Chân Như Nhiệm Mầu vậy.

Tổ Huyền Sa nhân có người đang tham học, nghe thấy tiếng chim én, bèn nói : “Bàn sâu Thật Tướng, khéo thuyết Pháp Yếu!”

Liền xuống tòa giảng.

Khi ấy, có một vị sư hỏi thêm : “Thưa, tôi chẳng hiểu”.

Tổ Sa nói : “Đi đi, ai tin được ông!”

Lại có Tổ Báo Từ lên tòa giảng, nghe chim tu hú kêu, bèn hỏi nhà sư: “Tiếng gì thế?”

Sư đáp : “Tiếng chim tu hú”.

Tổ Từ nói : “Nếu muốn không chiêu vô gián nghiệp, chớ báng Như Lai Chánh Pháp Luân”.

Rồi xuống tòa.

Tất cả âm thanh là Phật Thanh. Thế còn hiểu được.

Còn, Tổ Huyền Sa nói: “Trong chuông không có tiếng trống, trong trống không có tiếng chuông, chuông trống chẳng có xen lẫn nhau, mỗi mỗi không sau trước”.

Hiểu thế nào? Đây là ý chỉ Vô Sanh Duyên Khởi. Ngộ đó thì cái chỗ nói là Thật Tướng, là Pháp Yếu, có thể thấy rồi.

Thiện Tâm
08-20-2015, 04:27 PM
Kinh:

“Anan, ông hãy ngửi mùi hương chiên đàn trong lư này. Hương ấy, nếu đốt đến một thù thì cả thành Thất La Phiệt, trong bốn mươi dặm đều đồng thời ngửi được mùi thơm. Ý ông thế nào? Mùi thơm ấy sanh ra do cây chiên đàn, do nơi mũi ông, hay sanh từ hư không?

“Anan, nếu mùi thơm ấy sanh ra do mũi ông, đã nói là từ mũi sanh ra, tất phải từ lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải chiên đàn, làm sao trong lỗ mũi lại có được mùi thơm chiên đàn? Lại đã gọi rằng ông ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi; còn nói là trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, nói thế là không đúng nghĩa. Nếu sanh ra do nơi hư không, thì tánh hư không là thường còn, mùi thơm lẽ ra cũng phải thường có, cần gì phải đốt cây chiên đàn khô trong lư rồi mới có? Nếu mùi thơm sanh ra từ cây chiên đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói, nếu mũi ngửi được là do khói xông đến mũi. Tại sao khói đó xông lên khoảng không chưa được bao xa mà trong vòng bốn mươi dặm đều đã ngửi thấy?

“Thế nên, phải biết Hương Trần và cái Ngửi đều không xứ sở. Tức cái Ngửi và Hương Thơm, cả hai Xứ ấy đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Cái Ngửi này cùng với Hương Thơm, chẳng phải mũi, chẳng phải hư không, chẳng phải gỗ chiên đàn, tức là cái Hương Xứ không có thật vậy. Thế nào mà trong vòng bốn mươi dặm đồng thời ngửi thấy, thì cái sức đặc biệt của mùi thơm cũng là không thể nghĩ bàn.

Táo Bách Luận: “Cây chiên đàn Ô Lạc Ca: Ô Lạc Ca là tên con rắn. Chiên đàn là cây thơm. Rắn này rất độc, nó hay sợ nóng độc, thường quấn quanh cây thơm này thì độc khí hết. Ý nói rằng nếu có chúng sanh nghe nói cái Hương mà Tâm Cảnh đều không, vốn không thể tướng, không xứ sở, không một pháp khá được, tin mà ngộ nhập thì tất cả phiền não, độc khí tự nhiên đều thanh tịnh”.

Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn [Đời Đường, tại Đăng Châu, núi Hương Nghiêm, tại Ngụy Sơn học Tổ Linh Hựu được tỏ ngộ. Sắc tặng hiệu tự là Tập Đăng Đại Sư.] có bài kệ:

“Có một lời, toàn quy củ

Định suy lường, theo bọn xấu

Đạp lên mà chẳng lầm, bèn tỉnh ngay xứ sở

Một đời tham học, sự không thành

Ân cần ôm được gốc chiên đàn”.

Bài kệ này từ đây mà ra vậy.

Tổ Chí Công [Tổ sư đời vua Lương Võ Đế. Vua thường hỏi việc an nguy đất nước về sau. Tổ không nói, lấy tay chỉ yết hầu để chỉ bày, ý nói Hầu Cảnh. Vua không hiểu. Sau quả bị nghịch thần là Hầu Cảnh bức bách. Vua mới tỉnh ngộ thì nghiệp xưa đã tiêu] nói: “Trọn ngày lấy hương chọn lửa. Không hay thân tức Đạo Tràng”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra: “Kẻ giỡn tinh hồn nào có giới hạn?”

Ngài Huyền Sa nói: “Suốt ngày lấy hương chọn lửa. Chẳng hay Chơn Thật Đạo Tràng”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra: “Thật kỳ quái: tám mươi ông vào trường ốc, chẳng phải là trẻ nhỏ giỡn chơi? Thử nói cái lợi cái hại ở chỗ nào? Có Trí hay chẳng có Trí, so ra trong ba mươi dặm đều đồng một tác dụng Vô Sanh, mới là có chút hào ly biện biệt ở đây”.

Người có trí hãy biện biệt.

Thiện Tâm
08-20-2015, 04:33 PM
Kinh:

“Anan, ông thường hai thời ở trong chúng cầm bình bát khất thực. Trong đó, hoặc gặp những món tô lạc đề hồ, gọi là vị quý. Ý ông thế nào? Vị ấy sanh ra ở trong hư không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ ăn?

“Anan, nếu cái Vị ấy sanh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi. Cái lưỡi lúc ấy đã thành vị tô rồi, nếu gặp cục đường phèn, lẽ ra cái Vị không thay đổi. Nếu chẳng thay đổi thì không gọi được là biết Vị. Còn nếu thay đổi thì cái lưỡi không có nhiều tự thể, thì làm sao một cái lưỡi lại biết được nhiều Vị Thể thế?

“Nếu Vị ấy sanh ra do nơi đồ ăn, thì đồ ăn không có sự Biết, làm sao tự nó biết Vị? Lại như đồ ăn tự biết, thì cũng giống như người khác ăn, nào có dính dáng gì đến ông, mà nói là ông biết Vị?

“Nếu Vị ấy sanh ra từ hư không, thì ông hãy nếm hư không xem là Vị gì. Nếu hư không đó mà có Vị mặên, làm mặn lưỡi ông, chắc cũng làm mặn cái mặt ông và mọi người trong cõi này: cũng giống như cá biển, đã thường thọ nhận cái mặn thì không còn biết cái vị nhạt là gì nữa. Nhưng nếu không biết nhạt thì lại cũng không biết mặn. Tức là không có chỗ Biết, sao gọi là biết Vị?

“Thế nên, phải biết: các Vị và Lưỡi Biết Nếm đều không xứ sở. Tức cái Biết Nếm và các Vị, cả hai Xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Đoạn này chứng minh cái tánh của Vị, chẳng sanh ra do nơi hư không, chẳng sanh ra do nơi Lưỡi, thì còn dễ biết. Nhưng sao lại nói chẳng do món ăn sanh ra? Vì, món ăn chẳng có Thức, nó chẳng tự nói: Vị của tôi ngon, Vị tôi dở. Phân biệt ngon, dở là thuôïc về căn lưỡi. Mà căn lưỡi thì không có định thể, theo Vị mà dời đổi. Đủ biết rằng: Vị tự là vị, lưỡi tự là lưỡi. Cả hai đều lặng nhiên. Biết lưỡi cùng vị đều vắng lặng, thì thật tin là chúng chẳng phải là Nhân Duyên, chẳng phải là Tự Nhiên mà chính là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.

Thiền sư Thần Đảnh Nhân có lần cùng với chúng Tăng đến miền Tương Miện. Có một vị sư khởi bàn về Thiền rất trôi chảy. Trong quán Dã Phạn Sơn đã bày xong thức ăn, mà nhà sư luận nói vẫn chưa xong.

Tổ Đảnh nói: “Ba cõi duy chỉ một Tâm, muôn pháp duy chỉ là Thức. Duy Thức, duy Tâm, mắt thanh, tai sắc là lời của ai thế?”

Nhà sư nói: “Lời của Tổ Pháp Nhãn”.

Tổ Đảnh hỏi: “Nghĩa ấy như thế nào?”

Sư đáp: “Duy Tâm nên Căn và Cảnh không đến nhau. Duy Thức nên Thanh, Sắc khua đánh”.

Tổ Đảnh nói: “Cái Lưỡi, cái Vị có phải là Căn và Cảnh không?”

Nhà sư đáp: “Phải”.

Tổ Đảnh lấy đũa gắp rau bỏ vào miệng, giỡn cợt nói rằng: “Nào gọi là tương nhập sao?”

Người ngồi chung quanh đều kinh hãi. Nhà sư chẳng thể đáp lại.

Tổ Đảnh nói: “Cái vui dọc đường rốt cuộc chưa đến nhà. Kiến giải dầu vi diệu cũng chẳng gọi là thấy đạo. Tham, cần thật tham. Ngộ, cần thật ngộ. Diêm Vương chẳng sợ chuyện nói nhiều”.

Vị sư làm lễ mà cáo từ.

Tổ Huyền Sa có lần ăn trái vải, hỏi đại chúng: “Trái vải này cho là màu hồng ư? Cho là màu đỏ ư? Các ông làm sao đây? Nếu nói là một màu lại là mông lung; nói là nhiều màu thì chỉ thành cái đoạn-thường [Tức Đoạn Thường Nhị Kiến. Cái thứ hai trong năm Ác Kiến, gọi là Biên Kiến. Biên Kiến có hai thứ: một là Đoạn Kiến; hai là Thường Kiến] Các ông làm sao đây?”

Sư Ngạn Thao nói: “Đó chỉ vì Hòa Thượng phân biệt”.

Tổ Sa nói: “Ngu si mơ hồ như thế có giao thiệp gì đâu?”

Sư Xung Cơ nói: “Hết thảy xưa nay chỉ là một màu”.

Tổ Sa nói: “Đều là mơ hồ hết, có khi nào mà hiểu được?”

Bèn quay qua hỏi sư Kiểu Nhiên: “Ông nói thế nào?”

Sư Kiểu Nhiên nói: “Không thể không biết đó là trái vải”.

Tổ Sa nói: “Thật chỉ là trái vải”.

Lại nói: “Các ông như lâu nay ở trong Giá Lý (Tâm Pháp) của tôi, cùng nói gì mà chẳng biện nổi trắng đen, không biết lành dữ. Tôi luôn nói với các ông là : Dụng xứ chẳng hoán [Thay đổi] cơ. Nhân sao chỉ lo đối đáp, có giao thiệp gì đâu!”

Người xưa nơi một miếng ăn, một thức uống đều cốt phát minh chuyện hướng thượng. Mỗi mỗi đều như thế, há phải ở chỗ đối đáp lưu loát. Cần phải thực ngộ mới cùng người sáng mắt tương kiến vậy.

Thiện Tâm
08-20-2015, 04:36 PM
Kinh:

“Anan, buổi sớm mai ông thường lấy tay xoa đầu, ý ông thế nào? Trong việc biết xoa đó, lấy cái gì làm cái Biết Cảm Xúc? Cái Biết ấy ở nơi tay hay ở nơi đầu?

“Nếu nó ở nơi tay, mà cái đầu không biết, làm sao thành ra Cảm Xúc? Nếu nói ở nơi đầu, mà cái tay lại vô dụng thì làm sao gọi là Cảm Xúc? Nếu đầu lẫn tay mỗi cái đều có cái Biết, thì một mình Anan lại có hai cái thân hay sao? Nếu đầu và tay đều do một Cảm Xúc sanh ra thì tay và đầu phải là một tự thể. Mà nếu chỉ có một tự thể thì Cảm Xúc không thành được. Còn nếu là hai thể thì Cảm Xúc ở phía nào? Ở bên Năng thì không ở bên Sở, ở bên Sở thì không có ở bên Năng. Chẳng có lẽ là hư không tạo thành Cảm Xúc cho ông?

“Thế nên, phải biết: Cảm Xúc và Thân Căn đều không xứ sở. Tức cái Thân biết Cảm Xúc và cái Cảm Xúc, cả hai đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Ở đây, chỉ rõ tánh Xúc là hư vọng, ở năng thì chẳng ở sở, ở sở thì chẳng ở năng. Năng sở đều chẳng phải, thì Xúc tức là Tánh Chân Như.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Như thế, tự tánh như huyễn, như mộng, như bóng dáng rốt chẳng thành tựu. Trong Tánh Chân Như các pháp tùy duyên. Tuy là tùy duyên, các pháp quy tánh. Khi tùy duyên thì hình như có hiện ra. Như xem làm huyễn thuật: không có mà có. Như nhìn cảnh mộng: không thấy mà thấy. Như xem ảnh trong nước: chẳng phải sanh ra, chẳng phải nhập vào. Như nhìn bóng trong gương: chẳng trong, chẳng ngoài. Vì Vô Tánh mà tùy duyên, nên Lý chẳng thành tựu. Vì tùy duyên mà vô tánh, nên Sự chẳng thành tựu. Lý Sự không thành tựu thì tất cả các pháp đều không thành. Cũng như trong chiêm bao mộng thấy đánh võ với người: cũng có cảm nhận xúc chạm, nhưng rốt ráo ai là người đánh, ai cảm thấy bị đánh? Thế nên, tất cả các pháp đều như thế cả”.

Tổ Bửu Phước thấy có vị tăng đi lại, lấy cây gậy đánh vào cây cột lộ trụ, rồi đánh vào đầu ông tăng.

Vị này buông tiếng kêu đau.

Tổ Phước nói: “Cái ấy vì sao chẳng đau?”

Vị tăng không đáp được.

Tổ Huyền Giác nói thay rằng: “Ham đi thì chống gậy”.

Lại còn Tổ Bửu Giác có lần hỏi Ông Chuyển Vận Phán Quan là Hạ Ỷ rằng: “Ông nói Hữu Tình với Vô Tình đều cùng một thể phải không?”

Khi ấy, có con chó nằm dưới bàn hương án, bèn lấy cây thước đập xuống bàn hương án rồi lại đập con chó, nói: “Con chó Hữu Tình thì chạy đi, bàn hương án Vô Tình thì vẫn còn đó. Như thế nào là một thể được?”

Ông Hạ Ỷ không thể đáp.

Tổ Bửu Giác nói: “Vừa mới tư duy liền thành dư pháp!”

Cái hiểu biết của chư vị Thánh đời trước trao truyền cho nhau đều là ý chỉ này.

Thiện Tâm
08-20-2015, 04:39 PM
Kinh:

“Anan, ông thường trong Ý duyên với ba tánh thiện, ác và vô ký sanh ra có các pháp trần. Những pháp trần đó tức nơi tâm mà sanh ra, hay là rời ngoài tâm mà có riêng nơi chốn?

“Anan, nếu tức nơi tâm thì các pháp không phải là trần cảnh, như thế thì chúng không phải là cái sở duyên của tâm, làm sao thành một Xứ được?

“Nếu rời ngoài cái tâm có riêng nơi chốn, thì bản tánh của pháp trần là có biết hay không có biết? Nếu có biết thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải là trần cảnh, thì cũng như là cái tâm của người khác. Còn nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, thì làm sao mà cái tâm ông lại trở thành hai ở nơi ông?

“Nếu không có biết thì cái pháp trần đó đã không phải là sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư không, thì nó hiện ở chỗ nào? Hiện nay, ở nơi Sắc Không, không thể chỉ ra nó được, chẳng lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài hư không? Không có cảnh sở duyên thì ý căn do đâu mà lập thành một Xứ được?

“Thế nên, phải biết : Pháp trần cùng ý căn đều không xứ sở. Tức ý căn và pháp trần cả hai xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, cũng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Ba sự thiện, ác, vô ký ngay khi đối đãi với căn thì các sự ấy đều thật, nên gọi là Thật Cảnh. Còn khi không đối đãi với cảnh, chỉ có một mình ý thức duyên mà thôi, bèn là bóng dáng của Thật Cảnh, nên gọi là Nội Trần. Nội trần không ra ngoài ba tánh thiện, ác, vô ký duyên ra Sắc Không, hết thảy pháp, nên cũng gọi là Pháp Trần. Từ vô thủy đến nay, trong và ngoài huân tập lẫn nhau, nên nói là “Sanh thành”.

Nếu nói “Pháp tức nơi tâm”, thì tâm là năng duyên, pháp là sở duyên làm sao mà tức được. Điều này dễ biện rõ. Nếu nói “Pháp lìa ngoài tâm”, thì cái pháp này thật ở đâu? Cho pháp là có biết, thì đồng với tâm, mà đã đồng với tâm bèn chẳng phải là trần cảnh vậy. Chẳng phải trần mà lại khác với ông, mà vẫn phải gọi là tâm, tức là cũng như tâm của người khác. Chẳng phải trần mà không khác với ông, thì sao tâm ông lại thành hai ở nơi ông, mà gọi đó là pháp trần vậy sao? Do đó, lấy sự Có Biết mà làm nơi chốn thì không thể được. Còn cho là Không Biết thì pháp trần ấy lấy cái gì mà bày tỏ ra được?

Pháp trần đã chẳng phải là các tướng Sắc Không, lại chẳng phải rời ngoài Sắc Không mà có riêng chỗ chứa lập. Ngoài sắc có hư không, hư không thì chẳng có gì ở ngoài. Nếu pháp trần có cái Xứ để cho tâm duyên được thì chắc là hư không đã có cái ở ngoài nó. Nhưng hư không làm gì có cái ở ngoài nó, thì tâm duyên vào đâu?

Sở dĩ tâm mà duyên với pháp, nghĩa là Sắc Không thì vô tri, do tri mà hiển bày. Tri thì có phân biệt, bèn gọi đó là pháp. Nay pháp đã vô tri, lại không nơi chốn, thì tâm tuy là có biết, mà biết cái gì? Do đó, lấy vô tri làm nơi chốn cho pháp trần thì cũng không được. Chẳng phải có biết, chẳng phải không có biết, thì Xứ do đâu mà lập được? Tức nơi tâm chẳng có pháp, lìa ngoài tâm cũng chẳng có pháp, nên pháp trần không có tự tánh vậy. Thế thì chẳng phải hư vọng sao? Pháp không xứ sở thì ý căn là không. Nên gọi đó là Diệu Chân Như Tánh vậy.

Thiền sư Thanh Châu Pháp Bổn thượng đường, nói: “Khởi lên âm thanh mà muốn bặt tiếng vang, đâu biết âm thanh là gốc của tiếng vang. Giỡn bóng mà muốn trốn hình, đâu biết hình là gốc của bóng. Lấy pháp hỏi pháp, chẳng hay pháp vốn chẳng phải pháp. Lấy tâm truyền tâm, nào hay tâm vốn vô tâm. Tâm vốn vô tâm, biết tâm như huyễn. Ngộ pháp chẳng phải pháp, biết pháp toàn như mộng. Tâm, pháp không thực, chớ giả dối truy cầu. Mộng huyễn, Không hoa nhọc gì nắm bắt! Đến vào trong ấy thì ba đời Chư Phật, một Đại Tạng Giáo, lời lẽ Tổ Sư, Tôn Túc trong thiên hạ đều lộ bày là đám dây leo, chùm gởi, trọn chẳng còn bám chấp. Tại sao thế? “Thái bình vốn chỗ tướng quân mong. Không để tướng quân thấy thái bình””.

Bài kệ trong kinh Tạp Hoa nói :

“Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân

Tâm, Ý các Tình Căn

Bởi đó thường lưu chuyển

Mà thật không người chuyển

Pháp Tánh vốn không sanh

Thị hiệân mà có sanh

Trong ấy không Năng hiện

Cũng không vật Sở hiện

Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân

Tâm, Ý các Tình Căn

Cả thảy: Không, Vô Tánh

Vọng tâm phân biệt: Có

Như thế mà quan sát

Tất cả đều Vô Tánh”.

Đại ý đoạn này thật cùng với kinh mà hiển phát.

Thiện Tâm
08-21-2015, 09:16 AM
H. THU MƯỜI TÁM GIỚI

Kinh:

“Lại nữa, Anan, như sao là Mười Tám Giới vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?

Thông rằng:

Đối với Trần thì gọi là Căn, Căn ở trong vậy. Đối với Căn thì gọi là Trần, Trần ở ngoài vậy. Ở khoảng giữa, mỗi mỗi phân biệt là cái Thức. Ba cái Căn, Trần, Thức nương nhau mà thành lập, như cây lau gác lên nhau, nên có tên là Mười Tám Giới. Ba cái ấy, có thì cùng có, không thì cùng không, vốn không tự tánh. Đã không tự tánh, bèn vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.

Thiền sư Thùy Lộc Bổn Tiên thượng đường, nói: “Chỗ các Pháp sanh ra là chỗ hiện bày của tâm”. Lời nói ấy thật là cửa nẻo để vào. Thử hỏi các ông: mắt thấy hết thảy sắc; tai nghe hết thảy thanh; mũi ngửi hết thảy mùi; lưỡi nếm hết thảy vị; thân chạm hết thảy các thứ mềm, trơn; ý phân biệt hết thảy các pháp. Vậy thì cái vật đối với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chỉ duy là tâm các ông hay chẳng phải là tâm các ông? Nếu nói là duy chỉ tâm các ông, sao chẳng cùng thân các ông làm thành một khối cho rồi? Vì sao các vật đối đãi ấy lại ở ngoài các Căn của các ông? Các ông nếu nói vật đối với mắt, tai, mũi, lưỡi... chẳng phải là tâm các ông thì tại sao có câu “Chỗ các pháp sanh ra là chỗ hiện bày của tâm” lưu truyền tại thế gian, ai cũng nêu bày? Các ông nghe lời yếu lý ấy, có hiểu không? Nếu không hiểu, hãy dụng tâm thương lượng để được dạy cho mà hiểu, ở trong ấy chớ có lười biếng học hỏi. Vô sự, hãy lui”.

Có vị tăng hỏi Tổ Vân Cư : “Khi sáu cửa chẳng rõ thì như thế nào?”

Tổ Cư nói : “Chẳng giao thiệp với duyên”.

Vị tăng hỏi : “Thế nào là chuyện hướng thượng?”.

Tổ Cư nói : “Người cẩn thận thì không giữ gìn”.

Ngài Đầu Tử tụng rằng :

“Xuân đến, người đá nhìn núi xa

Oanh kêu, hoa gỗ sóng xanh nhàn

Nên biết, ngoài mây, tùng, núi đẹp

Nghìn xưa đón gió mặc năm hàn”.

Hai câu đầu tụng về Chẳng giao thiệp với duyên. Hai câu sau tụng về Chuyện hướng thượng. Cần rõ được sự hướng thượng mới tin Mười Tám Giới vốn là Tánh Chân Như vậy.

Thiện Tâm
08-21-2015, 09:18 AM
Kinh:

“Anan, như chỗ ông bày tỏ: Nhãn căn và sắc trần làm duyên, sanh ra Nhãn Thức. Cái Thức này là nhân nhãn căn sanh ra, lấy nhãn căn làm Giới; hay nhân sắc trần sanh ra, lấy sắc trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân nhãn căn sanh ra, mà không có Sắc, có Không, thì không thể phân biệt, dầu cho có cái Thức của ông cũng chẳng làm gì. Cái Thấy của ông mà không có xanh, vàng, trắng, đỏ thì không thể biểu hiện ra được, vậy do đâu mà lập ra Giới?

“Nếu nhân sắc trần sanh ra, thì khi ở hư không, chẳng có sắc, lẽ ra cái Thức của ông phải diệt mất, làm sao mà biết đó là hư không? Nếu khi sắc trần biến đổi, ông cũng biết sắc tướng biến đổi, mà cái Thức của ông chẳng biến đổi, thế thì do đâu mà lập sắc trần làm Giới? Nếu theo sắc mà biến đổi thì cái Giới không thành. Nếu không biến đổi, tức là thường hằng, cái Thức đã từ sắc sanh ra, lẽ ra không biết hư không ở chỗ nào.

“Nếu do cả hai thứ nhãn căn và sắc trần chung nhau sanh ra, thì hợp lại ắt ở giữa phải có chỗ lìa; còn như lìa, ắt hai cái có thể hợp lại. Như thế, thể tánh xen lộn, làm sao thành được Giới?

“Thế nên, phải biết: Nhãn căn, sắc trần làm duyên sanh ra Nhãn Thức Giới, cả ba chỗ đều không. Tức là cả ba thứ Nhãn Giới, Sắc Giới và Nhãn Thức Giới vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Cái Mười Tám Giới này, chỉ phá sáu Thức. Nói cái Thức này chẳng phải từ mắt sanh ra mà lấy mắt làm Giới, vì Thức thì phân biệt, nhưng nếu không có Sắc, Không thì phân biệt dùng vào đâu?

Cái Thức này chẳng phải từ sắc sanh ra mà lấy sắc làm Giới, vì sắc thì có biến diệt, Thức thì không đổi thay, nếu chỉ từ sắc mà ra thì làm sao biện không?

Thức ấy cũng không nhân nhãn và sắc hợp lại mà làm ra Giới. Vì một bên có Biết (nhãn căn) hợp với một bên không Biết (sắc trần) ắt chống nhau, làm sao mà tương nhập? Nên nói “Ở giữa phải có chỗ lìa”.

Bảo rằng lìa ngoài nhãn và sắc mà sanh ư? Lìa căn tức là hợp với cảnh, lìa cảnh tức phải hợp với căn, vậy Thức thuộc bên nào? Thế nên mới nói “Xen lộn”.

Ba chỗ đồng chẳng phải, thì Giới ở đâu mà có?

Tổ Pháp Nhãn chỉ cây tre, hỏi vị tăng : “Thấy không?”

Vị tăng đáp : “Dạ, thấy”.

Tổ Nhãn nói : “Tre đến trong mắt hay mắt đến bên tre?”

Vị tăng nói : “Đều chẳng phải như thế”.

Sau này, Tổ Pháp Đăng riêng nói: “Khi ấy, chỉ nên bửa mắt ra mà ngó thầy”.

Tổ Quy Tông Nhu riêng nói rằng: “Hòa Thượng chỉ là chẳng tin hai chuyển ngữ của tôi lại có hơi thở của thiền tăng”.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Thiên Đồng Khải: “Như thế nào là con mắt ứng dụng không thiếu hụt?”

Tổ Đồng nói : “Vẹn giống như mù một thứ!”

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Mù, ngọng, điếc, câm xa Thiên Chân

Mắt tợ lông mày: Đạo mới gần

Đông Quân đêm trước ngầm ban lệnh

Chốn hoàng oanh hót liễu xanh xuân”.

Ở chỗ này mà tin được thấu đáo thì mặc tình ứng dụng không thiếu hụt.

Thiện Tâm
08-21-2015, 09:21 AM
Kinh:

“Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Nhĩ căn và thanh trần làm duyên, sanh ra Nhĩ Thức. Thức ấy nhân nhĩ căn sanh ra, lấy nhĩ căn làm Giới, hay nhân thanh trần mà sanh ra, lấy thanh trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân nhĩ căn sanh ra mà không có mặt hai tướng động, tĩnh thì cái biết của căn chẳng thành. Mà đã không biết gì thì cái Biết còn không thành huống là cái Thức phân biệt còn có hình dạng gì?

“Nếu nhân lỗ tai nghe, mà không có động, tĩnh cái Nghe cũng không thành, làm sao lấy hình tướng lỗ tai trộn lẫn sắc trần, mà gọi được là Nhĩ Thức Giới. Cái Nhĩ Thức Giới ấy do đâu mà thành lập?

“Nếu nhân thanh trần mà sanh ra, thì cái Nhĩ Thức nhân thanh trần mà có, bèn chẳng liên quan gì đến cái Nghe, mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng thanh trần ở đâu. Nhĩ Thức mà do thanh trần sanh ra, dầu cho rằng thanh trần do cái Nghe mà có tướng, thì cái Nghe lẽ ra phải nghe được Nhĩ Thức. Nếu không nghe được Nhĩ Thức thì thanh trần chẳng phải là Giới của Nhĩ Thức. Còn nếu nghe được, thì Nhĩ Thức cũng đồng với thanh trần. Nhĩ Thức đã bị nghe, thì cái gì biết sự nghe được cái Nhĩ Thức đó? Còn nếu không ai biết thì rốt cuộc giống như cỏ cây.

“Chẳng lẽ thanh trần và cái Nghe trộn lẫn thành ra cái Giới ở giữa? Giới không có ở giữa thì các tướng nội căn, ngoại trần do đâu mà thành?

“Thế nên, phải biết: Nhĩ căn, thanh trần làm duyên sanh ra Nhĩ Thức Giới, cả ba chỗ ấy đều không. Tức là ba thứ Nhĩ Giới, Thanh Giới và Nhĩ Thức Giới vốn chẳng phải là tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Tiểu thừa cho rằng “Nhân Duyên sanh ra pháp”, lấy đó làm thật có, chẳng hiểu được “Tức Không” nên Phật căn cứ vào chỗ Nghe, Thấy thường ngày ấy mà phá bỏ.

Nếu nhân nhĩ căn mà sanh ra, thì nhĩ căn có Thắng Nghĩa Căn và Phù Trần Căn. Thắng Nghĩa Căn biết phân biệt, nhưng nếu không có thanh trần tiếp xúc thì cái Biết còn không có, huống là có hình tượng gì ? Phù trần căn thì dù có xen tạp với sắc trần, mà nếu không có hai tướng động, tĩnh thì cái Nghe còn không có, huống là có Thức Giới! Cho nên, nếu nói “Nhĩ Thức nhân Nhĩ Căn sanh ra”, là sai lầm.

Nếu nhân thanh trần mà sanh ra, thế thì thanh trần đã tự có Nhĩ Thức, cần gì đến tai nghe? Đã không có người nghe, thì ai phân biệt được các thanh trần? Nếu nói nương nhau mà sanh, cho là thanh trần nhân cái Nghe mà có tướng, thì cũng phải cho rằng cái Nghe nhân thanh trần mà nghe được Nhĩ Thức. Nhĩ Thức đã bị nghe, thì cũng chỉ là thanh trần, thì còn cái gì làm năng tri để biết rằng đã nghe Nhĩ Thức? Nếu cùng cái Biết, thì thành ra có hai cái Thức! Còn nếu không có cái Biết, thì đồng với cỏ cây. Nên nói “Thức sanh ra nơi Thanh Trần” là sai lầm vậy.

Nếu nói rằng “Thanh Trần và cái Nghe hòa hợp mà sanh ra Nhĩ Thức”, thì một bên là có Biết, một bên là không có Biết, giữa khoảng Biết và Không Biết đó, làm sao mà trộn lẫn để thành ra cái Giới? Cái Giới ở giữa đã không có, thì Thức không chỗ nương, thế thì nội căn, ngoại trần do đâu mà thành lập? Nên nói “Thanh Trần và cái Nghe hòa hợp mà sanh” là sai lầm vậy.

Ba chỗ đều không, thì Nhĩ Thức chẳng sanh, nên biết cái Nhĩ Thức vô sanh ấy tức là Tánh Chân Như vậy.

Có lần, Đức Thế Tôn đang ngồi dưới cây Ni Câu Luật, có người đi buôn hỏi : “Ngài có thấy xe đi qua không?”

Ngài nói : “Chẳng thấy”.

Lại hỏi : “Lại có nghe chăng?”

Đáp : “Chẳng nghe”.

Hai người đi buôn hỏi : “Không thiền định sao?”

Đáp : “Không thiền định”.

Hỏi : “Không phải ngủ sao?”

Đáp : “Không ngủ”.

Người đi buôn tán thán : “Lành thay! Lành thay! Thế Tôn thường biết mà chẳng thấy!” Bèn cúng dường lên hai cây vải trắng.

Có vị sư hỏi thiền sư Hà Trạch Thần Hội: “Khi cái thấy, nghe chiếu thanh, sắc thì đồng thời hay có trước sau?”

Tổ Hội nói: “Đồng thời hay trước sau hãy để đó. Rốt ráo, ông lấy cái gì làm thanh, sắc?”

Vị sư nói: “Như chỗ chỉ bày của thầy, thì không có thanh, sắc nào khá được”.

Rồi quỳ lạy mà đi ngay hôm đó. Sau sư ở ẩn tại núi Mông.

Có vị Tam Tạng xứ Thiên Trúc tên là Thanh Minh đến xứ Mân. Vua xứ Mân mời Ngài Huyền Sa đến để nghiệm luận.

Tổ Sa lấy chiếc đũa sắt gắp lửa gõ vào cái lư đồng, rồi hỏi: “Đó là tiếng gì?”

Vị Tam Tạng đáp: “Tiếng đồng-sắt”.

Tổ Sa nói: “Đại Vương chớ để người ngoại quốc lừa dối!”

Vị Tam Tạng không đáp được.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Hợp với Lý thì đó là Thần: gã nghèo được viên ngọc trong tay áo. Bị Tình gói kín thì đó là Vật: người lực sĩ mất viên ngọc trên trán! Vị Tam Tạng chỉ biết nhìn tới trước. Ngài Huyền Sa lại chẳng thể ngó lui. Hiểu được chăng? Đặt bày điều tội cho người thì tội càng lớn”.

Cái tắc công án này, các vị tôn túc nói rất nhiều.

Vị Tam Tạng nói “Tiếng đồng-sắt” thì rõ ràng đuổi theo thanh trần rồi vậy.

Tổ Pháp Nhãn riêng nói : “Thỉnh Đại Sư làm Đại Vương”.

Tổ Pháp Đăng riêng nói : “Hãy nghe Hòa Thượng hỏi!”

Tổ Tuyết Đậu nói : “Chớ lừa dối người ngoại quốc thì tốt”.

Ở chỗ vị Tam Tạng không trả lời được, Ngài Pháp Nhãn thay thế mà nói rằng: “Đại Sư đã hưởng thọ lâu rồi sự cúng dường của Đại Vương”.

Tổ Pháp Đăng nói thay: “Ấy là Hòa Thượng lừa dối Đại Vương!” Câu nói này rất có ý vị, đó là chỗ Ngài Thiên Đồng nói “Đặt bày điều tội cho người thì tội lại càng lớn” đó vậy.

Cứ theo ý Tổ Huyền Sa thì gọi cái gì là tiếng đồng-sắt? Còn theo ý vị Tam Tạng thì gọi cái gì chẳng phải là tiếng đồng-sắt? Hai lời này rất dễ lừa người. Phải mỗi mỗi đều nhìn thấu mới chẳng bị người lừa.

Thiện Tâm
08-21-2015, 09:23 AM
Kinh:

“Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Tỷ căn và hương trần làm duyên, sanh ra Tỷ Thức. Thức ấy nhân tỷ căn sanh ra, lấy tỷ căn làm Giới, hay nhân hương trần sanh ra, lấy hương trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân tỷ căn sanh ra, thì trong tâm ông, lấy cái gì làm tỷ căn? Lấy cái hình tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy sự ngửi biết lay động làm tỷ căn?

“Nếu lấy cái hình tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân và cái biết của thân là cái cảm xúc. Đã gọi là thân thì không phải là lỗ mũi, gọi là cảm xúc thì thuộc về trần. Vậy còn không có gì để gọi là tỷ căn, làm sao mà Giới được thành lập?

“Nếu lấy cái Ngửi Biết làm tỷ căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc trần, chứ không phải là tỷ căn. Nếu lấy hư không làm cái Biết, thì hư không ắt tự biết, còn xác thịt lẽ ra chẳng biết. Như thế, lẽ ra hư không phải là ông! Thân ông mà chẳng biết, thì Ông Anan hiện giờ chẳng còn ở đâu nữa.

“Nếu lấy cái hương làm cái biết, thì cái biết thuộc về hương trần, nào dính dáng gì đến ông?

“Nếu mùi thơm, mùi thối sanh ra do tỷ căn của ông, thì hai mùi thơm, thối kia không sanh ra do cây y lan và cây chiên đàn, hai vật đó không đến, thì ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay thối! Thối thì chẳng phải thơm; thơm thì không phải thối. Nếu cả hai mùi thơm, thối đồng ngửi được cả, thì một người ông phải có hai tỷ căn, đứng trước Ta hỏi đạo lại có hai Anan, thế thì ai mới là cái thể của ông? Nếu tỷ căn là một, thì thơm, thối không hai. Thối đã thành thơm, thơm đã thành thối, hai tánh đó đã không có, thì Giới do đâu mà thành lập?

“Lại nếu nhân hương trần mà sanh, thì Tỷ Thức đã nhân hương trần mà có, cũng như như nhân con mắt mà có Thấy, thì không thể thấy con mắt: Tỷ Thức nhân hương mà có, lẽ ra không biết được hương trần. Nếu biết được hương trần thì không phải do hương trần sanh ra, còn nếu không biết được hương trần thì không phải là Tỷ Thức. Hương trần mà không biết là có, thì cái Giới của hương không thành. Tỷ Thức mà không biết hương trần, thì cái Giới của nó không phải do hương trần mà lập. Đã không có cái Thức ở khoảng giữa thì nội căn, ngoại trần cũng không thành, thì các thứ Ngửi Biết kia rốt ráo là hư vọng.

“Thế nên, phải biết tỷ căn và hương trần làm duyên, sanh ra Tỷ Thức Giới, cả ba chỗ đều không. Tức là ba thứ Tỷ Giới, Hương Giới và Tỷ Thức Giới vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Cái Mũi là Căn. Hương là Cảnh. Ở giữa hai cái ấy là Thức. Phàm nói Giới là chuyên để chỉ Thức. Cái Thức này không ở nơi Căn mà sanh, không ở nơi Hương mà sanh, đại ý tương tợ, nhưng văn nghĩa có hơi phức tạp.

Mượn cảnh để phá căn, thì Thức chẳng phải do hư không sanh, mà là ở giữa. Ngay nơi cảnh mà phá căn, thì Thức chẳng do hòa hợp mà sanh ra, cũng là dễ thấy. Ban đầu phá phù trần căn, cái mũi thịt chẳng phải là cái Biết. Rồi phá thắng nghĩa căn, lại không phải hư không là cái Biết. Nếu cái Biết ở hương, thì can dự gì đến lỗ mũi? Mà đã sanh ở lỗ mũi thì cần gì đến vật ? Nếu đồng ngửi được cả thơm thối, thì phải có hai mũi, vậy thì cái căn đâu có đủ để căn cứ. Đã chỉ một cái mũi, sao lại có hai mũi, vậy cái cảnh cũng không đủ làm bằng cớ. Do đó, nói “Tỷ Thức do nơi Căn sanh”, là sai vậy.

Nếu nói “Tỷ Thức do hương trần sanh ra”, thì đáng lẽ không biết được hương, cũng như cái thấy do con mắt mà có ra thì không thể trở lại thấy con mắt. Nếu nói là Biết, thì hương trần tự có Thức, nào cần phải nói là sanh ra? Nếu nói là không Biết, thì không thể gọi là Thức, thì Giới do đâu mà lập? Do đó, nói rằng “Thức do Hương Trần sanh”, là sai lầm vậy.

Hương trần đã không thể tự biết mùi của nó, thì căn với trần lìa nhau, chứ không thể hợp được. Mà Thức nếu từ hương trần sanh ra, thì chẳng thể biết hương trần. Còn biết được hương trần, thì hẳn là chẳng phải từ hương sanh ra. Đó là căn, cảnh lìa nhau, vốn chẳng nương nhau vậy. Nên nói rằng “Tỷ Thức do Căn và Cảnh hợp nhau mà sanh”, là sai lầm vậy.

Cái Giới của hương không thành, thì không thể ở giữa. Đã không có cái giữa, lấy đâu có trong, có ngoài ! Rõ là Tỷ Thức hư vọng, vốn không xứ sở, bèn hiểu tánh Ngửi Biết là Không, chẳng có tánh Nhân Duyên hay Tự Nhiên nào khá được.

Phẩm Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm : Trưởng giả Chúc Hương Ưu Bát La Hoa khéo phân biệt mà biết tất cả mùi hương, cũng biết điều hòa tất cả Hương Pháp, cho đến nơi chốn bay ra của Hương Vương. Lại khéo biết trị các bệnh của hương, đoạn trừ các hương xấu, mà sanh ra Hoan Hỷ Hương, tăng Trí Huệ Hương, diệt Phiền Não Hương. Khiến ở Vô Vi mà sanh Ưa Luyến Hương, ở nơi Hữu Vi mà sanh Chán Lìa Hương, xả bỏ các Kiêu Dật Hương, phát tâm Niệm Phật Hương, chứng Giải Thoát Pháp Môn Hương, Thánh Sở Thọ Dụng Hương, Nhất Thiết Bồ Tát Sai Biệt Hương, Nhất Thiết Bồ Tát Địa Vị Hương.

Ngài dạy : “Ta chỉ biết môn Điều Hòa Hương Pháp này, cũng như các Bồ Tát lìa xa hết thảy các ác tập khí, chẳng nhiễm thế dục, cầu cắt lìa lưới phiền não của bọn ma, vượt khỏi các nẻo luân hồi. Lấy Trí Huệ Hương mà tự trang nghiêm, nơi mọi thế gian đều không nhiễm trước, thành tựu đầy đủ Giới “Không Chỗ Bám”, làm trong sạch Trí “Không Bám”, Hành cái “Không Bám Cảnh”, nơi hết thảy chốn đều không chỗ bám níu, tâm đều bình đẳng, không bám, không nương”.

Xưa, có một tôn giả đi qua hồ sen. Vị Thần sen trách rằng: “Không được trộm hương thơm của tôi”.

Vị tôn giả bèn hỏi: “Người đời qua lại, ai chẳng ngửi mùi thơm, đâu chỉ một mình ta ngửi trộm sao?”

Vị Thần nói: “Người đời tán loạn tâm, nên chẳng gọi là trộm. Tôn giả đây tâm trong sạch, nên có chút bám dính thì chẳng được!”

Tỷ Thức chưa dễ hàng phục vậy! Thế nên, hộ trì cái Tâm Vô Trước mà ngao du cõi đời, đó là “Khéo phân biệt mà biết tất cả mùi hương”, thì không gì mà chẳng có thể.

Thiện Tâm
08-21-2015, 09:26 AM
Kinh: “Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Thiệt căn và vị trần làm duyên, sanh ra Thiệt Thức. Thức ấy nhân thiệt căn sanh ra, lấy thiệt căn làm Giới, hay nhân vị trần sanh ra, lấy vị trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân thiệt căn sanh ra, thì trong thế gian mía ngọt; mơ chua; hoàng liên đắng; muối mặn; tế tân, gừng, quế hết thảy đều không có Vị. Ông tự nếm cái lưỡi, là ngọt hay đắng? Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì để nếm cái lưỡi? Lưỡi chẳng thể tự nếm, thì lấy gì mà có hay biết? Nếu lưỡi không đắng, vị tự chẳng sanh ra, làm sao lập thành Giới?

“Nếu nhân vị trần mà sanh ra, thì Thiệt Thức đã là vị rồi, đồng như thiệt căn, không thể tự nếm, làm sao mà biết là vị hay chẳng phải vị? Lại tất cả các vị chẳng phải do một vật sanh ra. Các vị đã do nhiều vật sanh ra, thì cái Thiệt Thức nếu do vị trần sanh, cũng phải có nhiều tự thể. Nếu Thiệt Thức là một thể và thể đó do vị sanh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay, các tướng khác nhau này phải chỉ là một vị, không thể phân biệt. Không có phân biệt, thì không có Thức, làm sao còn gọi là Thiệt Thức Giới? Chẳng lẽ hư không sanh ra cái Thức Phân Biệt của ông?

“Thế thì cái Thức ở giữa do thiệt căn và vị trần hòa hợp mà sanh, vốn không tự tánh, làm sao mà cái Giới có được?

“Vậy nên phải biết: Thiệt căn, vị trần làm duyên, sanh ra Thiệt Thức, cả ba Xứ đều Không. Tức là Thiệt Giới, Vị Giới và Thiệt Thức Giới vốn chẳng phải Tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Ban đầu, bác bỏ “Nhân thiệt căn sanh”, là phá cái lý Tự Sanh. Thứ hai là bác bỏ “Nhân vị trần sanh”, là phá cái lý Cái khác sanh. Thứ ba là bác bỏ “Hư không sanh”, là phá cái lý Không nguyên nhân mà sanh. Thứ Tư bác bỏ “Lưỡi và vị hòa hợp mà sanh”, là phá cái lý Chung nhau sanh. Tức ở trong đó, vốn không tự tánh, thiệt căn chẳng thể tự nếm mùi, mùi vị cũng chẳng tự nếm biết, thì Thức do đâu mà sanh? Chính là hiển bày ý chỉ Vô Sanh. Biết Thiệt Thức vốn Vô Sanh, thiệt căn vốn tự trong sạch, tức là Diệu Chân Như Tánh vậy.

Xưa, có vị thiền sư ăn uống hỗn tạp, không chọn lựa, nhiều đệ tử bắt chước theo. Một bữa nọ, bày một bữa cúng ở chỗ thiêu xác người chết, rồi lấy thịt thiêu còn sót, gồm chung vào rồi ăn. Đệ tử đều ói mửa, chạy mất.

Sư bèn nói: “Ta nhiều đời thanh tịnh, nên mới không chọn lựa. Các ông có thể cùng với ta ăn món này, mới nên duy trì việc ăn uống”.

Từ đó, cả chúng sợ hãi mà lo vâng giữ Giới Luật.

Tổ Tào Sơn cũng ưa rượu.

Có vị tăng hỏi: “Áo linh không khoác thì như thế nào?”

Đáp: “Tào Sơn này trọn hiếu! [Đây nghĩa là xứng Tánh]”

Hỏi : “Trọn hiếu rồi thì như thế nào?”

Tổ đáp : “Tào Sơn khoái rượu từ Tôn Đảnh”.

Có đệ tử tên là Thuế Thanh, bạch hỏi: “Đệ tử cô bần, xin thầy cứu giúp”.

Tổ Sơn gọi lớn: “Thuế Xà Lê!”

Sư Thuế ứng tiếng: “Dạ!”

Tổ Sơn nói: “Rượu Thanh Nguyên [Phái Tào Động xuất phát từ Ngài Thanh Nguyên Hành Tư] trắng trong, uống rồi ba chén sao còn bảo chưa thấm môi!”

Tổ Huyền Giác nói : “Ở chỗ nào mà cho là có uống!”

Ba tắc này là: Tánh của Vị vốn Không, Thiệt Thức cũng vốn Không. Liễu đạt mới gọi rằng “Biết mùi vị”.

Thiện Tâm
08-21-2015, 09:27 AM
Kinh :

“Anan, lại như chỗ ông bày tỏ: Thân căn và xúc trần làm duyên sanh ra Thân Thức. Thân Thức này do thân căn sanh ra, lấy thân căn làm Giới, hay nhân xúc trần sanh ra, lấy xúc trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân thân căn sanh ra, mà không có hai cảm xúc hợp và lìa, thì thân căn còn biết gì? Nếu nhân xúc trần sanh ra, mà không có thân căn của ông, thì có ai chẳng có thân mà lại biết chuyện hợp, lìa được?

“Anan, vật thì không biết cảm xúc, thân căn có biết mới có cảm xúc. Tức nơi cảm xúc, biết có thân. Tức nơi thân căn, mà biết cảm xúc. Nhưng nơi Xúc, thì không phải là thân, nơi thân thì không phải là Xúc. Hai tướng thân và xúc, vốn không xứ sở. Nếu Xúc hợp với thân, thì làm thể tánh của thân. Lìa thân thì chẳng có thể tánh nào, bèn như tướng hư không. Nội căn, ngoại trần đã không thành, cái Thức ở giữa làm sao mà lập? Giữa chẳng lập được, trong ngoài đều là Tánh Không, thì cái Thân Thức của ông do đâu mà lập thành Giới?

“Thế nên, phải biết: Thân căn và xúc trần làm duyên, sanh ra Thân Thức, cả ba chỗ đều Không. Tức là cả ba thứ Thân Giới, Xúc Giới và Thân Thức Giới vốn chẳng phải Tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Câu “Vật thì không biết cảm xúc”, nghĩa là vật có thể chạm biết. Vật thì thật, cái Biết thì hư. Cái thật với cái hư chẳng có tiếp xúc với nhau. Cho nên, vật thì chỉ tiếp xúc với vật, không thể tiếp xúc với cái Biết. Một chữ Biết này bày rõ ràng ra cái Pháp Thân trong sạch, chẳng phải là chỗ mà sự chạm xúc có thể tới được.

Cái Thân biết có cảm xúc là do sắc thân phân biệt mà Biết, lấy hai chỗ hợp, lìa làm duyên. Cảm xúc không lìa thân căn, thân căn cũng không lìa cảm xúc. Nhưng nói cảm xúc thì chẳng phải là thân căn, nói thân căn thì chẳng phải là cảm xúc, hai cái ấy thật là không thể xác định. Do đó, nếu hợp lại thì chỉ có một thân thể, mà cái Cảm Xúc ở tại đâu? Nếu lìa nhau, thì Xúc không còn, đồng như hư không vậy. Cả hai đều không có ở đâu, trong ngoài đều không thành tựu. Thân và Xúc đều không nơi chốn, thì Thân Thức do đâu mà thành lập? Đã không có cái Thức ở giữa, thì căn và cảnh rốt ráo là không. Thế nên biết cái Thân Thức Giới chỉ là hư vọng.

Thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư đã đắc túc mạng thông, bỗng nhiên lại bị nghiệp chướng khởi lên, tay chân rũ liệt, không thể đi đứng. Ngài tự nghĩ rằng: “Bệnh từ nghiệp sanh, nghiệp từ tâm khởi. Nguồn tâm vốn chẳng khởi, ngoại cảnh đâu có hình trạng gì? Bệnh, nghiệp và thân đều như bóng mây!” Quán như thế, tướng điên đảo diệt, nhẹ nhàng yên ổn như xưa. Như Ngài mới có thể nói là rõ thấu Thân Thức là hư vọng vậy.

Thiền sư Hưng Dương Phẩu nằm bệnh.

Ngài Đại Dương đến thăm, hỏi: “Thân này như bọt huyễn, mà có ở trong bọt huyễn mới thành biện xét. Nếu không có cái bọt huyễn này, thì chuyện đại sự chẳng do đâu mà nghiệm xét. Nếu muốn xét chuyện đại sự, thì Thức lại giữ lấy cái bọt huyễn này, làm sao đây?”

Tổ Phẩu nói: “Vẫn còn là chuyện bên này”.

Đại Dương hỏi : “Thế chuyện bên kia thì làm sao?”

Tổ Phẩu nói : “Quanh đất vừng hồng đẹp, đáy biển chẳng trồng bông” [“Táp địa hồng luân tú, hải để bất tài hoa”].

Đại Dương cười nói : “Ông còn tỉnh táo không?”

Tổ Phẩu quát : “Sắp nói ta quên mất à!”

Rồi liền tịch.

Như Tổ Hưng Dương Phẩu có thể nói là thấu rõ cái Pháp Thân Hướng Thượng Sự vậy.

Có vị sư hỏi Ngài Đại Long: “Sắc thân thì hư hoại, như thế nào là cái Pháp Thân kiên cố?”

Tổ Long nói: “Hoa núi nở dường gấm. Nước khe trong như lam”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Hỏi, từng chẳng biết

Đáp, lại chẳng hiểu

Trăng lạnh gió cao, đỉnh xưa thông lạnh

Cười vui thay

Giữa đường gặp được người đắc đạo

Chẳng lấy nói, im đối đãi cùng

Tay cầm roi bạch ngọc đánh vụn ngọc Ly Châu

Đánh chẳng nát, thêm dấu vết!

Nước có hiến chương, thêm ba ngàn điều tội!”.

Theo bài tụng này thì cái Kiên Cố Pháp Thân còn phải đập cho nát, huống là cái Sắc Thân đó ư?

Thiện Tâm
08-21-2015, 09:32 AM
Kinh:

“Lại như chỗ ông bày tỏ: Ý căn và pháp trần làm duyên, sanh ra Ý Thức. Thức đó là nhân ý căn sanh ra, lấy ý căn làm Giới, hay nhân pháp trần sanh ra, lấy pháp trần làm Giới?

“Anan, nếu nhân ý căn sanh ra, thì trong ý ông chắc phải có chỗ suy nghĩ mà phát rõ ra cái ý của ông; nếu không có các pháp trần thì ý không có chỗ sanh ra. Lìa các duyên trần, ý căn còn không có hình tướng, thì cái Thức đem dùng vào chỗ nào?

“Lại cái Thức Tâm của ông cùng các sự nghĩ suy, các sự rõ biết là đồng nhau hay khác nhau. Nếu đồng với ý căn, tức là ý căn rồi, làm sao lại do ý căn sanh ra? Nếu khác mà không đồng với ý căn, thì lẽ ra không có biết gì. Nếu không có chỗ Biết, thì làm sao lại do ý căn sanh ra? Còn nếu có chỗ Biết, làm sao biết được ý căn? Khi hai tánh đồng nhau và khác nhau đều không thành, Giới do đâu mà lập?

“Nếu Ý Thức do pháp trần sanh ra, thì các pháp trong thế gian không ngoài năm Trần. Ông hãy xem các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc đối với năm căn đều có hình tướng rõ ràng, chẳng phải chỗ thu nhiếp của ý căn. Nếu Ý Thức của ông quyết định nương nơi pháp trần mà sanh ra, thì ông hãy xem xét kỹ, mỗi pháp có hình trạng gì? Nếu lìa ngoài sắc không, động tĩnh, thông bít, lìa hợp, sanh diệt, vượt ngoài các tướng này, rốt ráo là không chỗ đắc. Sanh thì các pháp Sắc Không đều sanh ra, diệt thì các pháp Sắc Không đều diệt. Các nguyên nhân đã không, thì cái thức có là do chúng sanh ra, nào có hình tướng gì đâu? Tướng trạng không thể có, Giới do đâu mà sanh?

“Thế nên, phải biết: Ý căn, pháp trần làm duyên, sanh ra Ý Thức, ba chỗ này đều không. Tức là ba thứ Ý Giới, Pháp Giới và Ý Thức Giới vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.

Thông rằng:

Cái Ý Thức Giới này là Tánh Hiểu Biết, Phân Biệt của Thức Thứ Sáu. Đã lấy sự Biết do Phân Biệt làm tánh, thì lìa ngoài pháp hẳn không có duyên, ý bèn chẳng sanh. Lìa Duyên thì vô hình, vậy Ý Thức dùng vào đâu? Thế thì cái Thức duyên theo pháp này, rõ ràng không sanh ra nơi ý căn. Nếu nói ý căn hay phân biệt mà sanh ra Ý Thức, vậy thì Thức Thứ Bảy làm chỗ nương cho sự nhiễm, tịnh và Thức Thứ Tám là Thức Tâm làm chỗ nương dựa căn bản của mọi Thức, đối cùng Thức Thứ Sáu có tánh hiểu biết do phân biệt là đồng hay là khác?

Kinh Lăng Già nói: Tâm (Thức Thứ Tám) hay tích nhóm Nghiệp Ý (Thức Thứ Bảy), hay mở rộng sự tích nhóm, hiểu biết do phân biệt gọi là Thức, đối đãi với hiện cảnh thì có năm Thức.

Luận Duy Thức nói: Tập Khởi gọi là Tâm, suy lường gọi là Ý, hiểu biết cảnh gọi là Thức. Chỉ là một pháp mà khác tên.

Đã duy chỉ một pháp, đều có thể gọi là Tâm, đều có thể gọi là Ý, đều có thể gọi đó là Thức. Nhưng sự tinh vi ấy có thể biện biệt, có nhiều thứ ấy mà đặt tên vậy.

Ở trong Thức Thứ Tám, Ý và Thức đều không còn, nên chỉ có thể gọi là Tâm.

Ở Thức Thứ Bảy, chẳng phải Tâm, chẳng phải Thức, chỉ có thể gọi là Ý.

Ở Thức Thứ Sáu, thì Tâm và Ý đều đối đãi với Cảnh, nên gọi là Thức Phân Biệt sự vật.

Kỳ thật chỉ là một. Như biển khởi sóng: không khác cũng không không khác. Thức Thứ Sáu đuổi theo Trần sanh ra Gió Cảnh Giới, liền khởi động các sóng Suy Lường của Thức Thứ Bảy, mà thật chẳng rời cái biển lặng chứa của Thức Thứ Tám. Ba Thức này chẳng phải đồng, chẳng phải khác, cứ hãy tạm để đó.

Bây giờ, nói về chuyện Ý sanh ra Thức. Nếu nói Thức đồng với Ý thì Thức là Ý, làm sao gọi Ý là cái Năng Sanh và Thức là cái Được Sanh ? Nói là đồng thì không được vậy. Nếu nói Thức khác với Ý, hoàn toàn chẳng đồng thì một cái thuộc hữu tình, một cái thuộc vô tình, lẽ ra không có chỗ Biết, vậy bảo khác nhau thì không thể được. Nếu không có chỗ Biết, thì chắc chẳng phải do Ý sanh. Ý phân biệt được cái chỗ Sở Sanh thì phải có cái Thức ở trong ấy. Nếu có chỗ để biết, thì khi Ý sanh mà không có pháp nào để duyên, thì chỉ có cái Ý làm sao mà tự biết cái Ý ? Nếu cho là Biết cái Ý, thì cái Ý trở lại thành cảnh, không còn là căn được. Nếu không biết cái Ý, lại giống như không có Thức, thì sao nói là Ý sanh Thức?

Rời ngoài pháp mà tìm cái Thức, rất khó hình dung: nếu nói là đồng, thì không còn có thể gọi là Sanh ra; nếu gọi là khác thì không thể gọi được là Thức. Thế là hai tánh đồng nhau, khác nhau đều không thành tựu. Thức không có chỗ định, Giới làm sao lập thành? Do đó mà nói Thức do căn sanh là hư vọng vậy.

Nếu nói Thức duyên với pháp trần mà hiện, nhân pháp mà có sanh ra, thế thì phải có pháp khá hình dung ra được rồi mới có thể làm Nhân. Nay các pháp của thế gian chẳng thể ngoài năm trần, đối đãi năm căn, và làm cái sở nhân của năm Thức. Ý có thể lìa ngoài năm Trần này mà riêng có tướng trạng của các pháp để làm sở nhân không? Cái nội cảnh mà Ý tự duyên, tuy không nhờ năm căn bên ngoài nhưng rốt cuộc không thể ra khỏi bóng dáng của Sắc Không, sanh diệt... các pháp. Dầu có duyên các pháp xuất thế gian là Phi Sắc, Phi Không, Bất Sanh Bất Diệt nhưng cái phi sắc phi không cũng do Sắc Không mà hiển, cái bất sanh bất diệt cũng do sanh diệt mà bày. Rốt là chẳng có thể rời ngoài Sắc Không, sanh diệt mà có riêng được cái pháp trần để làm nhân sanh Thức. Ở nơi năm Trần mà tìm pháp thì Trần là nhân của ngũ căn, chẳng phải là nhân của Ý. Mà rời năm Trần để cầu pháp, thì không có pháp nào để được. Đã không thể đắc, thì không có Nhân vậy. Nhân mà không có, lấy gì sanh ra ? Nếu không có Nhân mà nói là có Thức sanh ra, thì Thức này chẳng thể nào phân biệt các pháp. Còn nếu phân biệt được các pháp thì tạo ra được tướng trạng gì ? Tướng trạng không có, Thức thật chẳng sanh. Nên nói là nhân pháp mà Thức sanh là sai lầm vậy. Đã chẳng phải Ý sanh, lại chẳng phải Pháp sanh, thì Ý Thức ở tại chốn nào? Không có nơi chốn, tức là chốn Chân Thật vậy.

Xưa, Thượng Tọa Quốc Thanh Tịnh hỏi Tổ Trường Sa: “Như trong kinh dạy : không thể lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường nổi cái Tri Kiến Vô Thượng của Như Lai, thế thì làm sao?”

Tổ Sa nói: “Ông hãy nói xem: cứu xét cho cùng cái tâm có chỗ biết này, lại có đo lường nào được nổi chăng? Theo đó mà tin nhập”.

Sau này, có vị tăng hỏi: “Đệ tử mỗi đêm ngồi thiền, tâm niệm tán loạn, chưa biết cách nào nhiếp phục. Xin thầy chỉ bảo”.

Ngài Quốc Thanh Tịnh trả lời: “Nếu ban đêm ngồi tịnh mà niệm niệm lăng xăng, thì lấy cái tâm lăng xăng đó cứu xét cái chỗ lăng xăng. Thấy là nó không có xứ sở, thì cái tâm niệm lăng xăng đó đâu còn! Cứ xét ngược lại cái tâm, thì cái tâm cứu xét đó đâu có tại chỗ nào. Trí chiếu soi vốn không, cái cảnh để duyên cũng tĩnh lặng vậy. Chiếu mà chẳng chiếu, tuyệt không có cảnh để chiếu soi vậy. Cảnh, Trí đều tịch diệt, tâm lượng an nhiên. Ngoài chẳng tìm cầu lấy sự tán loạn, trong chẳng trụ nơi định tĩnh. Hai đường dứt bặt, một Tánh suốt nhiên. Đây là yếu đạo về nguồn vậy”.

Tổ Dược Sơn đang ngồi, có vị tăng hỏi : “Ở cái chỗ bằng phẳng, suy nghĩ cái gì?”

Tổ Sơn nói : “Suy nghĩ cái thật chẳng có suy nghĩ”.

Hỏi : “Cái chẳng suy nghĩ đó, làm thế nào suy nghĩ ?”

Tổ Dược Sơn nói : “Tuyệt chẳng suy nghĩ !”

Có vị tăng hỏi thiền sư Thục Châu Tây : “Thế nào là chỗ Phi Tư Lượng?”

Ngài đáp : “Ai thấy một chấm trong đêm tối giữa hư không?”

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Một điểm linh minh, sáu chẳng thâu

Rõ thay, nào phải sững mắt vào

Tin tức trong kia, người khó rõ

Chỉ có hư không một điểm mù”.

(Nhất điểm linh minh lục bất thâu

Chiêu nhiên hà dụng cánh ngưng mâu

Cái trung tiên tức nhân nan ủy

Độc hữu hư không ám điểm đầu).

Cho nên, rõ được chỗ Tâm Thức chẳng thể đến được, bèn thấu suốt nguồn cội của Thức vậy.

Thiện Tâm
08-22-2015, 08:16 AM
MỤC BẢY: TÓM THU VỀ NHƯ LAI TẠNG

II. THU BẢY ĐẠI


Kinh:

Ông Anan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, Như Lai thường nói về Nhân Duyên Hòa Hợp rằng: Tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều do bởi bốn Đại hòa hợp mà phát hiện ra. Thế sao Như Lai đều bài bác cả hai nghĩa Nhân Duyên và Tự Nhiên? Nay tôi không biết nghĩa ấy thế nào, xin Phật rủ lòng thương xót khai thị cho chúng sanh nghĩa rốt ráo của Trung Đạo, không còn các pháp hý luận”.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Ông Anan rằng: “Trước ông đã chán lìa các pháp Tiểu Thừa Thanh Văn, Duyên Giác mà phát tâm quyết cầu Bồ Đề Vô Thượng, nên ta nay vì ông mà khai thị cái Đệ Nhất Nghĩa Đế, sao ông lại còn đem những thứ vọng tưởng Nhân Duyên, hý luận của thế gian mà tự trói buộc? Ông tuy là nghe nhiều mà như người nói tên vị thuốc, đến khi thuốc thật ở trước mắt lại chẳng hề phân biệt được. Như Lai bảo thế thật là đáng thương xót! Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt khai thị. Cũng để cho những người tu Đại Thừa mai sau thông đạt cái Thật Tướng”.

Ông Anan lặng yên, kính vâng Thánh Chỉ của Phật.

Thông rằng:

Ông Anan mong Thế Tôn khai thị Trung Đạo. Nếu cho thật tại là Nhân Duyên Hòa Hợp của thế gian, thì mắc vào Có (Hữu). Nếu bài bác cả hai thứ Nhân Duyên và Tự Nhiên thì lại chìm đắm vào Không. Cái chẳng phải Có, chẳng phải Không mới là Trung Đạo. Ông không biết cái Bồ Đề Vô Thượng là cái Trung Đạo không chỗ bám nắm, mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế vậy. Cái Đệ Nhất Nghĩa Đế này siêu khỏi mọi Ấm, Nhập, Xứ, Giới chẳng phải phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên. Thấy các Tướng chẳng phải Tướng, tức đó là Đại Thừa Thật Tướng.

Ông Anan muốn rời bỏ Tiểàu Thừa mà cầu cái Bồ Đề Vô Thượng. Nay chỉ cho đó là Tánh Diệu Chân Như, thì hoang mang ngơ ngác, chẳng hiểu ra sao, như người nói ra tên thuốc, mà cái chơn dược ở ngay trước mắt lại chẳng có hay. Thật đáng thương xót! Than ôi, thuốc nào có dễ biết!

Bồ Tát Văn Thù một ngày nọ bảo đồng tử Thiện Tài đi hái thuốc.

Ngài nói : “Cái gì là thuốc hãy hái mang về”.

Thiện Tài xem khắp đại địa không có gì chẳng phải là thuốc, trở về bạch rằng : “Không có cái gì mà chẳng phải là thuốc”.

Ngài Văn Thù nói : “Cái gì là thuốc hái mang về đây”.

Thiện Tài bèn ngay trên mặt đất ngắt lên một cọng cỏ, đưa cho Ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù cầm lấy, đưa lên cho đại chúng xem, rồi nói: “Thuốc này cũng hay giết người, cũng hay cứu người”.

Tổ Vân Môn nói: “Thuốc và bệnh hiện hữu vì nhau, khắp cõi đất là thuốc, cái gì là tự kỷ?”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Khắp cõi đất là thuốc

Xưa nay sao quá lầm

Đóng cửa chẳng làm xe (để dùng)

Đường thông tự trống rộng

Lầm, lầm !

Lỗ mũi xa trời cũng xuyên suốt!”.

Theo ý bài tụng ngày thì chân dược hiện tiền ấy cũng cần mửa ra hết, huống là cái chuyện chẳng thể phân biệt của Anan!

Thiện Tâm
08-22-2015, 08:17 AM
Kinh:

“Anan, như chỗ ông nói: Tứ Đại hòa hợp phát hiện ra các thứ biến hóa trong thế gian. Anan, nếu các Đại ấy tánh chẳng phải hòa hợp thì không thể trộn lẫn với các Đại khác, cũng như hư không không thể hòa hợp được với các sắc. Nếu tánh của các Đại là Hòa Hợp, thì cũng đồng như các thứ biến hoá, trước sau hóa thành lẫn nhau, sanh diệt nối nhau, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, sanh sanh diệt diệt như vòng lửa quay tròn, chưa hề ngừng nghỉ. Anan, như nước thành băng, băng trở lại thành nước.

Thông rằng:

Nếu nói tứ Đại chẳng phải hòa hợp, thì chẳng phải nghĩa Chân Như tùy duyên, đồng như ngoan không mà thôi. Nếu nói tứ Đại nhất định phải hòa hợp, thì chẳng phải là nghĩa Chân Như bất biến, giống như biến hóa mà thôi. Như nước thành băng, băng trở lại thành nước, tứ Đại vốn là Như Lai Tạng Tánh, chẳng phải ngoài nước mà có băng. Nước hòa với cái gì mà thành băng? Băng hòa với cái gì mà thành nước?

Vốn chỉ là một vật, không có cái gì khác hòa lẫn vào. Tìm cầu tướng hòa hợp rõ là chẳng thể có, do đó, thật chẳng phải hòa hợp mà cũng chẳng phải không hòa hợp. Chỉ vì mê thì Chân Như là bốn Đại: như nuớc thấy thành băng. Ngộ, thì tứ Đại là Chân Như: như băng vốn là nước. Nước vốn là một mà thôi vậy.

Có vị tăng hỏi Tổ Lâm Tế : “Thế nào là bốn cảnh vô tướng?”

Tổ Lâm Tế nói : “Ông khởi một niệm tâm Nghi, bèn bị Đất ngăn ngại. Ông khởi một niệm tâm Ái, bèn bị Nước nhận chìm. Ông khởi một niệm tâm Sân, liền bị Lửa cháy thiêu. Ông có một niệm tâm Hỷ, liền bị Gió thổi bay. Nếu hay rõ ràng được như thế, Cảnh nào trói buộc nổi? Chốn chốn đều dùng được Cảnh: Đông mọc Tây lặn, Nam mọc Tây chìm, giữa nổi bên chìm, bên nổi giữa chìm. Đi trên nước như trên đất, vào đất như nước. Do sao mà vậy? Vì thấu suốt bốn Đại như mộng như huyễn vậy. Này các đạo lưu! Nay đây cái nghe pháp là ông, chẳng phải là tứ Đại của ông, mà hay dùng tứ Đại của ông. Thấy được như thế, thì bèn đi hay ở đều tự do”.

Xem như lời Tổ Lâm Tế thì đi đâu cũng là nước, làm gì có băng đâu?

Tổ Dược Sơn nhân có thí chủ cúng dường bộ thường phục. Đưa ra trước chúng, nói rằng: “Pháp Thân có đủ bốn Đại hay không? Nói được, thì cho một áo lá”.

Ngài Đạo Ngô nói: “Tánh đất chẳng phải là Không. Không chẳng phải là tánh đất. Đó là Đại Địa. Ba Đại kia cũng thế”.

Tổ Sơn nói: “Cho ông một cái áo lá”.

Chỗ thấy của Ngài Đạo Ngô sao lại trái ngược với kinh này? Thử tham xem!

Thiện Tâm
08-22-2015, 08:20 AM
Kinh:

“Ông hãy xét cái tánh của Địa Đại: thô lớn thì làm đất liền, nhỏ nhặt thì làm vi trần, cho đến lân hư trần, do chia chẻ cái sắc cực vi nhỏ nhất làm bảy phần mà thành. Nếu chẻ lân hư trần nữa, thì thật là tánh hư không.

“Anan, nếu cái lân hư trần đó chẻ ra thì thành hư không, vậy thì biết hư không sanh ra sắc tướng. Nay ông hỏi rằng: Do hòa hợp mà sanh ra các tướng biến hóa trong thế gian, thì ông hãy xét một cái lân hư trần dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mà có? Không lẽ lân hư trần hợp lại thành lân hư trần? Mà lân hư trần đã chẻ ra được thành hư không, thì dùng bao nhiêu sắc tướng để hợp thành hư không? Nếu sắc hợp lại thì hợp sắc không thể thành hư không. Nếu hư không hợp lại, thì hợp hư không làm sao ra thành sắc? Sắc có thể chẻ ra được, chứ hư không làm sao mà hợp lại được?

“Ông vốn chẳng biết, trong Như Lai Tạng: Tánh Sắc là Chân Không, Tánh Không là Chân Sắc, bản nhiên thanh tịnh, tròn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng ra chỗ hay biết, theo nghiệp mà hiện bày. Thế gian không biết, lầm cho là Nhân Duyên hay Tự Nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt, đo lường: chỉ có lời nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng:

Bài tụng Pháp Giới rằng:

“Có ai muốn biết lý Chân Không

Chân Như trong tánh hiện khắp ngoài

Tình với vô tình chung một thể

Chốn chốn đều đồng Pháp Giới Chơn!”.

Đây là yếu chỉ của bảy Đại.

Chân Không là cái Thể Nhất Như vậy. Bảy Đại là cái Dụng duyên theo nghiệp vậy. Thể, Dụng không hai, nương nhau mà hiển, chẳng lìa Diệu Tánh, nên mỗi mỗi đều là Tánh. Duy chỉ một Tánh. Không là Tánh Không, Sắc là Tánh Sắc, bèn Tức Không, Tức Sắc, đó là Diệu Hữu, đó là Diệu Chân Như Tánh vậy. Không sa vào Hữu, Vô nên nói là thanh tịnh, mà chưa từng chẳng Hữu, Vô nên gọi là Bản Nhiên. Là trong sạch, tức nhân duyên chẳng thể ô nhiễm. Là Bản Nhiên, tức chẳng phải hòa hợp mà thành. Cái gì mà từ nhân duyên hay hòa hợp sanh, đó chỉ là hình tướng, có nơi chốn làm sao mà đầy khắp pháp giới? Duy chỉ chẳng từ nhân duyên hay hòa hợp mà sanh thì không hình tướng, không xứ sở nên toàn khắp pháp giới. Toàn khắp pháp giới là Tánh, thì có gì chẳng phải là Thất Đại? Toàn khắp pháp giới là Thất Đại thì có gì chẳng phải là Tánh?

Tâm Như Lai chỉ một vị Thanh Tịnh, chỉ một vị Bản Nhiên, chỉ một vị Toàn Khắp nên không thể biết, không thể lường. Tâm của chúng sanh thì ở nơi cái Thanh Tịnh ấy lại có thời gian mà ô nhiễm. Ở trong cái Bản Nhiên ấy lại có thời gian mà chẳng như nhiên. Ở trong cái Toàn Khắp ấy, lại có thời gian mà hạn hẹp. Tùy cái tâm năng tri, xứng vừa với cái lượng sở tri. Biết cho lắm thì tích tụ thành nghiệp, nghiệp tích tụ thành quả, có thiện, có ác mà biến tạo ra cái Y Báo, Chánh Báo mười cõi. Tâm của chúng sanh tán loạn không bờ nên nghiệp của chúng sanh cũng đầy dẫy không bờ. Tâm ấy nếu không có cái Tánh Toàn Khắp pháp giới làm Thể thì làm sao tùy nghiệp mà phát hiện, để càng phát ra thì càng vô cùng ư?

Nghiệp lực của chúng sanh mỗi mỗi chẳng đồng. Nhưng đồng ở trong cái Thanh Tịnh Bổn Nhiên, một mảy lông cũng chẳng hề thêm bớt, nên nói rằng xuẩn động hàm linh đều có Phật Tánh. Thế gian mê lầm chẳng ngộ Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức. Thế nên, ở nơi những sự việc phát hiện ra theo nghiệp, thấy ra là có nhân duyên sanh, mà làm cho là tánh nhân duyên; còn thấy ra là không có nhân duyên sanh thì lầm cho là tánh Tự Nhiên. Chẳng rõ cái Thanh Tịnh Bổn Nhiên thì sự Có Không đều lìa, cả Nhân Duyên hay Tự Nhiên đều không có ở nơi nào để bám níu.

Nói là Nhân Duyên sanh ư ? Thế thì lân hư duyên với cái gì để sanh ra hư không, hư không duyên với gì mà sanh ra lân hư ? Chỉ có hư không duyên với hư không, chỉ có sắc mới duyên với sắc. Dù cho lân hư chẻ ra thành hư không, thì phải bao nhiêu hư không để hiện thành lân hư. Lân hư chẳng phải do hư không mà có, thì hư không cũng chẳng phải nhân lân hư chẻ thành. Sắc, Không đã chẳng thể sanh lẫn nhau, thì sự sanh ra của Đại Địa là vô tự tánh.

Thế nên, nói Nhân Duyên hòa hợp sanh là sai lầm vậy.

Nói là Tự Nhiên sanh ư? Hư không nào có vô cớ mà có hư không, sắc nào có vô cớ mà có sắc. Chẳng có nhân chẻ lân hư, thì nào có thấy được hư không? Chẳng nhân gom tụ lân hư, làm sao thành Đại Địa? Thế thì sự sanh ra của Đại Địa nào phải không có nguyên nhân mà tự nhiên bỗng có đâu?

Do đó, nói Tự Nhiên sanh là sai lầm.

Cả hai thuyết đều là do Thức Tâm phân biệt suy lường, không phải Nhân Duyên mà gượng nói Nhân Duyên; không phải Tự Nhiên mà gượng cho là Tự Nhiên, chỉ là lời nói, toàn là hý luận không có căn cứ. Nào có biết rằng Như Lai Tạng Tánh chẳng có khởi lên đối với cái thấy, chẳng bám vào cái tướng. Không khởi nơi cái thấy, cho nên suy tính không thể tới nổi. Không bám nơi cái tướng nên lời nói không thể thấu đến. Đó là cái chỗ mà tâm hành xứ diệt [Mất dấu], ngôn ngữ hết đường”, ấy mới là Thật Tướng, mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế vậy.

Thiền sư Tần Bạt Đà hỏi pháp sư Sanh : “Thầy giảng kinh luận gì?”

Thầy Sanh đáp : “Kinh Đại Bát Nhã”.

Sư Đà nói : “Làm thế nào nói nghĩa Sắc Không?”

Thầy Sanh đáp : “Các vi trần tụ lại là Sắc, các vi trần vô tự tánh là Không”.

Sư Đà nói : “Vi trần chưa tụ, gọi là gì ?”

Thầy Sanh không giãi bày được.

Thiền sư Đà lại hỏi : “Còn giảng kinh nào khác nữa ?”

Thầy Sanh đáp : “Kinh Đại Niết Bàn”.

Sư Đà nói : “Nói nghĩa Niết Bàn như thế nào?”

Thầy Sanh đáp : “Niết mà chẳng sanh, Bàn mà chẳng diệt, nên gọi đó là Niết Bàn”.

Sư Đà nói : “Cái ấy là Niết Bàn của Như Lai, cái gì là Niết Bàn của pháp sư ?”

Thầy Sanh đáp : “Nghĩa của Niết Bàn há có hai sao? Tôi chỉ như thế này, chưa hiểu thiền sư nói Niết Bàn như thế nào?”

Sư Đà đưa cây hốt như ý lên, rồi nói : “Thấy chăng?”

Đáp : “Thấy”.

Sư Đà nói : “Thấy cái gì?”

Đáp : “Thấy cái hốt như ý trong tay thiền sư”.

Sư Đà ném cái hốt như ý xuống đất, rồi hỏi : “Thấy không?”

Đáp : “Thấy”.

Sư Đà nói : “Thấy cái gì?”

Đáp : “Thấy cái hốt trong tay thiền sư rớt xuống đất”.

Thiền sư chê rằng: “Xem qua chỗ thấy hiểu của ông, chưa ra khỏi đám thường tình, sao gọi được là làm ồn náo vũ trụ” [Giảng kinh].

Rồi phất tay áo bỏ đi.

Các đệ tử của pháp sư nghi ngờ chưa dứt, bèn chạy theo níu thiền sư Đà lại, hỏi : “Thầy tôi nói Sắc Không, Niết Bàn chẳng khế hợp, chưa rõ thiền sư nói nghĩa Sắc Không như thế nào?”

Thiền sư Đà nói: “Ta chẳng nói thầy các con thuyết không được đúng, nhưng thầy các con chỉ nói Sắc Không trên quả vị, mà chẳng biết nói cái Sắc Không ngay chỗ nguyên nhân”.

Đệ tử thưa: “Như thế nào là Sắc Không ngay chỗ nguyên nhân?”

Thiền sư Đà nói: “Một vi trần Không nên chúng vi trần Không, chúng vi trần Không nên một vi trần Không. Trong chúng vi trần Không, không có một vi trần”.

Đây không phải là lời thiền sư Đà đặt ra, vì kinh nói : Một căn thanh tịnh nên các căn thanh tịnh. Các căn thanh tịnh nên một căn thanh tịnh. Trong một căn thanh tịnh không có các căn. Trong các căn thanh tịnh không có một căn.

Lấy chỗ này phát minh thì chẳng phải khó hiểu. Bèn cùng với “Tánh Sắc Chân Không, Tánh Không Chân Sắc” chỉ ngay đường vào.

Thiện Tâm
08-22-2015, 08:23 AM
Kinh :

“Anan, tánh Lửa vô ngã, nhờ ở các duyên mà hiện. Ông hãy xem các nhà chưa nấu ăn ở trong thành, khi muốn nấu bếp thì tay cầm kính dương toại đưa ra ngoài mặt trời mà cầu lửa.

“Anan, phàm gọi là Hòa Hợp thì như Ta, ông và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo nay hợp thành một chúng. Chúng tuy là một, nhưng gạn xét về căn bản, thì mỗi người đều có tánh, đều có chỗ sanh, tên hiệu, họ hàng của mình. Như Ông Xá Lợi Phất thuộc dòng Bà La Môn, Ông Ưu Lâu Tần Loa thì thuôïc dòng Ca Diếp Ba, cho đến Ông Anan thì thuộc dòng Cù Đàm.

“Anan, nếu tánh Lửa nhân Hòa Hợp mà có ra, thì khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do từ bùi nhùi mà có hay là từ mặt trời mà đến?

“Anan, nếu từ mặt trời mà đến, lửa ấy đã đốt được bùi nhùi trong tay ông, thì những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi qua phải bị đốt cháy cả. Nếu từ trong kính mà ra, thì lửa ấy đã có thể từ nơi kính ra mà đốt cháy bùi nhùi, làm sao kính lại không bị chảy. Cho đến cả tay cầm kính cũng không thấy nóng, thì làm sao kính chảy ra được. Nếu do bùi nhùi sanh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp xúc với nhau, rồi lửa mới sinh. Ông hãy xét cho kỹ: kính thì do tay cầm, ánh sáng mặt trời thì từ trên xuống, còn bùi nhùi thì từ đất sanh, vậy lửa từ phương nào đến đây? Mặt trời và kính xa nhau, chẳng có hòa, chẳng có hợp không lẽ lửa kia không do đâu mà tự có?

“Ông còn không biết rằng: Trong Như Lai Tạng, tánh Hỏa là Chân Không, tánh Không là Chơn Hỏa, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng vừa với chỗ hay biết.

“Anan, ông phải biết: Người đời cầm kính ở một chỗ thì một chỗ lửa sanh, khắp pháp giới cầm kính thì khắp pháp giới có lửa. Lửa khắp thế gian mà nào có nơi chốn, chỉ theo Nghiệp phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân Duyên và tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là sự phân biệt, đo lường của thức tâm: chỉ có lời nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng:

Ngài Long Thắng nói: “Nếu các pháp là thật có, thì chẳng cần dùng tâm thức mới biết là có tướng. Nếu dùng tâm thức mới biết là có, ấy là chẳng phải có. Như tướng cứng của Đất, phải dùng thân căn, thân thức mới biết là có. Còn nếu không có thân căn, thân thức thì không thấy có tướng cứng”.

Hỏi rằng: “Thân căn, thân thức thì có khi cảm biết, có khi không cảm biết, còn đất thì vẫn luôn luôn có tướng cứng chứ?”

Đáp rằng: “Hoặc trước đã tự nhiễm biết cái tướng cứng, hoặc nghe người nói mới biết là có tướng cứng. Nếu trước chẳng nhiễm biết, chẳng nghe nói thì làm gì có cái tướng cứng? Lại nữa, nếu đất luôn luôn thật là tướng cứng, thì không thể bỏ tướng cứng ấy. Nhưng như tô lạc, mật ong, nhựa cây khi nấu thì phải bỏ cái tướng cứng mà biến thành thể lỏng. Vàng, bạc, đồng, sắt hết thảy đều như thế. Còn nước đang ở thể lỏng, lạnh thì chuyển thành tướng cứng là băng. Như vậy, tất cả mọi thứ mọi loại đều có thể biến đổi tướng trạng”.

Ngài lại nói: “Nếu lửa thật có tánh nóng, thì sao có người vào lửa chẳng cháy. Trong thân cũng có lửa nóng, sao chẳng thiêu thân? Lửa ở trong mây mà nước không diệt được. Bởi thế, lửa không có tánh nóng nhất định. Vì thần thông lực, lửa không thể cháy thân. Vì nghiệp nhân duyên, ngũ tạng không nóng. Vì lực điện trong mây, nước không diệt được. Nếu tánh nóng và lửa khác nhau, thì lửa chắc chẳng nóng. Nếu tánh nóng và lửa là một, thì sao còn gọi là nóng? Tánh lửa như thế, các Đại khác cũng vậy”.

Như thế, tánh chung và tánh riêng đều Không, nên gọi là Tánh Không. Lấy theo Lý ấy mà suy ra tánh của Đất, Nước, Lửa thì cũng như theo dòng mà thấu được nguồn: tất cả đều Không.

Chỗ chỉ bày của Đức Thế Tôn là: Từ cái Tánh mà phát ra Tướng, gọi là theo Nghiệp mà phát hiện, ứng với cái lượng của Sở Tri. Còn chỗ luận của Ngài Long Thắng là: Từ nơi Tướng mà thấu cùng đến cái Tánh, đặc biệt hiển bày cái Sắc Tâm chẳng hai vậy.

Cái kính Dương Toại cũng gọi là Ngũ Phương Chư. Sách Luận Hành chép: “Tháng Năm, ngày Bính Ngọ, giờ Ngọ làm đá Ngũ Phương tròn như cái gương, ở giữa trũng. Soi vật thì ảnh ngược, hướng về mặt trời thì có lửa”.

Thế gian chỉ biết bùi nhùi, kính với mặt trời: ba cái nhân duyên hòa hợp lại thì lửa sanh. Chẳng biết rằng kính, bùi nhùi cùng với mặt trời đều ở xa nhau, chẳng phải Hòa hợp nên chẳng phải là Nhân Duyên. Nếu nói bỗng nhiên tự có ra, thì đáng lẽ chẳng cần kính hướng vào mặt trời, thế nên cũng chẳng phải Tự Nhiên. Nếu nói cả ba cái, mỗi cái đều có tánh lửa, thì lẽ ra bùi nhùi phải tự cháy, kính phải tự chảy và chỗ ánh sáng mặt trời đi đến, như rừng cây phải bị cháy thiêu! Cả ba cái đều không có tánh lửa, đủ biết là Hỏa Tánh vốn Không. Nhưng vì cái sức nghiệp của ba cái mà lửa tùy theo nghiệp hiện ra. Thế mới biết, lửa có khắp thế gian là Tánh Không, nào có nơi chốn. Nên cọ xát cây thì có lửa, đập đá là có lửa. Tất cả đều theo nghiệp mà phát hiện, chẳng riêng ở một cái kính Dương Toại, đều từ trong cái Tánh Thanh Tịnh phát khởi ra. Ngay Tánh tức là lửa, nào mượn Nhân Duyên? Ngay lửa là Tánh, sao nói là Tự Nhiên? Thế nên, Hỏa Đại vốn chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên. Tánh lửa ấy bèn chính là Thật Tướng vậy.

Tổ Tuyết Phong nhóm lửa xong, bèn chỉ ngay ngọn lửa mà khai thị cho đại chúng: “Ba đời Chư Phật đang ở trong ngọn lửa chuyển Đại Pháp Luân”.

Tổ Vân Môn nói rằng: “Ngọn lửa là ba đời Chư Phật thuyết pháp. Ba đời Chư Phật lập tức nghe”.

Tổ Huyền Sa nói: “Gần đây lệnh vua khá nghiêm ngặt!”

Tổ Tuyết Phong nói: “Là làm sao?”

Tổ Sa nói: “Chẳng để cho trà trộn cướp đồ ngoài chợ!”

Tổ Tuyết Phong bèn le lưỡi.

Ngày nọ, Tổ Tào Sơn vào tăng đường hơ lửa.

Có vị sư nói: “Hôm nay lạnh thật”.

Tổ Sơn nói : “Nên biết có cái chẳng lạnh!”

Vị sư hỏi : “Ai là kẻ chẳng lạnh?”

Tổ Sơn gắp lửa mà chỉ đó.

Nhà sư nói : “Chớ nói là không có người”.

Tổ Sơn ném bỏ lửa xuống.

Nhà sư nói : “Con ở trong chỗ ấy chẳng hiểu được”.

Tổ Sơn nói : “Mặt trời soi đầm lạnh, sáng ngời lại sáng ngời”.

Cổ nhân gặp cảnh thì phát minh Một đường hướng thượng. Đó là Tánh lửa Chân Không, Tánh Không thật lửa, nơi ấy là chỗ thấu thoát chân thật.

Thiện Tâm
08-23-2015, 06:54 AM
Kinh:

“Anan, tánh Nước chẳng định : khi chảy, khi ngừng không có chừng. Như trong thành Thất La Phiệt, các ông Tiên Ca Tỳ La, Chước Ca La và các nhà đại huyễn thuật Bát Đầu Ma, Ha Tát Đa... muốn cầu tinh Thái Âm để hòa với các thuốc huyễn thuật, thì các ông ấy trong lúc mặt trăng tròn sáng, tay cầm hạt châu Phương Chư, hứng nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra hay ở trong hư không tự có hay từ mặt trăng đến?

“Anan, nếu từ mặt trăng đến, thì ở phương xa còn có thể làm hạt châu có ra nước, thì ánh sáng qua những rừng cây lẽ ra đều phải có chảy nước. Có chảy nước thì cần gì phải đợi hạt châu Phương Chư? Còn nếu không chảy nước thì biết là nước chẳng phải từ mặt trăng xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu thường phải chảy nước, sao lại phải đợi nửa đêm có mặt trăng sáng? Nếu do hư không mà sanh, thì hư không vô bờ bến, thì nước cũng không có giới hạn, vậy thì cõi người đến cõi trời đều phải chìm ngập, làm sao còn các loài? Ông hãy xét kỹ: mặt trăng từ trời chiếu xuống, hạt châu do tay cầm, còn cái mâm hứng nước thì do người xếp đặt, vậy nước kia từ phương nào mà chảy đến đây? Mặt trăng và hạt châu thì cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, chẳng lẽ nước kia không từ đâu mà tự có?

“Ông còn không biết rằng trong Như Lai Tạng, Tánh Thủy là Chân Không, Tánh Không là Chân Thủy, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng vừa với chỗ hay biết.

“Một chốn cầm châu thì một chốn có nước chảy ra. Khắp pháp giới cầm hạt châu thì khắp pháp giới nước sanh ra. Nước có khắp thế gian mà nào có nơi chốn, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là sự phân biệt, đo lường của thức tâm, chỉ là lời nói, danh tự toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng:

Châu Phương Chư còn gọi là Âm Toại, hình giống con sò. Chà cho nóng, để dưới ánh trăng sẽ sinh ra nước. Phương là đá, Chư là ngọc. Luyện nấu đá mà thành, làm vào tháng Một (Mười Một), ngày Nhâm Tý, giờ Tý.

Nước sinh ra ở hạt Phương Chư vốn chẳng phải do Hòa Hợp, chẳng phải là Tự Nhiên thì cũng giống như kính Dương Toại. Nhưng chỗ nói “Nếu do hư không mà sanh, thì hư không vô biên, nước cũng không giới hạn... làm sao còn các loài?” Chẳng phải là mâu thuẫn với chỗ Tánh Không Chân Thủy sao? Bởi vì, lấy Tướng mà luận thì có hình, nên nước đầy hư không mà làm đắm chìm cả. Nhưng lấy Tánh mà luận thì vô hình, nên hư không vô tận thì nước hiện ra cũng vô tận. Câu “Tánh Thủy Chân Không” này là chỉ về tánh của tứ Đại thanh tịnh mà nói. Tánh vốn là Không, Không Không tương dung, Không Không bất nhị làm gì thấy có lấn đoạt lẫn nhau?

Đoạn sau, chỗ nghi của Ông Phú Lâu Na là ở nơi Tánh mà nghi có sự lấn đoạt, chứ chẳng phải nghi ở nơi Tướng. Tướng thì chẳng tương dung, Thế Tôn đã nói trước rồi còn nghi gì nữa!

Tổ Dược Sơn hỏi vị sư : “Từ đâu tới?”

Đáp : “Ở Hồ Nam lại”.

Tổ Sơn hỏi : “Nước hồ Động Đình đầy chưa?”

Đáp : “Dạ, chưa”.

Tổ Sơn nói : “Mưa đã lâu, sao chưa đầy ?”

Vị sư không đáp được.

Tổ Đạo Ngô nói thay rằng : “Đầy rồi mà!”

Tổ Vân Nham nói : “Chỗ sâu xa!”

Tổ Động Sơn nói : “Trong kiếp nào mà từng có tăng, giảm?”

Tổ Vân Môn nói : “Chỉ ở trong ấy!”

Tổ Tuyết Phong nói : “Ngồi bên rá cơm mà đói chết vô số người. Ngồi bên biển nước, khát chết vô số người!”

Tổ Huyền Sa rằng : “Ngồi trong rá cơm, đói chết vô số người. Ngập đầu trong biển nước, khát chết vô số người!”

Tổ Vân Môn : “Suốt thân là cơm, suốt thân là nước”.

Tổ Thiên Đồng nêu ra: “Ta thì chẳng vậy, ngồi trong rá cơm, cái no làm chết vô số người. Ngập đầu trong biển nước, cái nê làm chết vô số người!”

Trước là cái họa vì chẳng nuốt vào. Sau là cái họa vì chẳng mửa ra. Chỉ như Ngài Vân Môn nói: Suốt thân là cơm, suốt thân là nước. Ở trong ấy thì không còn chỗ nuốt vào, mửa ra. Cổ nhân cử xướng cái tánh biển thật như sóng nước trùng trùng vô tận, đến Tổ Vân Môn : “Suốt thân là nước”, lời nói mới trọn thành. Cùng với “Tánh nước Chân Không, Tánh Không thật nước, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp giới”, thật là khế hợp. Do đó mà biết rằng lấy Ý Thức mà đo lường Tánh Không, Tánh Thủy thì biết kêu gào mấy cho vừa.

Thiện Tâm
08-23-2015, 07:06 AM
Kinh:

“Anan, tánh Gió không có tự thể, khi động khi tĩnh bất thường. Ông thường sửa áo, vào trong đại chúng, gấu áo Tăng Già Lê động đến người gần bên thì có chút gió phất qua mặt người kia. Gió đó là do gấu áo cà sa mà ra, từ hư không mà phát khởi hay do mặt người kia mà sanh?

“Anan, nếu gió ấy phát ra do gấu áo cà sa, thì ông đã mặc cả gió, cái áo phải bay tung rời khỏi thân ông. Nay ta thuyết pháp, rủ áo ở trong hội này, ông hãy xem cái áo của Ta, gió ở nơi đâu? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió?

“Nếu gió đó do hư không sanh ra, thì khi áo ông không động sao gió chẳng bay phất. Tánh của hư không thì thường còn, gió phải thường sanh ra. Còn khi không có gió, hư không phải diệt mất! Gió diệt có thể thấy được, hư không diệt thì có nghĩa gì? Bởi vì có sanh diệt, thì đâu có gọi là hư không? Còn đã gọi là hư không, thì gió ở đâu mà ra được?

“Nếu gió ấy sanh ra do cái mặt người bị phất, thì đã do mặt người ấy sanh ra, lẽ ra phải phất vào ông, sao tự ông sửa áo mà lại phất ngược vào người kia?

“Ông hãy xét kỹ: sửa áo là do nơi ông, mặt thuộc về người kia, hư không lặng yên chẳng hề lay động, thì gió từ phương nào phát động đến đây? Tánh của gió và của hư không cách biệt, chẳng có hòa, chẳng có hợp, không lẽ gió kia không do đâu mà tự có?

“Ông thật không rõ rằng: Trong Như Lai Tạng, Tánh Gió là Chân Không, Tánh Không là Thật Gió, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo chúng sanh mà ứng vừa với chỗ hay biết.

“Anan, như một mình ông hơi động cái áo thì có chút gió bay ra. Khắp pháp giới đều phất, thì khắp các quốc độ đều có gió. Phong Đại có ở cùng khắp thế gian mà không có nơi chốn, chỉ theo Nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là những phân biệt, đo lường của thức tâm, chỉ có lời nói, danh tự toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng:

“Ông tự sửa áo mà áo không bay mất. Cái mặt thuộc người kia mà gió chẳng phất ngược lại. Hư không lặng yên, chẳng theo gió mà có sanh có diệt”. Ba cái ấy chẳng can dự gì tánh lưu động của gió, thì cái gì mà cho là hòa hợp? Chẳng lẽ gió không đâu mà có ra, sao gọi là Tự Nhiên? Bởi vì Gió tức là Tánh, Tánh tức là Gió vậy. Chỉ theo nghiệp mà phát hiện ra, như áo động thì có gió sinh. Tánh cùng khắp pháp giới, thì gió cũng cùng khắp pháp giới, nên cùng gọi là Đại (lớn).

Nho gia nói Khôn là Đất, Khảm là Nước, Ly là Lửa. Tốn là Gió. Tất cả không ra ngoài Âm Dương. Âm Dương từ đâu sanh ra? Từ trong Động Tĩnh của Thái Cực sanh ra vậy. Mỗi vật đều đầy đủ một Thái Cực. Vạn vật đều suốt một thể Thái Cực. Chưa từng chẳng phải tức Lý là Sự, tức Sự là Lý. Nhưng mà ngộ Tâm là Thái Cực thì ít có thay! Đã ngộ Tâm là Thái Cực, dưới trời đâu có cái vật ở ngoài Tâm ư?

Tổ Ma Cốc đang quạt, có nhà sư hỏi: “Tánh của gió thường trụ, không nơi nào chẳng khắp, Hòa Thượng còn động quạt làm gì?”

Tổ Cốc nói: “Ông chỉ biết “Tánh gió thường trụ”, mà không biết chuyện không đâu chẳng khắp”.

Nhà sư nói: “Sao là không đâu chẳng khắp?”

Tổ Cốc lại phẩy quạt.

Nhà sư làm lễ.

Tổ Cốc nói: “Cái ông sư không có chỗ dùng, dẫu có ngàn ông thì có ích gì!”

Lại Tổ Nam Tuyền hỏi nhà sư : “Đêm qua gió mạnh, nhỉ?”

Nhà sư đáp: “Đêm qua gió mạnh”.

Tổ Tuyền nói: “Thổi gãy một cành tùng trước cửa!”

Sư nói: “Thổi gãy một cành tùng trước cửa”.

Tổ Nam Tuyền lại hỏi một nhà sư khác: “Đêm qua gió mạnh, nhỉ?”

Nhà sư nói : “Là ngọn gió nào?”

Tổ Tuyền nói : “Thổi gãy một cành tùng trước cửa!”

Nhà sư nói : “Là cây tùng nào?”

Tổ Tuyền nói : “Một được, một mất”.

Căn cứ vào chỗ đáp của hai vị tăng thì đều có hơi thở thiền tăng. Sao Ngài Nam Tuyền lại nói một được, một mất? Nếu định ngay ra được, mới cho là tự mình thấy Nam Tuyền.

Thiện Tâm
08-23-2015, 07:09 AM
Kinh:

“Anan, hư không không có hình, nhân sắc mà hiển ra. Như trong thành Thất La Phiệt là chỗ xa sông, những người dòng Sát Lỵ, dòng Bà La Môn, dòng Tỳ Xá, dòng Thủ Đà hay dòng Phả La Đọa, dòng Chiên Đà La... Khi dựng nhà mới thì đào giếng để lấy nước. Đào lên một thước đất, thì trong đó có một thước hư không, như vậy cho đến đào lên được một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư không. Hư không sâu hay cạn tùy theo đào lên nhiều hay ít. Hư không đó, do đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sanh?

“Anan, hư không đó không do gì mà tự sanh, thì trước khi chưa đào đất, sao chỗ ấy lại không trống rỗng, mà chỉ thấy là đất, chẳng có gì thông suốt. Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất được moi ra phải thấy có hư không vào. Nếu đất ra trước mà không thấy hư không vào, làm sao nói là hư không nhân đất mà ra? Còn nếu không ra, không vào thì hư không với đất vốn không khác nguyên nhân. Không khác tức là đồng, thì khi đất ra, hư không sao chẳng có ra? Nếu nhân đào mà ra, thì đào phải có ra hư không chớ chẳng phải ra đất. Nếu chẳng nhân đào mà có ra, khi tự đào thì ra đất, sao lại thấy hư không?

“Ông hãy xét xem, xét kỹ, xem kỹ: sự đào do từ tay người chuyển vận theo phương hướng, đất thì từ nơi mặt đất mà dời đi, như thế hư không nhân đâu mà có ra? Sự đào và hư không: một cái thật, một cái hư, không tác dụng gì với nhau, chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng lẽ hư không không do đâu mà tự có ra?

“Nếu hư không đó bản tánh tròn đầy toàn khắp, vốn chẳng hề lay động thì phải biết rằng hiện giờ ngay trước mặt đây: Hư Không và Địa, Thủy, Hỏa, Phong đều gọi là năm Đại, bản tánh vốn chân thật, viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.

“Anan, tâm ông mê muội, chẳng ngộ bốn Đại vốn là Như Lai Tạng. Phải nhìn ngay hư không là ra, là vào hay chẳng phải ra, vào. Ông hoàn toàn không biết trong Như Lai Tạng: Tánh Giác là Chân Không, Tánh Không là Chân Giác, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng với lượng hay biết.

“Anan, như một cái giếng trống không thì hư không có trong một cái giếng, mười phương hư không thì cũng như vậy. Không Đại tròn đầy khắp mười phương, thật không nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho đó là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là những phân biệt, đo lường của tâm thức, chỉ có lời nói, danh từ toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng:

Hư không chẳng có hình, sao có ra, vào? Chỉ bởi sắc hiện bày mà biết có hư không: có sắc thì chẳng phải là hư không, không có sắc tức là hư không. Sắc có đến, đi; hư không chẳng hề khởi, diệt. Khi tứ Đại diệt, hư không chẳng phải lúc ấy mới có. Bốn Đại có đến-đi, hư không vốn chẳng hề ra-vào. Tánh hư không tròn khắp cũng dễ hiểu, bốn Đại Chân Không cũng giống như vậy. Khi chưa tùy theo nghiệp thì thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, vốn chưa hề không có. Khi đã theo nghiệp phát hiện rồi, tùy cảm tùy ứng mà đầy khắp thế gian thì cũng không phải lúc ấy mới có. Tướng có sanh diệt, Tánh không sanh diệt. Có sanh diệt, thì chẳng có Toàn Khắp. Còn cái Toàn Khắp thì tự nó không có sanh diệt, gọi đó là Như Lai Tạng, không từ đâu đến, không đi về đâu, há lại có sanh tử ở trong ấy ư?

Nói về cái ngoan không [Cái Không phi lý luận của Tiểu Thừa và ngoại đạo]thì tuy không có ra vào, nhưng cũng là sanh diệt. Như sau này có nói “Hư Không sanh trong cái Đại Giác như một cái bọt sinh ra trong biển cả... Mười phương hư không cũng đều tiêu mất, chỉ duy cái Chân Không là Chân Giác vốn không sanh diệt”.

Ở bốn Đại trước thì nói Chân Sắc, Chân Hỏa, Chân Thủy, Chân Phong đều dùng chữ Chân. Sau thì nói “Bốn Đại thanh tịnh” là đều nói trong Tánh. Không giữ lấy Tướng, bèn là “Tánh Chân Thật, viên dung đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt”. Thật rành rành tự tánh Chân Thật mà nói. Nếu các tướng hữu tình, làm sao mà viên dung vô ngại ? Nói là Dung, thì “tức Sắc tức Không, tức Không tức Sắc”, chẳng hề thấy có dấu vết của ngũ Đại, duy chỉ thuần nhất một cái Không. Nói là Viên, thì “Không chẳng ngại Sắc, Sắc chẳng ngại Không”, ngũ Đại đắp đổi lẫn nhau, hiển xuất vô cùng mà chẳng rời Nhất Chân vậy.

Trước thì lấy tứ Đại mà dung hội Chân Không. Đây thì lấy Chân Không tan về Chân Giác. Rõ ràng cái gọi là Chân Không tức là Chân Giác, cái ngoan không làm sao so sánh được.

Thiền sư Hoàng Long Tổ Tâm thượng đường rằng : “Tâm đồng Hư Không giới, bình đẳng với Tánh Không. Chứng đắc Tánh Không bèn không có pháp nào phải, trái. Cứ như thế mà ngơi nghỉ. Dừng chèo, thả neo về bến đậu thuyền. Cứ theo như môn đệ của lão tăng thì trời đất cách riêng không dính. Nói thử môn đệ của lão tăng có chỗ nào kỳ đặc :

“Vác ngang ngọn lược chẳng đoái người

Thẳng vào ngàn muôn đỉnh núi đi”.

Lại có Ông Hồ Đinh Giao tham lễ Tổ Bửu Thọ.

Tổ hỏi : “Chẳng phải là Hồ Đinh Giao [Đinh Giao có nghĩa là đóng đinh. ] ư?”

Ông Hồ trả lời : “Không dám”.

Tổ Tho nói : “Có đóng được hư không chăng?”

Ông Hồ nói : “Xin Hòa Thượng đả phá cho!”

Tổ Thọ bèn đánh.

Ông Hồ chẳng kham được ý chỉ ấy.

Tổ Thọ nói : “Về sau sẽ có ông thầy lắm lời vì ông mà chỉ cho chỗ này”.

Sau, Ông Hồ đến tham Ngài Triệu Châu.

Tổ hỏi : “Chẳng phải là Hồ Đinh Giao ư?”

Ông Hồ nói : “Không dám”.

Tổ Châu hỏi : “Có đóng được hư không chăng?”

Ông Hồ đáp : “Xin Hòa Thượng đả phá cho!”

Tổ Châu nói : “Hãy đóng vào một đường giáp nối ấy!”

Ông Hồ bèn kể chuyện bị gậy của Tổ Bửu Thọ.

Rồi hỏi : “Không rõ lỗi ở chỗ nào?”

Tổ Châu nói : “Chỉ một đường giáp nối ấy còn chẳng biết làm sao, lại còn bảo người đả phá hư không!”

Nhân đó, Tổ nói thay : “Hãy đóng vào một đường giáp nối ấy!”

Tổ Châu lại nói : “Ta nói như thế thì đối cùng với Ông Bửu Thọ kia thật là ngàn dặm muôn dặm”.

Ông Hồ bèn có chỗ thức tỉnh.

Hợp hai tắc mà xét, thì chứng đắc hư không cũng chẳng đúng, mà đả phá hư không cũng chẳng đúng. Vậy, thế nào mà thoát thân? Tham đi!

Thiện Tâm
08-23-2015, 07:11 AM
Kinh :

“Anan, cái biết của Kiến Đại nhân Sắc Không mà có, ngoài ra là chẳng biết. Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng, chiều thì thấy tối. Đến lúc nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối. Những tướng sáng, tối ấy do cái Thấy phân tích ra. Cái Thấy ấy với cái tướng sáng, tối và cả hư không là đồng một thể hay chẳng đồng một thể? Hay vừa đồng vừa chẳng đồng, vừa khác vừa chẳng khác?

“Anan, nếu cái Thấy đó cùng với sáng, tối và hư không vốn là một thể, thì sáng và tối tiêu diệt lẫn nhau. Khi tối thì không sáng, khi sáng thì không tối. Nếu cái Thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng cái Thấy phải tiêu mất. Nếu cùng một thể với cái sáng, thì đến khi tối cái Thấy phải diệt. Làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối. Còn như sáng và tối khác nhau, cái Thấy thì không sanh diệt, thì làm sao đồng một thể được?

“Nếu cái Thấy đó không đồng một thể với cái sáng và cái tối thì lìa ngoài cái sáng, cái tối và hư không ông hãy phân tích cái Thấy có hình tướng gì? Lìa ngoài cái sáng, tối và hư không, cái Thấy đó cũng đồng là lông rùa, sừng thỏ. Nếu cả ba cái sáng, tối và hư không hoàn toàn khác nhau, thì đo đâu mà lập thành cái Thấy?

“Sáng và tối trái ngược lẫn nhau làm sao đồng được! Lìa ngoài ba cái sáng, tối và hư không, cái Thấy vốn chẳng có gì, thì làm sao khác được? Cái phần của hư không hay cái phần của cái Thấy vốn không bờ mé, sao lại chẳng đồng! Thấy cái tối, thấy cái sáng, tánh không dời đổi làm sao lại chẳng khác!

“Ông hãy xét kỹ, suy xét tinh vi, xem cho kỹ, thấy cho cùng: Sáng do mặt trời, tối từ đêm đen, thông thuộc về hư không, bít thuộc về đại địa, thì cái Thấy như thế nhân đâu mà có? Cái Thấy thì có biết, hư không thì vô tri, không phải hòa không phải hợp, chẳng lẽ cái Thấy không do đâu mà có?

“Như sự Thấy, Nghe, Hay, Biết tánh nó đầy đủ toàn khắp, vốn chẳng động lay. Nên phải biết: Kiến Đại cùng với hư không vô biên, bất động cùng vốn bốn Đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong có lay động đều gọi là sáu Đại, bản Tánh Chân Thật Viên Dung, đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.

“Anan, tánh ông trôi chìm, không ngộ cái Thấy, Nghe, Hay, Biết của ông vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy nhìn xem cái Thấy, Nghe, Hay, Biết này là sanh là diệt, là đồng là khác, là chẳng sanh diệt, là chẳng đồng, khác?

“Ông nào có biết, trong Như Lai Tạng cái Thấy là Tánh Minh Giác, Tánh Minh Giác hiển lộ ra thành cái Thấy, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng với lượng hay biết.

“Như một cái Căn Thấy thấy khắp Pháp Giới, thì cái Biết Nghe, Biết Ngửi, Biết Nếm, Biết Cảm Xúc, Biết các pháp đều là cái Diệu Đức sáng rỡ toàn khắp pháp giới, tròn đầy cả mười phương hư không, nào có riêng nơi chốn. Chỉ tùy nghiệp hiện bày, thế gian lại không biết lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều chỉ là sự phân biệt, đo lường của thức tâm : chỉ có danh tự, lời nói, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng :

Năm Đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không ở trước thì đủ cả sáu trần : Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp, gọi là Tướng Phần. Nay là sáu căn Thấy, Nghe, Hay và Biết cũng đều do bốn Đại trong sạch hợp thành. Phàm nhân có Sắc Không trước mắt, đối cảnh tức biết, chưa nhập vào sự phân biệt của năm Thức trước, đó gọi là Kiến Phần. Do đó, lấy Kiến Đại mà gồm chung.

Như một cái Căn Thấy thấy khắp pháp giới, thì cái Biết Nghe, Biết Ngửi, Biết Nếm, Biết Xúc, Biết Pháp cũng toàn khắp pháp giới, Diệu Đức rỡ ràng vậy. Sao đều gọi là Diệu ? Có Hình bèn là Thấy, có Tiếng là Nghe, chẳng gấp mà lẹ, chẳng đi mà đến, không do nghĩ toan, chẳng bởi xếp đặt nên gọi là Diệu.

Cái Kiến Đại này không có tự thể, chỉ nhân cảnh mà có. Cảnh trước mặt nếu không có, cái Thấy cũng chẳng sanh. Há có một thể hay nhiều thể để cùng cảnh mà lìa mà hợp, để có thể luận là đồng, là khác theo tứ cú ư ? Sự lập luận của tứ cú [Có, Không, vừa Có vừa Không, không Có không Không] đều là hý luận vậy.

Thế nên, sáng, tối, thông, bít thay nhau ở trước mắt cũng như Địa, Thủy, Hỏa, Phong thay nhau giữa hư không. Cảnh có sanh diệt, cái Thấy không sanh diệt. Cảnh có động lay, cái Thấy không hề lay động. Nó toàn khắp pháp giới, cùng hư không chẳng hai. Nhưng cái Thấy thì có hay biết, ngoan không thì vô tri chẳng thể hòa hợp. Cái Giác tức là Không, gọi là Chân Không. Cái ngoan không thì sanh diệt, Chân Không nào có sanh diệt. Cái ngoan không sanh diệt ở trong Tánh Chân Giác cũng như bốn Đại sanh diệt trong hư không. Hư không cùng bốn Đại không thể lấy sự sanh diệt, đồng khác mà luận. Thế thì Kiến Đại đối với Sắc Không sao có thể lấy sự sanh diệt, đồng khác mà xem thấy được ư?

Phàm nói là sanh diệt, đồng khác đều là thuộc về Vọng Trần. Phàm nói chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải đồng, chẳng phải khác đều thuộc về Vọng Kế. Chỉ ở nơi Cảnh mà phân biện, chẳng ở nơi Tánh mà phân minh : đó là hý luận. Nếu ở nơi Tánh mà phân biện, thì cái Thấy này duyên với Tánh Cảnh, như mặt trăng thứ hai, không lìa mặt trăng thật.

Tánh phát ra mà thành cái Thấy, tức là cái Chân Giác phát ra mà làm cái Sáng. Giác là cái Thể hằng sáng của cái Thấy. Cái Sáng là Dụng của cái Thấy. Như đèn có ánh sáng : đèn là cái Thể của sự chiếu sáng, ánh sáng là cái Dụng của sự chiếu sáng. Tức Thấy là Giác, tức Giác là Không. Vốn không nhiễm ô, nên nói là Thanh Tịnh. Vốn không tạo tác, nên nói là Bổn Nhiên. Vốn không nơi chốn, nên nói là Toàn Khắp.

Theo Tam Thân mà luận, thì Thanh Tịnh là Pháp Thân. Bổn Nhiên là Báo Thân, Toàn Khắp là Hóa Thân. Theo Ba Đức mà luận, Thanh Tịnh là Lý, Bổn Nhiên là Trí, Toàn Khắp là Hạnh. Hợp cả ba mà dung nhiếp thì đưa lên một tức cả ba, đưa lên ba tức là một. Khi chưa cảm ứng thì thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới, cái Thấy này không thể nói được là không. Khi có cảm ứng, Diệu Đức sáng rỡ, toàn khắp pháp giới, cái Thấy này chẳng vướng nơi có. Sáu Căn thanh tịnh, tròn đầy mười phương hư không, nên thấy trăm cõi Phật, thấy ngàn cõi Phật, thấy toàn khắp pháp giới, mới là tròn vẹn cái lượng thanh tịnh. Còn chẳng như thế, cũng ứng với cái chỗ thấy tiết hạn hẹp, chỉ theo nghiệp có hiện ra mà thôi.

Sau có nói “Ông phát minh ra theo cái Không, thì có cái hư không hiện. Địa, Thủy, Hỏa, Phong mỗi mỗi đều phát minh ra, thì mỗi mỗi đều hiện. Các cái ấy là các thứ ứng ra theo Sở Tri Lượng vậy”. Bỏ Giác mà hợp với Trần, thì phát sanh trần lao. Ngược Trần hợp Giác, thì thấy rõ Chân Như. Thế cũng là sự theo nghiệp phát hiện vậy. Cái Tánh Giác Minh không có sự làm, không có sự tạo, không có người nhận lãnh, nghiệp thiện nghiệp ác cũng đều dứt bặt. Cái Ấy, đó là Như Lai Tạng.

Ông Quan Cung Phụng là Hạo Nguyệt hỏi Tổ Trường Sa Cấm rằng: “Con trùn đứt làm hai đoạn, hai đầu đều cử động, chưa rõ Phật Tánh ở đầu nào?”

Tổ Sa nói : “Động và Bất Động, đó là cảnh giới nào?”

Ông Nguyệt nói : “Lời nói không liên quan đến kinh điển, chẳng phải là chỗ đàm luận của người Trí. Như lời Hòa Thượng nói : Động cùng Bất Động, đó là cảnh giới nào? Từ kinh nào mà đem ra vậy?”

Tổ Sa nói: “Hẳn nhiên, nói mà không có kinh điển chẳng phải là chỗ đàm luận của người Trí. Ông không thấy kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng “Phải biết mười phương vô biên bất động hư không, cùng với bốn Đại Đất, Nước, Lửa, Gió động lay kia đều gọi là sáu Đại, Tánh vốn Chân Thật, Viên Dung đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt” đó sao?”

Bèn khai thị một bài kệ:

“Rất sâu xa, rất sâu xa

Pháp giới, thân này ấy tức Tâm

Mê ấy, mê tâm làm các sắc

Ngộ thì cảnh cảnh chính Chân Tâm

Thân, cảnh hai trần không thực tướng

Thấu rõ chỗ này gọi tri âm”.

Tổ Trường Sa khéo thuyết Lăng Nghiêm, đến chỗ nói là căn thân và thế giới hai trần không thực tướng thì trong không thấy có Căn Năng Kiến, ngoài không có Cảnh Sở Kiến. Năng, Sở đều Không, tìm cái Thấy rốt là không thể đắc, còn chỗ nào để nói sanh diệt, đồng dị ư?

Thiện Tâm
08-23-2015, 07:13 AM
Kinh :

“Anan, tánh của Thức không có nguồn gốc, nhân nơi sáu thứ Căn và Trần mà hư vọng hiện ra. Nay ông hãy xem khắp Thánh chúng trong hội này, lấy con mắt lướt qua. Mắt ông trông khắp, chỉ như cái gương, không phân tích riêng biệt. Cái Thức của ông ở trong đó, lần lượt chỉ ra đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề, đây là Xá Lợi Phất. Cái Thức Nhận Biết ấy sanh ra do cái thấy, sanh ra do các tướng, do nơi hư không hay không nhân cái gì, bỗng nhiên mà hiện?

“Anan, nếu cái Thức của ông sanh ra do cái Thấy, thì như không có các tướng sáng, tối và Sắc Không thì không có cái Thấy của ông. Cái Thấy còn không có, do đâu mà có ra cái Thức? Nếu cái Thức của ông sanh ra do các tướng, chứ không do cái Thấy, thì không thấy được cái sáng cũng chẳng thấy được cái tối. Sáng tối đã không thấy thì cũng không có Sắc Không. Các tướng kia còn không có thì cái Thức do đâu mà phát sanh ? Nếu cái Thức ấy sanh do nơi hư không, không phải do tướng hay do cái Thấy, ngoài cái Thấy, thì không thể phân biệt, chẳng có thể tự biết được các tướng sáng, tối, sắc, không. Ngoài các tướng thì không còn các duyên, thì cái Thấy, Nghe, Hay, Biết do đâu mà thành lập. Cả hai thứ: cái Thấy và sắc trần đều chẳng phải, nếu là Không thì đồng với không có gì hết, còn nếu là Có thì cũng chẳng phải đồng với vật, dầu cho có phát ra cái Thức của ông, thì phân biệt cái gì?

“Nếu cái Thức không nhân gì mà bỗng nhiên phát ra, thì tại sao giữa trưa lại không riêng biết để có ra mặt trăng sáng?

“Ông hãy kỹ càng, suy xét chín chắn: cái Thấy gá vào mắt của ông, các tướng trả về cho trần cảnh, cái gì có thể hình trạng ra được thì mới thành Có, cái gì không hình tướng thì thành ra Không, còn cái Thức như thế do đâu mà ra? Cái Thức động, cái Thấy lặng yên, chẳng phải Hòa chẳng phải Hợp. Cho đến với các sự Nghe, Ngửi, Hay, Biết cũng đều như vậy. Không lẽ cái Thức không do đâu mà tự có ra?

“Nếu cái Thức đó vốn không do đâu, thì nên biết rằng: cái Thức Đại và cái Kiến Đại Thấy, Nghe, Hay, Biết tròn đầy, vắng lặng, bản tánh không do đâu mà có, cùng với hư không và Địa, Thủy, Hỏa, Phong đều gọi là bảy Đại, Tánh Chân Thật, Viên Dung đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.

“Anan, tâm ông thô phù, không ngộ được cái Thức hay biết các điều thấy, nghe vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy nhìn xem sáu cái Thức là do Đồng hay Khác, là Không hay Có, là không phải Đồng, Khác, hay không phải Không Có. Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng, cái Thức là Tánh Giác Minh. Tánh Giác Minh là Chân Thức, là cái Biết nhiệm mầu vắng lặng toàn khắp pháp giới, ngậm chứa và nhả ra mười phương hư không, nào có nơi chốn. Chỉ tùy theo nghiệp mà hiện bày ra, thế gian không biết lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên, đều là sự phân biệt, so lường của thức tâm: chỉ có lời nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.

Thông rằng:

Nói Đất, Nước, Lửa, Gió nương nơi hư không, là tánh năm Đại của thế giới, gọi là Tướng Phần. Nói Thấy, Nghe, Hay, Biết nương vào nơi Thức, là tánh năm Đại của Căn Thân, gọi là Kiến Phần. Kiến Phần và Tướng Phần đều từ Thức Thứ Tám sanh khởi, cho nên Thức Thứ Tám vắng lặng như nhiên, thì gọi đó là Diệu Giác, là Như Lai Tạng.

Nay lấy năm Thức trước làm Kiến Đại, đó là chỗ gọi Tánh Cảnh thuộc Hiện Lượng. Lấy Thức Thứ Sáu làm Thức Đại, đó là chỗ gọi Phân Biệt Sự Thức, thuộc về Tỷ Lượng hay Phi Lượng. Hàng Nhị Thừa vì không biết có Thức Thứ Bảy và Thức Thứ Tám, lấy cái này cho là chủ nhân ông, cho là gây ra nghiệp lành nghiệp dữ và nghiệp vô lậu. Thế nên, năm Thức trước thì không có phân biệt, đến Thức Thứ Sáu mới có thể phân biệt. Vậy nên ở đoạn kinh này có nói “Cái Thức thì động, cái Thấy thì lặng yên”. Đó chỉ là cái Thức này, chẳng sanh do cái Thấy, chẳng sanh từ các tướng, chẳng sanh do nơi hư không, chẳng phải Nhân Duyên sanh, chẳng phải không nguyên nhân mà bỗng nhiên tự có, chẳng phải Tự Nhiên sanh! Cái Thức Thứ Sáu này đủ cả ba tánh thiện, ác và vô ký với cái Kiến Đại của sáu căn ở trước mỗi cái đều có chủng tử và hiện hành, vốn chẳng phải Hòa, chẳng phải Hợp, cả ba cái ấy đồng là chẳng phải, rốt ráo là không chỗ nương. Thức này do từ đâu mà đến ư ? Nếu sanh từ nơi cái Thấy, sanh từ các Tướng, sanh nơi Hư Không thì đã có chỗ từ đó mà đến. Đã có chỗ từ đó mà đến, bèn có nơi chốn, thì chẳng toàn khắp. Chỉ là không từ đâu, không từ Không đến, không từ Có đến, tức là Tánh không có chỗ từ đâu : vốn không có bờ cõi, vốn tự tròn đầy, toàn khắp. Cho nên cái Phân Biệt Sự Thức này cùng với hai cái Kiến Phần và Tướng Phần đều gọi là Thất Đại. Thức này rốt là vắng lặng, tức là hợp với Thức Thứ Tám, gọi là Như Lai Tạng.

Nếu Thức Thứ Sáu hợp với Trần, tức là Đồng, là Có. Lìa khỏi Trần, tức là Khác, là Không. Chẳng phải Hợp, chẳng phải Lìa, không còn mảy dấu vết có thể tìm được, mới được gọi là vắng lặng, như nhiên. Cái Thức vắng lặng như nhiên này sao lại gọi là Tánh của Thức, là Thức Chân Thật? Vì từ cái Minh mà biết, chẳng phải từ Tình khởi ra. Cái Thức này từ trong Chân Tánh, Chân Giác mà lưu xuất, Thức bèn là Tánh vậy, Thức bèn là Giác vậy. Đó gọi là chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Cảnh Trí.

Cái Minh Tri của Tánh Thức này là Chân Thức của Tánh Giác Minh. Như sau có nói Diệu Minh, Minh Diệu, cũng gọi là Diệu Giác vắng lặng như nhiên, toàn khắp pháp giới. Sáu Đại trước thì gọi là thanh tịnh bản nhiên, chỉ có Đại này gọi là Diệu Giác Trạm Nhiên, xét với Đẳng Giác, Diệu Giác có chỗ phân biệt vi tế. Sáu Đại trước thì nói “Tròn đầy khắp mười phương”, như là nghĩa Xứng Tánh. Còn Thức Đại này thì nói “Ngậm chứa và nhả ra mười phương hư không”, như là nghĩa Phát Khởi”. Thức Tánh không có nguồn mà hay làm nguồn cho muôn pháp. Phàm ở trước nói là Như Lai Tạng đều quy về đây vậy.

Ở Không Đại thì nói “Tâm ông hôn mê”, vì mê bốn Đại và Hư Không khác nhau, vốn không biết Tánh của Hư Không là Giác.

Ở Kiến Đại thì nói “Tánh ông chìm đắm”, vì theo trần trôi chảy không quay trở lại, không biết Kiến Đại là Giác mà bất động.

Ở Thức Đại thì nói “Tâm ông thô phù”, tức là Thức tiềm tàng ở trong, phù là chỉ nhận phù căn, thô vì không đạt đến nguồn gốc của Thức.

Năm Ấm là thuộc về Mười Tám Giới, ở đây chỉ nói về Thức, vì trong Như Lai Tạng vốn chẳng sanh chẳng diệt, cùng hòa hợp với cái sanh diệt mà thành Thức A Lại Da. Nếu rốt ráo quay về cái Bất Sanh Bất Diệt, thì gọi là Thức Thứ Chín, tức Thức là Tánh vậy. Chẳng thể rốt ráo mà còn chút ít sanh diệt, thì tuy là lặng trong không sóng cũng chỉ là Thức mà chẳng phải Tánh. Người thấy Tánh thì chẳng mê nơi Thức, nên an trụ nhiệm mầu nơi cái Tâm Ngộ vậy.

Tổ Bửu Thọ thượng đường nói : “Tam giới Duy Tâm, vạn pháp Duy Thức. Ngoài hiên mây sanh, trước rèm mưa giọt, khe suối trong như lam, hoa đồng nở như gấm. Giờ đây mà chẳng xét căn nguyên. Trễ nải mai kia hỏi Di Lặc. Hiểu chăng? Đừng có đứng lâu cho mệt”.

Tổ Đơn Hà tụng rằng :

“Linh nhiên chẳng dính cổ hay kim

Tam giới đều trong một điểm Tâm

Ngoài hiên hoa đào, xuân bướm múa

Trước cửa dương liễu rực, oanh ca”.

Sách Duy Tâm Quyết nói rằng : Cây sườn núi trước sân mỗi mỗi đều trổi bày cái tướng nhiệm mầu của Vô Biên. Vượn hú, chim kêu đều cùng nhau phát lên tiếng vẹn tròn của Bất Nhị”.

Có ngộ được chỗ này mới tin được là khắp đại địa không có chỗ nào chẳng phải là thuốc, đâu chỉ ở trong Thất Đại mà thôi đâu? Chẳng được như thế, có nhập Lý, luận đàm sâu xa thì cũng đổi ra thành thuốc độc! Đâu phải chỉ có Nhân Duyên, Tự Nhiên mới là hý luận!

Có nhà sư hỏi Tổ Dược Sơn : “Chuyện mình chưa rõ, xin Hòa Thượng chỉ bày”.

Tổ Sơn nói : “Ta nay vì ông mà nói một câu thì cũng không khó. Chỉ như ông nay dưới lời nói mà thấy được thì còn có đôi chút rõ ràng. Còn nếu rơi vào suy lường, thì thành ra tội lỗi của ta. Chi bằng ai nấy ngậm miệng, khỏi làm lụy đến nhau”.

Thế, mới biết cái thức tâm đo lường mò mẫm thì với đạo ngày càng đi xa. Chỉ dùng lời nói thì chẳng phải là Thật Nghĩa.

Thiện Tâm
08-25-2015, 07:31 AM
III. ĐỐN NGỘ PHÁP THÂN VÀ PHÁT NGUYỆN


Kinh:

Lúc bấy giờ, Ông Anan và cả đại chúng nhờ Phật Như Lai vi diệu chỉ bày, thân tâm rỗng rang, không gì chướng ngại. Cả đại chúng ấy, mỗi người đều tự biết Tâm đầy khắp mười phương. Thấy mười phương hư không như xem chiếc lá trong bàn tay, tất cả thế gian, hết thảy vật gì cũng đều là Bồ Đề Diệu Minh Nguyên Tâm. Tâm Tánh tròn khắp, trùm chứa cả mười phương cõi nước. Nhìn trở lại cái thân cha mẹ sanh ra, như một hạt bụi trong hư không mười phương, như còn như mất. Như biển lớn lặng trong, nổi trôi một bọt nước, khởi diệt chẳng màng. Rõ ràng tự biết, vào được cái Tâm nhiệm mầu xưa nay, thường trụ bất diệt.

Được cái chưa từng có, bèn chấp tay lễ Phật, đối trước Như Lai, nói lên bài kệ xưng tán bậc Giác Ngộ.

Thông rằng:

Tâm Tánh tròn khắp, hết thảy mười phương đều bao trùm trong đó, Tâm Lượng rộng lớn vô biên, nên tự nó như thế. Cho đến thấy mười phương hư không như vật trong bàn tay, trong đó có cả Thân Chánh Báo và hết thảy vi trần, đó cũng mới là Hội Vọng Về Chân, dường còn cái Nhị Kiến. So với cái Thấy “Thân tâm nhất như, ngoài thân không vật” vẫn còn cách một sự xả bỏ [Nghĩa là có chi đâu mà buông bỏ] vậy.

Quan đại phu họ Lục hỏi Tổ Nam Tuyền rằng: “Ngài pháp sư Tăng Triệu thật là kỳ đặc, Ngài nói : Trời đất với ta đồng nguồn, vạn vật cùng ta một thể”.

Tổ Nam Tuyền chỉ cây mẫu đơn trước sân mà nói: “Này đại phu! Vậy mà người đời thấy cây hoa này như mộng ảo!”

Ông Lục hụt hẫng.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Thấy Nghe Hay Biết đều chẳng phải

Núi sông sao lại thấy trong gương

Trời sương trăng xế, đêm gần nửa

Ai soi bóng lạnh với đầm trong”.

(Văn kiến giác tri phi nhất nhất

Sơn hà bất tại cảnh trung quan

Sương thiên nguyệt lạc dạ tương bán

Thùy cọng trừng đàm chiếu ảnh hàn).

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Soi thấu, ngoài vi đấy cội nguồn

Xôn xao khởi diệt, thấy Diệu Môn

Thần chơi ngoài kiếp, gì là Có?

Để mắt nhìn ra, biết Diệu Tồn

Cọp rống ào ào hang núi vắng

Rồng ngâm muôn vẻ động mù mây

Nam Tuyền điểm phá người đời mộng

Biết đấy đường đường Bổ Xứ Tôn (Bổ Xứ Phật)”.

Cổ đức nói “Xứ xứ đều là Từ Thị [Di Lặc]. Cửa cửa đều có Thiện Tài”. Đây tức là : tất cả thế gian, mỗi mỗi sự vật đều là Bồ Đề Diệu Minh Nguyên Tâm. Ở đó mà biết được thì tự biết cái Thường Trụ Bất Diệt, mà tin hiểu mỗi mỗi bọt nước là toàn thể đại dương. Không thấy ở đâu có tướng khởi diệt, nên nói “Khởi diệt chẳng màng”.

Vua Thuận Tông nhà Đường hỏi Tổ Phật Quang Mãn: “Phật từ đâu mà đến, tịch diệt hướng về đâu mà lui? Đã nói thường trụ thế, thì nay Phật tại chốn nào?”

Tổ Mãn đáp: “Phật từ cái Vô Vi đi lại, tịch diệt hướng về cái Vô Vi lui về. Pháp Thân đồng hư không, thường trụ nơi Vô Tâm. Có niệm cũng là Vô Niệm, có trụ cũng là Vô Trụ. Đến, vì chúng sanh mà đến; đi vì chúng sanh mà đi. Biển Chân Như thanh tịnh, thể thường trụ vắng lặng như nhiên. Kẻ trí khéo tư duy, chớ sanh lòng lo nghĩ”.

Vua lại hỏi: “Phật hướng về cung vua mà sanh, diệt hướng về Song Lâm mà tịch, trụ thế bốn mươi chín năm, lại nói chẳng có pháp nào để thuyết. Núi, sông cùng biển lớn, trời đất cho đến trời trăng, đến thời đều diệt tận, ai nói được là không sống chết? Lòng nghi dường ấy, xin trí giả khéo phân biệt cho”.

Ngài đáp: “Thể Phật vốn Vô Vi, mê tình vọng phân biệt. Pháp Thân đồng hư không, chưa từng có sanh diệt. Có duyên, ấy là Phật xuất thế. Không duyên, ấy là Phật nhập diệt. Chốn chốn giáo hóa chúng sanh, cũng như trăng dưới nước. Chẳng phải Thường cũng chẳng phải Đoạn, chẳng phải Sanh cũng chẳng phải Diệt. Sanh cũng chẳng từng sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Rõ thấy chỗ Vô Tâm, tự nhiên không có pháp nào để nói”.

Vua rất đẹp lòng.

Tướng quốc Bùi Hưu ngày nọ vào chùa Khai Nguyên, thấy bức tranh trên vách, hỏi vị chủ chùa : “Cái ấy vẽ cái gì?”

Chủ chùa nói : “Vẽ cao tăng”.

Tướng Bùi nói : “Hình ảnh ở đó, cao tăng ở tại chỗ nào?”

Vị chủ chùa không đáp được.

Bùi Hưu nói : “Ở đây không có thiền sư sao?”

Chủ chùa nói : “Có một người”.

Bèn thỉnh Ngài Hoàng Bá đến gặp, và kể lại chuyện trước mà hỏi Ngài.

Tổ Bá gọi lớn : “Bùi Hưu!”

Ông Bùi ứng tiếng : “Dạ”.

Tổ Bá nói : “Ở tại chỗ nào?”

Bùi Hưu nghe xong có chỗ tỉnh ngộ.

Chỗ này đây có thể làm chứng cứ cho cái Thường Trụ Bất Diệt, nên chép vào.

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:01 AM
Kinh:

Diệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn

Thủ Lăng Nghiêm Vương đời ít có.

Thông rằng:

Ngài Định Lâm nói: “Cái Thức Tinh là Nước. Nước chẳng dao động thì gọi là Trạm, lặng trong. Nói là Viên Trạm [Vẹn toàn lặng trong], ấy là thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới chẳng chia làm sáu (sáu Thức), tức là Toàn Lặng vậy. Gọi là Diệu Trạm, vì đó là cái Diệu Lực Bất Động tổng trì tất cả, tức là cái Lặng Trong Nhiệm Mầu vậy”.

Nói Tánh Giác Trạm Minh, là Giác hợp với Thức Tinh, như mặt trời hợp với Nước mà có tánh trong sáng. Nói “Trạm Tinh Viên Thường” tức là Thức Tinh Toàn Lặng vậy.

Đã dứt hết sanh diệt, nói là Thường. Nhưng cái Trạm này không phải là không còn chảy, chỉ vì chảy nhanh quá mà nhìn thấy dường như đứng yên đấy thôi. Kinh nói “Cái Thức động, cái Thấy lặng yên”, nghĩa là Thức có tánh động, gọi là nguồn gốc các Tưởng. Thức tự nó chẳng phải là Diệu Trạm Tổng Trì nên niệm niệm chịu huân tập, tạo ra dòng tập khí chảy mạnh, thành ra các Hành. Trong kinh nói các Hành ví dụ như dòng nước, là theo như đây vậy. Nhưng Thức mà so với các Hành thì giống như đứng lặng, nên sau có nói “Lặng yên nhập vào lặng yên”, như sóng diệt thì thành nước lặng yên, mà gọi là Hành Ấm hết tận. Ở trong xa, lặng trong mà sáng tỏ, nhập mà không có chỗ nhập, là lãnh vực của Thức Ấm. Vậy thì nói Trạm Nhập, cái Trong Lặng nhập vào ấy, là Thức Ấm. Trạm Nhập là Thức Ấm, thì Trạm là cái Minh Tri của Tánh Thức. Cái Minh Tri là Trí. Thức nằm trong giới hạn của Trí. Nên nói đến năm Ấm thì nói là “Lặng yên nhập vào Lặng yên”, nghĩa là đưa về trong giới hạn của Thức. Tánh Thức thì không gọi là Trạm Nhập, mà toàn khắp pháp giới, không có xuất, không có nhập.

Chỗ gọi là “Nội Nội Trạm Minh, Nhập Vô Sở Nhập” là cái Trạm (lặng trong) xuất ra thì làm Hành Ấm, cái Hành như nước chảy. Trạm Nhập là Thức, cái Thức diệt hết Hành Ấm, thế là “sâu lại càng sâu, lặng yên trong sáng” cho đến nguồn căn của các Tưởng rốt không có chỗ Nhập (Vô Sở Nhập).

Cái gọi là Thức Tinh tức là A Đà Na Thức. Còn chỗ gọi là làm dính che cái Trạm [Niêm Trạm.], tức là làm dính che cái Thức Tinh này. Thức Tinh này như nước trong sạch, vốn không có tính dính, chỉ vì vọng khởi phân biệt, nên cùng với Sắc hiệp, cũng như nước hòa với đất thành ra sự dính. Nếu biết cái Thức Tinh ấy như nước trong sạch, vốn không có tính dính, thì không hợp với Sắc, thoát ra khỏi sự dán dính.

Trạm có Viên Trạm, Diệu Trạm, Giác Trạm và Tinh Trạm; có Trạm Nhập, có Niêm Trạm như các nghĩa nói ở trước, khác biệt rất ít, toàn là những cách ví dụ.

Ngài Mã Minh nói: “Vì y theo cái Bất Giác nên tâm động mà thành nghiệp. Tánh Giác thì bất động”. Phàm Tánh Giác là chẳng động, tức là cái “Diệu Trạm Tổng Trì” vậy. Động là nghiệp, trôi lăn mà thành các hành vậy. Gọi là Thủ Lăng Nghiêm Vương vì cái Định Thủ Lăng Nghiêm thì hàng Thập Địa thường trụ ở trong đó, nên Đức Phật là vua vậy.

Ngài Phó Đại Sĩ một hôm đang giảng kinh thì nhà vua đến. Đại chúng đều đứng dậy, chỉ có Ngài là ngồi yên chẳng động.

Cận thần báo rằng “Thánh Giá đến đây sao chẳng đứng lên?”

Ngài nói: “Pháp Địa nếu động, tất cả chẳng an!”

Như Đại Sĩ, quả là thật đắc Định Thủ Lăng Nghiêm vậy.

Có nhà sư hỏi thiền sư Khương Sơn Phương: “Thế nào là Bất Động Tôn?”

Tổ Phương nói : “Chỉ mặc một áo vải lót đi qua chợ”.

Nhà sư nói : “Kẻ học nhơn chưa hiểu”.

Tổ Phương nói : “Cưỡi lừa đạp phá Động Đình hồ”.

Nhà sư nói : “Thấu qua ba lớp sóng, ròng nghe một tiếng sấm”.

Tổ Phương nói : “Duỗi tay chẳng thấy bàn tay”.

Nhà sư : “Có cho phép kẻ học nhơn này tiến đến hay không?”

Tổ Phương nói : “Đạp trên đất mà rao bảo hư không”.

Nhà sư nói : “Dưới cửa sấm, đánh trống kêu gì?”

Tổ Phương nói : “Vào trong trái cầu thêu, chẳng dùng cờ ngũ sắc”.

Nhà sư nói : “Ba mươi năm sau, lời này sẽ thịnh hành”.

Tổ Phương bèn đánh.

Tổ Khương Sơn tự là người ở trong ấy, chẳng ngại theo dòng mà được Diệu. Nhà sư ấy nhận lầm phương hướng nên khó nói cùng nhau.

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:04 AM
Kinh :

Tiêu điên đảo tưởng trong ức kiếp,

Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân.

Thông rằng :

Ức kiếp thì còn có số để chỉ, còn a tăng kỳ là ba vô số kiếp. Từ vô thủy đến nay mê cái Chân mà nhận lấy Vọng, đều là cái thấy điên đảo. Nay đem Vọng về Chân, được cái Bản Tâm nhiệm mầu, thường trụ, bất diệt. Như ở trước nói Như Lai Tạng, tức là Pháp Thân vậy.

Có vị tăng hỏi Ngài Hoàng Bá : “Kinh dạy rằng : “Tiêu điên đảo tưởng trong ức kiếp. Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân”, là như thế nào?”

Tổ Bá nói : “Nếu lấy sự tu hành trong ba vô số kiếp để có chỗ chứng đắc, thì hết hằng hà sa số kiếp cũng chẳng được. Còn nếu trong một sát na mà được Pháp Thân, liền ngay thấy Tánh vậy. Đó cũng là chỗ nói rốt ráo của Tam Thừa. Vì sao thế? Vì, thấy có Pháp Thân để đắc, tức thuộc về giáo pháp bất liễu nghĩa”.

Tổ Hoàng Bá xuất lời, nhả khí thật là căn khí Đại Thừa.

Ông Anan đã được Pháp Thân sao lại còn nói “Mong được xét trừ lầm vi tế?” Vì ông còn thấy có Pháp Thân để được vậy.

Thượng Tọa Thái Nguyên Phu ban đầu giảng kinh Niết Bàn ở chùa Quang Hiếu tại Dương Châu. Có một thiền giả vì trời mưa tuyết nhân đó đến nghe kinh. Đến chỗ “Ba cái Nhân của Phật Tánh, ba cái Đức của Pháp Thân”, vị Thượng Tọa đang giảng rộng về diệu lý của Pháp Thân, thiền giả bật cười.

Giảng xong, Thượng Tọa mời thiền giả uống trà, rồi nói : “Chí tôi hẹp cạn, nên y theo văn mà giải nghĩa, bỗng nhờ gặp tiếng cười, xin được nghe chỉ dạy”.

Thiền giả nói : “Quả là tôi cười vì Tòa Chủ không biết Pháp Thân”.

Thầy Phu nói : “Giảng thuyết như thế, chỗ nào chẳng được đúng?”

Đáp : “Xin Tòa Chủ nói lại một lần nữa!”

Thầy Phu nói : “Cái Lý của Pháp Thân là giống như Thái Hư, dọc suốt ba thời, ngang khắp mười phương, điều hòa Bát Cực, bao gồm Âm Dương, tùy duyên cảm ứng, không đâu chẳng khắp”.

Thiền giả nói : “Tôi không nói Tòa Chủ giảng không đúng. Nhưng ấy là chỉ mới nói được chút ít cái lượng của Pháp Thân, mà quả thật chưa biết Pháp Thân ở đâu”.

Thầy Phu nói : “Đã như thế, xin thiền đức vì tôi mà nói”.

Thiền giả : “Tòa Chủ có tin không ?”

Thầy Phu nói : “Đâu dám chẳng tin”.

Thiền giả nói : “Nếu như thế thì Tòa Chủ tạm ngừng giảng vài ngày, ở trong tịnh thất an nhiên dứt nghỉ, thâu tâm nhiếp niệm, thiện ác các duyên một phen buông bỏ hết”.

Thầy Phu theo đúng lời dạy, từ đầu hôm đến canh năm, nghe tiếng mõ, hốt nhiên khế ngộ. Bèn chạy đến gõ cửa.

Thiền giả hỏi : “Ai đó?”

Thầy Phu đáp : “Dạ, tôi”.

Thiền giả la rằng : “Dạy ông gìn giữ đại giáo, thay Phật thuyết pháp sao nửa đêm lại say rượu nằm đường!”

Thầy Phu nói : “Thiền đức tự đến giảng kinh, đem cái lỗ mũi cha sanh mẹ đẻ của tôi ra mà vặn. Từ nay trở đi, chẳng dám lầm lỗi như vậy nữa”.

Thiền giả nói : “Đi đi, ngày sau gặp nhau”.

Như thầy Phu thật là “Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân”.

Có nhà sư hỏi Hòa Thượng Lợi Sơn : “Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân, xin thầy chỉ thẳng”.

Tổ Sơn nói : “Con nối nghiệp cha”.

Hỏi : “Làm sao lãnh hội ?”

Tổ Sơn nói : “Chê bỏ thì chẳng có lành (từ)”.

Hỏi : “Như thế thì đại chúng đã nhờ được rồi ?”

Tổ Sơn nói : “Đại chúng hãy để đó, thế nào là Pháp Thân?”

Nhà sư không đáp được.

Tổ Sơn nói : “Ông hỏi, ta nói cho”.

Nhà sư nói : “Thế nào là Pháp Thân?”

Tổ Sơn nói : “Hoa không, bóng nắng [“Không hoa, dương diệm”]”.

Thử nói xem chỗ nói Pháp Thân của Ngài Lợi Sơn so với Ông Anan xa gần thế nào?

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:05 AM
Kinh :

Nguyện nay đắc quả, thành Bảo Vương,

Về độ như thế, hằng sa chúng,

Thông rằng :

“Chẳng trải tăng kỳ được Pháp Thân”, thì Tín Vị là đúng mà Nhân Vị thì chưa phải. Cho nên, Hạnh tròn Quả mãn, thật chứng Chân Trí, như ngọc lưu ly thanh tịnh, ngậm chứa mặt trăng báu ở trong, mới đắc thành Bảo Vương. Lúc ấy, nhìn khắp tất cả chúng sanh đều có đức tướng Trí Huệ Như Lai, ta đều mỗi mỗi độ hết; chúng sanh vô tận, nguyện này vô tận, từ bi tròn đầy, trong ấy chẳng còn cái ta nữa. Thế mới là Phật, Pháp, Tăng, ba Thể quý báu, là cầu bến của chúng sanh vậy.

Ngài Động Sơn Sơ ban đầu ra mắt Tổ Vân Môn.

Tổ hỏi : “Mới rời chốn nào?”

Đáp : “Tra Độ”.

Tổ Môn nói : “Nhập hạ ở đâu?”

Đáp : “Chùa Báo Từ ở Hồ Nam”.

Tổ Môn nói : “Rời chỗ đó khi nào?”

Đáp : “Ngày Hai Mươi Lăm, tháng Tám”.

Tổ Môn nói : “Tha cho ông ba mươi gậy”.

Sáng hôm sau, Ngài Động Sơn lại đến, hỏi : “Hôm qua nhờ Hòa Thượng tha cho ba mươi gậy, không rõ có lỗi gì?”

Tổ Môn nói : “Đồ túi cơm! Giang Tây, Hồ Nam bèn thế ấy!”

Ngài Động Sơn ngay nơi lời nói đại ngộ, bèn nói: “Từ nay về sau hướng về chốn bặt không người, không khói, không giữ một hột cơm, không trồng một cọng rau, mà tiếp đãi hết ráo mười phương qua lại. Vì họ mà nhổ đinh tháo chốt, lột bỏ cái mũ thoa dầu, cởi ra cái áo lót hôi thúi, dạy y vĩnh viễn làm ông thầy tu vô sự, há chẳng khoái sao?”

Tổ Môn nói: “Thân ông chỉ lớn bằng trái dừa, sao há miệng lớn thế!”

Ngài Động Sơn bèn lễ bái.

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:07 AM
Kinh :

Nguyện đem toàn thể thâm tâm này,

Phụng sự cõi nước nhiều như bụi,

Thế mới gọi là báo Phật Ân,

Thông rằng:

Hai chữ “thâm tâm” này có cái mùi vị mà hạng thiển cận không thể đo lường nổi. Cõi nước nhiều như bụi, không có bến bờ, Trí Bi vô lượng, cùng với Phật đồng Tâm Từ, mới gọi là báo ơn vậy.

Ngài Lâm Tế từ giã Tổ Hoàng Bá.

Tổ hỏi : “Đi đến chốn nào?”

Ngài Lâm Tế đáp : “Không phải là Hà Nam, thì là Hà Bắc!”

Tổ Bá liền đánh. Ngài chụp lại rồi thoi một thoi.

Tổ Bá cười lớn, gọi thị giả: “Đem cây thiền bản trên bàn thờ của Tiên Sư Bá Trượng lại đây”.

Ngài Lâm Tế nói : “Thị giả, đem lửa lại đây!”

Tổ Bá nói : “Tuy nhiên như thế, ông hãy đem đi, về sau rồi ngồi trên đầu lưỡi của thiên hạ”.

Sau này, Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn: “Lâm Tế há chẳng cô phụ Hoàng Bá đấy ư ?”

Ngài Ngưỡng Sơn nói : “Không đâu”.

Tổ Quy nói : “Con lại còn cho làm sao?”

Ngài Ngưỡng Sơn nói : “Biết ơn mới biết trả ơn”.

Tổ Quy nói : “Xưa kia cổ nhơn có chuyện tương tự như thế không?”

Ngài Ngưỡng nói : “Có chứ, nhưng lâu xa quá nên không muốn nêu ra”.

Tổ nói : “Dầu như thế, ta không biết, con hãy nêu ra đi”.

Ngài nói : “Như ở hội Lăng Nghiêm, Anan tán thán Phật rằng: “Nguyện đem toàn thể thâm tâm này, phụng sự cõi nước nhiều như bụi. Thế mới gọi là báo Phật Ân”. Đó chẳng phải là việc báo ơn sao?”

Tổ Quy nói : “Thế đấy, thế đấy! Chỗ Thấy ngang Thầy, thì giảm một nửa Đức của Thầy. Chỗ Thấy hơn Thầy mới nên truyền thọ”.

Lại Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn : “Sau này Lâm Tế như thế nào?”

Ngài Ngưỡng Sơn đáp : “Khoảng giữa đất Ngô, đất Việt có một người, gặp gió lớn thì ngừng lại”.

Tổ Quy nói : “Vậy là thế nào?”

Ngài Ngưỡng nói : “Đem thâm tâm này hiến trần sát. Đó mới gọi là báo Phật Ân !”

Về sau, Ngài Phong Huyệt Chiểu đắc pháp với Ngài Thủ Sơn Niệm. Người ta cho đó là Ngưỡng Sơn trở lại.

Như Tổ Ngưỡng Sơn quả là có thâm tâm, thế nào lường được ư? Thế nào lường được ư?

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:09 AM
Kinh :

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho,

Ngũ trược ác thế, thề vào trước,

Thông rằng:

Năm Ấm chưa Không, thì Năm Trược khó phá, làm sao độ hết thảy khổ ách? Chỉ có bậc đắc quả, đã chứng pháp xuất thế gian nên chẳng ngại “Thõng tay vào chợ”, lấy Giác mà giác ngộ cho người. Chỗ nói “Đem thâm tâm này hiến trần sát”, tất trước dâng cho đời ác Năm Trược vậy. Cái Nghiệp của Ông Anan là cái Nguyện này. Ở quốc độ này, có Ngài Phó Đại Sĩ đủ sức đảm đương việc đó.

Đại Sĩ tên là Hấp, năm mười sáu tuổi cưới cô gái Diệu Quang nhà Lưu Thị, sanh hai con tên là Phổ Kiến và Phổ Thành. Năm hai mươi bốn tuổi bán vợ con mà làm hội cúng thí các loài dưới nước, trên cạn. Rảnh rỗi thì cùng người trong làng ngăn bờ bắt cá. Bắt được, nhận giỏ cá xuống sông, rồi chú nguyện cho: “Đi thì thả, ở thì giữ”. Ai cũng cho là khùng dại.

Gặp vị Đầu Đà người Ấn là Tăng Tung. Vị này nói: “Ta cùng ông đã phát nguyện ở chỗ Phật Tỳ Bà Thi. Nay y bát vẫn còn ở cung trời Đâu Suất, ngày nào ông trở về?”. Rồi bảo Ngài ra nơi nước nhìn bóng, thì thấy hào quang và lọng báu.

Ngài cười mà nói : “Nơi lò rèn còn nhiều sắt vụn, nơi cửa thầy thuốc có lắm bệnh nhân. Cứu đời là cần gấp, sao mà nghĩ đến cái vui kia?”

Vị Đầu Đà chỉ lên ngọn Tùng Sơn mà nói : “Chỗ ấy dừng ở được”.

Đại Sĩ tự mình cày ruộng ở đó. Có người trộm đậu, lúa, dưa, trái Ngài cho luôn giỏ để đựng.

Năm thứ hai đời Thiên Gia thị tịch, cảm ứng có bảy vị Phật cùng theo đưa, đức Thích Ca dẫn đầu, cuối là Ngài Duy Ma Cật. Đức Thích Ca nói mấy lời : “Làm Bổ Xứ cho Ta”.

Chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh thành Phật, Chánh Pháp Nhãn Tạng từ Đức Ca Diếp, Đức Anan truyền đến Tổ Đạt Ma là hai mươi tám đời. Cõi này tuy có kinh điển, nhưng chưa được nghe cái Tông Phong tối thượng. Thế mà Tổ Đạt Ma chưa tới, Ngài Đại Sĩ đã sanh, thế không phải là cái minh chứng cho việc Vào trước hay sao?

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:10 AM
Kinh :

Còn một chúng sanh chưa thành Phật,

Rốt chẳng nơi kia nhận Niết Bàn,

Thông rằng :

Vô lượng Chư Phật đời quá khứ độ thoát vô lượng chúng sanh. Đâu phải ai ai cũng thành Phật rồi, mà đã nhập Niết Bàn? Kinh Kim Cang nói: “Ta đều khiến nhập Niết Bàn Vô Dư mà diệt độ, kỳ thật không có chúng sanh được diệt độ”. Đến cảnh giới này thì không thấy có Phật để thành, có chúng sanh để độ, cũng không có Niết Bàn để nhập, mới là Chánh Kiến.

Có vị tăng hỏi Ngài Trung quốc sư : “Cái gì là Phật Tâm?”

Quốc sư nói : “Tường vách gạch ngói chính là đó”.

Tăng hỏi : “Rất trái với kinh vậy. Kinh Niết Bàn nói “Lìa ngoài vật vô tình tường vách, nên gọi là Phật Tánh”. Nay nói đó là Phật Tâm, chưa rõ Tâm và Tánh là khác hay chẳng khác?”

Ngài đáp : “Mê thì khác, ngộ tức chẳng khác”.

Tăng nói : “Kinh nói: Phật Tánh là thường, tâm là vô thường, nay nói chẳng khác nhau, là sao vậy?”

Ngài đáp : “Ông chỉ y vào lời nói, mà chẳng y vào nghĩa. Ví như tháng lạnh, nước kết thành băng. Đến khi trời ấm, băng tan thành nước. Khi chúng sanh mê, thì kết Tánh thành cái tâm. Khi chúng sanh ngộ, rã tan cái tâm thành Tánh. Nếu chấp rằng vô tình không có Phật Tánh, thì rốt ráo chẳng nói được Tam Giới Duy Tâm. Rõ ràng ông tự trái với kinh, ta nào có trái”.

Tăng nói : “Trong kinh giáo chỉ thấy nói hữu tình thành Phật, chẳng thấy có vô tình được thọ ký. Vả lại, ngàn Phật đời Hiền Kiếp có ai là Phật vô tình đâu?”

Ngài nói : “Như Hoàng Thái Tử khi chưa lên ngôi thì chỉ có một thân. Lên ngôi rồi, toàn quốc độ đều thuộc về vua, há có quốc độ riêng nhận ngôi vị ư? Nay khi chỉ có hữu tình được thọ ký làm Phật, thì mười phương quốc độ đều là thân Phật Tỳ Lô Giá Na, há lại có vô tình được thọ ký ư?”

Tăng nói : “Tất cả chúng sanh đều ở trên thân Phật, ỉa đái dơ lấm thân Phật, xoi đục dày đạp thân Phật, há chẳng có tội sao?”

Ngài nói : “Toàn thể chúng sanh là Phật thì còn ai làm tội?”

Tăng hỏi : “Kinh nói : Thân Phật không quái ngại, nay lấy vật hữu vi chướng ngại mà làm thân Phật, thế chẳng trái với Thánh chỉ ư ?”

Ngài nói : “Kinh Đại Phẩm nói : Không thể lìa hữu vi mà nói vô vi. Ông có tin Sắc là Không chăng?”

Tăng nói : “Lời chân thật của Phật sao dám chẳng tin”.

Ngài nói : “Sắc đã là Không, sao còn quái ngại?”

Tăng nói : “Chúng sanh vốn đồng Phật Tánh, thì chỉ cần một vị Phật tu hành, khi ấy hết thảy chúng sanh đều giải thoát. Nay đã không thế, thì nghĩa đồng ở đâu?”

Ngài nói : “Ông chẳng thấy Lục Tướng nghĩa Hoa Nghiêm nói rằng: trong cái Đồng có cái Khác, trong cái Khác có cái Đồng. Tướng Thành, Tướng Hoại, tướng Tổng, tướng Biệt mỗi mỗi đều như thế. Chúng sanh cùng Phật, tuy đồng một Tánh mà chẳng trở ngại mỗi mỗi tự tu tự đắc. Chưa từng thấy người ăn mà mình no. Lấy bọt nước và biển làm thí dụ. Một bọt nước đã tan mất thì toàn thể vẫn vốn là biển cả. Chưa hề thấy một bọt nước tan mà tất cả bọt đều tan. Nên trong cái Tánh ấy đâu có ngại gì mỗi người tự tu, mỗi người tự đắc”.

Đã ngộ khắp hết thảy đều là nước, thì có bọt nào mà không là nước? Chúng sanh chẳng phải là Phật đấy sao? Nếu thấy tất cả chúng sanh là Phật, thì bèn ở trong Niết Bàn.

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:13 AM
Kinh :

Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi,

Mong xét trừ cho lầm vi tế,

Thông rằng:

Đại Hùng [Hùng là con trống], vì bậc Thập Địa bên dưới là Thư, con mái. Đại Lực vì vượt quá Ngũ Lực. Cho sự vui là Từ. Cứu khỏi khổ gọi là Bi. Muốn khiến cho cái tâm kia thông suốt mới gọi được là Tự Tánh hiện bày, nên Anan hy vọng Thế Tôn xét trừ cho mê lầm vi tế. Đã được Pháp Thân, sao lại còn điều lầm?

Tổ Vân Môn nói : “Được ngay sự chạm mắt không vướng ngại, thấu được Danh Thân, Cú Thân tất cả các pháp đều Không, núi sông đất đai là Danh Thân, cũng là bất khả đắc. Gọi đó là Biển Tánh Tam Muội sẵn đủ, như biển không sóng gió. Được ngay sự quên thấy biết nơi cái Giác, Giác là Phật Tánh đó vậy. Gọi là người Vô Sự, nhưng cũng cần biết có một khiếu (lỗ) hướng thượng!”

Tổ Thiên Đồng nêu ra : “Khách, chủ không hòa, cả hai đều có lỗi. Mỗi bên đều cho hai mươi gậy. Còn một khiếu hướng thượng thì làm sao? Tê giác nhân xem trăng mà sừng sanh vằn. Voi bị sấm hoảng kinh mà hoa in vào ngà”.

Ngày khác, Tổ Vân Môn lại nói : “Ánh sáng không thấu thoát do có hai loại bệnh. Một là tất cả chỗ không sáng, trước mặt có vật. Hai là thấu suốt được tất cả pháp là Không, mà còn có cái mơ hồ tương tự như vật, đó cũng là ánh sáng không thấu thoát. Pháp Thân cũng có hai loại bệnh. Một là đến được Pháp Thân, nhưng vì pháp chấp chưa hết, cái Thấy của mình dường như còn, mà ngồi một bên Pháp Thân. Hai là tuy đã thấu được Pháp Thân mà bỏ đi chẳng được, kiểm điểm kỹ càng trở lại, có chút khí tức gì cũng là bệnh”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Um tùm muôn tượng khá chênh vênh

Thấu thoát không đâu ngại mắt mình

Quét sạch môn đình ai đủ sức?

Núp trong lồng ngực: tự thành Tình

Thuyền ngang bờ lục, màu thu biếc

Vào đám bông lau, tuyết sáng soi

Xâu sợi ông chài ôm đến chợ

Êm êm thuyền lá mặc buông trôi”.

Tổ Càn Phong nói: “Pháp Thân có ba thứ bệnh, hai thứ ánh sáng, sao Vân Môn lại thiếu đi một thứ?” Các nơi đều nói: “Chưa đến thì chạy quàng. Đến rồi thì bám riết. Thấu thoát không chỗ nương. Đó là ba. Thế là trước thiếu một thứ”. Phật Nhãn nói: “Cỡi lừa tìm lừa, là một. Cỡi lừa rồi chẳng chịu xuống, đó là hai”. Thế là sau còn thiếu một thứ”.

Các tôn túc bàn luận ba thứ bệnh của Pháp Thân, vi tế đến như thế. Đâu có liên quan gì đến kinh giáo ư?

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:15 AM
Kinh:

Khiến tôi sớm lên Vô Thượng Giác,

Nơi mười phương cõi ngồi Đạo Tràng,

Thông rằng:

Vô Thượng Giác ấy tức là một khiếu hướng thượng vậy. So với ở trước “Được Pháp Thân và đắc quả”, thì có sai khác ư ? Không sai khác ư ? Chỗ có thể nói là Phật Quả thì có bảy; Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Phật Tánh, A Ma La Thức, Không Như Lai Tạng và Đại Viên Cảnh Trí.

Ngộ Bồ Đề, thấy Phật Tánh có thể nói là được Pháp Thân. Sau khi thấy Tánh, xét trừ mê lầm vi tế khiến sanh diệt, diệt sanh đều vắng lặng, cùng hợp với Niết Bàn, Chân Như. Trong trắng thuần sạch, hợp cùng A Ma La Thức. Rỗng suốt tròn soi, hợp cùng Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí. Như thế mới có thể gọi là đắc quả, nhưng chưa có thể gọi là lên Vô Thượng Giác.

Xem một chữ Sớm (Tảo[Linh ngã tảo đăng Vô Thượng Giác]) là pháp môn Đốn Ngộ, một hiểu được thì trăm thành ra ngay, không nhờ tu hành thứ bậc, chẳng kể phàm phu hay Thập Địa, ai ai cũng có thể lên.

Đức Phật nói rằng: “Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm mật phó cho Ông Ca Diếp”. Nào có dấu vết tăm hơi gì khá được ư? Đây tức là Vô Thượng Giác vậy. Một lần lên cái Giác này là đến địa vị Phật, bèn ở mười phương cõi ngồi tòa sen báu, vì chúng sanh thuyết pháp. Long Nữ còn như vậy, huống là bực đệ tử Thanh Văn ư?

Ngài Dược Sơn ở với Đức Mã Tổ ba năm.

Đức Mã Tổ hỏi : “Gần đây chỗ thấy của ông ra sao?”

Ngài Sơn nói : “Da dẻ rơi rụng sạch, chỉ còn một cái Chơn Thật”.

Đức Mã Tổ nói : “Chỗ được của ông khá gọi là hợp với Tâm Thể, trải khắp tay chân. Đã như thế thì đem ba miếng cật tre bó giữ da bụng, tùy chỗ mà trụ sơn [Dạy chúng] đi”.

Ngài thưa : “Tôi là người nào mà dám nói chuyện trụ sơn?”

Đức Mã Tổ nói : “Chẳng phải thế đâu. Chưa hề có đi mãi mà không đứng lại. Chưa hề có dừng mãi mà không đi. Muốn ích mà không có chỗ ích, muốn làm mà không có chỗ làm, nên làm thuyền bè, không nên dừng lâu ở đây”.

Ngài Đức Sơn đến Tổ Quy Sơn, kẹp một cái áo lót lên nhà giảng, từ Tây sang Đông, từ Đông sang Tây quay nhìn Tổ Quy Sơn mà nói: “Có chăng?”

Tổ Quy Sơn cứ ngồi, không để ý đến.

Ngài Đức Sơn nói: “Không, không!”

Rồi bỏ đi ra.

(Ngài Tuyết Đậu chú rằng: “Khám phá xong rồi!”)

Ngài Đức Sơn ra đến cửa, bèn nói: “Tuy là như thế, cũng chẳng được buông tuồng”.

Rồi đầy đủ oai nghi, trở vào tương kiến. Vừa qua khỏi cửa, đưa lên cái tọa cụ, nói: “Hòa Thượng!”

Tổ Quy Sơn định lấy cây phất tử. Ngài bèn hét, phất tay áo mà đi ra.

(Ngài Tuyết Đậu chú thêm: “Khám phá xong rồi!”)

Tổ Quy Sơn đến tối hỏi Thủ Tọa: “Cái ông mới đến ngày hôm nay có đây không?”

Thủ Tọa nói : “Ngay khi ra khỏi nhà giảng thì mang dép cỏ đi luôn rồi”.

Tổ Quy Sơn nói : “Ông ấy về sau lên đỉnh núi đơn độc chót vót kết thảo am, la Phật mắng Tổ đó”.

Ngài Tuyết Đậu chú rằng : “Trên tuyết lại thêm sương!”

Rồi tụng rằng :

“Một khám phá, hai khám phá!

Trên tuyết thêm sương, thêm hiểm họa

Tướng quân bay ngựa vào triều giặc

Về được hoàn toàn có mấy ai?

Mau chạy qua, chẳng bỏ qua!

Trên đỉnh cô phong, ngồi am cỏ

Ối!”.

Thêm một chữ “Ối” này là ngón nghề kỳ đặc của Ngài Tuyết Đậu. Chẳng lên Vô Thượng Giác khó mà hiểu nổi.

Thiện Tâm
08-25-2015, 09:18 AM
Kinh :

Tánh hư không còn có thể tiêu,

Tâm Kim Cang không hề động chuyển,

Thông rằng :

Thuấn Nhã Đa [Dịch nghiã là Không Tánh, cái thật thể của hư không] (Sũnyata) là Hư Không; Thước Ca Ra [Theo Tạp Danh, Cakravãda (Thước Ca Ra) Là tên núi Thiết Vi Sơn. Theo Tạp Ngữ, Cakra (Thước Kiết), dịch là Kim Cang, luân, tinh tấn. Trường Thủy Sớ: Thước Ca Ra nói rằng kiên cố chẳng hư nát vậy](Cakravãda) là kiên cố như Kim Cang. Câu này xưa nói “Tánh Hư Không vô thể còn có thể tiêu vong. Tâm kiên cố của tôi rốt ráo không động chuyển”. Tựa như Ông Anan phát nguyện như vậy. Đã nguyện “Đắc quả thành Bảo Vương”, sao lại có nguyện này? Đã “Lên Vô Thượng Giác tọa Đạo Tràng”, sao lại khăng khăng “Không động chuyển”?

Câu này vốn chẳng có lầm, phải cần biết cái yếu chỉ quy về. Đó là “Diệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn. Thủ Lăng Nghiêm Vương đời ít có”, nói ở trước.

Sao nói là Diệu Trạm ? Vì, tuy Lặng Trong Bất Động, mà chẳng bám giữ hư không, nên mới gọi là Diệu. Nếu trụ bám Hư Không mà cho là bất động, thì rốt cuộc chẳng phải “Cả thảy rốt ráo kiên cố”. Ý Ông Anan là : dù mười phương ngồi Đạo Tràng, cũng không trụ bám Pháp Thân Hư Không, nên Chánh Pháp Nhãn Tạng rốt ráo kiên cố. Cũng như nói “Thủ Lăng Nghiêm Vương, Diệu Trạm Bất Động” vậy. Đầu đuôi ứng nhau, lý thú còn lâu dài mãi.

Cổ đức nói : “Dài là Pháp Thân dài, ngắn là Pháp Thân ngắn”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Thử nói xem: Thuấn Nhã Đa sao lại gọi đó là Pháp Thân ?”

Ngài im lặng một lúc rồi nói: “Có hiểu không? Không thể nối dài con le le mà cắt chân con hạc, phá hòn núi để lấp cái lỗ hang!”

Lời nói này chính là vì sợ người ta hướng về trong hư không mà đóng chết ở trong đó.

Tổ Sơ Sơn thượng đường, nói: “Bệnh tăng rõ hết trước năm (niên tiền), thì hiểu được chuyện bên phía Pháp Thân. Rõ hết sau năm (niên hậu) thì hiểu được chuyện hướng thượng của Pháp Thân”.

Ngài Vân Môn bước ra, hỏi: “Thế nào là chuyện bên phía Pháp Thân?”

Tổ Sơn nói: “Cây Xuân [Cây Xuân là một loại cây sống đến mấy ngàn năm] khô”.

Hỏi : “Thế nào là chuyện hướng thượng của Pháp Thân?”

Tổ Sơn nói : “Chẳng phải cây Xuân khô!”

Hỏi : “Có cho phép tôi nói đạo lý không?”

Tổ Sơn nói : “Cho”.

Ngài Vân Môn nói: “Cây Xuân khô há chẳng phải tỏ rõ cái chuyện bên phía Pháp Thân sao?”

Tổ Sơn nói: “Đúng vậy”.

Ngài Vân Môn nói: “Chẳng phải cây Xuân khô” há chẳng phải tỏ rõ chỗ hướng thượng của Pháp Thân sao?”

Tổ Sơn nói : “Đúng vậy”.

Ngài Vân Môn nói : “Như thế Pháp Thân bao trùm tất cả phải không?”

Tổ Sơn nói : “Pháp Thân toàn khắp, sao chẳng trùm hết?”

Ngài Vân Môn chỉ cái tịnh bình, nói : “Như thế cái tịnh bình có bao trùm Pháp Thân không?”

Tổ Sơn nói : “Xà Lê chớ hướng về một bên tịnh bình tìm kiếm!”

Ngài Vân Môn bèn lễ bái.

Rõ ràng chỉ ra “Chẳng phải cây Xuân khô” là một con đường sống. Chỉ là cái “Chẳng phải cây Xuân khô” này, chánh thật hợp với ý chỉ “Tánh hư không còn có thể tiêu” vậy.

Ngài Tào Sơn ban đầu ra mắt Tổ Động Sơn.

Tổ Động Sơn nói : “Thầy Xà Lê tên gì ?”

Ngài đáp : “Bổn Tịch”.

Tổ Động Sơn nói : “Hình dạng gì ?”

Ngài đáp : “Chẳng gọi là Bổn Tịch”.

Tổ Động Sơn nói : “Rất là pháp khí vậy”.

Từ đó, được nhập thất, trải qua mấy năm mới xin đi. Tổ Động Sơn mới mật truyền cho “Bảo Cảnh Tam Muội”, lại hỏi : “Ông hướng chỗ nào đi?”

Ngài Tào Sơn đáp : “Đi vào chỗ chẳng hề thay đổi”.

Tổ nói : “Chỗ chẳng hề thay đổi lại có đi ư ?”

Ngài nói : “Đi cũng chẳng thay đổi!”

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Nhà nhà cửa đóng, ánh trăng soi

Chốn chốn oanh kêu dương liễu rung

Nếu bảo tung hoành không đổi khác

Cũng như quăng kiếm chém hư không”.

Tổ Tào Sơn, Chánh Thiên kiêm đới [Sự Lý viên dung], có thể nói là được con mắt kim cang. Như định nhìn nhận chỗ không thay đổi, dường vẫn còn cây kiếm. Ôi, vi tế, nhỉ!

Thiện Tâm
08-26-2015, 08:44 AM
MỤC TÁM: CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG VÀ TÁNH GIÁC TOÀN VẸN


I. ÔNG MÃN TỪ TRÌNH BÀY CHỖ NGHI

Kinh:

Lúc bấy giờ, Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, gối phải chấm dất, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn oai đức lớn, khéo vì chúng sanh diễn bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của Như Lai. Đức Thế Tôn thường cho rằng trong những người thuyết pháp, tôi là thứ nhất. Nay tôi nghe pháp âm vi diệu của Như Lai, cũng như người điếc, cách ngoài trăm thước, nghe tiếng muỗi mòng vốn đã không thấy, huống là được nghe. Phật tuy tuyên bố rõ ràng, muốn khiến tôi trừ mê lầm, nhưng tôi còn chưa rõ nghĩa rốt ráo, vào chỗ không còn nghi hoặc.

“Bạch Thế Tôn, như các Ông Anan, tuy nghe mà ngộ, nhưng tập khí hữu lậu chưa trừ hết, còn bọn chúng tôi, là những người lên bậc Vô Lậu, tuy sạch hết các lậu, nay nghe pháp âm của Như Lai diễn nói, vẫn còn mắc những điều nghi hối.

“Bạch Thế Tôn, nếu như tất cả Căn, Trần, Xứ, Giới... của thế gian, đều là Như Lai Tạng, thanh tịnh bản nhiên sao bỗng dưng sanh ra có núi sông, đất đai, các tướng hữu vi theo nhau dời đổi, hết rồi lại có?

“Lại Đức Như Lai còn nói rằng đất nước, lửa gió, tánh vốn viên dung, toàn khắp pháp giới, lặng trong thường trụ. Bạch Thế Tôn, như tánh của Địa Đại là khắp cả, làm sao mà dung được Thủy Đại? Tánh nước là toàn khắp, thì Hỏa Đại chắc chẳng sanh, làm sao lại phát minh hai tánh Thủy Đại và Hỏa Đại đều khắp cả Hư Không, không xâm lấn tiêu diệt lẫn nhau? Bạch Thế Tôn, tánh của Địa Đại là ngăn ngại, tánh của Hư Không là rỗng suốt, làm sao cả hai Đại ấy đều toàn khắp pháp giới?

“Nay tôi không biết nghĩa ấy do đâu, xin Đức Như Lai ban bố lòng đại từ, vén mây mê lầm cho tôi cùng hết thảy trong đại chúng”.

Ông Mãn Từ nói thế xong, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng của Như Lai.

Thông rằng:

Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh là Đệ Nhất Nghĩa Đế, viên dung vi diệu, cốt yếu ở chỗ Tâm Ngộ. Người ngộ rồi, đưa ra không gì là chẳng phải, chỗ chỗ dùng chẳng có nghi nan, một phen vượt lên liền đứng vào, nào mượn công lao huân tập? Như nhóm các Ông Anan, tập khí hữu lậu chưa trừ hết, đã phá các điều mê lầm thô, mà mê lầm vi tế hãy còn. Các vị đã lên hàng Vô Lậu ở trong hội chúng, thì tuy đoạn hết Phiền Não Chướng, mà Sở Tri Chướng vẫn còn, mắc ở trong địa vị có tu tập, làm sao lãnh ngộ cái Đệ Nhất Nghĩa Đế Tối Thượng?

Các tướng kia là hư vọng, vốn tự chẳng sanh mà nay nghi là có sanh. Bốn đại trong sạch như ngọc Ma Ni, tùy phương mà hiện sắc, tựa hồ có xanh vàng đỏ trắng mà vốn là không có. Thế mà nay nghi rằng chúng xâm lấn nhau! Chẳng phải là Ông Phú Lầu Na chấp lấy tướng để vấn nạn cái Tánh, mà thật ra, ông ở trong Bản Tánh viên dung lặng trong thường trụ mà sanh nghi. Cái “Nghiệp” của ông là đã lên bậc vô lậu, ở trong vô lậu ấy mới chỉ thấy cái Lặng Trong (Trạm) mà chưa thấy cái Lặng Trong Nhiệm Mầu (Diệu Trạm) của nó, mới chỉ thấy cái Trụ, mà chưa thấy được cái Vô Trụ của nó.

Tổ Triệu Châu nói : “Người ta thì khó thấy mà dễ biết, ta ở trong ấy thì dễ thấy mà khó biết”. Đây là chỗ kinh nói “Cũng như người điếc, cách ngoài trăm thước, nghe tiếng muỗi mòng”, đâu phải là lời hư dối ư?

Pháp Sư Trường Thủy Tuyền hỏi Hòa Thượng Lang Nha Giác: “Thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa?”

Tổ Giác nói: “Thanh tịnh bỗng nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa?”

Thầy Tuyền ở nơi đó tỉnh ngộ.

Hãy nói, như thế là có trả lời câu ấy hay không trả lời câu ấy? Nếu bảo là có trả lời, thì hiểu đạo lý ấy làm sao? Nếu bảo không trả lời, thì sao lại tỉnh ngộ?

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Thấy có, chẳng có

Ngửa tay, úp tay

Cái người trong núi Lang Nha ấy

Chẳng có rớt sau Đức Cù Đàm”.

Lại có nhà sư hỏi Tổ Thiều Quốc Sư : “Hết thảy núi sông đại địa từ đâu mà dấy ra?

Tổ Thiều nói : “Câu hỏi này từ đâu mà tới?”

Thật là mổ bụng khoét tim!

Thiện Tâm
08-26-2015, 08:56 AM
II. VÔ MINH ĐẦU TIÊN

Kinh:

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ông Phú Lâu Na và các vị A La Hán Vô Học hết lậu trong hội này rằng: “Ngày nay Như Lai vì khắp hội này, ở trong thắng nghĩa, hiển bày cái Tánh Chân Thắng Nghĩa. Khiến cho ở trong hội, những hàng định tánh Thanh Văn cùng hết thảy các vị A La Hán, chưa đắc hai pháp Ngã Không và Pháp Không, phát tâm hướng về Thượng Thừa đều được chỗ tu hành chân thật là Nhất Thừa Tịch Diệt, một vị thuần chân. Ông nay nghe kỹ, Ta hiện vì ông mà nói”.

Các Ông Phú Lâu Na kính vâng pháp âm Phật, yên lặng lắng nghe.

Phật dạy: “Phú Lầu Na! Theo như ông nói, thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông, đại địa? Ông chẳng thường nghe Như Lai tuyên thuyết “Tánh Giác diệu minh, Bản Giác minh diệu” sao?”

Ông Phú Lầu Na thưa: “Bạch Thế Tôn, thế đấy, tôi thường nghe Phật tuyên thuyết nghĩa ấy.”

Thông rằng:

Như Lai Tạng là Thắng Đế Đệ Nhất Nghĩa, ở đây nói là Tánh Chân Thắng Nghĩa. Tức là chỉ thẳng cái nguồn gốc sanh khởi ra núi sông, đất đai, khiến cho người ở ngay nơi nguyên đầu mà thấu suốt, lập tức liền tự thấy Tánh.

Hàng định tánh Thanh Văn tuy không còn rộn tạp, nhưng đó là cái tịch diệt chưa chân thật, vì chưa chứng các pháp vốn tự tịch diệt. Bậc A La Hán, tuy đắc Ngã Không mà chưa đắc Pháp Không, mê đắm vào Không Tịch, chưa thể hướng về Thượng Thừa. Thế nên, đến đây đều được Nhất Thừa, chẳng còn Thừa nào khác, nhập Phật Tri Kiến, mới là chỗ chánh tu hành vậy.

Nơi Tánh Giác thì nói Diệu Minh, vì cái Thể ấy vốn tự nhiệm mầu (Diệu) mà hằng sáng (Minh), chẳng do cái nào khác mà sáng. Nơi Bản Giác thì nói là Minh Diệu, vì do lực huân tu bất tư nghì mà rõ biết Tánh Giác nhiệm mầu vậy. Tức là Diệu mà Minh, chẳng có chút Vô Minh nào. Tức là Minh mà Diệu, thì chẳng ngừng trụ nơi cái Minh. Chính đó là chỗ Tâm Vương bày lộ rõ ràng. Còn như cái Giác Minh (A Lại Da) bèn rơi vào Tình Thức, lìa Giác liền là Vô Minh, làm sao nói rằng Diệu? Nên ở sau, kinh nói: “Cái Giác Minh là lầm lỗi”.

Tổ Triệu Châu thượng đường nói: “Đạo lớn không khó. Chỉ lìa chọn lựa. Vừa có lời nói là rơi vào chọn lựa, là minh bạch! Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, vậy các ông có che chở, thương tiếc cho không?”

Khi ấy có nhà sư hỏi: “Đã chẳng ở trong minh bạch, thì che chở thương tiếc cái gì?”

Tổ Châu nói: “Ta cũng không biết”.

Nhà sư nói: “Hòa Thượng đã không biết, sao lại nói chẳng ở trong minh bạch?”

Tổ Châu nói: “Chỗ hỏi được đó, lễ bái mà lui đi!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Tột Đạo không khó, mối đầu ngôn ngữ

Một: có nhiều thứ; hai : không riêng khác

Giữa không, mặt trời lên mặt trăng lặn

Trước vách, nước lạnh, núi sâu.

Sọ khô Thức tận, vui đâu lập?

Cây khô rồng ngâm, chưa hết khô

Khó, khó!

Chọn lựa minh bạch ông tự xem!”.

Ngài Triệu Châu nói “Chẳng ở trong minh bạch”, đó là cái cảnh giới thuần túy Diệu Minh của Ngài. Lại dạy người che chở thương xót là thông cho biết chút ít tin tức của cái Minh Diệu đó.

Nhà sư trộm thấy lối đường của Ngài Triệu Châu, muốn cùng Ngài trùng trùng mở rõ, bèn hỏi “Đã không ở trong minh bạch, thì che chở thương tiếc cái gì?” Tổ Châu nói “Ta cũng không biết”, lộ bày cái Minh Diệu rỡ ràng!

Lại hỏi, “Hòa thượng đã không biết, sao lại nói chẳng có ở trong minh bạch?”, thật là cái Diệu Minh rành rành vậy.

Tổ Triệu Châu rất ưng ý vị tăng có ít nhiều thấy biết, chỗ hỏi đều thông suốt, nên dạy “Lễ bái rồi lui”.

Trước sau, vị tăng đều không ở trong minh bạch, thì còn nói chọn lựa gì!

Ngài Tuyết Đậu muốn cùng Ngài Triệu Châu đổi vấn đề, tức là cần chọn lựa, cần minh bạch!

Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán có nói “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”.

Tổ Triệu Châu bèn nói: “Vừa có ngữ ngôn, đã là chọn lựa, đã là minh bạch, chính là sợ người ta rơi vào ngôn thuyết mà thành nghĩa thứ hai”.

Nếu là người thấy rõ suốt thì lời nói cũng không trở ngại, nên Ngài Tuyết Đậu nói “Đầu mối của ngôn, đầu mối của ngữ”. Còn nếu lìa ngôn ngữ, mà về ở một nơi, thì thật là “Cây khô trước hang núi có nhiều lối lạc, nên có nhiều thứ”. Như thấy được mỗi mỗi đều là đạo, thì tuy ngôn ngữ chi ly cũng không có hai thứ. Nên nói “Trên trời mặt trời, mặt trăng, trước hiên nước lạnh”, đều là một Cái Ấy, dao búa chẻ không ra. Đến chỗ này thì phân biệt, trò vui của Ýù Thức đều hết sạch, đó là rồng ngâm trong cây khô, hồn nhiên là một cái Diệu Minh Chân Tế. Há dễ đến được ư, nên nói “Khó, khó!”. Nếu còn chút vui mừng, còn chút Ý Thức, thì gọi là “Chưa khô ráo hết”, đó còn là cái dụng sự của Giác Minh. Bởi thế mới nói: “Ánh sáng chiếu mắt tợ người mê. Minh bạch chuyển thân địa vị thối đọa”. Như thế thì không có chọn lựa, không minh bạch sao? Nói “Ông tự xem”, chính là muốn xét định cái chọn lựa này, cái minh bạch này có cùng với cái Chí Đạo tương đương hay không?

Đức Tam Tổ nói: “Chỉ không thương ghét, suốt nhiên minh bạch!”

Tổ Triệu Châu nói: “Chẳng ở trong minh bạch”.

Ngài Tuyết Đậu nói: “Chọn lựa, minh bạch, ông tự xem!”

Lời nói mỗi người mỗi khác, mà thật là đồng. Tham!

Thiện Tâm
08-26-2015, 08:58 AM
Kinh:

Phật bảo: “Ông gọi là Giác Minh, vì Bản Tánh của nó là Minh, nên gọi là Giác. Hay vì cái Giác ấy chẳng Minh, mà gọi là Minh Giác?”

Phú Lâu Na thưa: “Nếu cái ấy mà chẳng có Minh, mà gọi là Giác, thì không Minh chỗ nào cả (Vô Sở Minh)”.

Phật dạy: “Nếu không có chỗ nào để Minh, thì cũng không có cái Minh Giác. Có chỗ thì không phải là cái Giác, không có chỗ thì cũng không có cái Minh. Không có Minh lại chẳng phải là cái Tánh Giác trong lặng sáng suốt. Vậy Tánh Giác vốn là Minh, vọng tưởng mà cho là cái Minh Giác.

Thông rằng:

Một chữ Diệu là chỗ tự bí nhiệm của Phật. Ngắt bỏ ra chữ Diệu, mà chỉ luận cái Giác Minh, thì dù cho có mười năm phân giải cũng chẳng xong! Vì Tánh Thể vốn là Minh, tức là rỡ rỡ ràng ràng thế, mà gọi là Giác, thì lọt vào giới hạn của Minh, hóa ra Giác Thể có mờ tối, có chỗ chẳng Minh! Còn nếu thêm vào một chữ Minh, gọi đó là Minh Giác, thì lọt vào giới hạn của chẳng Minh! Hai bên đều là chông gai, vậy thế nào là con đường thoát thân?

Ông Phú Lâu Na dù có giỏi thuyết pháp đi chăng nữa cũng đâu có thể lấy cái không có chỗ để Minh (Vô Sở Minh) mà gọi là Giác được. Thế nên ông mới nói cái thể chẳng Minh ấy mà gọi là Giác, thì đã không có cái Năng Minh, tức cũng không có cái Sở Minh. Rõ ràng là Tánh Thể vốn là Minh mới có thể gọi là Giác. Cái Minh mà đã có chỗ (Sở), bèn là bỏ Giác mà hiệp trần, thì quá cách xa với cái Diệu của Tánh Giác vốn lìa thoát khỏi trần rồi vậy. Nếu thấy được cái Diệu của nó, thì hiểu rõ Như Lai nói “Tánh Giác Diệu Minh”, tức là Diệu mà Minh, chứ chẳng phải chẳng Minh! Còn Bổn Giác Minh Diệu, tức là Minh mà Diệu, thì đâu cần phải có Minh nữa! Chẳng phải Minh chẳng phải bất Minh, lìa hai lối phải và chẳng phải ấy, mới gọi là Tánh Giác.

Đức Thế Tôn vì thấy Ông Phú Lâu Na chưa hiểu thấu chỗ này, nên dạy: “Nếu theo lời ông, thì có chỗ Minh (Sở Minh), mới gọi là Minh Giác, nếu không có chỗ nào để Minh (Vô Sở Minh) thì không có Minh Giác, thì hóa ra Tánh Giác do Minh hay chẳng Minh mà còn hay mất ư? Ông há không biết Chân Giác là độc lập, lìa xa Năng, Sở đó sao?” Nếu cái Minh mà có chỗ, thì đã lìa ngoài địa vị Giác, không thể gọi là Giác nữa. Nếu cho cái Giác không có chỗ, rồi bày ra đèn đuốc mà soi, thì không thể gọi là Minh được nữa. Nếu tất cả chẳng Minh, thì đó là vô ký, chẳng phải là Tánh Chân Giác Trạm Minh. Tánh Giác Trạm Minh không cần có Minh mà không đâu chẳng là Minh. Cái ngoan không kia làm sao sánh được! Cái Tánh Giác nhậm vận biết khắp, tất nhiên là Minh. Nhưng nếu chấp chặt phải là Minh, liền vọng sanh phân biệt, tính toán bám níu không dứt, bèn trở thành cái Minh Giác. Cái Giác mà còn phải Minh, thì chẳng phải là Diệu Minh vậy. Có sở hay không có sở, rốt vẫn chưa lìa sở. Không có Minh hay phải có Minh, toàn chẳng có lìa năng. Cái Diệu của Tánh Giác, há có thể như vậy sao?

Ngài Triệu Châu hỏi Tổ Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?”

Tổ Nam Tuyền nói: “Bình thường tâm, đó là đạo”

Ngài Triệu Châu hỏi: “Lại có thể noi theo chăng?”

Tổ Tuyền nói: “Định hướng về là đã sai!”

Hỏi: “Không nghĩ suy được thì sao biết đó là đạo?”

Đáp: “Đạo chẳng phải biết, chẳng phải không biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu tỏ suốt cái đạo vốn chẳng có sự nghi ngờ, thì tròn khắp như thái hư, rỗng nhiên trống trải, sao còn có chuyện phải trái ư?”

Ngài Triệu Châu ngay dưới lời nói mà khế ngộ.

Như hai Ngài Nam Tuyền, Triệu Châu mới có diệu giải được như vậy. Tiếc cho Ngài Phú Lâu Na, còn nằm trong lý chướng, chưa khỏi chuyện hướng về đầu thứ hai (nghĩa thứ hai) mà phân giải!

Thiện Tâm
08-27-2015, 04:55 PM
III. NGUYÊN NHÂN VỌNG THẤY CÓ THẾ GIỚI

Kinh:

“Cái Giác không có gì là Sở Minh, thế mà nhân Minh lập nên cái sở. Cái Sở đã vọng lập nên, thì sanh khởi ra cái Vọng Năng [Cái Năng dối trá] của ông. Trong cái vốn không đồng, không khác bỗng khởi dậy thành có cái khác. Khác với cái khác đã có, nhân cái khác ấy mà lập nên cái đồng. Cái Đồng, cái Khác đã phát minh ra, thì nhân đó mới lập ra lại cái không đồng không khác!

“Như thế mà rối loạn, đối đãi với nhau mà sanh lao nhọc. Lao lự kéo dài sanh ra trần tướng mà làm vẩn đục nhau, do đó mà dẫn khởi ra những trần lao, phiền não. Khởi lên thì có ra thế giới, yên lặng thì thành hư không. Hư không là Đồng, thế giới là Khác. Dầu là không đồng, không khác cũng vẫn là pháp hữu vi.

Thông rằng :

Tánh Giác Trạm Minh, bất động toàn khắp, nào có chốn nơi. Đã chẳng sa vào nơi, chốn tức là không Đồng-Khác. Cái không Đồng-Khác này, chính là Pháp Vô Vi Chân Thật vậy.

Đức Mã Minh nói: “Nếu nói Tâm có động, thì chẳng phải là hiểu biết rốt ráo”.

Động còn không có, huống là có cái Sở ư? Vừa một niệm vọng động, liền nhận lấy cái Minh mà lập nên cái Sở. Sở lập thì Chân Giác ẩn mất. Cái Sở vọng lập nên, là do phân biệt mà gọi là Sở. Cái phân biệt đó là Năng. Cái bị phân biệt là Sở, thì cái hay phân biệt là Năng. Năng, Sở đã lập nên, thì cái Đồng, cái Khác bèn hiện hình, vì Năng tức là khác Sở, Sở tức là khác Năng. Vốn là một Chân Giác, vốn không Đồng-Khác, mà hốt nhiên thành Khác. Như thế đó, chỉ vì nhân cái Minh mà lập cái Sở vậy. Mà đâu chỉ có thành ra cái Khác mà thôi đâu! Muốn khác với tướng Khác ấy, lại lập nên cái tên Đồng. Ở trong động, thì có cái Khác, còn tịnh thì chỉ cho là Đồng. Khác ấy, là Khác với cái Giác không đồng, không khác. Đồng ấy, là Đồng với cái Giác không đồng, không khác. Ở trong đó mà phát minh ra, thì cho là Khác mà lại có Đồng, cho là Đồng mà lại có Khác. Bèn nhân đó mà lập thêm cái không Đồng, không Khác. Do cái Chẳng Sanh, Chẳng Diệt hòa hiệp cùng cái Sanh Diệt, mà thành Thức A Lại Da.

Vốn chẳng phải là một, chẳng phải khác. Thế mà cho là Đồng, thì năm Thức liền nắm quyền đối Cảnh, Thức Thứ Sáu hay phân biệt, Thức Thứ Bảy nhiễm ô. Cho là Khác, thì năm Thức bèn là Tướng Phần, Thức Thứ Sáu không có Tướng Phần nên chẳng lập được, Thức Thứ Bảy không có phân biệt nên chẳng có. Cái không Đồng không Khác này cũng toàn là Thức, so với cái không Đồng-Khác trước kia không do lập mà có, đó là Chân Tánh chẳng sanh chẳng diệt. Cái không Đồng, không Khác sau này là do lập ra, bèn là chủng tử sanh diệt. Trong ấy độc chỉ có cái bóng dáng của Năng-Sở, Đồng-Khác, mà thành cái phôi thai của nghiệp quả thế giới và chúng sanh. Thế nên có tướng Đồng, có tướng Khác, có tướng không Đồng, không Khác. Rối loạn lên như vậy, Năng Sở đối nhau, Đồng và Khác cùng thành hình, chẳng được thanh tịnh, mà có ra tướng Lao Nhọc. Tướng lao nhọc là Vô Minh. Lao nhọc kéo dài phát ra Trần Tướng, tự làm vẩn đục nhau.

Trộn lẫn lầm lộn Chân Tánh, gọi là “vẩn”, làm nhiễm cái thể thanh tịnh, gọi là “đục”. Từ đó mà dẫn khởi ra phiền não, trần lao, hai cái Kiến Hoặc và Tư Hoặc.

Do phiền não biến ra hai thứ Y Báo, Chánh Báo. Động là thế giới, tĩnh thành hư không. Hư Không là chỗ ở, trước đã nói “Nhân cái Khác lập nên cái Đồng”, tuy không có Năng và Sở, cũng là ngoan không. Thế giới là chỗ trên nói “Khởi lên mà thành cái Khác”. Động là Thể của “Thế”, Khác là Thể của “Giới”, có Năng có Sở thuần là cảnh động. Cái có Đồng có Khác là chỉ thế giới Y Báo, là dấu vết thô phù hữu vi. Còn chúng sinh Chánh Báo, vì có Tâm Tánh nên chẳng phải như cái “Khác” của thế giới, và vì có Sắc Tướng, nên chẳng phải như cái “Đồng” của hư không. Nhưng cái Sở thì có Sanh Diệt, cái Năng thì không Sanh Diệt. Rốt ráo thì cái Năng cũng là Sanh Diệt. Dù lìa cả Năng và Sở để đến chỗ không Sanh Diệt, không Đồng, không Khác, thì cũng đều là pháp hữu vi.

Cái Thức, vì có phân biệt nên là hữu vi. Cái Trí, không phân biệt nên là vô vi. Hữu vi, nên có các tướng hữu vi là nghiệp quả. Vô vi, tức là không có các tướng hữu vi nên không có nghiệp quả. Núi sông, đất đai vốn chẳng tự sanh, chỉ nhân Minh lập nên Sở, theo Vọng mà thấy có vậy.

Có nhà sư hỏi thiền sư Vân Cư Ứng : “Núi sông đại địa do đâu mà có?”

Tổ Ứng nói : “Do vọng tưởng có”.

Nhà sư nói : “Thầy tưởng ra cho tôi một nén vàng được không?”

Tổ Ứng bèn im lặng bỏ đi. Nhà sư không chịu.

Sau này, Tổ Vân Môn nói rằng: “Đã là dây leo chùm gởi, chẳng có thể chặt đứt nối lại được. Hãy đợi y nói “Tưởng ra một nén vàng được không?”, thì cầm gậy mà đánh!”

Đây là cỡ tác dụng nào?

Nên Tổ Vân Môn lấy cây trụ trượng dạy chúng rằng: “Cây gậy hóa thành con rồng, nuốt hết càn khôn. Núi sông đất đai còn chỗ nào được nữa?”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Cây trụ trượng, nuốt càn khôn

Nói gì chuyện bôn ba ở lãng Đào Hoa [Chỗ cá thi làm rồng]

Thành rồng (đốt đuôi [Cá hóa rồng ắt có sấm sét đốt cái đuôi. Ý nói tuyệt hậu sanh]) đâu phải kéo mây, làm mù!

Thi rớt nào phải vỡ mật kinh hồn

Nêu ra rồi, nghe chẳng nghe!

Ngay đây sừng sững lỗi lạc

Thôi đi trăm mối phân vân

Bảy mươi hai gậy nhẹ tha cho

Trăm năm mươi gậy khó tha ông

Sư vội chụp cây gậy xuống tòa

Đại chúng đồng nhau chạy tứ tán!”.

Ở chỗ này mà thấu triệt thì không chỉ là núi sông vẫn như xưa, mà cái Giác Minh cũng chẳng có chỗ ló đầu ra!

Thiện Tâm
08-27-2015, 04:57 PM
Kinh:

“Cái Giác Minh và cái Hư Không vô tri đối đãi nhau thành ra có lay động, cho nên hóa ra phong luân nắm giữ thế giới. Do cái Hư Không mà sanh lay động, phát minh ra tánh cứng thì thành sự ngăn ngại, các thứ Kim quý đều từ Minh Giác lập nên tính cứng, cho nên có Kim luân mang giử cõi nước. Giác Minh thành tính cứng, thì thành có Kim quý, rồi lay động mà thành ra Gió. Gió và Kim cọ xát nhau, nên có Hỏa đại làm tánh biến hoá. Lửa bốc lên, Kim quý sanh ra tánh ướt, mà có Thủy luân trùm khắp mười phương cõi. Lửa bốc lên, Nước sa xuống, giao nhau phát nên tính cứng, chỗ ướt là biển lớn, chỗ khô là gò nổi. Do nghĩa ấy, trong biển lớn kia, hơi nóng thường bốc lên, trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế Nước kém thế Lửa, thì kết thành núi cao, bởi thế đá núi, đập vào thì xẹt Lửa, nung thì chảy ra Nước. Thế Đất kém thế Nước, nẩy ra làm cỏ cây, cho nên rừng rú đốt thì thành Đất, vắt ra thành Nước.

“Các thứ hư vọng đóù giao nhau mà phát sanh, thay đổi làm chủng tử cho nhau. Do nhân duyên ấy, thế giới tiếp tục lẫn nhau.

Thông rằng:

Thanh tịnh bổn nhiên, sao bỗng dưng sanh núi sông đại địa? Trước kia, năm Đại: Đất, Nước, Lửa, Gió và Không đều là Như Lai Tạng, thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới, theo nghiệp mà phát hiện, nào có nơi chốn? Sự có ra của chúng là do nghiệp lực của chúng sanh. Nghiệp lực của chúng sanh là do Vô Minh từ lúc ban đầu, mất đi cái Tánh Giác Diệu Trạm Tổng Trì, một niệm bỗng khởi động. Cái Giác đã lìa cái Không mà sanh ra Minh, thì Không cũng lìa Giác mà sanh Muội [Mê mờ]. Cái Giác Minh phát sanh ra Thức. Thức Tinh ở cái chỗ trong lặng chẳng động lay là Nước. Cái Không Muội kết thành Sắc, là Đất vậy. Đối đãi nhau thành ra lay động, thành Gió, thành Nước, do Đất khắc Nước mà sanh ra Mộc. Do Thổ của Không Muội lay động mà sanh ra Mộc, thì cái Giác Minh không lay động bèn thành cứng ngại, tức là Mộc khắc Thổ mà sanh Kim. Kim cùng Mộc hợp sanh Hỏa, nên nói: “Phong và Kim chà xát nhau mà có ra Hỏa”. Hỏa cùng Kim hợp sanh Thủy, nên nói: “Ngọn lửa bốc lên, nên có ra Thủy luân”. Thủy và Hỏa hợp sanh Thổ, Hỏa bốc lên, Thủy chảy xuống mà sanh ra biển cả, đất liền. Thổ cùng Thủy hợp, lại sanh ra Mộc; Thổ yếu Thủy mạnh, nên thảo mộc tươi tốt. Tốn là Gió, là Mộc; Phong là tánh của Mộc. Trước đã nói là đối đãi thành ra lay động nên có Phong Luân, thì mới có tánh của Mộc. Đến khi “nảy ra làm cây cỏ” thì Mộc mới rõ ràng có hình tướng.

Ngũ hành lấy sự sinh khắc làm vợ chồng, lấy tương sanh làm cha con. Con do mẹ sanh, ấy là cha yếu; sau đó âm dương hòa, sinh ra con. Con sanh mà khí của cha mẹ vẫn còn, nên đá núi có thể xẹt ra lửa, có thể chảy ra nước. Ấy là do Thủy khắc Hỏa mà thành. Cây cỏ có thể thành Đất, có thể thành Nước, là do Thổ khắc Thủy mà thành vậy. Suy theo đó thì vạn vật đều là như vậy cả. Tôi thường lấy Kinh Dịch so sánh: như hợp với các chi tiết. Mới tin rằng Thánh đời trước với đời sau, cái Đạo là một thôi vậy.

Cái Giác Minh phát sinh ra cái Thức, là nguồn gốc lặng lẽ tối sơ, đó là nghĩa Trời sanh Thủy trước hết vậy. Thủy sanh ra Mộc của Chấn, Tốn ở phương Đông. Mộc sanh ra Ly Hỏa ở phương Nam. Hỏa sanh Khôn Thổ ở Tây Nam. Thổ sanh Đoài Kim ở phương Tây. Mà Càn Kim ở Tây Bắc lại sanh Khảm Thủy ở phương Bắc. Như chiếc vòng không đầu mối, tiếp nối làm chủng tử cho nhau, nên Kinh Dịch nói: Đế xuất ra ở Chấn, tề ở Tốn. Chấn là Động, Tốn là Gió, chẳng phải là cái ý chỉ đối đãi nhau mà sanh động lay ư? Chấn là Mộc, Đoài là Kim, Đông Tây đối nhau mà làm vợ chồng, Hỏa ở nơi đó mà sanh ra, thế chẳng phải là ý chỉ Phong Kim cọ xát nhau ư Ly là Hỏa, Khảm là Thủy, Nam Bắc đối nhau mà làm vợ chồng, Thổ ở nơi đó sanh ra, chẳng phải là ý chỉ “Lửa nước giao nhau mà thành tính cứng” ư? Khôn là Đất, Cấn là Núi, đều thuộc Thổ, đây là chỗ bắt đầu và chấm dứt của vạn vật vậy. Thế nên, mùa Xuân, mùa Hạ vạn vật phát sanh, ở trên mặt đất, nên dễ thấy. Thu Đông vạn vật thâu góp lại, ở dưới mặt đất, nên không thể thấy.

Bức Hà Đồ, sở dĩ thành biến hóa ngũ hành và quỷ thần, không chỉ hợp với cái dụng lưu hành, mà cũng hợp với nguồn gốc sanh khởi. Chỗ tột đáy của thế giới này, y Phong luân mà trụ, tột đáy của đại địa, thì y Kim luân mà trụ. Thổ và Kim đồng là tính cứng, đều thuộc Địa Đại. Hỏa thì không nói chữ luân vì tánh nó là biến hoá, hay chảy tan và làm chín thành muôn vật.

Câu Xá Luận nói “Cái nghiệp lực của chúng sanh, trước hết ở dưới cùng nơi hư không, mà có Phong luân sanh. Trên Phong luân là Thủy luân. Trên Thủy luân mới có Kim luân”. Đối với đây có khác chút ít. Luận Câu Xá nói về sự an lập, từ dưới lên trên theo thứ tự. Ở đây nói về sự sanh khởi. Chẳng sợ lẫn lộn trở ngại nhau.

Tổ Ngưỡng Sơn Dũng dạy chúng rằng : “Một lời nói trọn hết non sông!”

Có vị tăng hỏi : “Như thế nào là một lời ấy?”

Tổ Sơn lấy đũa gắp lửa cắm vào phía bên lò, rồi để lại chỗ cũ.

Tổ Đầu Tử tụng rằng :

“Một câu nêu ra trùm muôn tượng

Ma Kiệt thành [Ma Kiệt : ở thành này, ngoại đạo hỏi Phật về sự sinh thành vũ trụ, Phật im lặng không nói gì.]không, tự đóng cửa

Đương sơ thiền tăng mở hé mắt

Cắm đũa bếp bên lò lửa đỏ”.

Nếu là người đại triệt ngộ, thì xem ba cõi khởi diệt trong biển Đại Giác cũng đồng như bọt sanh diệt trong biển cả vậy. Huống là vốn tự vô sanh, tìm tướng của ba cõi, có chỗ nào được!

Thiện Tâm
08-27-2015, 04:59 PM
Kinh :

“Lại nữa, Phú Lâu Na, cái Minh Vọng đó, chẳng phải là cái gì khác, lỗi là cái Giác Minh. Cái Sở Minh hư vọng đã lập, thì phạm vi của cái Năng Minh không vượt qua được. Do nhân duyên đó, mà nghe không ra ngoài tiếng, thấy chẳng vượt ngoài sắc. Sáu cái vọng : Sắc, Hương, Vị, Xúc... thành lập, do đó mà phân ra có Thấy, Nghe, Hay, Biết.

“Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà có hiệp, có lìa, có thành, có hóa. Cái Thấy mà làm năng minh thì Sắc phát ra, rồi cái năng minh cho cái Thấy thì thành ra có Tư Tưởng. Thấy khác thì thành ra ghét, cùng cái Tư Tưởng thì thành thương. Chảy tràn cái thương yêu làm hạt giống, thu vào Tưởng Niệm làm ra thai. Giao cấu phát sanh, hấp dẫn cái cùng một nghiệp, nên có nhân duyên sanh ra Yết La Lam [Cũng gọi là Ca la la. Tiếng Phạn: Kalala. Dịch nghiã là tạp uế (cái nhơ bẩn, trộn lộn). Là một trong năm địa vị (từng giai đoạn của thai theo thai kỳ) của thai, gọi là thai nội ngũ vị], Át Bồ Đàm... Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh hay hóa sinh tùy theo chỗ mà ứng: noãn chỉ do Tưởng Niệm mà sanh, thai thì do Ái Tình mà có, thấp sanh thì do Cảm mà hợp, hóa sanh thì do Phân Lìa mà ứng ra. Tình và Tưởng, Hợp và Lìa thay đổi lẫn nhau, do đó mà chịu lấy Nghiệp, theo đuổi sự nổi chìm. Do nhân duyên ấy, chúng sanh nối tiếp nhau.

Thông rằng:

Thế giới lấy cái Hư Không mê muội làm thể, nên có câu “Cái Tưởng lắng xuống thành quốc độ”. Chúng sanh lấy cái Giác Minh làm tánh, nên có câu “Tri giác là chúng sanh”.

Hư Không mê muội nhân Giác Minh mà hiện bày, cho nên thế giới do nghiệp lực của chúng sanh mà thành. Hai cái nối tiếp nhau, đều là lỗi lầm hư vọng nhân Minh mà lập cái Sở vậy. Chẳng phải tứ Đại kia có sanh ra. Chỉ vì nhân nhận cái Giác làm cái Minh, mới có cái Sở Minh. Sở thì thuộc Tướng Phần, Năng thì thuộc Kiến Phần. Tứ đại ở ngoài thế giới là Sơ Tướng Phần, tứ Đại ở thân thể là Thân Tướng Phần. Cái Sở đã vọng lập nên, bèn khiến cho sáu Căn cách ngại, nên trong Kiến Phần, phạm vi của cái Sáng không thể vượt qua khỏi sáu Căn.

Vốn chỉ là cái Giác Vô Thượng, viên dung, nay lại chia thành Thấy, Nghe, Hay, Biết thành ra ba thứ Căn, Trần, Thức dẫn khởi lên cái Nghiệp hư vọng. Từ đó cùng một Nghiệp ràng buộc nhau, có cha, mẹ và mình là ba thứ cùng Nghiệp, mà thành thai, noãn là vật hữu tình. Còn thấp sanh và hóa sanh, không do cha mẹ, chỉ do Nghiệp của mình mà thành vật. Lý do hấp dẫn đồng nghiệp, đều là do Thấy có mình mà ra.

Lấy vọng tâm mà thấy vọng cảnh, thì sắc do cái thấy mà phát sanh, không có cái thấy tức là không có sắc vậy. Lấy cái vọng thấy mà đuổi theo đám vọng sắc, thì cái Tưởng Niệm bèn do cái thấy mà thành, không có cái thấy thì không có Tưởng vậy. Cái thấy kết nhóm thành cái Tưởng, biết có mình thì tự thành Tình. Đó là sự kết hợp của đồng nghiệp, hấp dẫn nhau. Thấy khác thì thành thương, nên mẹ là chỗ mà mình thương. Con gái ở trong thai thì ngược lại. Tưởng chảy tràn thì thành sự thương, thương thì chẳng rời, mầm mống chủng tử sinh ra ở đó vậy. Nên thương yêu là gốc rễ của luân hồi. Mẹ đã thu nạp cái Tưởng, Tưởng kết lại thành khí huyết, thai thành ở đó vậy. Cho nên, cái Tưởng là môi giới của sự nối truyền sinh mạng, từ giao cấu mà phát sanh hình thể. Tinh huyết hòa hợp, một tuần chất lỏng đông lại, hai tuần là cái bọc, ba tuần là thịt mềm, bốn tuần là thịt chắc, năm tuần có hình thể, thai hay trứng đều như thế. Thấp sanh, hóa sanh thì cũng chẳng qua tiến trình đông đặc và bao bọc.

Noãn sanh vì sao để ở trước tiên ? Vì Tưởng Niệm khởi động trước, sau mới có Tình Ái. Hơn nữa, noãn lại gồm cả thai, thấp hóa vậy. Loài người cũng có đủ bốn thứ sanh. Như bà Tỳ Xá Khê Nhĩ La có ba mươi hai người con dều là noãn sanh (Luận Câu Xá). Bà Yểm Thước La Bà Lợi Đảnh sanh một vị Chuyển Luân Thánh Vương [Tích xưa, có vua tên Bố Sát Đà Vương, trên đầu bỗng sanh một bọc mụt, trong bọc mụt sanh ra một đứa con. Lớn lên làm Kim Luân Vương, xưng là Đảnh Sanh Vương. Đảnh Sanh Kim Luân Vương chinh phục bốn châu thiên hạ, rồi lên cung trời Đao Lợi muốn hại Đế thích để thay ngôi. Việc chẳng thành, trở về đất lại, bị bệnh chết. Đảnh Sanh Vương ấy nay là Thích Ca Phật đó], gọi là thấp sanh. Đời Đức Phật, trong tứ chúng có một Tỳ kheo ni tên A La Bà, từ trong đất hóa sanh ra. Do đó mà biết rằng Tình biến ra Tưởng, hợp biến ra lìa, vốn chẳng có Nghiệp nhất định. Noãn đổi thành thai, thấp đổi ra hóa, cũng không có định chất. Chỉ theo nghiệp mà lên xuống, tùy theo chỗ mà ứng hiện ra, không có nẻo đường nhất dịnh. Chỉ do Tưởng Ái làm nhân, cha mẹ làm duyên, mà chúng sanh tiếp nối, như vậy đến vô cùng.

Ngài Đại Đồng Tế đến thăm Bàng cư sĩ.

Bàng Cư sĩ nói : “Nhớ lúc trong thai mẹ, có một tắc ngữ, xin đưa ra với thầy, cốt chẳng được làm đạo lý”.

Ngài Tế nói : “Giống như cách đời vậy”.

Cư sĩ nói : “Đã nói chẳng được làm ra đạo lý.

Ngài Tế nói : “Câu nói kinh người, há chẳng sợ sao?”

Cư sĩ nói : “Như kiến giải của thầy, có thể nói là kinh người!”

Ngài Tế nói : “Chẳng làm ra đạo lý, lại làm ra đạo lý!”

Cư sĩ nói : “Không chỉ cách một đời, hai đời!”

Ngài Tế nói : “Ông thầy cơm cháo này, cứ việc tra xét lỗi lầm!”

Cư sĩ búng tay ba tiếng.

Lại có thiền sư Quy Tông Khả Tuyên, nhân ông Quận Thú tức giận chẳng đúng theo lễ cửa quan, bức bách Ngài quá lắm. Ngài bèn viết thơ cho Ông Quách Công Phủ rằng : “Duyên đời của tôi còn sáu năm, nay Ông Quận Thú bức bách phải chết, sắp phó thác cái sanh ra sự bực tức còn dư lại ấy, mà thác sanh nhà ông, xin ông đừng lấy làm ngại.”.

Ông Phủ xem thơ vừa sợ vừa mừng. Nửa đêm, bà vợ nằm mộng thấy sư vào chỗ ngủ, la lên rằng : “Đây chẳng phải là chỗ để Hòa Thượng đến!” Ông Phủ lay bà vợ hỏi, bà liền thuật lại rõ ràng. Gọi lấy đèn đọc thơ, cùng nhau vui mừng không dứt. Bèn mang thai, đến khi sanh ra, đặt tên là Tuyên Lão. Đúng năm như đã báo trước.

Năm ba tuổi, có Ông Bạch Vân Đoan đến nhà, Tuyên Lão mới thấy thì bảo : “Cháu tôi đến vậy”.

Ông Đoan hỏi : “Xa Hòa Thượng mấy năm rồi?”

Tuyên Lão đếm ngón tay nói : “Bốn năm rồi.”

Ông Đoan hỏi : “Xa nhau ở chỗ nào?”

Đáp : “Ở trại Bạch Liên.”

Ông Đoan nói : “Lấy gì để nghiệm.”

Đáp : “Ba má ngày mai mời Hòa Thượng độ trai.”

Bỗng nghe tiếng xe đẩy tới.

Ông Đoan hỏi : “Ngoài cửa đó là tiếng gì?”

Tuyên Lão dùng tay làm bộ đẩy xe. Ông Đoan hỏi: “Về sau như thế nào?”

Đáp: “Bình địa lưỡng đầu câu [Chữ Lục]”.

Quả nhiên, sáu năm sau không bệnh mà mất. Đó là do Tuyên Lão thường ngày chẳng có cốt làm đạo lý, nên tuy cách dời, mà vẫn tỉnh thức như vậy. Nếu còn chút tơ hào tình tưởng Giác Minh treo trong ngực, thì đã bị Ông Bạch Vân Đoan khám phá ra rồi!

Thiện Tâm
08-27-2015, 05:01 PM
Kinh:

“Ông Phú Lâu Na, các Tưởng Ái cùng nối kết, lòng thương chẳng thể rời, thì cha mẹ, con cháu trong thế gian sanh nhau không dứt, họ lấy Dục, Tham làm gốc. Tham và Ái cùng nuôi nhau, tham muốn chẳng ngừng thì các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh trong thế gian, tùy theo sức mạnh yếu, lần lượt ăn nuốt lẫn nhau, chúng lấy Sát, Tham làm gốc. Người ăn dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, Nghiệp dữ cùng sanh, đến hết đời vị lai, loại này thì lấy đạo Tham làm gốc.

“Người này mắc nợ mạng người kia, người kia trả nợ cũ cho người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong sanh tử. Người này yêu cái Tâm của người kia, người kia thích cái Sắc của người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong trói buộc. Chỉ ba thứ Sát, Đạo, Dâm làm gốc rễ, mà do nhân duyên đó, nghiệp quả cứ tiếp tục.

“Phú Lâu Na, ba thứ tiếp nối nhau điên đảo ấy, đều là cái thấy biết của Giác Minh. Nhân biết mà phát ra có hình tướng, từ cái vọng thấy sanh ra có núi sông đất đai, các tướng hữu vi, thứ lớp đổi dời, đều nhân cái hư vọng đó mà hết rồi lại bắt đầu.

Thông rằng:

Thế giới thuộc về Y Báo, Y Báo thì vô tình, do đó chẳng kết Nghiệp. Chúng sanh thuộïc Chánh Báo, Chánh Báo thì hữu tình, tức là có Nghiệp. Nghiệp không gì lớn hơn Sát, Đạo, Dâm, mà gốc bắt đầu từ Dâm. Cùng tư tưởng thì thương, thấy khác thì ghét, chỉ là cái thương ghét này, ngay đó là căn nguyên gây Nghiệp. Tưởng, Ái không kết hợp thì còn có thể lìa, chứ cả hai bên đã kết nối, thì đời đời, kiếp kiếp, chẳng thể tự rời nhau. Cha mẹ, con cháu sanh nhau ra chẳng dứt, đều do Dâm làm gốc.

Tham và Ái cùng nuôi dưỡng nhau, nên cảm thấy vui thích mùi vị mà Sát từ đó sanh ra. Tham mùi vị không ngừng, thì cầu cho được, Đạo (trộm cắp) từ đó sanh ra. Kỳ thật, chỉ bắt đầu từ một cái ưa thích: Ái. Yêu thích chẳng được thì ép uổng mà sát hại. Âm thầm lấy là đạo (trộm cắp), đều để thành tựu sự Ái cả. Cớ nên, trong cái Dâm, có đủ Sát, Đạo hai Nghiệp. Ghét mà kết tụ thì đền nợ, đền mạng, thường ở trong sanh tử. Thương mà kết tụ, thì thích tâm, thích sắc, thường ở trong trói buộc. Đó là thương ghét là nguyên nhân của Nghiệp, mà sanh tử trói buộc là quả của Nghiệp. Hết thảy ba loại điên đảo của chúng sanh trong thế giới đều là do trái với Chân mà hợp với Vọng, đều là do Giác Minh sanh ra. Cái Giác Minh hư vọng, vọng lập nên có Năng, có Sở, nên có ra núi sông, đất đai, thế giới tiếp nối, nghiệp quảû chúng sanh, các tướng hữu vi, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, tiếp tục chẳng ngừng. Nếu liền ngộ Vọng vốn không tự tánh, hiện tại tức là Vô Sanh, thì còn cái gì thứ lớp đổi dời, cái gì hết rồi lại bắt đầu sanh? Thế là Căn, Trần, Xứ, Giới rõ ràng là một cái Thanh Tịnh bổn nhiên, Như Lai Tạng Tánh vậy.

Tổ Vĩnh Gia nói : “Ngộ tức nghiệp chướng bổn lai Không. Chưa ngộ đành trả hoàn nợ cũ”. Lời nói có ý vị biết bao!

Ngài Vân Cư Ứng, tham học tại Tổ Động Sơn, khi làm việc vô ý cuốc chết con trùn.

Tổ Động Sơn nói : “Đồ quỷ ấy.”

Ngài Ứng nói : “Nó chẳng chết”.

Tổ Sơn nói : “Nhị Tổ đi qua Nghiệp Đô, lại làm sao?”

Ngài Ứng chẳng trả lời.

Sau có vị tăng hỏi Ngài: “Lúc Hòa Thượng ở Tổ Động Sơn, về nhân duyên giết chết con trùn, phải chăng Hòa Thượng không có lời đáp?”

Ngài Ứng nói: “Lúc ấy có lời chứ, chỉ là không có người để chứùng minh!”

Xem Ngài Vân Cư Ứng, thật là người ở ngoài ba cõi. Nên cái chỗ Tình và Tưởng không tới được, thì nói gì đến tướng nghiệp quả, chúng sanh!

Thiện Tâm
08-27-2015, 05:55 PM
IV. CHỈ RÕ GIÁC CHẲNG SANH MÊ

Kinh:

Ông Phú Lâu Na thưa: “Nếu cái Diệu Giác đó, bản tánh là Diệu Minh, cùng với Tâm Như Lai, không tăng không giảm, mà không cớ gì bỗng sanh các tướng hữu vi núi, sông, đất đai. Vậy nay Như Lai đã đắc Diệu Giác Minh Không đó, thì lúc nào lại sanh ra núi, sông, đất đai và các tập lậu hữu vi?”

Phật bảo Ông Phú Lâu Na: “Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy nhân do Mê mà có hay nhân Ngộ mà sinh ra?”

Ông Phú Lâu Na thưa: “Người mê như vậy, cũng chẳng nhân Mê, cũng chẳng nhân Ngộ. Vì sao thế? Cái Mê vốn không có gốc gác, làm sao mà nhân Mê ? Ngộ chẳng sanh ra Mê, làm sao mà nhân Ngộ?”

Đức Phật nói: “Cái người mê kia, ngay trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho khiến tỏ ngộ. Này Phú Lâu Na, ý ông thế nào? Người ấy đã thả cái Mê ra rồi, thì đối nơi xóm làng đó, có còn sanh mê lại không?”

- Bạch Thế Tôn, không”.

- Phú Lâu Na, mười phương Như Lai lại cũng như thế. Cái Mê ấy không có gốc gác, tánh nó rốt ráo không. Xưa vốn chẳng có Mê, chỉ hình như có Mê, có Giác. Giác được cái Mê, thì Mê diệt mà cái Giác vốn chẳng sanh Mê. Cũng như người lòa mắt, thấy hoa đốm giữa hư không. Bệnh lòa nếu hết, thì hoa đốm ở hư không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư không mà hoa đốm kia đã diệt, đợi chờ hoa đốm sanh ra trở lại. Ông xét người đó là ngu hay là trí huệ?”

Ông Phú Lâu Na thưa: “Hư không vốn không có hoa đốm, mà vọng thấy có sanh có diệt. Thấy có hoa diệt mất giữa hư không đã là điên đảo rồi. Lại còn muốn bảo nó sanh ra lại thì thật là điên dại, làm sao mà gọi người điên như vậy là ngu hay là trí.”

Phật dạy: “Ông hiểu như thế, sao lại còn hỏi: “Tánh Diệu Giác Minh Không của Chư Phật Như Lai khi nào lại sanh ra núi, sông, đất đai ?” Cũng như quặng vàng lẫn lộn với vàng ròng, một khi vàng đã thành ròng, chẳng trở lại thành dơ tạp. Như cây đã đốt thành tro, không trở lại thành cây nữa. Bồ Đề, Niết Bàn của chư Phật Như Lai cũng lại như thế.

Thông rằng:

Kinh Viên Giác, Bồ Tát Kim Cang Tạng hỏi Đức Thế Tôn rằng: “Nếu chúng sanh xưa nay thành Phật, thì tại sao có hết thảy Vô Minh? Nếu chúng sanh vốn có Vô Minh, thì vì nhân duyên gì Như Lai lại nói bổn lai thành Phật? Các loài dị sanh trong mười phương, vốn thành Phật Đạo, sau lại khởi Vô Minh, thì tất cả Như Lai khi nào lại sanh ra tất cả phiền não?”

Thế Tôn đáp rằng: “Này trai lành! Hết thảy thế giới thủy chung sanh diệt, trước sau Có, Không, Tụ, Tán, Khởi, Dừng niệm niệm nối nhau, xoay vòng đi lại, đủ thứ nắm bỏ, đều là luân hồi. Chưa ra khỏi luân hồi mà tìm hiểu Viên Giác thì tánh Viên Giác kia cũng đồng trôi chuyển. Nếu thoát khỏi luân hồi, thì làm gì có chuyện đó!”

Nay chỗ nghi của Ông Phú Lâu Na không khác với Bồ Tát Kim Cang Tạng mà Thế Tôn chỉ tùy theo cái thấy sanh diệt của ông mà phá. Đưa tiếp nhau bốn thí dụ: Thứ nhất là Giác chẳng trở lại Mê; hai là Diệt rồi chẳng sanh trở lại; ba là vàng ròng chẳng trở lại quặng; bốn là tro chẳng thành lại cây. Hai ý sau diễn lại hai ý chánh trước. Giác chẳng trở lại Mê, tức là Bồ Đề. Diệt chẳng trở lại sanh, tứùc là Niết Bàn. Đây là đã ra khỏi luân hồi mà biện hiểu Viên Giác. Tánh Viên Giác ấy tức chẳng có luân hồi, nên nói Bồ Đề, Niết Bàn của Chư Phật Như Lai cũng lại như thế.

Chúng sanh ở trong Mê, chỗ cần yếu là phải Giác. Nhưng từ xưa vốn không có sự Mê, cái Mê từ vô thủy, chỉ tương tự như Mê. Bởi vì ngay khi Mê cũng chưa từng bỏ mất, nên nói chỉ tựa hồ như Mê. Nay cũng không phải là không có Giác. Từ Mê mà Giác, thì cũng tựa hồ có Giác, vì ngay khi Giác, thì có đắc gì đâu, nên gọi là tợ hồ như Giác. Giác cái Mê, thì Mê diệt, đó là Thủy Giác. Giác cho đến chỗ Thủy Giác và Bổn Giác không khác, thì chỉ là một Diệu Giác. Thế là chẳng trở lại sanh Mê, chỉ tự chẳng Mê, Giác cũng thành vô dụng.

Quốc Sư Huệ Trung hỏi quan Cung Phụng Tử Lân rằng: “Phật là nghĩa gì?”

Lân đáp : “Là nghĩa Giác.”

Ngài nói : “Phật có từng mê không?”

Lân đáp : “Chẳng từng mê.”

Ngài nói : “Thế dùng Giác làm gì?”

Ông Lân không đáp được.

Lại Hòa Thượng Mễ Hồ, khiến nhà sư đến hỏi Tổ Ngưỡng Sơn: “Người đời nay có mượn sự Ngộ không?”

Tổ Ngưỡng nói: “Ngộ thì chẳng phải là không, ngặt vì sợ lạc vào đệ nhị đầu!”

Thầy Mễ Hồ rất chịu đó.

Tổ Đầu Tử nêu ra rằng : “Ngưỡng Sơn nói với người thì được, nhưng tự mình có khỏi lạc chăng? Nếu khỏi được, lại có người nhất định chẳng chịu đấy. Nếu không khỏi được, thì cũng lạc vào đệ nhị đầu. Mễ Hồ tuy là chấp nhận đó, nhưng tự mình lại có đường xuất thân hay không? Các ông thử xét xem coi! Nếu xét ra được, thì cả hai người ngói vỡ, băng tan! Nếu xét không được, hãy chớ gấp gáp!”

Rồi tụng rằng :

“Chót núi cao xanh mượn hỏi người

Chỉ nơi tột núi chữa yên thân

Tuy là khỏi được (tiết) Trùng Dương khiến

Cũng tợ linh miêu chẳng phạm xuân”.

Về sau, Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Đệ nhị đầu : phân Ngộ phá Mê

Mau hãy buông tay bỏ lưới, nôm

Công chưa xong hết, thành trói buộc

Trăng già mặt tuyết sương thu khóc

Chim hàn cây ngọc, gió thê lương

Đem đến Ngưỡng Sơn phân chân giả

Tỳ vết tuyệt không, ngọc trắng trong”.

Tóm lại, chẳng có được gió Xuân thì hoa không nở, đến khi hoa nở lại thổi rụng! Dầu có Diệu Ngộ, cũng cần mửa bỏ!

Thiện Tâm
08-27-2015, 06:03 PM
V. CHỈ CÁC ĐẠI CÓ THỂ TƯƠNG DUNG

Kinh:

“Phú Lâu Na, lại chỗ ông hỏi: “Địa, Thủy, Hỏa, Phong, bản tánh viên dung, toàn khắp thế giới mà nghi sao tánh Nước, tánh Lửa lại không diệt lại nhau. Ông lại nêu ra Hư Không và Đất Đai đều cùng khắp pháp giới, lẽ ra chẳng tương dung.

“Phú Lâu Na, ví như Hư Không, bản thể chẳng phải là các tướng, nhưng không chống lại các tướng phát huy. Tại sao như thế? Phú Lâu Na, trong hư không kia, mặt trời soi thì sáng, mây tụ thì tối, gió lay thì động, tạnh ráo thì trong, mù đọïng thì đục, bụi nổi thì mịt mùø, nước lắng thì óng ánh. Ý ông thế nào? Các thứ tướng hữu vi khác nhau như vậy, là nhân các thứ kia mà sanh, hay nhân Hư Không mà có? Phú Lâu Na, nếu nhân các thứ kia sanh, thì khi mặt trời chiếu soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế giới dều thành sắc của mặt trời, làm sao ở giữa Hư Không, lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu là Hư Không sáng, thì Hư Không phải tự chiếu soi lấy; thế sao giữa đêm hay lúc mây mù, lại chẳng có sáng chiếu ? Vậy, nên biết rằng cái sáng đó, chẳng phải là mặt trời, chẳng phải là Hư Không mà cũng chẳng khác mặt trời và Hư Không. Xét kỹ các tướng, vốn là hư vọng, không thể chỉ bày, cũng như mong hoa đốm giữa Hư Không kết thành quả của Hư Không! Sao lại còn hỏi nghĩa lấn diệt lẫn nhau? Xét kỹ cái tánh, vốn là chân thật, chỉ là Tánh Giác Diệu Minh, Tâm Tánh Diệu Minh đó vốn chẳng phải là lửa hay nước, thế sao lại còn hỏi chẳng có tương dung?

“Tánh Giác Diệu Minh chân thật thì cũng như vậy. Ông phát minh cái Hư Không, thì có Hư Không hiện; phát minh ra mỗi mỗi Đất, Nước, Lửa, Gió thì mỗi mỗi thứ hiện. Nếu cùng phát minh thì cùng có hiện.

“Thế nào là cùng có hiện ra? Phú Lâu Na, như trong một chỗ có nước hiện ra bóng mặt trời, hai người cùng xem mặt trời trong nước. Rồi một người đi về phương Đông, một người đi về phương Tây, thì mỗi bên đều có mặt trời đi theo, một cái về phương Đông, một cái về phương Tây, không có mẫu mực nhất định. Chẳng nên hỏi rằng: Mặt trời chỉ có một, tại sao mỗi cái đi theo mỗi người? Mặt trời đã thành hai, vì sao hiện ra chỉ có một? Quanh quẩn hư vọng như vậy, không có gì có thể làm bằng cứ.

Thông rằng:

Ở trước, đáp câu hỏi “Thanh tịnh bổn nhiên sao bỗng dưng sanh núi sông, đại địa?” Lấy Tướng mà luận, thì có sanh là từ vọng thấy mà sanh. Trong Tánh mà luận, thì tức là Vô Sanh, Giác chẳng trở lại Mê vậy. Tướng nguyên là Vọng, có gì mà lấn diệt? Tánh vốn Vô Sanh, cái gì mà chẳng tương dung? Cho nên bảy Đại là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Như Lai Tạng vốn chẳng phải là bảy Đại, nhưng chẳng ngăn bảy Đại kia phát hiện. Ví như Hư Không, bản thể của nó chẳng phải là các tướng mà chẳng ngăn ngạïi các tướng kia phát huy. Chỉ một Hư Không mà Đất tích tụ thì Tướng của Đất hiện ra, Nước lắng thì Tướng Nước hiện ra, mặt trời chiếu thì Tướng Lửa hiện ra, Gió thổi thì Tướng Gió hiện ra, trong tạnh thì Tướng Hư Không hiện ra. Sáng, Tối là thuộc về cái Thấy, khí đục nên thuộc về cái Thức. Bảy ví dụ trên để ví dụï cho bảy Đại vậy.

Bảy Đại không tự sanh, cũng chẳng phải do cái khác sanh. Chẳng phải cái khác sanh, nên chẳng phải là không hay là có. Chẳng do mặt trời, chẳng do Hư Không, nên chẳng phải là cọng sanh. Chẳng khác mặt trời và Hư Không, nên chẳng phải là không nguyên nhân mà sanh. Do đó, nói: vốn Vô Sanh vậy. Đã vốn Vô Sanh, thì tùy theo nghiệp mà có hiện, cũng là hoa đốm. Hoa-không nào kết thành trái-không, thì làm sao có chuyện lấn diệt cho đến sự chẳng tương dung? Tướng tuy là hư vọng mà Tánh vốn là Chân, thanh tịnh toàn khắp, vốn chẳng phải là hình tướng nước, lửa gì đâu. Không hình thì có gì mà ngăn ngại nhau, há lại có sự chẳng tương dung cho đến sự hại diệt lẫn nhau sao? Tướng của bảy Đại đã như hoa không, tánh của bảy Đại cũng như Hư Không, thì Như Lai Tạng, Diệu Giác Minh Tâm cũng giống như thế vậy.

Như phát minh ra Hư Không, thì có Hư Không hiện. Lấy Sự mà nói, thì như đào giếng. Lấy Nghiệp mà nói, thì đó là vọng khởi lên cái thấy có Hư Không. Do cái Thấy mà có Hư Không, Đất, Nước, Lửa, Gió cũng là như thế. Mỗi mỗi phát minh, thì mỗi mỗi hiện ra. Nếu cùng phát minh, thì cùng có hiện. Chẳng kể núi Nam nổi mây mà núi Bắc mưa xuống, đều là trong Hư Không vô ngại. Bèn như mặt trời trong nước, mỗi người đi về mỗi hướng Đông, Tây, đều có mặt trời cùng theo. Chẳng tin vào mặt trời trên không, mà lại nghi ngờ mặt trời trong nước, cũng như mây bay mà tưởng mặt trăng chạy; thuyền đi mà cứ tưởng là bờ trôi! Đã từ vọng thấy mà có sanh ra, thì há có thể ở nơi chỗ thấy hư vọng đó mà biện luận là một hay chẳng phải một, thế chẳng phải là cái lầm quá cỡ sao?

Hoặc hỏi rằng: “Đất, nước, lửa, gió hiện có thật trước mắt, sao gọi là hư vọng?”

Đáp rằng: “Người vô trí gọi là thật có. Người có con mắt Trí Huệ xem thì chẳng phải thế! Ví như đứa trẻ con xem thấy bóng trong gương vui mừng muốn chụp lấy. Người lớn hiểu biết, đâu có bị lầm theo. Phàm phu thấy vi trần hòa hợp gọi là đất thực, bậc có thiên nhãn có thể thấy ra sự phân tán của đất này, ở nơi chỗ bắt đầu, vốn bất khả đắc, nên biết hình tướng nguyên là hư vọng”.

Tổ Pháp Nhãn hỏi Trưởng Lão Bảo Tư rằng: “Người xưa nói: Núi sông không cách trở, quang minh chốn chốn thấu suốt. Vậy làm sao là cái quang minh chốn chốn thấu suốt?”

Ngài Bảo Tư nói: “Bờ Đông tiếng đánh lưới!”

Tổ Quy Tông Nhu riêng nói rằng: “Hòa Thượng định cách trở!”

Như chỗ hỏi đáp của hai vị tôn túc, chẳng có rỉ giọt, mà còn bị Quy Tông xét ra!

Thầy Tam Tạng Đại Nhĩ ở Ấn Độ đến kinh đô, tự nói là có tha tâm thông. Vua Túc Tông mời Quốc Sư Huệ Trung xét thử.

Quốc Sư nói: “Ông hãy nói lão tăng bây giờ ở tại đâu?”

Vị kia đáp: “Hòa Thượng là thầy của một nước, sao lại đi Tây Xuyên xem đua thuyền!”

Chặp lâu, lại hỏi: “Ông hãy nói lão tăng bây giờ ở tại nơi đâu?”

Vị Tam Tạng đáp: “Hòa Thượng là thầy của một nước, sao có thể đến cầu Thiên Tân xem hát khỉ!”

Chặp lâu, lại hỏi: “Ông nói lão tăng ngay bây giờ ở tại nơi đâu?”

Thầy Tam Tạng chịu, không biết được.

Tổ sư quát rằng: “Con cáo đồng, tha tâm thông ở tại chốn nào?”

Vị kia không đáp được.

Có nhà sư hỏi Tổ Ngưỡng Sơn: “Thầy Đại Nhĩ Tam Tạng vì sao trong lần thứ ba chẳng thấy được Quốc Sư?”

Tổ Ngưỡng nói: “Hai lần trước là cái tâm giao thiệp với cảnh, còn lần sau thì vào Tam muội Tự thọ dụng, nên chẳng thấy!”

Vị tăng thuật lại, và hỏi Tổ Huyền Sa.

Tổ Huyền Sa nói: “Ông nói hai lần trước thấy cái gì?”

Lại có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Trong lần thứ ba, vị Tam Tạng chẳng thấy Quốc Sư, chưa rõ Quốc Sư ở tại chỗ nào?”

Tổ châu nói: “Ở trên lỗ mũi Tam Tạng!”

Vị tăng sau lại hỏi Tổ Huyền Sa: “Đã ở trên lỗ mũi, tại sao mà chẳng thấy?”

Tổ Huyền Sa nói: “Chỉ vì quá gần!”

Tổ Thiên Đồng nêu ra rằng: “Tam Tạng không thấy Quốc Sư hãy để đó. Ông hãy nói xem Quốc Sư có tự biết chỗ không? Nếu nói là tự biết, thì trăm chim ngậm hoa, Chư Thiên cúng dường, chưa có ngày thôi! Hãy nói chính ngay lúc ấy, ở tại chốn nào?”

Thế, có thể biết Quốc Sư hai lần tâm giao thiệp với cảnh, chẳng ngăn ngại mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi hiện ra. Huống như Diệu Giác Minh Tâm là cái Tam Muội Tự thọ dụng thì chỗ ở làm sao mà biết, sao còn gạn hỏi chuyện lấn diệt hay chẳng tương dung?

Thiện Tâm
08-28-2015, 09:44 PM
MỤC TÁM: CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG VÀ TÁNH GIÁC TOÀN VẸN


VI. CHỈ TÁNH DIỆU MINH LÀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” VÀ “TỨC”


Kinh:

“Phú Lâu Na, ông lấy cái Sắc, cái Không mà lấn cướp lẫn nhau ở nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng theo ông làm Sắc làm Không, toàn khắp pháp giới. Vậy nên ở trong đó, Gió thì động, Hư Không thì yên lặng, mặt trời thì sáng, mây thì tối. Chúng sanh mê muội, trái với Giác, hợp với Trần, nên phát ra trần lao mà có các tướng thế gian.

“Ta thì lấy Tánh Diệu Minh, bất sanh bất diệt, hợp với Như Lai Tạng. Như Lai Tạng đó chính là Tánh Giác Diệu Minh, tròn vẹn chiếu soi pháp giới. Thế nên, ở trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đạo tràng bất động, cùng khắp mười phương thế giới. Thân trùm cả mười phương hư không vô tận, nơi đầu một mảy lông, hiện ra cõi Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Diệt trần hợp Giác, nên Chân Như Diệu Giác Minh Tánh hiện bày.

Thông rằng:

“Chưa ra khỏi luân hồi mà bàn luận Viên Giác, thì Tánh Viên Giác cũng cùng trôi lăn. Nếu hết khỏi luân hồi thì làm gì có chuyện đó.” Tức ở đoạn này nói: “Lấy cái tướng của Sắc, của Không, mà lấn cướp lẫn nhau để luận Như Lai Tạng thì Tánh Như Lai Tạng cũng theo Sắc Không mà thành tam giới lưu chuyển; như vậy mà muốn khỏi thế gian nhọc mệt thì không thể có. Chúng sanh mê muội, không thấu suốt được rằng Sắùc Không cùng với ta vốn là một Thể. Vì hình tướng trói buộc nên đụng đâu cũng thành ra trở ngại, chính là vì trái với Tánh Giác, nên vốn là Minh mà chẳng được Diệu, bèn gọi đó là Mê. Trần tướng thuộc về sanh diệt, nguyên chẳng phải vốn có. Tánh Giác tuyệt không sanh diệt, chẳng nhờ ngoài đến. Chẳng phải vốn có, thì có thể diệt; chẳng ở ngoài đến, nên có thể hợp cùng. Đó là Chân Như Diệu Giác, tròn đủ chiếu soi pháp giới, một tức tất cả, tất cả tức một, ngang dọc tự do, sự sự vô ngại. Đây là diệu dụng không thể nghĩ bàn, chẳng phải do tu mà thành, nên tạm nói là hiện bày ra mà thôi vậy.

Luận An Tâm Pháp Môn của Sơ Tổ Đạt Ma nói: Khi mê thì người đuổi theo pháp, khi ngộ thì pháp đuổi theo người. Ngộ thì thức thu nhiếp sắc, mê thì sắc thu nhiếp thức. Hễ có tâm phân biệt so đo trong hiện lượng của Tự Tâm, bèn đều là mộng. Nếu thức tâm tịch diệt, không có một chỗ nào cho động niệm, đó gọi là Chánh Giác.

Ngài Thần Tú làm bài kệ:

“Thân là cây Bồ Đề

Tâm như đài gương sáng

Luôn luôn siêng chùi lau

Chớ để bám bụi trần”.

Chỉ một cái “Siêng chùi lau” đó, bèn là lấy Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, nên mới ở ngoài cửa.

Bài kệ của Đức Lục Tổ là:

“Bồ Đề vốn không cây

Gương sáng chẳng phải đài

Xưa nay không một vật

Chỗ nào dính bụi đời?”.

Chỉ cái “Không một vật” này, bèn là lấy Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp cùng Như Lai Tạng, hợp nối địa vị Tổ vậy.

Thiện Tâm
08-28-2015, 09:46 PM
Tổ Triệu Châu thượng đường nói: “Như ngọc sáng trong tay, người Hồ đến thì người Hồ hiện, kẻ Hán đến thì kẻ Hán hiện. Lão tăng cầm một cọng cỏ dùng làm thân vàng trượng sáu [Thân Phật]. Lấy thân vàng trượng sáu dùng làm một cọng cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật”.

Có nhà sư hỏi: “Phật là phiền não của nhà nào?”

Tổ đáp : “Là phiền não đối với tất cả mọi người.”

Hỏi : “Làm sao được khỏi?”

Tổ Triệu Châu nói: “Dùng cái khỏi để làm gì?”

Ở đây, Tổ Triệu Châu không dùng cái Diệt Trần, không dùng sự Hiệp Giác, lại hay ở trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đủ để cùng Lục Tổ nắm tay cùng đi!

Tổ Viên Chiếu thượng đường nói: “Nơi đầu một mảy lông, hiện quốc độ Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn”.

Cầm đứng cây gậy lên mà nói: “Cái này đây là Trần, làm sao nói là cái đạo lý chuyển pháp luân? Hôm nay sơn tăng chẳng tiếc lông mày, mà nói rõ với các ông : Đưa lên thì nước biển nổi sóng, núi Tu Di chập chùng! Bỏ xuống thì bốn biển lặng trong, đất trời nghiêm tĩnh. Xin hỏi các ông: Đưa lên là phải? Bỏ xuống là phải? Nên đoạn hay chẳng đoạn, lưỡng trùng công án!”

Rồi gõ thiền sàng mà xuống toà.

Lại nữa, Ni Sư Diệu Tổng thượng đường nói: “Tông thừa một phen xướng lên, thì Ba Tạng hết đường dẫn giải. Tổ lệnh thi hành ra, mười phương yên dứt. Hàng Nhị Thừa nghe đến hoảng hồn chạy mất, Thập Địa đến chỗ này vẫn còn như nghi. Nếu là bậc tuấn kiệt, thì chưa nói đã rõ. Giả sử có thủ đoạn dời sao, đổi Bắc Đẩu, bày bố trương cờ gióùng trống thì cũng bỏ công, nào có thật nghĩa! Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền, người học nhọc công, như vượn bắt bóng! Linh Sơn phó chúc, rủ lòng thuận với thời cơ mà diễn nói ba Thừa, mỗi tùy theo căn khí. Bắt đầu ở vườn Lộc Uyển, chuyển pháp luân Tứ Đế, độ trăm ngàn vạn chúng.

“Ngày nay, sơn tăng cùng với địa phương nơi này, cũng Phật cũng Tổ, sông núi, đất đai, cỏ cây rừng bụi, bốn chúng ngay đây, mỗi mỗi đều chuyển đại pháp luân, ánh sáng giao nhau thành lưới báu. Nếu mỗi một cọng cỏ, mỗi một cội cây không chuyển đại pháp luân thì chẳng gọi được là chuyển pháp luân lớn. Bởi thế mà nói nơi đầu một mảy lông hiện ra cõi nước Chư Phật, ngồi nơi một vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Ở trong thời gian không gian ấy mà làm ra vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn, khắp cùng pháp giới, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Chẳng động bước mà dạo chơi lầu các Di Lặc. Chẳng xoay lại cái Nghe mà nhập vào cửa mở khắp của Quan Âm. Tình với vô tình, Tánh Tướng bình đẳng, chẳng phải là Thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải Pháp vốn như thế”.

Ở chỗ này mà tự do rành rẻ thì ơn vua, ơn Phật tức thời trả hết! Hãy nói như thế nào là một câu trả ơn?

Trời cao muôn trượng ở,

Biển rộng trăm sông về.

Các vị tôn túc khế hợp sâu xa với cảnh giới Diệu Minh, cực lực tuyên dương, lời lời đều có đạo vị.

Thiện Tâm
08-28-2015, 09:48 PM
Kinh:

“Nhưng Như Lai Tạng Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Địa, Thủy, Phong, Hỏa; không phải là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; không phải Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không phải Nhãn Thức Giới cho đến không phải là Ý Thức Giớùi; không phải là Minh hay Vô Minh, không phải hết Minh hay hết Vô Minh, như vậy cho đến không phải là Lão, không phải Tử, không phải hết Lão, Tử; không phải là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không phải Trí, không phải Đắc; không phải là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ; không phải là Ba La Mật Đa, như vậy cho đến cũng không phải là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, không phải Đại Niết Bàn, không phải Thường, không phải Lạc, không phải Ngã, không phải Tịnh; tất cả đều chẳng phải, chẳng phải là pháp thế gian hay xuất thế gian.

“Tức Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, tức là Tâm, tức là Không, tức là Địa, Thủy, Phong, Hỏa tức là Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý; tức là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; tùức là Nhãn Thức Giới cho đến tức là Ý Thức Giới; tức là Minh, tức là Vô Minh, tức là Minh và Vô Minh tận, như thế cho đến tức là Lão, tức là Tử, tức Lão Tử tận; tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; tùức là Trí, tức là Đắc; tức là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, tùức là Ba La Mật Đa. Như thế cho đến tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; tức là Đại Niết Bàn, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tất cả đều tức là, tức là pháp thế gian và xuất thế gian vậy.

“Tức cái Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, lìa Tức là, lìa Chẳng phải, cũng Tức là cũng Chẳng phải. Làm sao chúng sanh trong ba cõi và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác xuất thế gian, lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường Bồ Đề Vô Thượng của Như Lai, hay dùng ngôn ngữ thế gian mà vào Tri Kiến Phật.

Thông rằng:

Đoạn kinh này chỉ có Ngài Trường Thủy là xếp lại có thứ tự.

Nói rằng: Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Không, hết thảy đó, là tóm về Chẳng phải Tướng để hiển bày Chân Đế.

Nói rằng: Nguyên Minh Diệu Tâm tức là Tâm, tức là Không, hết thảy đó, là tóm về Tức là Tướng để hiển rõ Tục Đế.

Nói rằng: Diệu Minh Tâm Nguyên lìa Tức Là, lìa Chẳng Phải cũng Tức Là cũng Chẳng Phải, là tóm về phủ che và soi chiếu để hiển bày Trung Đạo. Phủ che cả chân lẫn tục, nên nói lìa Tức là, lìa Chẳng phải. Chiếu soi cả chân và tục, nên nói cũng Tức là cũng Chẳng phải.

Ba Đế là một Thể, nên đều nói tức là Như Lai Tạng.

Ban đầu, lấy cái chẳng phải để dẹp tướng, kế đó lấy chỗ Tức là để dẹp cái Chẳng phải, cuối cùng nói rằng còn mang vác danh từ, lời nói thì chưa cùng tột ý chỉ của Nhất Chân. Lìa Tức là lìa Chẳng phải, không cả Chẳng phải và Không chẳng phải, ngôn ngữ hết đường, tâm hành tuyệt dấu, mới hiển lộ Nhất Chân pháp giới Như Lai Tạng Tâm. Cho nên, trong kinh Duy Ma Cật, ba mươi mốt vị Bồ Tát thuyết pháp môn Bất Nhị đều dùng lời nói để dẹp hình tướng, còn Ngài Văn Thù lấy lời nói để dẹp lời nói. Đức Duy Ma Cật lấy không lời nói mà dẹp lời nói, mới là rốt ráo.

Tất cả pháp thế gian không ra ngoài năm Ấm, bảy Đại, Căn, Trần, Xứù, Giới. Pháp xuất thế gian không ra ngoài Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa. Chỉ có Bồ Tát với Phật, ở nơi thế mà xuất thế, chẳng có chuyên về xuất thế vậy. Tâm thuộïc về Thức, nên thu nhiếp năm Ấm, Nhãn Thức Giới v.v... thì thu nhiếp mười hai Xứ. Đó là sáu cõi phàm phu vậy. Hàng Duyên Giác quán mười hai nhân duyên, có tướng sanh khởi, có tướng tu trừ, đó là cảnh giới Duyên Giác. Biết cái Khổ, đoạn cái Tập, chứng Diệt, tu Đạo, là cảnh giới Thanh Văn. Có Trí, có Đắc, cho đến sáu Ba La Mật, là cảnh giới của Bồ Tát. Ba hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri và bốn Đức Niết Bàn, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đều là Phật Giới. Thế gian và xuất thế gian không ngoài những cảnh giới trên. Nếu nơi mỗi Giới mà chấp trước vào cái Tức là thì chẳng có tròn vẹn, nên phải ở nơi Chẳng phải mà thấy tròn vẹn. Một khi chấp trước lấy cái Chẳng phải, thì chẳng diệu, nên phải ở nơi Tức là để thấy cái Diệu. Diệu mà Minh, Minh mà Diệu, chẳng phải Tức, chẳng phải Phi, cũng là Tức, cũng là Phi, Năng Sở đều lìa, không còn chút bóng dáng vang vọng nào khá được, đó là Bồ Đề Vô thượng chân thật vậy.

Ngài Mã Minh nói: “Cái Chân-Thật-Không ấy là từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả nhiễm pháp, lìa tất cả pháp và tướng sai biệt, không có một chút tâm phân biệt hư vọng vậy. Nên biết Chân Như chẳng phải là có tướng, chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là Hữu-Vô-Tướng, chẳng không phải Hữu-Vô-Tướng, chẳng phải tướng khác, chẳng tướng Một hay Khác, chẳng phải không tướng Một, Khác. Nói tóm lại, vì hết thảy chúng sanh có phân biệt hư vọng, nên không thể tiếp xúc được Chân Như. Thế nên, chúng sanh ba cõi thì thấy cái Giả của Chân Như; Thanh Văn, Duyên Giác thì thấy cái Không của Chân Như, nên đối với Trung Đạo Đế của Bồ Tát còn không thể đo lường nổi, huống là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Chỉ có Phật cùng với Phật mới có thể thấu suốt rốt ráo. Ngay hàng Đăng Địa Bồ Tát, còn có chỗ chẳng thấy, thì há ngôn ngữ thế gian mà có thể suy đoán tăm hơi ư? Vô Thượng Bồ Đề không thể lấy tâm trí mà biết, không thể lấy lời lẽ nói năng mà nhập, càng thâm nhập thì càng thấy chỗ nhiệm mầu của nó vậy”.

Có nhà sư hỏi Tổ Mã Tổ [Đạo Nhất thiền sư, xứ Giang Tây, đời Đường. Là người kế pháp của Tổ Nam Nhạc Nhượng. Ngài họ Mã thị, đời ấy gọi là Mã Tổ. Trong niên hiệu Ngươn Hòa được phong tặng là Đại Tịch.] : “Hòa Thượng vì sao nói “Tức Tâm tức Phật”?”

Đáp : “Để dỗ trẻ con nín khóc”.

Hỏi : “Nín rồi thì như thế nào?”

Đáp : “Chẳng phải Tâm, chẳng Phật”.

Hỏi : “Người ngoài hai loại ấy đến chỉ dạy làm sao?”

Đáp : “Vì y mà nói chẳng phải vật”.

Hỏi : “Bỗng gặp người trong ấy đến thì như thế nào?”

Đáp : “Liền dạy y thể hội đạo lớn”.

Ngài Mã Tổ đã ở trong Niết Bàn Diệu Tâm nên xuất lời, hà hơi đều hợp với Tâm đó.

Lại nữa, Đức Mã Tổ nghe Ngài Đại Mai trụ sơn, mới bảo nhà sư đến hỏi: “Hòa Thượng ra mắt Mã đại sư, được cái gì mà trụ núi này?”

Ngài Đại Mai nói: “Đại sư nói với tôi “Tức Tâm, tức Phật”. Tôi bèn ở trong ấy mà trụ”.

Nhà sư nói: “Gần đây, Phật Pháp của đại sư lại khác”.

Ngài Mai nói: “Ra sao?”

Đáp : “Đại sư lại nói “Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật””.

Ngài Đại Mai nói: “Cái ông già ấy làm mê loạn người chưa có ngày thôi! Mặc kệ ông ta chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật. Tôi vẫn tức Tâm, tức Phật!”

Nhà sư ấy về thưa lại với Đức Mã Tổ, Ngài nói : “Trái mơ (Đại Mai) chín rồi vậy”.

Thiền sư Đông Tự Hội thường sợ đệ tử lấy câu “Tức Tâm, tức Phật” mà đàm luận, ghi nhớ, đọc tụng không ngừng. Ngài bảo : “Phật trụ chỗ nào mà nói tức Tâm? Tâm như ông thầy vẽ, sao nói tức Phật?” Bèn khai thị cho chúng rằng : “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo. Gươm mất đã xa rồi, mới khắc dấu vào ghe!”

Tổ Nam Tuyền có lần nói: “Giang Tây Mã Tổ dạy tức Tâm tức Phật, Vương Lão sư (là Nam Tuyền) chẳng nói thế! Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải Vật, nói như thế thì có lỗi gì chăng?”

Ngài Triệu Châu lễ bái rồi bỏ đi ra.

Khi ấy có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu : “Thượng Tọa lễ bái rồi bỏ đi ra, là ý gì thế?”

Ngài nói : “Ông hãy trở lại hỏi lấy Hòa Thượng”.

Nhà sư bèn hỏi Tổ Nam Tuyền : “Vừa rồi ý của Triệu Thượng Tọa là thế nào?”

Tổ Truyền nói : “Ông ấy lãnh hội được ý chỉ Lão tăng”.

Ở nơi chỗ dụng xứ của các vị lão túc mà chẳng có nghi, mới có thể nhập Phật Tri Kiến.

Thiện Tâm
08-28-2015, 09:50 PM
Kinh:

“Ví như đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà tuy là có diệu âm, mà không có ngón tay diệu thì rốt cuộc chẳng phát ra được. Ông và chúng sanh cũng như thế đó. Cái Chân Tâm hằng giác quý báu, mỗi mỗi đều tròn đủ. Như ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát ra ánh sáng. Còn các ông vừa tạm khởi tâm, thì trần lao đã nổi dậy. Do chẳng siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, ưa nhớ Tiểu Thừa được chút ít đã cho là đủ”.

Thông rằng:

Diệu Minh, Minh Diệu chính là Diệu Âm này, với cái diệu của ngón tay đều chẳng phải là chỗ nghĩ bàn có thể đến được. Tức là như ta ấn ngón tay, tiếng nhiệm mầu theo đó phát ra, như Hải Ấn phát sáng, sắc sắc tròn đầy, có gì tạo tác đâu?

Kinh Đại Tập nói: “Toàn thể sắc tượng của cõi Diêm Phù Đề đều là ấn văn của đại hải, nên gọi là Hải Ấn”.

Các ông thì vừa mới móng tâm, cũng như đàn với tay chẳng có rập nhau, đã chẳng nghe được nhiệm mầu, mà trần lao nổi lên loạn xạ. Chỉ vì dùng cái tâm sanh diệt tương ưng với Như Lai Tạng, không tùy thuận Định Huệ chiếu soi, mà tùy với vô minh phiền não, nên có trần lao. Trần lao che khuất thì tuy có Chân Tâm Bảo Giác, mỗi mỗi tròn đầy, cũng không thể phát ra được.

Thiền sư Đông Minh Thiên, một hôm đang đọc kinh Lăng Nghiêm, có vị đạo giả tên Trung hỏi: “Như Ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát quang”, ý Phật như thế nào?”

Ngài nói : “Cái lão Thích Ca, đáng cho hai mươi gậy!”

Hỏi : “Vì sao như thế?”

Đáp : “Dùng ấn ngón tay làm gì?”

Hỏi : “ “Ông vừa móng tâm, trần lao đã nổi”, lại là sao?”

Đáp : “Đó cũng là Hải Ấn phát quang!”

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay! Phải thấy được như thế mới gọi là chuyển Lăng Nghiêm.

Thiền sư Tiến Phúc Ngộ Bổn thượng đường nói: “Vua Càn Thát Bà vừa tấu nhạc, thì núi sông, đất đai đều nhảy múa. Có đâu như lão què Vân Môn, thoát đạo Hai Mươi Lăm tháng Chạp! Bác Sơn này ngày nay, có Điều thì chụp Điều, không có Điều thì chụp lấy Lệ, chỉ cần ứng với thời tiết”.

Bỗng cầm lên cây gậy, gác ngang đầu gối, làm thế gãy đàn, rồi nói: “Có nghe thưởng thức tiếng đàn chăng?”

Chặp lâu nói rằng: “Dầu cho làm tiếng phụng hoàng kêu. Rốt cuộc có ai hay Chỉ Pháp [Pháp của ngón tay]!”. Đánh vào bàn một cái, rồi xuống tòa.

Than ôi, Chỉ Pháp há thật chẳng truyền sao? Siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, tự mình hiện được đó.

Thiện Tâm
08-31-2015, 05:16 PM
MỤC TÁM: CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG VÀ TÁNH GIÁC TOÀN VẸN



VI. CHỈ TÁNH DIỆU MINH LÀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” VÀ “TỨC”

Kinh:

“Phú Lâu Na, ông lấy cái Sắc, cái Không mà lấn cướp lẫn nhau ở nơi Như Lai Tạng, thì Như Lai Tạng theo ông làm Sắc làm Không, toàn khắp pháp giới. Vậy nên ở trong đó, Gió thì động, Hư Không thì yên lặng, mặt trời thì sáng, mây thì tối. Chúng sanh mê muội, trái với Giác, hợp với Trần, nên phát ra trần lao mà có các tướng thế gian.

“Ta thì lấy Tánh Diệu Minh, bất sanh bất diệt, hợp với Như Lai Tạng. Như Lai Tạng đó chính là Tánh Giác Diệu Minh, tròn vẹn chiếu soi pháp giới. Thế nên, ở trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đạo tràng bất động, cùng khắp mười phương thế giới. Thân trùm cả mười phương hư không vô tận, nơi đầu một mảy lông, hiện ra cõi Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Diệt trần hợp Giác, nên Chân Như Diệu Giác Minh Tánh hiện bày.

Thông rằng:

“Chưa ra khỏi luân hồi mà bàn luận Viên Giác, thì Tánh Viên Giác cũng cùng trôi lăn. Nếu hết khỏi luân hồi thì làm gì có chuyện đó.” Tức ở đoạn này nói: “Lấy cái tướng của Sắc, của Không, mà lấn cướp lẫn nhau để luận Như Lai Tạng thì Tánh Như Lai Tạng cũng theo Sắc Không mà thành tam giới lưu chuyển; như vậy mà muốn khỏi thế gian nhọc mệt thì không thể có. Chúng sanh mê muội, không thấu suốt được rằng Sắùc Không cùng với ta vốn là một Thể. Vì hình tướng trói buộc nên đụng đâu cũng thành ra trở ngại, chính là vì trái với Tánh Giác, nên vốn là Minh mà chẳng được Diệu, bèn gọi đó là Mê. Trần tướng thuộc về sanh diệt, nguyên chẳng phải vốn có. Tánh Giác tuyệt không sanh diệt, chẳng nhờ ngoài đến. Chẳng phải vốn có, thì có thể diệt; chẳng ở ngoài đến, nên có thể hợp cùng. Đó là Chân Như Diệu Giác, tròn đủ chiếu soi pháp giới, một tức tất cả, tất cả tức một, ngang dọc tự do, sự sự vô ngại. Đây là diệu dụng không thể nghĩ bàn, chẳng phải do tu mà thành, nên tạm nói là hiện bày ra mà thôi vậy.

Luận An Tâm Pháp Môn của Sơ Tổ Đạt Ma nói: Khi mê thì người đuổi theo pháp, khi ngộ thì pháp đuổi theo người. Ngộ thì thức thu nhiếp sắc, mê thì sắc thu nhiếp thức. Hễ có tâm phân biệt so đo trong hiện lượng của Tự Tâm, bèn đều là mộng. Nếu thức tâm tịch diệt, không có một chỗ nào cho động niệm, đó gọi là Chánh Giác.

Ngài Thần Tú làm bài kệ:

“Thân là cây Bồ Đề

Tâm như đài gương sáng

Luôn luôn siêng chùi lau

Chớ để bám bụi trần”.

Chỉ một cái “Siêng chùi lau” đó, bèn là lấy Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, nên mới ở ngoài cửa.

Bài kệ của Đức Lục Tổ là:

“Bồ Đề vốn không cây

Gương sáng chẳng phải đài

Xưa nay không một vật

Chỗ nào dính bụi đời?”.

Chỉ cái “Không một vật” này, bèn là lấy Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp cùng Như Lai Tạng, hợp nối địa vị Tổ vậy.

Tổ Triệu Châu thượng đường nói: “Như ngọc sáng trong tay, người Hồ đến thì người Hồ hiện, kẻ Hán đến thì kẻ Hán hiện. Lão tăng cầm một cọng cỏ dùng làm thân vàng trượng sáu [Thân Phật]. Lấy thân vàng trượng sáu dùng làm một cọng cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật”.

Có nhà sư hỏi: “Phật là phiền não của nhà nào?”

Tổ đáp : “Là phiền não đối với tất cả mọi người.”

Hỏi : “Làm sao được khỏi?”

Tổ Triệu Châu nói: “Dùng cái khỏi để làm gì?”

Ở đây, Tổ Triệu Châu không dùng cái Diệt Trần, không dùng sự Hiệp Giác, lại hay ở trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đủ để cùng Lục Tổ nắm tay cùng đi!

Tổ Viên Chiếu thượng đường nói: “Nơi đầu một mảy lông, hiện quốc độ Phật, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn”.

Cầm đứng cây gậy lên mà nói: “Cái này đây là Trần, làm sao nói là cái đạo lý chuyển pháp luân? Hôm nay sơn tăng chẳng tiếc lông mày, mà nói rõ với các ông : Đưa lên thì nước biển nổi sóng, núi Tu Di chập chùng! Bỏ xuống thì bốn biển lặng trong, đất trời nghiêm tĩnh. Xin hỏi các ông: Đưa lên là phải? Bỏ xuống là phải? Nên đoạn hay chẳng đoạn, lưỡng trùng công án!”

Rồi gõ thiền sàng mà xuống toà.

Lại nữa, Ni Sư Diệu Tổng thượng đường nói: “Tông thừa một phen xướng lên, thì Ba Tạng hết đường dẫn giải. Tổ lệnh thi hành ra, mười phương yên dứt. Hàng Nhị Thừa nghe đến hoảng hồn chạy mất, Thập Địa đến chỗ này vẫn còn như nghi. Nếu là bậc tuấn kiệt, thì chưa nói đã rõ. Giả sử có thủ đoạn dời sao, đổi Bắc Đẩu, bày bố trương cờ gióùng trống thì cũng bỏ công, nào có thật nghĩa! Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền, người học nhọc công, như vượn bắt bóng! Linh Sơn phó chúc, rủ lòng thuận với thời cơ mà diễn nói ba Thừa, mỗi tùy theo căn khí. Bắt đầu ở vườn Lộc Uyển, chuyển pháp luân Tứ Đế, độ trăm ngàn vạn chúng.

“Ngày nay, sơn tăng cùng với địa phương nơi này, cũng Phật cũng Tổ, sông núi, đất đai, cỏ cây rừng bụi, bốn chúng ngay đây, mỗi mỗi đều chuyển đại pháp luân, ánh sáng giao nhau thành lưới báu. Nếu mỗi một cọng cỏ, mỗi một cội cây không chuyển đại pháp luân thì chẳng gọi được là chuyển pháp luân lớn. Bởi thế mà nói nơi đầu một mảy lông hiện ra cõi nước Chư Phật, ngồi nơi một vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn. Ở trong thời gian không gian ấy mà làm ra vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn, khắp cùng pháp giới, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Chẳng động bước mà dạo chơi lầu các Di Lặc. Chẳng xoay lại cái Nghe mà nhập vào cửa mở khắp của Quan Âm. Tình với vô tình, Tánh Tướng bình đẳng, chẳng phải là Thần thông diệu dụng, cũng chẳng phải Pháp vốn như thế”.

Ở chỗ này mà tự do rành rẻ thì ơn vua, ơn Phật tức thời trả hết! Hãy nói như thế nào là một câu trả ơn?

Trời cao muôn trượng ở,

Biển rộng trăm sông về.

Các vị tôn túc khế hợp sâu xa với cảnh giới Diệu Minh, cực lực tuyên dương, lời lời đều có đạo vị.

Thiện Tâm
09-02-2015, 07:10 PM
Kinh:

“Nhưng Như Lai Tạng Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Địa, Thủy, Phong, Hỏa; không phải là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; không phải Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không phải Nhãn Thức Giới cho đến không phải là Ý Thức Giới; không phải là Minh hay Vô Minh, không phải hết Minh hay hết Vô Minh, như vậy cho đến không phải là Lão, không phải Tử, không phải hết Lão, Tử; không phải là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không phải Trí, không phải Đắc; không phải là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ; không phải là Ba La Mật Đa, như vậy cho đến cũng không phải là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, không phải Đại Niết Bàn, không phải Thường, không phải Lạc, không phải Ngã, không phải Tịnh; tất cả đều chẳng phải, chẳng phải là pháp thế gian hay xuất thế gian.

“Tức Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, tức là Tâm, tức là Không, tức là Địa, Thủy, Phong, Hỏa tức là Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý; tức là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; tức là Nhãn Thức Giới cho đến tức là Ý Thức Giới; tức là Minh, tức là Vô Minh, tức là Minh và Vô Minh tận, như thế cho đến tức là Lão, tức là Tử, tức Lão Tử tận; tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; tức là Trí, tức là Đắc; tức là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ, tức là Ba La Mật Đa. Như thế cho đến tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; tức là Đại Niết Bàn, tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tất cả đều tức là, tức là pháp thế gian và xuất thế gian vậy.

“Tức cái Như Lai Tạng Diệu Minh Tâm Nguyên, lìa Tức là, lìa Chẳng phải, cũng Tức là cũng Chẳng phải. Làm sao chúng sanh trong ba cõi và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác xuất thế gian, lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường Bồ Đề Vô Thượng của Như Lai, hay dùng ngôn ngữ thế gian mà vào Tri Kiến Phật.

Thông rằng:

Đoạn kinh này chỉ có Ngài Trường Thủy là xếp lại có thứ tự.

Nói rằng: Bản Diệu Viên Tâm không phải là Tâm, không phải là Không, hết thảy đó, là tóm về Chẳng phải Tướng để hiển bày Chân Đế.

Nói rằng: Nguyên Minh Diệu Tâm tức là Tâm, tức là Không, hết thảy đó, là tóm về Tức là Tướng để hiển rõ Tục Đế.

Nói rằng: Diệu Minh Tâm Nguyên lìa Tức Là, lìa Chẳng Phải cũng Tức Là cũng Chẳng Phải, là tóm về phủ che và soi chiếu để hiển bày Trung Đạo. Phủ che cả chân lẫn tục, nên nói lìa Tức là, lìa Chẳng phải. Chiếu soi cả chân và tục, nên nói cũng Tức là cũng Chẳng phải.

Ba Đế là một Thể, nên đều nói tức là Như Lai Tạng.

Ban đầu, lấy cái chẳng phải để dẹp tướng, kế đó lấy chỗ Tức là để dẹp cái Chẳng phải, cuối cùng nói rằng còn mang vác danh từ, lời nói thì chưa cùng tột ý chỉ của Nhất Chân. Lìa Tức là lìa Chẳng phải, không cả Chẳng phải và Không chẳng phải, ngôn ngữ hết đường, tâm hành tuyệt dấu, mới hiển lộ Nhất Chân pháp giới Như Lai Tạng Tâm. Cho nên, trong kinh Duy Ma Cật, ba mươi mốt vị Bồ Tát thuyết pháp môn Bất Nhị đều dùng lời nói để dẹp hình tướng, còn Ngài Văn Thù lấy lời nói để dẹp lời nói. Đức Duy Ma Cật lấy không lời nói mà dẹp lời nói, mới là rốt ráo.

Tất cả pháp thế gian không ra ngoài năm Ấm, bảy Đại, Căn, Trần, Xứù, Giới. Pháp xuất thế gian không ra ngoài Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa. Chỉ có Bồ Tát với Phật, ở nơi thế mà xuất thế, chẳng có chuyên về xuất thế vậy. Tâm thuộïc về Thức, nên thu nhiếp năm Ấm, Nhãn Thức Giới v.v... thì thu nhiếp mười hai Xứ. Đó là sáu cõi phàm phu vậy. Hàng Duyên Giác quán mười hai nhân duyên, có tướng sanh khởi, có tướng tu trừ, đó là cảnh giới Duyên Giác. Biết cái Khổ, đoạn cái Tập, chứng Diệt, tu Đạo, là cảnh giới Thanh Văn. Có Trí, có Đắc, cho đến sáu Ba La Mật, là cảnh giới của Bồ Tát. Ba hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri và bốn Đức Niết Bàn, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đều là Phật Giới. Thế gian và xuất thế gian không ngoài những cảnh giới trên. Nếu nơi mỗi Giới mà chấp trước vào cái Tức là thì chẳng có tròn vẹn, nên phải ở nơi Chẳng phải mà thấy tròn vẹn. Một khi chấp trước lấy cái Chẳng phải, thì chẳng diệu, nên phải ở nơi Tức là để thấy cái Diệu. Diệu mà Minh, Minh mà Diệu, chẳng phải Tức, chẳng phải Phi, cũng là Tức, cũng là Phi, Năng Sở đều lìa, không còn chút bóng dáng vang vọng nào khá được, đó là Bồ Đề Vô thượng chân thật vậy.

Ngài Mã Minh nói: “Cái Chân-Thật-Không ấy là từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả nhiễm pháp, lìa tất cả pháp và tướng sai biệt, không có một chút tâm phân biệt hư vọng vậy. Nên biết Chân Như chẳng phải là có tướng, chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là Hữu-Vô-Tướng, chẳng không phải Hữu-Vô-Tướng, chẳng phải tướng khác, chẳng tướng Một hay Khác, chẳng phải không tướng Một, Khác. Nói tóm lại, vì hết thảy chúng sanh có phân biệt hư vọng, nên không thể tiếp xúc được Chân Như. Thế nên, chúng sanh ba cõi thì thấy cái Giả của Chân Như; Thanh Văn, Duyên Giác thì thấy cái Không của Chân Như, nên đối với Trung Đạo Đế của Bồ Tát còn không thể đo lường nổi, huống là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Chỉ có Phật cùng với Phật mới có thể thấu suốt rốt ráo. Ngay hàng Đăng Địa Bồ Tát, còn có chỗ chẳng thấy, thì há ngôn ngữ thế gian mà có thể suy đoán tăm hơi ư? Vô Thượng Bồ Đề không thể lấy tâm trí mà biết, không thể lấy lời lẽ nói năng mà nhập, càng thâm nhập thì càng thấy chỗ nhiệm mầu của nó vậy”.

Có nhà sư hỏi Tổ Mã Tổ [Đạo Nhất thiền sư, xứ Giang Tây, đời Đường. Là người kế pháp của Tổ Nam Nhạc Nhượng. Ngài họ Mã thị, đời ấy gọi là Mã Tổ. Trong niên hiệu Ngươn Hòa được phong tặng là Đại Tịch.] : “Hòa Thượng vì sao nói “Tức Tâm tức Phật”?”

Đáp : “Để dỗ trẻ con nín khóc”.

Hỏi : “Nín rồi thì như thế nào?”

Đáp : “Chẳng phải Tâm, chẳng Phật”.

Hỏi : “Người ngoài hai loại ấy đến chỉ dạy làm sao?”

Đáp : “Vì y mà nói chẳng phải vật”.

Hỏi : “Bỗng gặp người trong ấy đến thì như thế nào?”

Đáp : “Liền dạy y thể hội đạo lớn”.

Ngài Mã Tổ đã ở trong Niết Bàn Diệu Tâm nên xuất lời, hà hơi đều hợp với Tâm đó.

Lại nữa, Đức Mã Tổ nghe Ngài Đại Mai trụ sơn, mới bảo nhà sư đến hỏi: “Hòa Thượng ra mắt Mã đại sư, được cái gì mà trụ núi này?”

Ngài Đại Mai nói: “Đại sư nói với tôi “Tức Tâm, tức Phật”. Tôi bèn ở trong ấy mà trụ”.

Nhà sư nói: “Gần đây, Phật Pháp của đại sư lại khác”.

Ngài Mai nói: “Ra sao?”

Đáp : “Đại sư lại nói “Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật””.

Ngài Đại Mai nói: “Cái ông già ấy làm mê loạn người chưa có ngày thôi! Mặc kệ ông ta chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật. Tôi vẫn tức Tâm, tức Phật!”

Nhà sư ấy về thưa lại với Đức Mã Tổ, Ngài nói : “Trái mơ (Đại Mai) chín rồi vậy”.

Thiền sư Đông Tự Hội thường sợ đệ tử lấy câu “Tức Tâm, tức Phật” mà đàm luận, ghi nhớ, đọc tụng không ngừng. Ngài bảo : “Phật trụ chỗ nào mà nói tức Tâm? Tâm như ông thầy vẽ, sao nói tức Phật?” Bèn khai thị cho chúng rằng : “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo. Gươm mất đã xa rồi, mới khắc dấu vào ghe!”

Tổ Nam Tuyền có lần nói: “Giang Tây Mã Tổ dạy tức Tâm tức Phật, Vương Lão sư (là Nam Tuyền) chẳng nói thế! Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải Vật, nói như thế thì có lỗi gì chăng?”

Ngài Triệu Châu lễ bái rồi bỏ đi ra.

Khi ấy có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu : “Thượng Tọa lễ bái rồi bỏ đi ra, là ý gì thế?”

Ngài nói : “Ông hãy trở lại hỏi lấy Hòa Thượng”.

Nhà sư bèn hỏi Tổ Nam Tuyền : “Vừa rồi ý của Triệu Thượng Tọa là thế nào?”

Tổ Truyền nói : “Ông ấy lãnh hội được ý chỉ Lão tăng”.

Ở nơi chỗ dụng xứ của các vị lão túc mà chẳng có nghi, mới có thể nhập Phật Tri Kiến.

Thiện Tâm
09-02-2015, 07:12 PM
Kinh:

“Ví như đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà tuy là có diệu âm, mà không có ngón tay diệu thì rốt cuộc chẳng phát ra được. Ông và chúng sanh cũng như thế đó. Cái Chân Tâm hằng giác quý báu, mỗi mỗi đều tròn đủ. Như ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát ra ánh sáng. Còn các ông vừa tạm khởi tâm, thì trần lao đã nổi dậy. Do chẳng siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, ưa nhớ Tiểu Thừa được chút ít đã cho là đủ”.

Thông rằng:

Diệu Minh, Minh Diệu chính là Diệu Âm này, với cái diệu của ngón tay đều chẳng phải là chỗ nghĩ bàn có thể đến được. Tức là như ta ấn ngón tay, tiếng nhiệm mầu theo đó phát ra, như Hải Ấn phát sáng, sắc sắc tròn đầy, có gì tạo tác đâu?

Kinh Đại Tập nói: “Toàn thể sắc tượng của cõi Diêm Phù Đề đều là ấn văn của đại hải, nên gọi là Hải Ấn”.

Các ông thì vừa mới móng tâm, cũng như đàn với tay chẳng có rập nhau, đã chẳng nghe được nhiệm mầu, mà trần lao nổi lên loạn xạ. Chỉ vì dùng cái tâm sanh diệt tương ưng với Như Lai Tạng, không tùy thuận Định Huệ chiếu soi, mà tùy với vô minh phiền não, nên có trần lao. Trần lao che khuất thì tuy có Chân Tâm Bảo Giác, mỗi mỗi tròn đầy, cũng không thể phát ra được.

Thiền sư Đông Minh Thiên, một hôm đang đọc kinh Lăng Nghiêm, có vị đạo giả tên Trung hỏi: “Như Ta ấn ngón tay thì Hải Ấn phát quang”, ý Phật như thế nào?”

Ngài nói : “Cái lão Thích Ca, đáng cho hai mươi gậy!”

Hỏi : “Vì sao như thế?”

Đáp : “Dùng ấn ngón tay làm gì?”

Hỏi : “ “Ông vừa móng tâm, trần lao đã nổi”, lại là sao?”

Đáp : “Đó cũng là Hải Ấn phát quang!”

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay! Phải thấy được như thế mới gọi là chuyển Lăng Nghiêm.

Thiền sư Tiến Phúc Ngộ Bổn thượng đường nói: “Vua Càn Thát Bà vừa tấu nhạc, thì núi sông, đất đai đều nhảy múa. Có đâu như lão què Vân Môn, thoát đạo Hai Mươi Lăm tháng Chạp! Bác Sơn này ngày nay, có Điều thì chụp Điều, không có Điều thì chụp lấy Lệ, chỉ cần ứng với thời tiết”.

Bỗng cầm lên cây gậy, gác ngang đầu gối, làm thế gãy đàn, rồi nói: “Có nghe thưởng thức tiếng đàn chăng?”

Chặp lâu nói rằng: “Dầu cho làm tiếng phụng hoàng kêu. Rốt cuộc có ai hay Chỉ Pháp [Pháp của ngón tay]!”. Đánh vào bàn một cái, rồi xuống tòa.

Than ôi, Chỉ Pháp há thật chẳng truyền sao? Siêng năng cầu đạo Vô Thượng Giác, tự mình hiện được đó.

Thiện Tâm
09-03-2015, 04:34 PM
VII. CHỈ MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN, HẾT MÊ LÀ BỒ ĐỀ

Kinh:

Ông Phú Lâu Na thưa: “Chân Tâm tròn sáng, trong sạch nhiệm mầu của tôi và của Như Lai, đều tròn đầy không hai, thế mà tôi từ xưa mắc lấy Vọng Tưởng, ở lâu trong luân hồi nay được Thánh Thừa, còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các Vọng đều diệt sạch, độc chỉ một Chân Thường mầu nhiệm. Xin hỏi Như Lai, tất cả chúng sanh nhân gì mà có Vọng, tự mình che lấp tánh Diệu Minh, phải chịu sự trôi chìm này?”

Phật bảo ông Phú Lâu Na: “Ông tuy trừ được nghi ngờ, mà các điều lầm còn sót lại chưa dứt hết. Nay ta lại lấy những việc thế gian trước mắt mà hỏi ông. Ông há chẳng có nghe trong thành Thất La Phiệt, có anh Diễn Nhã Đạt Đa vào buổi sáng lấy cái gương soi mặt, bỗng ưa cái đầu trong gương và mày mắt có thể thấy được, rồi nổi giận trách cái đầu của mình sao không thấy mặt mày, cho là loài yêu quái, rồi không vì cớ gì phát điên lên bỏ chạy. Ý ông thế nào? Người ấy vì nguyên nhân nào mà khi không phát điên bỏ chạy?”.

Ông Phú Lâu Na thưa: “Tâm người ấy điên cuồng, chứ không có lý do nào khác”.

Đức Phật nói: “Tánh Diệu Giác tròn đầy vốn sáng suốt, nhiệm mầu tròn khắp. Đã gọi là Vọng thì làm sao có nhân, nếu có nguyên nhân thì sao gọi là Vọng? Chỉ tự các Vọng Tưởng xoay vần làm nhân cho nhau, từ cái Mê mà tích chứa thêm Mê, trải qua vô số kiếp nhiều như bụi. Tuy Phật chỉ rõ ra, còn chưa thể trở lại. Như thế, nguyên nhân của Mê chỉ là nhân Mê mà tự có. Tỉnh ngộ cái Mê ấy vốn không có nguyên nhân, Vọng nào còn có chỗ nương dựa ? Còn không có chỗ sanh ra, muốn diệt cái gì?

“Người được Bồ Đề như người tỉnh giấc, kể lại chuyện trong chiêm bao, tâm dù rõ ràng nhưng đâu còn nhân duyên nào nữa để cầm được vật trong mộng? Huống là cái Mê thấy mọi sự hiện giờ chẳng có nguyên nhân ở đâu cả, vốn không chỗ có! Như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa [Ở đây, lấy cái bản đầu của mình ví dụ cho Chơn Tánh; cái đầu trong gương ví dụ cho Vọng Tưởng (cái giả hình) ; chỗ vui vẻ thấy cái đầu trong gương có mặt mày ví dụ chỗ nhìn nhận cái giả tưởng là thật, chấp cứng, chẳng chịu bỏ. Chỗ chẳng thấy cái bản đầu của mình là vì Chơn Tánh không có hình tướng chi cả] trong thành kia nào có nhân duyên gì, bỗng tự sợ cái đầu mình rồi bỏ chạy. Tự nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ở ngoài mà có được. Dầu chưa hết cuồng, cái đầu kia cũng có khi nào mất.

“Phú Lâu Na, bản tánh của Vọng là như vậy đó, đâu có nguyên nhân gì mà có?

“Ông chỉ không tùy theo phân biệt các thế gian, nghiệp quả và chúng sanh, ba thứ tương tục đó. Ba Duyên ấy đã đoạn, thì ba nhân cũng chẳng sanh, liền trong tâm ông cái điên cuồng của chàng Diễn Nhã Đạt Đa tự hết. Hết đó tức là Bồ Đề, cái Tâm tuyệt vời trong sạch sáng suốt, vốn khắp cùng pháp giới, không do đâu mà được, nào phải nhọc nhằn khẩn thiết tu chứng gì đâu”.

Thông rằng:

Ông Phú Lâu Na đã chứng Hết Lậu, đã được Thánh Quả, sao lại còn các điều mê lầm còn sót chưa hết dứt? Chỉ vì trước kia có dụng công diệt trừ vọng tưởng, nghĩa là cái Tâm diệt trừ vọng tưởng này chính là cái Giác Minh Phân Biệt sợ cái đầu của mình mà phát điên bỏ chạy! Diệt Vọng cầu Chân, có cái Chân để đắc thì cũng như nhìn cái đầu trong gương, mày mắt thấy được. Chân nào có mất bao giờ, nhưng khó nổi đo lường, cũng như cái đầu vốn chẳng hề mất mà mặt mày khó thấy. Một khi sanh phân biệt đây là chúng sanh, đây là nghiệp quả rồi cho là khác với Chân Như của ta. Thế dầu có được Chân Như, do đoạn trừ Vọng mà chứng đắc, cũng chẳng phải là Tự Tánh Thiên Chân Phật xưa nay vậy. Ông Phú Lâu Na chưa thấu rõ chỗ này, nên cho rằng Vọng đã có thể diệt, thì vọng sanh ắt phải có nguyên nhân, cần biết cái nguyên nhân của nó, mới đoạn trừ được.

Ở đoạn trước đã nói: nhân Minh mà lập Sở, chính bởi vì thế mà Vọng sanh ra. Thế ấy cũng là phân biệt, chính thật là Vọng!

Đức Thế Tôn chỉ thẳng Đốn Môn, chẳng cần diệt Vọng, chỉ ngưng đi phân biệt, thì Bồ Đề tự sẵn đủ. Chỉ thôi chạy điên, thì cái đầu xưa vẫn y nguyên ra đó!

Sở dĩ vọng phân biệt, Vọng chạy điên, là vì tích chứa mê lầm mà có. Cái Mê vốn chẳng nhân đâu mà có, không từ Mê mà sanh ra, không từ Ngộ đến. Mê đã không gốc gác gì, thì Vọng nương đâu mà có? Vọng thật không chỗ nương, Vọng vốn chẳng sanh vậy. Vọng nguyên là chẳng sanh, không đâu mà có thể diệt. Diệt mà không đâu có thể diệt, đó là Tịch Diệt Hiện Tiền.

Tánh Diệu Giác tròn sáng, vốn sáng suốt nhiệm mầu tròn khắp, nguyên là không có chuyện sanh diệt, tuyệt không có mảy mún vọng nào cả. Trong Bồ Đề, tìm cái Chân còn không thể được, thì từ chỗ nào kiếm được cái vọng ư?

Cho nên, không tùy thuận theo phân biệt nơi chỗ sanh ra của ba thứ tương tục cùng cái nhân duyên đoạn trừ để cho khỏi sanh ra, tức thì một tâm niệm chẳng sanh, vạn pháp nào có lỗi? Đó là cái Bồ Đề tuyệt trần trong sạch, nào mượn sức người tu chứng để được ư? Ba Duyên tịch diệt, ba Nhân chẳng sanh, ở ngay trong đó mà tự thành Diệt Tận Định.

Ông Phú Lâu Na đều thường khởi ra các sự phân biệt, cho là Bồ Đề do tu chứng mà được. Chỉ cần đừng phân biệt rối rắm như vậy, thì không có Vọng nào để khá diệt, không có Chân nào khá đắc, bèn là thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới. Nếu nói Như Lai Độc Diệu Chân Thường, là do cả thảy đều trọn dứt diệt mà chứng được, thì chưa thấy chỗ diệu kỳ của Như Lai vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá : “Như nay hiện có đủ thứ vọng niệm, vì sao lại nói không?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Vọng vốn không có tự thể, chỉ là nơi Tâm của ông khởi lên. Như ông biết Tâm nguyên là Phật, Tâm vốn chẳng có vọng, thì Tâm nào có khởi, luống lại đi nhận vọng ư? Như ông chẳng sanh tâm động niệm, thì tự nhiên chẳng có vọng nào cả. Do đó mới nói: Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt.”

Nhà sư hỏi: “Nay ngay lúc vọng niệm khởi, thì Phật tại chỗ nào?”

Tổ Bá nói: “Nay ngay khi ông tỏ ra biết vọng niệm khởi lên, thì cái tỏ biết đó chính là Phật. Còn trong ấy mà không có vọng niệm, thì Phật cũng không. Vì sao như thế? Vì ông khởi tâm làm nên cái thấy Phật, bèn là có Phật để thành. Làm nên cái thấy có chúng sanh, bèn là có chúng sanh để độ. Khởi tâm động niệm đều là chỗ thấy của ông. Nếu không có tất cả mọi cái thấy thì Phật có ở chốn nào? Như Ngài Văn Thù vừa khởi lên cái Phật Kiến, liền bị hai ngọn núi Thiết Vi đè!

Nhà sư hỏi: “Nay chính lúc tỏ ngộ, Phật ở tại chốn nào?”

Tổ Bá đáp: “Cái hỏi đó từ đâu mà lại? Cái Giác đó từ đâu mà khởi lên? Nói, nín, động, tịnh, cả thảy thanh sắc, toàn là Phật sự, chỗ nào tìm Phật? Chẳng thể trên đầu lại chồng thêm cái đầu, trên miệng để thêm cái miệng! Chỉ đừng sanh dị kiến, thì núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục. Núi sông đại địa, nhật nguyệt tinh tú đều chẳng ra ngoài Tâm ông. Tam thiên thế giới đều là tự kỷ của ông. Chỗ nào mà có lắm thứ? Ngoài Tâm không pháp, ngập mắt núi xanh, thế giới, hư không, xứ xứ sáng rỡ, không một mảy tơ để ông chen vào kiến giải. Thế nên, tất cả thanh sắc là con mắt huệ của Phật. Pháp chẳng khởi lên một mình, nương cảnh mới có sanh, vì có vật mà có nên nhiều trí. Suốt ngày nói mà nào từng nói. Suốt ngày nghe mà nào từng nghe. Như thế nên Đức Thích Ca bốn mươi chín năm thuyết pháp mà chưa hề nói ra một chữ”.

Nhà sư hỏi: “Nếu như thế, chỗ nào là Bồ Đề?”

Tổ Bá nói: “Bồ Đề không là chỗ nào hết. Phật cũng chẳng đắc Bồ Đề, chúng sanh chẳng mất Bồ Đề. Không thể lấy thân mà được đó, không thể lấy Tâm mà cầu đó. Tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ Đề”.

Nhà sư hỏi: “Như thế nào phát Bồ Đề Tâm?”

Tổ Bá nói: “Bồ Đề là không chỗ đắc. Nay ông chỉ phát tâm Vô Sở Đắc, quyết định không có một pháp nào để đắc, tức là Bồ Đề Tâm. Bồ Đề không có chỗ sanh ra, cho nên không có chuyện đắc. Thế nên nói rằng: “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có chút pháp nào có thể đắc, Phật bèn thọ ký cho Ta”. Phải rõ rằng, tất cả chúng sanh vốn là Bồ Đề, không lẽ trở lại đắc ư? Giờ đây ông hỏi phát Bồ Đề Tâm, muốn đem một cái tâm mà học lấy Phật Đạo. Chỉ nghĩ định làm Phật Đạo thôi, thì mặc cho ông tu ba a tăng tỳ kiếp cũng chỉ định được cái Báo Thân, Hóa Thân Phật. Thế thì đối với cái Chân Tánh Phật bổn nguyên của ông có giao thiệp gì? Nên nói: Cầu bên ngoài ông Phật có hình tướng, thì có giống gì ông đâu?”

Lại Tổ Lâm Tế nói rằng: “Chư vị học Đạo ở các nơi nói có Đạo để tu, có Pháp để chứng. Các ông thử nói xem chứng Pháp gì, tu Đạo gì? Hiện giờ đây chỗ dùng của các ông có thiếu hụt cái gì đâu? Sửa sang thêm thắt chỗ nào? Các ông thầy trẻ tuổi hậu sinh không hiểu, liền tin ngay đám cáo chồn tinh mị đó, để cho họ bày chuyện trói buộc người khác.

“Họ nói : Hình tướng đạo lý là do giữ gìn, mến tiếc ba nghiệp mới được thành Phật.

“Nói như vậy thì chỉ như mưa bụi mùa Xuân.

“Cổ nhân nói: “Trên đường gặp người đạt đạo, thứ nhất là chẳng hướng về đạo”!

“Do đó mà nói:

“Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành

Muôn ngàn tà cảnh lại đua sanh

Gươm Trí đưa ra không một vật

Cái sáng chưa bày, tối đã minh!”.

“Bởi thế, cổ nhân nói “Bình thường tâm là Đạo”. Đại Đức tìm kiếm cái gì? Ngay bây giờ đây, cái trước mắt nghe Pháp là đạo nhân không chỗ nương [Đạo nhân vô ], khắp chốn rõ ràng phân minh, chưa từng thiếu hụt. Các ông như muốn cùng Phật, Tổ chẳng khác, chỉ như thế mà thấy, chẳng khởi nghi lầm. Như các ông tâm tâm chẳng khác, thì gọi là Tổ. Tâm mà có chút sai khác đi: Tánh, Tướng liền khác nhau. Tâm như như chẳng khác, thì Tâm và Tướng không hai”.

Lại có nhà sư hỏi thiền sư Tiến Phúc Tư rằng : “Điện xưa không có Phật thì như thế nào?”

Tổ Tư nói : “Phạm âm ở đâu tới?”

Lại hỏi : “Chẳng mượn tu chứng, làm sao đắc thành?”

Tổ Tư nói : “Tu chứng tức chẳng thành”.

Chỗ Thấy của các vị tôn túc, mỗi mỗi đều suốt hợp với ý chỉ “Nào phải nhọc nhằn, ráo riết tu chứng gì đâu?” Đây tức là Niết Bàn Diệu Tâm, Chánh Pháp Nhãn Tạng, nào phải chờ đến chuyện Linh Sơn đưa lên cành hoa, Ngài Ca Diếp mỉm cười, rồi sau mới gọi là “Biệt truyền Tâm Ấn” ư?

Thiện Tâm
09-03-2015, 04:37 PM
Kinh:

“Ví như có người ở trong áo mình buộc một hạt Châu Như Ý mà không hay biết; nên phải xin ăn lưu lạc phương xa, nghèo nàn gầy ốm. Tuy bần cùng hết sức nhưng hạt châu không hề mất. Bỗng dưng có người Trí chỉ bày cho hạt châu, liền muốn gì có nấy, thành giàu có lớn, mới hay hạt Thần Châu chẳng phải do ở ngoài mà được.

Thông rằng:

Kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm chỉ thẳng tâm người, thấy Tánh thành Phật đều lấy hạt châu trong áo làm ví dụ. Như Lai Tạng Tánh, bị năm Ấm che đậy, như hạt châu buộc trong áo, nên không dễ thấy được. Hướng ra ngoài chạy kiếm thì mỗi ngày đều thấy chẳng đủ, nghèo ốm ở phương xa, chạy cuồng chín cõi. Cầu cái vui của trời, người, giữ riêng cái lợi ích nhỏ nhen, thì cũng còn là rong ruổi ăn xin. Còn như được Bổn Tâm, thì đầy đủ dư dật. Hạt châu tên Như Ý, muốn gì được nấy. Nào ngờ tự tánh vốn tự sẵn đủ! Nào ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp (Lục Tổ khi ngộ đạo)! Nên diệu dụng chẳng hề thiếu hụt, thành giàu có vô biên. Một hạt Thần Châu này, mê cũng chưa từng mất, ngộ cũng chẳng từng được. Chỉ được người Trí chỉ cho, bèn tự thọ dụng không cùng, nào mượn chỗ tu chứng ư?

Một hôm, Đức Thế Tôn đưa ra một viên ngọc ma ni tùy sắc, rồi hỏi các vị Thiên Vương của năm phương rằng: “Viên ngọc này màu gì?”

Các vị Thiên Vương mỗi người nói mỗi màu khác nhau. Thế Tôn cất viên ngọc vào tay áo, rồi đưa tay lên hỏi: “Viên ngọc này có màu gì?”

Các vị Thiên Vương thưa: “Trong tay Phật không có châu, lấy chỗ nào có màu?”

Đức Thế Tôn than rằng: “Các ông sao mê mờ điên đảo lắm thế! Ta lấy hạt châu của thế gian đưa ra thì mỗi ông đều tranh nhau nói màu xanh, vàng, trắng, đỏ... Còn ta đưa hạt châu thật ra chỉ cho, lại rốt cuộc chẳng hay biết!”

Khi ấy, các vị Thiên Vương năm phương đều ngộ đạo.

Ngài Đại Châu, ban đầu ra mắt Đức Mã Tổ.

Tổ hỏi: “Từ đâu đến?”

Đáp rằng: “Ở chùa Đại Vân tại Việt Châu đến”.

Tổ nói: “Đến đây định có chuyện gì?”

Đáp: “Thưa, đến cầu Phật Pháp”.

Tổ đáp: “Kho báu nhà mình thì chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy rông làm chi? Ta, trong ấy một vật cũng không, ông cầu Phật Pháp nào?”

Ngài bèn làm lễ rồi hỏi: “Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải (Đại Châu)?”

Đức Mã Tổ nói: “Tức nay đang hỏi ta là cái đó. Kho báu của ông, hết thảy hiện thành, tuyệt không thiếu hụt, liền dùng tự tại, nào phải hướng ngoài tìm kiếm”.

Ngài Đại Châu ngay dưới lời nói tự rõ Bổn Tâm, chẳng do hiểu biết, vui mừng lễ tạ, hầu Tổ trong sáu năm. Về sau, viết cuốn “Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận”. Tổ xem rồi bảo với đại chúng: “Ở Việt Châu có viên ngọc lớn (Đại Châu), tròn sáng trong suốt, tự tại không gì ngăn ngại”.

Ngài Ngưỡng Sơn tham lễ thiền sư Đông Tự Hội.

Thiền sư hỏi: “Ông là người xứ nào ?”

Ngài Ngưỡng đáp: “Người Quảng Nam”.

Thiền sư Hội nói: “Tôi nghe ở Quảng Nam có viên minh châu trấn biển, có đúng không?”

Ngài Ngưỡng đáp: “Thưa, phải”.

Tổ Hội nói: “Châu ấy như thế nào?”

Ngài Ngưỡng nói: “Không trăng thì ẩn, có trăng thì hiện”.

Tổ Hội: “Có đem đến được không?”

Ngài Ngưỡng: “Đem đến được”.

Tổ Hội: “Sao chẳng trình ra với lão tăng?”

Ngài Ngưỡng Sơn khoanh tay bước tới, nói: “Hôm qua đến Qui Sơn cũng bị đòi hạt châu ấy! Ngay ấy không có lời để đối đáp, chẳng có lý lẽ nào để đưa ra!”

Tổ Hội nói: “Thật là sư tử con khéo hay gầm rống!”

Trăm, ngàn năm về sau, nhờ có các vị tôn túc hộ trì được hạt thần châu, chẳng do ngoài mà được, thì càng tin lời Phật chẳng có sai lầm.

Thiện Tâm
09-05-2015, 05:29 PM
VIII. LẠI PHÁ XÍCH NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN

A. XƯA NAY KHÔNG VỌNG

Kinh:

Khi ấy Ông Anan ở trong đại chúng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng dậy thưa rằng: “Đức Thế Tôn hiện nói về các nghiệp Sát, Đạo, Dâm. Ba Duyên đã đoạn, nên ba Nhân chẳng sanh. Tánh điên trong tâm chàng Nhã Đa tự hết, hết tức là Bồ Đề, chẳng từ ai mà được. Đây là nhân duyên rồi, thật là rõ ràng, tại sao Như Lai lại bỏ đi nghĩa Nhân Duyên? Chính tôi từ Nhân Duyên mà tâm được khai ngộ.

“Bạch Thế Tôn! Nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh Văn Hữu Học tuổi nhỏ như chúng tôi, mà nay trong hội này, Ông Đại Mục Kiền Liên, cùng Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề đều từ Ông lão Phạm Chí nghe được lý nhân duyên của Phật mà phát tâm khai ngộ, được thành vô lậu. Nay nhờ Phật dạy rằng Bồ Đề chẳng do Nhân Duyên, thì các thuyết Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Ly thành Vương Xá lại thành Đệ Nhất Nghĩa! Xin Phật rủ lòng từ bi, khai mở cho sự mê lầm”.

Thông rằng:

Đức Thế Tôn dạy: “Ba Duyên dứt lìa, nên ba Nhân chẳng sanh”, chính là dạy nhóm Ông Phú Lâu Na chẳng tùy theo phân biệt các pháp ba thứ nhân duyên đoạn diệt nối nhau, thì tánh cuồng điên tự hết, Bồ Đề hiện tiền. Đó là Đức Phật chẳng muốn họ lấy cái Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, riêng mở ra một pháp môn Đốn Ngộ. Nghĩa là lấy sự đoạn trừ Nhân Duyên mà được cái bất sanh bất diệt còn chẳng cho phép thay, huống là lại có Nhân Duyên sao?

Ông Anan, một bề đa văn, quen theo cái biết Nhân Duyên và Tự Nhiên phá hoại lẫn nhau, rồi hiểu lầm rằng ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh, nghĩa là theo trong Tiểu Thừa, ba nghiệp Sát, Đạo, Dâm chẳng có duyên theo thì ba nhân Tham, Sân, Si chẳng sanh ra. Nếu có nhân duyên thì có đối đãi, rõ ràng thế kia, sao có thể nói là không có Nhân Duyên? Ngay như Ông Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất gặp được Tỳ kheo Mã Thắng dạy cho “Các Pháp theo nhân duyên mà sanh, các pháp theo nhân duyên mà diệt”, ngay dưới lời nói chứng Sơ Quả, thế là do Nhân Duyên mà khai ngộ. Các Trưởng Lão cũng đều như thế. Nay Phật bỏ lý Nhân Duyên, thì hóa ra nhóm Mạt Già Lê, Câu Xá Ly nói rằng “Chúng sanh tuy có sướng khổ, nhưng không có Nhân Duyên, chỉ Tự Nhiên như vậy thôi”, thì có gì khác đâu? Há chẳng biết rằng nghe lý Nhân Duyên của Phật, được thành Vô Lậu, thì chỗ nói “Theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt” là đã ngộ thấy cái yếu chỉ Vô Sanh. Cái sanh diệt kia, đều là Duyên đó vậy, cho nên, đắc Vô Lậu, há lại vướng mắc ở Nhân Duyên ư?

Thị giả Hội Thông của Tổ Ô Sào một ngày kia muốn từ giã mà đi.

Tổ Sào nói : “Nay ông đi đâu?”

Đáp : “Hội Thông này vì Pháp mà xuất gia, Hòa Thượng chẳng rủ lòng từ dạy bảo, nên nay đi các nơi để học Phật Pháp”.

Tổ Sào nói : “Nếu là Phật Pháp thì ở đây ta cũng có chút ít”.

Hỏi : “Như thế nào là Phật Pháp của Hòa Thượng?”

Tổ Ô Sào liền rút ra một sợi lông bố, đưa lên mà thổi.

Thầy Hội Thông bèn lãnh ngộ.

Ngài Phần Dương tụng rằng:

“Sơ tâm thị giả mộ thắng duyên

Biệt thầy định trải học tham thiền

Ô Sào biết đấy, cơ duyên đến

Thổi lông, ngay đó được tâm an”.

Như cái cơ duyên này, há cũng nói là Nhân Duyên ư!

Thiện Tâm
09-05-2015, 05:33 PM
Kinh:

Phật bảo Ông Anan: “Như Anh Diễn Nhã Đạt Đa ở trong thành, cái nhân duyên tánh cuồng mà diệt trừ được, thì cái tánh không cuồng tự nhiên hiện ra. Các lý lẽ Nhân Duyên, Tự Nhiên rốt cuộc chỉ là như vậy.

“Anan, Anh Diễn Nhã Đạt Đa cái đầu vốn là tự nhiên, vốn tự như thế, có khi nào mà không tự nhiên đâu, thì vì nhân duyên gì mà sợ cái đầu để phát điên cuồng bỏ chạy? Nếu cái đầu là tự nhiên, vì nhân duyên mà điên thì sao không cứ tự nhiên, vì nhân duyên mà mất? Cái đầu vốn không mất, mà sự điên cuồng sợ hãi vọng có ra, chứ nào có bao giờ thay đổi gì, thì nào phải cần đến nhân duyên. Nếu tính điên vốn là tự nhiên, vốn có sẵn sự điên rồ sợ hãi như vậy, thì khi chưa điên, cái điên ấy núp trốn chỗ nào? Nếu tính không điên là tự nhiên, thì cái đầu cũng vẫn tự nhiên, sao lại điên cuồng bỏ chạy? Nếu ngộ cái đầu vốn sẵn như thế, biết sự phát điên bỏ chạy của mình, thì Nhân Duyên và Tự Nhiên đều là hý luận.

Thông rằng:

Nếu nói Nhân Duyên đoạn diệt rồi sau đó Chân Tánh Bồ Đề tự nhiên hiện ra, thì chẳng phải là chánh luận. Chuyện Anh Diễn Nhã Đạt Đa sợ đầu bỏ chạy mà xét cho cùng, thì chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, dứt khoát rõ ràng vậy. Trước tiên, lấy cái đầu mà luận, thì cái đầu vốn tự nhiên, chắc không thể vì nhân duyên mà bị đoạt mất. Thế sao vì nhân duyên soi gương mà phát cuồng? Đã cho Nhân Duyên là đúng, thì Tự Nhiên không còn đứng vững, thế thì tại sao không do nhân duyên mà thật mất cái đầu? Nhưng cái đầu vốn chẳng mất, anh chàng kia tự cuồng mà chạy, thì cái cuồng này vốn hư vọng có ra, thì rõ ràng chẳng có liên quan gì đến chuyện Nhân Duyên vậy. Đã chẳng từ nhân duyên mà sanh, cũng chẳng theo nhân duyên mà diệt, mà nói nhân duyên tánh cuồng có thể diệt trừ được, là hoàn toàn sai lầm vậy.

Lấy tánh cuồng mà luận, nếu tánh cuồng vốn là tự nhiên thì nó núp trốn ở đâu? Còn tánh không cuồng là tự nhiên thì tại sao điên chạy? Cuồng hoặc không cuồng đều không có tự tánh, chẳng có liên quan gì đến lý Tự Nhiên, thật là rõ ràng như vậy. Đã chẳng phải là tự nhiên núp ẩn, cũng chẳng phải tự nhiên có ra, nên nói tánh không cuồng tự nhiên hiện ra là sai lầm vậy. Thế nên biết rằng, nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên nào có dính dáng gì với cái đầu? Nói vốn là cuồng, nói vốn là không cuồng, thì nào có xong hết chuyện tánh cuồng? Những thứ ấy đều thuộc về hý luận, chẳng có gì chân thật.

Chỉ cần ngộ được cái đầu xưa nay vốn có sẵn, vốn không hề mất. Biết rõ sự phát điên bỏ chạy, thì điên vốn hư vọng mà có ra. Chỉ một chữ Ngộ này, chỉ một chữ Biết này, tức là sự thọ dụng chân thật của nhà mình, chẳng có lời lẽ nói năng nào đến được nổi. Ngộ cái đầu, tức là ngộ Bản Lai Diện Mục, nào có chút gì đổi khác. Biết cuồng, tức là biết sự vọng sanh ra phân biệt mà chạy điên trong chín cõi. Cái Ngộ ấy, cái Biết ấy, như tia chớp, như lửa xẹt ra từ đá, trong khoảng sát na, há là cái chỗ đứng được của các thứ Nhân Duyên, Tự Nhiên sao? Thế nên, nói rằng “Hết tức Bồ Đề, không do ai mà được, xa lìa các thứ Nhân Duyên và Tự Nhiên” là thế.

Thiền sư Trí Nham ở núi Ngưu Đầu, đời Đại Nghiệp nhà Tùy làm chức Lang tướng, lập nhiều chiến công. Đến đời Vũ Đức nhà Đường, bốn mươi tuổi bèn xin xuất gia, theo học thiền sư Bảo Nguyệt. Có hai người bạn trước ở trong quân đội nghe Ngài ẩn tu, mới vào núi tìm Ngài. Gặp gỡ, mới hỏi rằng: “Lang tướng quân điên sao, ở chốn này làm gì?”

Ngài đáp: “Cái điên của tôi thì sắp tỉnh, cái điên của các ông thì đang phát! Than ôi! Ham sắc mê thanh, tham danh muốn lợi, trôi lăn sanh tử, từ đâu mà có!”

Hai người cảm ngộ, than thở mà đi.

Sau, Ngài tham yết thiền sư Lại Dung, phát minh được đại sự. Tổ Lại Dung bảo rằng: “Ta lãnh nhận yếu quyết chân chánh của đại sư Đạo Tín, chỗ sở đắc đều mất sạch. Nếu như có một pháp vượt hơn Niết Bàn, ta cũng nói như là mộng huyễn. Ôi! Một mảy bụi bay mà che trời! Một hạt cải rơi mà trùm đất! Ông nay đã trải qua cái Thấy ấy, ta lại còn gì nói nữa”.

Bởi thế, hết điên thì như Ngài Trí Nham, có thể nói là Chân Ngộ vậy.

Thiện Tâm
09-05-2015, 05:36 PM
B. ĐƯA VÀO BỒ ĐỀ

Kinh : “Thế, nên Ta nói : “Ba Duyên lìa dứt, tức là Tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề sanh, tâm sanh-diệt diệt, đó cũng chỉ là sanh diệt. Diệt và sanh đều hết ráo, là vô công dụng Đạo. Nếu có Tự Nhiên, như vậy là nói tâm tự nhiên sanh, tâm-sanh-diệt diệt, thế cũng là sanh diệt, và cái không sanh diệt thì gọi là Tự Nhiên. Cũng như thế gian, những tướng hòa lẫn thành một thể gọi là tính hòa hiệp, còn cái chẳng hòa hiệp thì gọi là tính bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải bản nhiên, hòa hợp chẳng phải hòa hợp, hòa hợp và bản nhiên đều lìa. Lìa và không lìa đều chẳng phải. Câu nói ấy mới gọi là pháp không hý luận.

“Bồ Đề Niết Bàn còn ở xa lắm, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng năng tu chứng thì tuy có ghi nhớ thanh tịnh diệu lý mười hai bộ kinh của mười phương Như Lai như cát sông Hằng cũng chỉ tăng thêm hý luận.

Thông rằng :

Đoạn này giãi bày rõ cái ý “Nào nhờ siêng năng cần khổ tu chứng”. Bỗng nhiên cuồng hết chẳng phải khó nhọc đoạn trừ duyên, nên không phải là Nhân Duyên. Nếu nói: “Vì ba Duyên đoạn dứt, thì ba Nhân chẳng có sanh ra, nhờ nhân duyên đó mà được Tâm Bồ Đề”, thế là Tâm Bồ Đề sanh là do tâm sanh-diệt diệt. Diệt Vọng chứng Chân thì Chân cũng thành Vọng, đó cũng chỉ là pháp sanh diệt thôi, chẳng phải là Bồ Đề. Cái nhân duyên như vậy thuộc về sanh diệt, nên cũng dễ hết.

Đến chỗ diệt và sanh đều hết ráo, thì không những tâm sanh diệt hết mà cái diệt sanh diệt cũng hết tận. Đã không có sự sanh ra để diệt, tức là không có công phu nào để dùng. Ở trong đó nếu có cái bất sanh bất diệt mà gọi là Tự Nhiên, thì cái tâm tự nhiên này do nơi diệt và sanh đều hết mà hiển ra, đó là cái tâm tự nhiên sanh. Nhưng nhờ ở tâm sanh-diệt diệt mất mà có thì cũng là pháp sanh diệt, chẳng phải là Bồ Đề. Chữ “cũng” thật có ý vị! Cái không sanh diệt kia gọi là Tự Nhiên, sao cũng gọi là sanh diệt? Vì đối với cái sanh diệt mà hiển bày cái không sanh diệt, thế là có đối đãi vậy. Cũng như đối với hòa hợp mà hiển bày cái không hòa hợp. Có cái bản nhiên thì có cái không bản nhiên, có cái hòa hợp thì có cái không hòa hợp, rõ ràng toàn là đối đãi. Cũng như đối với sừng trâu có, rồi nói sừng thỏ không, nên cũng thuộc về sanh diệt. Cái kia chỉ làm không cái sanh diệt, chẳng có thể làm không cái Tự Nhiên. Cũng như nói “Nhà kia không có người”, thì mới chỉ làm “không” người ở trong đó, chứ chưa “không” được cái nhà. Đó không phải là cái thấy chân thật. Nên nói là hý luận.

Nếu giờ đây mà hợp với không hợp, bản nhiên với không bản nhiên, các pháp đối đãi, hết thảy đều xa lìa mà cũng không có cái tâm xa lìa, nên lìa hay hợp đều mất hết. Đã lìa Sở, lại lìa Năng; Năng Sở đều lìa, chỉ là một Chân Thật, câu này mới gọi là pháp không hý luận.

Nhưng nếu y theo câu này mà giữ Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng, thì cũng còn xa lắm! Vì sao thế? Vì còn ở tại hữu vi, có công phu, có huân tập vậy. Bồ Đề Chánh Giác, Niết Bàn Diệu Tâm chỉ có thể ở tại sát na mà ngộ nhập, chẳng phải là chỗ ông trải qua nhiều kiếp cần khổ để tu chứng được. Cái chẳng do trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng mà được, cái ấy không nương nhờ Nhân Duyên, Tự Nhiên gì ráo để đắc. Cái mà phải nhờ trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng, thì tất phải do Nhân Duyên, Tự Nhiên mà được. Cứ thế, thì tuy ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của mười phương Chư Phật là Pháp không hý luận, cũng chỉ tăng thêm các thứ hý luận Nhân Duyên, Tự Nhiên mà thôi, nào có thật đắc được gì. Nên chi, nghe nói “Ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh”, rồi theo đó phân biệt mà được Tâm Bồ Đề, thì chẳng phải là thực đắc, đó là chỗ nói “Lấy Tâm Sanh Diệt hợp với Như Lai Tạng” vậy. Chỉ không theo đó mà phân biệt, thì tánh cuồng tự hết. Hết là Bồ Đề, không do ai mà được, bèn là thật đắc, vì là lấy cái Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp với Như Lai Tạng vậy. Cái cơ duyên tối thượng này, há đồng với lối nói Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Lê được ư?

Đức Lục Tổ dạy: “Cái Bất Sanh Bất Diệt mà ngoại đạo nói, là lấy Diệt dừng Sanh, lấy Sanh mà bày ra cái Diệt, thế là có Diệt mà xem như không Diệt, có Sanh mà nói là chẳng Sanh. Ta nói chẳng Sanh chẳng Diệt là vốn Tự Vô Sanh, nay cũng không có Diệt. Bởi thế, chẳng đồng với ngoại đạo”.

Ngài Tiến Sơn Chủ hỏi Ngài Tu Sơn Chủ rằng: “Biết rõ Tánh sanh mà chẳng sanh, thì vì sao còn lưu lại cái sanh?”

Tu Sơn nói : “Măng rốt cuộc thành tre chứ, như nay làm cật tre, khiến trở lại đâu được!”

Tiến Sơn nói : “Sau này ông sẽ tự ngộ chỗ ấy”.

Tu Sơn nói : “Tôi chỉ như thế, ý chỉ của Thượng Tọa như thế nào?”

Ngài Tiến Sơn nói: “Cái này là Giám Viện Phòng, cái kia là Điển Tòa Phòng”.

Ngài Tu Sơn bèn lễ bái.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Hoát nhiên mất chỗ nương

Tự do nào chẳng quản

Nước nhà bình ổn thấy ai đâu

Lực lượng mống sanh phân giai cấp

Thân tâm rỗng rang tuyệt thị phi

Thị phi tuyệt!

Lập cả đại phương : không dấu vết!”.

Thế đó, chứng Bồ Đề Vô Thượng vốn đâu có sa vào thềm bực (giai cấp). Lại có dấu vết gì thấy được!

Thiện Tâm
09-05-2015, 05:37 PM
Kinh :

“Ông tuy nói lý Nhân Duyên, Tự Nhiên, chắc chắn rõ ràng, người đời xưng ông là đa văn bậc nhất. Vậy mà lấy cái đa văn huân tập nhiều đời đó cũng chẳng khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, phải đợi thần chú Phật Đảnh của Ta khiến cho lửa dâm trong lòng cô Ma Đăng Già hết tức thời mà đắc A Na Hàm, hiện ở trong Pháp của Ta, tinh tấn như rừng, sông ái cạn khô, khiến ông giải thoát.

“Bởi thế nên, Anan, ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ những bí mật mầu nhiệm trang nghiêm của Như Lai, không bằng chỉ một ngày tu Nghiệp vô lậu, lìa xa thế gian hai thứ khổ ghét-thương. Như Cô Ma Đăng Già, trước là dâm nữ, do sức thần chú, tiêu tan lòng ái dục, nay ở trong Phật Pháp tên là Tánh Tỳ Kheo Ni. Cùng với Da Du Đà La là mẹ của La Hầu La, đồng ngộ được nhân đời trước, biết nhân khiến trải qua nhiều đời, tham ái là khổ, một niệm huân tu pháp thiện vô lậu; một người được ra khỏi trói buộc, còn một người được thọ ký. Sao ông còn tự coi thường mình, ở mãi trong vòng nghe, thấy!”

Thông rằng:

Rõ ràng là Ông Anan nhiều kiếp đa văn mà không tránh khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, thế thì ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của Như Lai không thể chứng quả được. Cũng rõ ràng là thần chú Phật Đảnh có thể khiến cho lòng dâm của Cô Ma Đăng Già tức thời tiêu hết, nghĩa là sự huân tu không thể nghĩ bàn khiến tự ra khỏi ràng buộc vậy. Nhớ giữ pháp bí mật nhiệm mầu trang nghiêm, tức là hữu lậu. Bỏ Vọng theo Chân, tức là hai cái khổ thương, ghét. Khổ còn không khỏi, huống là đắc quả ư? Tu tập pháp môn Viên Đốn tức là vô lậu. Ngộ biết nhân đời trước, tham ái chẳng sanh, bèn được thọ ký, nào chỉ đắc quả thôi sao? Cô Ma Đăng Già chứng quả thứ Ba, A Na Hàm, gọi là ra khỏi trói buộc. Bà Da Du Đà La cũng là nhân duyên nhiều kiếp với Đức Thế Tôn, ở hội Pháp Hoa được thọ ký thành Phật. Đây chỉ là nữ giới mà một niệm xoay lòng còn nên bực tinh tấn. Huống gì hàng Thanh Văn các ông, sao tự khinh thường mình, không liền đốn ngộ? Đã thế lại nương nhờ nhân duyên trừ Vọng mà bám lấy hý luận của ngoại đạo để ở mãi trong vòng thấy nghe sao?

Thiền sư Sở Nam thượng đường nói: “Này các ông, dù có hiểu giáo pháp của Chư Phật ba đời như rót nước vào bình, chẳng bằng một niệm tu Vô Lậu Đạo, khỏi bị nhân quả trời người trói buộc!”

Khi ấy có nhà sư hỏi : “Vô Lậu Đạo như thế nào để tu?”

Tổ Sở Nam nói : “Chưa từng có Xà Lê để nắm bắt!”

Hỏi : “Chưa từng có tôi đây, thì dạy ai nắm bắt?”

Đáp : “Cái nắm cũng không!”

Được một hai lời chuyển ngữ này, thì ý chỉ chưa nói hết của Như Lai đã lộ rồi!

Thiện Tâm
09-07-2015, 08:48 AM
MỤC CHÍN: CHỈ NGHĨA QUYẾT ĐỊNH

I. CÁC PHÉP TU HÀNH SAU KHI ĐỐN NGỘ, PHÁT BỒ ĐỀ TÂM


Kinh:

Ông Anan và cả đại chúng nghe lời Phật dạy, nghi lầm tiêu tan, ngộ được Thật Tướng, thân ý nhẹ nhàng an ổn, được cái chưa từng có. Rồi lại rơi nước mắt, đảnh lễ chân Phật, quỳ thẳng, chấp tay mà bạch Phật rằng: “Đấng Vô Thượng Đại Bi, Thanh Tịnh Bảo Vương, khéo mở tâm chúng tôi, dùng đủ thứ nhân duyên như thế, phương tiện dìu dắt những kẻ chìm đắm trong tối tăm ra khỏi bể khổ.

“Bạch Thế Tôn, nay tôi được vâng nghe Pháp Âm như vậy, biết Như Lai Tạng, Diệu Giác Minh Tâm cùng khắp mười phương thế giới, trùm chứa các cõi nước của Như Lai trong mười phương, các cõi Phật Diệu Giác Vương trong sạch, quý báu trang nghiêm. Như Lai lại trách tôi đa văn mà không có công dụng, không kịp thời tu tập. Nay tôi giống như người long đong phiêu bạt, bỗng nhiên gặp vị Thiên Vương cho cái nhà tốt; mặc dầu được cái nhà lớn, nhưng cần yếu phải do cửa mà vào. Xin nguyện Như Lai, không bỏ lòng đại bi, chỉ bày cho chúng tôi, những kẻ mờ tối trong hội này, rời bỏ Tiểu Thừa, đều được con đường Phát Tâm căn bản đến Vô Dư Niết Bàn của Như Lai, khiến cho hàng Hữu Học biết theo đâu nhiếp phục các sự bám níu (phan duyên) lâu đời, được Tổng Trì Đà La Ni, nhập Phật Tri Kiến”.

Ông Anan nói lời ấy rồi, năm vóc mọp sát đất, trong hội một lòng mong đợi ý chỉ từ bi của Phật.

Thông rằng:

Từ lúc bắt đầu, phân lựa Chân Vọng để phát minh Tánh Giác, cho đến chỗ nói lên cái Tánh Chân Thắng Nghĩa trong thắng nghĩa, để thông suốt các nghi ngờ, vướng mắc khiến cho tin hiểu Chân Tánh là Tâm Nhân Địa. Cái Tâm Nhân Địa đã chân thật, mới có thể viên thành quả địa tu chứng. Thế nên, đoạn trước là phần Kiến Đạo. Từ đây về sau, riêng nói phần Tu Đạo.

Ông Anan đã được Pháp Thân, nhưng vẫn còn Vô Minh vi tế. Nay đã trừ các điều mê lầm, ngộ Thật Tướng, nhưng lại có lời than là không kịp thời tu tập. Rốt cuộc là vẫn còn là ở ngoài cửa. Tuy biết có cái nhà đẹp đẽ của Thiên Vương nhưng chưa thể vào. Sở dĩ không được cái cửa để vào, thứ nhất là, do còn ưa mến Tiểu Thừa, chẳng rõ con đường Phát Tâm căn bản; thứ hai là, do sự bám níu, đó chính là cái khổ mà không thể nhập Tri Kiến Phật. Tuy là do thói quen đa văn khiến như thế, nhưng cũng là vì hàng Hữu Học trong hội mà hỏi.

Tổ Mục Châu nói với đại chúng rằng: “Tất cả các ông có được chỗ đầu mối để vào chưa? Nếu chưa được cái chỗ đầu mối để vào, thì cần phải tìm cho ra chỗ đầu mối để vào, để sau này khỏi cô phụ lão tăng”.

Thiền sư Nghiêu Phong Xiêm thượng đường dạy: “Đông qua Thu lại, cửa lâu đài mở hoác. Nếu vào được, chớ có chần chờ. Các Thượng Tọa! Hướng vào trong ấy bước vào được chưa? Như bước vào được thì đúng như cổ nhân nói “Nơi đây là Di Lặc. Cửa nào chẳng Thiện Tài”. Nếu bước vào chưa được, ấy là các Thượng Tọa tự mình chạy điên. Chớ có đau đáu đứng hoài như vậy! Trân trọng!”

Có vị quan hỏi Tổ Mục Châu: “Ba cửa đều mở, theo cửa nào nhập?”

Tổ châu gọi lớn: “Thượng Thơ!”

Quan ứng tiếng: “Dạ!”

Tổ Châu nói: “Theo cửa Tín mà vào”.

Vị quan lại thấy bức họa trên vách, hỏi rằng: “Hai vị tôn giả đối mặt nhau bàn luận chuyện gì?”

Tổ Châu đánh cây lộ trụ, nói: “Trong Ba Thân, Thân nào chẳng nói pháp!”

Ngài Mục Châu môn phong cao ngất, đến chỗ này đều bày trọn hết rõ ràng, như tin đến nơi, bèn chẳng trải qua thứ bực.

Thiện Tâm
09-07-2015, 09:15 AM
Kinh:

Khi ấy, Đức Thế Tôn thương xót các hàng Thanh Văn, Duyên Giác trong hội chưa được tự tại nơi Tâm Bồ Đề, cùng những chúng sanh về sau phát Bồ Đề Tâm trong thời mạt pháp, khi Phật diệt độ rồi, khai thị cho con đường tu hành nhiệm mầu Vô Thượng Thừa, mà tuyên giảng cho Anan và các đại chúng rằng : “Các ông quyết định phát Tâm Bồ Đề, đối với Pháp Tam Ma Đề nhiệm mầu của Như Lai chẳng sanh lòng mệt mỏi, thì trước hết nên rõ hai nghĩa quyết định của Sơ Tâm Giác Ngộ”.

Thông rằng:

Chỗ Ông Anan hỏi, có hai nghĩa: Một là, con đường căn bản phát tâm để đến Vô Dư Niết Bàn của Như Lai. Hai là, nhiếp phục tâm bám níu, nhập Phật Tri Kiến. Bởi thế, Đức Thế Tôn nói lên hai nghĩa quyết định.

Muốn biết con đường Phát Tâm căn bản, phải chọn lựa gốc rễ Sanh Tử, để được cái Tánh Không Sanh Diệt, lấy đó làm cái Tâm Nhân Địa, rồi mới viên thành Diệu Đức Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt. Đây là nghĩa thứ nhất của Sơ Tâm.

Muốn nhiếp phục Tâm Phan Duyên bám níu, phải xét rõ gốc rễ phiền não, biết sáu Căn làm môi giới cho giặc, tự làm tự chịu. Chỉ cần chọn lựa một Căn viên thông, một cửa mà thâm nhập, thì sáu Căn hay biết kia, đồng thời trong sạch, đây là nghĩa thứ hai của Sơ Tâm.

Muốn đắc Vô Sanh, phải diệt sạch phiền não. Hết sạch phiền não, thì chứng Vô Sanh. Hai cái này chưa từng rời nhau được. Ở đây nói Diệu Tam Ma Đề, lại nói Diệu Tu Hành Lộ, là luôn luôn tỉnh thức nơi một chữ Diệu, cần yếu tương ưng với Diệu Minh, Minh Diệu, mà chẳng chấp lấy tướng để cầu Bồ Đề vậy.

Các hàng Thanh Văn, Duyên Giác chưa khỏi được sự chấp nắm lấy tướng, nên ở trong Bồ Đề chưa được tự tại. Duy chỉ ngộ một cái Diệu này, chẳng mượn khó nhọc, cần cù tu chứng, mới gọi là Vô Thượng Thừa vậy.

Sơ Tổ Đạt Ma đến Kim Lăng, Lương Võ Đế hỏi: “Trẫm lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng nhiều không kể xiết, vậy công đức thế nào?”

Tổ đáp : “Đều không có công đức”.

Vua hỏi : “Vì sao không?”

Tổ nói : “Đó chỉ là quả nhỏ của trời, người, là cái nhân hữu lậu, như bóng theo hình, tuy là có mà không thật”.

Vua hỏi : “Thế nào là công đức chân thật?”

Tổ nói : “Trí trong sạch, tròn đầy, mầu nhiệm, thể tự không tịch, công đức như thế không thể lấy thế gian cầu được”.

Vua lại hỏi : “Như thế nào là Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa”.

Tổ nói : “Rỗng rang như nhiên, tuyệt không có Thánh”.

Vua nói : “Vậy trước mặt trẫm đây là ai?”

Tổ nói : “Không phân biệt”.

Vua không lãnh hội được. Tổ biết căn cơ chẳng khế hợp, bèn ẩn qua Giang Bắc.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Thánh Đế rỗng nhiên,

Có đâu nói trúng!

Đối Trẫm là ai?

Lại nói : Không biết [Biết : phân biệt]

Bởi thế lặng lẽ qua sông

Há đâu khỏi sanh gai góc?

Cả nước đuổi theo, không trở lại

Nghìn thuở, muôn xưa, chẳng nhớ nhau

Hết nhớ nhau!

Gió mát khắp cùng, đâu chỗ tột?

Ngài nhìn qua trái, qua phải rồi nói: “Trong ấy lại có Tổ Sư chăng?”

Tự nói : “Có, thì kêu lại đây rửa chân cho lão tăng!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Rỗng nhiên không Thánh

Căn cơ xa tít

Đắc, chẳng trúng nhằm mũi mà quơ búa

Thất, chẳng quày đầu mà rớt vào ống bễ lò

Lặng lẽ ngồi yên tại Thiếu Lâm

Nín thinh toàn nêu lên chánh lệnh

Thu trong, trăng chuyển, sương vần

Ban đêm sao Bắc Đẩu soi cán

Y bát truyền con cháu không ngừng

Từ đó trời người thành thuốc, bệnh”.

Nếu luận về con đường Vô Thượng Thừa tu hành mầu nhiệm, thì Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa còn chẳng chịu cho, huống là rơi vào nghĩa thứ hai, thứ ba!

Thiện Tâm
09-07-2015, 09:19 AM
II. TÂM NHÂN ĐỊA

Kinh:

“Thế nào là hai nghĩa quyết định của Sơ Tâm? Anan, nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời bỏ Thanh Văn, mà tu Bồ Tát Thừa để vào Tri Kiến của Phật, thì nên xét kỹ cái Nhân Địa Phát Tâm và cái Quả Địa Giác Ngộ là đồng nhau hay khác nhau. Anan! Nếu ở nơi nhân địa mà lấy cái Tâm Sanh Diệt làm gốc, nhân đó mà tu để cầu quả Bất Sanh Bất Diệt của Phật Thừa, thì không thể có chuyện ấy được.

Thông rằng:

Đây là chỉ bày Thấy Tánh Đệ Nhất Nghĩa vậy. Nếu luận về Thấy Tánh, thì chẳng mượn ở công phu huân tập, mà chỉ quán xét Chỗ Nhân Địa Phát Tâm cùng với Quả Địa Giác Ngộ là đồng hay khác. Bởi thế, Thánh nhân không nghĩ suy mà đắc, không gắng sức mà vẫn trúng. Hạng Xích Tử [Cái Tâm như con nít vô tư] cũng chẳng lo nghĩ mà biết, chẳng học hành mà nên. Chẳng học tập, chẳng lo toan, là cái Nhân; chẳng nghĩ suy, chẳng cố gắng, là cái Quả vậy. Nên nói : “Bậc đại nhân chẳng hề mất cái tâm xích tử. Nhân và Quả vốn khế hợp, tuyệt không có tăng, giảm”. Không thấy Tánh, đâu đủ sức nói lời ấy!

Ngài Mã Tổ khi còn tại núi Nam Nhạc, ở riêng một phòng nơi Viện Truyền Pháp, chỉ tập ngồi thiền, ai đến thăm hỏi đều không màng đến. Đại sư Hoài Nhượng đến cũng chẳng để ý. Đại sư thấy Mã Tổ cốt cách khác thường, bèn nhớ lại lời tiên tri của Đức Lục Tổ, mới dùng những phương tiện dẫn dạy cho.

Một hôm, Đại sư lấy một viên gạch ra trước am mà mài. Mã Tổ cũng không để ý đến.

Lâu lắm, Ngài Mã Tổ mới hỏi : “Làm cái gì thế?”

Đại sư đáp : “Mài để làm cái gương soi!”

Mã Tổ hỏi : “Mài gạch mà thành gương được sao?”

Đại sư nói : “Mài gạch đã không thành gương, thì ngồi thiền hóa lại thành Phật ư ?”

Mã Tổ bèn rời chỗ ngồi thiền, nói : “Như thế nào là phải?”

Đại sư đáp : “Ví như ngồi xe, xe chẳng đi, thì đánh xe là đúng hay đánh bò là đúng?”

Mã Tổ không đáp được.

Đại sư lại nói: “Ông học tọa thiền, hay học tọa Phật? Nếu học tọa thiền thì thiền chẳng phải là chuyện ngồi, nằm. Nếu học tọa Phật thì Phật chẳng phải là cái tướng ngồi, nên trong pháp vô trụ, chẳng có nắm bỏ. Nếu ông tọa Phật tức là giết Phật. Nếu chấp vào tướng ngồi thì chẳng tỏ suốt được lý”.

Mã Tổ bèn lễ bái, và hỏi: “Dụng tâm như thế nào, liền hợp với Vô Tướng Tam Muội?”

Đại sư nói: “Ông học pháp môn Tâm Địa, như gieo giống xuống. Tôi nói pháp yếu, như trời mưa thấm. Duyên ông thích hợp nên sẽ thấy Đạo”.

Mã Tổ nói: “Đạo chẳng phải là sắc tướng, làm sao có thể thấy?”

Đại sư nói : “Pháp nhãn Tâm Địa thì thấy Đạo. Vô Tướng Tam Muội cũng thế”.

Ngài Mã Tổ hỏi : “Có thành hoại không?”

Đại sư nói : “Nếu lấy sự thành hoại, tụ tán mà thấy Đạo, thì chẳng phải là thấy Đạo. Nghe kệ ta đây:

“Tâm địa ngậm muôn giống

Gặp mưa mầm đều sanh

Hoa Tam Muội, vô tướng

Nào hoại với nào thành”.

Mã Tổ nghe qua lời dạy, hoát nhiên khai ngộ. Hầu đại sư mười năm, ngày càng mật nhiệm, về sau hoằng hóa ở Giang Tây.

Đại sư Hoài Nhượng hỏi chúng : “Mã Tổ Đạo Nhất có vì chúng nói pháp không?”

Chúng đáp : “Đã nói pháp cho chúng rồi”.

Đại sư nói : “Chưa thấy có ai mang tin tức của ông ta đến”.

Bèn sai một nhà sư đi, dặn rằng : “Đợi lúc ông ta thượng đường nói pháp, thì chỉ hỏi : “Làm sao?” Ông ấy nói thế nào hãy nhớ lấy đem về đây”.

Vị sư đến chỗ Mã Tổ, làm y theo lời đại sư dặn.

Khi trở về, nói với đại sư rằng : “Đạo Nhất nói : “Từ sau loạn rợ Hồ, ba mươi năm nay chưa hề thiếu tương muối””.

Đại sư bằng lòng.

Tổ Tuyết Phong gởi lời cho Tổ Nham Đầu rằng : “Từ khi ở Ngao Sơn thành Đạo về sau, cho đến bây giờ no hoài chẳng đói”.

Thế thì, cũng tương tự với câu trên của Ngài Mã Tổ, đều là Nhân Địa Phát Tâm với Quả Địa Giác Ngộ không có đồng, khác vậy. Kia học ngồi thiền, có tu có chứng, bèn thuộïc về Pháp Sanh Diệt, đối trong chỗ Vô Thượng Thừa, xa bao ngàn dặm!

Thiện Tâm
09-07-2015, 09:27 AM
Kinh:

“Do nghĩa đó, ông phải thấy rõ các vật của thế gian đều là pháp có thể làm ra, tất cả đều phải theo sự biến diệt.

“Anan, ông xem các pháp có thể làm ra trong thế gian, có cái nào là không hư hoại? Nhưng không hề nghe hư không tan rã. Vì sao thế? Vì hư không chẳng có thể làm ra, do đó trước sau không có hoại diệt. Vậy trong thân ông tướng cứng là Địa Đại, thấm ướt là Thủy Đại, hơi ấm là Hỏa Đại, động lay là Phong Đại. Do bốn cái ràng buộc này mà chia cái Diệu Giác Minh Tâm trong lặng tròn khắp của ông thành ra cái Thấy, cái Nghe, cái Biết, cái Xét Nghĩ. Từ đầu đến cuối tạo thành năm lớp bẩn trược.

“Thế nào là Trược? Anan, ví như nước trong, thanh khiết bản nhiên, còn bụi đất, tro cát kia bản chất là ngăn ngại. Hai bên tự thể như vậy thì không hợp nhau được. Có người thế gian, lấy bụi đất kia, ném vào nước sạch, thì đất mất đi ngăn ngại, nước mất đi trong sạch, hình trạng đục vẩn, gọi đó là Trược. Năm lớp bẩn trược của ông cũng giống như vậy.

“Anan, ông thấy hư không khắp mười phương thế giới. Hư không và cái thấy chẳng phân rời nhau. Có cái không mà không có hình thể, có cái thấy mà không hay biết, đan nhau giả dối mà thành. Đó là lớp thứ nhất, gọi là Kiếp Trược.

“Thân ông hiện nắm giữ bốn Đại làm cái thể, Thấy, Nghe, Hay, Biết bị che bít thành ra ngăn ngại. Còn các thứ Địa, Thủy, Hỏa, Phong lại thành ra hay biết. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ hai, gọi là Kiến Trược.

“Lại trong tâm ông, những sự Nhớ, Biết, Học Tập, phát ra tri kiến, dung chứa hiện ra sáu trần. Rời trần thì không có tướng; rời hay-biết thì không có tánh. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ ba, gọi là Phiền Não Trược.

“Lại tâm ông ngày đêm sanh diệt không ngừng, cái tri kiến thường muốn ở lại thế gian, nhưng nghiệp xoay chuyển thì lại thường dời đi các cõi. Đan nhau hư vọng mà thành. Đây là lớp thứ tư, gọi là Chúng Sanh Trược.

“Cái thấy, cái nghe của ông vốn tánh không khác nhau, mà do các trần cách trở, không do đâu lại sanh ra khác nhau. Trong tánh thì biết nhau, mà trong chỗ dùng lại trái ngược nhau. Cái đồng và cái khác mất chuẩn đích. Xen nhau hư vọng mà thành lập. Đây là lớp thứ năm, gọi là Mệnh Trược.

Thông rằng:

Nghĩa thứ nhất là cần rõ con đường phát tâm căn bản, phải xét xem Nhân Địa Phát Tâm với Quả Địa Giác Ngộ là đồng hay khác. Gọi là xét xem thì hẳn phải xét kỹ: Cái gì là căn bản sanh tử, khác với Quả Địa Giác Ngộ; cái gì là căn bản Bất Sanh Bất Diệt, đồng với Quả Địa Giác Ngộ?

Vốn là một cái Diệu Giác Minh Tâm lặng trong tròn khắp, vốn không có sự chẳng đồng, lấy đâu có khác? Chỉ vì dán kín tánh trong lặng mà phát khởi bốn Đại, kết thành sáu Căn. Căn và Trần làm nhiễm ô nhau, tạo thành năm lớp Trược, còn cái Diệu Giác Minh Tâm rời cái bản vị của nó mà chia ra thành Thấy, Nghe, Hay, Biết lưu chuyển trong vòng sanh tử. Cái Thấy Nghe Hay Biết đó, từ đầu cho đến cuối, từ Sắc đến Thức, chẳng rời khỏi phạm vi của năm Ấm, chính là căn bản của sanh tử vậy. Lấy cái này làm Nhân để cầu Phật Thừa thì không thể nào được. Vì sao? Các Pháp có-thể-làm-ra của thế gian đều theo biến diệt, nhưng Hư Không chẳng thể làm ra nên không hư hoại. Độc chỉ Phật không có làm, nên chẳng sa vào các số, đó là Chân Không. Tuy cái hư không của thế gian cũng cần tiêu mất, huống là bốn Đại ở trong thân đều có chỗ để trả về! Cái Thấy Nghe Hay Biết lìa ngoài trần không có tự thể, thì cái hay biết sanh diệt của năm lớp Trược đó lại có thể lấy làm Nhân để tu hành sao?

Nói năm Trược là sao? Sắc thuộc Tướng Phần, Thức thuộc Kiến Phần; nước ví dụ cho Thức, đất ví dụ cho Sắc. Cái thấy và hư không đan kết với nhau, như nước và đất hợp lại nên gọi là Trược.

Khi cái Thấy mới vừa động, chỉ thấy một hư không. Có hư không mà không hình thể, tức là ngoan không. Có cái Thấy mà không hay biết, đó là Vô Minh. Đã có Hư Không khắp mười phương cõi, thì Thành, Trụ, Hoại, Không do đấy mà bắt đầu, nên gọi là Kiếp. Hư Không và cái Thấy chẳng phân chia, nghĩa là Kiến Phần và Tướng Phần xen lộn làm thành Trược, nên gọi là Kiếp Trược, thuộc về Sắc Ấm.

Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết vốn không ngăn ngại, do bốn Đại lấp bít nên có ngăn ngại. Đất, Nước, Gió, Lửa vốn không có hay biết, do sự xoay lại của sáu Căn mà có hay biết. Đó là Kiến Phần với Tướng Phần trong thân xen lộn mà thành cái Trược, nên gọi là Kiến Trược, thuộc về Thọ Ấm.

Ở trước, thu nhiếp sáu Căn làm Kiến Đại, ở đây cũng tóm gồm sáu Căn làm cái Thấy. Cái Trược thấy cảnh thì nhận lấy, thu vào, thuộc về năm Thức trước. Ghi Nhớ, Học Tập thuộc về Thức Thứ Sáu. Cái Thấy Biết chính là do Chân Tánh phát khởi, Tánh phát ra mà Biết, cho nên cái Thấy Biết là Thức, không thể gọi là Tánh. Chính là trong cái Ý Tưởng, chứa nhận sáu Trần, hiển hiện bóng dáng gọi là Nội Trần, cũng có thể gọi là tướng. Nội Trần lìa ngoài sáu Trần, tự nó không có thật tướng, lìa ngoài cái Hay Biết, tự nó không có chân tánh. Đó là phiền não, trần lao làm loạn nhiễu cái Tánh Giác trong lặng. Thế nên, cái Hay Biết và Pháp Trần (Nội Trần) xen lẫn mà làm thành Trược, nên gọi là Phiền Não Trược, thuộc về Tưởng Ấm.

Cái Ý Tưởng hiểu biết thì muốn ở mãi thế gian, luyến níu tam giới, điều này cũng dễ biết. Luân hồi, nghiệp lực xoay chuyển thường khiến đổi dời các cõi nước, biến hóa chuyển dời kín nhiệm, không thể dễ biết. Hết thảy chẳng rời ngoài Nhân và Quả của chúng sanh. Cái Hiểu Biết của Ý và hình tướng của chúng sanh lưu chuyển mà thành ra cái Trược, nên gọi là Chúng Sanh Trược, thuộc về Hành Ấm.

Hành Ấm thuộc về Thức Thứ Bảy, cái Trược của nó dễ phân biện ra. Còn Thức Ấm thuộc về Thức Thứ Tám, cái Trược của nó khó biết. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết là từ cái nguồn vốn trong lặng mà phân ra, nên vốn là không khác bản tánh. Sáu Trần thì chẳng đồng, dẫn dắt mà sanh ra sáu Thức; mắt chẳng phân biệt được Tiếng, tai chẳng phân biệt được Sắc, chẳng dùng lẫn cho nhau được, nên sanh ra khác nhau. Bản tánh thì chẳng khác nhau, nên ở trong Tánh vốn là biết nhau. Chỉ có các Trần cách trở, nên ở trong Dụng thì trái nghịch nhau. Tánh vốn chẳng sanh chẳng diệt nên đồng. Chỗ dùng thì hòa hợp với sanh diệt, nên có khác. Chưa chuyển được Thức Thứ Tám thì chưa có Hậu Đắc Trí, nên đối với năm Thức trước chẳng được viên diệu. Thế nên, ở trong Tánh thì vốn rõ ràng biết nhau, mà đến khi dùng ra, lại ngược trái với cái dùng của Như Lai. Bởi vì chuyển chẳng tận nên mất chuẩn đích mà gọi là Thức. Chuyển tận thì không mất chuẩn đích, nên bình đẳng mà gọi là Tánh. Như Lai Tạng vốn Một Tánh, không có hai, Đức Phật y vào chuẩn đích đó mà diệt cái Tâm Sanh Diệt. Còn hàng Nhị Thừa thấy có Tự Tướng và Cọng Tướng, nên ở trong cái Đồng mà mất chuẩn đích. Như Lai Tạng tùy duyên mà hiện Sắc, Không; Đức Như Lai y theo đó mà nói cả hai loại đều Không. Còn hàng Nhị Thừa giữ lấy cái Chân mà chứng cái Diệt, nên ở nơi cái Khác mà mất đi chuẩn đích.

Còn một mảy tơ chưa chuyển hoá, thì mệnh căn vẫn còn, thọ sanh thì đến trước, chết thì dứt đi sau cùng, làm chủ nhân ông. Đây là Tánh và Thức, đan lẫn nhau mà thành cái Trược, gọi là Mệnh Trược, thuộc về Thức Ấm.

Năm lớp Trược này đều chẳng phải thật có, nên gọi là hư vọng mà thành. Như nước trong sạch, nguyên không có đất bụi; hay như đất ngăn ngại, nguyên không có nước. Hai tánh chẳng có hợp theo nhau, vì tâm, cảnh chẳng có đến nhau. Nếu biết Tánh trong lặng vốn không có tính dán kín kia, thì biết Vọng tức là Lìa, Lìa Vọng tức là Giác. Chỉ là một Diệu Giác Minh Tâm vắng lặng tròn khắp, chẳng sa vào Thấy, Nghe, Hay, Biết như nước vốn tự sáng trong, Trược nào có được? Ắt phải rõ suốt cái xưa nay vốn không có Trược, mới có thể làm cái căn nhân chẳng sanh chẳng diệt về sau vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Lương Sơn : “Thế nào là chuyện trước Không Kiếp?”

Tổ Sơn đáp :

“Đánh vang trống Trời Đất

Người đời lắng chẳng nghe”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Hư Không làm trống khắp cần đánh

Người đánh tuy nhiều, ít kẻ nghe

Nửa đêm sọ khô kinh tan mộng

Đầy đầu trăng sáng chẳng lo về”.

Đức Tứ Tổ Đạo Tín, năm mười bốn tuổi đến lễ Đức Tam Tổ Tăng Xán, hỏi rằng : “Xin Hòa Thượng từ bi, ban cho pháp môn Giải Thoát”.

Tam Tổ nói : “Ai trói buộc ông?”

Đáp : “Không ai trói buộc”.

Tam Tổ nói : “Vậy cầu giải thoát làm gì?”

Tứ Tổ ngay dưới lời nói đại ngộ. Đây là chỗ gọi là đại căn, đại khí vậy.

Thiền sư Tư Không Sơn Bổn Tịnh làm bài kệ :

“Thấy Nghe Hay Biết không chướng ngại

Sắc Hương Vị Xúc, thường Tam Muội

Như chim trong không, chỉ thế bay

Không nắm, không bỏ, không thương ghét

Nếu rõ ứng xứ chẳng phải tâm

Mới được gọi là Quán Tự Tại”.

Như Thiền sư Bổn Tịnh ấy thì tuy ở nơi ngũ trược ác thế mà nào từng chẳng sạch?

Thiện Tâm
09-07-2015, 09:29 AM
Kinh :

“Anan, nay ông muốn cho cái Thấy, Nghe, Hay, Biết vĩnh viễn khế hợp với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai, thì trước hết phải lựa bỏ gốc rễ sanh tử, y theo cái Không Sanh Diệt, thì Tánh trong lặng toàn khắp thành tựu. Dùng cái trong lặng này, mà xoay các thứ Sanh Diệt hư vọng trở về Bổn Giác. Được Tánh không sanh diệt của Bản Giác thuần sáng làm cái Tâm Nhân Địa, như thế mà sau viên thành Quả Địa Tu Chứng. Như lóng nước đục, đựng trong một món đồ để yên lặng, để yên lặng thâm sâu bất động, thì đất cát tự chìm lắng xuống. Nước trong hiện ra ngay trước mặt, gọi là bắt đầu dẹp phục phiền não khách trần. Bỏ hết bùn chỉ còn nước trong, gọi là vĩnh viễn dứt lìa căn bản vô minh. Sáng suốt tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não, đều hợp với diệu đức trong sạch Niết Bàn.

Thông rằng :

Sách Đại Học có câu : “Biết Chỉ rồi sau mới có Định”, mấy chữ này là bí quyết của ngàn Thánh. Đoạn kinh này hợp với câu nói ấy. Ông Lục Tượng Sơn nói : “Tâm này Lý này đồng vậy”, cho nên chẳng phải là lời nói hư dối.

Câu “Trước hết phải chọn ra căn bản sanh tử, y theo cái không sanh diệt, thì Tánh trong lặng toàn khắp thành tựu. Như lóng nước đục, đựng trong món đồ để yên”, là chỗ nói “Biết chỉ rồi sau mới định” vậy.

Câu “Dùng cái trong lặng này mà xoay các thứ Sanh Diệt hư vọng trở về Bổn Giác, như nước yên lặng thâm sâu không động thì đất cát tự chìm, nước trong hiện ra ngay trước mắt”, là chỗ nói “Định rồi sau mới tĩnh”.

Câu “Nước trong hiện tiền, gọi là bắt đầu dẹp phục phiền não khách trần, bỏ hết bùn chỉ còn nước trong, gọi là vĩnh viễn dứt lìa căn bản vô minh”, là chỗ nói “Tịnh rồi sau mới an”.

Câu “Sáng suốt tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não”, là chỗ nói “An rồi sau mới gặp việc”

Câu “Đều hợp với Diệu Đức trong sạch Niết Bàn”, là chỗ nói “Ứng đối với việc rồi sau mới đắc”.

Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là bốn Diệu Đức của Niết Bàn, chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo, nay lấy thấy, nghe, hay, biết mà khế hợp nên gọi là “viễn”, lâu dài.

Trước hết, chọn ra căn bản sanh tử, tuy để chỉ cái nghiệp dụng của năm Trược, nhưng Thức Ấm chính là gốc rễ sanh tử. Thức ấy nương theo cái Chẳng Sanh Diệt hòa hợp với cái Sanh Diệt mà có tên. Nên phải lựa bỏ chủng tử Sanh Diệt mà y theo tánh trong lặng tròn khắp Chẳng Sanh Diệt. Thức Ấm lặng trong không lay động, tựa như chẳng có Sanh Diệt, nhưng trong lặng mà thực ra là căn bản Sanh Diệt. Còn Tánh trong lặng tròn đầy, vốn tự viên thành, chẳng phải do tạo tác, tức là Thật Tế Lý Địa Chân Như vậy. Y theo cái trong lặng tròn đầy này, thì vốn tự là vô sự, bèn ở nơi cái Tánh tròn lặng này mà xoay lại các thứ Sanh Diệt hư vọng. Từ trước kia bao nhiêu công phu Sanh Diệt đều là hư vọng, tuy đến chỗ Sanh Diệt đều hết, cũng là do công phu huân tập mà được, thì chẳng phải là Bản Giác. Thức Ấm xoay về, thì Bản Giác hiện tiền. Cái Bản Giác sáng suốt này, vốn là không có Sanh Diệt, chỉ do phân ra làm Thấy, Nghe, Hay, Biết mà lọt vào trong phạm vi của Thức Ấm, bị Thức Ấm che lấp, chẳng hiển lộ ra được.

Nay Thức diệt, Tánh hiện, bày lại cái Bản Lai Diện Mục của ta. Cái Bản Giác sáng suốt này tức là Thấy, Nghe, Hay, Biết mà chẳng phải là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết có khởi, có diệt, tánh Bản Giác sáng suốt không có khởi diệt. Bởi thế, chẳng lấy Thấy, Nghe, Hay, Biết làm Tâm Nhân Địa, mà lấy Bản Giác sáng suốt làm Tâm Nhân Địa, sau mới viên thành quả vị Bất Sanh Bất Diệt Như Lai. Bốn đức Niết Bàn tức là cái quả chẳng sanh chẳng diệt nên nói rằng hay đoạn khách trần phiền não và căn bản Vô Minh. Nên nói “Tánh sáng thuần”, là như vàng ròng, chẳng trở lại thành quặng, tro chẳng lại thành gỗ, chẳng làm ra phiền não nữa. Bởi thế mà một niệm Vô Sanh, tức là chứng Niết Bàn, tức Nhân tức Quả, tức ngay một lần mà đầy đủ. Có sự “Lý tuy là đốn ngộ, Sự thì dần dần trừ dứt” ấy, là Nhân gồm Thập Tín, cho đến Quả Địa suốt thông, các phần tròn đủ; tóm lại là một tánh Giác Nguyên Minh trọn thành mà thôi vậy.

Tổ Tào Sơn, thấy ông đạo giả Chỉ Y [Chỉ y : áo giấy] bèn hỏi : “Có phải là đạo giả Chỉ Y không?”

Thầy Chỉ Y rằng : “Không dám”.

Tổ Sơn nói : “Như thế nào là công chuyện của Chỉ Y (áo giấy)?”

Thầy Y đáp : “Một cái áo lông vừa khoác lên thân, vạn pháp thảy đều Như ”.

Tổ Sơn nói : “Như thế nào là cái Dụng của Chỉ Y?”

Thầy Y tiến lên, ứng : “Dạ”. Bèn đứng mà đi thoát (chết).

Tổ Tào Sơn nói : “Ông đã biết như thế mà đi, sao lại chẳng như thế mà đến?”

Thầy Y bỗng mở mắt hỏi : “Một Chân Tánh nhiệm mầu, khi không mượn bào thai thì như thế nào?”

Tổ Sơn nói : “Vẫn chưa là Diệu”.

Thầy Y nói : “Thế nào là Diệu ?”.

Tổ Tào Sơn nói : “Chẳng mượn lấy cái mượn!”

Thầy Y bèn cung kính xuống tăng đường mà ngồi tịch.

Ngài Tào Sơn có bài tụng :

“Giác Tánh sáng đầy, không tướng thân

Chớ đem Thấy Biết vọng sơ, quen

Niệm khác, ngay trong huyền chỉ, tối

Tâm sai, với Đạo chẳng chung gần

Tình phân vạn pháp, chìm tiền cảnh

Thức soi nhiều mối, mất gốc Chân

Như thế, trong câu mà hiểu được

Như nhiên vô sự, bổn lai nhân”.

Lại như Ngài Cửu Phong Kiền, ở chỗ Tổ Thạch Sương làm thị giả. Sau khi Tổ Thạch Sương tịch, đại chúng muốn mời Ông Thủ Tọa nối tiếp làm trụ trì.

Ngài Cửu Phong không chịu, nói: “Đợi tôi hỏi qua đã! Nếu hiểu ý Tiên Sư, thì xin hầu hạ như Tiên Sư vậy”.

Bèn hỏi : “Tiên sư nói “Thôi đi! Hết đi! Một niệm muôn năm đi! Tro lạnh cây khô đi! Lư hương cổ miếu đi! Một vóc lụa trắng đi!” Những thứ khác thì chẳng hỏi, như thế nào là “Một vóc lụa trắng đi!”?”

Thủ Tọa nói : “Đó chỉ là nói rõ một chuyện về bên Sắc”.

Ngài Cửu Phong nói : “Vốn chưa hiểu ý của Tiên Sư”.

Thủ Tọa nói : “Ông chẳng chấp nhận tôi ư?”

Thủ Tọa bèn thắp hương mà nói : “Tôi nếu chẳng hiểu ý của Tiên Sư, thì khói hương bay lên rồi vẫn không thoát đi được!”

Nói xong liền ngồi mà tịch.

Ngài Cửu Phong bèn vỗ vào lưng vị Thủ Tọa mà nói : “Ngồi tịch, đứng chết thì chẳng phải là không có, nhưng ý của Tiên Sư vẫn còn nằm mộng mà thấy!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Một tông Thạch Sương

Tự trao Cửu Phong

Thắp hương đi thoát

Chánh mạch khó thông!

(Hạc) Lấy trăng làm ổ : ngàn năm mộng!

Nhà tuyết người mê, một sắc công (trình)!

Tọa đoạn mười phương còn bị lộ

Im dời một bước : ngắm rồng bay”.

Thuận Mặc Hòa Thượng tụng rằng :

“Ngồi chi uổng mất một cây hương

Cửu Phong nào có bức cao hiền

Nếu đem một sắc thừa ngôi vị

Cô phụ Tiên Sư chẳng cậy duyên”.

Tổ Thạch Sương dạy chúng có nói rằng : “Chưa từng mất cái chiếu soi, vẫn còn là ngoại thiệu [Nối Pháp theo bên ngoài], chỉ là loại bầy tôi, cũng gọi là mượn. Nếu sanh ra mà mảy lông chẳng hở, như Thái Tử mới sanh ra thì có thể nối ngôi báu, gọi là nội thiệu [Nối ở bên trong], gọi là dòng dõi nhà vua, chẳng cần mượn danh cú vậy”.

Mượn tức là chuyện một bên của một sắc. Kia nguyên chưa được cái Tánh chẳng sanh diệt để làm Tâm Nhân Địa, thế mà muốn viên thành Quả Địa, cùng hợp với Diệu Đức trong sạch của Niết Bàn, thì khó vậy.

Thiện Tâm
09-08-2015, 09:09 PM
MỤC TÁM: CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG VÀ TÁNH GIÁC TOÀN VẸN

II. TÂM NHÂN ĐỊA (tt)


A. XÉT RÕ GỐC RỄ PHIỀN NÃO

Kinh:

“Cái nghĩa Thứ Hai là, các ông muốn quyết phát tâm Bồ Đề, nơi Bồ Tát Thừa sinh dõng mãnh quyết định quăng bỏ các tướng hữu vi, thì phải xét rõ gốc rễ phiền não: những thứ ấy từ vô thủy đến nay, phát sanh nghiệp và nảy nở ra, là ai làm ai chịu?

“Anan, ông tu đạo Bồ Đề mà không xét kỹ cái Căn Bản Phiền Não thì không thể biết Căn Trần hư vọng điên đảo chỗ nào? Chỗ điên đảo còn chẳng biết thì làm sao hàng phục được chúng mà giữ Như Lai Vị?

Thông rằng:

Xét xem cái Nhân Địa Phát Tâm để thể hội cái Chân. Xét xem căn bản phiền não, để dứt hết cái Vọng. Trong cái Vọng lại chẳng có Vọng, tức là Vọng tức là Chân vậy.

Căn bản phiền não có hai thứ: Một là, phát sanh Nghiệp Vô Minh, là phiền não đời quá khứ. Hai là, nảy sanh Vô Minh, là khi đầu thai, đối với cha mẹ mà khởi Thức Tình [Sáu thức trong sáu tình] thương ghét. Cả hai thứ phiền não vốn không có tự tánh. Như biết là vô tự tánh, trọn không có người làm ra, cũng không có người lãnh chịu. Đương thể không tịch, cái gì là phiền não? Người Tiểu Thừa kia, chưa rời công dụng hữu vi, cho là có thật phiền não, cần nên phá trừ. Thế là vì chưa rõ Căn Trần là hư vọng. Như Bồ Tát Thừa thì khác, bước đi ngay trong cái Vô Thượng Bồ Đề, chỉ ở giữa Căn và Trần, xét biết rõ cái gì làm ra, cái gì lãnh chịu, bỗng nhiên phá tan Vô Minh từ vô thủy, lập tức dừng ngay.

Ngài La Sơn Nhàn, trước hỏi Tổ Thạch Sương: “Khi khởi diệt chẳng ngừng thì như thế nào?”

Tổ Sương nói: “Ngay giờ tro lạnh, củi khô đi! Một niệm muôn năm đi! Nắp, rương hợp nhau đi! Sạch ròng không vết đi!”

Ngài La Sơn không hiểu, qua hỏi Tổ Nham Đầu. Tổ Nham quát rằng: “Thế cái gì khởi diệt?”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Chặt đứt dây leo già

Hang bộng chồn đập phá

Báo gặp sương mù mà đổi vằn

Rồng nương sấm sét mà thay cốt

Á!

Khởi diệt lăng xăng đó vật gì?”.

Ở đây mà tỉnh thức, thì chẳng hướng về cửa sáu Căn mà nắm giữ, phân chia quen lạ vậy.

Bàng Cư Sĩ kệ rằng :

“Một bầy sáu tên giặc

Đời đời lừa giết người

Ta nay rõ bay rồi

Chẳng cùng bay gần gũi

Nếu bay chẳng phục ta

Đến đâu ta cũng nói

Dạy người biết hết bay

Nếu bay chịu phục ta

Ta bèn chẳng phân biệt

Cùng bay ở một chỗ

Đồng chứng Vô Sanh Diệt”.

Đây là cái biết chân thật chỗ nào điên đảo, nên hay hàng phục được mà giữ Như Lai vị vậy.

Thiện Tâm
09-08-2015, 09:12 PM
Kinh:

“Anan, ông hãy xem người trong thế gian mở nút. Hễ không thấy chỗ thắt nút, thì làm sao biết mở? Nhưng không hề nghe nói hư không bị phá tan. Vì sao thế? Vì hư không không có hình tướng, không có thắt hay cởi vậy. Thì như ông hiện giờ, sáu thứ : Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt cho đến Thân Ý đang làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà. Do thế mà từ vô thủy, thế giới chúng sanh sanh ra ràng buộc ở nơi sự vật thế gian, không thể siêu vượt khỏi.

Thông rằng :

Ở trước, lấy ví dụ hư không chẳng hư hoại, nên chẳng sanh diệt. Ở đây, dụ hư không không có thắt nút nên không có phiền não. Hư không còn thế, thì Tự Tánh Chân Không sao lại có phiền não sanh diệt ư? Như bỏ sanh diệt, giữ lấy cái Chân Thường, thì cái ánh sáng thường hằng hiện bày trước mắt, khi ấy Căn, Trần, Thức tiêu mất, thì thế giới chúng sanh còn thể nào sanh trói buộc? Bên trong ánh sáng phát ra thì các trần tướng biến hóa của thế gian tiêu tan như băng gặp nước sôi; tức thời hóa thành Tri Giác Vô Thượng. Thế là nơi sự vật thế gian mà siêu vượt khỏi vậy. Của báu nhà mình là như vậy, sao chẳng tự giữ gìn thương tiếc.

Sáu Thức ở trong, sáu Trần ở ngoài, đều do sáu Căn dẫn dắt tự phát sanh ràng buộc, nên gọi là mai mối cho giặc.

Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Bậc Sa môn há chẳng phải là người đầy đủ đại từ, đại bi sao?”

Tổ Tào Sơn nói : “Phải”.

Hỏi : “Bỗng gặp sáu tên giặc cướp đến thì sao?”

Tổ Sơ nói: “Cũng cần đầy đủ đại từ, đại bi”.

Hỏi: “Thế nào là đầy đủ đại từ, đại bi?”

Tổ sơ nói: “Một gươm chém sạch!”

Hỏi: “Sau khi hết sạch rồi thì sao?”

Tổ Sơn nói: “Mới được hòa đồng”.

Lại có nhà sư hỏi Tổ Bửu Phước: “Nhà nghèo nàn mà gặp ăn cướp thì làm sao?”

Tổ Phước nói: “Không thể hết sạch đâu”.

Hỏi: “Vì sao mà không thể hết sạch?”

Tổ Phước nói: “Ăn cướp chính là người nhà”.

Hỏi : “Đã là người nhà, tại sao lại đổi thành ăn cướp của nhà?”

Tổ Phước nói : “Trong đã không có nội ứng, thì ngoài làm gì được?”

Hỏi : “Bỗng nhiên bắt được ăn cướp thì công về đâu?”

Tổ Phước nói : “Thưởng cũng chưa từng nghe”.

Hỏi : “Như thế thì nhọc nhằn mà không có công ư?”

Tổ Phước nói: “Công chẳng phải là không có, nhưng thành mà không có chỗ ở”.

Hỏi : “Đã thành công vì sao không có chỗ ở?”

Tổ Phước nói: “Chẳng có nghe nói: “Thái bình vốn chỗ tướng quân mong. Chẳng để tướng quân thấy thái bình” sao?”

Ở chỗ này có thể biết rằng, mượn công phu để tỏ rõ địa vị thì Tông Môn chẳng phế bỏ, chứ nào từng một mực nói thiền là vô sự không tu gì cả sao?

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:07 AM
MỤC TÁM: CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG VÀ TÁNH GIÁC TOÀN VẸN

II. TÂM NHÂN ĐỊA (tt)

A. XÉT RÕ GỐC RỄ PHIỀN NÃO

Kinh:

“Cái nghĩa Thứ Hai là, các ông muốn quyết phát tâm Bồ Đề, nơi Bồ Tát Thừa sinh dõng mãnh quyết định quăng bỏ các tướng hữu vi, thì phải xét rõ gốc rễ phiền não: những thứ ấy từ vô thủy đến nay, phát sanh nghiệp và nảy nở ra, là ai làm ai chịu?

“Anan, ông tu đạo Bồ Đề mà không xét kỹ cái Căn Bản Phiền Não thì không thể biết Căn Trần hư vọng điên đảo chỗ nào? Chỗ điên đảo còn chẳng biết thì làm sao hàng phục được chúng mà giữ Như Lai Vị?

Thông rằng:

Xét xem cái Nhân Địa Phát Tâm để thể hội cái Chân. Xét xem căn bản phiền não, để dứt hết cái Vọng. Trong cái Vọng lại chẳng có Vọng, tức là Vọng tức là Chân vậy.

Căn bản phiền não có hai thứ: Một là, phát sanh Nghiệp Vô Minh, là phiền não đời quá khứ. Hai là, nảy sanh Vô Minh, là khi đầu thai, đối với cha mẹ mà khởi Thức Tình [Sáu thức trong sáu tình] thương ghét. Cả hai thứ phiền não vốn không có tự tánh. Như biết là vô tự tánh, trọn không có người làm ra, cũng không có người lãnh chịu. Đương thể không tịch, cái gì là phiền não? Người Tiểu Thừa kia, chưa rời công dụng hữu vi, cho là có thật phiền não, cần nên phá trừ. Thế là vì chưa rõ Căn Trần là hư vọng. Như Bồ Tát Thừa thì khác, bước đi ngay trong cái Vô Thượng Bồ Đề, chỉ ở giữa Căn và Trần, xét biết rõ cái gì làm ra, cái gì lãnh chịu, bỗng nhiên phá tan Vô Minh từ vô thủy, lập tức dừng ngay.

Ngài La Sơn Nhàn, trước hỏi Tổ Thạch Sương: “Khi khởi diệt chẳng ngừng thì như thế nào?”

Tổ Sương nói: “Ngay giờ tro lạnh, củi khô đi! Một niệm muôn năm đi! Nắp, rương hợp nhau đi! Sạch ròng không vết đi!”

Ngài La Sơn không hiểu, qua hỏi Tổ Nham Đầu. Tổ Nham quát rằng: “Thế cái gì khởi diệt?”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Chặt đứt dây leo già

Hang bộng chồn đập phá

Báo gặp sương mù mà đổi vằn

Rồng nương sấm sét mà thay cốt

Á!

Khởi diệt lăng xăng đó vật gì?”.

Ở đây mà tỉnh thức, thì chẳng hướng về cửa sáu Căn mà nắm giữ, phân chia quen lạ vậy.

Bàng Cư Sĩ kệ rằng :

“Một bầy sáu tên giặc

Đời đời lừa giết người

Ta nay rõ bay rồi

Chẳng cùng bay gần gũi

Nếu bay chẳng phục ta

Đến đâu ta cũng nói

Dạy người biết hết bay

Nếu bay chịu phục ta

Ta bèn chẳng phân biệt

Cùng bay ở một chỗ

Đồng chứng Vô Sanh Diệt”.

Đây là cái biết chân thật chỗ nào điên đảo, nên hay hàng phục được mà giữ Như Lai vị vậy.

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:10 AM
Kinh:

“Anan, ông hãy xem người trong thế gian mở nút. Hễ không thấy chỗ thắt nút, thì làm sao biết mở? Nhưng không hề nghe nói hư không bị phá tan. Vì sao thế? Vì hư không không có hình tướng, không có thắt hay cởi vậy. Thì như ông hiện giờ, sáu thứ : Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt cho đến Thân Ý đang làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà. Do thế mà từ vô thủy, thế giới chúng sanh sanh ra ràng buộc ở nơi sự vật thế gian, không thể siêu vượt khỏi.

Thông rằng :

Ở trước, lấy ví dụ hư không chẳng hư hoại, nên chẳng sanh diệt. Ở đây, dụ hư không không có thắt nút nên không có phiền não. Hư không còn thế, thì Tự Tánh Chân Không sao lại có phiền não sanh diệt ư? Như bỏ sanh diệt, giữ lấy cái Chân Thường, thì cái ánh sáng thường hằng hiện bày trước mắt, khi ấy Căn, Trần, Thức tiêu mất, thì thế giới chúng sanh còn thể nào sanh trói buộc? Bên trong ánh sáng phát ra thì các trần tướng biến hóa của thế gian tiêu tan như băng gặp nước sôi; tức thời hóa thành Tri Giác Vô Thượng. Thế là nơi sự vật thế gian mà siêu vượt khỏi vậy. Của báu nhà mình là như vậy, sao chẳng tự giữ gìn thương tiếc.

Sáu Thức ở trong, sáu Trần ở ngoài, đều do sáu Căn dẫn dắt tự phát sanh ràng buộc, nên gọi là mai mối cho giặc.

Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Bậc Sa môn há chẳng phải là người đầy đủ đại từ, đại bi sao?”

Tổ Tào Sơn nói : “Phải”.

Hỏi : “Bỗng gặp sáu tên giặc cướp đến thì sao?”

Tổ Sơ nói: “Cũng cần đầy đủ đại từ, đại bi”.

Hỏi: “Thế nào là đầy đủ đại từ, đại bi?”

Tổ sơ nói: “Một gươm chém sạch!”

Hỏi: “Sau khi hết sạch rồi thì sao?”

Tổ Sơn nói: “Mới được hòa đồng”.

Lại có nhà sư hỏi Tổ Bửu Phước: “Nhà nghèo nàn mà gặp ăn cướp thì làm sao?”

Tổ Phước nói: “Không thể hết sạch đâu”.

Hỏi: “Vì sao mà không thể hết sạch?”

Tổ Phước nói: “Ăn cướp chính là người nhà”.

Hỏi : “Đã là người nhà, tại sao lại đổi thành ăn cướp của nhà?”

Tổ Phước nói : “Trong đã không có nội ứng, thì ngoài làm gì được?”

Hỏi : “Bỗng nhiên bắt được ăn cướp thì công về đâu?”

Tổ Phước nói : “Thưởng cũng chưa từng nghe”.

Hỏi : “Như thế thì nhọc nhằn mà không có công ư?”

Tổ Phước nói: “Công chẳng phải là không có, nhưng thành mà không có chỗ ở”.

Hỏi : “Đã thành công vì sao không có chỗ ở?”

Tổ Phước nói: “Chẳng có nghe nói: “Thái bình vốn chỗ tướng quân mong. Chẳng để tướng quân thấy thái bình” sao?”

Ở chỗ này có thể biết rằng, mượn công phu để tỏ rõ địa vị thì Tông Môn chẳng phế bỏ, chứ nào từng một mực nói thiền là vô sự không tu gì cả sao?

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:12 AM
Kinh :

“Anan, thế nào gọi là thế giới chúng sanh? Thế là thời gian dời đổi; giới là không gian phương chốn. Nay ông nên biết rằng những phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương dưới là giới. Quá khứ, vị lai, hiện tại là thế. Phương chốn có mười, sự trôi chuyển có ba. Tất cả chúng sanh dệt cái hư vọng mà hỗ tương thành ra như vậy. Sự đổi dời là ở trong thân, thời gian và không gian gắn bó với nhau. Nhưng tính của giới đó tuy thiết lập ra mười phương, mà rõ ràng có thể xác định nơi chốn của nó. Thế gian chỉ nhận các phương Đông, Tây, Nam, Bắc; phương trên, phương dưới thì không có vị trí rõ ràng; còn phương giữa cũng không có vị trí nhất định. Số bốn của giới đã rõ rồi, hợp cùng với số ba của thế, thì ba nhân bốn, bốn lần ba, xoay chuyển thành số mười hai. Biến đổi ba lớp, từ một chục thành trăm, thành ngàn. Ở trong sáu Căn trước sau bao gồm, mỗi thứ có thể có đến một ngàn hai trăm công đức.

“Anan, ông lại xét trong sáu Căn đó, hơn kém thế nào?

“Như Nhãn Căn xem thấy, phía sau thì tối, phía trước thì sáng, phương trước toàn sáng, phương sau toàn tối, trái phải hai bên, ba phần chỉ được có hai. Tóm lại, công đức của Nhãn Căn không toàn vẹn, trong ba phần thì một phần không có, vậy nên biết Nhãn Căn chỉ có tám trăm công đức.

“Như Nhĩ Căn nghe khắp, mười phương không sót, động thì như có xa, có gần, tĩnh thì không có bờ bến. Nên biết Nhĩ Căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức.

“Thân Căn biết chạm xúc, biết các cảm xúc dễ chịu và khó chịu. Khi hợp thì biết, khi rời thì không biết. Rời chỉ có một phần, hợp thì có hai phần nên nghiệm nơi Thân Căn ba phần thiếu một. Nên biết rằng Thân Căn chỉ có tám trăm công đức.

“Ý Căn lặng chứa hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian trong mười phương, ba đời. Dù Thánh hay phàm, không có cái gì chẳng bao dung cùng tột bờ bến. Nên biết rằng Ý Căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức.

Thông rằng:

“Hết thảy chúng sanh dệt cái hư vọng mà hỗ tương thành ra như vậy. Sự dời đổi là ở trong thân, thế và giới gắn bó với nhau”, câu ấy nghĩa là thế giới là sự kết thành của nghiệp lực chúng sanh. Thân là Chánh Báo, thế gian là Y Báo, chỉ do nghiệp quả mà nên dạng hình, làm khách trọ đổi dời, trôi nổi không cùng. Giao thiệp với trần thế, đều do sáu Căn làm môi giới. Trong sáu Căn, mỗi cái đều có một ngàn hai trăm công đức, căn cứ trên tánh hiểu biết thì đồng, còn đối với cái dụng của sáu Căn phân biệt thì có khác, bởi thế mà có đầy đủ và thiếu kém khác nhau.

Ở trước có nói “Khiến ông lưu chuyển thì lỗi lầm là Tâm và Mắt”, thế nên bảy lần hỏi Tâm, tám chỗ trả về, để tỏ rõ cái thấy hư vọng. Ở đây lại tỏ rõ đủ sáu Căn là môi giới cho giặc, nên luận bàn rõ ràng sự hơn kém của sáu Căn ấy. Khiến chọn lấy Nhĩ Căn Viên Thông để làm gốc tu chứng. Nhãn Căn, Tỷ Căn, Thân Căn thì ba phần thiếu đi một, không đầy đủ dung lượng của cái Tánh. Thiệt Căn, Ý Căn, tuy đầy đủ công đức như Nhĩ Căn, nhưng Thiệt Căn thì rơi vào lời nói, Ý Căn thì rơi vào sự suy nghĩ. Chẳng bằng được Nhĩ Căn, không hình tướng, không mùi, rất gần với Tánh Thể, bởi vậy phải nên theo nó vậy.

Lấy không gian giao thiệp với thời gian, gọi là nhân thành ba lớp. Thứ nhất là, bốn phương hướng với ba đời, thành ra mười hai. Thứ hai là, một phương với ba đời, biến thành mười, các phương khác cũng thế, cọng thành một trăm hai mươi. Thứ ba là, một phương từ mười biến thành một trăm, các phương khác cũng như vậy, cọng thành một ngàn hai trăm. Số của thời gian là số ba, nên nhân ba lần. Không gian phương hướng có mười, nên một biến thành mười. Đó là con số của tự nhiên. Trong Kinh Dịch, số đại diễn là năm mươi, lấy năm nhân mười, lấy mười nhân năm, cũng giống như phép này. Chỗ dùng của Thánh nhân trước sau đồng một đường lối.

Mỗi phương có hai trăm công đức, mỗi phương phụ có một trăm công đức. Tóm lại, mỗi phương có ba trăm công đức. Nay Nhãn Căn thấy ba phương chính phía trước và hai bên thì có sáu trăm công đức, cộng với hai phương phụ phía trước là hai trăm, thành có sáu trăm công đức. Còn ở phía sau thiếu một phương chính (hai trăm) và hai phương phụ (một trăm nhân hai) không thấy được. Thật ra, thì sáu Căn mà trong sạch, có thể dùng thay cho nhau. Như trong kinh Hoa Nghiêm, y theo kinh mà tu hành, nếu đã phát ra được cái giải tương tự, thì tuy nhãn Căn chỉ có tám trăm công đức, cũng đầy đủ bao nhiêu công đức như năm Căn kia. Còn nếu sáu Căn làm mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà, thì đan dệt hư vọng mà đổi dời, không còn bờ bến. Cho nên, tu thì công đức vốn vô cùng, không tu thì nghiệp quả cũng vô cùng vậy.

Tổ Pháp Nhãn thượng đường nói: “Người xưa nói: “Thế nào là Thiền? Ba cõi đăng đẳng! [Không hở sót] Thế nào là Đạo? Mười phương mênh mông!” Vì sao nói ba cõi đăng đẳng? Đâu là mười phương mênh mông? Cái đạo lý ấy thể hội được chăng? Lấp mắt đi, lấp tai đi, lấp hết lưỡi, thân, ý! Chỗ nào thiếu hụt? Chỗ nào động lay? Các Thượng Tọa hiểu làm sao? Ngang cũng chẳng được, dọc cũng chẳng được, bỏ cũng chẳng được, nắm cũng chẳng được, không có chỗ dụng tâm, cũng không có chỗ bày vẽ! Nếu hiểu được như thế, mới thấu hiểu pháp môn tuyệt hết chọn lựa, cả thảy ngữ ngôn dứt rỉ chảy!”

“Từng có nhà sư hỏi: “Thế nào là lời tuyệt hết rỉ chảy?” Trả lời cho nhà sư rằng: “Miệng giống như lỗ mũi thì rất phải”. Các Thượng Tọa như hiểu được chỗ này, thì tự nhiên rỗng suốt. Như tỏ suốt được, thì hết mười phương thế giới là tròng mắt Kim Cang. Hãy vô sự! Trân trọng”.

Lại còn thiền sư Hoàng Long Chấn thượng đường nói: “Nêu ra cái nhân duyên của người xưa hỏi thầy Xà Lê, thầy chẳng được lấy theo xưa mà hiểu. Nếu lấy theo xưa mà hiểu thì mất đi con mắt hiện giờ. Nêu ra cái nhân duyên hiện giờ hỏi thầy Xà Lê, thầy không được lấy theo hiện giờ mà hiểu. Nếu lấy theo hiện giờ mà hiểu, thì ngăn che con mắt xưa nay của thầy. Dù cho chẳng mất đi, chẳng ngăn che, chẳng phải xưa, chẳng phải nay, thì cũng còn là thuốc với bệnh trị lẫn nhau, là lời nói dỗ cho hết khóc! Còn như một câu thấu thoát, thầy Xà Lê nói được chăng? Nếu không nói được, hãy đợi nói chuyện Thực Tướng với La Hán Phong, rồi sẽ nói cho mấy thầy”.

Các lời nói ở trên, tuy chỉ riêng tỏ rõ việc hướng thượng, mà lại cùng kinh này khai phát. Liền được Miệng giống như lỗ mũi, Mắt tựa lông mày, sáu Căn không chỗ nương gởi, bèn chứng cái nhiệm mầu của Vô Sanh. Đến khi Hết cả đại địa là một con mắt lẻ của Sa Môn, thì lại không còn chỗ nào để nuốt hay nhả. Cái công đức này há có thể lấy chuyện thế gian mà cầu được ư?

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:14 AM
Kinh:

“Anan, nay ông muốn ngược dòng Ái Dục sanh tử trở lại cùng tột của sự lưu chuyển, đến chỗ Không Sanh Diệt, thì phải nghiệm xét sáu Căn đang thọ dụng đây: cái nào là hợp, cái nào là lìa, cái nào sâu, cái nào cạn, cái nào viên thông, cái nào chẳng viên mãn. Nếu ở chỗ đó ngộ được Căn viên thông, ngược dòng nghiệp từ vô thủy dệt đan hư vọng, theo được Tánh viên thông, thì so với cái Căn không viên thông, thật là gấp bội, như một ngày so với một kiếp. Nay Ta đã hiển bày đầy đủ những công đức vốn có của sáu Căn trong lặng, tròn sáng, số lượng là như vậy. Tùy ông chọn cho kỹ, cái nào có thể vào, ta sẽ phát minh khiến ông tăng tiến.

“Mười phương Như Lai, nơi mười tám giới, mỗi mỗi đều tu hành mà được Vô Thượng Bồ Đề tròn đủ, trong các giới đó, không có chỗ nào hơn kém. Chỉ vì ông có thấp kém, mà ở trong ấy chưa tròn cái Huệ Tự Tại được. Thế nên, ta nêu lên khiến ông chỉ cần ở nơi một Căn mà thâm nhập. Nhập Một thì không có vọng, cả sáu Căn kia cùng lúc thanh tịnh.

Thông rằng :

Cái gốc của sự lưu chuyển tức là cái Diệu Trạm Bất Động vậy. Tách ra khỏi cái ấy, thì trôi lăn theo cảnh, gọi là dòng sanh tử. Nghịch lại mà nhập vào, ngược dòng vẹn tròn cái Một, gọi là Chẳng Sanh Diệt. Sanh diệt là vọng, chẳng sanh diệt thì không vọng. Sáu Căn thọ dụng, tuy là liên quan với vọng mà bày tỏ công đức, thật vốn là một Tinh Minh phân ra, đồng một Tánh trong lặng tròn sáng vậy. Chỉ cần thâm nhập một cửa, đạt thẳng đến chỗ bản nguyên, theo tánh viên thông, chẳng sanh ràng buộc, nhiếp phục được tâm bám níu trước kia, nhập Phật Tri Kiến, thì sáu Căn thọ dụng đều thành diệu dụng.

Đức Lục Tổ dạy: “Nếu khởi cái chân chánh Bát Nhã quán chiếu, trong khoảng sát na vọng niệm đều tan hết. Như biết tự tánh, một ngộ liền đến Phật địa. Thiện Tri Thức! Trí Huệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, thấu suốt từ Bổn Tâm. Nếu thấu suốt Bản Tâm tức là giải thoát. Giải thoát, đó là Bát Nhã Tam Muội. Bát Nhã Tam Muội, tức là Vô Niệm. Sao gọi là Vô Niệm? Như thấy tất cả pháp, tâm chẳng nhiễm trước, đó là Vô Niệm. Dùng bèn khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng bám luyến chỗ nào. Trong sạch lấy Bổn Tâm, khiến sáu Thức ra sáu cửa, ở trong sáu Trần mà không nhiễm, không lẫn lộn; đến đi tự do, suốt dùng không mắc vướng, tức là Bát Nhã Tam Muội, tự tại giải thoát, gọi là Hạnh Vô Niệm”.

Lời nói này của Đức Lục Tổ, theo Ý Căn mà vào, nối tiếp thẳng từ môn phong của Đức Ca Diếp.

Tổ Ngưỡng Sơn ở Tổ Quy Sơn, đang chăn trâu trước sườn núi, thấy một nhà sư lên núi, không bao lâu lại xuống.

Tổ Ngưỡng Sơn hỏi : “Thượng Tọa sao không ở lại trong núi?”

Nhà sư đáp : “Chỉ vì nhân duyên chẳng khế hợp”.

Tổ Ngưỡng nói : “Có nhân duyên nào, ông thử nêu ra đi!”

Đáp : “Hòa Thượng hỏi tôi tên gì. Tôi nói “Quy Chơn”. Hòa Thượng nói “Quy Chơn ở chỗ nào?” Tôi không đáp được”.

Tổ Ngưỡng nói : “Thượng Tọa hãy trở lại thưa với Hòa Thượng : “Tôi nói được”. Hòa Thượng hỏi “Nói làm sao?” Thì chỉ trả lời “Trong mắt, trong tai, trong mũi!””

Nhà sư trở lại, làm như lời chỉ dặn.

Tổ Quy Sơn nói : “Gã nói láo buông tuồng! Đây là lời nói thiện tri thức của năm trăm người”.

Thiền sư Bàn Am Thành thượng đường nói :

“Trong mũi là tiếng, trong tai hương

Trong mắt mặn lạt, lưỡi đen vàng

Ý thì cảm giác, thân phân biệt

Nhà tuyết như xuân, hạ mát trong”.

Thấy được như vậy, mới biết rằng trong thân nam nhập định thì trong thân nữ xuất định. Hoa quỳ theo mặt trời mà xoay chuyển, vằn con tê giác do ngắm trăng mà sanh! Cây Hương Phong thành ông lão; con sâu thành trái quả-lỏa. Nếu mà chẳng biết, khổ thay cho Phật! Cho phép các ông đầy đủ “Một con mắt lẻ!”

Quả như chỗ thấy của các vị tôn túc, mới được cái tin tức của sáu Căn thanh tịnh.

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:42 AM
Kinh :

Ông Anan bạch Phật : “Thưa Thế Tôn! Làm sao ngược dòng vào sâu một Căn lại có thể khiến cho sáu Căn cùng một lúc đều thanh tịnh?”

Phật bảo Ông Anan: “Ông nay đã đắc quả Tu Đà Hoàn, đã diệt được Kiến Hoặc của chúng sanh thế gian ba cõi, nhưng còn chưa biết những tập khí hư vọng chứa nhóm trong Căn từ vô thủy. Các tập khí kia cần phải nhờ tu mới đoạn trừ được. Huống chi, những phân loại, số mục “Sanh, Trụ, Dị, Diệt” ở trong đó.

Thông rằng:

Kiến Đạo đoạn tám mươi tám Kiết Sử; Tu Đạo đoạn tám mươi mốt cái Tư Hoặc. Sơ quả Tu Đà Hoàn tuy đoạn hoặc phân biệt chỗ thô, vẫn còn tế hoặc câu sanh chưa đoạn, nên chưa chứng đến biên giới của Khổ. Chứng được Khổ Biên tế cho đến địa vị Vô Học, thì không những biết các phân loại, số mục Sanh, Trụ, Dị, Diệt của một hữu tình, mà còn hành tướng vi tế của hết thảy hữu tình và vô tình trong tam thiên đại thiên thế giới. Sự tỏ suốt cùng cực này, hẳn là do sự đoạn trừ do tu hành mà được vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Quy Sơn: “Người đốn ngộ lại còn tu nữa không?”

Tổ Quy Sơn nói: “Nếu thật ngộ được cội gốc, thì người ấy tự biết, khi ấy tu và không tu chỉ là lời nói hai đầu. Như nay tuy nhờ duyên mà được Sơ Tâm, một niệm đốn ngộ cái Lý ở nơi mình, nhưng còn tập khí từ vô thủy kiếp, chưa thể nhanh chóng thanh tịnh. Cần dạy người ấy tịnh trừ các hiện nghiệp lưu chứa nơi Thức, tức là tu vậy. Không có riêng pháp nào để dạy người ấy hướng theo tu hành nữa.

“Từ chỗ Nghe nhập vào Lý, cả cái Nghe lẫn cái Lý đều bày hiện nhiệm mầu, tâm tự tròn sáng, chẳng ở trong chỗ mê lầm. Dù có trăm ngàn diệu nghĩa, chế phục đương thời, cũng chỉ mới được ngồi mà mặc áo, phải tự hiểu làm ra kế sống mới được. Nói tóm lại, ở nơi Thật Tế chẳng thọ nhận một mảy trần, nhưng trong cửa muôn Hạnh không bỏ một pháp. Như một đao xông suốt vào, thì tình phàm ý Thánh đều hết ráo, thể lộ Chân Thường, Lý Sự không hai, tức Như Như Phật”.

Phàm Lý Sự chẳng hai, chẳng phải tu, chẳng có chứng. Tổ Quy Sơn hết lời bày tỏ một đường tối thượng. Nào có quét dẹp hết tiệm tu, mà lại chẳng cần phương tiện trợ giúp.

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:45 AM
Kinh:

“Nay ông hãy xem sáu Căn hiện giờ là Một hay là Sáu?

“Anan, nếu nói là Một thì sao Tai chẳng thấy, Mắt chẳng nghe, Đầu sao chẳng đi, Chân sao chẳng nói?

“Nếu sáu Căn nhất định là Sáu, thì như nay trong hội này, ta đang tuyên dương pháp môn vi diệu cho ông, trong sáu Căn của ông cái nào đang lãnh nhận?”

Anan thưa: “Tôi dùng Tai nghe!”

Phật dạy: “Tai ông tự nghe, thì liên quan gì đến Miệng và Thân, mà Miệng lại hỏi nghĩa, còn Thân thì lại đứng dậy kính vâng! Thế nên phải biết, chẳng phải Một mà cuối cùng thành Sáu, chẳng phải Sáu mà cuối cùng thành Một. Rốt cuộc cái Căn của ông, vốn chẳng phải là Một, hay là Sáu. Chỉ vì do từ vô thủy đến nay, điên đảo kết nhóm, nên ở nơi Tánh trong lặng tròn khắp mà sanh ra cái nghĩa Một và Sáu. Ông là Tu Đà Hoàn, tuy được cái Sáu đã tiêu, mà chưa mất hết cái Một.

“Như hư không bao la, tham hợp với các vật dụng, do vật dụng có hình dáng khác nhau, mà gọi là hư không có khác nhau! Nếu trừ bỏ các vật dụng mà xem hư không, thì nói là hư không là một. Hư không bao la kia đâu có vì ông mà thành đồng hay chẳng đồng, huống gì lại gọi đó là một hay chẳng phải một. Thế thì sáu Căn thọ dụng hay biết của ông, cũng lại như thế.”

Thông rằng:

Chỗ này chính là giải nghĩa chỗ nghi về “Vào sâu một Căn, thì sáu Căn đồng thời thanh tịnh”. Nếu sáu Căn nguyên là một, vốn tự thanh tịnh, thì sao lại là sáu tên giặc? Nếu sáu Căn nguyên là sáu, chẳng có thể dùng thay cho nhau, thì làm sao có thể thanh tịnh cùng một lúc? Nay như hư không vốn là một, mà tham hợp với những vật dụng thì thành sáu. Do các vật dụng hình dáng khác nhau mà gọi là có những hư không khác nhau, rồi gọi đó là sáu chứ không phải là một. Nếu dẹp hết vật dụng, nhìn xem hư không, thì nói hư không là một, cho là cái sáu tiêu rồi, chỉ còn lại cái một. Đây là để ví dụ về nghĩa phát sanh của một và sáu. Hư không bao la kia nào có hòa hợp gì với hình thể của vật dụng, vốn chẳng phải là đồng, là khác. Đã không có chuyện đồng hay khác thì chỗ nào mà lập ra cái tên sáu với một? Đây là để ví dụ vốn chẳng có gì là một hay sáu. Khi thấy ra vốn chẳng phải là một hay sáu, trong lặng tròn đầy, xưa nay tịch diệt, thì có chỗ nào mà chẳng thanh tịnh đâu?

Tu Đà Hoàn, gọi là Nhập Lưu, vào dòng, mà không có chỗ nhập. Chẳng nhập vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tức là cái sáu tiêu tan. Nhưng còn chấp là có Niết Bàn ở đâu đó, nên chưa mất đi cái Một. Cái Một từ chỗ nào tới? Hư không từ chỗ nào khởi ra? Thế mới biết đã “Hướng thượng” mà lại còn có chuyện!

Tổ Dược Sơn hỏi Ngài Vân Nham: “Ngoài chỗ Bá Trượng ra, ông còn đến chỗ nào?”

Đáp: “Có từng đến Quảng Nam”.

Tổ Sơn nói: “Nghe nói ngoài cửa Đông thành Quảng Châu có một tảng đá bị Quan Châu dời đi, có thật không?”

Ngài Nham nói: “Không những Quan Châu, mà hết thảy người trong nước dời cũng chẳng động”.

Tổ Dược Sơn lại hỏi: “Nghe nói ông biết giỡn đùa làm trò với sư tử, có phải không?”

Đáp : “Phải”.

Hỏi : “Làm trò được mấy xuất?”

Đáp : “Làm trò được sáu xuất”

Tổ Sơn nói : “Ta cũng làm trò được”.

Hỏi : “Hòa Thượng làm trò được mấy xuất?”

Tổ Sơn nói : “Ta làm trò được một xuất”.

Ngài Nham nói : “Một tức sáu, sáu tức một”.

Sau Vân Nham đến Tổ Quy Sơn, Tổ hỏi: “Có nghe Trưởng Lão ở chỗ Dược Sơn làm trò giỡn sư tử, có thật không?”

Đáp : “Thật”.

Hỏi: “Giỡn hoài hay có lúc dẹp bỏ?”

Ngài Nham nói: “Muốn giỡn thì giỡn, muốn dẹp thì dẹp”.

Hỏi: “Khi dẹp thì sư tử ở chỗ nào?”

Ngài Nham nói: “Dẹp hết, dẹp hết vậy”.

Cần biết Ngài Vân Nham giỡn sư tử, chứ không phải giỡn với tinh hồn, vì Ngài có tảng đá mà người cả nước đẩy xô chẳng động.

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:47 AM
Kinh:

“Do hai thứ Sáng và Tối bày tỏ lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà dính che tánh trong lặng, phát ra cái Thấy. Cái Kiến Tinh dọi ra cái Sắc, kết Sắc thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh. Nhân gọi là hình thể con mắt, như trái bồ đào. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Sắc.

“Do hai thứ Động và Tĩnh đối chọi lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Nghe. Cái Thính Tinh phóng dọi cái Tiếng, cuộn xếp cái tiếng lại thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái tai, như lá mới cuốn. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Tiếng.

“Do hai thứ Thông và Bít phát hiện lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Ngửi. Cái Ngửi phóng dọi ra Hương, thu nạp cái Hương thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái mũi như hai móng tay rủ xuống. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Hương.

“Do hai thứ Nhạt và Có Vị xen phát lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Nếm. Cái Nếm phóng dọi ra Mùi Vị, thắt cái Vị thành Căn. Gốc của Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi hình thể cái lưỡi như vành trăng non. Phù căn bốn Trần, rong ruổi chạy theo Vị.

“Do hai thứ Lìa và Hợp so sánh lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Biết Xúc Chạm. Cái Biết Xúc Chạm phóng dọi ra thành Xúc, ôm nắm cái Xúc lại thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi là hình thể cái thân như cái trống cơm. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo Xúc.

“Do hai thứ Sanh và Diệt, nối tiếp lẫn nhau trong Tánh tròn đầy nhiệm mầu, mà làm dính che Tánh trong lặng, phát ra cái Biết. Cái Biết phóng dọi ra thành các pháp, tóm thu các pháp thành Căn. Gốc Căn gọi là bốn Đại thanh tịnh, nhân gọi cái Ý như cái thấy trong phòng tối. Phù căn bốn trần, rong ruổi chạy theo pháp.

Thông rằng:

Nguyên nương y một Tinh Minh, chia thành sáu cái hòa hợp, ở đây mà thấy rõ. Từ nguyên do kết tạo ra sáu Căn cho đến cách thế rong ruổi chạy theo Trần, đều đầy đủ chi tiết. Ở đây cũng như chỗ ví dụ trước về hư không bao la tham hợp với các vật dụng. Cái Thể Tinh Minh, Sắc gặp thì thành cái Thấy, Tiếng gặp thì thành cái Nghe. Thế sao là Tánh tròn đầy mầu nhiệm?

Thật cũng như nước lặng trong mà bởi có bụi rớt vào mà thành dính che vậy.

Bốn Đại thanh tịnh tỏ rõ cái Căn thắng nghĩa, hay soi chiếu Cảnh mà phát ra cái Thức, là Sắc Căn trong sạch. Phù căn bốn trần để tỏ rõ cái Căn phù trần, hay rong ruổi chạy theo trần tướng, đủ thứ nghiệp. Tánh của Đất, Nước, Lửa, Gió tất cả vốn là Không, nên gọi là bốn Đại trong sạch. Tướng của Đất, Nước, Lửa, Gió vốn là lay động, nên nói bốn trần như cái thấy trong phòng tối. Sao có được phù căn bốn trần? Bởi mê muội thành ra hư không, trong cái hư không mê muội đó, kết cái Tối làm hình Sắc. Cái Sắc tối tăm này xen lẫn với Vọng Tưởng, nhóm các duyên mà lay động bên trong. Vì có cái Tối để thấy nên gọi là Phù Căn. Vì có lay động nên gọi là Trần. Như trong năm loại Sắc, cái Sắc vô hình là do chỗ thọ nhận mà dẫn phát ra, rồi cũng cái Thọ nhớ giữ. Căn chìm vào bên trong, Trần nổi ra bên ngoài. Trần là cái chỗ để nương sao lại nói là rong ruổi? Vì, nêu lên cái Sở Y để hiển cái Năng Y vậy.

Thiền sư Phổ An có bài kệ :

“Vê chẳng thành viên, đập chẳng rời

Nào cần Nam Nhạc với Thiên Thai

Đầu cửa sáu căn không người dụng

Có chuyện Hồ Tăng [Tổ Đạt Ma] đến tự Tây ?”.

Có nhà sư ở Tổ Bửu Phước đến Tổ La Hán Sâm.

Tổ Sâm hỏi: “Phật Pháp ở đấy chỉ dạy người ta như thế nào?”

Nhà sư đáp: “Ngài Bửu Phước có lần dạy chúng rằng : Bịt đi mắt ông, dạy ông nhìn mà chẳng thấy! Lấy đi tai ông, dạy ông lắng mà chẳng nghe! Giữ chặt ý ông, dạy ông phân biệt chẳng được!”

Tổ Sâm nói: “Ta hỏi ông: Không bịt mắt ông, ông thấy cái gì? Không lấp tai ông, ông nghe được cái gì? Không giữ chặt ý ông, ông làm thế nào để có sự phân biệt?”

Nhà sư nghe xong tỉnh ngộ.

Đó là ở chính nơi đầu cửa sáu Căn thấy được lối vào, bèn thấy ngay một đoạn chân phong là Tánh tròn đủ nhiệm mầu.

Lại có nhà sư, nghe một khúc trong cuốn Tây Sương Ký, “Nào ngăn được lúc đi. Khóe mắt đâu chuyển động”, bèn đại khế ngộ.

Há phải đợi Hồ Tăng từ Tây đến sao?

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:49 AM
Kinh:

“Anan, sáu Căn như vậy do tánh Giác Minh kia, có cái Minh mà thành Minh Giác, mất đi tánh thuần túy tỏ biết, dính với cái Vọng mà có ra cái Hay Biết. Do đó mà nay ông rời Tối rời Sáng thì chẳng có cái Thấy ở đâu cả. Rời Động, rời Tĩnh thì không có cái Nghe ở đâu cả. Không có Thông, không có Bít, thì cái Ngửi chẳng sanh. Chẳng Mùi, chẳng Nhạt, thì cái Nếm chẳng ở đâu mà có. Không Rời, không Hợp thì Cảm Giác vốn không. Không Diệt không Sanh, thì cái Hay Biết có ở chỗ nào?

“Ông chỉ không theo mười hai Tướng hữu vi động tĩnh, lìa hợp, nhạt vị, thông bít, sanh diệt, sáng tối kia, mà tùy đó nhổ rứt một Căn ra khỏi cái dính, phục về bên trong, trở lại nguồn chân, phát ra cội nguồn sáng suốt chói rực. Cái Bổn Tánh chói rực đã hiện ra rõ ràng thì năm cái dính kia cũng bứt ra, giải thoát hoàn toàn. Khi đó, cái hay biết có mà chẳng do tiền trần, vốn sáng suốt mà chẳng theo căn, cái sáng suốt chỉ gởi ở nơi Căn mà chiếu sáng. Bởi thế sáu Căn có thể dùng thay lẫn nhau.

Thông rằng:

Đoạn trước nói: “Biết rõ cái Vọng chẳng phải cái gì khác, mà lỗi là cái Giác Minh. Cái Sở Minh đã vọng lập ra, thì cái Minh chẳng thấu thoát, mà hạn cuộc nơi Căn”.

Đoạn này nói: “Do tánh Giác Minh kia, có cái Minh mà thành Minh Giác, mất đi tánh thuần túy tỏ biết, dính với cái Vọng mà có ra cái Hay Biết, chạy theo Trần Tướng”.

Cả hai đoạn bày rõ sáu cái Căn hư vọng thành tựu là do phân chia Tánh trong lặng tròn đầy kia, cái Hay Biết thuần túy ban đầu phóng dọi ra mà có! Thế nên, vốn là tánh Minh Diệu chân thật, mà ở trong chẳng lìa khỏi Căn, bên ngoài chẳng thể rời Trần, bèn bị Căn Trần che lấp, không còn chỗ nào hiển lộ.

Phải biết sáu Trần là hư vọng, vốn không có tự tánh. Sáu Căn là hư vọng vì lìa ngoài Trần thì không có tự thể. Trần không có tự tánh, nên cũng có thể dính kín, mà cũng có thể ra thoát vậy. Căn thì không tự thể, nên có Cảnh thì bèn có, không có Cảnh thì bèn không.

Luận Bát Thức Quy Củ nói: Bậc Nhị Địa chỉ trụ ở ba thứ : Nhãn, Nhĩ, Thân gọi là Sơ Thiền của Sắc Giới. Không ăn bằng cách nhai, nên Thiệt Thức chẳng khởi. Không có các thứ tạp uế, nên Tỷ Thức chẳng sanh. Độc chỉ trụ trong ba cái Thức của Mắt, Tai và Thân. Đến Đệ Tam Địa, vì do Định sanh nên ba cái Thức Mắt, Tai và Thân cũng không khởi lên.

Chỗ này tức là trừ bỏ vật dụng mà thấy hư không, thì hư không cũng làm gì có? Thế nên, biết một hay sáu đều là hư vọng ráo, còn chẳng phải một, chẳng phải sáu mới là có chút chân thật. Cái Vọng nép phục tức là cái Chân hiện. Chân hiện thì Vọng không còn dính. Đã thoát khỏi sự dính, thì cái sáng chói rực rỡ phát ra mà chẳng do Trần tướng khởi. Đã chẳng do Trần thì đó là cái Chân Thật, xưa nay vốn sáng suốt chẳng phải từ Căn ra, là Tánh sáng lặng, tròn đầy vậy.

Tuy chẳng theo Căn mà có, nhưng nương gởi ở Căn mà phát ra ánh sáng đó thôi. Căn gọi là nương gởi, vì nguyên là không có vị trí nhất định. Thế nên, Nghe chẳng phải nhất định ở Tai, Thấy không nhất định ở Mắt, mà sáu Căn có thể dùng thay lẫn cho nhau, chứ không như trước kia : sự Nghe chẳng ra ngoài Tiếng, Thấy chẳng vượt khỏi Sắc, tự sanh ràng buộc, chẳng thể siêu việt được.

Đức Phật Tỳ Xá Phù có kệ:

“Giả mượn bốn Đại để làm thân

Tâm vốn vô sanh, nhân cảnh có

Tiền cảnh là không, tâm cũng không

Tội phước như huyễn, khởi cũng diệt”.

Đoạn kinh trên là chú giải của bài kệ này vậy.

Có nhà sư hỏi Thiều Quốc Sư: “Theo trong giáo pháp có lời dạy : Mắt chẳng thấy sắc trần. Ý chẳng biết các pháp. Như thế nào là mắt chẳng thấy sắc trần?”

Quốc Sư nói: “Đó là lỗ tai thấy!”

Hỏi: “Như thế nào là ý chẳng biết các pháp?”

Quốc Sư nói: “Con mắt biết”.

Hỏi: “Như vậy thì thấy nghe bặt đường, mà thanh, sắc vẫn náo động?”

Quốc Sư nói: “Ai nói với ông ?”

Rồi nói: “Phàm tất cả vấn đáp như mũi kim đối nhau, không mảy tơ sai khác. Sự không gì chẳng thông suốt, Lý không đâu chẳng đủ. Bởi vì tất cả ngôn ngữ, tất cả tam muội, ngang dọc, cạn sâu, ẩn hiện, đến đi, chính là Thực Tướng của Chư Phật. Chỉ cứ như giờ đây tức thời nghiệm lấy”.

Hòa Thượng Định Huệ Tín hỏi một nhà sư: “Quốc Sư Huệ Trung nói vô tình thuyết pháp. Các vị tôn túc phương Nam bàn luận như thế nào?”

Nhà sư nói: “Khắp cả đều là sáu căn dùng thay nhau”.

Ngài Huệ Tín nói : “Trong kinh nói: Vô Nhãn, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. Lấy cái gì dùng lẫn cho nhau?”

Nhà sư định suy nghĩ, Ngài bèn đánh.

Như Ngài Huệ Tín mới là hỗ dụng hiện tiền, còn vượt Thiều Quốc Sư bảy bước!

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:51 AM
Kinh:

“Anan, ông há chẳng biết ngay ở trong hội này, Ông A Na Luật Đà không có Mắt mà thấy; rồng Bạt Nan Đà không có Tai mà nghe; thần nữ Căng Già không có Lưỡi mà biết mùi vị; thần Thuấn Nhã Đa không có Thân mà biết cảm giác, trong hào quang Như Lai chiếu ra, làm cho tạm hiện ra có thân, chứ bản chất của ông là gió làm gì có thân thể? Các vị Thanh Văn được tịch diệt ở trong Diệt Tận Định, như Ông Ma Ha Ca Diếp trong hội này, diệt mất Ý Căn từ lâu mà vẫn hiểu biết tròn vẹn sáng suốt, không do ở tâm niệm”.

Thông rằng:

Kinh nói, “Vốn sáng suốt mà chẳng theo Căn”, cho đến việc “Sáu Căn dùng thay nhau”, ở chỗ nào mà nghiệm? Ông Luật Đà được nửa cái Thiên Nhãn nên không cần nhờ con Mắt. Rồng lấy sừng nghe nên chẳng cần đến Tai. Thần sông Căng Già ngửi Hương vốn chẳng dùng Mũi. Ông Bạt Đề lưỡi trâu mà vẫn phân biệt các Vị. Thần Thuấn Nhã không thân mà vẫn có xúc giác. Các vị Thanh Văn đã chứng Diệt Tận Định, như Đại Ca Diếp, đã diệt mất Ý Căn từ lâu.

Do đó mà biết sáu Căn có thể không có, thì vốn chẳng phải là sáu. Sáu Căn có thể dùng thay cho nhau, thì vốn chẳng phải là một. Chẳng phải một, chẳng phải sáu, mà cái Thể trong lặng tròn đầy kia, ai ai cũng sẵn đủ, há chẳng ở nơi đây mà càng tự tin lấy sao?

Ngài Phổ Dung Trí Tạng đến chỗ Ngũ Tổ Pháp Diễn đang nhập thất, Tổ đem chuyện Thảnh Nữ [Chuyện Cô Thảnh Nữ lìa hồn như sau: Đời Đường có ông Trương Giật, có con gái là Thảnh Nương, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ. Lớn lên, định gả cho nơi khác. Vương Trụ bỏ đi. Nửa đêm thấy Thảnh Nương tới. Hai người ở với nhau có hai con. Sau năm năm, Vương Trụ đưa vợ con về thăm nhà để xin lỗi. Ông Giật rất kinh ngạc, vì cô Thảnh vẫn ở nhà từ trước đến giờ, và nằm bệnh đã năm năm. Hai cô gặp nhau thì nhập thành một] lìa hồn mà hỏi. Ngài liền khế ngộ, làm bài kệ:

“Hai cô hợp thành một cô dâu

Cuộc đời ngăn đứt, khó gặp nhau

Từ đây qua lại không tung tích

Lúc đến, người đi chớ hỏi đường!”.

Ông Trương Tử Thiều đến Tổ Kính Sơn, cùng với ông giúp việc trong chùa đàm luận về “Cách Vật”.

Tổ Kính Sơn Huệï nói: “Ông chỉ biết có Cách Vật mà không biết có Vật Cách”.

Ông Thiều ngơ ngác. Tổ Huệ cười lớn.

Tử Thiều hỏi: “Thầy có thể đem ra thí dụ được chăng?”

Tổ Huệ nói: “Không thấy trong tiểu thuyết có chép: Đời Đường, có người làm quan Lang Thủ cùng An Lộc Sơn mưu phản. Khi vua Đường Minh Hoàng đến đất Thục, thấy hình tượng của người này, nổi giận ra lệnh cận thần chém đầu bức tượng. Khi ấy Lang Thủ đang ở Thiểm Tây mà đầu bỗng rớt xuống đất”.

Ông Tử Thiều nghe xong liền ngộ ý chỉ sâu mầu.

Ngài Phần Dương có bài tụng Lục Tướng:

“Thấy là A Na Luật

Rõ ràng không một vật

Núi sông cùng đất đai

Diễn bày Ba La Mật.

Nghe là Bạt Nan Đà

Tiếng thông, không gì quá

Xa gần đồng đều rõ

Chẳng cần niệm Ma Ha.

Ngửi là Căng Già nữ

Tâm từ bi cùng khắp

Sạch dơ đều rõ hết

Tức đó, không ta người.

Nếm là Kiều Phạm Ba

Ngọt đắng cũng bình thường

Vào miệng rõ cay chua

Giống như trăng giữa trời.

Xúc là Thuấn Nhã Đa

Thiện ác, hết thảy hòa

Cắt xẻ không vui giận

Chỉ thật A Di Đà.

Ý là Đại Ca Diếp

Tỳ Lô [Pháp Thân] là Một Pháp

Nhà tối rõ ràng phân

Chi phái ngàn hoa lá”.

Chỗ Thấy của Ngài Phần Dương xa thẳm lạ thường, mượn sáu Căn này mà mỗi mỗi chỉ ra cửa hướng thượng. Trái lại, không rời chuyện “Phục về nguồn Chân, phát ra cội nguồn sáng suốt chói rực” mà thôi vậy.

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:53 AM
Kinh:

“Anan, giờ đây các Căn của ông mà nhổ sạch ra được, thì cái sáng chói bên trong phát ra. Như thế, các phù trần và các tướng biến hóa của thế gian vật chất đều tiêu mất như băng gặp nước sôi, lập tức hóa thành Tri Giác Vô Thượng.

Thông rằng:

Tùy theo nhổ dứt một Căn, thoát khỏi sự dính, phục về bên trong, trở lại cùng tột dòng Căn đến chỗ chẳng sanh chẳng diệt. Đó là chuyện phía bên công phu, cái cơ duyên là do ở ta.

Các Căn nhổ sạch, cái sáng chói bên trong phát ra, sanh diệt dứt hết, Tịch Diệt hiện tiền. Đây là chuyện phía bên Đốn Ngộ, cơ duyên chẳng ở tại ta. Do đó, không ngộ thì căn thân phù trần, các tướng biến hóa của thế gian sự vật đều quy về Pháp Sanh Diệt, như nước đóng thành băng. Còn một phen Đốn Ngộ, liền chuyển cái Sanh Diệt làm Tánh Chẳng Sanh Chẳng Diệt, như nước sôi tiêu tan băng giá, mà trở lại thành nước vậy. Nước là cái Bổn Lai vậy. Vô Thượng Tri Giác là cái vốn có của ta vậy. Đã thành ra cái Tri Giác Vô Thượng, thì còn có sáu tên giặc nào để lo nữa ư ?

Ngài Long Đàm Tín hỏi Tổ Thiên Hoàng Ngộ rằng: “Từ khi đến đây, con chẳng được Hòa Thượng chỉ bày cho tâm yếu”.

Tổ Hoàng nói: “Từ khi ông đến đây, ta chưa từng có lúc nào mà không chỉ bày tâm yếu”.

Ngài Long Đàm nói: “Chỉ bày chỗ nào đâu?”

Tổ Hoàng nói: “Ông đem trà tới, ta vì ông rước lấy. Ông đem cơm tới, ta vì ông lãnh lấy. Khi ông cung kính, ta bèn cúi đầu. Có chỗ nào là chẳng chỉ bày cái tâm yếu cho ông đâu?”

Thầy Long Đàm đứng trân, suy nghĩ.

Tổ Hoàng nói: “Thấy thì thấy ngay. Nghĩ suy liền trật.”

Long Đàm ngay khi ấy khai ngộ. Bèn thưa: “Bảo nhiệm [Gìn giữ.] thế nào?”

Tổ Hoàng nói:

“Theo Tánh rong chơi

Tùy duyên phóng khoáng

Chỉ hết phàm tâm

Không riêng Thánh giải”.

Tổ Giáp Sơn có thầy Tiểu Sư theo làm thị giả đã lâu. Tổ bảo đi hành cước, đi các nơi học thiền. Sau nghe Tổ Giáp Sơn nhóm chúng, tiếng đạo vang xa. Thầy Tiểu Sư bèn về thăm và hỏi: “Hòa Thượng có chuyện kỳ đặc như thế, sao chẳng sớm nói cho con?”

Tổ Sơn nói: “Ông vo gạo thì ta chụm lửa, ông dọn cơm thì ta bày bát. Chỗ nào là ta phụ rẫy ông đâu?”

Tiểu Sư nghe đó, liền ngộ nhập.

Đều có thể nói là “Lập tức hóa thành Tri Giác Vô Thượng” đó vậy.

Thiện Tâm
09-11-2015, 10:56 AM
Kinh:

“Anan, như người thế gian kia gom cái Thấy ở nơi con mắt. Nếu bảo nhắm kín thì tướng Tối hiện ra trước mặt, cả sáu Căn đều tối, đầu và chân cũng thế. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài thân thể, thì tuy chẳng thấy, mà vẫn phân biệt được đầu và tay, cái tri giác vẫn đồng như cũ.

“Cái Thấy nhân nơi Sáng, khi Tối thành ra không thấy. Còn cái Thấy mà không nhân nơi cái Sáng mà vẫn tự phát ra, thì các tướng Tối chẳng bao giờ làm mờ tối đi được. Căn và Trần đã tiêu tan rồi, thì sao tánh Giác Minh không trở thành nhiệm mầu cùng khắp?

Thông rằng:

Đoạn trước chỉ bày Tánh Trạm Viên chẳng theo Căn, ở đây chỉ ra Tánh Trạm Viên chẳng nương nơi duyên. Người nhắm mắt kia, lấy tay rờ theo thân thể người khác thì phân biệt được đầu và chân. Cái tri giác trong tối với cái tri giác khi Sáng không khác nhau. Người đời còn chẳng cần mượn cái duyên ánh sáng mà vẫn phân biệt được, huống gì Chân Giác của Thánh Nhân há lại mượn duyên ư ? “Cái Thấy nhân nơi Sáng, khi Tối thành ra không thấy”. Đó là nói theo thế đế. Như vậy là cho rằng cái thể Giác Minh, nhờ có ánh sáng mà sáng, do bởi tối mà thành tối. Nay hãy xem người nhắm kín mắt, chẳng có nhờ Duyên ánh sáng mà vẫn hay biết, trong bóng tối cũng vẫn phân biệt rõ đầu và chân. Cái Thấy này, Sáng không làm cho nó Sáng, Tối không làm cho nó Tối, không ngăn cách nó được. Căn và Trần đã tiêu mất, bèn tay có thể làm mắt, mắt có thể làm tai. Một Căn về gốc, sáu Căn thanh tịnh, làm sao tánh Giác Minh chẳng thành nhiệm mầu tròn khắp?

Cái Giác Minh từ sáu Căn mà phát ra ấy, phạm vi của cái Sáng giới hạn bởi Căn, nên chẳng thể nhiệm mầu tròn khắp. Duy cái Giác Minh chẳng nương cậy Căn và Trần, mà tự phát ra, đó là thần thông diệu dụng, cảm ứng khắp nơi, đó thật là sáu Căn dùng thay nhau, tức là cái gốc cho ba mươi hai Ứng Thân do Viên Thông của Đức Quán Thế Âm vậy.

Ngài Vân Nham hỏi Tổ Đạo Ngô: “Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát dùng bao nhiêu tay mắt ấy như thế nào?”

Tổ Ngô nói: “Như người nửa đêm trở tay rờ cái gối”.

Ngài Nham nói: “Tôi hiểu”.

Tổ Ngô nói: “Ông hiểu làm sao?”

Ngài Nham nói: “Khắp Thân [Biến Thân] là tay, mắt”.

Tổ Ngô nói: “Nói thì quá lắm, mà chỉ nói được tám tướng thành Đạo”.

Ngài Vân Nham nói: “Sư huynh nói thế nào?”

Tổ Ngô nói: “Suốt Thân [Thông Thân] là tay, mắt”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Một khiếu rỗng thông

Tám mặt cửa song

Không tướng, không thân, xuân vào luật

Chẳng ngăn, chẳng ngại, nguyệt trời không

Mắt quý sạch trong, tay công đức

Khắp Thân nào giống được Suốt Thân!

Hiện tiền tay, mắt toàn cơ hiện

Đại dụng tung hoành, mặc cữ kiêng”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Khắp Thân phải, Suốt Thân phải

So ra còn cách mười muôn dặm!

Cánh bằng che khắp mây lục hợp

Cuốn gió rền vang bốn biển xanh

Cái ấy bỗng sao, hề, bụi sanh?

Trong ấy, mảy tơ, hề, chưa dứt!

Anh thấy chăng,

Lưới châu buông xuống, ảnh trùng trùng

Đầu gậy, tay mắt từ đâu khởi?”.

Ôi chao! Sao Khắp Thân lại cách Suốt Thân mười vạn dặm? Vì Khắp Thân là chưa lìa được Thân Kiến. Suốt Thân là gồm hết thảy mà quên đi. Chút tơ hào sai khác này, không đầy đủ con mắt thì nào có biện được. Ngài Tuyết Đậu thì tay, mắt đều quên. Còn Ngài Thiên Đồng chẳng ngại cơ duyên cùng diệu dụng, nên huyền lại càng huyền vậy.

Thiện Tâm
09-13-2015, 04:49 PM
B. ĐÁNH CHUÔNG ĐỂ THỂ HIỆN TÍNH THƯỜNG


1. NGHI CĂN TÁNH KHÔNG CÓ TỰ THỂ

Kinh:

Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy, muốn cầu được thường trụ, thì phải ở từ Nhân Địa là Giác Tâm, và những danh mục tu chứng phải cần tương ưng với quả vị. Thưa Thế Tôn, như trong quả vị đó, thì bảy danh hiệu là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh, Am Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, tuy tên gọi khác nhau, nhưng Thể Tánh là trong sạch tròn đầy, vững chắc như Kim Cương Vương, thường trụ chẳng hoại.

“Nếu cái Thấy Nghe này lìa ngoài cái sáng, cái tối, cái động, cái tĩnh, cái thông bít thì rốt ráo không có tự thể; cũng như cái tâm niệm rời ngoài Tiền Trần vốn không chỗ có, thế thì tại sao lại lấy cái rốt ráo là đoạn diệt này mà làm Nhân Địa để tu cho được bảy quả đức Thường Trụ của Như Lai? Thưa Thế Tôn, nếu lìa ngoài sáng và tối, thì cái thấy của tâm niệm diệt mất. Tới lui qua lại, suy xét chín chắn, thì vốn không có Tâm tôi và cái Tâm Sở của tôi, vậy lấy gì làm Nhân Địa để cầu Vô Thượng Giác? Đức Như Lai trước kia có nói cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ, nay lời nói khác nhau, hóa thành hý luận. Đâu là lời chân thực của Như Lai. Xin Thế Tôn rủ lòng đại từ, mở chỗ mê chấp cho tôi.

Thông rằng:

Ông Anan cho cái Nhân là Nhân Thực, cái Quả là Quả Thực, nên cho là lìa ngoài Trần không có tự thể, lìa ngoài Niệm không có Tâm: nghi là đoạn diệt. Đó là vì ông chưa từng biết rằng cái Tâm đối với Cảnh nguyên thuộc về sanh diệt, là sanh diệt thì có thể đoạn, còn cái Tâm lìa Cảnh, không thuộc sanh diệt, nên chưa từng đoạn được. Cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ rốt ráo là vô sở đắc, xem xét nhặt nhiệm thì vốn không có Tâm ta, cùng với Tâm Sở của ta. Lấy cái ấy làm Nhân, thì đó là Chánh Nhân; lấy cái ấy chứng quả, thì đó là Chân Quả. Cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ vốn là như thế, sao lại nghi ngờ là mâu thuẫn ư? Vốn là một Tánh mà có bảy thứ tên gọi.

Kinh Bảo Tích nói: Không Như Lai Tạng lìa tất cả phiền não của tâm thức không giải thoát. Bất Không Như Lai Tạng đầy đủ hằng sa Pháp không thể nghĩ bàn của Phật Trí giải thoát. Không Bất Không Như Lai Tạng tùy hiện sắc không, ứng khắp tất cả.

Không Như Lai Tạng là Quả Thường Trụ. Đại Viên Cảnh Trí thấy rõ tất cả mà không phân biệt. Am Ma La Thức phân biệt tất cả mà không nhiễm trước. Vì rõ ràng thấu suốt nên gọi là Phật Tánh. Rõ ràng thấu suốt là cứu cánh Giác, nên gọi là Bồ Đề. Cứu cánh Giác, Thể vốn Tịch Diệt, nên gọi là Niết Bàn. Tịch Diệt nên hết thảy vọng tâm không chạm tới được, nên gọi là Chân Như. Bảy quả đức vốn là một Thể vậy.

Sơ Tổ Đạt Ma chỉ dùng tám chữ bao quát đầy đủ hết. Đó là : “Tịnh Trí Diệu Viên, Thể Tự Không Tịch”. Tịnh là Bạch Tịnh Thức. Trí là Đại Viên Cảnh Trí. Không là Không Như Lai Tạng. Tịch là Niết Bàn. Còn Chân Như, Bồ Đề, Phật Tánh, không ngoài hai chữ Diệu Viên. Hai chữ Diệu Viên tức là phân biệt mà chẳng phân biệt, sanh diệt mà chẳng sanh diệt, đó là Tánh Giác Như Như tròn khắp vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Thế nào là Đạo? Thế nào là tu hành?”

Tổ Bá đáp: “Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành?”

Hỏi: “Tông sư các nơi truyền nhau tham thiền học đạo như thế nào?”

Tổ Bá nói: “Lời tiếp dẫn hạng độn căn, chưa thể nương dựa được”.

Hỏi: “Ấy đã là lời tiếp dẫn hạng độn căn, còn chưa rõ là tiếp hạng thượng căn thì nói pháp gì?”

Tổ Bá nói: “Nếu là người thượng căn, thì chỗ nào mà đến Đạo, tìm Đạo? Cái Tự Mình còn bất khả đắc, huống là có riêng pháp để tìm cầu? Chẳng thấy trong kinh nói, “Các pháp có hình trạng gì?”, sao?”

Hỏi: “Nếu như thế kia, ắt chẳng cần tìm kiếm gì hết thảy?”

Tổ Bá nói: “Như thế ấy thì chẳng hao tâm lực”.

Hỏi: “Nếu như thế thì thành đoạn diệt, chẳng phải là không có ư?”

Tổ Bá nói: “Ai bảo cái ấy không có. Nhưng cái đó là gì mà ông định tìm kiếm nó?”

Hỏi: “Đã chẳng cho tìm kiếm, cớ sao lại còn nói chẳng đoạn lìa nó?”

Tổ Bá nói: “Chẳng tìm kiếm, tức bèn thôi nghỉ. Ai bảo ông đoạn lìa? Ông thấy hư không trước mắt đó, làm sao đoạn lìa nó?”

Hỏi: “Có phải pháp ấy đồng như hư không chăng?”

Tổ Bá nói: “Hư không có bao giờ nói với ông là đồng hay khác gì đâu. Ta mới tạm nói thế, ông lại ngay liền ở trong ấy mà sanh tri giải”.

Hỏi: “Vậy nên chẳng cho người sanh tri giải ư?”

Tổ Bá nói: “Ta không hề ngăn chướng ông. Nhưng tri giải là thuộc Tình, Tình sanh thì Trí cách”.

Hỏi: “Hướng vào trong ấy mà chẳng sanh tình, thế có đúng không?”

Tổ Bá nói: “Như chẳng sanh tình, thì ai nói là đúng?”

Thế mà hơn ngàn năm rồi, vẫn còn có cái nghi như của Ông Anan, nếu được vài lời của Ngài Hoàng Bá, bèn cùng trùng tuyên cái chỉ thú sâu xa!

Thiện Tâm
09-13-2015, 04:58 PM
2. CHỈ BÀY TÁNH NGHE LÀ THƯỜNG TRỤ

Kinh:

Phật bảo Ông Anan: “Ông học đa văn, chưa dứt hết sạch các lậu. Trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo, mà cái điên đảo thật sự ở trước mắt, lại chưa biết được. E rằng ông thật sự còn chưa tin phục, nay ta thử đem các chuyện trần tục để giải trừ cái nghi của ông”.

Liền đó, Như Lai ra lệnh cho La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi Ông Anan: “Nay ông có nghe không?”

Ông Anan và đại chúng đều nói: “Có nghe”.

Chuông hết kêu, không còn tiếng. Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe không?”

Ông Anan và đại chúng đều nói : “Không nghe”.

Khi ấy La Hầu La lại đánh một tiếng chuông.

Phật lại hỏi : “Nay ông có nghe không?”

Ông Anan và đại chúng lại đều nói : “Có nghe”.

Phật hỏi Ông Anan: “Theo ông, thế nào là nghe, thế nào là không nghe?”

Ông Anan cùng đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu có đánh thì chúng tôi được nghe. Đánh lâu hết tiếng, âm vang đều không còn, thì gọi là không nghe”.

Như Lai lại bảo Ông La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi Ông Anan: “Theo ông, hiện giờ có tiếng không?”

Ông Anan và đại chúng đều nói : “Có tiếng”.

Ít lâu tiếng hết, Phật lại hỏi rằng : “Theo ông, hiện giờ có tiếng không?”

Ông Anan và đại chúng đều đáp : “Không có tiếng”.

Lát sau, Ông La Hầu La lại đánh tiếng chuông; Phật lại hỏi: “Theo ông nay có tiếng không?”

Anan và đại chúng đều nói : “Có tiếng”.

Phật hỏi Ông Anan : “Theo ông, thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng?”

Ông Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng : “Chuông nếu có đánh thì có tiếng chuông. Đánh lâu tiếng hết, âm vang đều không còn, thì gọi là không tiếng”.

Phật bảo Ông Anan và đại chúng rằng : “Nay cớ sao các ông nói trái ngược, lộn xộn thế?”

Đại chúng và Ông Anan cùng bạch Phật : “Cớ sao giờ đây chúng tôi bị gọi là trái ngược, lộn xộn?”

Phật dạy : “Ta hỏi ông sự Nghe, thì ông bảo là Nghe. Hỏi ông cái Tiếng, thì ông nói là Tiếng. Chỉ có sự Nghe và cái Tiếng mà trả lời không nhất định, như thế không gọi là trái ngược lộn xộn sao được?

“Anan! Tiếng kêu không còn vang, thì ông nói là không Nghe. Nếu thật không Nghe, nghĩa là Tánh Nghe đã diệt, giống như cây chết khô, vậy khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết được? Biết rằng có, biết rằng không, đó là cái Tiếng của Trần hoặc có hoặc không, chứ Tánh Nghe đó, há vì ông mà có hoặc không ư? Tánh Nghe nếu thật là không có, thì còn cái gì biết là không có?

“Thế nên, Anan, cái Tiếng ở trong cái Nghe tự có sanh có diệt, không phải vì ông nghe cái Tiếng Sanh cái tiếng diệt, mà khiến cho Tánh Nghe ông ông thành có, thành không. Ông còn điên đảo, lầm cái Tiếng là cái Nghe, lạ gì chẳng mê mờ mà lấy cái thường làm cái đoạn. Trọn chẳng nên nói rằng, lìa ngoài các thứ động tịnh, đóng bít, mở thông thì cái Nghe không có tự tánh.

“Như người ngủ mê trên giường gối, khi ấy trong nhà có người giã gạo. Người ấy trong mộng, nghe tiếng giã gạo, lầm cho là vật gì khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Ngay trong khi mộng, người ấy cũng lấy làm lạ sao tiếng chuông lại vang lên như tiếng vang của cây, của đá. Khi chợt tỉnh dậy, liền biết là tiếng chày, bèn nói với người nhà : “Khi tôi đang nằm mộng, lầm tiếng chày này là tiếng trống”. Này Anan, người ấy ở trong mộng nào còn nhớ các thứ động tĩnh, mở đóng, thông bít. Thế thì thân thể tuy ngủ mà tánh Nghe chẳng mờ. Dầu thân ông có tiêu tan mất, thân mạng đổi dời, Tánh ấy làm sao vì ông mà tiêu diệt được?

“Bởi vì chúng sanh từ vô thủy đến nay, đeo đuổi theo hình theo tiếng, chạy theo niệm mà lưu chuyển, không từng khai ngộ Bản Tánh trong sạch, nhiệm mầu, vĩnh cửu. Không theo cái thường còn ấy, mà chạy tìm các thứ sanh diệt, bởi thế đời này sang đời khác cứ dơ trộn mà lưu chuyển. Chỉ bỏ đi chuyện sanh diệt, giữ lấy Tánh Chân Thường, thì cái ánh sáng thường trụ hiện ngay trước mắt, mọi thứ căn, trần, tâm thức tức thì tiêu mất.

“Tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu. Hai thứ ấy một lúc xa lìa, thì con mắt Pháp của ông ngay liền trong sáng. Thế thì sao không thành Tri Giác Vô Thượng?”

Thiện Tâm
09-13-2015, 05:05 PM
Thông rằng:

Đức Phật dạy, “Thoát khỏi sự dính, phục vào bên trong”, tức là Tánh lặng trong tròn đầy, thường trụ vậy. Ông Anan nghi rằng lìa ngoài tiền trần thì không có tự tánh, sợ là đồng với đoạn diệt, bởi vậy, ngay nơi tiếng chuông mà hiển Tánh Nghe. Cái Tiếng tan mất không còn âm vang, thì chỉ là không có Tiếng chứ thật không phải là không có cái Nghe. Cái Tiếng thì có sanh diệt, cái Nghe thì không có sanh diệt. Nếu nói cái Nghe do cái Tiếng mà sanh, do cái Tiếng mà diệt, thì đang khi không nghe, ai biết là không nghe? Do đó, cái hoặc có hoặc không thì có thể diệt, còn cái Biết Có Biết Không ấy chưa từng diệt vậy. Chẳng những khi tỉnh thức đối cảnh thì chẳng diệt, mà ngay khi ngủ nằm mộng, lìa tiền cảnh cũng chẳng có sanh diệt. Chẳng những khi ngủ nằm mộng căn vẫn còn thì chẳng diệt, mà khi thân thể mất rồi, căn tiêu tan hết cũng chẳng có diệt. Chỗ này so với “Cái thấy sông [Phần II. Đoạn vua Ba Tư Nặc]” ở đoạn trước cũng tương tự. Ở trước, hiển bày cái Thấy, là ý nghĩa về chỗ chẳng sanh chẳng diệt. Còn ở đây hiển bày cái Nghe, ý để chỉ cái Nhĩ Căn viên thông vậy.

Xoay ngược lại cái Nghe để nghe tự tánh, tức là khai ngộ Bản Tánh trong sạch, nhiệm mầu, thường hằng. Ánh sáng thường trụ hiện ngay trước mặt, tức đó là cái Tịch Diệt hiện tiền. Da thịt lột thoát hết, chỉ có một cái Chân Thực. Như thế mới có thể gọi là con mắt Pháp sáng trong, thành Vô Thượng Giác.

Ông Đỗ Hồng Tiệm hỏi thiền sư Vô Trụ ở chùa Bảo Đường rằng : “Đệ tử nghe Hòa Thượng Kim nói: Không nhớ, không niệm, chớ vọng. Pháp môn ba câu, có phải không?”

Sư đáp: “Phải”.

Ông Đỗ hỏi: “Ba câu ấy là một hay ba?”

Sư nói: “Không nhớ là giới, không niệm (vô niệm) là Định, chớ vọng là Huệ. Một Tâm chẳng sanh, đó là Giới Định Huệ, chẳng phải một, chẳng phải ba”.

Ông Đỗ lại hỏi : “Thầy có dùng ba câu ấy để tiếp người không?”

Sư nói : “Người học nhân sơ tâm, thì còn khiến họ dứt niệm, dừng làn sóng thức, nước trong thì cảnh hiện, ngộ cái Thể Vô Niệm, Tịch Diệt hiện tiền, lúc ấy vô niệm cũng chẳng còn lập”.

Khi ấy, trên cây trước sân có tiếng quạ kêu.

Ông Đỗ hỏi : “Thầy có nghe không?”

Sư nói: “Nghe”.

Quạ bay đi mất, lại hỏi : “Thầy có nghe không?”

Sư nói: “Nghe”.

Ông Đỗ nói: “Quạ bay đi rồi, đâu còn tiếng, sao nói là nghe?”

Thiền sư bèn dạy cả đại chúng rằng: “Đời Phật khó gặp, Chánh Pháp khó nghe! Mỗi người hãy lóng nghe kỹ! Có nghe, không nghe, đều chẳng liên quan gì đến Tánh Nghe. Xưa nay chẳng sanh, sao từng có diệt? Khi có Tiếng, đó là cái Tiếng của Trần tự sinh, khi không có tiếng, đó là cái Tiếng của Trần tự diệt, nhưng cái Tánh Nghe này, chẳng theo Tiếng mà sanh, chẳng theo Tiếng mà diệt. Ngộ Tánh Nghe này thì khỏi tiếng tăm của Trần ràng buộc. Phải biết cái Nghe không có sanh không có diệt, cái Nghe không có chuyện đến, đi”.

Ông Đỗ và đại chúng cúi đầu vâng lãnh.

Ông Đỗ lại hỏi: “Sao là chẳng sanh, sao là chẳng diệt, như thế nào được giải thoát?”

Thiền sư nói: “Thấy Cảnh, tâm chẳng khởi là chẳng sanh. Chẳng sanh tức là chẳng diệt! Đã không sanh diệt thì nào có bị tiền trần trói buộc? Ngay đây là Giải Thoát. Chẳng sanh là vô niệm, vô niệm thì không sanh diệt. Vô niệm là không buộc, vô niệm là không thoát. Rốt ráo là : Biết Tâm là lìa Niệm, Thấy Tánh là giải thoát. Ngoài Biết Tâm, Thấy Tánh mà lại có pháp môn chứng Bồ Đề Vô Thượng, thật không thể có”.

Ông Đỗ hỏi: “Sao gọi là Biết Tâm, Thấy Tánh?”

Thiền sư nói: “Hết thảy người tu học, theo niệm mà trôi dạt, đều vì chẳng biết Chân Tâm. Cái Chân Tâm ấy, niệm sanh cũng chẳng thuận theo mà sanh, niệm diệt cũng chẳng nương theo mà mất. Chẳng đi chẳng đến, chẳng định chẳng loạn, chẳng nắm chẳng bỏ, chẳng nổi chẳng chìm. Vô vi, vô tướng, sống động lưu thông, bình thường, tự tại. Tâm Thể ấy rốt ráo bất khả đắc, không thể lấy tri thức mà biết, chạm mắt đều là Như, không có gì là chẳng phải thấy Tánh”.

Ông Đỗ và đại chúng làm lễ, xưng tán, vui mừng hớn hở mà đi.

Ngài Bảo Đường, diễn lại Lăng Nghiêm, xét xem lời nói như cùng một miệng thuyết ra.

Chỉ có Tổ Vân Môn, chỗ thấy lại khác. Tổ thượng đường, nghe tiếng chuông, liền nói: “Thế giới rộng rãi thế kia, cớ sao nghe tiếng chuông lại mặc áo thất điều?”

Đối với chỗ này mà chẳng có chút nghi, mới gọi là Pháp Nhãn [Một trong ngũ nhãn. Xem xét thấu biết rõ ràng cái duyên sanh ra cái pháp sai khác nhau.] thanh tịnh.

Thiện Tâm
09-14-2015, 08:53 PM
PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU

MỤC MỘT: NÊU RA CÁI CĂN ĐỂ CHỈ CHỖ MÊ

I. XIN KHAI THỊ CÁCH CỞI NÚT

Kinh:

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, tuy Như Lai đã dạy Nghĩa Quyết Định Thứ Hai, nhưng nay tôi xem những người mở nút trong thế gian, nếu không biết đầu mối của nút ở đâu, thì tôi tin là người ấy rốt cuộc không thể mở được. Thưa Thế Tôn, tôi và hàng Thanh Văn Hữu Học trong hội cũng giống như vậy. Từ vô thủy đến nay, chúng tôi cũng với các thứ Vô Minh cùng sanh cùng diệt. Tuy được căn lành đa văn như thế này, mang tiếng là xuất gia nhưng cũng như người sốt rét cách nhật! Xin nguyện Đức Đại Từ thương xót kẻ chìm đắm mà chỉ bày cho, giờ đây chính nơi thân tâm thế nào là nút, do đâu mà mở? Cũng khiến cho chúng sanh khổ nạn đời vị lai được khỏi luân hồi, không rớt vào ba cõi”.

Nói lời ấy rồi, Ông Anan và cả đại chúng năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc thành khẩn, mong chờ lời khai thị vô thượng của Như Lai.

Thông rằng:

Đoạn trước, Ông Phú Lâu Na đã hỏi: “Hết thảy chúng sanh, do đâu mà có vọng khiến tự mình che khuất tánh Diệu Minh, mà chịu sự chìm đắm?” Ở đây Ông Anan hỏi: “Giờ đây, chính nơi thân tâm, thế nào là nút, thế nào là mở?” Đó là đều muốn đi đến cùng cực cái vọng căn, nghiên cứu nhỏ nhiệm cái vô minh câu sanh, mới biết đầu gốc thắt nút mà phá trừ đi vậy.

Đoạn trước, đáp rằng: “Biết rõ cái Mê là không có nguyên nhân, thì cái Vọng cũng không có chỗ nào nương dựa. Còn không có chỗ sanh ra, muốn diệt dứt chỗ nào?” Ở đây thì đáp: “Tướng Phần và Kiến Phần không có tự tánh, cũng như các nhánh lau gác lên nhau. Xét cái tánh giao nhau đó, thì không và có đều là chẳng phải”.

Trước nói, “Tánh điên tự hết, hết tức Bồ Đề”. Đây nói, “Thấy biết mà không có thấy biết, đó chính là Niết Bàn”. Trước sau suốt thông như một. Chỉ là ở trước thuộc về Kiến Đạo, biết Vọng tức là Giác, Giác tức Bồ Đề. Còn đây là phần Tu Đạo, lìa cái Thấy tức là Không, Không tức là Niết Bàn.

Nút là sự trói buộc nơi Căn Trần do mê, nên chìm sâu sanh tử. Mở là sự thoát khỏi Căn Trần do ngộ, nên thấy biết cái Diệu Thường. Đây là theo căn Tai mà nghe ngược trở lại, thoát khỏi sự dính kết mà quay về bên trong, nhiếp phục tâm bám nắm, nhập Tri Kiến Phật, thuộc về công phu tu tập, nên gọi là Nghĩa Thứ Hai.

Có nhà sư hỏi Tổ Thạch Đầu: “Như thế nào là Giải Thoát ?”

Tổ Đầu nói: “Ai trói buộc ông?”

Hỏi: “Như thế nào là Tịnh Độ?”

Tổ Đầu nói: “Ai làm dơ ông?”

Hỏi: “Như thế nào là Niết Bàn?”

Tổ Đầu nói: “Ai đem sanh tử lại cho ông?”

Nếu nơi đây mà được liền cái chỗ an lạc, thì còn hướng chi đến cái đệ nhị đầu mà làm kế sanh nhai!

Thiện Tâm
09-14-2015, 08:58 PM
II. MƯỜI PHƯƠNG NHƯ LAI ĐỒNG MỘT LỜI CHỈ THỊ: SÁU CĂN LÀ ĐẦU NÚT SANH TỬ VÀ NIẾT BÀN

Kinh:

Bấy giờ, Thế Tôn thương xót Ông Anan và hàng Hữu Học trong hội, và cũng vì tất cả chúng sanh đời vị lai mà tạo cái nhân xuất thế, làm cái đạo nhãn tương lai. Ngài lấy tay sáng ngời xoa đỉnh đầu Ông Anan. Tức thời, trong khắp các thế gian của Chư Phật mười phương rung động sáu cách. Các Đức Như Lai nhiều như vi trần trụ các thế giới, mỗi Ngài đều có ánh sáng báu từ đỉnh đầu phóng ra. Các hào quang đó cùng lúc từ các cõi kia đến rừng Kỳ Đà, chiếu soi đỉnh đầu Như Lai. Tất cả đại chúng liền được cái chưa từng có.

Trong lúc đó, Ông Anan và cả đại chúng đều nghe các Đức Như Lai nhiều như vi trần trong mười phương, vô số miệng khác nhau đều dùng một lời, dạy Ông Anan: “Lành thay, Anan! Ông muốn biết cái câu sanh vô minh, khiến ông lưu chuyển, cái căn mối nút sanh tử. Đó chính là sáu Căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác! Ông lại muốn biết Bồ Đề Vô Thượng, khiến chóng chứng Tánh Diệu Thường an lạc, giải thoát, tịch tịnh thì cũng chính là sáu Căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác”.

Ông Anan tuy nghe pháp âm như thế, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật : “Làm sao cái khiến cho tôi luân hồi sanh tử hoặc an lạc diệu thường cũng chính là sáu Căn, chứ không phải vật nào khác?”

Thông rằng:

Trước kia, Ông Anan có nói “Tâm tôi nào chỉ cúng dường Như Lai, mà cho đến ứng khắp hằng sa quốc độ, phụng sự Chư Phật và các thiện tri thức, phát tâm đại dũng mãnh làm tất cả những sự việc khó làm, là đều dùng tâm này. Cho dù hủy báng pháp mà vĩnh viễn lui sụt thiện căn, cũng là do cái tâm này”.

Tâm đã không hai như thế, thì sáu Căn cũng không hai, cớ sao lại sáng ở nơi kia mà tối ở đây ư? Chỉ là sáu Căn này đấy thôi. Thuận theo đó mà xuất ra, thế là trái với Giác hợp với Trần : liền vào ngay dòng sanh tử. Nghịch lại mà nhập vào, trái với Trần hợp với Giác : tức là ở trong cái chẳng sanh diệt. Giống như sấp tay, ngửa tay! Xưa nay Như Lai không hề nói khác!

Thiền sư Bàn Am Thành thượng đường nói:

“Một niệm tâm thanh tịnh

Phật ở Ma Vương điện

Một niệm tâm ác sanh

Ma Vương vào Phật điện”.

Thiền sư Hoài nói rằng: “Chỉ như thế mà tin lấy. Đó gọi là chân dẫm lên Thật Địa mà đi, rốt là không có pháp nào khác, cũng không có đạo lý nào khác. Lão tăng bày thẳng ra như thế, chỉ sợ rằng các ông thấy thỏ thả ưng, khắc thuyền tìm kiếm! Sao vậy? Thần lành, quỷ ác thì chủ nhân có trí đều không lãnh thọ”.

Nhưng thiền sư Đại Mai Thường nghe tiếng kêu của con sóc cánh, bèn nói : “Tức là vật ấy, chẳng phải vật nào khác. Tất cả các ông hãy khéo tự hộ trì”.

Nói xong, thị tịch.

Thiền sư Vĩnh Minh Thọ ca ngợi rằng :

“Sư khi mới đắc Đạo

Thì, tức Tâm là Phật

Sau rốt dạy đồ chúng

Vật ấy, không vật khác

Cùng tột nguồn vạn pháp

Thấu đến xương ngàn Thánh

Chân vốn chẳng đổi dời

Ngại gì chuyện còn, mất”.

Tin được rằng Ngài Đại Mai cùng tiếng kêu của con sóc cánh không khác, thì còn có sanh tử Niết Bàn nào khác nhau ư?

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:24 AM
III. THẤY RÕ TÁNH CỦA MỐI NÚT ĐỂ TỨC THỜI GIẢI THOÁT

Kinh:

Phật bảo Ông Anan: “Căn, Trần cùng nguồn. Trói mở không hai. Tánh của Thức là hư vọng, cũng như hoa đốm giữa hư không. Anan, do cái Trần mà phát ra cái biết, nhân cái Căn mà có cái Tướng. Cả Tướng Phần và Kiến Phần đều không có tự tánh, giống như các nhánh lau gác lên nhau.

Thông rằng:

Căn thuộc về Kiến Phần, Trần thuộc Tướng Phần. Chỉ đều do một niệm vô minh làm dính kín tánh trong lặng mà phát khởi, nên gọi là đồng nguồn. Chỉ ở nơi đầu nguồn mà xem thấy, thì Kiến Phần và Tướng Phần chưa thành hình, lúc ấy Căn, Trần ở đâu mà có?

Từ lúc Căn hợp với Trần mà trôi xuôi thì gọi là buộc. Từ lúc Căn ngược với Trần mà trở về nguồn, thì gọi là mở. Cái trói chính là sáu Căn, chứ không phải vật gì khác. Cái mở cũng là sáu Căn, chứ không còn vật gì khác. Thể vốn không hai vậy. Trong cái Thể không hai này mà soi xét, thì trói buộc chẳng là dơ, cởi mở chẳng là sạch. Nơi Thể không hai đó, chưa từng có thêm bớt, đó là Căn, Trần vốn đồng nguồn vậy, ai thấy là khác được? Trói, mở vốn không hai, ai thấy được là hai?

Sở dĩ phân biệt chia tách, là do cái Thức vậy. Thức này hư vọng mà phân biệt, cũng như dụi mắt mà vọng thấy có không-hoa. Vốn nào có Căn, Trần lại vọng thấy Căn, Trần. Vốn nào có trói, mở mà vọng thấy trói, mở. Biết rõ cái Thức này, có cũng như do dụi mắt, bèn chuyển Thức về nguồn, thì con mắt trong sáng, nên chóng chứng an lạc giải thoát, Tịch Tịnh Diệu Thường. Chẳng phải ở nơi Căn mà quay lại, nhưng ở nơi Thức mà chuyển. Sao gọi là Thức hư vọng giống như hoa đốm? Chẳng phải bảo là lìa cái Thức tánh hư vọng mà riêng có cái gọi là Tịch Tịnh Diệu Thường đâu. Chỉ cần tin cái Thức là hư vọng, thì Diệu Thường ở ngay nơi Thức. Chỉ cần tin hoa đốm không tự tánh, thì con mắt sáng trong ở ngay tại không-hoa.

Bởi thế, do Trần mà phát ra Thức, chứ Thức chẳng tự sanh. Nhân Căn mà có Tướng, chứ Tướng không tự có. Ba cái Căn, Trần, Thức giao nhau mà lập, mà hợp, như lau gác lên nhau, vốn không tự tánh. Cho tánh giao nhau là có thật, thì khi chưa giao nhau sao lại không có?

Cho tánh giao nhau là không có, thì khi đã gác lên nhau, làm sao lại có? Đã chẳng phải là tánh Không, lại chẳng phải là tánh Có, nên nói là không có tánh. Tướng Phần và Kiến Phần, cả hai đều không có tự tánh, hiện thể bèn là vô sanh. Cho nên, biết rằng trong cái Căn mối nút sanh tử tự sẵn đủ Tịch Tịnh Diệu Thường vậy. Thế, chẳng đủ để tin rằng trói buộc hay cởi mở là không hai sao?

Tổ Thạch Đầu dạy chúng rằng: “Pháp môn của ta, Phật trước truyền thọ, chẳng luận thiền định, tinh tấn, độc chỉ thấu đạt Tri Kiến của Phật. Tức Tâm là Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, Bồ Đề, phiền não: tên khác mà một thể. Các ông phải biết, cái Tự Kỷ tâm linh, thể lìa thường đoạn, tánh nó chẳng dơ sạch, lặng tròn đủ như nhiên. Phàm Thánh đồng đều, ứng dụng khắp cả, lìa tâm, ý, thức. Ba cõi, sáu đường, duy tự tâm hiện. Trăng dưới nước, bóng trong gương, nào có sanh, diệt? Các ông mà biết được nó thì có chỗ nào mà chẳng đầy đủ?”

Đây là Đệ Nhất Nghĩa Tối Thượng vậy.

Chỗ nói, “Bồ Đề, phiền não, khác tên mà một thể”, chẳng phải là “Căn, Trần đồng nguồn” ư? Chỗ nói, “Thể lìa đoạn thường, tánh nó chẳng dơ sạch”, chẳng phải là chỗ nói “Trói mở không hai” đấy sao? Chỗ nói, “Ba cõi sáu đường, duy tự tâm hiện; trăng trong nước, bóng trong gương, nào có sanh diệt”, chẳng phải là chỗ “Tướng Phần, Kiến Phần không có tánh, cũng như hình cây lau gác nhau” đấy sao? Hình lau gác nhau, hoa đốm giữa hư không, cũng không có sanh diệt. Thế nên biết rằng Thức tánh là hư vọng, bèn An Lạc Giải Thoát đó.

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:27 AM
Kinh:

“Thế nên, giờ đây chính nơi Thấy Biết mà lập ra Tướng có Thấy Biết, đó là cội gốc Vô Minh. Chính nơi Thấy Biết mà chẳng có Tướng Thấy Biết, đó là Niết Bàn chân tịnh, vô lậu. Làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác!”

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà nói bài kệ:

Thông rằng:

“Trong thấy biết mà lập ra tướng thấy biết”, nghĩa là “Nhân cái Minh mà lập ra cái Sở”. Do đó, biết rằng cái căn bản Vô Minh, cái gốc của sự thắt nút, cái căn mối nút sanh tử chính là cái Thức vậy, mà chẳng phải chỉ là Căn. Thấy biết mà không có tướng thấy biết, tức là “Thấy do lìa cái thấy, Thấy ấy là siêu việt”. Thế nên, phải biết rằng giải thoát khỏi cái thấy biết đó là cái quả vô lậu, đó là Tịch Tịnh Diệu Thường, là chuyển Thức thành Trí vậy, chứ cũng chẳng phải chỉ là Căn. Bởi thế, trong bài kệ ở sau tụng rằng “Thức A Đà Na vi tế” hiển bày đầy đủ Căn và Thức không hai.

Thiền sư Thùy Lộc An thường đọc kỹ càng chỗ này: “Tri Kiến lập Tri, tức Vô Minh bổn. Tri Kiến Vô Kiến, ấy tức là Niết Bàn”. Rỗng nhiên khai ngộ, thường đọc tụng luôn.

Học trò bảo rằng: “Nên lấy bốn chữ làm câu!”

Ngài nói: “Đây là chỗ ngộ của ta, không thể chuyển đổi!”

Thời ấy gọi Ngài là An Lăng Nghiêm.

Khi thị tịch, đọc kệ rằng:

“Chẳng thể đầu non mang lại được

Há từ Kê Túc truyền mai sau [Núi Kê Túc, nơi Đức Ca Diếp, vị được Đức Thích Ca truyền chánh pháp nhãn tạng làm vị Tổ đầu tiên của Thiền Tông, ngồi nhập định chờ Đức Phật Di Lặc tương lai]

Từ xưa Hiền Thánh đều như thế

Há nay đặt chuyện với ông đâu?”.

Phó chúc xong, tự mình bước vào trong hòm, nằm nghiêng bên hữu.

Trải qua ba ngày, đệ tử mở quan tài khóc lóc, bèn trỗi dậy lên tòa thuyết pháp, quở trách răn dạy: “Còn mở nắp hòm của ta thì không phải là đệ tử của ta”.

Rồi bước vào trong hòm đi luôn.

Nếu chẳng được vô lậu chân tịnh, làm sao đến đi tự do như thế?

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:34 AM
IV. KỆ TỤNG

Kinh:

(Trong) Chân Tánh, hữu vi (là) không

Duyên sanh nên Như Huyễn

Vô vi, không khởi diệt

Chẳng thật, như Không-hoa

Thông rằng:

Hữu vi tùy theo duyên mà khởi diệt, đó là Pháp Sanh Diệt. Vô Vi không có chuyện khởi diệt, đó là Pháp Niết Bàn. Trong Chân Tánh vốn không có Tướng Sanh Tử hay Niết Bàn. Nút buộc do đâu mà khởi? Cởi mở từ đâu mà có tên? Thế nên, Hữu Vi là Như Huyễn, Vô Vi cũng là dụi mắt mà sanh, cả hai đều hư vọng. Ở đây, là tụng Căn và Trần đồng nguồn, trói và mở không hai. Ở trong chỗ đồng nguồn, không hai, thì thấy được hữu vô đều là hư vọng.

Tổ Bách Trượng nói: “Phật là người không cầu, tìm cầu tức là trái. Lý là Lý không cầu, hễ cầu là mất. Nếu bám lấy sự không cầu, thế cũng lại giống với có cầu. Nếu bám lấy Vô Vi, thì đó cũng lại là Hữu Vi. Nên kinh Kim Cang nói: “Chẳng nắm giữ nơi pháp, chẳng nắm giữ cái chẳng phải là pháp, chẳng nắm giữ cái không phải là chẳng phải pháp”.

Ngài lại nói: “Chỗ đắc pháp của Như Lai, Pháp ấy không thật, cũng không hư. Chỉ suốt một đời tâm như gỗ đá, chẳng bị Ấm, Giới, Nhập, Ngũ Dục, Bát Phong chìm đắm, thì cái nhân sanh tử đoạn trừ, đi hay ở đều tự do, không bị tất cả nhân quả hữu lậu móc níu. Lúc ấy mới lấy sự không trói buộc làm nhân mà đồng sự lợi ích cho người. Lấy tâm không trụ trước mà ứng với hết thảy vật. Dùng cái Huệ Vô Ngại mà cởi mở tất cả trói buộc, nên cũng nói là theo bệnh cho thuốc”.

Ở đây, Tổ Bách Trượng chỉ thẳng cái Chân Tánh chẳng sa vào hữu vi, đều chỉ bày phương tiện giải thoát, đó là chỗ nói “Phát minh tức thành giải thoát vậy”.

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:37 AM
Kinh:

Nói Vọng để hiển Chơn

Vọng, Chơn đều là vọng

Còn không (phải) Chơn, Phi Chơn

Lấy đâu Kiến, Sở Kiến?

Thông rằng:

Các pháp Hữu Vi duyên theo Căn Trần mà sanh, nên gọi là hư vọng. Còn pháp Vô Vi thoát khỏi Căn và Trần, lìa tướng khởi và diệt, cớ sao lại gọi là chẳng thật như hoa đốm? Nói sanh diệt là Vọng là để hiển cái Chân của Niết Bàn, mà đã nói có Chân để đối với Vọng, thì Chân cũng thành Vọng, nên nói cả hai thứ đều Vọng. Vì sao thế? Vì có cái Chân để đắc vậy. Như ở trong Chân Tánh, thì Chân với chẳng phải Chân đều bất khả đắc. Tức là Chân mà chẳng phải Chân, tức là Tánh mà không Tánh, còn làm sao có được cái Căn năng kiến và cái Cảnh sở kiến ư?

Thấy là Có, là cái thấy huyễn. Thấy là Không, cũng là dụi mắt sanh ra. Phàm là có thấy, liền rơi vào nơi chốn, cho nên thấy có Niết Bàn để thành, tức là hư vọng đó vậy. Cái gọi là Chân, vốn nào có hư vọng, huống là cái chẳng phải Chân hay chẳng Chân, trong ấy Chân còn không thể có, thì Vọng từ đâu mà sanh?

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Vọng hay chướng ngại tự tâm, chưa rõ nay lấy gì để bỏ Vọng?”

Tổ nói: “Khởi lên cái Vọng để bỏ Vọng cũng thành ra Vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có. Ông chỉ nơi hai đầu phàm Thánh chớ khởi suy lường, nhớ nghĩ, thì tự nhiên không có Vọng. Lại toan tính đuổi bỏ nó là thế nào? Tuyệt chẳng có được một mảy tơ nương bám, thì gọi là buông bỏ cả hai tay, ắt hiện thành Phật”.

Nhà sư hỏi rằng: “Đã không có chỗ nương bám, thì lấy gì trao truyền?”

Tổ nói: “Lấy tâm truyền tâm”.

Nhà sư hỏi: “Nếu lấy tâm trao truyền, sao lại nói tâm cũng là không?”

Tổ Bá nói: “Không đắc một pháp gọi là truyền Tâm. Nếu ngộ Tâm này, liền thật không thấy Tâm, không thấy Pháp”.

Nhà sư hỏi: “Nếu không có Tâm, không có Pháp, làm sao gọi là truyền ?”

Tổ Bá nói: “Ông nghe nói truyền Tâm, bèn cho là có thể đắc. Bởi thế, Tổ Sư dạy:

“Khi nhận được Tâm Tánh

Mới là chẳng nghĩ bàn

Rõ ràng không chỗ đắc

Khi đắc chẳng nói tri”.

Chỗ này mà muốn dạy tỏ hiểu, làm sao được! Một chữ Tri còn chẳng tự mang lấy, mới có thể nói là Chân.

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:39 AM
Kinh:

Ở giữa, không thật tánh

Nên giống lau gác nhau

Buộc, mở đồng một nhân

Thánh phàm không hai lối

Hãy xem tánh giao nhau

Có, Không đều chẳng phải

Mê lầm là Vô Minh

Phát minh liền Giải Thoát

Thông rằng:

Ở giữa là ở giữa Năng Kiến và Sở Kiến. Do Trần mà phát ra cái Biết, thì cái Biết ấy là Thức, thuộc về Năng Kiến. Nhân Căn mà có Tướng, Tướng là Trần, thuộc về Sở Kiến. Ba cái Căn, Trần, Thức này nương nhau mà có, vốn không có thật tánh, cũng như cây lau gác nhau, nương nhau mà đứng, nguyên không có tự tánh. Thử xem cái tánh của lau gác nhau, nếu cho là không thì khi nương nhau lại tựa hồ như có. Nếu cho là có, thì khi nương nhau lại vốn là không. Chẳng phải là có chẳng phải là không, đó là không có tánh. Buộc đó, cũng là sáu Căn này mà chẳng phải có chỗ bớt đi; mở đó, cũng là sáu Căn này mà cũng chẳng có chỗ tăng thêm, lấy đâu mà gọi mở ra là Thánh, buộc lại là phàm ư?

Vì chẳng thấu cái ý chỉ vô sanh, một niệm tự mình không biết, trong thì thấy có Năng Kiến, ngoài thì thấy có Sở Kiến, nên bị Căn Trần ràng buộc, không còn cái vốn liếng tự do. Cái mê mờ đó tức là cội gốc Vô Minh, cái chỗ cột buộc do đó mà khởi sanh vậy. Nếu như thật thấy được chỗ không có tánh, mà thoát khỏi sự dính kín, phát ra cái sáng chói vốn có của mình, khi ấy thì ánh sáng không theo Căn và thấy chẳng cần mượn Duyên. Sáu Căn dùng thay nhau, siêu việt các hình tướng thế gian. Đó là cái nhân của “Phát minh liền giải thoát”, là cái do đó mà có tên là cởi mở vậy.

Cột nút là câu sanh Vô Minh, cái Căn mối nút sanh tử, nên là phàm phu, đó là do sáu Căn này chứ không phải vật gì khác. Cởi mở chóng chứng an lạc, tịch tịnh diệu thường, gọi là Thánh Nhân, đó cũng do sáu Căn này, nào có vật gì khác ! Đồng sáu Căn này, đâu có hai đường. Kia thì ràng buộc nơi hữu vi, giống như tánh Có của cây lau gác nhau, mà tánh thật ra chưa từng có. Nọ thì ràng buộc nơi vô vi, giống như tánh Không của cây lau gác nhau, mà tánh thực ra chưa từng không. Thấu đạt cái chẳng phải có, chẳng phải không này, cái thấy không phàm không Thánh, mới có thể nói đến Chân Tánh vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Vốn đã là Phật, sao có bốn loại sanh, sáu đường, đủ thứ hình tướng chẳng đồng?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Chư Phật thể vốn tròn đủ, nào có tăng giảm. Trôi vào sáu đường, chốn chốn đều tròn đủ. Trong muôn loài ấy, mỗi mỗi đều là Phật. Thí như một cục thủy ngân, phân tán các nơi, mỗi hột đều tròn đủ. Như khi chẳng chia, chỉ là một khối. Đó là một tức tất cả, tất cả là một. Đủ thứ hình tướng ví như nhà cửa. Bỏ “nhà” của lừa, vào “nhà” của người; bỏ thân người để đến thân của Chư Thiên; cho đến “nhà” của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật, đều là do chỗ nắm, bỏ của ông mà có ra khác biệt. Tánh vốn xưa nay nào có khác biệt?”

Rốt ráo thay lời nói này! Ở ngay đây mà phát sáng được, thì có thể khiến hạng bạc địa phàm phu bước vào Thánh vị.

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:46 AM
Kinh:

Mở nút theo thứ lớp

Sáu mở, một cũng mất

Nơi Căn, chọn Viên Thông

Vào dòng, thành Chánh Giác!

Thông rằng:

“Phát minh liền giải thoát”, đây là Đốn Môn, sao còn có lời nói “Mở nút theo thứ lớp”?

Đốn mà chẳng bỏ Tiệm nên mới là pháp môn Viên Đốn vậy. Nếu là người đại căn, đại khí, một ngộ liền đến Phật địa, còn mượn gì đến tu chứng. Kế đó là hạng mà không gì bằng là chọn Nhĩ Căn Viên Thông, một Căn trở về nguồn thì sáu Căn liền giải thoát. Trước là tiêu mất sáu Căn, kế đó mất luôn cái Một. Đó là Pháp Môn của Đức Quán Thế Âm, nhập vào Dòng, mất cái Sở, rốt ráo tịch diệt hiện tiền mà thành Chánh Giác. Ngay trong Đốn Môn, có đại ngộ tiểu ngộ, kể không xiết, đâu phải không từng có thứ lớp?

Xưa, thiền sư Quán Khê Nhàn ban đầu tham vấn Tổ Lâm Tế.

Tổ Lâm Tế nắm đứng Ngài hồi lâu.

Ngài nói: “Lãnh hội vậy”.

Tổ Lâm Tế buông ra nói: “Tha cho ông một gậy đó”.

Sau, thiền sư Quán Khê trụ núi, mới dạy chúng rằng: “Ta gặp Tổ Lâm Tế, không có ngôn ngữ gì, mà cho đến nay no mãi chẳng đói!”

Sau, Ngài đến Tổ Mạt Sơn, trước tự giao ước rằng: “Tương đương thì ở, còn không thì lật ngược thiền sàng”.

Khi vào nhà giảng, Tổ sai thị giả hỏi: “Thượng Tọa đến thăm núi, hay vì Phật Pháp mà đến?”

Ngài đáp: “Vì Phật Pháp mà đến”.

Tổ Sơn bèn lên tòa giảng, Ngài Quán Khê vẫn chẳng làm lễ.

Tổ Sơn hỏi: “Hôm nay rời chỗ nào?”

Ngài đáp: “Lộ Khẩu” [Lộ bày cái miệng].

Tổ Sơn nói: “Sao chẳng che lại đi!”

Ngài Khê không có lời đáp.

Tổ Mạt Sơn thay thế nói rằng: “Sao đến trong ấy được!”

Ngài Quán Khê mới lễ bái, rồi hỏi: “Như sao là Mạt Sơn?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng lộ đỉnh”.

Ngài Khê hỏi: “Như sao là chủ của Mạt Sơn?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng phải tướng nam nữ”.

Ngài Khê hỏi: “Sao chẳng biến hóa đi?”

Tổ Sơn nói: “Chẳng là Thần, chẳng là Quỷ, biến cái gì?”

Ngài Quán Khê chịu phục, làm người giữ vườn ba năm.

Tổ Lâm Tế tha cho Ngài một gậy, đến đây mới liên tục.

Sau, Ngài nói: “Tôi ở chỗ Lâm Tế, được một lần thoát, tôi ở chỗ Mạt Sơn được một lần thoát”. Ngài lại nói: “Mười phương không tường vách, bốn mặt cũng không cửa. Bày trần trụi, sáng rực rỡ, không thể nắm!”

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Ngài Quán Khê nói như thế, thì thử nói ở chỗ Lâm Tế được hay ở chỗ Mạt Sơn được? Mặc dầu một mũi tên mà hai con chim. Nhưng có lúc chạy đi, có lúc ngồi lại. Làm sao cho hợp? Tóm lại, mở ra đều ở ta, cầm đến, ném đi nào do ai khác?”

Ở chỗ này mà thấu suốt được, mới mất cái Một, lúc ấy mới gọi là Chân Giải Thoát!

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:49 AM
Kinh:

Thức Đà Na vi tế

Tập khí thành dòng xiết

Sợ lầm Chân, Phi Chân

Ta thường chẳng khai diễn

Thông rằng:

Sáu Căn chẳng có thể làm phàm, làm Thánh, mà cái làm chủ là Thức vậy. Sáu Thức đã tiêu mất, mà cái Ngã Kiến vẫn còn, đó là cảnh giới của Thức Thứ Bảy. Sáu mở, Một mất, là trở về biển Như Lai Tạng, đó là cảnh giới của Thức Thứ Tám.

Ngài Mã Minh dạy: “Y vào Như Lai Tạng, có cái tâm sanh diệt hòa hợp với cái chẳng sanh diệt, chẳng phải là một, chẳng phải khác, gọi là Thức A Lại Da”. Thức này rất là vi tế, ngậm chứa chủng tử làm tập khí, chẳng biết được chỗ ẩn núp của nó. Tích chứa sanh ra sóng Thức thành dòng chảy xiết, mà chẳng biết được chỗ sanh của nó. Thế nên gọi là vi tế. Vì y vào cái chẳng sanh diệt, nên gọi là Như Lai Tạng xuất triền [Ra khỏi trói buộc], tợ hồ như là Chân vậy. Vì y vào tâm sanh diệt, nên gọi là Như Lai Tạng tại triền [Còn trong trói buộc], hình như chẳng phải Chân vậy. Nhưng Chân và chẳng phải Chân, đều là cái Thức ấy, cho nên khó mà phân biệt. Gọi đó là Chân, thì sợ rằng nhận giặc làm con! Mà gọi đó chẳng phải Chân, thì e rằng nhận con cho là giặc. Do vậy, Đức Thế Tôn chẳng khinh xuất mà bàn đến vậy”.

Nếu có thể chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Cảnh Trí, chẳng phải Chân, chẳng phải không Chân, mới có thể nói đến Chân Như, Phật Tánh, Vô Thượng Bồ Đề vậy. Sau này không rõ được Tánh Tông, đó chỉ vì không thấu đáo Tướng Tông, lấy cái Ngã Kiến trong Thức Thứ Bảy mà cho là Phật Tánh, lấy cái tướng sanh diệt trong từng sát-na của Thức Thứ Tám làm Chân Như, nên gọi là “Mập mờ Phật Tánh, lầm lạc Chân Như”. Nhận định chỗ đứng yên không chao động cho là cứu cánh, thế là một chưa tiêu mất vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa Sầm: “Thức Thứ Sáu, Thứ Bảy và Thứ Tám, rốt ráo không có tự thể, thì sao lại nói là chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Cảnh Trí?”

Tổ Sa chỉ dạy bằng bài kệ:

“Bảy “sanh” y một “diệt”

Một “diệt” giữ bảy “sanh”

Một diệt, diệt cũng diệt

Sáu, bảy rốt không động”.

(Thất sanh y nhất diệt

Nhất diệt trì thất sanh

Nhất diệt, diệt diệc diệt

Thất lục vĩnh vô thiên).

Do đây mà xem, thì không những “Sáu mở, Một mất”, mà lại còn “Bảy mở, Một mất”. Vi diệu thay, vi diệu thay!

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:51 AM
Kinh:

Tự tâm nắm [Giữ] tự tâm

Chẳng huyễn, thành pháp huyễn

Không giữ : không “chẳng huyễn”

“Chẳng huyễn” còn không sanh

Pháp huyễn làm sao lập?

Thông rằng:

“Trong Chân Tánh, hữu vi là không. Do Duyên sanh nên như Huyễn”. Chân Tánh vốn là Không, sao lại có Huyễn sanh ra? Do vì Thức Thứ Tám, trong thì duyên với Chân Như, ngoài sanh ra các pháp hữu vi, nên là như Huyễn vậy. Kinh Giải Thâm Mật nói “A Lại Da Thức rất vi tế. Hết thảy chủng tử như dòng xiết. Ta chẳng khai diễn với phàm ngu. E họ phân biệt chấp làm Ngã”.

Đây là tự tâm chấp lấy tự tâm, chính là tự phân biệt mà chấp làm cái Ngã. Một khi đã chấp làm Ngã, thì ở trong cái chẳng phải huyễn lại sanh khởi pháp huyễn. Tánh trong lặng do đó mà phân, nút buộc do đó mà bắt đầu. Từ đó sáu Căn đuổi theo sáu Trần mà thành luân chuyển. Chẳng chấp lấy làm Ngã, thì cái chẳng-phải-huyễn còn không có, huống là cái huyễn do đâu mà lập? Lặng trong hợp vào lặng trong, đồng nguồn không hai, do đó mà sáu Căn thanh tịnh cùng mất đi cái Một vậy. Sáu Căn thuộc về huyễn, cái Một thuộc về chẳng-phải-huyễn. Một và Sáu đều tiêu mất, nên nói “Chẳng huyễn còn không sanh, Pháp huyễn làm sao lập?” Đây là sự chuyển Thức thành Trí, ở giữa khoảng nắm lấy và chẳng nắm lấy vậy.

Kinh Lăng Già nói “Phân biệt là Thức, vô phân biệt là Trí. Sanh diệt là Thức, Chẳng sanh diệt là Trí”. Chỉ không phân biệt thì đó là Chân Tánh bất sanh diệt. Do thế mà không bị Thức Ấm che chướng”.

Nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Ngài Văn Thù cầm kiếm ở trước Đức Cù Đàm là thế nào?”

Tổ Hoàng Bá nói: “Năm trăm vị Bồ Tát đắc Túc Mạng Trí, thấy nghiệp chướng đời quá khứ. Năm trăm ấy là Ngũ Ấm của ông sanh ra đó. Bởi thấy cái nghiệp chướng túc mạng này, nên cầu Phật, cầu Niết Bàn Bồ Tát. Do đó, Ngài Văn Thù dùng Kiếm Trí Giải giết cái tâm có thấy Phật này vậy. Nên mới nói, “Ông khéo giết””.

Nhà sư hỏi : “Cái gì là kiếm?”

Tổ Bá nói : “Tâm Giải Thoát là kiếm”.

Nhà sư hỏi : “Tâm Giải Thoát đã là kiếm, dứt lìa cái tâm có thấy Phật, thì như cái hay dứt lìa cái tâm có thấy, làm sao trừ nó được?”

Tổ Bá nói: “Lại dùng cái Trí vô phân biệt của ông mà dứt lìa cái tâm có thấy phân biệt này”.

Nhà sư hỏi: “Như khởi ra cái tâm có thấy, có cầu Phật thì lấy kiếm Vô Phân Biệt Trí mà đoạn dứt; thế còn cái kiếm Trí ấy thì sao?”

Tổ Bá nói: “Nếu thật là Trí vô phân biệt giết được cái thấy có, thấy không, thì Trí vô phân biệt ấy cũng bất khả đắc”.

Nhà sư hỏi: “Không thể lấy Trí lại đoạn Trí, không thể dùng gươm để đoạn kiếm sao?”

Tổ bá nói: “Kiếm tự hại kiếm, kiếm kiếm hại nhau, tức là kiếm cũng bất khả đắc. Trí lại tự hại Trí, Trí Trí hại nhau, tức là Trí cũng bất khả đắc. Mẹ con chôn nhau, cũng là như thế”.

Các luận bàn vi diệu này, không những ở chỗ Nắm lấy không được phép ló đầu, mà ngay chỗ Chẳng nắm lấy cũng không có dấu vết. Nhỏ nhiệm càng nhỏ nhiệm thay? Cần thấu rõ như thế, mới có thể nói tới việc chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Cảnh Trí.

Thiện Tâm
09-16-2015, 10:54 AM
Kinh :

Đó là Diệu Liên Hoa

Bảo Giác Kim Cương Vương

Như huyễn Tam Ma Đề

Gẩy móng (tay) vượt Vô Học

Đây là pháp Vô Thượng

Một đường đến Niết Bàn

Của mười phương Chư Phật

Thông rằng:

Ban đầu, Ông Anan nói rằng từ vô thủy đến nay cùng với các thứ Vô Minh cùng sanh cùng diệt, không thể hàng phục được sắc nạn của Cô Ma Đăng Già, mới ân cần cầu xin cái phương tiện đầu tiên là Xa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na để đắc thành Bồ Đề của mười phương Như Lai. Nay, mười phương Như Lai khác miệng đồng một lời rằng: “Ông muốn biết cái câu sanh Vô Minh khiến ông lưu chuyển, cái căn mối nút sanh tử đó, chính là sáu Căn của ông, không phải vật gì khác. Ông lại muốn biết cái Bồ Đề Vô Thượng khiến ông chóng chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường, thì cũng là sáu Căn của ông chứ không phải vật gì khác”. Như thí dụ ở trước về băng và nước. Nước đông lại thành băng, đâu có vật gì khác để làm thành băng? Băng tan thành nước, đâu có vật gì khác để làm ra nước?

Sáu cái làm môi giới cho giặc, tự cướp của báu nhà mình, đó là sáu Căn này vậy. Sáu mở Một mất, liền thành Chánh Giác, cũng là sáu Căn này vậy. Tức Vọng tức Chân, tức Chân tức Vọng, trong ấy có diệu ngộ. Một chữ Diệu rất khó dùng ngôn ngữ để hình dung, phải chuyển Thức thành Trí. Tương ưng với Tánh Giác Diệu Minh, Bổn Giác Minh Diệu mới có thể nói đến Bồ Đề Vô Thượng. Ví như hoa sen, mọc ra từ bùn mà chẳng dơ nhiễm. Hoa sen thường còn vậy, huống là hoa Ưu Đàm, khác hẳn tướng thế gian, gọi là hoa ứng điềm lành, để chỉ cho sự phát minh một con đường tối thượng. Nhập chỗ thấy biết của Phật mới lãnh nhận nổi.

Bảo Giác Kim Cương Vương, tức là Sơ Càn Tuệ Địa trong Tâm Kim Cương vậy. Kim Cương có thể phá hủy tất cả. Hàng Thập Địa đều gọi là Tâm Kim Cương, cũng vì là phá hủy cái “Địa” trước, tức cái gọi là gươm Huệ vậy. Một khi cái Giác này hiện ra, thì không những Vô Minh từ vô thủy diệt ngay, mà cái Phật Kiến, Bồ Tát Kiến cũng không có chỗ nào ló đầu ra nữa.

Tam Ma Đề là Chánh Định. Nói là như huyễn vì như người huyễn đang làm mà vốn không có chỗ nào làm. Tức là Tịch mà Chiếu, tức là Chiếu mà Tịch, quên Tình bặt Thức, không thể nghĩ bàn, tức là chỗ gọi là Kim Cương Tam Muội, văn, huân, tu vậy. Các pháp Xa Ma Tha, Tam Ma, Thiền Na nhiệm mầu này, độc chỉ bởi một phen ngộ. Một khi ngộ liền đến Phật địa, nên trong khoảng khảy móng tay mà vượt hàng Vô Học Nhị Thừa. Hàng Vô Học còn rơi vào công phu tu tập, còn chấp nơi Vô Kiến. Cái Chân Tánh này hiện tiền, thì hữu, vô đều lìa hết, vượt lên một lần là vào thẳng, chẳng còn mượn công phu thứ bậc, là Đốn Môn vậy. Như Thái Tử còn ở trong thai, đã quý hiển hơn hàng quan, hay như chim Tần Đà trong trứng, tiếng đã vượt hơn các loài chim. Há các loại thiền định, quán hạnh tầm thường có thể so sánh sao? Nên nói “Pháp không gì sánh này chóng chứng Tịch Thường vậy”.

Nhà sư hỏi Tổ Càn Phong: “Một đường vào Niết Bàn của mười phương Chư Phật, chưa rõ đầu đường ở chỗ nào?”

Tổ Phong lấy cây gậy vạch một nét, bảo: “Ở trong ấy”.

Nhà sư xin Tổ Vân Môn chỉ thêm.

Tổ Môn cầm cây quạt đưa lên nói: “Cây quạt nhảy tót lên tầng Trời Thứ Ba Mươi Ba, xây đắp các lỗ mũi của Đế Thích. Đánh con cá Lý Ngư ở biển Đông một gậy, mưa như cầm chậu đổ! Hiểu chăng? Hiểu chăng?”

Tổ Hoàng Nam nói: “Càn Phong một phen chỉ đường, giúp đỡ kẻ sơ cơ. Vân Môn thông suốt chỗ biến hoá, nên khiến người sau không mỏi mệt!”

Ngài Trúc Am tụng rằng: “Càn Phong khỏi dùng sự chỉ bày. Vân Môn thôi đánh đồ vặt vãnh. Tự nhiên con Lý Ngư ở biển Đông xây đắp lỗ mũi của Đế Thích”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Vào tay phương thuốc để cứu đời

“Hương hoàn hồn” muốn cứu nguy ngay

Một mai toát mồ hôi khắp hết

Mới tin ai chẳng tiếc lông mày”.

Đây là việc gì mà há nên nói lý giải thoát khiến người vào được? Cần phải tự mình khai ngộ thấu suốt mới được cái kỳ diệu.

Thiện Tâm
09-19-2015, 04:18 PM
CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU


MỤC HAI: CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ MỐI NÚT VÀ CÁCH MỞ NÚT


I. CỘT NÚT

Kinh:

Khi ấy, Ông Anan và cả đại chúng nghe lời dạy từ bi vô thượng của Phật, kệ tụng cốt tủy, diệu lý trong suốt, mắt tâm mở tỏ, tán thán là Pháp chưa từng có.

Ông Anan chấp tay đảnh lễ, bạch Phật: “Nay tôi nghe Phật mở lòng đại bi dạy cho những câu Pháp về tánh chân thật thanh tịnh diệu thường, nhưng tâm còn chưa rõ thứ lớp mở nút của việc “Sáu mở một mất”. Xin Phật rủ lòng đại bi thương xót hội này cùng với đời sau, bố thí cho pháp âm, để rửa sạch những cấu nhiễm nặng nề của chúng tôi”.

Liền khi ấy, Đức Như Lai nơi sư tử tòa, sửa áo Niết Bàn Tăng, vén áo Tăng Già Lê, dựa ghế thất bảo, đưa tay lên ghế, lấy cái khăn hoa do Trời Dạ Ma dâng cúng, rồi ở trước đại chúng, cột thành một nút, đưa cho Ông Anan xem và bảo rằng : “Cái này gọi là gì?”

Ông Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng: “Cái ấy gọi là nút”.

Lúc ấy, Như Lai lại cột khăn hoa thành một nút nữa và hỏi Ông Anan: “Cái này gọi là gì?”

Ông Anan và đại chúng lại bạch Phật rằng: “Cái ấy cũng gọi là nút”.

Phật tuần tự cột khăn hoa như vậy, tất cả sáu nút. Mỗi khi cột xong một nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong tay, đưa hỏi Ông Anan : “Cái này gọi là cái gì?” Ông Anan và đại chúng cũng tuần tự đáp lại Phật: “Cái ấy gọi là nút”.

Phật bảo Ông Anan: “Khi Ta mới cột khăn thì ông gọi là nút. Cái khăn hoa này trước đây chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba, các ông cũng gọi là nút?”

Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, cái khăn hoa thêu dệt quý báu này vốn chỉ một thể. Nhưng theo ý tôi nghĩ, Như Lai cột một lần, thì được gọi là một nút, nếu cột trăm lần, thì rốt phải gọi là trăm nút; huống gì cái khăn này chỉ có sáu nút, chẳng lên đến bảy, cũng không dừng ở năm. Sao Đức Như Lai chỉ cho cái đầu tiên là nút, còn cái thứ hai, thứ ba thì không gọi là nút?”

Phật bảo Ông Anan: “Cái khăn hoa báu này, ông biết nó vốn chỉ có một cái, đến khi Ta cột sáu lần thì ông gọi là có sáu nút. Ông xét kỹ xem, thể của khăn là đồng, nhân vì cột mà có ra khác. Ý ông thế nào? Cột nút đầu tiên thì gọi là nút thứ nhất, như vậy cho đến cột lần thứ sáu thì gọi là nút thứ sáu. Nay Ta muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, được không?”

- Bạch Thế Tôn, không. Cả sáu nút mà còn, thì cái gọi là thứ sáu nhất định không phải là cái thứ nhất. Cho dù tôi có biện giải suốt đời cũng không làm sao cho sáu nút đổi tên được”.

Phật bảo: “Thế đấy, sáu nút không đồng nhau. Xét theo bản nhân thì do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt cuộc không thể làm cho sáu nút lẫn lộn với nhau. Sáu Căn của ông cũng là như thế. Trong chỗ rốt ráo đồng nhau, sanh ra rốt ráo khác nhau”.

Phật bảo Ông Anan: “Chắc là ông không muốn thành ra sáu nút, và trông mong chỉ thành một thể, thì phải làm sao?”

Ông Anan thưa: “Nếu còn những nút này thì sự phải trái nổi lên, trong đó tự sanh ra nào là nút này không phải nút kia, nút kia không phải là nút này. Nếu giờ đây, Như Lai cởi bỏ tất cả, thì nút chẳng sanh ra, ắt là không có đây, kia. Như thế còn không có cái gọi là một, thì lấy đâu có sáu?”

Phật dạy: “Sáu mở, một mất cũng như vậy đó. Do từ vô thủy, tâm ông cuồng loạn, mà cái thấy-biết vọng phát ra. Vọng phát chẳng ngừng, nên cái thấy mệt mỏi phát sanh trần tướng. Ví như mắt mỏi thì có hoa đốm. Trong Tánh trong lặng sáng suốt, không đâu mà lăng xăng sanh khởi tất cả thế gian, núi sông, đất đai, sanh tử, Niết Bàn... hết thảy đều là những tướng hoa đốm điên đảo mê dại cả”.

Thiện Tâm
09-19-2015, 04:22 PM
Thông rằng:

Vốn y nơi một Tinh Minh mà chia ra thành sáu cái hòa hợp, trước đã nói rõ rồi, sao lại có ví dụ này?

Ở đoạn trước thì do các Trần sáng, tối, động, tĩnh... làm dính che Tánh trong lặng mà phát khởi ra sáu căn, từ ngoài vào trong, cho nên chỉ cần chẳng theo các tướng sáng, tối, động, tĩnh... thì thoát khỏi sự che dính, ẩn phục vào trong, liền phát ra cái sáng chói vốn có, thì được sáu Căn dùng thay nhau. Đó là ngược dòng mà toàn nhất, để chế phục cái bên ngoài vậy.

Nay đây thì do tâm cuồng loạn, cái thấy mệt mỏi phát ra trần tướng, là từ trong ra ngoài. Nên trừ được cái Căn cột buộc thì trần tướng tự diệt mất. Ban đầu đắc Nhân Không, cho đến đắc Vô Sanh Nhẫn. Đây là mở tan tâm bị cột trói, để viên dung cái bên trong vậy. Trong Tánh lặng trong sáng suốt, không do đâu mà sanh khởi lăng xăng. Cái Mê vốn chẳng có nguyên nhân, gốc gác gì; nhân nơi cái Minh lập nên cái Sở. Cái Thấy Biết vọng phát ra này, là nguyên do của sự phát sanh mối nút. Cái trong lặng bỗng xoay ra có hư vọng sanh diệt. Sanh diệt ấy mà đã diệt, đó là tịch diệt hiện tiền. Sáu cái dùng này chẳng hiện hành, đó là nghĩa mở tan vậy.

Còn bị cột, thì nghe chẳng ngoài tiếng; thấy chẳng vượt sắc. Nút này chẳng phải nút kia, nút kia chẳng phải nút này. Như mắt mệt mỏi thấy riêng hoa đốm. Đến khi cởi mở được, thì cái Sáu đã tiêu, cái Một cũng mất. Cái Một còn không có tên gì để gọi, huống là thành sáu sao? Như mắt trong sáng, vốn tự không có hoa đốm. Nên cột đó, thì gọi là sanh tử, mà chẳng hề tổn giảm. Mở đó, gọi là Niết Bàn, mà chẳng hề thêm lên. Như hoa đốm khi không mà khởi, diệt; hư không có chỗ nào thêm bớt? Thế nên, biết sanh tử là điên đảo thì sáu liền được mở. Biết Niết Bàn là hoa đốm, thì cái Một liền tiêu vong. Ngược dòng toàn vẹn Một, cái Một dường chưa mất, đến khi Một cũng mất thì tâm trói buộc liền mở thoát.

Nhà sư hỏi thiền sư Phong Huyệt Chiểu: “Một tức Sáu, Sáu tức Một. Một và Sáu đều mất thì như thế nào?”

Tổ Duyệt nói: “Một mũi tên bắn hai chim”.

Hỏi: “Ý chỉ thế nào?”

Tổ Duyệt nói: “Thân mất, dấu tiêu”.

Ông Tú Tài Trương Chuyết ra mắt Tổ Thạch Sương.

Tổ Sương hỏi: “Tên gì?”

Ông Chuyết đáp: “Họ Trương, tên Chuyết [Vụng về]”.

Tổ Sương nói: “Tìm cái khéo còn chẳng được thay, cái vụng từ đâu mà lại?”

Ông Trương Chuyết ngay dưới lời nói khế ngộ, bèn trình kệ:

“Sáng trưng lặng chiếu khắp hà sa

Phàm Thánh sinh linh chung một nhà

Một niệm chẳng sanh : toàn thể hiện

Sáu căn vừa động bị mây mờ

Đoạn trừ vọng tưởng, càng thêm bệnh

Hướng tới Chân Như, ấy cũng tà

Tùy thuận duyên đời, không chướng ngại

Niết Bàn, sanh tử thảy không hoa”.

(Quang minh tịch chiếu biến hà sa

Phàm thánh hàm linh cọng nhất gia

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện

Lục Căn tài động bị vân già

Đoạn trừ vọng tưởng trùng tăng bệnh

Thú hướng Chân Như diệc thị tà

Tùy thuận thế duyên vô quái ngại

Niết Bàn, sanh tử đẳng không hoa).

Như Ông Chuyết, quả là thâm đắc ý chỉ “Sáu mở Một tiêu”. Nào do thứ lớp mà đến đó sao?

Thiện Tâm
09-19-2015, 04:31 PM
II. CÁCH MỞ NÚT

Kinh:

Ông Anan thưa: “Cái bệnh mệt mỏi kia giống như cái nút, làm sao cởi bỏ?”

Đức Như Lai dùng tay cầm cái khăn có cột nút, kéo riêng mối bên trái rồi hỏi Ông Anan: “Như thế này mở được không?”

-Thưa Thế Tôn, không thể.

Đức Thế Tôn lại dùng tay kéo mối bên phải rồi hỏi Ông Anan: “Như thế này mở được không?”

-Thưa Thế Tôn, không thể.

Phật bảo Ông Anan: “Nay Ta lấy tay kéo mối bên phải, bên trái mà rốt cuộc chẳng mở được, vậy ông dùng cách nào mà mở ra?”

Ông Anan thưa với Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, phải ở ngay nơi trung tâm của nút, thì mở ra ngay”.

Phật bảo Ông Anan: “Đúng thế, đúng thế! Nếu muốn hết cái nút, thì phải ở ngay nơi tâm của mối nút.

Thông rằng:

Các nhà chú giải xưa nói: kéo mối bên trái, bên phải là dụ cho sự nương y vào hai bên không, có, nên không thể mở nút. Nên cần phải ở trong Viên Quán, nơi Căn không sanh phân biệt, nơi Cảnh không sanh bám nắm, thì nút mở ra. Phàm đợi Quán rồi mới mở ra được, thế vẫn chỉ là kéo mối phải, mối trái mà thôi, nơi chỗ tâm của mối nút có ăn nhằm gì? Chẳng như lời lẽ của nhà Thiền rất kín đáo nhiệm mầu vậy.

Tổ Thọ Thánh nói: “Nửa tháng trước dùng móc, nửa tháng sau dùng chùy”.

Nhà sư bèn hỏi: “Hiện ngay đang giữa tháng thì thế nào?”

Tổ Thánh nói: “Trâu đất đạp vỡ trăng trên đầm trong”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra : “Hai đầu đều có chỗ dùng, ấy là Thọ Thánh! Liền quên công sức, có ai để đắc? Tha đi ấy: đổi làm khách quý. Nắm đứng lại : Chẳng còn dấu vết. Còn có đắc gì chăng? Đêm khuya ngọc nữ vất bỏ gấm dệt nơi nhà Tây!

Lại Tổ Vân Môn dạy chúng rằng: “Ngày Mười Lăm về trước thì chẳng hỏi, ngày Mười Lăm về sau, thử nói một câu xem?”

Rồi Ngài tự nói: “Ngày nào cũng là ngày tốt”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Người tuổi Dần bổn mạng. Người tuổi Thân tương xung!”

Tổ Thạch Môn Thông nói: “Ngày Mười Lăm về trước, Chư Phật sanh. Ngày Mười Lăm trở về sau, Chư Phật diệt. Ngày Mười Lăm về trước Chư Phật sanh, ông không được lìa cái Trong Ấy của ta. Nếu lìa cái Trong Ấy, ta lấy móc móc ông. Ngày Mười Lăm về sau chư Phật diệt, ông không được trụ cái Trong Ấy của ta. Nếu trụ cái Trong Ấy của ta, ta lấy dùi dùi ông. Thử nói hiện nay ngày Mười Lăm, dùng móc là phải hay dùng dùi là phải?”

Rồi tụng rằng:

“Hiện ngay ngày Mười Lăm

Móc dùi đồng thời dứt

Vừa định hỏi thế nào

Quay đầu (mặt) trời lại mọc”.

Tổ Vân Môn thì chẳng thế: “Ngày Mười Lăm về trước, Chư Phật vốn chẳng từng sanh. Ngày Mười Lăm về sau, Chư Phật vốn chưa từng diệt. Ngày Mười Lăm về trước, nếu ông lìa cái Trong Ấy của ta, ta cũng chẳng dùng móc móc ông. Cứ thế vác ngang cây trụ trượng, dẫm nát đôi giày cỏ. Ngày Mười Lăm về sau, nếu ông trụ nơi Trong Ấy của ta, ta cũng chẳng lấy dùi dùi ông. Cứ việc bẻ gãy cây trụ trượng, treo cao đãy bát. Thử hỏi ngay ngày Mười Lăm, phải làm sao?”

Bèn nói: “Trước, sau ngày Mười Lăm. Móc dùi dùng làm gì? Sáng nay ngày Mười Lăm. Đúng lúc dùng dùi, móc! Nhưng dùng làm sao đây?”

Rắn chết giữa đường, đừng đập đánh

Giỏ không đáy ấy, đựng mang về.

Nếu nơi cái tắc này mà được ra manh mối, thì cái tâm buộc trói bấy lâu tức thời mở thoát.

Thiện Tâm
09-19-2015, 04:35 PM
Kinh:

“Anan, Ta thuyết Phật Pháp, từ nhân duyên sanh, chẳng phải giữ lấy các tướng hòa hợp thô phù của thế gian. Như Lai phát minh các pháp thế gian và xuất thế gian, đều biết rõ cái Bổn Nhân của chúng, theo duyên gì mà có ra. Như vậy cho đến một giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết số mục. Hiện trước mặt đủ thứ: cây tùng thẳng, con hộc trắng, con quạ đen đều rõ nguyên do.

Thông rằng:

Phật biết pháp thế gian và xuất thế gian đều do nơi tâm. Tùy theo nhiễm duyên thì có ra chín cõi. Tùy theo tịnh duyên thì có được Phật Giới. Cái nhân duyên này mà hiểu được thì cho đến hằng sa giọt mưa cùng các thứ hiện tiền Nhân gì, Duyên gì đều biết nguyên do. Phật có hai Trí: Quyền Trí và Thật Trí. Thật Trí thì rõ Lý; Quyền trí thì soi chiếu Sự Vật. Thế nên, biết được các thứ nguyên do là do Quyền Trí soi chiếu sự vật vậy. Pháp Thân Như Lai tròn đầy toàn khắp, không có một vật nào ở ngoài Pháp Thân, vậy có gì mà Như Lai không biết ư?

Tổ Động Sơn thượng đường nói: “Bảo sơn tăng này nói gì thì được? Cổ tức kim, kim tức cổ. Vì thế kinh Lăng Nghiêm nói “Cây tùng thẳng, cây gai cong, con hộc trắng, con quạ đen”. Có biết không? Tuy nhiên như thế, chưa chắc là cây tùng cứ một mực thẳng, cây gai một mực cong, con hộc thì cứ trắng, con quạ thì cứ đen. Động Sơn này nói: “Trong ấy cũng có cây tùng cong, cũng có cây gai thẳng, cũng có con hộc đen, cũng có con quạ trắng”. Đứng lâu rồi, trân trọng!”

Hãy nói xem, Động Sơn chuyển Lăng Nghiêm hay bị Lăng Nghiêm chuyển? Rốt cuộc làm sao hiểu lời nói đó?

Kinh:

“Thế nên, Anan, tùy nơi tâm ông mà chọn lựa trong sáu Căn. Nếu trừ được cái nút của Căn, thì Trần Tướng tự diệt, các Vọng tiêu mất, còn đợi cái Chân nào nữa?

“Anan, nay Ta lại hỏi ông: Cái khăn hoa này hiện có sáu nút, có thể cũng một lúc mở ra tất cả để trừ hết được không?”

- Thưa Thế Tôn, không. Những nút ấy vốn theo thứ lớp cột lại mà sanh, thì nay cũng phải theo thứ lớp mà mở. Sáu nút ấy tuy là đồng thể, nhưng cột lại không đồng thời, thì khi cởi nút, làm sao cùng một lúc mà trừ hết được ?

Phật dạy : “Cởi trừ sáu Căn cũng như vậy. Căn ấy khi mới mở, thì trước hết được Nhân Không, đến khi Tánh Không tròn sáng thì giải thoát được Pháp Chấp. Giải thoát khỏi Pháp Chấp rồi, thì cả hai Nhân Không và Pháp Không đều chẳng sanh. Đó gọi là Bồ Tát do Tam Ma Địa mà đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn”.

Thông rằng:

“Một Căn đã trở lại nguồn, sáu Căn thành giải thoát”, thật rõ ràng như thí dụ này. Mê thì sáu Căn cùng cột nút, ngộ thì sáu Căn dùng thay nhau, có thứ lớp gì đâu? Chỉ vì mê lại càng tích chứa thêm mê, mà có từ tinh tế đến thô phù; ngộ thì càng ngộ, mà từ thô phù đến tinh tế. Chẳng phải là không có thứ lớp, nhưng chẳng phải nhổ thoát một Căn rồi các Căn kia theo thứ tự nhổ thoát theo. Lời Phật viên dung, vốn nào có vướng mắc. Như gọi là nút thứ nhất, thì nút thứ hai, thứ ba cũng đồng là nút mà không thể gọi là nút thứ nhất được. Tên thì khác nhau mà đồng là nút, thì cái thứ nhất là cái thứ sáu, cái thứ sáu là cái thứ nhất.

Người ta sanh ra, từ trong thai cho đến khi đầy đủ hình thể, sáu Căn chẳng phải không có trước sau. Đến khi mười tám giới đã thành, thì Căn có cái viên thông, cái chẳng viên thông. Theo cái viên thông, dư sức chứng Đạo một ngày. Chẳng theo cái viên thông, trăm kiếp tu Đạo chẳng đủ. Ngày và kiếp khác xa nhau, thì sáu Căn có cái nhanh, chậm chẳng đồng. Thế nên, Căn có cái dễ nhổ dứt, có cái khó nhổ dứt.

Khổng Tử nói “Sáu mươi tuổi thì lỗ tai tùy thuận”, đó là nhĩ căn đã chuyển hóa rồi vậy. Lại nói, “Bảy mươi tuổi tùy theo tâm, mà chỗ muốn không ra ngoài khuôn phép”, đó là ý căn đã chuyển hóa rồi, cũng có ít nhiều thứ lớp.

Cái cột nút này chẳng tích chứa trong một ngày, thì cởi mở cũng không phải trong khoảng khắc mà trừ được. Ban đầu, được Nhân Không, cho đến đắc Vô Sanh Nhẫn, tức là thứ lớp Vào dòng mất cái Sở, để ám chỉ Xoay lại cái nghe là Viên Thông Đệ Nhất, chờ Ông Anan tự chọn đó. Nhân Không là phá cái giả danh của năm Ấm, nghĩa là đoạn được Kiến Hoặc vậy. Pháp Không là phá cái thật pháp của năm Ấm, nghĩa là đoạn được Tư Hoặc. Cho đến phá cái pháp trong sạch là Niết Bàn, thì vĩnh viễn đoạn dứt căn bản Vô Minh. Cả hai cái không ấy chẳng sanh, tức là Tánh Không bình đẳng. Cái Sở Không đã dứt thì cái Năng Không cũng diệt, Cảnh và Trí đều tiêu mất, Năng và Sở đều tịch diệt, đó tức là cái Định Thủ Lăng Nghiêm, “Diệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn” vậy. Thế nên nói là đắc Vô Sanh Nhẫn.

Nhà sư hỏi Tổ Bách Trượng: “Như thế nào là pháp yếu Đốn Ngộ của Đại Thừa?”

Tổ Bá Trượng nói: “Các ông trước dứt hết các duyên, ngừng thôi muôn sự. Thiện cùng chẳng thiện, thế gian cùng xuất thế gian, hết thảy các pháp đều không nhớ nghĩ, đều không dính líu. Buông bỏ thân tâm, bèn được tự tại. Tâm như gỗ đá, không có chỗ biện biệt. Tâm không chỗ động. Tâm Địa nếu Không, mặt trời Trí Huệ tự hiện. Cũng như mây tan thì mặt trời hiện ra vậy. Chỉ hết tất cả bám níu, Tham, Sân, Yêu, Giữ, thì các Vọng Tình sạch dơ đều dứt, trước năm Dục, Bát Phong chẳng động, chẳng bị Thấy, Nghe, Hay, Biết buộc ràng, thế là tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người Giải Thoát. Trước hết thảy cảnh, tâm không tịnh hay loạn, chẳng thu nhiếp, chẳng tán loạn, suốt qua tất cả thanh sắc, không có chỗ vướng ngăn, gọi là Đạo Nhơn. Thiện ác, phải trái đều chẳng vận dụng. Chẳng lấy mà cũng chẳng bỏ tất cả pháp, gọi là người Đại Thừa. Chẳng bị tất cả thiện ác, có không, dơ sạch, hữu vi vô vi, thế và xuất thế, phước đức trí huệ buộc ràng, thế gọi là Phật Huệ. Phải trái, tốt xấu, điều đúng điều sai, hết thảy thức tình thấy biết dứt sạch, không gì trói buộc được, chốn chốn đều tự tại an nhiên, gọi là Bồ Tát Sơ Phát Tâm, tiện bề chứng Phật Địa”.

Tổ Bách Trượng lời lẽ nói ra thầm hợp với ý chỉ của kinh. Chẳng phải là người đại giải thoát làm sao có được lời giải thoát này?

Thiện Tâm
09-21-2015, 05:04 PM
CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU


MỤC BA: HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ VIÊN THÔNG

Kinh:

Ông Anan và cả đại chúng nhờ Phật chỉ dạy, Trí Huệ viên thông, được không nghi lầm, cùng lúc chấp tay đảnh lễ chân Phật, thưa: “Ngày nay chúng tôi thân tâm sáng suốt, vui thích mà được không ngăn ngại. Mặc dầu tỏ ngộ được nghĩa Một và Sáu mất hết, mà còn chưa rõ cội gốc viên thông. Thưa Thế Tôn, chúng tôi phiêu linh bơ vơ nhiều kiếp, may đâu lại được dự vào dòng giống của Phật, như đứa con mất sữa, bỗng nhiên gặp được mẹ hiền. Nếu nhân nơi đây mà được thành Đạo, thì chỗ được mật ngôn đồng với nguồn tỏ ngộ, mà cùng với lúc chưa nghe không có sai khác. Xin Phật rủ lòng Đại Bi ban cho chúng tôi Pháp bí mật trang nghiêm, thành tựu sự chỉ bày tối hậu của Như Lai”.

Nói xong lời ấy, năm vóc gieo xuống đất, lui ẩn vào trong tâm cơ sâu nhiệm, mong Phật tâm truyền.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo khắp các vị Đại Bồ Tát và các vị lậu tận Đại A La Hán trong hội rằng: “Các ông là những vị Bồ Tát và A La Hán sanh trong Phật Pháp mà đắc thành Vô Học. Nay Ta hỏi các ông: Trong lúc ban đầu phát tâm, trong mười tám giới, ngộ được viên thông ở giới nào, và do phương tiện gì mà vào Tam Ma Địa?”

Thông rằng:

Chỉ bày cái Huệ Giác Viên Thông, tức ở trước là Sáu mở Một tiêu cho đến đắc Vô Sanh Nhẫn. Do Sáu mở mà thân suốt thông vô ngại. Do Một tiêu mà tâm vô ngại. Tuy chưa đến chỗ sáu căn thanh tịnh, nhưng Nhổ Một Sáu tiêu, Sáu tiêu Một mất nên đã sáng suốt không còn nghi lầm. Có điều chưa rõ gốc Căn Viên Thông ở đâu. Căn nào là Viên Thông nhất? Theo Căn nào mà nhập để chứng Viên Thông?

Theo Căn Viên Thông mà chứng Quả Viên Thông, với Anan thì nhân chỗ này mà thành Đạo, với Như Lai thì đó là sự khai thị tối hậu, nên Ông Anan mới xin Phật mật trao cho pháp sâu nhiệm trang nghiêm.

Nếu luận về Căn Viên Thông, thì trước đã bày rõ rằng mười phương Như Lai ở nơi mười tám giới mỗi mỗi tu hành đều đắc viên mãn Bồ Đề Vô Thượng, trong đó không có hơn kém. Nay lại bảo khắp các vị Bồ Tát và A La Hán lúc mới đầu phát tâm ngộ Viên Thông ở giới nào, do phương tiện gì mà vào Tam Ma Địa? So sánh Căn Viên Thông, còn tự có thể nói được. Đến phương tiện ngộ nhập thì mỗi người tự biết, tự chứng, há lời nói có thể đến được ư? Lời nói không thể đến, thì chỉ có thể tâm truyền.

Căn cứ vào sự cầu xin của Ông Anan, là mong Phật tâm truyền, chứ không lấy lời mà nói, còn Ông Anan cũng lấy tâm mà nhận lãnh, chứ không phải lấy sự nghe mà nghe. Không lấy lời nói mà truyền, đó là mật ngôn. Không lấy sự nghe mà nghe, đó là cội nguồn tỏ ngộ. Cho nên được mật ngôn của Phật, thì đồng với cội nguồn tỏ ngộ, nên tuy có nghe mà cũng như chưa nghe. Nghe mà chẳng nghe, đó là thực nghe. Bởi thế mới “Lui ẩn vào trong tâm cơ sâu nhiệm, mà mong đắc vậy”.

Giả sử, Phật có thể ban cho, Ông Anan có thể đắc, thế chẳng phải là Mật. Lấy đó mà chứng Viên Thông, thì chẳng phải là Viên Thông vậy. Ngộ là do tự ngộ, há ai có thể đưa cho mình ư?

Thiền sư Bàn Sơn Tích thượng đường nói : “Một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng truyền. Người học mệt nhọc hình hài, như vượn bắt bóng!”

Bóng mà bắt được, thì cái Bí Mật Trang Nghiêm mới truyền được!

Tiết Độ Sứ Kinh Nam là Thành Nhuế, vào cúng dường Ngài Vân Cư, hỏi rằng : “Đức Thế Tôn có Mật Ngữ, Ngài Ca Diếp chẳng che giấu là thế nào?”

Tổ Ứng gọi : “Thượng Thơ!”

Ông Nhuế ứng tiếng : “Dạ!”

Tổ Ứng nói : “Hội chăng?”

Ông Nhuế nói : “Không hiểu”.

Tổ Ứng nói : “Nếu ông không hiểu, thì Thế Tôn có Mật Ngữ. Nếu ông mà hiểu, thì Ngài Ca Diếp chẳng che giấu!”

Thế nên biết chuyện này, chẳng tự ngộ suốt thì không thể được.

Thiện Tâm
09-21-2015, 05:11 PM
I. VIÊN THÔNG VỀ THANH TRẦN

Kinh:

Nhóm Ông Kiều Trần Na năm vị Tỳ Kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Ở Lộc Uyển và ở Kế Viên, chúng tôi được nhìn thấy Như Lai khi mới thành Đạo. Chúng tôi do Âm Thanh của Phật mà tỏ ngộ Tứ Đế. Phật hỏi trong hàng Tỳ Kheo, thì trước tiên tôi thưa là hiểu. Thế Tôn ấn chứng cho tôi tên A Nhã Đa (Hiểu), là Âm Thanh nhiệm mầu toàn vẹn. Tôi ở nơi Âm Thanh, đắc A La Hán.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ tu chứng của tôi, thì Âm Thanh là trên hết”.

Thông rằng:

Ông Kiều Trần Na ban đầu ngộ hai chữ Khách Trần, đã được đặt tên là Giải. Ở nơi Âm Thanh của Phật tỏ ngộ pháp Tứ Đế. Đức Phật ban đầu ở vườn Lộc Uyển chuyển ba pháp luân Tứ Đế. Một là, Tướng Chuyển. Hai là, Khuyên Tu Chuyển. Ba là, Chứng Chuyển.

Một là, Tướng Chuyển: chỉ bày cái tướng trạng, đây là Khổ, đây là Khổ Tập, đây là Khổ Diệt, đây là Đạo Khổ Diệt.

Hai là, Khuyên Tu: khiến nên tu, nên biết cái Khổ, nên biết Khổ Tập... nên biết Đạo.

Ba là, Chứng Minh: đưa mình ra chứng minh cho chân lý ấy. Khổ ta đã biết, chẳng cần trở lại biết, cho đến Đạo ta đã tu, không cần tu lại nữa.

Tỏ ngộ Tứ Đế thì chỉ mới cởi bỏ được cái pháp sanh diệt, đó là tỏ ngộ nơi hai chữ Khách Trần, nhân đó đắc A La Hán. Há bảo rằng Âm Thanh đều là sanh diệt, mà ta chẳng sanh diệt theo sao? Âm Thanh đều là Khách Trần, mà ta chẳng phải là Khách Trần sao? Nhưng nói cái Âm Thanh nhiệm mầu, ẩn mật tròn vẹn, thì cái ẩn mật tròn vẹn ấy lại ở nơi Âm Thanh vậy. Há cho Âm Thanh là sanh diệt, mà nó là chẳng phải sanh diệt đấy chứ! Cho Âm Thanh là Khách Trần, mà nó thật là chẳng phải Khách Trần đấy chứ! Cái ngộ này là chỉ có Ông Kiều Trần Na tự biết, đâu nói với ai được, nên mới gọi là Mật. Chỗ Chứng của ông là ở Âm Thanh, nên lấy Âm Thanh làm Viên Thông vậy.

Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn lúc ở với Tổ Bách Trượng, tâm trí thông minh, mà tham thiền chẳng được.

Đến khi Tổ Bách Trượng tịch, bèn đến tham học với Tổ Quy Sơn.

Tổ Quy Sơn nói: “Ta nghe ông ở chỗ Tiên Sư Bách Trượng, hễ hỏi một thì đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Cái thông minh lanh lợi đó là cái ý thức vọng tưởng của căn bản sanh tử. Giờ đây, khi cha mẹ chưa sanh ra, hãy nói một câu xem!”

Trí Nhàn bị hỏi, lập tức ngẩn ngơ.

Bèn trở về liêu phòng, lấy hết sách vở từng đọc qua, tìm từ đầu chí cuối một câu để trả lời mà không thể nào có. Bèn tự than rằng “Bánh vẽ chẳng làm cho hết đói!” Mấy lần cầu xin Tổ Quy Sơn nói vỡ ra cho.

Tổ Sơn nói : “Nếu ta nói cho ông, ngày sau ông sẽ chửi ta. Cái ta nói ra đó là cái của ta, nào có ăn nhằm gì đến ông!”

Trí Nhàn bèn đem hết sách vở đã đọc ra đốt sạch, nói: “Đời này chẳng có học Phật Pháp! Cứ làm hoài một ông tăng cơm cháo khỏi nhọc mệt tâm thần ư?”

Rồi khóc mà từ giã Tổ Quy Sơn.

Đến Nam Dương, thấy di tích của Huệ Trung Quốc Sư bèn dừng ở đó.

Một hôm đang giãy cỏ, tình cờ một miếng ngói văng chạm cây tre thành tiếng, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Vội vàng trở vào tắm gội, hướng về núi Quy Sơn đảnh lễ, ngợi ca rằng : “Hòa Thượng từ bi, ơn hơn cha mẹ. Lúc ấy vì tôi nói ra, thì làm sao có được chuyện ngày nay”.

Rồi làm bài tụng :

“Một chạm, mất sở tri

Nào còn mượn tu trì

Động thân, bày lối cổ

Chẳng rơi (vào) cơ lặng im

Nơi nơi không dấu vết

Oai nghi ngoài sắc thanh

Mười phương người đạt Đạo

Đều nói : “Thượng Thượng căn”.

Tổ Quy Sơn nghe được, bảo với Ngài Ngưỡng Sơn: “Tay ấy thấu suốt rồi”.

Ngưỡng Sơn nói: “Đây là cái tâm cơ ý thức sách vở mà thành, để con đích thân tự khám nghiệm đã!”

Rồi Ngài Ngưỡng Sơn gặp Ngài Trí Nhàn, hỏi: “Hòa Thượng khen ngợi sư đệ phát minh được đại sự, ông hãy nói ra xem!”

Ngài Trí Nhàn lại đọc bài tụng trước kia.

Ngưỡng Sơn nói: “Đây là sự kết tụ ghi nhớ mà thành. Nếu là chánh ngộ, thử nói ra cái khác đi!”

Ngài Trí Nhàn bèn tụng:

“Năm xưa nghèo, chưa thật nghèo

Năm nay nghèo, mới thật nghèo

Năm xưa nghèo không đất cắm dùi

Năm nay nghèo dùi cũng không có!”.

Ngưỡng Sơn nói: “Như Lai Thiền thì cho là ông hiểu, còn Tổ Sư Thiền [Đời nhà Đường, Tổ Ngưỡng Sơn lập ra đề mục Tổ Sư Thiền trước tiên. Gọi chỗ tâm ấn của Tổ Đạt Ma truyền lại là Tổ Sư Thiền, cái pháp thiền tột mức riêng truyền ngoài giáo pháp. Gọi Như Lai Thiền chỉ cái ý tu chưa đến chỗ minh tâm kiến tánh] thì chưa mơ màng thấy!”

Ngài Trí Nhàn lại tụng:

“Tôi có một Cơ

Chớp mắt thấy Nó

Vậy bằng chẳng hiểu

Hãy gọi Sa Di!”.

Ngài Ngưỡng Sơn báo lại cho Tổ Quy Sơn: “Mừng cho Nhàn sư đệ đã hội Tổ Sư Thiền”.

Tổ Huyền Giác nói: “Hãy nói xem Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền phân hay chẳng phân?”

Tổ Trường Khánh Lăng nói: “Cùng lúc thong dong”.

Có nhà sư hỏi Hòa Thượng Diệp Huyện Tỉnh về công án “Cây Bách trước sân” của Tổ Triệu Châu.

Hòa Thượng nói: “Ta không từ nan mà nói với ông, nhưng liệu ông có tin không?”

Nhà sư nói: “Lời của Hòa Thượng đáng kính trọng, đâu dám không tin!”

Hòa Thượng nói: “Ông có nghe tiếng giọt mưa trước mái nhà chăng?”

Nhà sư hoát nhiên mở tỏ, bất giác la lên: “Chao ôi!”

Ngài bảo: “Ông thấy đạo lý gì?”

Nhà sư dùng kệ đáp:

“Giọt mưa đầu mái

Rõ ràng rành rẽ!

Phá nát Càn Khôn

Ngay đó tâm dứt”.

Như chỗ chứng của Ngài Trí Nhàn và nhà sư trên đây, cũng lấy Âm Thanh là hơn hết vậy.

Thiện Tâm
09-21-2015, 05:15 PM
II. VIÊN THÔNG VỀ SẮC TRẦN

Kinh:

Ông Ưu Ba Ni Sa Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi cũng được thấy Phật trong lúc mới thành Đạo. Tôi quán Tướng Bất Tịnh, sanh lòng nhàm chán lìa bỏ rốt ráo, ngộ tánh của các Sắc, từ Tướng Bất Tịnh đến Tướng Xương Trắng và vi trần, chung cuộc về hư không, cả hai, Không và Sắc, đều Không, thành Đạo Vô Học. Đức Như Lai ấn chứng cho tôi cái tên Ni Sa Đà (Trần Tánh Không). Cái Sắc Tướng của Trần đã hết, thì Sắc nhiệm mầu toàn vẹn. Tôi do Sắc Tướng mà đắc A La Hán.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, thì Sắc Trần hơn cả”.

Thông rằng:

Ông Ưu Ba Ni Sa Đà ham Sắc Trần nên Phật dạy dùng Quán Bất Tịnh để đối trị. Cái Sắc tuy là dễ ưa nhưng vì bất tịnh mà có thể sanh nhàm chán tột bậc, huống gì là các Tướng Xương Trắng, vi trần sau khi chết đi.

Một là sình chướng; hai là máu mủ hôi thối; ba là đổi sắc; bốn là bầm xanh; năm là giòi bọ đục khoét, rã rời; bảy là trơ xương; tám là thiêu đốt; chín là tất cả thế gian không giữ được. Đó là chín Pháp Quán Tưởng. Khi chín Pháp Quán này thành tựu, Sắc Tánh rốt ráo quy về Không. Không mà không có chỗ Không, thế là Sắc và Không đều Không, đắc Trí Huệ Giải Thoát, thành Đạo Vô Học. Cái Sắc Trần đã hết sạch, thì cái Sắc mầu nhiệm ẩn mật vẹn toàn. Há lìa ngoài Sắc Trần mà riêng có cái gọi là Diệu Sắc sao? Há không cái Sắc Tướng mà cho cái năng không ấy là Diệu Sắc ư? Há Sắc Tướng có sanh diệt, còn Sắc Tánh không sanh diệt mà cho là Diệu Sắc ư? Phải chăng tâm không tham trước, thì tất cả Sắc đều là Diệu Sắc?

Chỗ Ngộ này của Ông Ni Sa Đà thật khó lấy lời lẽ mà thuật bày, chỉ có thể gọi là Diệu, là Mật, là Viên thôi vậy.

Xưa, có bảy hiền nữ đi chơi trong rừng, nơi bỏ thây ma.

Một cô chỉ xác chết nói: “Thây thì ở đó, người ở chốn nào?”

Một cô nói: “Sao? Sao?”

Các cô quán kỹ, mỗi người đều khế ngộ.

Cảm đến Trời Đế Thích rãi hoa và nói: “Nguyện các chị Thần Nữ cần dùng cái chi, tôi sẽ suốt đời cung cấp”.

Các cô nói: “Chúng tôi thì tứ sự [Y phục, ngọa cụ, y dược, ẩm thực] và bảy báu [Vàng, bạc, ngọc, châu, san hô, hổ phách, mã não] đều có đủ, chỉ cần ba vật. Thứ nhất là cần một cây không rễ. Thứ hai là một mảnh đất không có âm dương. Thứ ba là một hang núi kêu không dội tiếng”.

Đế Thích nói : “Hết thảy món cần dùng, tôi đều có. Còn ba vật ấy tôi thật không thể có”.

Các cô nói : “Nếu Ngài không có các thứ ấy, thì làm sao giúp người?”

Đế Thích ngỡ ngàng, bèn cùng các cô đến thưa với Phật.

Phật nói : “Này Kiền Thi Ca, các đệ tử Đại A La Hán của ta chẳng hiểu được nghĩa ấy. Chỉ có các Đại Bồ Tát mới hiểu nghĩa ấy”.

Đây cũng là Quán Tướng Bất Tịnh mà chứng vậy.

Lại như Ngài Linh Vân nhân thấy hoa đào mà ngộ Đạo, bèn có bài tụng:

“Ba chục năm nay tìm kiếm-khách

Bao lần lá rụng lại đâm cành

Từ lần thấy được đào hoa đó

Đến mãi ngày nay chẳng muốn nghi”.

Trình chỗ ngộ với Tổ Quy Sơn.

Tổ dạy: “Theo duyên mà nhập, vĩnh viễn chẳng lui sụt mất mát, ông hãy khéo hộ trì”.

Ngài Huyền Sa nói: “Đích đáng thì thật đích đáng, nhưng dám chắc Lão Huynh chưa thấu suốt trong đó!”

Ngài Linh Vân nói: “Sư Huynh suốt được chưa?”

Ngài Giác Phạm tụng rằng:

“Người [Linh Vân] thấy một lần không thấy lại

Cành cành trắng đỏ, thấy đâu hoa

Chẳng chịu khách trên thuyền câu cá

Hóa ra trên đất cứu ngư, sò”.

Ngài Đầu Tử tụng rằng :

“Trước núi đào sanh, vườn cũ xuân

Hoa ngập cành hồng, tỉnh lại thân

Chỗ chứng, thôi ông đừng phụ lực

Vẻ cười tuy mở, ý sanh sân

Khói tỏa liễu xanh, oanh thả giọng

Mưa xoi nham thạch, dựa xóm không

Mặt trời lố dạng, không tin tức

Ngựa gỗ hý vang quá Hán, Tần”.

Theo chỗ thấy của Ngài Linh Vân, cũng lấy Sắc làm tột bực.

Thiện Tâm
09-21-2015, 05:19 PM
III. VIÊN THÔNG VỀ HƯƠNG TRẦN

Kinh:

Ông Hương Nghiêm đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng: “Tôi nghe Như Lai dạy tôi quán sát chân chánh các tướng hữu vi. Khi ấy tôi từ giã Phật, đầu hôm về tĩnh tọa trong nhà thanh trai, thấy các vị Tỳ Kheo đốt hương trầm thủy, hơi hương vắng lặng bay vào trong mũi tôi. Tôi quán hơi hương ấy, chẳng phải là cây, chẳng phải là không, chẳng phải khói, chẳng phải lửa, bay đi không dính vào đâu, bay đến không từ nơi đâu. Do đó mà cái ý tiêu tan, phát minh Vô Lậu. Như Lai ấn chứng cho tôi cái hiệu là Hương Nghiêm. Cái Hương Trần vừa diệt, thì cái Diệu Hương bí nhiệm toàn vẹn. Tôi do cái hương trang nghiêm ấy đắc A La Hán.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, thì Hương Trần là hơn cả”.

Thông rằng:

“Phàm là có Tướng, thảy đều hư vọng. Thấy các Tướng chẳng phải Tướng, đó là thấy Như Lai. Như Lai ấy, là nghĩa Như của tất cả các pháp. Đến không từ đâu, đi không về đâu, thì gọi là Như Lai”. Đó là ý chỉ của Kinh Kim Cang Bát Nhã.

Ông Hương Nghiêm được nghe lời dạy này, hằng tự đế quán. Tình cờ gặp mùi hương, bèn đấy phát minh, “Hương này là vắng lặng, vào trong mũi tôi, chẳng phải khói, chẳng phải lửa, chẳng phải cây, chẳng phải không, chẳng phải tự tướng, chẳng phải tha tướng, chẳng phải cọng tướng, chẳng phải vô nhân tướng, bay đi không dính vào đâu, bay đến không từ nơi đâu, vốn tự vô sanh”. Cái thấy này chính là cái thấy “Các Tướng chẳng phải Tướng, liền thấy Như Lai”. Thế nên đắc Vô Lậu.

Phàm phu chẳng được Vô Lậu vì Ý Căn chưa tiêu vậy. Ý Căn mà chưa tiêu nên bám lấy Hữu Vi. Một khi bám lấy Hữu Vi, liền lọt vào sanh diệt. Ý Căn tiêu liền chứng Vô Vi. Vô Vi là không sanh diệt. Thế nên Hương Trần thì chợt sanh chợt diệt, mà cái Diệu Hương kia thì nào có chuyện diệt sanh. Chỗ tỏ ngộ của Ông Hương Nghiêm thì cả thảy phân giải đều chẳng được. Thế nên nói là Mật, là Viên, chỉ có tự chứng biết thôi vậy.

Xưa, Thái Sử Hoàng Sơn Cốc nhân bởi Ngài Viên Thông Tú phấn khích nên đến chỗ Tổ Hối Đường xin chỉ chỗ “Nhậm lẹ”.

Tổ Hối Đường [Tổ Hối Đường Bửu Giác thiền sư, tên là Tổ Tâm, đời Tống, tại Huỳnh Long Sơn. Nối kế pháp của Tổ Huỳnh Long Nam thiền sư] nói: “Như Đức Khổng Tử nói, “Các ngươi cho ta là che giấu ư? Ta không có chỗ nào giấu giếm!” Thế thì Thái Sử lý luận làm sao?”

Thái Sử định đáp, Tổ Đường liền nói : “Chẳng phải, chẳng phải”.

Thái Sử mờ mịt chẳng cùng.

Một hôm, cùng Tổ Hối Đường đang đi dạo núi, khi ấy cây nham quế nở thơm đầy.

Tổ nói: “Có nghe thấy hương hoa nham quế không?”

Ông đáp: “Dạ, có”.

Tổ nói: “Ta không có chỗ nào giấu giếm vậy”.

Thái Sử tiêu tan nghi ngờ, làm lễ mà thưa: “Hòa Thượng, tâm lão bà từ bi quá tha thiết!”

Tổ cười đáp: “Chỉ mong ông đến được nhà thôi”.

Lại có vị ni sư ngộ Đạo làm bài kệ:

“Suốt buổi tìm Xuân chẳng thấy Xuân

Giày rơm dẫm khắp mấy non mây

Về đây cười nắm hoa mai ngửi

Xuân ở đầu cành đã trọn phần”.

Chỗ chứng của vị ni sư này và Ông Sơn Cốc cũng lấy Diệu Hương là hơn cả.

Thiện Tâm
09-22-2015, 09:06 AM
IV. VIÊN THÔNG VỀ VỊ TRẦN

Kinh:

Hai vị Pháp Vương Tử Dược Vương, Dược Thượng cùng với năm trăm vị Phạm Thiên trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Từ vô thủy lâu xa, chúng tôi làm thầy thuốc cho đời, trong miệng thường nếm cỏ cây, kim thạch của thế giới Ta Bà này, số mục lên đến mười vạn tám ngàn, như thế biết tất cả các vị đắng, chua, mặn, lạt, ngọt, cay... cùng các vị biến đổi do các vị kia hòa hợp mà sanh ra, nào lạnh, nào nóng, có độc hay không độc đều biết khắp cả. Được thừa sự các Đức Như Lai, rõ biết tánh của Vị Trần, chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải tức là thân tâm, chẳng phải lìa thân tâm. Do phân biệt được tánh của mùi vị, do đó mà khai ngộ. Được Phật Như Lai ấn chứng cho anh em chúng tôi danh hiệu là Dược Vương, Dược Thượng Bồ Tát, nay ở trong hội này làm Pháp Vương Tử. Chúng tôi nhân Vị Trần mà giác tỏ, lên bậc Bồ Tát.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của chúng tôi, thì do Vị Trần là hơn cả”.

Thông rằng:

Từ vô thủy kiếp đến nay làm thầy thuốc cho đời, chỉ có thể biết các Vị, đủ để trị bệnh mà thôi. Đến khi phụng sự Như Lai mới biết Tánh của mùi vị, không hay có, đều chẳng phải, không phải Tức, không phải Lìa. Phàm đều chẳng phải không hay có, chẳng Tức chẳng Lìa, đó là cái thể vốn như thế của Tâm Mầu Nhiệm tròn sáng trong Như Lai Tạng vậy. Do Vị Trần mà khai ngộ, giác tỏ Tự Tánh, nên vào địa vị Bồ Tát. Chỗ gọi là Giác đó, nghĩa là trong Như Lai Tạng, Tánh của vị là Chân Không, Tánh Không là Chân Vị, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới. Tức Vị là Giác, tức Giác là Vị, cái ngộ này thật khó nói cho người vậy.

Ngài Đại Ngu [Tổ Cao An, tự Đại Ngu, tự hiệu Đại Ngu Sơn. Nối pháp Tổ Qui Tông. Tổ Qui Tông nối pháp Đức Mã Tổ] từ giã Tổ Quy Tông.

Tổ hỏi: “Đi đến chỗ nào?”

Đáp: “Đi các nơi học Ngũ Vị Thiền” [Năm loại Thiền: ngoại đạo, phàm phu, Tiểu Thừa, Đại Thừa, Tối Thượng Thừa].

Tổ Quy Tông nói: “Các nơi có Ngũ Vị Thiền, ta trong ấy chỉ có một Vị”.

Hỏi: “Thế nào là Một Vị Thiền?” [Nhứt vị thiền. Là phép thiền mau tỏ ngộ, mau thấm vào ( tức đốn ngộ, đốn nhập)]

Tổ bèn đánh.

Ngài Đại Ngu nói: “Hiểu vậy, hiểu vậy!”

Tổ nói: “Nói đi, nói đi!”

Ngài Đại Ngu định mở lời, Tổ lại đánh.

Sau, có nhà sư đến Tổ Hoàng Bá kể lại chuyện trên.

Tổ thượng đường nói: “Đại sư Mã Tổ có được tám mươi bốn vị Thiện Trí Thức, vậy mà hỏi ai nấy cái chỗ đại tiện đầy đất, thì chỉ có Quy Tông là được chút ít”.

Chỉ có Tổ Hoàng Bá tỏ biết sâu xa cái Thiền Một Vị nên cùng Tổ Quy Tông thấy mặt nhau. Sau này, Tổ Hoàng Bá dùng cái cơ Thiền này để bắt Lâm Tế. Ngài Tế không khế ngộ được, bèn chỉ sang Tổ Đại Ngu. Gặp Tổ Đại Ngu, Lâm Tế kể lại nhân duyên ba lần bị đánh cho.

Tổ Ngu nói: “Hoàng Bá giúp ông trừ hết nỗi khốn khó, lại ở trong ấy mà hỏi có lỗi với không lỗi”.

Ngài Lâm Tế ngay nơi lời nói đại ngộ, bèn nói: “Té ra Phật Pháp của Hoàng Bá cũng chẳng có gì!”

Tổ Ngu nắm đứng lại hỏi: “Nói mau, nói mau!”

Ngài Lâm Tế thoi ba thoi vào sườn Tổ Đại Ngu.

Tổ thả ra, nói: “Thầy ông là Hoàng Bá, chẳng can dự gì đến ta”.

Tổ Ngu vừa muốn thi triển cái gia phong của Quy Tông, thì đã bị Lâm Tế đoạt mất, thế mới biết chỗ thấy của Lâm Tế vượt trước một bậc vậy.

Thiền sư Long Hưng Pháp Cư đã lớn tuổi mới gặp Tổ Hoàng Long và được ấn khả.

Ngài thượng đường nói: “Việc này cũng như thầy thuốc xem bệnh, hiện thời vả chăng tạp độc đầy bụng chưa dễ chữa trị. Vậy phải cho thuốc để chữa sự chóng mặt tối tăm do bệnh gây ra, rồi sau mới hết được. Còn cứ theo ý mình mà uống thuốc, thì chỉ thêm cuồng loạn, tăng thêm nặng mà thôi. Thế mà mong hết bệnh chẳng phải là lầm ư? Cỏ trước pháp đường đã mọc dày, mà trong lòng không hổ thẹn!”

Ở nơi các tắc trên mà thông hội được, thì chẳng những biết được mùi vị ấy, mà còn có thể trị bệnh cho người.

Thiện Tâm
09-22-2015, 09:16 AM
V. VIÊN THÔNG VỀ XÚC TRẦN

Kinh:

Ông Bạt Đà Bà La cùng mười sáu vị Khai Sĩ đồng bạn liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng: “Xưa kia, chúng tôi ở nơi Đức Phật Oai Âm Vương, nghe pháp mà xuất gia. Vào giờ tắm của các tăng, tôi theo thứ lớp vào phòng tắm, bỗng ngộ được Tánh Nước: đã chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, khoảng giữa an nhiên, đắc Vô Sở Hữu. Chỗ học xưa không quên, cho đến ngày nay theo Phật xuất gia, được quả Vô Học. Đức Phật xưa ấy gọi tôi tên là Bạt Đà Bà La. Cái Diệu Xúc khai mở rõ ràng, thành bậc Phật Tử Trụ.

“Phật hỏi về Viên Thông, theo như chỗ chứng của tôi, thì do Xúc Trần là hơn cả”.

Thông rằng:

Ngài Tuyết Đậu nêu ra việc xưa rằng: “Có mười sáu vị Khai Sĩ [Bọn Ông Hiền Hộ, 16 Cư Sĩ Bồ Tát] gặp giờ các tăng tắm, theo thứ tự vào phòng tắm, bỗng ngộ tánh nước. Các vị Thiền Đức hiểu làm sao?” Các vị ấy nói: “Cái Diệu Xúc khai mở rõ ràng, thành bậc Phật Tử Trụ [Chỗ dựa nương của Phật Tử]. Cũng cần xuyên thủng bảy lỗ tám hang [Nghiã là lời nói rối rắm, vu vơ. Các thành ngữ đồng nghiã khác như: thất linh bát lạc, thất thượng bát lạc] mới được”.

Tụng rằng:

“Xong việc ông tăng thật rảnh rang

Trên giường thẳng cẳng duỗi chân nằm

Trong mộng từng thuyết Viên Thông Ngộ

Rửa nước thơm xong, nhè mặt khạc”.

Cái này đã thành công án, về sau các vị Lão Túc cùng nó phát minh rất nhiều.

Thiều Quốc Sư ban đầu ra mắt Tổ Long Nha, hỏi rằng: “Trời không che, đất không chở, lý ấy thế nào?”

Đáp : “Đạo thì hợp như thế”.

Phàm trải qua mười bảy lần thưa hỏi, Tổ chỉ đáp như vậy. Ngài lại xin dạy bảo, Tổ nói: “Đạo ấy về sau ông tự hiểu”.

Về sau, ở núi Thông Huyền, Ngài Thiều đang tắm, bỗng tỉnh ngộ chuyện trước, bèn đầy đủ oai nghi, hướng về chỗ Tổ Long Nha làm lễ, rồi nói: “Lúc ấy mà nói cho tôi, thì hôm nay nhất định phải bị mắng”.

Sau, Ngài đến tham học Tổ Pháp Nhãn.

Có nhà sư hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Như thế nào là một giọt nước Tào Khê?”

Tổ Nhãn nói : “Là Tào Khê một giọt nước”.

Nhà sư ngơ ngẩn lui ra.

Ngài đang ngồi một bên hoát nhiên khai ngộ, cái nghi vướng bấy lâu như băng tan rã. Đến đây mới được suốt bảy lỗ, tám hang.

Ngài làm bài kệ:

“Thông Huyền chót đảnh

Chẳng phải nhân gian

Ngoài Tâm không Pháp

Ngập mắt núi xanh”.

Tổ Pháp Nhãn nghe qua, nói rằng: “Một bài kệ này, khá khởi lên Tông của ta”.

Hòa Thượng Thạch Thê nhân có thị giả mời đi tắm, bèn hỏi: “Đã chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, ông làm thế nào?”

Thị giả đáp: “Hòa Thượng đi trước, rồi tôi đem thuốc tạo-giác [Giống xà phòng, dùng để tắm] lại sau”.

Hòa Thượng cười ha hả, cơ hồ bị thị giả một phen nhổ nước miếng qua mặt!

Có nhà sư hỏi thiền sư Thiên U Cái: “Có một cái Viện tên là Vô Cấu Tịnh Quang Thiền Viện, sửa thành nhà tắm. Có người hỏi: “Đã là Vô Cấu Tịnh Quang, vì sao lại làm nhà tắm?” Tôi không đáp được”.

Ngài Thiên Cái đáp thay rằng:

“Ba Thu đêm trăng sáng

Việc gì lại họp nhau”.

Ngài Đơn Hà lại tụng rằng:

“Tuy là đáp tận ý sâu xa

Khổ nỗi đem ra chẳng được gần

Muốn hiểu “xưa nay vô cấu” ấy

Phải vào trong nước gặp trưởng nhân”.

Con gái của Ông Long Đồ Phạm Tuân, từng được Tổ Tử Tâm ấn khả ở Kim Lăng, lập ra một nhà tắm, nơi cửa yết tấm bảng rằng: “Một vật cũng không, tẩy rửa cái gì? Mảy bụi nếu có, khởi từ đâu lại? Nói được một câu cho ra nghĩa lý, mới được vào nhà này mà tắm.

“Cổ Linh chỉ mới biết lau lưng! Khai Sĩ nào từng rõ Tánh! Muốn chứng Ly Cấu Địa, thì phải suốt thân chẳng nhiễm. Hết thảy đều bảo nước để rửa sạch cái dơ, nào hay nước cũng là trần (bụi). Dầu cho cả nước và dơ chóng trừ, đến đây cũng cần rửa sạch hết!”

Sau này cô xuất gia làm ni cô tên là Duy Cửu.

Các vị tôn túc trong mộng nói mộng, mỗi mỗi chỉ ra cái “Diệu Xúc rõ bày”, có thể cùng mười sáu vị Khai Sĩ cùng tham.

Thiện Tâm
09-22-2015, 09:18 AM
VI. VIÊN THÔNG VỀ PHÁP TRẦN

Kinh:

Ông Ma Ha Ca Diếp và Tỳ Kheo Ni Tử Kim Quang v.v... liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Trong kiếp xưa ở cõi này có Phật ra đời, tên là Nhật Nguyệt Đăng, tôi được thân cận, nghe pháp, tu học. Sau khi Phật diệt độ, chúng tôi cúng dường Xá Lợi, thắp đèn sáng mãi; lại lấy vàng sắc tía đắp thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân thể thường toàn vẹn sáng ngời như vàng thắm. Nhóm Tỳ Kheo Ni Tử Quang này tức là quyến thuộc của tôi lúc đó, cũng đồng một thời phát tâm như tôi. Tôi quán sát sáu Trần của thế gian thay đổi biến hoại, chỉ dùng pháp Không Tịch, tu Định Diệt Tận, thân tâm mới có thể trải qua trăm nghìn kiếp như thời gian khảy móng tay. Tôi do cái Pháp Không mà thành A La Hán. Đức Thế Tôn bảo tôi tu hạnh đầu đà bậc nhất. Pháp nhiệm mầu mở sáng, các lậu đều tiêu diệt.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, thì do Pháp Trần là hơn cả”.

Thông rằng:

Trước có nói các bậc Diệt Tận Định đắc bậc Thanh Văn Tịch Diệt, duy Ngài Đại Ca Diếp, ý thức diệt đã lâu, mà hiểu biết đều tròn vẹn, chẳng nhờ tâm niệm. Ngài ngộ được các pháp là Không Tịch mà thành A La Hán. Sáu Trần như sanh, là ở trong Không mà sanh; sáu Trần như diệt, về nơi Không mà diệt. Trần có sanh diệt, Tánh Không chẳng hoại. Trừ sạch Pháp Trần, đó là Pháp Không. Cái Ý chẳng duyên ra pháp, được không sanh diệt. Nên có thể vượt qua trăm ngàn kiếp như khảy móng tay. Cho đến nay, Ngài Ca Diếp vẫn giữ áo cà sa vàng của Phật, nhập định trong núi Kê Túc, chờ Đức Di Lặc hạ sanh mà trao lại, đó là sự linh nghiệm vậy.

Tỳ Kheo Ni Tử Kim Quang kiếp xưa là một cô gái nghèo. Thuở ấy, Ngài Ca Diếp làm người thợ đúc. Cô lấy vàng nhờ người thợ đúc thếp vàng mặt Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng không tình ân ái. Cảm ứng được chín mươi mốt kiếp sanh cõi trời, thân thường toàn vẹn vàng chói. Nay gặp Phật xuất gia, quả nhiên thỏa được nguyện xưa.

Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác tinh thâm hết ba tạng kinh điển, rành Thiên Thai Chỉ Quán, pháp môn viên diệu. Trong cả bốn oai nghi thường sáng rõ pháp thiền quán. Sau, nhân thiền sư Khê Lãng khuyến khích, cùng thiền sư Đông Dương Sách đến Tào Khê. Mới vừa đến, đi quanh Tổ ba vòng, rồi chống trượng đứng yên.

Tổ nói: “Phàm là Sa Môn, đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Đại Đức từ phương nào lại, mà tỏ ra quá nhiều ngã mạn?”

Huyền Giác nói: “Việc sanh tử là lớn lao, cái vô thường rất nhanh chóng!”

Tổ nói: “Sao chẳng hội cái Vô Sanh, tỏ suốt cái không chóng?”

Huyền Giác nói: “Thể tức Vô Sanh, rõ vốn không chóng.”

Tổ nói: “Y vậy”.

Khi ấy đại chúng đều kinh ngạc. Ngài Huyền Giác mới đầy đủ oai nghi làm lễ Tổ, chốc lát từ giã.

Tổ nói: “Về gấp thế sao?”

Huyền Giác nói: “Vốn tự chẳng động, nào có sự gấp?”

Tổ nói: “Ai biết là chẳng độn?”

Huyền Giác nói: “Đó là Ngài tự sanh phân biệt”.

Tổ nói: “Ông thật là được cái ý chỉ Vô Sanh”.

Huyền Giác nói: “Vô Sanh mà có ý ư?”

Tổ nói: “Không có ý thì ai phân biệt?”

Huyền Giác nói: “Phân biệt cũng chẳng phải ý”.

Tổ khen ngợi: “Hay lắm, hay lắm, ít ra hãy ở lại một đêm”.

Thời ấy gọi Ngài là “Một Đêm Giác”.

Chỗ này, nếu chẳng diệt Ý Căn từ lâu, đắc Vô Sanh Nhẫn, thì đâu có thể ứng đáp như âm vang dội theo tiếng vậy được. Từ Ngài Kiều Trần Na đến đây là sáu vị Thánh. Nói là Diệu Âm, Diệu Sắc, Diệu Hương, Diệu Xúc, đều gọi là Diệu, vì không ràng buộc nơi Trần vậy. Đây chính là do sáu Trần mà chứng viên thông.

Thiện Tâm
09-22-2015, 09:20 AM
VII. VIÊN THÔNG VỀ NHÃN CĂN

Kinh:

Ông A Na Luật Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi lúc mới xuất gia, thường thích ngủ nên Phật la tôi là loài súc sanh. Tôi nghe Phật mắng, khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt.

“Đức Thế Tôn dạy tôi tu pháp Lạc Kính Chiếu Minh Kim Cương Tam Muội. Tôi chẳng do con mắt, xem thấy mười phương rỗng suốt rõ ràng như xem trái cây trong bàn tay. Như Lai ấn chứng cho tôi, thành A La Hán.

“Phật hỏi Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay cái Thấy trở về Bản Tánh, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Ông A Na Luật Đà là con Vua Bạch Phạn [Em Vua Tịnh Phạn], với Phật là anh em chú bác. Trong đời quá khứ dâng cho một vị Bích Chi Phật một bữa cơm, cảm ứng được chín mươi mốt kiếp có cái Vui Như Ý. Phật thường la rằng “Ôi, ôi, sao lại ngủ. Như loài ốc, loài sò ngủ một giấc cả ngàn năm, chẳng nghe tên hiệu của Phật”. Từ đó, ông cố gắng đến mù cả mắt, bèn được một nửa phần Thiên Nhãn.

Đại Trí Luận nói “Thiên Nhãn của Ông A Na Luật do tứ Đại tạo sắc, thanh tịnh được một nửa. Thiên Nhãn của Phật cũng là tứ Đại tạo sắc mà thanh tịnh khắp cả”.

Cái Tam Muội Lạc Kiến Chiếu Minh Kim Cang là pháp môn xoay cái Thấy trở về nguồn Tánh. Minh thuộc Sở, Chiếu thuộc Năng. Trong chỗ Minh, cái Chiếu thường soi tỏ. Trong chỗ Chiếu, cái Thấy thấy suốt. Chiếu từ đâu mà lại? Thấy từ đâu khởi ra? Cho đến chỗ thấy mà không có chỗ thấy, chiếu soi mà không có chỗ chiếu soi, liền được Kim Cương Tam Muội. Đó là Thể của cái Chiếu, Nguồn của cái Thấy vậy. Kim Cương phá nát tất cả, Thấy và Chiếu đều tiêu vong, ấy là Tam Muội Chánh Định, tức là cái Bản Thể Tịch Chiếu vậy. Vui theo cái quán chiếu này, nghĩa là xoay cái Thấy trở về nguồn Tánh. Cho đến được Thiên Nhãn, thì cũng chẳng phải chỗ luận bàn đến được.

Ngài Đức Sơn khi mới đến Tổ Long Đàm, tuốt vào pháp đường, nói : “Lâu nay vang tiếng Đầm Rồng (Long Đàm), nay đến nơi, đầm lại chẳng thấy, mà rồng cũng chẳng hiện”.

Tổ Đàm tiến lên, nói: “Ông đã đích thân đến Long Đàm (Đầm Rồng). Căn cứ vào cơ duyên lúc mới đến này thì đáng nhận y bát của Long Đàm”.

Một buổi tối, đang đứng hầu Tổ.

Tổ Long Đàm nói: “Khuya rồi sao chẳng về nghỉ?”

Đức Sơn chỉnh tề bước ra rồi trở lui, nói : “Ngoài tối lắm”.

Tổ Đàm đốt cây đuốc giấy đưa cho Ngài Đức Sơn, Ngài định cầm lấy, Tổ Đàm liền thổi tắt. Đức Sơn hoát nhiên đại ngộ, bèn lễ bái.

Tổ hỏi: “Ông thấy cái gì?”

Ngài Sơn nói: “Từ nay trở đi, không còn nghi cái đầu lưỡi của Lão Hòa Thượng trong thiên hạ nữa”.

Hôm sau, Tổ Long Đàm lên tòa giảng, nói với đại chúng: “Trong đây có một gã răng như đao kiếm, miệng như chậu máu, một gậy đánh cho chẳng quay đầu, mai kia hướng lên đỉnh núi cô cao, lập đạo ta ở đó”.

Đức Sơn đem bộ Sớ Sao kinh Kim Cương, Ngài đã viết từ trước, chất trước pháp đường, cầm cây đuốc mà nói rằng: “Có cùng tột các lý lẽ diệu huyền cũng như một mảy lông để giữa thái hư! Thấu suốt hết các mấu chốt của đời cũng nhưng một giọt nước rơi vào biển cả!”

Rồi đốt sạch, làm lễ từ giã Tổ mà ra đi.

Như cái pháp nhãn mà Ngài Đức Sơn đắc, so với Ông A Na Luật Đà nhiều ít giống nhau.

Tổ Lâm Tế lúc sắp tịch, nói bài kệ:

“Theo dòng không dứt, hơi đâu hỏi tại sao

Chân chiếu vô biên, lấy chi nói ta-người

Cái lìa tướng, lìa danh kia, người chẳng nhận

Kiếm bén đứt lông, dùng rồi phải gấp mài”.

Tổ lại nói với đại chúng: “Sau khi ta diệt độ, không được diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta”.

Ngài Tam Thánh bước ra, thưa: “Sao dám diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của Hòa Thượng!”

Tổ Tế nói: “Về sau, có người hỏi, ông nói thế nào với họ?”

Ngài Thánh liền hét.

Tổ nói: “Ai biết Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta, hướng về con lừa mù ấy mà diệt mất”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Nửa đêm y bát truyền Huệ Năng

Rối loạn Hoàng Mai, bảy trăm tăng

Một chi Lâm Tế, Chánh Pháp Nhãn

Lừa mù diệt mất, người đắc đâu?

Tâm Tâm ấn nhau

Tổ Tổ truyền đăng

Khỏa bằng núi, biển

Biến hóa đại bàng

Chỉ danh ngôn ấy khó suy lường

Đều là thủ đoạn thoát bay lên!”.

Đến chỗ này thì Chánh Pháp Nhãn Tạng còn lại diệt mất, huống gì là Thiên Nhãn kia?

Thiện Tâm
09-22-2015, 09:22 AM
VIII. VIÊN THÔNG VỀ TỶ CĂN

Kinh :

Ông Châu Lợi Bàn Đặc Ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi thiếu tụng trì, không có tánh đa văn. Ban đầu gặp Phật, nghe pháp xuất gia, ghi nhớ một câu kệ của Như Lai trong một trăm ngày, thì nhớ trước quên sau, nhớ sau quên trước. Phật thương tôi ngu muội, dạy tôi an cư, điều hòa hơi thở ra vào. Tôi quán hơi thở, cùng tột sự nhỏ nhiệm của các tướng sanh, trụ, dị, diệt, các hành trong từng sát na, thì tâm hoát nhiên được Đại Vô Ngại, cho đến các lậu đều sạch hết, thành A La Hán. Trước pháp tọa của Phật, được ấn chứng thành quả Vô Học.

“Phật hỏi tôi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay hơi thở theo về Không, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Đây là vị Tỳ Kheo đọc thuộc lòng chữ “Chữu” là cái chổi vậy. Đời quá khứ là pháp sư mà bỏn sẻn Pháp, nên bị quả báo ngu độn. Tuy ít đa văn, nhưng ít bị tán loạn, nên có thể điều tức mà thấu nhập. Sự thô tế của hơi thở là do tâm sanh diệt. Tâm dần dần ngừng nên hơi thở từ từ vi tế. Tâm và hơi thở nương lẫn nhau, mà đến cùng tột các tướng sanh, trụ, dị, diệt, các tướng rất vi tế của các hành trong khoảng sát na, thì hơi thở tức là không hơi thở, tâm là vô tâm. Trong khoảng sát na, thấu nhập Kim Cang Càn Huệ Địa, nên được hoát nhiên Vô Ngại. Cảnh giới Ngộ này, thì ngôn ngữ, nghĩ suy không thể đến được.

Xưa, Thượng Thơ Mạc Tương khi làm quan xứ Tây Thục, ra mắt thiền sư Nam Đường Tỉnh, hỏi chỗ tâm yếu. Tổ bảo hãy hướng về chỗ tốt mà tỉnh thức. Vừa bước vào cầu tiêu, bỗng nghe mùi hôi, vội lấy tay bịt mũi, bèn chợt tỉnh ngộ. Liền trình bài kệ :

“Xưa ngay cốt cách thích phong lưu

Cười cho ai đó hướng ngoài cầu

Muôn sai ngàn khác, không đâu kiếm

Đắc cái xưa nay ở mũi đầu”.

Tổ Nam Đường đáp rằng :

“Một pháp vừa thông, pháp pháp Như

Dọc ngang diệu dụng còn tìm đâu

Rắn xanh khỏi hộp, quân ma nép

Bích nhãn Hồ Tăng cười gật đầu”.

Đây cũng là xoay hơi thở theo về Không, mà bỗng nhiên chứng nhập. Có thể cùng thầy Tỳ Kheo tụng chữ “Chổi” thấy mặt nhau!

Thiện Tâm
09-23-2015, 08:04 AM
IX. VIÊN THÔNG VỀ THIỆT CĂN

Kinh:

Ông Kiều Phạm Bát Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi mắc khẩu nghiệp, trong kiếp quá khứ coi thường, giỡn cợt Sa Môn nên đời đời kiếp kiếp mắc tật nhai lại như trâu. Như Lai chỉ dạy tôi pháp môn “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”, tôi diệt được tâm thức, vào Tam Ma Địa. Quán biết cái Vị không phải thân thể, không phải món vật, liền đó được vượt thoát các lậu của thế gian, trong thoát hết thân tâm, ngoài mất tan thế giới, xa lìa ba cõi như chim xổ lồng, rời hết dơ nhiễm, tiêu mất trần tướng, Pháp Nhãn thanh tịnh, thành A La Hán. Như Lai ấn chứng cho tôi thành đạo Vô Học.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi thì trả cái Vị, xoay cái Biết về gốc Tánh, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Ông Kiều Phạm Bát Đề lưỡi khác người mà biết Mùi Vị. Do có tật nhai lại như trâu, mà trâu là loài vật, chỉ biết cây cỏ mà thôi, nay hình dáng cái lưỡi như trâu, mà phân biệt rõ được các vị, là do nơi cái gốc của lưỡi. Quán xét mùi vị, xoay lại cái Biết, thì Vị có nhiều thứ mà cái Biết này không hai. Cái Biết này lúc chưa xoay lại, thì tâm thức chưa diệt, đó là hữu lậu. Xoay cái Biết về Không, biết mà không có chỗ biết, nên là vô lậu. Cái Biết này chẳng do Căn sanh nên không phải Thân, không do Cảnh mà có, nên không phải Vật. Không phải Thân nên trong thoát hết thân tâm; không phải Vật, nên ngoài mất tan thế giới. Do vậy, lìa tâm dơ nhiễm, tiêu mất ngoại trần, được Ý Sanh Thân, thường ở cõi trời, được người, trời cúng dường. Phật vì muốn xóa đi nghiệp nhạo báng nên cho Ngài xâu chuỗi ngọc, dạy niệm Phật, gọi là pháp môn “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”. Từ vô thủy đến nay, các nghiệp do căn lưỡi tạo ra, lập tức thanh tịnh, do đó được Tâm tịch diệt, vào định bình đẳng, bèn nếm mùi Đạo vậy.

Ngài Ngưỡng Sơn đem trái cây cho Tổ Quy Sơn.

Tổ nhận lấy, hỏi: “Ở đâu mà có vậy?”

Ngài Ngưỡng Sơn nói: “Trong vườn nhà”.

Tổ Quy Sơn nói: “Đã ăn chưa?”

Đáp: “Chưa dám nếm, trước dâng lên Hòa Thượng”.

Tổ nói: “Là ai đó?”

Ngài Ngưỡng Sơn nói: “Là Huệ Tịch”.

Tổ nói: “Đã là ông đó, sao lại bảo ta nếm trước?”

Ngài Ngưỡng nói: “Hòa Thượng thì nếm ngàn nếm vạn”.

Tổ Quy Sơn bèn ăn mà nói : “Còn chua chát”.

Ngài Ngưỡng nói: “Chua chát vẫn là tự biết”.

Tổ Quy Sơn không nói gì.

Lại Tổ Huyền Sa cùng Ông Vi Giám Quân đang ăn trái cây.

Ông Vi hỏi: “Như thế nào là dùng hàng ngày mà chẳng biết?”

Tổ Sa cầm trái cây đưa lên, nói: “Ăn đi”.

Ông Vi ăn trái cây xong, lại hỏi nữa.

Tổ Sa nói: “Chỉ cái ấy là dùng hàng ngày mà chẳng biết!”

Ngài Ngưỡng Sơn nói Tự biết. Ngài Huyền Sa nói Chẳng biết. Đó là, Biết mà chẳng Biết, chẳng Biết mà Biết. “Trả Mùi Vị, xoay cái Biết về gốc Tánh”, là phải thấy như thế, biết như thế, mới gọi là Pháp Nhãn Thanh Tịnh.

Thiện Tâm
09-23-2015, 08:09 AM
X. VIÊN THÔNG VỀ THÂN CĂN


Kinh:

Ông Tất Lăng Già Bà Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật rồi thưa rằng: “Lúc ban đầu mới phát tâm theo Phật vào Đạo, thường nghe Như Lai dạy về những việc không thể vui được trong thế gian. Đang khi khất thực trong thành, giữa đường, tâm suy nghĩ về pháp môn Phật dạy; thình lình bị gai độc đâm chân, toàn thân đau đớn. Tâm niệm tôi có biết sự đau đớn ấy; tuy biết đau đớn mà cũng biết cái tâm thanh tịnh không có cái đau và cái biết đau. Tôi lại suy nghĩ, vậy thì chỉ một thân lại có hai cái biết. Nhiếp tâm chẳng bao lâu thân tâm bỗng nhiên rỗng không, trong khoảng hai mươi mốt ngày, các lậu đều tiêu hết, thành quả A La Hán, được Phật ấn chứng là bậc Vô Học.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi thì thuần một Giác Tánh, tan mất cái thân, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Ông Tất Lăng Già Bà Ta gọi thần sông là “con Tì” [Tì: đầy tớ gái. Ông Trưởng Lão Tất Lăng Già Bà Ta hay sợ đau mắt; ông đi khất thực thường phải qua sông Hằng. Đến bờ sông, khảy móng tay rồi nói: “Tớ gái nhỏ, ngừng lại, đừng cho chảy”. Nuớc liền rẽ hai cho ông đi qua. Bà Thần sông Hằng đến nơi Phật bạch rằng: “Đệ tử Phật, Ông Tất Lăng Già Bà Ta, thường hay mắng tôi là : Tớ gái nhỏ, ngưng lại, đừng cho chảy”.Đức Phật dạy Ông Tất Lăng Già Bà Ta xin lỗi, ăn năn với Bà Thần sông Hằng. Ông Tất Lăng Già Bà Ta liền chấp tay, nói với Bà Thần sông: “Cô tớ gái nhỏ, nay ăn năn xin lỗi cô”. Đại chúng cười rộ. Nói rằng sao xin lỗi mà lại còn mắng vậy. Đức Phật dạy Bà Thần sông Hằng: “Bà thấy Ông Tất Lăng Già Bà Ta chấp tay ăn năn xin lỗi chăng? Ăn năn xin lỗi không có kiêu căng, nhưng còn lời nói. Nên biết chẳng phải hung dữ. Người này năm trăm đời đến nay thường đầu thai vào nhà Bà La Môn. Hằng ỷ mình sang, khinh hèn người khác, là chỗ thói quen xưa nay. Chỉ miệng nói mà thôi, lòng không có kiêu ỷ. Các vị A La Hán cũng y như vậy: tuy dứt lìa các sự ràng buộc, sui khiến sai biểu, nhưng dường còn thừa thói cũ”]. Vì trong các đời trước có thói quen quí tộc, hiện tại không thể bỏ quên thân thể. Nên khi gai độc đâm vào chân, toàn thân đau đớn bèn tỉnh nhập.

Tuy có cái Biết để biết cái đau, nhưng cái Biết là Tâm Thanh Tịnh, lìa ngoài Năng và Sở, sự đau đớn không thể đến được. Đau là cái bị biết, thì cái Biết có thể biết nó. Còn cái Biết là cái Hay Biết, thì cái đau không thể làm nó đau. Một cái có sự đau, một cái không đau. Đã biết có đau lại biết không đau, thế thì một thân lại có hai cái Biết sao?

Cái Biết duy chỉ Một cái Chân, biết đau tức là Vọng. Do đó, nhiếp tâm niệm : ngoài quên mất thân thể, chỗ biết đều biến mất; trong quên mất tâm, cái Hay Biết cũng tan. Thân và tâm bỗng nhiên rỗng không, liền chứng Vô Học. Chỉ còn một cái Giác Thanh Tịnh, nên gọi là thuần một Giác Tánh. Ở trong cái Thuần Giác, thì Năng và Sở đều xa lìa. Thế mới tan mất cái thân, thân đã tan biến, thì thoát khỏi lập tức các việc không thể vui thích của thế gian.

Xưa, Đức Tứ Tổ Ưu Bà Cúc Đa có gặp một người bám trước Thân Kiến xin cứu độ.

Tổ nói: “Cầu pháp cứu độ thì phải tin lời ta, chẳng trái lời ta dạy”.

Người ấy nói: “Đã đến cầu Thầy, thì phải nghe lời răn dạy”.

Tổ bèn biến ra một bờ núi hiểm trở, trên chót có nhô ra một cây cao. Tổ dạy người ấy trèo lên cây. Lại ở dưới cây, hóa ra một cái hố lớn, sâu rộng ngàn tầm. Tổ dạy buông chân, người ấy tuân lời, buông hai chân ra. Dạy buông một tay, người ấy thả một tay. Lại dạy thả tay kia, người ấy đáp rằng: “Nếu thả luôn tay kia thì rớt xuống hố chết mất”.

Tổ nói: “Trước đã cam kết là tuân lời dạy, nay sao trái với ta!”

Khi ấy, người kia sự thương thân liền diệt, thả tay rơi xuống, thì chẳng thấy cây, thấy hố đâu cả. Liền chứng đạo quả.

Ngài Huyền Sa ban đầu muốn đi khắp nơi tìm hỏi thiện tri thức. Quảy gói ra khỏi núi, ngón chân bị vấp chảy máu, đau nhức.

Ngài than: “Thân này chẳng phải có, đau từ đâu đến?”

Bèn trở về Tổ Tuyết Phong.

Tổ Tuyết Phong hỏi: “Cái gì là Huyền Sa Sư Bị đầu đà?”

Ngài nói: “Trọn đời chẳng dám dối gạt người”.

Lại một ngày nọ, Tổ kêu lại hỏi: “Bị đầu đà sao chẳng đi khắp nơi mà học hỏi?”

Ngài nói: “Đạt Ma chẳng đến Đông Độ, Nhị Tổ chẳng qua Tây Thiên”.

Tổ ưng nhận.

Ngài Vân Môn mới đầu ra mắt Tổ Mục Châu. Tổ Châu vừa thấy, liền đóng cửa. Ngài Vân Môn bèn gõ cửa.

Tổ Châu hỏi: “Ai?”

Ngài đáp: “Tôi đây”.

Tổ nói: “Làm gì thế?”

Mục Châu nói: “Việc mình chưa rõ, xin thầy chỉ bày”.

Tổ Châu mở cửa, nhìn một cái, liền đóng lại. Cứ vậy, liên tiếp gõ cửa ba ngày. Đến ngày thứ ba, Tổ Châu mở cửa, Vân Môn bèn sấn vào. Tổ Châu nắm đứng lại, hét: “Nói, nói!”

Vân Môn suy nghĩ, thì Tổ Châu bèn xô ra, nói: “Cái đồ vô dụng hết xài!”

Rồi đóng sập cửa, làm kẹt một chân của Vân Môn. Vân Môn liền triệt ngộ.

Tổ chỉ qua tham vấn Tuyết Phong.

Như hai ngài Huyền Sa, Vân Môn cũng là sự trở lại của Tất Lăng Già Bà Ta vậy! Còn mình đây cũng bị đau chân mà tập khí chẳng chịu trừ.

Thiện Tâm
09-23-2015, 08:57 AM
XI. VIÊN THÔNG VỀ Ý CĂN


Kinh:

Ông Tu Bồ Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi từ mênh mông kiếp đến nay, tâm được vô ngại, tự nhớ thọ sanh, kiếp số nhiều như cát sông Hằng. Lúc còn trong thai mẹ đã biết Tánh Không Tịch, như thế cho đến cả mười phương đều rỗng không và cũng khiến chúng sanh chứng đắc Tánh Không. Nhờ Như Lai phát minh Tánh Giác là Chân Không, Tánh Không tròn sáng, đắc A La Hán, tức thời nhập vào Biển Không quý báu sáng ngời của Như Lai, đồng Phật Tri Kiến, được ấn chứng thành Vô Học. Tánh Không Giải Thoát, tôi là đầu hết.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, các Tướng nhập vào Phi Tướng, Phi và Sở Phi đều hết, xoay các pháp về Không, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Ông Tu Bồ Đề từ mênh mông số kiếp đến nay rõ được Tánh Không, nhưng chỉ biết ngả theo cái Không mà thôi. Nhờ Phật phát minh Tánh Giác là Chân Không, mới biết cái Không sanh trong Đại Giác cũng như một bọt nước sanh trong biển lớn, thế nên nói là cái Biển Không quý báu sáng ngời. Ngả qua cái Không thì chẳng toàn vẹn. Chân Không là toàn vẹn. Ngả về cái Không thì chưa giải thoát. Chân Không tức Giải Thoát. Chẳng đốn nhập Chân Không, thì còn ở trong cái Thấy của Nhị Thừa, chưa đồng với cái Thấy Biết của Phật vậy.

Các Tướng nhập vào Phi Tướng, ban đầu chỉ là cái Không đơn thuần, nghĩa là làm Không các Tướng. Cái Phi và Sở Phi đã mất hết, kế đó dùng cái không Không, tức là không luôn cái Không Tướng. Ban đầu là xoay các Tướng về Không, rồi xoay các Pháp về Không. Tướng Nhân, Tướng Pháp đều Không, nên trở vào trong Biển Không quý báu sáng ngời, như ngồi yên trong núi mà thấy Pháp Thân Như Lai. Phật cũng nói “Ông Tu Bồ Đề thấy trước Pháp Thân của Ta”. Đây là một chỗ để nghiệm ra là đồng với cái thấy biết của Phật.

Nhà sư tên Trí Thường ra mắt Đức Lục Tổ.

Tổ hỏi rằng: “Ông từ đâu đến đây, muốn cầu chuyện gì?”

Đáp rằng: “Thưa, gần đây tôi đến Hồng Châu, núi Bạch Phong, lạy ra mắt Hòa Thượng Đại Thông, được chỉ dạy cái nghĩa thấy Tánh thành Phật, mà chưa giải quyết nổi nghi ngờ. Từ xa đến đây làm lễ, mong Hòa Thượng chỉ bày”.

Tổ nói rằng: “Vị kia nói gì, ông thử thuật lại xem”.

Đáp rằng: “Trí Thường này đi đến đó, trải qua ba tháng mà chưa được dạy bảo. Vì thiết tha với pháp, nên một đêm một mình vào phương trượng cầu hỏi:

“Như sao là Bản Tâm, Bản Tánh của tôi?”

“Ngài Đại Thông bèn nói: “Ông có thấy hư không chăng?”

“Đáp: “Dạ, thấy”.

“Hỏi: “Ông thấy hư không có tướng dạng gì không?”

“Đáp: “Hư không vô hình, nào có tướng mạo gì”.

“Ngài Đại Thông nói: “Ông hãy thấy Bản Tánh cũng như hư không, rốt ráo không có một vật để thấy, gọi là Chánh Kiến. Không một vật để biết, gọi là thật biết. Không có xanh, vàng, dài, ngắn. Chỉ thấy cái Bổn Nguyên Thanh Tịnh, cái Giác Thể tròn đầy sáng suốt, thì gọi là thấy Tánh thành Phật, cũng gọi là cái Thấy Biết của Như Lai”. Kẻ học Đạo này tuy nghe dạy như vậy mà chưa rõ hiểu chắc chắn, xin Hòa Thượng chỉ dạy”.

Tổ nói: “Chỗ dạy của vị ấy vẫn còn nằm trong tri kiến, nên khiến ông chưa rõ, nay ta chỉ cho ông bài kệ:

“Chẳng thấy một pháp, là còn cái không thấy

Thật như mây nổi che mặt trời

Chẳng biết một pháp, là giữ cái không biết

Lại như thái hư sanh điện chớp

Cái thấy biết ấy vừa khởi lên

Nhận lầm, bao giờ hiểu phương tiện

Ông trong nhất niệm tự biết lấy Chẳng Phải [Tự tri Phi]

Thì cái linh quang chính mình thường rõ hiện”.

Trí Thường nghe kệ xong, tâm ý rỗng nhiên, bèn trình bài kệ:

“Không đâu, khởi thấy biết

Bám tướng, tìm Bồ Đề

Tình còn một niệm “Ngộ”

Sao thoát khỏi xưa mê

Tự Tánh Giác nguyên thể

Theo chiếu uổng trôi lăn

Chẳng vào Tổ Sư thất

Mờ mịt chạy hai đầu”.

Thế có thể nói là “Nhất niệm biết Chẳng Phải” thì Cái Chẳng Phải (Phi) và cái Chỗ Chẳng Phải (Sở Phi) đều dứt hết. Từ Ông A Na Luật Đà đến đây là năm vị Thánh, nói là xoay cái Thấy, quay hơi thở trở về, đem cái mùi vị trở lại, xoay cái pháp về nguồn, đều là ngược dòng về Một. Đó là do sáu Căn mà chứng viên thông vậy. Cái xoay ngược cái Nghe của Đức Quan Âm kể riêng ra với chỗ này, vì là cực quả của Viên Thông, gần với địa vị Phật, nên để sau chót.

Thiện Tâm
09-24-2015, 10:29 AM
XII. VIÊN THÔNG VỀ NHÃN THỨC


Kinh:

Ông Xá Lợi Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi nhiều kiếp đến nay, cái Thấy từ Tâm được trong sạch. Như thế mà thọ sanh, kiếp số nhiều như cát sông Hằng. Các pháp thế gian và xuất thế gian, thảy thảy biến hóa, trong một cái Thấy đều thông suốt, được không chướng ngại. Tôi ở giữa đường gặp Ca Diếp Ba, anh em hợp ý nhau, nói Pháp Nhân Duyên, ngộ được cái Tâm không bờ cõi, theo Phật xuất gia. Tánh Giác hằng thấy tròn đầy sáng ngời, được Đại Vô Úy, thành A La Hán, làm Trưởng Tử của Phật, từ miệng Phật mà sanh, do pháp mà hóa sanh.

“Phật hỏi về Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, thì cái Thấy của Tâm phát sáng, sáng tột cái Thấy Biết, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Ông Xá Lợi Phất lúc còn trong bụng mẹ, thì bà mẹ biện luận sáng láng hơn người cậu. Ông Cậu bảo: “Thằng bé này sanh ra, trí huệ không ai địch nổi”. Rồi sang Nam Ấn học pháp, không rãnh thời giờ để cắt móng tay, đó là Tỳ Kheo Trường Trảo [Móng Tay Dài].

Lúc chín tuổi, Ngài Xá Lợi Phất đã biện luận khuất phục mọi người, vua trong nước rất quý trọng. Ngài làm bạn với Ông Mục Kiền Liên, kết ước với nhau, hễ được mùi vị cam lồ của chánh pháp thì cũng hưởng với nhau.

Mục Kiền Liên giữa đường gặp Tỳ Kheo Mã Thắng, hỏi: “Thầy của ông thuyết pháp gì?”

Mã Thắng đáp: “Các pháp theo duyên sanh, các pháp theo duyên diệt; Thầy ta, Đại Sa Môn, thường y như thế thuyết”.

Ông Mục Kiền Liên tỏ sáng, chứng Sơ Quả; vội qua báo cho Xá Lợi Phất, nghe xong Xá Lợi Phất cũng chứng Sơ Quả.

Cả hai ông cùng đến ra mắt Phật. Từ xa trông thấy hai người, Phật bảo với đại chúng: “Đó là hai đại đệ tử của Ta, một người Trí Huệ Đệ Nhất, một người Thần Thông Đệ Nhất”.

Ngài Xá Lợi Phất, cái Thấy của Tâm rất sáng lẹ, theo Phật xuất gia, bảy ngày thông suốt hết Phật Pháp, trong mười lăm ngày đắc A La Hán, nên gọi là Trí Huệ Đệ Nhất, làm Trưởng Tử của Phật. Cái Thấy của Tâm không thuộc về Căn hay Thức, nên có thể bên trong phát ra sáng ngời, sáng khắp cái Thấy Biết, Tánh Giác của cái Thấy tròn đầy sáng rỡ, được Đại Vô Úy. Cái Thấy chưa sáng suốt thì có nghi, có sợ, còn Ngài Xá Lợi Phất chín tuổi nghị luận đã đắc Vô Úy, đến đây lại thông đạt hết Phật Pháp, mới gọi là Đại Vô Úy.

Thiền sư Trường Khánh Lăng ban đầu ra mắt Tổ Tuyết Phong, hỏi: “Một con đường từ xưa các Thánh truyền thụ, xin thầy chỉ bày cho”. Tổ Phong im lặng hồi lâu. Ngài bèn lễ mà lui ra. Tổ Phong bèn mỉm cười.

Ngài đi qua lại Tổ Tuyết Phong và Huyền Sa như vậy trong suốt hai mươi năm, ngồi thiền rách hết bảy cái bồ đoàn, mà chẳng rõ được chuyện ấy. Một ngày kia, cuốn bức sáo lên, hốt nhiên đại ngộ, bèn làm bài tụng:

“Đã lầm to, đã lầm to!

Cuốn bức sáo lên thấy thiên hạ

Có người nào hỏi, ấy Tông gì

Cầm cây phất tử nhằm miệng đánh”.

Tổ Tuyết Phong nói với Tổ Huyền Sa: “Ông ấy tỏ suốt rồi vậy”.

Huyền Sa nói: “Chưa chắc. Đây là do ý thức thuật lại thôi, phải cần xét lại mới được”.

Đến tối, các sư đến làm lễ, Tổ nói với Ngài Khánh Lăng: “Đầu Đà Bị chưa chịu ông, nếu thật ngộ, trước chúng hãy nói ra đi!”

Ngài Lăng lại làm bài tụng:

“Ở trong muôn tượng lộ riêng thân

Chỉ người tự nhận ấy mới gần

Ngày xưa lầm lạc tìm đường đến

Ngày nay trong lửa thấy ra băng”.

Tổ Phong quay sang nói với Tổ Huyền Sa: “Không thể là sự trước thuật của ý thức đâu!”

Ôi, thấy ra băng trong lửa, là một cái nhìn thông suốt, được không chướng ngại. Thiền sư Lăng khá gọi là có mắt vậy.

Thiện Tâm
09-24-2015, 03:13 PM
XIII. VIÊN THÔNG VỀ NHĨ THỨC


Kinh:

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi đã từng làm Pháp Vương Tử cho các Đức Như Lai như số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ Tát tu Hạnh Phổ Hiền, là do tôi mà đặt tên.

“Thưa Thế Tôn, tôi dùng cái Nghe của Tâm mà phân biệt tất cả thấy biết của chúng sanh. Nếu ở phương nào khác, cách ngoài hằng sa thế giới, có một chúng sanh trong tâm phát khởi Hạnh Phổ Hiền, thì liền ngay khi ấy, tôi cỡi voi sáu ngà, phân thân thành trăm, ngàn đến chỗ người ấy. Dầu cho người ấy nghiệp chướng còn sâu dày, chưa thấy tôi được, tôi cũng âm thầm xoa đầu, ủng hộ an ủi khiến cho người ấy được thành tựu.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi nói chỗ Bản Nhân của tôi là phát sáng cái Nghe của Tâm, tự tại mà phân biệt, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng :

Hạnh khắp pháp giới là Phổ, địa vị gần với Phật gọi là Hiền. Đức Phổ Hiền đã chứng quả vị, nói lại cái Bản Nhân của mình là từ cái Nghe của Tâm phát sáng, mọi phân biệt đều tự tại. Tận khắp pháp giới rỗng rang như hư không, không đâu mà Tâm chẳng nghe đến. Biết rành người tu Hạnh Phổ Hiền mà ủng hộ cho, ấy là trong sự biết rành đó; có một loại Tam Muội Tự Tại, chẳng có một mảy tơ tạo tác, là do đã chứng Pháp Thân, nên đầy khắp pháp giới, nơi nào vừa khởi niệm, nơi đó có ngay hạnh nguyện. Đó là Đức và Dụng vô ngại : Thể là Dụng, Dụng là Thể, nên gọi là Tự Tại.

Đức Quán Âm theo Căn Tai mà xoay lại cái Nghe, nên được Tịch Diệt Hiện Tiền. Đức Phổ Hiền theo Nhĩ Thức mà phát sáng, nên được Tự Tại trong phân biệt. Nói là Hiện Tiền thì chưa từng chẳng phân biệt. Nói là Tự Tại, thì chưa từng không tịch diệt. Chỗ chứng của hai vị Thánh thật không có chỗ hơn kém.

Ngài Đàm Dực ban đầu vào Lư Sơn theo học Ngài Viễn Công. Sau trở về Hội Kê, ở núi Tần Vọng, tụng kinh Pháp Hoa. Trải qua mười hai năm, cảm Đức Bồ Tát Phổ Hiền hóa thân người nữ, mặc áo quần màu, xách lồng tre, một con heo trắng và hai củ tỏi, đến trước Ngài, nói : “Thiếp vào núi hái rau quyết, mặt trời đã xế, sói cọp tung hoành, trở về thì khó sống, xin ở nhờ một đêm”. Ngài hết sức từ chối, mà người con gái kêu khóc không thôi, bèn bảo nghỉ ở giường cỏ. Nửa đêm cô kêu la đau bụng, xin Ngài xoa bóp giùm. Ngài từ chối vì giữ Giới, không được chạm tay. Cô gái càng kêu la quá lắm. Ngài mới lấy cây tích trượng quấn vải vào rồi ở xa mà xoa cho. Sáng hôm sau, cô gái hóa áo quần thành mây lành, heo biến thành voi trắng, hai củ tỏi biến thành hai bông sen, bay lên không mà bảo rằng : “Ta là Bồ Tát Phổ Hiền, đến để thử ông đó”.

Quan Thái Thú ở đấy là Mạnh Nghi, tâu lên vua, vua ra lệnh xây chùa Pháp Hoa. Chuyện này cũng giống chuyện Đức Quan Âm thử Ngài Ngô Đạo Tử.

Việc phân thân thị hiện, xoa đầu an ủi thì không kể xiết. Ở Trung Hoa như thế, thì ngoài hằng sa thế giới cũng có thể biết là như vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa: “Vì sao đồng tử Thiện Tài đi dạo thế giới trong thân Bồ Tát Phổ Hiền suốt vô lượng kiếp mà không khắp hết?”

Tổ Sa nói: “Ông từ vô lượng kiếp đến nay dạo chơi được khắp hết chăng?”

Hỏi: “Như sao là Thân Phổ Hiền?”

Tổ Sa nói: “Ở trong Hàm Nguyên điện, lại chạy kiếm Trường An!”

Lại có nhà sư từ giã Tổ Đại Tùy.

Tổ hỏi: “Đi đâu thế?”

Nhà sư đáp: “Đến núi Nga Mi, làm lễ Đức Phổ Hiền”.

Tổ Tùy dựng đứng cây phất tử, nói: “Văn Thù, Phổ Hiền chỉ tại trong này!”

Nhà sư vẽ một vòng tròn, ném về sau lưng.

Tổ Tùy nói: “Thị giả! Đem thêm trà cho vị sư này!”

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Biết pháp thì sợ

Khinh địch thì mất

Trong nước phân sữa

Phải là ngỗng chúa!”.

Thiện Tâm
09-24-2015, 03:15 PM
XIV. VIÊN THÔNG VỀ TỶ THỨC


Kinh: Ông Tôn Đà La Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Lúc tôi mới xuất gia, theo Phật vào Đạo, tuy đầy đủ Giới Luật, mà trong Tam Ma Địa thì tâm thường tán động, chưa được Vô Lậu. Thế Tôn dạy tôi và Ông Câu Hy La quán đầu mũi trắng. Lúc bắt đầu tu quán ấy trải qua ba lần bảy ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói. Thân tâm bên trong sáng rỡ, rỗng suốt vẹn khắp thế giới, khắp hết thành rỗng không, sáng sạch, như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần hết mất, hơi thở hóa thành trắng. Tâm khai ngộ, các lậu hết sạch thì các hơi thở ra vào hóa thành hào quang, soi khắp mười phương thế giới, đắc A La Hán. Thế Tôn thọ ký cho tôi sẽ đắc Bồ Đề.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi dùng sự tiêu mất hơi thở, yên lặng lâu thì phát ra sáng suốt, sáng suốt tròn khắp thì diệt hết các lậu, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Ông Nan Đà là em ruột của Phật, rất thương vợ nên tâm thường tán động. Phật dùng nhiều phương tiện điều phục cho mà đắc quả. Trước điều khiển hơi thở là y nơi Căn, từ thô vào tế, từ tế vào Không, đó là xoay lại các Căn. Cách quán lỗ mũi trắng này là y nơi Thức. Hơi thở ban đầu như khói, kế hóa thành trắng, sau cùng thành quang minh, đó là phát từ Thức. Hơi thở trong mũi, sao lại thành khói? Hơi thở do gió và lửa khởi ra, làm động cái phiền não trược, nên hình dạng như khói. Đến khi tịnh quán phát sáng, thân tâm rỗng suốt, phiền não trược dần dần tiêu, nên hơi thở nơi mũi hóa thành trắng. Tâm khai ngộ, hết sạch các Lậu, không còn phiền não, cái sáng suốt bên trong phát chiếu ra, thì thấy thế giới như ngọc lưu ly, thế hơi thở chẳng hóa thành quang minh ư ? Hai thứ này, các Đạo Gia dưỡng sanh cho là bí truyền; còn nếu nơi Căn Viên Thông mà chứng được, thì há chẳng phải là hột giống Phật ư?

Xưa, Ngài Bách Trượng đang đi cùng Tổ Mã Tổ, thì thấy một bầy vịt trời bay qua.

Tổ nói: “Cái gì thế?”

Ngài Trượng nói: “Vịt trời”.

Tổ nói: “Đi đâu rồi?”

Ngài Trượng nói: “Bay qua rồi”.

Tổ bèn nắm mũi Bách Trượng kéo mạnh, Ngài đau quá la lên.

Tổ nói: “Còn nói bay qua nữa thôi?”

Ngài Bách Trượng liền tỉnh ngộ, về liêu thị giả, tấm tức khóc lớn.

Vị thị giả khác hỏi: “Ông nhớ cha mẹ ư?”

Đáp : “Không”.

Hỏi : “Bị người mắng chăng?”

Đáp : “Không”.

Hỏi : “Thế chuyện gì khóc?”

Đáp : “Lỗ mũi tôi bị đại sư vặn đau quá mà chẳng thấu triệt”.

Hỏi : “Có nhân duyên gì chẳng khế hợp được?”

Đáp : “Ông đi hỏi lấy đại sư đi!”

Vị thị giả ấy đi hỏi Mã Tổ: “Thị giả Hoài Hải Bách Trượng có nhân duyên gì không khế hợp, đang kêu khóc ở trong phòng, xin Hòa Thượng nói cho con!”

Đại sư nói: “Đó là hắn hiểu vậy, ông hãy tự mình hỏi lấy hắn ta xem”.

Vị ấy về phòng nói với Bách Trượng: “Hòa Thượng nói ông hiểu rồi, bảo tôi về tự hỏi ông?”

Bách Trượng ha hả cười lớn.

Vị thị giả nói: “Vừa mới khóc, sao giờ lại cười?”

Bách Trượng nói: “Hồi nãy khóc, bây giờ cười!”

Vị thị giả chẳng hiểu sao cả.

Hôm sau, Mã Tổ lên tòa giảng, đại chúng vừa nhóm họp, thì Bách Trượng bước ra cuốn chiếu. Tổ bèn xuống tòa. Bách Trượng đi theo đến phương trượng. Tổ nói: “Hồi nãy ta chưa hề mở lời, tại sao ông lại cuốn chiếu?”

Bách Trượng nói: “Hôm qua bị Hòa Thượng vặn lỗ mũi đau quá!”

Tổ nói: “Hôm qua ông lưu tâm chỗ nào?”

Bách Trượng nói: “Lỗ mũi hôm nay lại không đau”.

Tổ nói: “Ông thật biết rõ chuyện hôm qua”.

Ngài Bách Trượng làm lễ rồi lui ra.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Con vịt trời, biết sao đây?

Mã Tổ vừa thấy, nói cùng nhau

Nói hết núi mây, trăng biển, tình

Như xưa, chẳng hội, liền bay mất

Muốn bay chăng?

Nắm đứng lại

Nói, nói!”

Lại có người nói được, thì phải như Bách Trượng lỗ mũi đau mà chẳng thấu triệt, mới được quang minh chiếu mười phương thế giới, đốn chứng Viên Thông.

Thiện Tâm
09-24-2015, 03:17 PM
XV. VIÊN THÔNG VỀ THIỆT THỨC

Kinh:

Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi từ bao kiếp đến nay, biện tài vô ngại, tuyên thuyết Khổ, Không, thấu suốt Thật Tướng. Như thế cho đến các Pháp Môn Bí Mật của hằng sa Như Lai, tôi đều ở trong chúng khai thị một cách vi diệu, được Vô Sở Úy. Đức Thế Tôn biết tôi có đại biện tài, nên dạy tôi tuyên dương bằng Pháp Luân Âm Thanh. Tôi ở trước Phật, giúp Phật chuyển Pháp Luân, nhân phát lên tiếng rống Sư Tử, thành A La Hán. Thế Tôn ấn chứng cho tôi thuyết pháp hơn hết thảy.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi dùng Pháp Âm hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu diệt các Lậu, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng :

Đây là lấy Thiệt Căn tuyên dương chỗ toàn vẹn một ngàn hai trăm công đức, nên chẳng dùng sự nếm Vị để hiển bày Thiệt Thức. Rõ biết cái Khổ không có Khổ Tướng, cái Không không có Không Tướng, gọi là hiểu thấu sâu xa Thật Tướng. Ngay nơi Khổ, Không mà thuyết Thật Tướng, đó là pháp môn bí mật. Khai thị một cách vi diệu, rỗng suốt đến nguồn Pháp, nên được Vô Úy. Phật dùng ba Pháp Luân “Thân, Khẩu, Ý” mà ứng vật không vướng mắc. Ông Phú Lâu Na chỉ dùng Pháp Luân Âm Thanh mà thành A La Hán. Trong thì tiêu diệt các lậu, mật chứng Thật Tướng; ngoài thì rộng nói Pháp bí mật, hàng phục tà ma ngoại đạo. Biện tài vô ngại, là người Thuyết Pháp Số Một, đều do Thiệt Thức mà được Viên Thông vậy.

Tọa chủ Lượng ra mắt Ngài Mã Tổ. Tổ nói : “Nghe nói tọa chủ giảng Kinh, Luận thông suốt lắm, có phải không?”

Thầy Lượng nói: “Dạ, không dám”.

Tổ nói: “Lấy cái gì giảng?”

Thầy Lượng nói: “Lấy tâm giảng”.

Tổ nói: “Tâm như tay thợ đàn giỏi, Ý như con hát hòa theo, làm sao giảng được kinh?”

Thầy Lượng cãi lại rằng: “Tâm đã chẳng giảng được, chẳng lẽ hư không giảng được sao?”

Tổ nói: “Vậy mà hư không giảng được!”

Thầy Lượng không chịu, bèn bỏ đi ra.

Vừa xuống thềm, Ngài Mã Tổ gọi lớn: “Tọa Chủ!”

Thầy Lượng quay đầu lại, hoát nhiên đại ngộ. Bèn lễ bái.

Tổ nói: “Cái ông thầy độn căn này, lễ bái làm gì!”

Thầy Lượng về chùa, nói với thính chúng rằng : “Tôi giảng kinh không ai bì kịp, thế mà hôm nay bị đại sư Mã Tổ hỏi cho một câu, tất cả công phu trước giờ đều như băng rã tiêu tan”.

Bèn vào núi Tây Sơn, không còn dấu vết.

Há chẳng tiêu diệt các lậu hay sao?

Thiền sư Bàn Am Thành nói trước đại chúng: “Này các nhân giả! Hãy biết nay tôi hét lên một tiếng, có thể thấu đáo cả ngũ giáo”.

Im lặng một lúc, rồi hét lớn một tiếng mà hỏi: “Có nghe không?”

Đại chúng đáp: “Có nghe”.

Thiền sư nói: “Nay các ông có nghe một tiếng hét này, thế là Có, tức là vào Tiểu Thừa Giáo”.

Rồi hỏi tiếp: “Giờ các ông có nghe không?”

Đáp: “Không nghe”.

Thiền sư nói: “Giờ các ông không nghe, thì một tiếng hét này là Không, đó là vào Đại Thừa Thủy Giáo. Khi tôi mới hét, các ông đã bảo rằng Có; hét xong âm thanh tiêu mất, các ông lại nói rằng Không. Nhưng nói không, nghĩa là trước kia là có; nói rằng có, thì bây giờ là không. Thế là Chẳng Có, Chẳng Không, đó là vào Đại Thừa Chung Giáo. Khi tôi có hét, có chẳng phải là có, nhân nơi không mà có. Khi không hét, không chẳng phải là không, nhân nơi có mà không. Ấy là Tức Có Tức Không, là vào Đốn Giáo. Tôi ở nơi một tiếng hét, chẳng khởi ra cái Dụng của tiếng hét, thì Có và Không chẳng lập, ngộ và giải đều mất. Khi nói Có, mảy lông chẳng lập. Khi nói Không, rộng khắp hư không. Tức một tiếng hét này, tức là trăm ngàn vạn ức tiếng hét. Trăm ngàn vạn ức tiếng hét tức là một tiếng hét này. Đó là vào Viên Giáo”.

Các lời biện luận ghê gớm này, người nghe đều phải khuất phục, há chẳng hàng phục được ma oán ư?

Thiện Tâm
09-24-2015, 03:19 PM
XVI. VIÊN THÔNG VỀ THÂN THỨC


Kinh:

Ông Ưu Bà Ly liền từ chỗ ngời đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Chính tôi được theo Phật vượt thành xuất gia, được chính mình thấy Phật sáu năm khổ hạnh chuyên cần. Đích thân thấy Như Lai hàng phục các ma, chế ngự ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục của thế gian. Nhờ Phật dạy cho Giới Luật, như thế cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn Tế Hạnh, các Tánh Nghiệp và Giá Nghiệp đều thanh tịnh, thân tâm tịch nhiên, thành A La Hán. Tôi là cái mẫu mực trong chúng của Như Lai. Phật ấn chứng cho tôi giữ Giới thân tâm hơn cả trong chúng.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi do lấy việc giữ gìn cái Thân, mà Thân được tự tại; lần đến giữ gìn cái Tâm, mà Tâm được thông suốt; rồi sau cả thảy Thân Tâm đều thông suốt, nhạy bén, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Đức Như Lai sáu năm cần khổ, những cái gì ngoại đạo không làm nổi, Ngài đều làm hết. Thế nên có thể chế phục các ngoại đạo, lại giải thoát các lậu tham dục của thế gian, mà tà ma không thể quấy phá. Tức là các thứ binh khí của chúng đều hóa thành hoa sen, nên các ma chịu phục. Đều là do Thân giữ Giới Hạnh, ba ngàn tám vạn không đâu chẳng tròn đủ, bởi thế tà ma ngoại đạo chắp tay thán phục. Đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi thứ có hai trăm năm chục, đối với ba tụ Tịnh Giới thành ra ba ngàn, lại lấy ba ngàn phối hợp với ba cái của Thân [Sát, Đạo, Dâm], bốn cái của Miệng [Vọng Ngôn, Lưỡng Thiệt, Ác Khẩu, Ỷ Ngữ] là bảy chi thành ra hai vạn một ngàn. Lại phối hợp với bốn phần phiền não, thành tám vạn bốn ngàn. Phật chế định Luật này là Giới Hạnh của Sa Môn, khiến cho Thân Tâm đều thanh tịnh. Bốn lỗi lầm dơ đục như Sát, Đạo, Dâm, Vọng thì tánh của chúng vốn là tội, không đợi phải ngăn cấm, phạm liền thành nghiệp, nên gọi là Tánh Nghiệp. Còn lại thì nhân có phạm mới ngăn cấm. Trước khi chế định mà phạm thì không tội, nên gọi là Giá Nghiệp. Hai nghiệp đều trừ sạch liền được Không Tịch.

Ban đầu dùng sự giữ gìn Thân, thì Thân được tự tại, ấy gọi là Tánh Nghiệp thanh tịnh. Lần đến giữ gìn Tâm, thì Tâm được thông suốt, ấy gọi là Giá Nghiệp thanh tịnh. Giữ gìn Thân rồi đến Tâm, Tâm là cái Thân của Thức, cái Thức về Thân đã diệt, nên Chân Trí hiện bày trước mắt. Giới trong sạch là Trí Huệ, bèn được Đạo Đệ Nhất. Đó là Ông Ưu Bà Ly giữ Giới số một, làm mẫu mực trong chúng vậy. Cho đến khi cả thảy Thân Tâm đều thông suốt, nhạy bén là vào chỗ Ngộ vậy, há đợi giữ gìn riêng Thân ư?

Tôn giả Bà Tu Bàn Đầu [Dịch là Biến Hành] thường ngày ăn chỉ một bữa, không nằm, sáu thời lễ Phật, trong sạch không dục, làm chỗ nương về của chúng.

Tổ Thứ Hai Mươi là Ngài Tôn Giả Xà Dạ Đa muốn độ cho Ngài, trước hết hỏi chúng kia rằng: “Vị đầu đà Biến Hành này hay tu Phạm Hạnh, có thể đắc Phật Đạo không?”

Đại chúng nói : “Thầy chúng tôi tinh tấn, sao lại không thể?”

Tổ nói: “Thầy các của cùng với Đạo cách xa vậy. Giả sử có khổ hạnh trải qua nhiều kiếp như bụi cũng là cái gốc hư vọng đó”.

Đại chúng nói: “Tôn giả chứa nhóm được đức hạnh gì mà xét bàn thầy chúng tôi?”

Tổ nói: “Ta chẳng cầu Đạo, cũng chẳng điên đảo. Ta chẳng lễ Phật, cũng chẳng khinh mạn. Ta chẳng ngồi hoài, cũng chẳng giải đãi. Ta chẳng ăn một bữa, cũng chẳng ăn lộn xộn. Ta chẳng tri túc, mà cũng chẳng tham dục. Tâm không có chỗ mong cầu, gọi đó là Đạo”.

Khi ấy. Ngài Biến Hành nghe xong, Trí Vô Lậu liền phát, hoan hỉ ca ngợi.

Tổ lại nói với đại chúng ấy rằng : “Hiểu lời ta chăng? Ta sở dĩ làm thế, vì tâm cầu Đạo của người ấy tha thiết. Phàm là dây đàn căng thì đứt nên ta chẳng tán thưởng mà khiến giúp người trụ nơi chỗ An Lạc, vào Trí Huệ Chư Phật”.

Tổ lại nói với Ngài Biến Hành: “Ta vừa rồi ở trước chúng mà ức hiếp ông, trong lòng ông không buồn chứ?”

Ngài Biến Hành nói: “Tôi nhớ lại bảy kiếp trước, sanh ở nước Thường An Lạc, thầy là Trí Giả Nguyệt Tịnh thọ ký cho tôi chẳng bao lâu sẽ chứng quả Tư Đà Hàm. Lúc ấy có Bồ Tát Đại Quang Minh ra đời. Tôi vì đã già nên chống gậy lạy ra mắt.

“Thầy la rằng: “Trọng con khinh cha, sao lại thô lậu thế?”

“Khi ấy, tôi tự cho là không có lỗi, xin thầy dạy cho”.

“Thầy nói: “Ông làm lễ Bồ Tát Đại Quang Minh, lại để cây gậy dựa vào mặt Phật vẽ trên vách. Vì lỗi coi thường này mà mất quả thứ hai”.

“Tôi tự ăn năn là từ xưa đến nay, nghe lời dữ thì như gió như vang, huống hồ nay được uống nước cam lồ vô thượng mà lại sanh buồn phiền ư? Xin Ngài rủ lòng đại từ, chỉ dạy Diệu Đạo cho”.

Tổ nói: “Ông trồng các Đức đã lâu, sẽ kế vị Tông ta”.

Bèn phó chúc bài pháp kệ:

“Dưới lời hợp Vô Sanh

Đồng với pháp giới tánh

Nếu tỏ hiểu như thế

Thông suốt hết Sự, Lý”.

Đây là Tổ Thứ Hai Mươi Mốt.

Ôi, chẳng tu Phạm Hạnh mà mong được Vô Thượng Bồ Đề, thì xưa giờ chưa hề nghe vậy.

Thiện Tâm
09-24-2015, 03:21 PM
XVII. VIÊN THÔNG VỀ Ý THỨC


Kinh:

Ông Đại Mục Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Ban đầu tôi giữa đường khất thực thì gặp ba anh em họ Ca Diếp Ba là các Ông Ưu Lâu Tần Loa, Già Gia và Na Đề, tuyên nói thâm nghĩa Nhân Duyên của Như Lai, tôi liền phát tâm, được rất thông suốt. Như Lai ban cho tôi áo cà sa đắp thân, râu tóc tự rụng. Tôi ngao du mười phương, được không chướng ngại, Thần Thông hiển phát, được chúng cho là hơn cả, thành A La Hán. Không chỉ Thế Tôn, mà mười phương Như Lai đều khen sức Thần Thông của tôi là tròn sáng trong sạch, Tự Tại Vô Úy.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi do xoay về Bản Tánh Trong Lặng, ánh sáng của Tâm mở phát, như lắng nước đục lâu thành trong sáng, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Con người không thể tròn sáng, trong sạch là do ý thức trôi lạc theo trần, do đó tâm bị cái hình sử dụng, chẳng phải là cái thần sử dụng. Nếu thức không trôi lăn mà quay về Bản Tánh Diệu Trạm, thì như lắng nước đục, lâu ngày trong sáng, ánh sáng của Tâm mở phát, thần thông tự tại, cái ý thức được không-ngăn ngại. Trong Lục Thông, chỉ có Lậu Tận Thông là nội chứng, còn năm cái kia đều thuộc về sự dùng bên ngoài. Kinh Viên Giác nói: “Như Huyễn Tam Muội, như mầm dần tăng trưởng”. Thế nên tích tập lâu ngày, mới thật trong sáng.

Nhà sư Bảo Chí, ban đầu chỉ tập định, định lâu ngày bỗng nhiên được thần thông.

Thiền sư Đặng Ẩn Phong, mùa Đông ở núi Hành Nhạc, mùa Hạ ở núi Thanh Lương. Trong năm Nguyên Hòa, Ngô Nguyên Tế khởi binh, chống lại triều đình. Quân triều đình cùng giặc giao tranh không phân thắng bại. Thiền sư nói: “Ta phải đi giải bỏ hoạn nạn này”. Bèn ném cây gậy lên không, bay thân qua đến. Tướng sĩ hai bên ngước lên xem, sự việc hợp với giấc mộng báo trước, tâm tranh đấu mất ngay.

Sư đã hiện thần thông lạ lùng, e làm mê lầm đại chúng, bèn vào núi Ngũ Đài, trước động Kim Cương, trước khi thị tịch, dạy chúng rằng: “Người ở các nơi khi thị tịch, ngồi mà chết, nằm mà chết, ta đều thấy cả, còn có ai đứng mà chết chưa?”

Đại chúng đáp: “Dạ, có”.

Ngài nói: “Còn có ai đứng ngược đầu chưa?”

Đại chúng nói: “Dạ, chưa từng thấy”.

Thiền sư Phong bèn đứng ngược đầu mà hóa, áo quần vẫn xuôi theo thân mình. Khi chúng khiêng đi làm lễ hỏa táng, vẫn sừng sững chẳng động. Người xem xa gần thấy vậy, lạ lùng khen ngợi không dứt.

Ngài có một người em gái làm ni cô, khi ấy cũng ở đấy, bèn tát tai mà la rằng: “Lão huynh khi sống thì chẳng theo pháp luật, lúc chết lại hoa mắt lừa người!”

Rồi lấy tay xô ngã ầm xuống.

Cho nên thần thông là quả vị, mà người sáng mắt cũng chẳng màng.

Tổ Ngưỡng Sơn lên tòa giảng, có nhà sư Ấn từ trên không bay đến. Tổ Ngưỡng Sơn nói : “Mới vừa rời chỗ nào?”

Đáp : “Ấn Độ”.

Tổ nói : “Rời đó khi nào?”

Đáp : “Hồi sáng nay”.

Tổ nói : “Sao chậm quá vậy!”

Đáp : “Còn vui chơi non nước”.

Tổ nói : “Du hý thần thông thì chẳng phải không có. Nhưng đối với Phật Pháp, Xà Lê phải cần lão tăng mới được”.

Đáp rằng: “Định qua Đông Độ làm lễ Đức Văn Thù, lại gặp Tiểu Thích Ca”.

Rồi lấy ra kinh điển Phạn bằng lá bối đưa cho Tổ Ngưỡng Sơn, rồi nương không trung mà đi.

Tổ Ngưỡng Sơn dạy chúng rằng: “Ta nay hướng về các ông mà nói chuyện phía Thánh. Hãy chớ đem tâm mà níu, đậu. Chỉ hướng vào cái Biển Tánh chính mình, như Phật mà tu. Chẳng cần đến Tam Minh và Lục Thông. Vì sao thế? Vì đó là chuyện ngọn ngành rốt chót của Thánh. Như nay chỉ cốt rõ Tâm, đạt gốc, hễ đạt gốc thì lo gì cái ngọn, mai kia sẽ tự đầy đủ hết trong ấy. Nếu chưa đạt cái gốc, dầu cho đem vọng tình mà học cái việc ấy cũng không được. Các ông há chẳng thấy Hòa Thượng Quy Sơn nói: Tình phàm Thánh hết, thể lộ Chân Thường, Sự Lý không hai, tức Như Như Phật”.

Đây là con đường Chánh Pháp tròn sáng, trong sạch vậy. Từ Ngài Xá Lợi Phất đến đây, nói rằng: “Cái Thấy của Tâm, cái nghe của Tâm, ánh sáng của Tâm, đó là chẳng do căn, chẳng do cảnh, thoát hết căn trần, rốt ráo không tập khí mê lầm. Đây là do sáu Thức mà chứng Viên Thông vậy.

Thiện Tâm
09-24-2015, 03:23 PM
XVIII. VIÊN THÔNG VỀ HỎA ĐẠI


Kinh:

Ông Ô Sô Sắt Ma ở trước Đức Phật, chấp tay đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi thường nhớ, trước kia trong kiếp xa xôi, tánh khí nhiều tham dục. Có Phật ra đời, hiệu là Không Vương dạy rằng: “Người đa dâm thành đống lửa hồng”. Ngài dạy tôi quán khắp các khí nóng, lạnh nơi trăm vóc tứ chi. Tôi quán như thế mà thần quang lặng đứng ở trong, hóa cái tâm thức đa dâm thành lửa Trí Huệ. Từ ấy, các Đức Phật đều gọi tôi tên là Hỏa Đầu. Tôi dùng sức Hỏa Quang Tam Muội mà thành A La Hán. Tâm phát đại nguyện khi các Đức Phật thành đạo, tôi làm lực sĩ ở bên Phật mà dẹp phục tà ma quấy phá.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi quán sát các hơi ấm nơi thân tâm, lưu thông không ngại, các lậu đã tiêu, sanh ra ngọn lửa Đại Trí quý báu, chứng Vô Thượng Giác, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng :

Trong đoạn trước, về bảy Đại, nói Tánh lửa là Chân Không, Tánh Không là Chân Lửa, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp Pháp Giới. Vì Hỏa Quang Tam Muội vốn sẵn đủ cái lực không thể nghĩ bàn, nên Ông Hỏa Đà Kim Cang mới dùng cái Thần Quang lắng đọng, hóa cái tâm đa dâm thành ra ngọn lửa Trí Huệ. Chánh ở nơi chỗ bắt đầu động của Chân Hỏa mà phản bổn hoàn nguyên, quay về thanh tịnh, thành ra Trí Huệ. Người đa dâm thì hơi nóng bức bách phát ra, sống thì làm lửa dục, chết thì làm lửa nghiệp. Nghiệp lực lừng mạnh, thành đống lửa lớn.

Bồ Tát Di Lặc nói : “Trai gái qua lại với nhau, đôi bên giao hợp, cái bất tịnh chảy ra. Chư Thiên cõi Dục Giới, tuy hành dâm dục, không có cái bất tịnh này, nhưng ở căn môn có hơi gió xuất ra, thì hơi nóng bức bèn hết. Các Trời ở cõi Tứ Thiên Vương, khi giao hợp thì cái nóng bức bèn hết. Như cõi Tứ thiên Vương, cõi Trời Thứ Ba Mươi Ba là Đao Lợi Thiên cũng thế. Cõi Trời Phần Thiên thì ôm lấy nhau, cái nóng bức liền hết. Cõi Trời Tri Túc, chỉ cần nắm tay nhau, cái nóng bức liền hết. Cõi Trời Hóa Lạc thì nhìn nhau mà cười thì cái nóng bức liền hết”.

Đó há chẳng phải là lòng dục càng giảm thì cái chốn ở càng cao ư?

Cô Ma Đăng Già lòng Dâm tiêu tan hết, liền chứng Quả Thứ Ba. Ông Hỏa Đầu Kim Cang các Lậu đã tiêu, chứng Vô Thượng Giác, thì có gì lạ đâu?

Ngài Quy Sơn đang đứng hầu Tổ Bách Trượng.

Tổ Trượng hỏi: “Ai đó?”

Ngài Quy Sơn nói: “Dạ, tôi”.

Tổ Trượng nói: “Ông bới trong lò xem có lửa không?”

Ngài Quy bới, rồi nói: “Không có lửa”.

Tổ Trượng đứng lên, tự mình bới sâu xuống được chút lửa, đưa ra cho xem và nói: “Ông nói là không, thế cái gì đây?”

Quy Sơn do đó phát ngộ, làm lễ tạ ơn và trình chỗ hiểu.

Tổ nói: “Đây mới là đường rẽ tạm thời thôi. Kinh nói rằng: “Muốn rõ nghĩa Phật Tánh phải xem thời tiết nhân duyên”. Thời tiết đã đến thì như mê bỗng ngộ, như quên bỗng nhớ, mới biết cái vật ấy của ta chẳng do người mà được. Bởi thế Tổ Sư nói: “Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp”. Chỉ cái Tâm không phàm Thánh hư vọng là cái Tâm Pháp Bổn Lai, vốn tự sẵn đủ. Ông nay đã thế, hãy khéo hộ trì”.

Ngày hôm sau, Ngài cùng Tổ Bách Trượng vào núi làm việc.

Tổ Trượng nói: “Đem được lửa đến không?”

Ngài Quy Sơn nói: “Đem đến được”.

Tổ nói: “Ở đâu, nào?”

Ngài Quy Sơn bèn cầm lên một cành củi, thổi hai cái, đưa cho Tổ Trượng.

Tổ nói : “Như con trùng địch với cái cây”.

Ngài Diệu Hỉ nói: “Nếu Tổ Bách Trượng không có lời nói sau, thì sẽ bị thầy Điển Tòa khinh lắm”.

Đây cũng là do Hỏa Đại mà lên Vô Thượng Giác vậy. Há phải quán sát cái khí nóng lạnh trong thân mới chứng Viên Thông ư?

Thiện Tâm
09-25-2015, 08:49 AM
XIX. VIÊN THÔNG VỀ ĐỊA ĐẠI

Kinh:

Ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi nhớ xưa kia, khi Đức Phật Phổ Quang xuất hiện giữa đời, tôi làm Tỳ Kheo, thường ở nơi các nẻo đường bến đò, chỗ đất hiểm trở eo hẹp không đúng quy tắc, có thể làm hư hại ngựa xe, tôi đều đắp bằng. Hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát, siêng năng khó nhọc như thế trải qua vô lượng Phật xuất hiện ra đời. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ búa, cần người mang đồ vật thì tôi tình nguyện mang hộ đến nơi, để đồ xuống là đi ngay, không lấy tiền thuê.

“Khi Đức Phật Tỳ Xá Phù ra đời, thế gian phần nhiều đói kém, tôi cõng giúp người không kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền. Hoặc có xe bò bị lún sình lầy, tôi dùng thần lực đẩy giúp bánh xe, gỡ khỏi khổ não. Vị vua trong nước thời ấy thiết trai thỉnh Phật, lúc ấy tôi sửa sang đường đất bằng phẳng chờ Phật đi qua. Đức Phật Tỳ Xá xoa đảnh đầu tôi mà nói : “Hãy bình đẳng nơi Tâm Địa, tức đất đai thế giới, tất cả đều bình”. Tâm tôi liền khai ngộ, thấy vi trần nơi thân thể cùng với vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng không sai biệt. Tự tánh của vi trần không xát chạm nhau, cho đến các thứ đao binh cũng không chỗ nào đụng chạm. Tôi ở trong Pháp Tánh ngộ Vô Sanh Nhẫn, thành A La Hán. Hồi tâm về, nay vào trong địa vị Bồ Tát, nghe các Đức Như Lai bày chỗ Tri Kiến Diệu Liên Hoa của Phật, thì tôi chứng minh trước tiên mà làm vị Thượng Thủ.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi do chánh quán hai thứ Trần nơi căn thân và nơi thế giới đều bình đẳng không sai biệt, vốn là Như Lai Tạng mà hư vọng phát ra trần tướng. Trần tướng tiêu tan, Trí Huệ liền tròn sáng, thành Đạo Vô Thượng, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng :

Các pháp bình đẳng, nào có cao thấp. Tâm Địa nếu bình đẳng, phân biệt chẳng sanh thì chẳng thấy mọi tướng đây kia, cao thấp, tức tất cả đều bình. Bồ Tát Trì Địa do đây mà ngộ nhập Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Tánh Sắc Chân Không, Tánh Không Chân Sắc, tự tánh của vi trần không xát chạm nhau, vốn tự bình đẳng, vốn tự Vô Sanh vậy. Vi trần này đây bên trong là Thân Trần, do vi trần tích tập; ngoài là Giới Trần, cũng do vi trần tích tụ. Vi trần ấy nguyên là không tự tánh, chỉ có trong hư vọng. Hiện là chốn hư vọng, tức ngay chỗ Vô Sanh, đó là Diệu Chân Như Tánh.

Cái Sắc Thân này của ta, chính là Diệu Chân Như Tánh. Tức cái Cõi Sắc này cũng là Diệu Chân Như Tánh. Tánh vốn không hai, Sắc Trần nào có sai biệt. Đã không sai biệt, thì cho đến đao binh cũng không có chỗ nào để đụng chạm. Ngộ Pháp Tánh ấy thì xúc chạm vốn chẳng sanh ra, xúc tức là không xúc, đó là Vô Sanh Nhẫn, vào Tri Kiến Phật. Nhập Tri Kiến Phật thì gọi là Trí, tức là Sắc Trần vốn chẳng phải Sắc Trần, thế nên Trần tự tiêu tan. Đó là chẳng lìa Sắc Trần mà thấu đạt Trí Huệ, thì Trí Huệ tròn đầy. Trí Huệ tròn khắp mới tự chứng sáng suốt được cái pháp Liên Hoa mầu nhiệm mà thành Vô Thượng Giác.

Tổ Quy Sơn một hôm chỉ đám ruộng hỏi Ngài Ngưỡng Sơn: “Mẫu ruộng kia, phải đầu kia cao đầu này thấp?”

Ngài Ngưỡng Sơn nói: “Lại là đầu kia cao, đầu này thấp!”

Tổ nói: “Ông không tin, đứng ở giữa mà nhìn hai đầu xem”.

Ngài Ngưỡng Sơn nói: “Chẳng cần phải đứng giữa, mà cũng không trụ hai đầu”.

Tổ Quy Sơn nói: “Nếu thế thì đổ nước vào xem, nước hay làm bằng phẳng vật”.

Ngài Ngưỡng nói: “Nước cũng vô định, xứ cao bằng cao, xứ thấp bằng thấp!”

Tổ Quy Sơn bèn thôi.

Như hai cha con Quy, Ngưỡng hai bên chẳng lập, mà Trung Đạo cũng chẳng thèm ở, thế có thể nói là khéo bình Tâm Địa, nên tất cả đều bình.

Có Hòa Thượng Đả Địa [Đánh Đất], lãnh được ý chỉ của Giang Tây Mã Tổ, thường che giấu chỗ sáng suốt. Phàm có người tu học đến hỏi, thì chỉ lấy cây gậy đánh xuống đất mà chỉ bày. Thời ấy gọi Ngài là Đả Địa Hòa Thượng. Hôm nọ, bị nhà sư kia dấu mất cây gậy, rồi mới hỏi. Ngài chỉ hả miệng ra mà thôi.

Nhà sư hỏi học trò của Ngài: “Hòa Thượng thường ngày có người hỏi liền đánh xuống đất, ý chỉ thế nào?”

Người học trò liền lấy một miếng củi trong bếp bỏ vào nồi.

Chẳng thấu suốt hết “Trần tiêu Trí tròn đầy”, đắc Vô Sanh Nhẫn thì chẳng có thể hiểu được ý chỉ này.

Thiện Tâm
09-25-2015, 08:53 AM
XX. VIÊN THÔNG VỀ THỦY ĐẠI

Kinh:

Ngài Nguyệt Quang Đồng Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Thủy Thiên, dạy hàng Bồ Tát tu tập pháp quán về nước, để vào Tam Ma Địa. Quán ở trong thân, tánh nước không gì ngăn ngại: ban đầu từ nước mắt, nước mũi, cho đến tất cả các thứ tân, dịch, tinh, huyết, đại tiểu tiện, xoay vần trong thân, đồng một Tánh Nước. Thấy nước trong thân cùng nước các hương thủy của các cõi Phật ở ngoài thế giới đều bình đẳng không sai biệt.

“Khi ấy, tôi mới thành tựu Pháp Quán này, chỉ mới thấy nước, chưa được không thân. Lúc đó, đang làm Tỳ Kheo, ngồi thiền trong phòng, tôi có người học trò lén nhòm cửa sổ thấy trong phòng chỉ toàn nước trong, đầy khắp cả phòng ngoài ra không thấy gì khác. Nhỏ dại không biết, lấy một miếng ngói ném vào trong nước, chạm vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi.

“Sau, tôi xuất định liền cảm thấy đau tim, cũng như Ông Xá Lợi Phất bị quỷ Vi Hại đập. Tôi tự suy nghĩ : Nay đã đắc quả A La Hán, duyên bệnh đã lìa từ lâu, vì sao hôm nay bỗng sanh đau tim, chẳng lẽ lại bị lui sụt?

“Khi ấy, đồng tử vừa đến, nói cho tôi nghe sự việc trước. Tôi mới bảo rằng : “Khi ngươi lại thấy nước, hãy mở cửa vào trong nước, lấy miếng ngói ấy ra”. Đồng tử vâng lời.

“Tôi lại nhập Định, đồng tử lại thấy nước với miếng ngói rõ ràng, bèn mở cửa lấy ra.

“Sau khi xuất định, thân thể tôi lại như cũ.

“Tôi đã gặp vô lượng Phật, như thế cho đến Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai mới được mất sạch thân, cùng với các biển hương thủy của mười phương thế giới đồng một tánh Chân Không, không hai, không khác. Nay ở nơi Đức Như Lai, được tên là Đồng Chân, dự hội Bồ Tát.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi do quán thấy Tánh Nuớc, một vị suốt thông, đắc Vô Sanh Nhẫn, tròn đủ Bồ Đề, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng :

Mặt trăng là Thủy Tinh vậy. Tánh nước tròn sáng, nên hiệu là Nguyệt Quang. Mới đầu hết, tu tập quán về nước, quán sát tánh nước không gì ngăn ngại. Tinh huyết bên trong, biển các cõi nước bên ngoài, hình tướng của nước tuy khác, nhưng Tánh Nước không ngăn ngại. Vì chẳng ngăn ngại nhau, nên mới tựu thành pháp quán này thì chỉ thấy nước, đây là cái Định Mười Biến Xứ vậy. Nhập định thì có, xuất định thì không. Mười Biến Xứ là : Xanh, Vàng, Đỏ, Trắng, Đất, Nước, Lửa, Gió, Không, Thức. Như quán tưởng màu xanh thì tất cả chỗ đều xanh. Cái quả của định này tùy tâm biến hiện. Định Hỏa Quang cũng vậy, tuy được Định này, nhưng Căn Bản Vô Minh vẫn còn, nên chưa hết nhân duyên của bệnh, chưa mất được thân, vẫn còn Ngã Kiến, tức đó là Căn Bản Vô Minh.

Chỉ thấy là nước, hết thảy đều là nước, nên miếng ngói ném vào cũng hóa thành nước. Ngài Xá Lợi Phất nhập định ở bờ sông Hằng, bị quỷ Vi Hại đánh, khi xuất định thấy đầu đau. Phật dạy : “Ông mà không có Định Lực thì thân thể tan nát rồi”. Vi Hại là tên của Vua quỷ Dạ Xoa, có oán thù đời trước với Ông Xá Lợi Phất.

“Phù Tràng Vương Sát”, thì theo kinh Hoa Nghiêm, trong biển Hoa Tạng có một hoa sen lớn, trong hoa sen ấy có các biển Hương Thủy. Mỗi một biển Hương Thủy là chủng tử của thế giới cõi Phật. Thế giới Hoa Tạng ở trong biển Hương Thủy nên gọi là Phù Tràng Vương Sát. Mười hai lớp Hoa Tạng xếp cao như cây phướn (tràng). Cao hơn hết nên gọi là Vua (Vương).

Ngài Nguyệt Quang mới chứng Pháp Thân, mới được mất đi cái thân biến dịch, cùng với các biển Hương Thủy đồng Tánh Chân Không. Trong Như Lai Tạng, Tánh Thủy là Chân Không, Tánh Không là Chân Thủy, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp giới, một vị suốt thông, cùng mất luôn cái tướng chẳng ngăn ngại nhau. Đây là y theo Thủy Đại mà chứng Viên Thông, gặp vô lượng Phật, mới thành tựu được. Há dễ nói sao?

Ngài Động Sơn từ giã Tổ Vân Nham.

Khi sắp đi, Ngài hỏi: “Trăm năm sau, bỗng có người hỏi: “Có được chút ít cái Chân Thật của thầy không?” Thì trả lời thế nào?”

Tổ Nham im lặng hồi lâu, nói : “Chỉ thế đó”.

Ngài Động Sơn trầm ngâm.

Tổ nói: “Này Xà Lê Giới, nhận lãnh việc ấy, rất cần thẩm xét tinh tế”.

Ngài còn nghi ngờ.

Sau này nhân đi qua giòng nước thấy bóng mình mà đại ngộ, có bài kệ rằng:

“Rất kỵ nơi khác tìm

Càng xa mình lắm lắm

Ta nay tự mình qua

Chốn chốn đều gặp Nó

Nó nay chính là ta

Ta nay chẳng là Nó

Cần phải hiểu như thế

Mới khế hợp Như Như”.

Ngài Động Sơn đến đây mới được mất thân, tánh đồng Chân Không, không hai, không khác.

Hòa Thượng Thuyền Tử khi sắp từ giã bạn đồng học là Ngài Đạo Ngô, nói với Ngài Đạo Ngô rằng: “Sau này có vị Tòa Chủ giảng kinh lanh lợi thì chỉ đến, nhé!”

Ngài Đạo Ngô đến Kinh Khẩu, gặp lúc Ngài Giáp Sơn thượng đường có vị tăng hỏi: “Như sao là Pháp Thân?”

Ngài Giáp Sơn nói: “Pháp Thân không có tướng”.

Hỏi: “Như sao là Pháp Nhãn?”

Ngài Sơn đáp: “Pháp Nhãn không có vết”.

Đạo Ngô bất giác bật cười.

Ngài Giáp Sơn bèn xuống tòa hỏi Đạo Ngô: “Vừa rồi đáp lại vị tăng, chắc có chỗ không đúng, khiến Thượng Tọa bật cười, mong Thượng Tọa chẳng tiếc từ bi dạy cho”.

Đạo Ngô nói: “Hòa Thượng bậc nhất ra đời mà chưa có thầy, hãy đến Hoa Đình tham học Thuyền Tử Hòa Thượng đi”.

Hỏi rằng: “Hỏi thăm có được chăng?”

Đạo Ngộ nói: “Người ấy trên thì không miếng ngói che đầu, dưới thì không chút đất để cắm dùi!”

Giáp Sơn bèn thay y phục đến thẳng Hoa Đình.

Ngài Thuyền Tử vừa thấy, bèn hỏi: “Đại Đức trụ chùa nào?”

Đáp : “Chùa tức chẳng trụ, trụ tức chẳng giống”.

Hỏi : “Chẳng giống thì chẳng giống cái gì?”

Đáp : “Chẳng phải là pháp trước mắt”.

Hỏi : “Vậy học được cái gì?”

Đáp : “Chẳng phải chỗ đến của tai mắt”.

Nói rằng: “Một câu hợp đầu ngữ, muôn kiếp đóng cọc lừa. Khám phá xong rồi vậy!”

Ngài Thuyền Tử lại nói: “Thả nhợ xuống ngàn thước, ý chỉ tại đầm sâu, ngoài lưỡi câu ba tấc, sao ông không nói?”

Giáp Sơn định mở miệng, Ngài liền dùng cây sào đánh rớt xuống nước. Vừa leo lên thuyền, lại hét: “Nói, nói!” Giáp Sơn định mở miệng, lại đánh. Giáp Sơn bỗng nhiên đại ngộ, bèn gật đầu ba cái.

Ngài Thuyền Tử nói: “Sợi nhợ đầu cần theo ông giỡn, chẳng phạm sóng trong ý tự riêng. Chút ít đó là nối thầy vậy”.

Giáp Sơn bèn hỏi: “Quăng nhợ, thả câu, ý thầy thế nào?”

Đáp : “Nhợ thả nước trong, nào định ý hữu vô”.

Giáp Sơn nói: “Lời mang huyền diệu mà không lộ [Đường], đầu lưỡi luận đàm mà chẳng đàm”.

Ngài Thuyền Tử nói: “Câu hết sóng trên sông, cá vảy vàng mới gặp”.

Giáp Sơn bèn bịt tai.

Ngài Thuyền Tử nói: “Như thế, như thế. Quả nhiên gã Tòa Chủ lanh lợi!”

Bèn phó chúc rằng: “Ông về sau, chỗ ẩn thân cần không dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn thân. Ta hai mươi năm ở Dược Sơn chỉ rõ biết việc này. Ông nay đã được, về sau chẳng được nương dừng phố xá, xóm làng; chỉ hướng về núi sâu, bên cái bừa lớn, tìm lấy một người, nửa người, tiếp tục chớ để dứt mất”.

Ngài Giáp Sơn từ giã ra đi, cứ luôn ngó trở lại.

Ngài Thuyền tử bèn gọi: “Xà Lê, Xà Le !”

Giáp Sơn quay đầu.

Thuyền Tử dựng mái chèo lên, nói: “Ông sắp nói là có từ biệt”.

Rồi lật thuyền xuống nuớc mà lìa đời.

Sau này, ở Hoa Đình, có am chủ Tánh Không gởi thơ cho thiền sư Tuyết Đậu Trìø, viết: “Tôi sắp thủy táng đó”.

Sau đó, Ngài Tuyết Đậu Trì đến nơi, thấy vị này vẫn hãy còn, bèn làm bài kệ bỡn rằng: “Thương thay lão Tánh Không. Quyết muốn nuôi cá trạnh. Đi chẳng dẫn Tánh đi. Chỉ lo nói với người”.

Ngài Tánh Không cười, rằng: “Đợi Huynh đến chứng minh đó!”

Rồi báo với đại chúng.

Đại chúng họp lại, Ngài dạy pháp yếu rồi đọc bài kệ:

“Ngồi chết, đứng mất

Chẳng bằng thủy táng!

Một, đỡ củi lửa

Hai, đỡ đào mồ

Buông tay là đi

Ngại gì, khoái sướng

Ai bạn tri âm?

Hòa Thượng Thuyền Tử!

Ai kế nghiệp quý trăm ngàn năm?

Một khúc ngư ca ít người xướng”.

Bèn ngồi trong một cái ảng, xuôi dòng trôi xuống. Chúng đều chạy theo cho đến cửa biển nhìn theo muốn mút mắt. Sư lấy cái gàu tát nước mà trở lại, chúng che mắt xem, nước không vào chút nào. Rồi Ngài lại theo dòng mà đi, xướng lên rằng:

“Năm nay Thuyền Tử về cố hương

Chốn không tung tích, diệu không lường

Chân phong riêng gởi tri âm đó

Tiêu sắt thổi ngang, chốn hợp tan”.

Tiếng tiêu vang vọng giữa khoảng trời xanh mênh mông trong chốc lát, rồi thấy Ngài quăng ống tiêu lên không mà mất.

Đây quả là một vị lưu thông [Nhất vị lưu thông], đắc Vô Sanh Nhẫn vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn: “Phật Pháp như bóng trăng trong nước, có thật chăng?”

Tổ Môn nói: “Sóng xanh không đường thấu đến”.

Hỏi: “Hòa Thượng từ đâu mà vào được?”

Tổ Môn nói: “Lời hỏi ấy từ đâu đến?”

Hỏi : “Chính ngay lúc ấy thì như thế nào?”

Tổ Môn nói : “Trùng điệp lối quan sơn”.

Cần phải đến gặp Thuyền Tử mới được!

Thiện Tâm
09-25-2015, 09:02 AM
XXI. VIÊN THÔNG VỀ PHONG ĐẠI

Kinh:

Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh, khai thị Tánh Bổn Giác Diệu Minh cho hàng Bồ Tát, và dạy quán thế giới và thân chúng sanh này đều là do sức gió của vọng duyên chuyển biến ra. Tôi lúc bấy giờ quán sự an lập của không gian, quán sự trôi chuyển của thời gian, quán cái ngừng, cái động của thân, quán cái động niệm của tâm thức, các cái động đều không hai, bình đẳng không sai biệt. Khi ấy, tôi giác ngộ rằng cái Tánh của các động này đến không từ đâu, đi không đến đâu. Tất cả chúng sanh điên đảo trong mười phương nhiều như vi trần đồng một hư vọng. Như vậy cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại thiên thế giới, như hàng trăm con muỗi mòng nhốt trong một đồ vật vo ve kêu loạn ở trong gang tấc, rối rít ồn ào.

“Tôi gặp Phật chưa bao lâu thì được Vô Sanh Nhẫn. Khi ấy, tâm khai mở, mới thấy cõi Phật Bất Động ở phương Đông; làm vị Pháp Vương Tử thừa sự mười phương Phật, thân tâm phát ánh sáng, rỗng suốt không ngại.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi do quán sát sức lay động như gió vốn không chỗ nương, ngộ Bồ Đề Tâm, vào Tam Ma Địa, hợp cùng một Diệu Tâm của mười phương Chư Phật, được nối tiếp nhau truyền dạy, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Phương Đông có Lưu Ly Quang Như Lai, Hạnh Nguyện cũng như Phật Di Đà không khác. Vị Pháp Vương Tử cũng như Đức Quan Âm, Thế Chí vậy.

Sao là quán sát sức lay động như gió không chỗ nương mà vào Tam Ma Địa?”

Tánh gió là động, do động mà có tiếng nên Phật Vô Lượng Thanh chỉ dạy hàng Bồ Tát quán các chúng sanh của thế giới này cũng như hàng trăm con muỗi mòng nhốt trong một đồ vật, vo ve kêu loạn, đều là gió Vọng Duyên chuyển biến ra. Cái động của gió thì rất vi tế, mà sức của gió thì rất lớn, đầy khắp pháp giới. Cái động và dừng của thân, cái động niệm của tâm thì gần mà có thể thấy. Còn cái chuyển đổi của không gian, cái trôi chảy của thời gian thì xa xôi nên khó thấy. Dầu khó thấy hay dễ thấy, đều là cái Động này. Tánh của cái Động này đến không từ đâu, đi không đến đâu, toàn khắp thế gian, không có nơi chốn. Vì không nơi chốn, nên vốn không sanh diệt. Vì không sanh diệt, vốn tự chẳng động. Ở chỗ ấy mà quán sát, đắc Vô Sanh Nhẫn, tức là ngộ Bồ Đề, vào Tam Ma Địa vậy. Đây là trong cái Động có Tánh Chẳng Động, chẳng phải là lìa ngoài cái Động mà có riêng cái gọi là Chẳng Động.

Phương Đông thuộc Chấn. Chấn là Động. Phương Đông có cõi Phật Bất Động, tức là động mà tĩnh, đây là ý chỉ của Bổn Giác Diệu Minh vậy. Tánh Giác Diệu Minh vốn tự chẳng động. Bổn Giác Minh Diệu là động mà chẳng động. Nói tóm lại, tất cả chỉ là một Tánh Diệu Chân Như. Mười phương Chư Phật cùng một Diệu Tâm này. Nếu lìa động để cầu tĩnh, tức là chẳng phải Diệu vậy. Cái Bổn Giác cứng bền như kim cương trong sáng, Phong và Kim xát nhau, nên ánh sáng như lưu ly, rỗng suốt không ngại. Truyền một Diệu Tâm, thì không những tự chứng Viên Thông mà còn khiến chúng sanh trong thế giới, hễ có Tánh Động này đều chứng suốt một Viên Thông vậy.

Sa di Cao ban đầu ra mắt Tổ Dược Sơn.

Tổ Dược Sơn hỏi: “Ở đâu đến?

Đáp: “Nam Nhạc đến”.

Tổ hỏi: “Đi đến đâu?”

Đáp: “Đến Giang Lăng thọ giới”.

Tổ hỏi: “Thọ giới để làm gì?”

Đáp: “Để khỏi sanh tử”.

Tổ nói: “Có một người chẳng thọ giới, cũng chẳng có sanh tử để khỏi, ông có biết chăng?”

Sa di Cao ngay dưới lời nói, đại ngộ mà nói: “Như thế thì Giới của Phật nào có dùng!”

Tổ Sơn nói: “Sa Di này còn quảy môi răng đấy”.

Thầy Cao lễ bái rồi lui ra.

Ngài Đạo Ngô đến đứng hầu, Tổ Dược Sơn nói: “Vừa rồi có anh Sa Di què giò, có được chút ít hơi hám”.

Đạo Ngô nói : “Chưa thể tin hoàn toàn, cần khám nghiệm mới được”.

Đến tối, Tổ Dược Sơn thượng đường gọi rằng: “Sa Di mới đến hồi sáng đâu rồi?”

Thầy Cao bước ra khỏi chúng, đứng.

Tổ Dược Sơn hỏi: “Ta nghe Trường An rất náo nhiệt, ông có biết chăng?”

Thầy Cao nói: “Nước con hằng yên ổn”.

Tổ hân hoan hỏi: “Chú do xem kinh mà được hay do hỏi Pháp mà được?”

Thầy Cao nói: “Chẳng do xem kinh được hay do hỏi Pháp được”.

Tổ Sơn nói: “Vậy có người chẳng xem kinh, chẳng hỏi Pháp, vì sao chẳng được?”

Thầy Cao nói: “Không nói chẳng được, chính vì kẻ kia chẳng chịu nhận lãnh”.

Tổ Sơn quay lại nhìn Đạo Ngô.

Ngài Vân Nham thì nói: “Chẳng tin Đạo!”

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

“Hưng vong mây đến với mây đi

Y không quốc độ, bặt trần ai

Đỉnh Tu Di ấy, cây không rễ

Chẳng đợi gió xuân, hoa tự khai”.

Như chỗ thấy của Sa Di, thật là thấy cõi Phật Bất Động ở phương Đông, chẳng bị sức gió vọng duyên chuyển đổi vậy.

Ngài Ma Cốc chống tích trượng đến Ngài Chương Kính, đi quanh thiền sàng ba vòng, dộng tích trượng một cái, ngang nhiên mà đứng.

Tổ Kính nói: “Phải, phải”.

Ngài lại đến Nam Tuyền, đi quanh thiền sàng ba vòng, dộng tích trượng một cái, ngang nhiên mà đứng.

Tổ Tuyền nói: “Chẳng phải, chẳng phải”.

Ngài Ma Cốc nói: “Ngài Chương Kính nói “Phải”, Hòa Thượng vì sao nói “Chẳng Phải”?”

Tổ Tuyền nói: “Chương Kính thì phải, chính ông chẳng phải”.

Đây là sức gió chuyển, rốt cuộc hư hoại.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Chính ông chẳng phải

Kìa xem cuốn, mở

Tợ trải, tợ co

Khó anh, khó em

Thả ra : kia đã đến thời

Nắm lại : ta nào lạ chỗ

Trượng vàng một dộng, thái cô nêu[Thái : lớn; cô : độc trọi]

Thiền sàng ba vòng, nhàn du hý

Tùng lâm rối rắm, thị phi sanh

Tưởng tượng, trước sọ khô thấy quỷ”.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Đây lầm, kia lầm!

Rất kỵ nắm bỏ

Bốn biển sóng bằng

Trăm sông đổ lại

Ý cổ cao xa mười hai cửa

Cửa cửa đường hoang, luống tiêu điều

Chẳng tiêu điều

Thiền giả khéo cầu “Không-bệnh thuốc”.

Nếu biết cái thuốc “Không-bệnh”, thì thị phi ở chốn tùng lâm nào có sanh ra, tự chẳng gió nào chuyển được.

Thiện Tâm
09-26-2015, 08:54 AM
XXII. VIÊN THÔNG VỀ KHÔNG ĐẠI


Kinh: Bồ Tát Hư Không Tạng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật mà thưa rằng: “Tôi cùng Đức Như Lai chứng được Thân Vô Biên nơi Phật Định Quang. Lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt bảo châu lớn soi sáng mười phương cõi Phật số như vi trần đều hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm, hiện gương tròn lớn, trong ấy phóng ra mười thứ hào quang vi diệu quý báu, tràn khắp mười phương, cùng tột bờ cõi hư không. Các cõi Phật đều vào trong gương “Đại Viên Cảnh” ấy, nhập vào thân tôi. Thân đồng hư không chẳng có gì ngăn ngại, thân lại khéo vào vi trần quốc độ rộng làm Phật sự, được Đại Tùy Thuận. Đại thần lực này là do tôi chánh quán bốn Đại không chỗ nương, vọng tưởng sanh diệt và hư không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do phát minh được tánh đồng, đắc Vô Sanh Nhẫn.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi do quan sát Hư Không vô biên, vào Tam Ma Địa, diệu lực tròn sáng, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng :

Bồ Tát Hư Không Tạng đã cùng Như Lai ở nơi Phật Định Quang, chứng đắc Ba Thân, Bốn Trí. Trong ba Thân, thì chỉ trọng Pháp Thân, nên nói “Đắc Thân Vô Biên”. Bốn Trí thì chỉ trọng Đại Viên Cảnh Trí, nên nói “Lại ở nơi Tâm, hiện gương tròn lớn”.

Pháp Thân vô biên, hư không không ranh giới, vì sao lại có thể cùng với bốn Đại chẳng hề ngăn ngại nhau ? Bởi do đế quán bốn Đại không chỗ nương, Tánh Sắc là Không, nên bốn Đại là thanh tịnh, giống như ngọc báu. Dùng sức quán chiếu, soi sáng mười phương hóa thành hư không. Tức bốn Đại là hư không, hư không là Pháp Thân, có gì ngăn ngại! Vốn là một Đại Viên Cảnh Trí, vì sao phóng ra mười thứ ánh sáng? Ấy là do tu hành mười thứ Ba La Mật, tròn đầy vi diệu vậy.

Gồm hết trong gương tự tại phát hiện, tràn khắp mười phương, cùng tột bờ mé hư không. Chỉ một cái gương thu nhiếp hết, thì gương ấy là Thân, và Thân tức là gương vậy. Ba Thân tức là bốn Trí, bốn Trí đó là ba Thân. Thân, Trí dung hợp nhau, Tâm và Cảnh đều chuyển hoá, nên nói “Các cõi Phật đều nhập vào trong gương, hòa vào thân tôi”. Ánh sáng và bóng ảnh giao nhập lẫn nhau, không thể phân biệt. Vì Thân là Trí, nên đồng hư không, chẳng ngăn ngại nhau. Vì Trí là Thân, nên khéo vào các cõi nước; rộng làm Phật sự, thuyết pháp Tam Thừa, được Đại Tùy Thuận. Thấy Vọng Tưởng Sanh Diệt tức là Hư Không, Hư Không và Vọng Tưởng Sanh Diệt không hai. Thấy cõi nước tức là Phật Tánh, Phật Tánh và cõi nước không khác. Lý chẳng ngại Sự, Sự chẳng ngại Lý. Ở trong Tánh Đồng mà phát minh được, đắc Vô Sanh Nhẫn, chứng Hư Không Vô Biên Thân, diệu lực tròn sáng, thân và cõi nước nhập vào nhau, đó là chỉ chứng “Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới”.

Nếu gương-gương chiếu nhập lẫn nhau, trùng trùng lưới báu, một tức tất cả, tất cả tức một, mới là “Sự Sự Vô ngại Pháp Giới”. Chỉ Như Lai chứng, nên Ngài Bồ Tát Hư Không Tạng còn ở trong hàng đệ tử vậy. Đó là vì còn mắc vướng trong Hư Không Vô Biên Xứ, còn Thân để đắc vậy.

Tổ Hoàng Bá nói : “Chân Pháp Thân Phật giống như Hư Không. Đây là tỷ dụ Pháp Thân tức Hư Không, Hư Không tức Pháp Thân. Người-thường nói rằng Pháp Thân cùng khắp Hư Không, trong Hư Không hàm chứa Pháp Thân mà chẳng biết rằng Pháp Thân tức Hư Không, Hư Không tức Pháp Thân đó vậy. Nếu nói nhất định có Hư Không thì Hư Không chẳng phải là Pháp Thân. Nếu nói nhất định có Pháp Thân, thì Pháp Thân chẳng phải là Hư Không. Chỉ đừng khởi ra cái hiểu biết về Hư Không, thì Hư Không tức Pháp Thân. Chỉ không khởi ra cái hiểu biết về Pháp Thân, thì Pháp Thân tức Hư Không. Hư Không và Pháp Thân không có tướng khác nhau. Sanh Tử và Niết Bàn không khác tướng. Lìa tất cả tướng, tức đó là Phật”.

Như lời nói của Tổ Hoàng Bá đây, thật là thấy rõ cái Thân Vô Biên của Hư Không Tạng Bồ Tát vậy.

Tổ Tào Sơn hỏi Thượng Tọa Đức: “Chân Pháp Thân Phật, giống như Hư Không, ứng vật hiện hình, như trăng trong nước, làm sao nói cái đạo lý ứng hiện đó?”

Thầy Đức nói: “Như lừa dòm giếng”.

Tổ Sơn: “Nói thì quá lắm, mà chỉ nói được tám tướng [Thành Đạo]!”

Thầy Đức nói: “Hòa Thượng thì thế nào?”

Tổ Sơn nói: “Như giếng dòm lừa”.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

“Lừa dòm giếng, giếng dòm lừa

Trí gồm khắp, không gì ngoài

Tràn đầy, thanh tĩnh có thừa

Sau cùi chỏ ai phân ấn

Trong nhà chẳng chứa sách, thơ

Khung cửi nào quản chuyện thoi đưa

Màu sắc dọc ngang ý tự khác!”.

Rõ chỗ này thì có thể biết “Khéo vào cõi nước”, như giếng dòm lừa. Vốn tự chẳng sanh, thì hợp với Hư Không!

Thiện Tâm
09-26-2015, 09:00 AM
XXIII. VIÊN THÔNG VỀ THỨC ĐẠI


Kinh: Đức Di Lặc Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi nhớ vi trần kiếp về trước, có Đức Phật ra đời tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh, tôi được xuất gia theo Đức Phật ấy, nhưng tâm còn trọng danh đời, thích giao du với hàng vọng tộc. Lúc ấy, Đức Thế Tôn dạy tôi tu tập định Duy Tâm Thức vào Tam Ma Địa. Trải nhiều kiếp đến nay, dùng Tam Muội ấy phụng sự hằng sa Phật, cái tâm cầu danh đời diệt hết không còn. Đến khi Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, tôi mới đắc thành “Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội”. Cho đến tận hư không các cõi nước của Như Lai dơ, sạch, có, không, đều là sự biến hóa hiện ra của tâm tôi. Thưa Thế Tôn, tôi thấu rõ Duy Tâm Thức như thế, nơi Thức Tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được thọ ký, kế tiếp làm Phật.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi do đế quán mười phương đều Duy Thức, thức tâm tròn sáng, chứng nhập Viên Thành Thật Tánh, xa lìa Y Tha Khởi Tánh và Biến Kế Chấp Tánh, đắc Vô Sanh Nhẫn, đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng :

“Tôi do đế quán mười phương Duy Thức”. Hai chữ Duy Thức ý vị thật sâu xa. Chữ Duy che mất cái cảnh đang có, chữ Thức rút về Tâm Không. Lại nữa, Thức để nói tất cả mọi sự hiện bày, Duy để nói che hết. Hiện bày tất cả ấy, là nói tất cả hữu tình đều có tám Thức, sáu vị Tâm Sở, cùng hai Kiến Phần và Tướng Phần được biến hiện ra, đều là sai biệt nhau, cùng với cái Lý Không để hiển bày Chân Như, tất cả các pháp như vậy đều chẳng rời Thức, cho nên dùng chữ Thức để hiển bày tất cả vậy. Che hết là vì hạng phàm phu chấp rằng lìa ngoài Tâm Thức thật có các pháp, nên dùng chữ Duy, để che hết cái Kiến của phàm phu vậy.

Thức Tâm tròn sáng, chứng nhập Viên Thành Thật Tánh là do ban đầu tu tập định Duy Tâm Thức, đến chỗ thành tựu Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội, đã chuyển Thức thành Trí, nên nói là nhập vào Viên Thành Thật Tánh. Khi chưa chuyển được Thức, ban đầu bị cảnh trói buộc, đó là thô hoặc [Lầm lạc to lớn], gọi là Biến Kế Chấp. Kế đó là bị pháp trói buộc, đó là tế hoặc [Lầm lạc nhỏ nhiệm], gọi là Y Tha Khởi.

“Tâm trọng danh đời, ưa giao du với hàng vọng tộc”, đó là tướng dạng của Biến Kế Chấp. “Cái Tâm cầu danh đời diệt hết không còn”, đó là tướng dạng của Y Tha Chấp vậy. Cho đến “Thấu rõ Duy tâm thức như thế, nơi Thức Tánh lưu xuất vô lượng Như Lai” là tướng dạng của Viên Thành Thật Tánh vậy.

Kinh Giải Thâm Mật nói : “Biến Kế Chấp là như người nhặm mắt; Y Tha Khởi là như hiện ra xanh, vàng; Viên Thành Thật là như mắt trong sáng”.

Luận Bảo Trượng nói, “Như người thấy vật động đậy cho là rắn, nhưng khi nhìn kỹ thấy là sợi dây, thì cái tâm nghi là rắn không phải đoạn trừ mà tự hết. Đó là lìa Biến Kế Chấp. Nhưng dây vẫn còn. Lại xem kỹ lưỡng nó mà nói “Chẳng phải dây mà là sợi gai”; liền cái tâm chấp là dây lại chẳng đoạn trừ mà tự hết. Đó là lìa Y Tha Khởi Chấp”.

Sợi gai và dây vốn là một, có bện lại gọi là dây, không bện gọi là gai, là để dụ cho Tánh và Thức vốn là Một. Có trói buộc thì gọi là Thức, không trói buộc gọi là Tánh. Đến chỗ rõ thấy Duy Thức thì ngoài Thức không có Tánh; Thức đó là Tánh. Tức Đệ Bát Thức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.

Đã lìa Y Tha Khởi cùng Biến Kế Chấp, ắt tiêu tan chủng tử sanh diệt, mà y theo cái Chân Tánh chẳng sanh, chẳng diệt, nên đắc Vô Sanh Nhẫn. Đó là tất cả cõi nước dơ sạch, có không đều là chỗ biến hiện của Tâm. Ta chẳng phân biệt, thì hiện đây là tịch diệt, ngay nơi Tướng Phần chứng Vô Sanh Nhẫn.

“Thức Tánh lưu xuất vô lượng Như Lai”, ấy là Lý tức Pháp Thân, Trí tức Báo Thân, Hạnh tức Hóa Thân. Trí tức Văn Thù, Hạnh tức Phổ Hiền, Bi tức Quán Thế Âm, đều từ Nhất Tâm lưu xuất. Ta không có sự phân biệt, thì hiện đây là tịch diệt, ngay nơi Kiến Phần chứng Vô Sanh Nhẫn.

Ngài Pháp Nhãn tụng rằng :

“Ba cõi Duy Tâm

Mắt thanh, tai sắc

Sắc chẳng đến tai

Thanh nào chạm mắt!

Mắt sắc, tai thanh

Vạn pháp thành khác

Muôn pháp chẳng duyên

Nào quán như huyễn?

Đất đai sông núi

Chi bền, chi biến?”.

Tổ Pháp Nhãn, thức tâm tròn sáng, mới nói được lời tròn vẹn này.

Tổ Bàn Sơn dạy rằng: “Ba cõi không pháp, nơi nào cầu tâm? Bốn Đại vốn không, Phật nương đâu trụ? Trăng sao chẳng động, lặng đứng không ngần. Đối mặt trình nhau, còn chuyện gì nữa!”

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

“Ba cõi không pháp

Nơi nào cầu tâm?

Mây trắng làm lọng

Nước chảy làm đàn

Một khúc, hai khúc, không người hiểu

Đêm mưa ao vắng, nước thu trong”.

Có nhà sư hỏi Tổ Thạch Sương: “Muôn cửa đều đóng thì chẳng hỏi, muôn cửa đều mở thì thấy nào?”

Tổ Sương nói: “Chuyện trong nhà thì thế nào?”

Nhà sư không đáp được. Trải qua nửa năm, mới nói được rằng: “Không người tiếp được y”.

Tổ Sương nói: “Nói thì nói cho lắm, mà chỉ nói được tám tướng”.

Nhà sư nói: “Hòa Thượng thì thế nào?”

Tổ Sương nói: “Không người biết được y!”

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

“Điện xưa cao ngất trăng phủ tùng

Sương ngưng, tuyết lộ, nói không cùng

Đối sao, nằm ngắm, nhà ngàn núi

Phật, Tổ không nhân, biết HẮN chân!”.

Bồ Tát Di Lặc tu tập định Duy Tâm Thức, vào Tam Ma Địa. Nay Tổ Bàn Sơn lại nói: “Nơi nào cầu tâm?” Tổ Thạch Sương thì nói: “Không người biết được y!” Hai chuyển ngữ này, đợi đời sau hạ sanh. Bổ Xứ thành Phật sẽ trùng trùng khai diễn.

Thiện Tâm
09-26-2015, 09:04 AM
XXIV. VIÊN THÔNG VỀ KIẾN ĐẠI


Kinh:

Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng tu liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi nhớ hằng sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời, hiệu Vô Lượng Quang. Thuở ấy, mười hai vị Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp. Đức Phật sau cùng, hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy tôi pháp Niệm Phật Tam Muội. Ví như có người, một bên thì chuyên nhớ, một bên thì chuyên quên thì hai người ấy, dầu gặp cũng như không gặp, dầu thấy cũng là không thấy. Nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu và tâm niệm, như thế từ đời này qua đời khác, như hình với bóng, chẳng hề xa cách nhau, mười phương Như Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh tuy nhớ cũng chẳng được gì. Con mà nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không hề ngăn cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện giờ hay mai sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa. Chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khai ngộ, như người ướp hương, thân có mùi thơm. Đây gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Nhân Địa Căn Bản của tôi là dùng Tâm niệm Phật, vào Vô Sanh Nhẫn. Nay tôi ở cõi này tiếp dẫn người niệm Phật về nơi Tịnh Độ.

“Phật hỏi về Viên Thông, tôi không riêng lựa chọn mà nhiếp trọn cả sáu Căn, tịnh niệm nối tiếp nhau, đắc Tam Ma Địa. Đó là Thứ Nhất”.

Thông rằng:

Quán kinh nói, “Dùng ánh sáng Trí Huệ, chiếu khắp tất cả. Nay rời ba đường, được Vô Thượng Lực, gọi là Đại Thế Chí”. Bạn đồng tu có năm mươi hai vị Bồ Tát cũng đủ để chứng nghiệm chuyện vãng sanh Tịnh Độ là dễ thành tựu. Phàm người niệm Phật không được trong khoảnh khắc như gảy móng tay mà thấy Phật, chỉ vì niệm năm Dục thế gian, đó là niệm trói buộc. Còn tịnh niệm kế tiếp nhau, như con nhớ mẹ, thì ngay hiện giờ hay về sau nhất định thấy Phật. Miệng niệm tâm nhớ, tai mắt chuyên nhất, mỗi mỗi oai nghi, đều nhiếp trọn cả sáu Căn, nhất tâm không loạn. Trong chánh định như thế, chắc chắn thấy được Phật, cách Phật không xa, ánh sáng Trí Huệ rực rỡ, chẳng mượn tu hành mà tự thành khai ngộ, như người xông ướp hương, chẳng mong thơm mà tự thơm. Đây là nguyện lực của Phật A Di Đà nhiệm mầu không thể nghĩ bàn vậy.

Ngài Đại Thế Chí đã dùng Tâm niệm Phật mà đắc Vô Sanh Nhẫn. Lại tiếp dẫn người niệm Phật về Tịnh Độ, thì tự giác giác tha đầy đủ Hạnh Bồ Tát chân thật.

Sáu Căn đều thuộc về Kiến Phần. Ở đây chú trọng về sự thấy Phật, nên dùng Kiến Đại để mà thu nhiếp. Kiến Đại sao lại để sau Thức Đại ? Bởi vì trước phải chuyển Thức Thứ Tám để chứng Hậu Đắc Trí rồi sau chuyển năm Thức trước. Đã chuyển Thức thành Trí, sanh về Tịnh Độ của Phật là cái quả cùng cực, cớ sao ở sau lại còn pháp môn Xoay Lại Cái Nghe của Đức Quan Âm ? Phàm cái chỗ quý báu của chuyện vãng sanh Tịnh Độ, chứng Viên Thông thì không phải chẳng những tự cho mình mà thôi, mà là độ thoát chúng sanh. Ắt như ba mươi hai Ứng Thân, chốn chốn nơi nơi đều là Tịnh Độ, đều chứng Viên Thông, thì sau mới tròn đủ quả Phật vậy.

Thiền sư Vĩnh Minh Thọ, thuở nhỏ tụng kinh Pháp Hoa, năm Hạnh [Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Chỉ Quán] đầy đủ trong sáu tuần lễ. Sau tham học với Thiều quốc sư, phát rõ tâm yếu, đến ngọn núi Thiên Thai của Ngài Trí Giả tu định trong chín tuần [Tuần: muời ngày], chim chóc làm tổ trên áo. Ngài làm hai cái thăm, khấn bói: một là, một đời thiền định; hai là, tụng kinh, muôn thiện trang nghiêm Tịnh Độ. Rồi chí thành cầu nguyện, bảy lần đều rút được tụng kinh, muôn thiện. Bèn chuyên tu Tịnh Nghiệp. Tụng kinh ba năm, trong lúc thiền quán, thấy Đức Quan Âm rót cam lồ vào miệng, bèn được biện tài.

Vua Trung Ý thỉnh Ngài trụ trì chùa Linh Ẩn, hai năm sau sang chùa Vĩnh Minh. Khóa biểu mỗi ngày có một trăm lẽ tám việc, không hề gián đoạn. Học giả đến tham học thì Ngài chỉ Tâm làm tông chỉ, lấy Ngộ làm phép tắc. Mỗi đêm lại sang nơi khác để tu hành niệm Phật.

Vua Trung Ý than rằng: “Từ xưa đến nay, chưa có ai chuyên tâm tha thiết cầu sanh Tây Phương cho bằng!”

Bèn làm điện Tây Phương Hương Nghiêm để Ngài hoàn thành chí nguyện. Đệ tử đến một ngàn bảy trăm người. Ngài thường cùng đại chúng thọ Giới Bồ Tát, thí thực cho quỷ thần, hàng ngày phóng sanh đều hồi hướng trang nghiêm Tịnh Độ. Làm trăm pho sách, nhan đề là Tông Cảnh Lục, lại viết các quyển Vạn Thiện Đồng Quy và Chỉ Về Tịnh Độ.

Sau khi Ngài diệt độ, tháp ở trong núi, có một nhà sư từ Lâm Xuyên đến nói : “Khi tôi bệnh nặng, chết xuống cõi u minh, được thả về. Tôi thấy trong điện Diêm Vương có tượng một vị tăng, Diêm Vương tự thân đảnh lễ, tôi hỏi: “Tượng ấy là ai?”

“Vị Chủ-Lại nói rằng: “Đó là thiền sư Thọ ở Chẩm Châu. Nghe rằng Ngài đã vãng sanh bậc thượng phẩm ở Tây Phương. Diêm Vương kính trọng Ngài nên lễ bái”.

Ông Dương Kiệt, tự là Thứ Công, phu nhân Kinh Châu cũng trong mộng thấy Ông Kiệt ngồi trên đài hoa sen, tiêu dao tự tại. Trước kia ông Dương Kiệt thấy mặt trời như cái mâm vọt lên, có điều tỏ ngộ, làm bài kệ rằng:

“Trai lớn thì cưới vợ

Gái lớn thì lấy chồng

Hỏi công phu: nhàn lắm!

Lại nói lời Vô Sanh”.

Rất nên cùng Ông Bàng cư sĩ thẩm tra!

Khi ông sắp từ biệt cõi đời, có bài kệ :

“Không chi để mến

Không chi để bỏ!

Trong khoảng thái hư

Ờ, à, thế, đó!

Từ an tới an

Tây Phương Cực Lạc”.

Đó là Ngài Vĩnh Minh Thọ và Ông Dương Kiệt đều sanh về Tịnh Độ, sáng tỏ pháp Niệm Phật Tam Muội, như con nhớ mẹ.

Tổ Động Sơn có nói: “Đối với Đạo thì chớ đi, còn quay về thì nghịch lại với cha”.

Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn: “Con quay về với cha, sao cha chẳng thèm nhìn đến?”

Tổ Sơn nói : “Lý hợp như thế đấy!”

Nhà sư hỏi : “Thế thì ân tình cha con ở đâu?”

Tổ Sơn nói : “Thế mới thành ân tình cha con”.

Nhà sư hỏi : “Thế nào là ân tình cha con?”

Tổ Sơn nói : “Đao búa chặt chẳng rời”.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Rèm biếc buông rồi, lệnh vua chưa xuống. Màn hoa đã khép, thấy nghe khó thông! Động nhằm đầu lông, trăng lên song cửa. Im dời một bước, hạc ra lồng bạc. Có biết chăng? Thoát thân một sắc, không lưu bóng. Chẳng tọa đồng phong, lạc đại công”.

Lại có nhà sư hỏi Tổ Hộ Quốc : “Như thế nào là cha mẹ xưa nay?”

Tổ Quốc nói : “Ấy đầu chẳng bạc”.

Nhà sư hỏi : “Lấy gì phụng hiến?”

Tổ Quốc nói : “Ân cần không cơm gạo, trong nhà chẳng hỏi thân”.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

“Ra cửa khắp đời không tri kỷ

Vào nhà ngập mắt: chẳng ai thân

Nhà không đêm lạnh, không gì có

Trời xanh, trăng sáng: cũng bạn gần”.

Hai tắc trên thật rõ ràng Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ, phải thấy như thế mới là cái Thấy chân chánh.

Xưa, có vị ni cô ra mắt Tổ Vân Nham.

Tổ Nham hỏi: “Cha cô còn không?”

Ni cơ nói: “Dạ, còn”.

Tổ Nham hỏi: “Tuổi bao nhiêu?”

Ni cô nói: “Sáu mươi lăm”.

Tổ Nham nói: “Cô có người cha chẳng phải sáu mươi lăm tuổi, cô biết hay chăng?”

Ni cô nói: “Chẳng phải là cái như-vậy-đến ư?”

Tổ Nham nói: “Cái như-vậy-đến vẫn còn là con cháu”.

Ngài Động sơn nói: “Dù được cái chẳng-như-vậy-đến cũng là con cháu!”

Ô hô! Cha mẹ xưa nay đâu có dễ thấy! Nên thấy được cha mẹ xưa nay thì thấy Tự Tánh Di Đà mà Thiền Tịnh viên dung, đều thuộc về cảnh giới không thể nghĩ bàn vậy.

Thiện Tâm
09-28-2015, 09:15 AM
MỤC BỐN: VIÊN THÔNG VỀ NHĨ CĂN


Kinh:

Khi ấy, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Thưa Thế Tôn, tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật ấy tôi phát Tâm Bồ Đề. Đức Phật ấy dạy tôi, từ Nghe, Suy Nghĩ và Tu, thấu vào Tam Ma Địa.

Thông rằng:

Chọn lựa chỗ Viên Thông thì căn Tai là bậc nhất. Vào sâu một cửa, sáu Căn liền thanh tịnh. Chỉ có chỗ chứng của Đức Quán Thế Âm rất là tròn đủ, nhiệm mầu. Âm thanh mà chẳng nói là nghe mà nói là Quán [Soi chiếu], là dùng Trí chiếu soi, chẳng dùng Thức Tai mà nghe vậy. Sáu Căn dùng lẫn nhau, ở đây đủ làm chứng rồi. Theo sự Nghe, Nghĩ, Tu, thấu vào Tam Ma Địa. Nghe ở Tai, Nghĩ ở Tâm, Tu trong Sự Làm, thì sanh Thánh Huệ Vô Lậu, nên vào Chánh Định. Bèn văn sau nói “Vào dòng mất cái Sở theo thứ lớp vậy”.

Tổ Bách Trượng gọi cả chúng ra cày ruộng. Bỗng một nhà sư nghe tiếng trống liền vác cày cười lớn mà bỏ về.

Tổ Trượng nói: “Tài thay!”

Đây là pháp môn Quán Âm Nhập Lý vậy.

Tổ Trượng về viện, mới kêu nhà sư ấy, hỏi: “Hồi nãy thấy cái đạo lý gì mà làm như thế?”

Nhà sư nói: “Hồi nãy bụng đói, nghe tiếng trống thì về kiếm đồ ăn.”

Tổ Trượng cười xòa.

Như vậy thì cửa vào Đạo của vị tăng này nào có mượn đến Nghĩ và Tu mà đắc đâu?

Thiện Tâm
09-28-2015, 09:19 AM
Kinh:

“Ban đầu, ở trong cái Nghe, vào dòng mất đi tướng Sở (chỗ Nghe). Chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng Động, Tịnh rõ ràng chẳng sanh ra. Như vậy tiến thêm lần, cái Nghe và chỗ Nghe đều hết. Chẳng dừng lại nơi sự hết cái Nghe và chỗ Nghe thì cái Giác và chỗ Giác đều Không. Không và Giác cùng tột tròn vẹn thì Năng Không và Sở Không đều diệt. Sanh Diệt đã diệt, Tịch Diệt hiện tiền (trước mặt). Tức thì vượt khỏi thế gian lẫn xuất thế gian, tròn sáng khắp mười phương, được hai điều tột bậc: Một là, trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của mười phương Chư Phật, cùng với Chư Phật Như Lai đồng một sức Từ; hai là, dưới hợp với tất cả mười phương chúng sanh trong sáu đường, cùng với các chúng sanh đồng một Bi Ngưỡng.

Thông rằng:

Vào dòng mất Sở, cho đến cái Nghe và chỗ Nghe đều hết, tức là mới mở khỏi Căn, trước hết được Nhân Không vậy. Chẳng dừng lại nơi sự hết cái Nghe và chỗ Nghe, cái Giác và chỗ Giác đều Không, tức là Tánh Không tròn sáng, thành pháp Giải Thoát vậy. Không Giác cùng cực vẹn toàn, Năng Không và Sở Không đều diệt mất, tức là đã giải thoát khỏi pháp, cái Không cũng chẳng sanh vậy. Sanh diệt đã diệt, đó là Tịch Diệt hiện tiền, tức là vào Tam Ma Địa, đắc Vô Sanh Nhẫn.

Bài kệ trong kinh Pháp Hoa :

“Chân quán, Thanh Tịnh quán

Rộng lớn Trí Huệ quán

Bi quán cùng Từ quán

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng”.

Chân Quán, đó là hai tướng Động Tịnh chẳng sanh ra. Thanh Tịnh Quán là hết cái Năng Sở của Nghe, Giác, Không vậy. Rộng lớn Trí Huệ Quán, đó là Không Giác cùng tột vẹn toàn, cho đến Tịch Diệt hiện tiền vậy. Đồng một lực Từ, đó là Từ quán. Đồng một Bi Ngưỡng, đó là Bi quán. Không Giác cùng tột tròn vẹn, đó là cái Giác quán ra khỏi tư duy vậy. Không và Sở không diệt mất thì thân tâm không thể đến được. Sanh diệt đã diệt, trọn cả hai bên sanh diệt đều lìa vậy. Tịch Diệt hiện tiền, đó là Thường Chân Thật vậy.

Lấy kinh chứng minh cho kinh, ý nghĩa mùi vị tự đầy đủ vậy.

Ngài Tô Tử Do luận hai kinh Lăng Nghiêm và kinh Kim Cang, hợp với Đức Quán Thế Âm, là lấy Nghe, Nghĩ, Tu làm Viên Thông Đệ Nhất. Ngài nói: “Ban đầu ở trong cái Nghe vào dòng mất Sở, cho đến chỗ Tịch Diệt hiện tiền. Nếu có thể như thế, thì trong khoảng khảy móng tay trải khắp ba cái Không [Nhân Không, Pháp Không, Không Không] liền cùng Chư Phật không khác”. Ngài lại đọc chỗ kinh Kim Cang nói về bốn quả vị: “Tu Đà Hoàn gọi là vào dòng, nhưng không có chỗ vào, chẳng vào Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, gọi là Tu Đà Hoàn”. Mới than rằng: “Chỗ chứng của Tu Đà Hoàn tức là chỗ Đức Quán Thế Âm gọi là ban đầu ở trong cái Nghe, vào dòng mất Sở đó ư? Vào dòng thì vong Sở, chỉ không vào sáu Trần, an nhiên thường trụ, ấy là vào dòng vậy. Đến Tư Đà Hàm, gọi là một lần đi lại, mà thật chẳng có gì đi lại. A Na Hàm, gọi là chẳng trở lại, mà thật không có sự chẳng trở lại, bởi vì đi thì nhập trần, lại thì về gốc. Tư Đà Hàm, tuy có thể trở lại, nhưng chưa thể không đi. A Na Hàm chẳng những không đi mà cũng không lại. Cho đến A La Hán thì cái ý đi-lại đều hết, không có pháp nào để đắc. Thế nên, cái gọi là bốn quả vị kỳ thật chỉ một pháp, nhưng trải qua ba cái Không mà về sâu cạn khác nhau. Lời của kinh, gốc vốn phù hợp, mà đời chẳng nêu rõ ra, nên nói cho tỏ hiểu”.

Ngài Tử Do bởi thấy được thiện tri thức mà phát minh ý chỉ của hai kinh, tuy hình như mới lạ, mà chủ yếu từ trong ngực lưu xuất ra, cho đến chỗ gọi là “Trong khoảng khắc gảy móng tay, trải khắp ba cái Không, cùng chư Phật không khác”. Chẳng có đốn ngộ triệt để làm sao nói được lời này.

Thiện Tâm
09-28-2015, 09:26 AM
I. DIỆU LỰC VÔ TÁC THÀNH TỰU BA MƯƠI HAI ỨNG THÂN

Kinh:

Thưa Thế Tôn, do tôi cúng dường Đức Quán Âm Như Lai, nhờ Ngài truyền thụ cho tôi Như Huyễn Văn Huân, Văn Tu Tam Muội, cùng Chư Phật Như Lai đồng sức Từ, khiến Thân tôi thành tựu ba mươi hai Ứng Thân vào các cõi nước.

Thông rằng:

Như Huyễn là người huyễn gây làm mà vốn không làm. Đó là để nói sự huân tu ứng với cơ, tức làm mà không làm, quên tình tuyệt hiểu, chẳng thể nghĩ bàn.

Gọi là Văn Huân, Văn Tu là huân tu, đều chẳng rời ngoài Tánh Nghe vậy. Nhân ngoài tánh Nghe mà huân tu, tâm thuần nhất thì bỏ cái Nghe, các sự ràng buộc lạc lầm hết ráo, Tam Muội hiện bày trước mắt, đó là Kim Cang Càn Huệ Địa vậy. Nói là Kim Cang vì phá nát các pháp mộng huyễn. Kim Cang thường trụ chẳng hoại, đó là cái Chân Thật thường hằng vậy. Đâu phải lìa ngoài Như Huyễn mà riêng có cái gọi là Chân Thật sao!

Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn: “Nơi tướng cái gì Chơn?”

Tổ Sơn nói: “Tức tướng tức Chơn”.

Hỏi: “Làm sao hiển bày?”

Tổ Sơn dựng đứng cây phất tử.

Lại hỏi: “Gốc Huyễn đâu Chơn?”

Tổ Sơn nói: “Gốc Huyễn nguyên Chơn”.

Hỏi: “Ngay khi Huyễn làm sao hiển bày?”

Tổ Sơn nói: “Tức Huyễn tức Hiển!”

Hỏi: “Như thế thì trước sau chẳng rời nơi Huyễn!”

Tổ Sơn nói: “Tìm cái tướng Huyễn không thể được!”

Ông Cung Phụng Hạo Nguyệt hỏi Tổ Trường Sa: “Trong giáo pháp nói ý Huyễn, thấy có chăng?”

Tổ Sa nói: “Đại Đức nói cái gì thế!”

Hỏi: “Thế thì ý Huyễn là không có sao?”

Tổ Sa nói: “Đại Đức nói cái gì thế!”

Hỏi: “Thế thì ý Huyễn là chẳng có chẳng không hay sao?”

Tổ Sa nói: “Đại Đức nói cái gì thế!”

Hỏi: “Như tôi ba lần bày tỏ, trọn chẳng hiểu được chỗ ý Huyễn, Hòa Thượng rõ hiểu như thế nào cái ý huyễn trong giáo pháp?”

Tổ Sa nói: “Đại Đức có tin là tất cả pháp vốn chẳng thể nghĩ bàn chăng?”

Đáp: “Lời chân thật của Phật đâu dám chẳng tin”.

Tổ Sa nói: “Đại Đức nói tin, thì trong hai cái tin, đó là cái tin nào?”

Đáp: “Như chỗ tôi biết, trong hai cái tin, đó gọi là tin theo Duyên”.

Tổ Sa nói: “Theo giáo pháp nào mà sanh ra được cái tin nhờ Duyên?”

Đáp: “Kinh Hoa Nghiêm nói, Đại Bồ Tát trong Trí Huệ không chướng không ngại, tin rằng tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Lại nói, Chư Phật Thế Tôn biết suốt tất cả pháp thế gian cùng pháp Phật, tánh không sai biệt, quyết định không hai. Lại nói, Phật Pháp và thế gian pháp, như thấy được cái chân thật của chúng, tất cả đều không sai biệt”.

Tổ Sa nói: “Chỗ nêu ra trong kinh giáo về cái tin nhờ Duyên của Đại Đức chưa rốt ráo lắm. Hãy nghe lão tăng tỏ rõ cái ý Huyễn trong giáo pháp cho Đại Đức. Như người nào thấy Huyễn vốn là Chơn, đó gọi là người thấy Phật. Pháp pháp viên thông, không sanh, không diệt; Không Sanh Diệt đó là Phật Thân.

“Thấy được như thế là đồng Phật Từ Lực. Từ tức Như Huyễn, ba mươi hai Ứng Thân, Ứng cũng Như Huyễn. Chốn chốn tịch diệt hiện bày trước mắt, đó là Kim Cang Tam Muội”.

Thiện Tâm
09-28-2015, 09:47 AM
Kinh:

“Thưa Thế Tôn, nếu các Bồ Tát vào Tam Ma Địa, tiến tu Vô Lậu, cái hiểu biết siêu việt hiện ra tròn vẹn, tôi hiện ra Thân Phật, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát".

Thông rằng:

Đức Sơ Tổ Đạt Ma tức Hóa Thân của Quán Thế Âm Đại Sĩ vậy.

Thời ấy, trong nước có hai vị thầy, một tên là Phật Đại Tiên, thứ hai tên là Phật Đại Thắng Đa, vốn cùng Tổ học Tiểu Thừa thiền quán với Ngài Phật Đà Ba Đà. Thầy Phật Đại Tiên gặp được Tôn Giả Bát Nhã Đa La, bỏ Tiểu Thừa theo Đại Thừa. Cùng với Tổ truyền hoá, thời ấy gọi là hai Pháp cam lồ. Còn thầy Phật Đại Thắng Đa lại phân học trò làm sáu Tông : thứ nhất là Hữu Tướng, thứ hai là Vô Tướng, thứ ba là Định Huệ, thứ tư Giới Hạnh, thứ năm Vô Đắc, thức sáu Tịch Tịnh.

Tổ bùi ngùi than: “Ông thầy của họ đã kẹt vào trong dấu chân trâu, lại còn chi ly phân thành sáu tông rối rắm. Nếu ta không trừ cho thì đời đời trói buộc trong tà kiến”.

Nói rồi, hiện thần lực, đến chỗ tông Hữu Tướng, hỏi rằng: “Tất cả các pháp, cái gì gọi là Thật Tướng?”

Trong chúng kia có vị tôn trưởng là Tát Bà La đáp rằng: “Ở trong các Pháp Tướng, các Tướng chẳng đổi lẫn nhau, đó là Thật Tướng”.

Tổ nói: “Tất cả các Tướng mà chẳng thay đổi ấy, nếu gọi là Thật Tướng phải định thế nào?”

Người ấy nói: “Trong các Tướng, thật không có định, nếu định các Tướng, sao gọi là thật?”

Tổ nói: “Các Tướng Bất Định thì gọi là Thật Tướng, nay ông dùng cái Bất Định để được cái gì?”

Người ấy nói: “Nãy tôi nói Bất Định là chưa nói đến các Tướng, nay nói các Tướng, thì nghĩa của chúng cũng như thế”.

Tổ nói: “Ông nói Bất Định cho là Thật Tướng, vậy thì Định mà Bất Định, tức chẳng phải là Thật Tướng”.

Người kia nói: “Định mà đã Bất Định, thì chẳng phải là Thật Tướng. Biết cái Ngã là chẳng có, thế nên bất định bất biến”.

Tổ nói: “Nay ông nói Bất Biến thì sao gọi là Thật Tướng? Còn có biến có đổi, nghĩa ấy cũng vậy thôi”.

Người ấy đáp: “Bất Biến thì còn, vì còn mà chẳng còn, nên biến đổi Thật Tướng, để định nghĩa này”.

Tổ nói: “Thật Tướng bất biến, có Biến là chẳng thật, trong Hữu và Vô nào gọi là Thật Tướng”.

Thầy Tát Bà La biết Thánh Sư hiểu thâm sâu, liền lấy tay chỉ hư không nói : “Đó là cái Hữu Tướng của thế gian mà cũng có thể trống không, hiện cái thân tôi đây, được giống thế không?”

Tổ nói: “Như rõ Thật Tướng bèn thấy chẳng phải Tướng; như rõ cái Chẳng Phải Tướng, thì cái Hình Sắc cũng vậy. Hiện ở trong Sắc, chẳng mất cái Thể của Hình Sắc, ở ngay trong cái chẳng phải Tướng mà chẳng ngại với cái Có. Rõ được như thế, ấy gọi là Thật Tướng”.

Chúng kia nghe xong, tâm ý sáng láng, kính lễ tin nhận.

Tổ thoạt nhiên biến mất, đến chỗ tông Vô Tướng, hỏi rằng: “Các ông nói không có Tướng, thì lấy gì làm chứng đó?”

Trong chúng kia có thầy Ba La Đề đáp rằng: “Tôi rõ không có Tướng, vì tâm kia chẳng hiện bày”.

Tổ nói: “Tâm ông chẳng hiện, lấy gì mà rõ?”

Người ấy nói: “Tôi rõ Vô Tướng, tâm không lấy bỏ, ngay khi rõ biết, cũng không có gì đảm đương”.

Tổ nói: “Nơi các thứ có thứ không, tâm không lấy bỏ, lại không có đảm đương thì những sự rõ biết không có vậy”.

Người ấy nói: “Vào Tam Muội của Phật còn không có chỗ đắc, huống chi là không có Tướng, mà muốn biết đó?”

Tổ nói: “Tướng đã chẳng có biết, cái gì gọi là Có-Không; còn không có chỗ đắc, lấy gì gọi là Tam Muội?”

Người ấy nói: “Tôi nói chẳng chứng là chứng cái không có chỗ chứng, chẳng phải Tam Muội, nên tôi nói Tam Muội”.

Tổ nói: “Chẳng phải là Tam Muội ấy, sao gọi tên đó? Ông đã chẳng chứng, chẳng phải chứng, sao chứng?”

Ba La Đề nghe Tổ phân tách rõ rệt bèn ngộ Bản Tâm, lễ tạ Tổ sư, sám hối lỗi trước.

Tổ thọ ký rằng: “Ông sẽ đắc quả, chẳng bao lâu chứng đó. Nước này có ngoại đạo, dẹp nó chẳng lâu gì”.

Nói rồi, bỗng nhiên biến mất.

Tổ đến chỗ tông Định Huệ, hỏi rằng: “Các ông học Định Huệ đó là một hay là hai?”

Trong chúng kia có thầy Bà Lan Đà đáp rằng: “Cái Định Huệ này của tôi chẳng phải một, chẳng phải hai”.

Tổ nói: “Đã chẳng phải một hay hai, sao gọi là Định Huệ?”

Người ấy nói: “Trong Định chẳng phải Định, nơi Huệ chẳng phải Huệ, một tức chẳng phải một, hai cũng chẳng phải hai”.

Tổ nói: “Đối một chẳng có một, đối hai chẳng có hai, đã chẳng phải Định Huệ thì bày ra Định Huệ nào?”

Người ấy nói: “Chẳng một, chẳng hai mà Định Huệ biết được; còn chẳng phải Định chẳng phải Huệ cũng lại như vậy”.

Tổ nói: “Huệ chẳng phải Định, làm sao mà biết? Chẳng một chẳng hai, cái gì là Định, cái gì là Huệ?”

Ba Lan Đà nghe qua, tâm nghi liền tan mất.

Tổ đến chỗ thứ tư là tông Giới Hạnh , hỏi rằng: “Cái gì là Giới? Thế nào là Hạnh? Là một hay hai?”

Trong chúng ấy có một hiền giả đáp rằng: “Một hai hai một, đều do đó sanh ra, y theo Giáo Pháp không có nhiễm trước, đó gọi là Giới Hạnh”.

Tổ nói: “Ông nói y theo Giáo, tức là có nhiễm ô, một với hai đều phá hết, sao nói y theo Giáo, hai cái này trái nghịch, chẳng đúng với Hạnh. Trong ngoài chẳng sáng tỏ, sao gọi là Giới?”

Người ấy nói: “Tôi có trong ngoài, kia đã biết hết. Đã được suốt hiểu, bèn đó là Giới Hạnh. Nếu nói trái nghịch, đó đều là phải là trái, còn nói đến chỗ trong sạch, thì tức Giới tức Hạnh”.

Tổ nói: Đều là phải đều là trái, sao nói là trong sạch? Đã được suốt thông, sao nói đến trong ngoài?”

Hiền giả nghe đó, bèn tự thẹn chịu phục.

Tổ đến chỗ tông Vô Đắc , hỏi rằng: “Mấy ông nói là Không Đắc, Không Đắc thì đắc cái gì? Đã không có chỗ Đắc, lại cũng không đắc cái Không Đắc ư?”

Trong chúng kia có thầy Bửu Tịnh đáp rằng: “Tôi nói Không Đắc chẳng phải là không đắc cái Đắc, nay nói đắc cái Đắc, Không Đắc chính là Đắc”.

Tổ nói: “Đắc đã chẳng Đắc, Đắc cũng chẳng phải Đắc, đã nói là đắc cái Đắc, đắc cái Đắc là đắc cái gì?”

Người ấy nói: “Thấy Đắc chẳng phải Đắc, chẳng phải Đắc tức là Đắc, nếu thấy là chẳng Đắc, gọi là Đắc cái Đắc”.

Tổ nói: “Đắc đã chẳng phải Đắc, đắc cái Đắc là Không Đắc, được không có chỗ Đắc, hiện nào đắc cái Đắc?”

Thầy Bửu Tịnh nghe qua liền trừ lưới nghi.

Tổ đến chỗ tông Tịch Tịnh , hỏi rằng: “Sao gọi là Tịch Tịnh?[Lặng yên]Ở trong Pháp đây, cái gì là yên, cái gì là lặng?”

Trong chúng ấy có vị Tôn Giả đáp rằng: “Tâm này chẳng động, đó gọi là lặng; nơi pháp không nhiễm gọi đó là yên”.

Tổ nói: “Bổn Tâm chẳng lặng, mới cần mượn lặng yên. Xưa nay vốn lặng, nào cần dùng đến lặng yên?”

Người ấy nói: “Các pháp vốn Không, vì là Không Không, nên trong Không Không ấy, gọi là lặng yên”.

Tổ nói: “Không Không đã là Không, các pháp cũng thế, lặng yên Vô Tướng, nào còn lặng, nào còn yên?”

Tôn giả ấy nghe Tổ chỉ dạy, hoát nhiên khai ngộ, nên cả sáu chúng đều nguyện quy y.

Do đó giáo hóa khắp miền Nam Thiên Trúc, tiếng khắp năm phương Ấn Độ. Cứ theo sáu phái kia, cũng biết lui bỏ để tu Vô Lậu, nên Tổ hiện thần lực, khiến cho giải thoát.

Đây là chỗ ứng hóa thứ nhất của Đức Quán Thế Âm vậy. Nguyện xưa là như thế.

Thiện Tâm
09-28-2015, 10:19 AM
Kinh :

“Nếu các hàng Hữu Học, tu Pháp lặng yên được mầu sáng, chỗ thắng diệu vẹn tròn hiển hiện, tôi ở trước kẻ ấy, hiện thân Độc Giác, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát. Nếu các hàng Hữu Học, đoạn mười hai Nhân Duyên, duyên dứt thì Thắng Tánh nhiệm mầu trổi vượt hiện ra tròn vẹn, tôi ở trước kẻ ấy, hiện thân Duyên Giác, vì họ thuyết pháp, khiến được Giải Thoát".

Thông rằng :

Bậc Bích Chi Phật có hai loại : Một là sanh đời không Phật, xét thấu sự vật biến chuyển, tự giác Vô Sanh, gọi là Độc Giác. Hai là sanh đời có Phật, vâng theo Giáo Pháp của Phật, xét thấu Nhân Duyên mà ngộ Đạo, gọi là Duyên Giác. Lặng yên mầu sáng không phải là Bản Giác Mầu Sáng (Diệu Minh), mà nhân pháp tu Tịch Tịnh Lặng Yên mà đắc. Đoạn dứt mười hai Nhân Duyên, từ cái Vô Minh diệt cho đến Khổ Não diệt. Duyên đoạn thì Thắng Tánh hiện, do Diệt nên được Chứng, đều được chỗ Thắng Diệu hiện ra toàn vẹn. Đó là chỉ nhờ vào lý trí, riêng mình tỏ biết cái nhiệm mầu, riêng mình tỏ biết cái nhân duyên, chưa thể hồi tâm hướng về Đại Thừa, nên chưa thật Giải Thoát.

Thiền sư Ngưu Đầu Dung ẩn nương hang đá, có sự lạ lùng là trăm chim ngậm bông đến. Tứ Tổ xa thấy khí tượng, biết chỗ ấy có người, mới tự thân tìm hỏi. Tổ hỏi nhà sư ở chùa : “Chốn này có đạo nhơn chăng?”

Đáp : “Người xuất gia, ai chẳng phải là đạo nhân?”

Tổ nói : “Vậy ai là đạo nhân?”

Nhà sư không có lời đáp.

Một nhà sư khác nói: “Từ đây vào núi khoảng mười dặm, có một ông thầy Dung lười biếng, thấy người chẳng đứng dậy, chẳng chắp tay chào, không phải là đạo nhân ư?”

Tổ bèn vào núi, thấy thầy Dung ngồi thẳng tự nhiên. Tổ hỏi rằng: “Ở đây làm gì?”

Thầy Dung nói: “Quán tâm”.

Tổ nói: “Quán là người nào, tâm là vật gì?”

Thầy Dung không đáp được, liền đứng dậy làm lễ, nói: “Đại Đức quý quán nơi nào?”

Tổ nói: “Bần đạo chẳng nhất định ở đâu hoặc Đông hoặc Tây”.

Thầy Dung nói: “Lại biết Đạo Tín thiền sư chăng?”

Tổ nói: “Hỏi kẻ khác ấy làm gì?”

Thầy Dung nói: “Bấy lâu hướng về thịnh đức, mong lễ ra mắt một phen”.

Tổ nói: “Đạo Tín là bần đạo vậy”.

Thầy Dung nói: “Nhân sao đến đây?”

Tổ nói: “Độc chỉ đến hỏi thăm nhau. Lại không có chỗ nghỉ chăng ?”

Thầy Dung chỉ phía sau, chỉ có một am nhỏ, bèn dẫn Tổ đến đó, chung quanh am chỉ thấy loài hổ, báo. Tổ bèn đưa hai tay làm vẻ sợ.

Thầy Dung nói: “Dường còn cái ấy vậy”.

Tổ nói: “Cái ấy là cái gì?”

Thầy Dung không nói được.

Chốc lát, Tổ trở lại chỗ tảng đá thầy Dung ngồi thiền, viết lên đó một chữ Phật. Thầy Dung xem thấy, giật mình.

Tổ nói: “Dường còn cái ấy vậy”.

Thầy Dung chưa hiểu, cúi đầu xin nói chỗ chơn yếu. Tổ trao cho pháp môn Đốn Giáo, sẵn đủ muôn Hạnh Bồ Tát.

Thầy Quật Đa Tam Tạng xứ Tây Vực khế ngộ nơi lời dạy của Lục Tổ. Sau ngao du Ngũ Đài, thấy một nhà sư lập am tĩnh tọa.

Thầy Tạng hỏi: “Ngồi một mình làm gì?”

Đáp: “Quán Tịnh”.

Thầy Tạng nói: “Quán, đó là người nào? Tịnh đó là vật gì?”

Nhà sư làm lễ, hỏi: “Lý ấy thế nào?”

Thầy Tạng nói: “Ông sao chẳng tự quán tự tịnh?”

Vị sư ấy ngẩn ngơ.

Thầy Tạng nói: “Ông ở phái nào ra?”

Đáp: “Tổ Tú Thiền sư”.

Thầy Tạng nói: “Xứ Tây Vực của tôi, kẻ thấp nhất trong ngoại đạo còn chẳng sa vào cái kiến giải này, là trơ trơ ngồi không, đối với đạo ích gì?”

Vị sư lại hỏi: “Vị Tôn sư của thầy Tạng là ai?”

Thầy Tạng nói: “Thầy tôi là Lục Tổ. Sao ông chẳng sớm đến Tào Khê cho rõ chơn yếu?”

Vị sư liền sang tham vấn Lục Tổ. Tổ dạy giống như thầy Tạng. Nhà sư liền ngộ nhập.

Nếu thầy Dung cùng nhà sư này chẳng gặp Tứ Tổ, Lục Tổ, thì đã chứng Độc Giác, Duyên Giác rồi vậy. Mong gì có ngày Giải Thoát ư !

Thiện Tâm
09-28-2015, 10:28 AM
Kinh:

“Nếu các hàng Hữu Học, đắc Tứ Đế Không, tu Đạo Đế, Nhập Diệt Đế, Thắng Tánh hiện ra tròn vẹn, tôi ở trước người ấy hiện thân Thanh Văn, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.

Thông rằng:

Pháp Tứ Đế là Biết Khổ, Đoạn Tập, Chứng Diệt, Tu Đạo. Cho đến vào Diệt Tận Định, ham mê cái vui Tịch Diệt, không có ý độ sanh, gọi đó là Thanh Văn, y vào tiếng dạy mà tu Đạo vậy.

Tổ Quy Sơn đang ngồi, thầy Ngưỡng Sơn đi vào.

Tổ Quy Sơn nói: “Huệ Tịch nói mau, chớ sa vào Ấm, Giới!”

Ngưỡng Sơn nói: “Huệ Tịch đây chỗ tin hiểu cũng chẳng lập”.

Tổ Quy nói: “Ông chỗ tin hiểu chẳng có lập. Chẳng tin, chẳng lập”.

Ngưỡng Sơn nói: “Chỉ đó là Huệ Tịch, còn tin gì nữa?”

Tổ Quy nói: “Nếu như thế là Định Tánh Thanh Văn”.

Ngưỡng Sơn nói: “Huệ Tịch đây, Phật cũng chẳng lập”.

Tổ Vân Cư Ứng sai thị giả đem cái khố cho một đạo giả ở am.

Đạo giả nói: “Tự có cái khố của mẹ sanh rồi, chẳng nhận”.

Tổ Ứng lại sai thị giả hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh, thì mặc cái gì?”

Đạo giả không lời đáp.

Về sau, tịch; có xá lợi đem đến Tổ Ứng.

Tổ Ứng nói: “Dù cho được tám hộc bốn đấu, chẳng bằng khi ấy thốt được một lời chuyển ngữ”.

Vị đạo giả này, quyết nhận cái khố mẹ đẻ, thật đó là định tánh Thanh Văn. Ngưỡng Sơn lại có thể nói một lời chuyển ngữ rằng, “Huệ Tịch đây, Phật cũng chẳng lập”, thật là thấy mặt mày lúc chưa sanh.

Thiện Tâm
09-28-2015, 10:34 AM
Kinh:

“Nếu các chúng sanh muốn tâm tỏ ngộ, chẳng phạm dục trần, muốn thân trong sạch, tôi ở trước người ấy, hiện thân Phạm Vương vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.

Thông rằng:

Phạm Vương, Chúa trời cõi Sắc tên là Thi Khí, đây gọi là Đảnh Kế, ở đỉnh cõi Sơ Thiền. Bậc Độc Giác, Thanh Văn ở cõi trời Tứ Không. Ở dưới là Phạm Vương. Dưới cõi Phạm Thiên là Lục Dục Thiên. Chẳng phạm dục trần, chẳng những không muốn cái dục thanh sắc thô kệch của nhơn gian, mà cái vui của trời Tha Hóa Tự Tại cũng chẳng ưa, muốn tiến đến Tứ Thiền, do niệm xả nên trong sạch, muốn được cái thân trong sạch không hỉ, không lạc vậy.

Tổ Nam Dương Trung Quốc Sư hỏi thiền sư Tư Không Sơn Bổn Tịnh rằng: “Ông từ đây về sau thấy lời lẽ kỳ đặc thì như thế nào?”

Tổ Tịnh nói: “Không một niệm tâm ham”.

Quốc Sư nói: “Đó là chuyện trong nhà ông”.

Lại có nhà sư hỏi Trung Quốc Sư : “Như sao là Giải Thoát?”

Quốc sư nói: “Các pháp chẳng đến nhau, ngay đây là Giải Thoát”.

Nhà sư nói : “Như thế là đoạn dứt đi vậy”.

Quốc Sư nói: “Đã nói với ông là các pháp chẳng đến nhau, đoạn cái gì?”

Từ chỗ tự hiện thân Phật thuyết pháp, đến đây là năm Pháp Giải Thoát, đều chỉ rút về một đường hướng thượng. Từ chỗ Đế Thích về sau, chỉ khiến cho thành tựu mà thôi. Phật Pháp và thế gian pháp, nếu thấy được cái Chân Thật, cả thảy nào có khác nhau.

Thiện Tâm
09-28-2015, 10:35 AM
Kinh:

“Nếu các chúng sanh muốn làm Chúa cõi Trời, thống lãnh Chư Thiên, tôi ở trước người ấy, hiện thân Đế Thích, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Đế Thích có nhiều tên: Một là Thích Đề Hoàn Nhân, hai là Kiều Thi Ca; ở đỉnh Tu Di, bốn phía, mỗi phía là tám cõi trời, hợp lại là ba mươi hai cõi trời, đều thống lãnh hết.

Tôn giả Tu Bồ Đề một hôm đang thuyết pháp, vua Đế Thích rải hoa xuống.

Tôn giả hỏi: “Hoa này từ trời được ư?” Từ đất được ư? Từ người được ư?”

Đế Thích rằng: “Chẳng phải vậy”.

Tôn giả nói: “Từ đâu mà được?”

Đế Thích liền đưa tay lên.

Tôn giả nói: “Như vậy, như vậy”.

Xưa, Đức Thế Tôn dùng ngọc Ma Ni chỉ bày cho Vua Trời ở năm phương. Mỗi vị nói là xanh, vàng, đỏ, trắng. Thế Tôn đưa tay lên mà chỉ bày, thế mà đều không thấy. Thế Tôn nói : “Ta lấy ngọc thật chỉ bày cho các ông, mà đều chẳng biết”. Vua Trời ở năm phương do đó ngộ nhập.

Đế Thích nay trước Tôn Giả đưa tay lên, cái dụng thật là thân thiết. Vua Đế Thích cũng tỏ hiểu Thiền vậy.

Thiện Tâm
09-28-2015, 10:38 AM
Kinh :

“Nếu các chúng sanh muốn Thân Tự Tại, đi khắp mười phương, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tự Tại Thiên, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng :

Trời Tự Tại tức Trời Tha Hóa Tựï Tại. Mượn chỗ gây làm của kẻ khác, lấy làm cái vui riêng mình, đó là trên đỉnh Dục Giới. Hoặc nói có riêng chỗ ở của Ma Vương, thì cũng gồm trong Trời Tự Tại.

Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa hành hóa nhiều nơi, người được độ rất nhiều. Do đó, cung ma chấn động, Ba Tuần lo sợ, bèn dùng hết ma lực để phá chánh pháp. Tôn giả bèn nhập định, xem xét nguyên do. Ba Tuần được dịp, lén cầm chuỗi ngọc tròng vào cổ Ngài. Tôn giả xuất định, bèn lấy ba thây chết của người, chó và rắn, hóa làm tràng hoa, dỗ Ba Tuần rằng: “Ông cho tôi chuỗi ngọc, thật rất đẹp quý. Tôi có tràng hoa để dâng đáp nhau”.

Ba Tuần rất mừng, đưa cổ ra nhận, bỗng biến thành ba thứ thây chết, giòi bọ nhoi đục sình thối. Ba Tuần gớm ghét, dùng hết thần lực mà chẳng dời chuyển, bèn bay lên cõi trời Lục Dục, bảo các Chúa Trời, cùng xin Phạm Vương, cầu được thoát khỏi.

Mỗi vị đều nói: “Đệ tử của Phật thập lực đủ mọi thần biến, chúng tôi là hạng phàm lậu làm sao trừ nổi?”

Ba Tuần nói: “Thế thì làm sao?”

Phạm Vương nói: “Ông nếu hồi tâm với Tôn Giả, liền có thể trừ dứt”.

Bèn nói bài kệ, khiến cho hồi hướng:

“Đã do đất trợt té

Phải do đất đứng dậy

Lìa đất cầu đứng dậy

Làm gì có lý ấy”.

Ba Tuần nghe dạy rồi, liền xuống khỏi cung trời, lễ dưới chân Tôn Giả, thiết tha sám hối.

Tôn giả nói: “Từ nay trở đi, đối với Phật Pháp, ông không còn làm rối hại nữa chăng?”

Ba Tuần nói: “Tôi thề hồi hướng Phật Đạo, vĩnh viễn dứt lìa điều ác”.

Tôn giả nói: “Nếu như thế, ông có thể tự miệng mình xướng lên lời quy y Tam Bảo”.

Ma Vương chắp tay, xướng ba lần. Tràng hoa dẹp hết. Bèn vui vẻ nhảy nhót, làm lễ tôn giả mà nói bài kệ rằng :

“Kính lạy Đấng Tam Muội

Đệ tử Thánh Mười Lực

Tôi nay nguyện hồi hướng

Chẳng còn sự yếu hèn”.

Xem bài kệ Phạm Vương, thật là lý nhiệm mầu của hồi hướng. Chẳng phải là Hóa Thân Bồ Tát đó sao?

Thiện Tâm
09-28-2015, 11:00 AM
Kinh: “Nếu các chúng sanh muốn Thân Tự Tại, bay đi trên hư không, tôi ở trước người ấy, hiện thân Đại Tự Tại Thiên, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Trời Đại Tự Tại tức là Ma Hê Thủ La Thiên. Ba mắt tám tay, cỡi trâu trắng, cầm phất trắng, ở đỉnh cõi sắc, nên bay đi trên hư không.

Kinh Niết Bàn nói: “Sao gọi là kho bí mật? Giống như chữ ( ), ba điểm, chụm dính lại thì chẳng thành chữ Y, tản ra cũng chẳng thành; như Ma Hê Thủ La Thiên, trên mặt có ba mắt, mới thành được chữ Y. Ba điểm riêng nhau, cũng chẳng thành được. Ta cũng như thế, cái pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết Bàn. Thân của Như Lai cũng chẳng phải Niết Bàn. Ma Ha Bát Nhã cũng chẳng phải Niết Bàn. Ba pháp, mỗi cái khác nhau, cũng không phải Niết Bàn. Nay Ta an trụ ba pháp như thế, vì chúng sanh mà gọi là nhập Niết Bàn, giống như chữ Y của đời”.

Tổ Nham Đầu thượng đường, nói: “Ta thường nghiên cứu kinh Niết Bàn, trong bảy, tám năm thấy hai ba đoạn nghĩa, giống như lời nói của nhà Thiền”.

Rồi lại nói: “Thôi! Thôi!”

Khi ấy, có một nhà sư bước ra làm lễ, xin thầy nói ra.

Tổ Đầu nói: “Giáo ý của ta như chữ Y ( * ) ba điểm. Thứ nhất, hướng về phương Đông hạ một điểm, điểm khai mắt của các Bồ Tát. Thứ hai, hướng về phương Tây hạ một điểm, điểm mạng mạch của các Bồ Tát. Thứ ba, hướng phương trên hạ một điểm, điểm đảnh của các Bồ Tát. Đây là đoạn nghĩa thứ nhất. Lại nói, giáo ý của ta giống như banh mở cửa trên mặt của Ma Hê Thủ La Thiên, dựng đứng một con mắt lẻ. Đây là đoạn nghĩa thứ hai. Lại nói, giáo ý của ta như trống tẩm độc [Tiếng của cái trống độc hay giết người. Kinh Niết Bàn nói: Âm Thanh thường trụ của Phật Tánh hay giết hại tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh], đánh một tiếng xa gần nghe đến đều chết ráo. Đây là đoạn nghĩa thứ ba”.

Khi ấy, Thượng Tọa Tiểu Nghiêm hỏi: “Như sao là trống tẩm độc?”

Tổ Đầu hai tay đặt trên gối, thẳng thân, nói: “Hàn Tín lâm triều vậy”.

Thầy Nghiêm không có lời lẽ.

Tổ Phù Sơn Viễn thượng đường: “Chư Phật ra đời dựng nên giáo pháp chẳng lìa Trí Nhãn Ba Thân, cũng như ba con mắt của trời Ma Hê Thủ La. Vì sao? Một con thì giọt nước rỉ chẳng thông, tăng tục khó biện. Một con thì đại địa vẹn mở, mười phương suốt khắp. Một con thì cao thấp trong một cái nhìn, muôn loại xem bằng. Tuy nhiên như thế, bổn phận nhà sư ở chỗ đường lối ngăn trở nhau phải có Chánh Nhãn thông thiên mới được. Bởi thế mới nói ba đời Chư Phật chẳng biết có [Hữu vi]. Loài hồ ly cái, trâu trắng đực lại biết có. Hãy nói hồ ly cái, trâu trắng đực biết có là có cái gì? Am hiểu ư?”

Đêm Thu mưa giăng ngàn nhà vắng

Ngày lụn tựa đài một tiếng tiêu.

Ba mắt trên mặt của Ma Hê Thủ La Thiên như ba điểm nếu chữ Y. Tông môn mượn đó xướng lên lẽ huyền. Chớ nói là không lời, Âm Thanh ấy như sấm!

Thiện Tâm
09-28-2015, 11:07 AM
Kinh:

“Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh Quỷ Thần, cứu hộ cõi nước, tôi ở trước người ấy, hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Thiên Đại Tướng Quân thống lĩnh Quỷ Thần, làm Thượng Tướng của Đế Thích.

Ngài Thiên Thai Trí Giả ban đầu trụ ở Ngọc Tuyền.

Quan Công Đại Tướng Quân ứng mộng, nói: “Tôi cùng con là Quan Bình cai trị núi này lâu rồi vậy”.

Ngài Trí Giả thuyết cho giới ba Quy Y.

Quan Công thề nguyện làm Hộ Pháp. Đến nay vẫn cứu hộ cõi nước, vẫn rất linh hiển.

Thầy Truyền Sơn Phổ đến Tổ Hoàng Long thỉnh ý chỉ, hỏi rằng: “Ông Anan hỏi Tổ Ca Diếp: “Ngoài áo cà sa, Thế Tôn phó truyền pháp gì?”

“Tổ Ca Diếp gọi lớn: “Anan!”

“Anan ứng tiếng: “Dạ”.

“Tổ Ca Diếp nói: “Ngã rồi cây cột phướn trước cửa!”

“Ý chỉ thế nào?”

Tổ Nam Công [Hoàng Long] nói: “Ông ra khỏi đất Thục từng đến Ngọc Tuyền chăng?”

Đáp: “Đã từng đến”.

Lại hỏi: “Từng ở lại chăng?”

Đáp: “Một đêm rồi đi”.

Tổ Nam Công nói: “Đạo tràng của Trí Giả, Quan Tướng Quân dâng cúng, cùng kết duyên nhau lúc nào mà ngại”.

Thầy Phổ lặng im. Giây lâu hỏi lý trước. Tổ Nam Công cúi đầu.

Thầy Phổ bước ra rất hãi hùng, nói: “Nghĩa hổ Tây Xuyên không làm tiêu một cái khạc nhổ của lão này”.

Còn Tổ Thúy Nham Chân thượng đường: “Tiên Đức nói, “Việc này như đốt mai rùa. Đốt bèn thành điềm bày ra tốt xấu, không đốt thành không biết”. Đốt cùng chẳng đốt, liền là hoa mắt. Thượng Lam [Tự xưng] thì chẳng thế, không cố chấp, không nhất định. Hư không cỡi ngựa, đất hạn đi thuyền. Núi Nam khởi mây, núi Bắc mưa xuống!”

Bèn cầm cây gậy lên, nói rằng: “Cây gậy hóa làm Thiên Đại Tướng Quân đi khắp bốn thiên hạ. Có giữ tiết hay chẳng giữ tiết, có giới hạnh hay chẳng giới hạnh, nhất thời tâu cùng trời Đế Thích”.

Bèn hét, nói:

“Trượng phu tự có chí xông trời

Chẳng hướng đường đi Như Lai đi”.

(Trượng phu tự hữu xung thiên chí

Mạc hướng Như Lai hành xứ hành).

Liền đánh vào bàn một cái.

Hai vị tôn túc đây, đều đem Đại Tướng Quân mà thuyết pháp. Tức là vì Đại Tướng Quân mà thuyết pháp vậy.

Thiện Tâm
09-28-2015, 11:11 AM
Kinh :

“Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh thế giới, bảo hộ chúng sanh, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tứ Thiên Vương, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng :

Tứ Thiên Vương ở giữa núi Tu Di. Mặt trời mặt trăng đi qua vòng trước cung. Đó là thần của Đế Thích bảo hộ cho bốn cõi thiên hạ [Tứ Đại Châu].

Quan Lục Đại Phu hỏi Tổ Nam Tuyền : “Thiên Vương ở địa vị nào?”

Tổ Tuyền nói: “Nếu là Thiên Vương, thì chẳng phải địa vị”.

Ông Lục nói: “Đệ tử nghe nói Thiên Vương ở Sơ Địa”.

Tổ Tuyền nói: “Đáng dùng thân Thiên Vương để được độ, liền hiện thân Thiên Vương, vì đó thuyết pháp”.

Thử nói xem Nam Tuyền nói Giáo hay nói Tông?

Kinh:

“Nếu các chúng sanh muốn sanh nơi Thiên Cung, sai khiến Quỷ Thần, tôi ở trước người ấy, hiện thân Thái Tử của Tứ Thiên Vương, vì họ thuyết pháp khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Theo phẩm Phổ Môn, có thần Chấp Kim Cang không có Quốc Thái Tử. Nhưng sai khiến Quỷ Thần là Thần Chấp Kim Cang tức là một loại Quốc Thái Tử vậy.

Thái Tử Na Tra, con Tỳ Sa Môn Thiên Vương, mỗi nửa đêm theo hầu Tuyên Luật Sư, hoặc đỡ chân cho khỏi té, hoặc đàm luận thắng cảnh Ngũ Đài Sơn. Đó là chỗ Nhị Thừa không biết nổi. Đây là ghi chép lại rõ ràng trong truyện Luật Sư.

Có nhà sư hỏi Thiều Quốc Sư: “Thái Tử Na Tra lóc thịt trả lại cho mẹ, chẻ xương trả lại cho cha. Sau đó hiện lại bổn thân, vận dụng đại thần lực, ở trên tòa sen, vì cha mẹ thuyết pháp; chưa rõ như thế nào là thân Thái Tử?”

Đáp rằng : “Mọi người đều thấy Thượng Tọa hỏi”.

Nhà sư ấy hỏi: “Như thế tức cõi Đại Thiên đồng một Chân Tánh vậy”.

Quốc Sư nói: “Phảng phất tựa khúc đàn mới nghe, lại bị gió thổi thành điệu khác”.

Ngẫm nghĩ chỗ này thì thân Thái Tử, thân Bồ Tát mọi thứ chọn xét đều chẳng có ra được.

Thiện Tâm
09-28-2015, 11:39 AM
Kinh:

“Nếu các chúng sanh muốn làm Vua cõi người, tôi ở trước người ấy, hiện thân Vua, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Từ Vua Kim Luân, cho đến Vua Túc Tán đều là Vua của loài người vậy. Kinh Pháp Hoa chỉ nói đến Tiểu Vương, đều là chỉ Vua trong loài người.

Vua Văn Tông nhà Đường rất thích con sò. Quan Sử miền duyên hải lúc trước thường chuyển dâng, người phải nhọc mệt. Một hôm, trong ngự cổ có con chẻ chẳng mở ra. Vua lấy làm lạ, liền đốt hương cầu khẩn; bèn mở ra, thì thấy hình dung của vị Bồ Tát, tướng thanh tịnh đầy đủ. Vua bèn lấy hộp bằng cây hương đàn đỏ mà đựng, gấm tốt bao trên, hiến cho chùa Hưng Thiện, để cho chúng tăng chiêm ngưỡng, lễ bái. Vua hỏi quần thần đây là điềm lành gì? Bèn tâu ở núi Thái Nhất chỉ có thiền sư Chính, rõ sâu Phật pháp, xin chiếu mời hỏi. Vua liền xuống chiếu mời sư đến để hỏi việc ấy.

Tổ Chính nói: “Đáng dùng thân này để được độ, liền hiện thân này, vì đó thuyết pháp”.

Vua nói: “Thân Bồ Tát đã hiện mà chưa nghe thuyết pháp”.

Tổ Chính nói: “Bệ hạ thấy đấy là thường ư ? Là phi thường ư?”

Vua nói: “Sự lạ ít thấy, Trẫm rất tin vậy”.

Bệ Hạ đã nghe thuyết pháp rồi vậy”.

Lòng vua vui vẻ, ra chiếu cho chùa chiền trong thiên hạ, mỗi nơi đều lập tượng Quan Âm, để đền đáp việc tốt lành đặc biệt ấy.

Con sò đó dùng cái không nói mà nói, Tổ Chính dùng lời nói mà nói; đều là Hóa Thân đó vậy.

Thiện Tâm
09-28-2015, 11:42 AM
Kinh:

“Nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, tôi ở trước người ấy, hiện thân Trưởng Giả, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Bậc Trưởng Giả có đủ mười đức là dòng dõi sang quí, địa vị cao, giàu lớn, oai thế mạnh mẽ, trí sâu xa, tuổi thọ, hạnh trong sạch, đầy đủ lễ nghi, trên khen, dưới phục, giống như bậc nguyên lão của quốc gia.

Ông Lý trưởng giả tên là Thông Huyền, người Đông Bắc Thái Nguyên, hoặc gọi là bậc Tôn Thất nhà Đường. Năm Thứ Bảy Khai Nguyên, ở ẩn nơi Thổ Khám núi Phương Sơn, làm bộ Hoa Nghiêm Hiệp Luận gồm bốn mươi pho. Cọp quỳ đội kinh, rồng thần hóa suối. Ngày có Thiên Nữ hầu phụng, đêm thì ánh sáng của trăng thay đuốc. Ngày thị tịch, chim thú buồn kêu, khí sáng tột trời. Tuổi thọ chín mươi sáu.

Ông Trương Vô Tận cho là Đức Văn Thù, Phổ Hiền hiện huyễn thân, đâu biết chẳng phải Đức Quan Âm hiện huyễn thân vậy ư?

Kinh:

“Nếu các chúng sanh thích đàm luận những danh ngôn, giữ mình trong sạch, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Nghe rộng hiểu nhiều, chẳng cần quan tước, của cải giàu có, giữ chí liêm khiết, gọi là Cư Sĩ.

Ông Bàng Uẩn, hiệu Đạo Huyền, người xứ Hành Dương sớm ngộ sự mỏi nhọc của đời, chí tìm cầu chân lý.

Ban đầu, ra mắt Tổ Thạch Đầu, hỏi rằng: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn lứa, ấy là người nào?”

Tổ Đầu lấy tay bịt miệng.

Hoát nhiên tỉnh ngộ.

Ngày nọ, Tổ Đầu hỏi: “Từ khi gặp lão tăng đến nay, việc hàng ngày của ông thế nào?”

Cư sĩ đáp: “Nếu hỏi việc dùng hàng ngày, tức không có chỗ mở miệng”.

Bèn trình kệ:

“Việc hàng ngày không khác

Riêng ta tự an bằng

Mỗi mỗi không nắm, bỏ

Chốn chốn chẳng chống ngăn

Lộn xộn ai bày nhỉ?

Non Khưu bặt bụi trần

Gánh nuớc cùng vác củi

Đó: diệu dụng, thần thông”.

Tổ Đầu bằng lòng, hỏi : “Ông dùng áo đen hay trắng?”

Cư sĩ nói: “Nguyện theo chỗ thích”.

Bèn chẳng cạo, nhuộm.

Sau đến tham vấn Đức Mã Tổ, hỏi rằng: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn lứa, ấy là người nào?”

Ngài Mã Tổ nói: “Đợi ông hớp một ngụm hết nước Tây Giang, ta sẽ vì ông nói!”

Cư sĩ ngay lời nói nhận liền huyền chỉ. Bèn ở lại tham học hai năm.

Có bài kệ rằng:

“Có trai chẳng cưới

Có gái chẳng gả

Cả nhà sum vầy lại

Cùng nói lời Vô Sanh”.

Từ đó cơ phong nhanh lẹ, các nơi đều hướng về.

Cư sĩ xứ Đông Độ, phải lấy họ Bàng làm đầu. Vợ chồng, trai gái đều lên Vô Thượng Giác. Đó là hậu thân của Duy Ma, Kim Túc rộng nói Pháp Môn Bất Nhị. Cũng chẳng là xưa cũ vậy.

Thiện Tâm
09-28-2015, 11:46 AM
Kinh:

“Nếu các chúng sanh muốn trị cõi nước, chia rõ bang ấp, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tể Quan, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Như Lai dùng bốn việc để dẫn dắt chúng sanh, cùng họ đồng sự. Lời dễ hiểu, cơ dễ hợp. Nhưng Tể Quan ấy, đều ỷ tài nghệ, đều chấp nghị luận, chẳng phải đồng bực thì khó thể nói cùng. Nên hiện thân Tể Quan ở đời để cùng loại vậy.

Ông Hiến Công Biện Triệu Thanh ngoài bốn mươi tuổi dẹp bỏ thanh sắc, chí tâm vào Tông Giáo. Gặp Tổ Phật Huệ ở Nam Thiền. Ngày ngày ông đều lân la đến, Tổ Huệ chẳng thốt một lời. Sau giữ Thanh Châu, ngoài việc chánh quyền, phần nhiều tĩnh tọa. Bỗng sét nổ lớn kinh hồn, liền khế ngộ.

Làm bài kệ rằng:

“Công sở lặng ngồi yên trên ghế

Nguồn tâm chẳng động như nước trong

Một tiếng sét ầm, khai cửa đảnh

Kêu lên xưa trước tự nhà mình”.

Tổ Huệ nghe được, cười rằng: “Ông Triệu ưa nói văn vẻ vang rân, nhỉ”.

Có Ông Phú Trịnh Công Bậät ban đầu đối với tông môn chưa có chỗ hướng vào, ông gắng khuyên, viết thơ rằng: “Trộm nghĩ, như Ngài, cực kỳ giàu sang như thế, dư dật đạo đức như thế, đầy đủ phước thọ an vui như thế, cao quý nhàn hạ hư ẩn như thế, chỉ có chỗ chưa lưu ý sâu xa, là một chuyện đại sự nhân duyên của Như Lai mà thôi. Nếu hay thành thật chuyên cầu chỗ chứng ngộ, ắt có ngày xin làm môn hạ chúc mừng”.

Trịnh Công nhờ ông thức tỉnh khuyến khích, ngày đêm chẳng bỏ, tinh tấn trong đạo. Nghe thiền sư Ngung, chủ Đầu Tử, bèn đến gạn hỏi chỗ nghi. Gặp Tổ Ngung đang lên tòa, thấy Ngài nhìn lại như voi chúa quay đầu, hơi tỉnh ngộ, bèn giữ lễ đệ tử. Tổ bảo thị giả cho vào thất.

Tổ Ngung liền nói: “Tướng Công đã vào, Phú Bật còn ở ngoài!”

Ông nghe qua, mồ hôi toát ướt lưng, bèn đại ngộ.

Viết bài kệ gởi Viên Chiếu:

“Vừa gặp Ngung Công, ngộ nhập thâm

Được truyền lén lút lão sư tâm

Đông Nam chớ nói non sông cách

Ngày đối linh quang với diệu âm”.

Đây là dùng thân Tể Quan, vì Tể Quan thuyết pháp mà được chứng vậy. Thật đủ làm khuôn mẫu cho đời.

Thiện Tâm
09-28-2015, 11:48 AM
Kinh:

“Nếu các chúng sanh thích những số thuật, nhiếp giữ thân tâm, tôi ở trước người ấy, hiện thân Bà La Môn, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Bà La Môn đây gọi là Tịnh Hạnh, rất tôn sùng ngoại đạo, như thờ Lửa, Nước, tức là hạng số thuật, nhiếp tâm, vệ sanh để tự an vậy. Số thuật hòa hợp với xem tướng, phương pháp thiên văn xem sự thịnh suy.

Tổ Cưu Ma La Thập dòng dõi Bà La Môn, nên xem bói họa, phước nhiều điều đúng kỳ lạ, số thuật của Ngài kể ra không hết.

Ông Thị Lang Lý Hạo lúc nhỏ xem Thủ Lăng Nghiêm, như về đất cũ; sau đến Minh Quả Đầu Thành nhập thất.

Tổ Ứng Am vỗ vào ngực, nói: “Ông Thị Lang chết rồi đi đâu, nhỉ?”

Ông hãi hùng toát mồ hôi.

Tổ Am quát đuổi ra.

Công rút lui tham cứu. Chưa bao lâu thì đến chỗ áo diệu, làm bài kệ gởi cho Ông Nghiêm Khương Triều, bạn đồng tham, rằng:

“Cửa có quán Tôn Tẩn

Nhà có vợ Cam Chí

Đêm ngủ rồi sáng dậy

Ai ngộ với ai mê”.

Tổ Am khen tốt.

Có thầy Dục Yên Chi cũng học đã lâu với Tổ Ứng Am, có hơi tự phụ.

Ông tặng bài kệ rằng :

“Chẳng cần son phấn tự phong lưu

Đường thiền mấy nỗi đến đây thôi

Qua suốt xưa nay chuồng cũi nhốt

Đến đi trong ấy chịu ăn đòn”.

Xem sự giao du của Ông Lý, đó là lấy hạnh Bà La Môn mà được chứng. Thường thường đều có, đâu chỉ một mình Cam Chí có Tịnh Hạnh thôi đâu.

Thiện Tâm
09-30-2015, 10:27 AM
Kinh:

“Nếu có người trai muốn học xuất gia, giữ các Giới Luật, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tỳ Khưu, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Đại Sư Tăng Già, người xứ Tây Vực, từng nằm nghỉ ở nhà Bà Hạ Bạt, thân bỗng lớn cao hơn giường chõng phải đến ba thước, làm người người đều kinh hãi. Kế đó hóa ra hình Quan Âm mười một mặt. Trong nhà càng thêm tin trọng, bèn sửa nhà thành chùa.

Vua Trung Tông sai sứ thỉnh vào đạo tràng, tôn làm Quốc Sư. Thường ở riêng một thất, trên đỉnh đầu có một cái lỗ, vẫn dùng nùi chỉ tơ nhét lại. Đêm thì mở ra, hương thơm từ trong lỗ ấy bay ra, đến sáng, hương thơm trở lại trong đảnh, rồi lại lấy nùi tơ nhét bít lại. Khi thị tịch, vua đưa đến xứ Lâm Hoài, xây tháp cúng dường.

Vua Trung Tông hỏi thầy Vạn Hồi rằng: “Đại Sư Tăng Già là người nào thế?”

Thầy Hồi đáp: “Đó là hóa thân của Đức Quan Âm vậy. Phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa nói: “Đáng dùng thân Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni để được độ, liền hiện thân, mà nói pháp cho”. Chỗ này là như vậy đó”.

Khi sư đến Trường An, thầy Vạn Hồi lạy ra mắt rất tôn kính.

Sư vỗ vai thầy, nói: “Ông nhỏ sao ở lại lâu, đi được rồi đó”.

Sư tịch chưa trọn tháng, thầy Hồi cũng tịch luôn.

Thầy Tiệm Nguyên làm thị giả nơi Tổ Đạo Ngô. Một hôm theo Tổ đến nhà đàn việt phúng điếu.

Thầy Nguyên vỗ trên quan tài, nói: “Sống ư, chết ư?”

Tổ Ngô nói: “Sống cũng không nói, chết cũng không nói!”

Thầy Nguyên nói: “Vì sao mà không nói?”

Tổ Ngô nói: “Không nói! Không nói!”

Về đến giữa đường, thầy Nguyên nói: “Hôm nay Hòa Thượng phải nói ra cho tôi. Nếu không nói, thì đánh Hòa Thượng”.

Tổ Ngô nói: “Đánh thì cứ đánh, nói thì không nói”.

Thầy Nguyên bèn đánh.

Tổ Ngô về chùa nói: “Ông nên rời chốn này, sợ rằng thầy Tri Sự biết được thì không tiện”.

Thầy Nguyên bèn lạy từ giã, ẩn nơi chùa trong làng.

Trải qua ba năm, bỗng nghe đồng tử tụng kinh Quan Âm đến chỗ, “Đáng dùng thân Tỳ Khưu để được độ, tức hiện thân Tỳ Khưu”, hốt nhiên đại ngộ. Liền đốt hương, ở xa mà lạy : “Mới biết lời Tiên Sư để lại chẳng hư lầm. Chính tôi tự chẳng hiểu, lại hờn oán Tiên Sư”. Bèn đến Tổ Thạch Sương, bày cúng trai sám hối.

Thế là một câu “Tỳ Khưu...” này đủ rồi giải thoát. Trí lực Quan Âm nhiệm mầu, thế nên chẳng thể nghĩ bàn vậy.

Thiện Tâm
09-30-2015, 10:33 AM
Kinh:

“Nếu có người gái muốn học xuất gia, giữ các Cấm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tỳ Khưu Ni, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng :

Giới Luật Tỳ Khưu có hai trăm năm mươi điều. Cấm Giới của Tỳ Khưu Ni phàm là năm trăm điều. Rõ ràng là hơn Tỳ Khưu, vì tánh nữ kém phần cao sáng, nên dùng Cấm Luật làm Giới vậy.

Ni Lưu Thiết Ma đến Tổ Quy Sơn.

Tổ nói: “Trâu nái già, ngươi đến ư?”

Ni Ma nói: “Ngày mai ở Đài Sơn có hội trai lớn, Hòa Thượng có đi chăng?”

Tổ Quy Sơn duỗi chân nằm.

Ni Ma liền lui ra.

Có nhà sư hỏi Tổ Phong Huyệt: “Tổ Quy Sơn nói “Trâu nái già, ngươi đến ư?” Ý chỉ như thế nào?”

Tổ Huyệt nói: “Chốn sâu rồng vàng múa mây trắng”.

Nhà sư hỏi: “Còn như Lưu Thiết Ma nói “Ngày mai ở Đài Sơn có hội trai lớn, Hòa Thượng có đi chăng?” Ý chỉ như thế nào?”

Tổ Huyệt nói: “Trong tâm xanh sóng, ngọc thỏ kinh”.

Nhà sư hỏi: “Quy Sơn bèn bày ra thế nằm, ý chỉ như thế nào?”

Tổ Huyệt nói :

“Lè phè già nghỉ ngày vô sự

Rảnh ngủ cao nằm đối núi xanh”.

Tổ Tuyết Đậu tụng rằng :

“Từng ngồi ngựa sắt nhập bao thành

Lệnh xuống nghe rằng sáu nước trong [Yên]

Đường về, như nắm roi vàng hỏi

Đêm sâu hành ngự với ai cùng”.

Tổ Thiên Đồng tụng rằng :

“Trăm chiến công thành lão thái bình

Hơn thua ai chịu nhọc đo tranh

Ngựa vàng roi ngọc nhàn suốt buổi

Gió trong trăng sáng một đời sang”.

Về các Tỳ Khưu Ni, cơ duyên ngữ cú rất nhiều, đều bày chuyện hướng thượng, nào thuật hết được, nên lục ra để làm khuôn mẫu.

Thiện Tâm
09-30-2015, 10:38 AM
Kinh:

“Nếu có người trai thích giữ năm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ Nam, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Năm Giới tức là giới Sát, Đạo, Dâm, Vọng Ngữ và Uống Rượu. Cư sĩ nam tức là cận sự nam, giữ sự trong sạch, hay giúp việc cho Tỳ Khưu vậy.

Vị đạo nhân Thứ Mười Ba ở Tiên Châu Sơn Ngô thường hỏi đạo các vị thiền đức, đến quy y Ngài Khai Thiện. Rồi kết am ở bên trái, dâng cấp hầu hạ. Đêm mồng Tám tháng Ba, đời Thiện Hưng, bỗng nhiên tỏ ngộ, làm bài kệ trình Ngài Thiện rằng :

“Xưa nay không nứt, vá

Chạm đến rỡ ràng ngay

Đã là ngàn vàng báu

Nào phải động dụng gì”.

Ngài Thiện đáp lại bài kệ :

“Đất nứt nẻ rồi vui khoái thay

Tử sanh, phàm thánh sạch liền ngay

Dưới núi Tiên Châu cười ha hả

Chẳng phụ cùng nhau tâm xưa rày !”

Cư sĩ nam này cũng là Giải Thoát.

Thiện Tâm
09-30-2015, 10:40 AM
Kinh :

“Nếu có người gái tự giữ năm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ Nữ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Cư sĩ nữ gọi là cận sự nữ, giữ sự trong sạch, thường giúp việc cho Tỳ Khưu Ni vậy.

Cô Du Đạo Bà, người xứ Kim Lăng, làm nghề chiên bánh dầy ở chợ, theo chúng tham hỏi Tổ Lang Gia Khởi. Tổ Khởi lấy chỗ Vô Vị Chơn Nhơn của Tổ Lâm Tế nói mà bày chỉ. Một hôm, nghe người ăn xin ca bài Liên Hoa Lạc rằng “Chẳng nhờ Liễu Nghị truyền thơ tín, duyên đâu đến được Động Đình Hồ”, bỗng đại ngộ, bưng mâm bánh dầy ném xuống đất.

Chồng cô là Bàng Nghệ nói rằng: “Bà điên ư?”

Cô Bà vỗ tay, nói : “Chẳng phải cảnh giới của ông”.

Bèn đi ra mắt Tổ Khởi.

Tổ xa trông, biết chỗ sở đắc, hỏi: “Cái gì là Vô Vị Chơn Nhơn?”

Cô Bà nói :

“Có một Vô Vị Chơn Nhơn

Sáu tay ba đầu nỗ lực sân

Một nẻo Hoa Sơn phân hai lối

Muôn năm nước chảy chẳng hay xuân”.

Từ đó, danh tiếng nổi lên. Cô thường tụng bài Bất An Nhân Duyên [Tổ Mã đại sư có bệnh. Viện chủ hỏi rằng: “Ngày nay tôn hầu như thể nào?”Mã đại sư đáp: “Mặt trời Phật, mặt trăng Phật”] của Mã Tổ.

Cô nói: “Mặt trời mặt trăng, hư không chớp nháng. Tuy là dứt yên đầu lưỡi nạp tăng trong thiên hạ, nhưng rõ ràng chỉ nói được một nửa”.

Không ngờ cô cư sĩ mà thuyết pháp như vậy, há không có trăm ngàn ức Hóa Thân ư?

Thiện Tâm
09-30-2015, 10:43 AM
Kinh: “Nếu có người nữ lập thân Nội Chính, để sửa sang nước nhà, tôi ở trước người ấy, hiện thân Nữ Chúa hay thân Quốc Phu Nhân, đại gia mệnh phụ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Lập thân trong Nội Chính để sửa sang nước nhà, dùng món ngon quý làm việc cúng tế, các việc này chẳng có gì không là Phật sự.

Tổ Chí Công nói: “Kinh đô, huyện đô mênh mông lại là Bồ Đề Đại Đạo”. Lại nói, “Đại Đạo chỉ là trước mắt, vậy mà trước mắt khó thấy. Muốn biết chân thể của Đại Đạo, nào lìa sắc thanh ngôn ngữ”.

Đạo gần đến như vậy đó. Há cho người nữ là chẳng sẵn đủ ư?

Phu nhân Ông Mân Súy là Thôi Thị Phụng Đạo. Bà tự xưng là Luyện Sư. Sai sứ đưa y phục đến Tổ Trường Khánh, nói rằng : “Luyện Sư sai đến, xin hồi tin”.

Tổ Khánh nói: “Bảo Luyện Sư lãnh nhận hồi tin”.

Giây lát, sứ đến trước mặt Tổ dạ lớn, rồi liền trở về.

Hôm sau, Tổ Khánh vào phủ.

Luyện Sư bung mở cả hai tay.

Ông Súy hỏi Tổ Khánh rằng: “Luyện Sư vừa trình tin, đại sư vừa ý chăng ?”

Tổ Khánh nói : “Gần gần chút ít”.

Luyện Sư hỏi : “Chưa rõ đại sư ý chỉ thế nào?”

Tổ Khánh im lặng giây lâu.

Luyện Sư nói : “Chẳng thể nghĩ bàn, Phật pháp đại sư thật sâu xa”.

Đoạn công án này thật giống pháp môn Bất Nhị của Đức Duy Ma Cật.

Phu nhân nước Tần, Bà Kế Thị Pháp Chân, tự ở góa, xa lánh phồn hoa, thường ăn chay, học tập pháp hữu vi. Nhân Tổ Đạo Huệ bảo thị giả Khiêm đến hỏi thăm con của Ngụy Công. Công giữ thầy Khiêm lại, thầy dùng đạo Tổ mà dạy cho.

Bà Chân ngày nọ hỏi thầy Khiêm : “Kính Sơn Hòa Thượng bình thường dạy người thế nào?”

Thầy Khiêm nói: “Hòa Thượng chỉ dạy cho người khán “Con chó không có Phật Tánh”, cùng với lời nói, “Cái lược tre”. Chỉ không được mở lời, không được nghĩ lường, không được hướng về chỗ khởi ra mà hiểu, không hướng về chỗ mở lời mà nhận lãnh. Con chó lại có Phật Tánh không? Không! (Vô!) Chỉ như vậy dạy người khán”.

Bà Chân liền tin chân thành. Trong đêm ấy, ngồi ra sức nghiệm cứu lời nói ấy, bỗng nhiên rỗng suốt không ngại.

Thầy Khiêm từ giã trở về.

Bà Chân tự mình viết Kệ nói trường hợp vào đạo trình Tổ Huệ.

Bài chót viết :

“Suốt ngày xem kinh văn

Như gặp người quen cũ

Chớ nói còn có ngại

Mỗi cữ, mỗi lần tân (mới)”.

Những đại gia mệnh phụ được chứng không ít. Ai mà không được sự gia hộ lặng lẽ của Đại Sĩ, khiến có chỗ thành tựu ư?

Thiện Tâm
10-02-2015, 06:28 PM
Kinh:

“Nếu có chúng sanh không phá nam căn, tôi ở trước người ấy, hiện thân đồng nam, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Tôn giả Vi Đà mười đời đồng chơn. Đồng tử Thiện Tài từ Nam tham hỏi trở về, qua tám chín chục tuổi, cũng có tên đồng tử. Đó là vì nam căn chưa hư vậy.

Thầy Phật Nhựt Bổn Không ban đầu đến Thiên Thai, nói rằng: “Nếu có người đoạt được cơ của tôi, tức là thầy tôi vậy”.

Tìm đến ra mắt Tổ Vân Cư, hỏi rằng: “Hai rồng tranh châu, con nào được ấy?”

Tổ Cư nói: “Trút hết nghiệp thân đi, thì cùng ông tương kiến”.

Thầy Không nói: “Nghiệp thân đã trút”.

Tổ Cư nói: “Châu ở chốn nào?”

Thầy Không chẳng đáp được, mới thành thật xin nhập thất, lúc ấy tuổi mới mười ba.

Bốn năm sau, viếng Tổ Giáp Sơn, vừa vào cửa gặp thầy Duy Na.

Thầy Duy Na nói: “Chốn này chẳng chứa kẻ hậu sanh”.

Thầy Không nói: “Tôi đây chẳng tìm chỗ ở trú, tạm đến làm lễ ra mắt Hòa Thượng”.

Duy Na bạch lại Tổ Giáp Sơn. Tổ Sơn cho gặp.

Thầy Không chưa bước lên thềm, Tổ Sơn liền hỏi: “Ở đâu tới?”

Thầy Không đáp: “Vân Cư đến”.

Tổ Sơn nói: “Bèn nay ở tại chốn nào?”

Thầy Không đáp: “Tại trên chót đảnh Giáp Sơn”.

Tổ Sơ nói: “Lão tăng hành niên ở Khảm, Ngũ Quỷ lâm Thân”.

Thầy Không định lên thềm.

Tổ Sơn nói: “Ba Đạo thềm báu theo chỗ nào bước lên?”.

Thầy Không rằng: “Ba Đạo thềm báu ngay khúc ngoặt này, một đường hướng thượng, xin thầy trực chỉ”.

Tổ Sơn bèn đón chào. Thầy Không mới bước lên thềm lễ bái.

Tổ Sơn hỏi: “Thầy Xà Lê cùng đi với người nào?”

Đáp: “Mộc Thượng Tọa”.

Tổ Sơn nói: “Sao chẳng đến cùng gặp lão tăng?”

Đáp: “Hòa Thượng thấy y đôi phần”.

Tổ Sơn hỏi: “Tại chốn nào?”

Đáp: “Tại trong nhà giảng”.

Tổ Sơn bèn cùng đến trong nhà giảng. Thầy Không liền cầm cây gậy ném trước mặt Tổ Sơn.

Tổ Sơn nói: “Chẳng phải Thiên Thai đắc ư?”

Đáp: “Chẳng phải Ngũ Nhạc sanh”.

Tổ Sơn nói: “Chẳng phải Tu Di đắc ư?”

Đáp: “Cung trăng cũng chẳng gặp”.

Tổ Sơn nói: “Như thế tức từ người được vậy?”

Thầy Không nói: “Tự mình còn là oan gia, từ người nhận được mà làm gì?”

Tổ Sơn nói: “Trong tro nguội có một hột đậu nổ”.

Tổ gọi thầy Duy Na sắp xếp nơi chỗ cửa sổ mở.

Thầy Không nói: “Chưa rõ cửa sổ mở lại nói được không?”

Tổ Sơn nói: “Đợi cửa sổ mở nói được, thì nói cho ông”.

Hôm sau, Tổ Giáp Sơn thượng đường, hỏi: “Ông khách đến hôm qua ở đâu?”

Thầy Không bước ra, lên tiếng dạ.

Tổ Sơn nói: “Thầy trước khi chưa đến Vân Cư, thì ở đâu?”

Đáp: “Tại Thiên Thai Quốc Thanh”.

Tổ Sơn nói: “Ta nghe Thiên Thai có nước chảy róc rách, sóng biếc lặng trong. Cám ơn thầy ở xa đến. Ý này như thế nào?”

Đáp: “Ở lâu hang núi, chẳng mang chùm gởi”.

Tổ Sơn nói: “Đó còn là Xuân ý, Thu ý thì làm sao?”

Thầy Không im lặng giây lâu.

Tổ Sơn nói: “Xem ông chỉ là đứa chống ghe. Rốt cuộc chẳng phải người giỡn sóng”.

Hôm sau, nhóm chúng cắt việc. Thầy Duy Na khiến thầy Không vận tải trà.

Thầy Không nói: “Tôi vì Phật Pháp mà đến, chẳng phải vì vận tải trà mà đến”.

Thầy Duy Na rằng: “Đó là vâng lời sự phân định của Hòa Thượng”.

Thầy Không nói: “Tôn lệnh của Hòa Thượng thì được”.

Mới đem trà đến chỗ làm việc, khua chén trà gây ra tiếng.

Tổ Sơn quay ngó lại.

Thầy Không nói: “Trà đậm năm ba chén, ý tại bên vạc trà”.

Tổ Sơn nói: “Bình có thế rót trà, trong giỏ bao nhiêu chén?”

Thầy Không nói: “Bình có thế rót trà, trong giỏ không một chén”.

Bèn rót trà. Chúng đều đưa mắt nhìn.

Thầy Không nói: “Đại chúng ngóng cổ trông mong, xin Thầy một lời”.

Tổ Sơn nói:

“Rắn chết giữa đường đừng đánh giết.

Giỏ không đáy ấy đựng mang về”.

Thầy Không nói: “Tay cầm bùa soi đêm, mấy ai hay trời sáng”.

Tổ Sơn nói: “Này đại chúng, có người rồi! Về thôi! Về thôi!”

Liền bỏ công việc làm chung, trở về chùa. Chúng đều khen ngợi, ngưỡng mộ.

Ôi, đồng tử giác ngộ thật có vậy. Như Phật Nhật cùng Tổ Giáp Sơn gõ xướng, thật lạ lùng.

Thiện Tâm
10-04-2015, 08:22 AM
Kinh:

“Nếu có người xử nữ thích thân xử nữ, chẳng cầu sự xâm bạo, tôi ở trước người ấy, hiện thân đồng nữ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Người không dâm trong tạo vật thì có thể đếm được vậy. Vì từ chỗ chẳng sạch, thì chẳng sạch chẳng đáng ham thích. Bị người xâm bạo, thì xâm bạo chẳng đáng ham thích. Vì ham vui bao nhiêu, thì càng tiều tụy bấy nhiêu. Huống gì gây nghiệp quả sanh tử, không có lúc ngừng nghỉ sao?

Ông Bàng Cư Sĩ, con gái là Linh Chiếu, trinh tiết vượt đời, nêu cốt cách cho người, thường cung cấp cháo rau sớm tối.

Ông Bàng đang ngồi, hỏi Cô Chiếu rằng : “Người xưa nói, “Rành rành trăm ngọn cỏ, rành rành ý Tổ Sư”, hiểu thế nào đây?”

Cô Chiếu nói: “Già cả rồi mà lời lẽ như thế!”

Ông Bàng nói: “Theo cô thì sao?”

Cô Chiếu đáp: “Rành rành trăm ngọn cỏ, rành rành ý Tổ Sư!”

Bàng cư sĩ liền cười.

Ngày nọ, cư sĩ nhân xuống cầu bị ngã. Cô Chiếu thấy, liền đến nằm bên cha.

Cư sĩ nói: “Ngươi làm gì vậy?”

Cô Chiếu đáp: “Thấy cha ngã xuống đất, con đến đỡ dậy”.

Tổ Đơn Hà đến thăm cư sĩ, gặp Cô Chiếu đang rửa rau.

Tổ Hà hỏi: “Cư sĩ có nhà chăng?”

Cô Chiếu thả rổ rau xuống, khoanh tay đứng sững.

Tổ Đơn Hà lại hỏi: “Cư sĩ có nhà chăng?”

Cô Chiếu bưng rổ mà đi. Tổ Hà bèn trở về.

Chốc lát, cư sĩ về đến, Cô Chiếu nói lại chuyện trước.

Cư sĩ nói: “Thầy Đơn Hà còn đây ư?”

Cô Chiếu đáp: “Về rồi”.

Cư sĩ nói: “Đất đỏ bôi trâu nái”.

Cư sĩ sắp nhập diệt, bảo Cô Chiếu rằng: “Xem mặt trời gần trưa, đúng Ngọ thì báo”.

Cô Chiếu bèn nói: “Mặt trời đúng Ngọ rồi, nhưng có nguyệt thực”.

Cư sĩ ra cửa xem. Cô Chiếu liền lên chỗ ngồi của cha, chắp tay ngồi tịch.

Cư sĩ cười, nói: “Con gái ta lanh lợi quá”.

Ông bèn hoãn lại bảy ngày sau mới tịch.

Đời truyền rằng Cô Linh Chiếu là Cổ Phật hóa thân ở trong cõi đời này chứng Như Lai, cùng Long Nữ không khác, đều là không thể nghĩ bàn vậy.

Thiện Tâm
10-04-2015, 08:38 AM
Kinh: “Nếu có Chư Thiên muốn ra khỏi bậc trời, tôi hiện thân trời, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Từ Đế Thích trở lên các Thiên Chủ, đều là bậc Bồ Tát Sơ Địa hiện thân để giáo hóa các vị trời vậy, cho nên không nói là “Ra khỏi”. Các vị trời thuần lạc, ít tâm tinh tấn, tất là sanh nơi nhân gian, “Không” được năm trược mới có thể chứng quả. Cho nên thích làm người, muốn làm người cũng không nói được là “Ra khỏi”. Chỉ có hạng Trời, Rồng, Tám Bộ, hẳn phải thoát khỏi loài mình, sau mới thành tựu. Nếu phân thân biến hoá, chẳng ở trong vòng luật lệ này.

Khi ấy, trong nhà Đức Duy Ma Cật, có một vị Thiên Nữ thấy các trời, người đến nghe thuyết pháp, bèn hiện thân dùng hoa trời rải lên các vị Bồ Tát và các đại đệ tử. Hoa đến Bồ Tát đều liền rơi xuống, đến các đại đệ tử thì dính chẳng rớt. Tất cả đệ tử, dùng thần lực phủi hoa mà chẳng phủi được.

Khi ấy, Thiên Nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất : “Vì sao phủi hoa?”

Đáp rằng: “Hoa này chẳng như Pháp, vì thế phủi đi!”

Thiên Nữ nói: “Chớ nói hoa này chẳng như Pháp, vì sao thế? Vì hoa này không có chỗ phân biệt. Nhân giả tự sanh tướng phân biệt đó. Nếu theo Phật Pháp xuất gia mà có chỗ phân biệt, thế là chẳng như Pháp. Nếu không có chỗ phân biệt, đó là như Pháp. Hãy nhìn các vị Bồ Tát, hoa chẳng dính bám, vì đã dứt lìa tất cả tưởng phân biệt. Thí như khi người sợ, ma quỷ mới được dịp. Cũng thế, vì đệ tử sợ sanh tử, cho nên Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc được thừa dịp vậy. Đã lìa sợ sệt, tất cả năm dục chẳng thể làm gì. Sự kết tập chưa hết, thì hoa dính thân. Sự kết tập dứt hết, hoa chẳng dính vậy”.

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Thiên Nữ ở nhà này đã được bao lâu?”

Đáp rằng “Tôi ở nhà này như sự giải thoát của Ngài”.

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Ở đây lâu thế sao?”

Thiên Nữ đáp: “Sự Giải Thoát của Ngài cũng là lâu sao?”

Xá Lợi Phất lặng thinh chẳng đáp.

Thiên Nữ nói: “Bậc Đại Trí kỳ cựu như sao mà lặng im?”

Đáp rằng: “Sự Giải Thoát không có lời để nói, cho nên đối trong ấy, tôi chẳng biết nói sao”.

Thiên Nữ nói: “Lời nói, văn tự đều là tướng Giải Thoát. Vì sao như thế? Giải Thoát ấy là chẳng trong chẳng ngoài, chẳng ở hai bên. Văn tự cũng chẳng trong chẳng ngoài, chẳng ở hai bên. Thế nên, Ngài Xá Lợi Phất, chớ lìa văn tự mà nói Giải Thoát. Vì sao như thế? Tất cả các pháp chính là tướng Giải Thoát”.

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Chẳng phải vì lìa Dâm, Nộ, Si là Giải Thoát sao?”

Thiên Nữ nói: “Phật vì người tăng thượng mạn, nói lìa Dâm Nộ Si là Giải Thoát. Nếu người không có tăng thượng mạn, Phật nói tánh Dâm Nộ Si tức là Giải Thoát”.

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Lành thay! Lành thay! Thiên Nữ! Cô đắc chỗ gì, chứng được pháp gì, biện luận đến như thế?”

Thiên Nữ nói: “Tôi không đắc, không chứng, nên biện luận như vậy. Vì sao như thế? Có đắc, có chứng tức trong Phật Pháp là người tăng thượng mạn”.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ: “Đối nơi Ba Thừa, chí cô cầu gì?

Thiên Nữ đáp: “Cần pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sanh nên tôi làm Thanh Văn. Cần pháp Nhân Duyên giáo hóa chúng sanh, nên tôi làm Bích Chi Phật. Cần pháp Đại Bi giáo hóa chúng sanh, nên tôi là Đại Thừa. Ngài Xá Lợi Phất, như người vào rừng Chiêm Bặc, chỉ ngửi hương Chiêm Bặc, chẳng ngửi hương nào khác. Cũng thế, như vào nhà này, chỉ nghe hương công đức Phật, chẳng thích nghe hương công đức của Thanh Văn và Bích Chi Phật”.

Bấy giờ Đức Duy Ma Cật nói với Ngài Xá Lợi Phất: “Vị Thiên Nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức Chư Phật, đã hay du hý Bồ Tát Thần Thông. Chỗ nguyện đầy đủ, đắc Vô Sanh Nhẫn, trụ bậc Chẳng Lui Sụt. Vì bổn nguyện nên tùy ý thị hiện, giáo hóa chúng sanh.

Đây là Quan Thế Âm chăng? Chẳng phải Quan Thế Âm chăng?

Thiện Tâm
10-04-2015, 09:10 AM
Kinh:

“Nếu có các Rồng muốn ra khỏi bậc Rồng, tôi hiện thân Rồng, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Loài Long Thần rất biết kính trọng Tam Bảo, nên kho tàng dưới biển ở Long cung chứa đầy Phật Pháp. Họ nghe Pháp mà được Giải Thoát cũng dễ dàng. Như trong kinh Pháp Hoa, Đức Bồ Tát Văn Thù dạy Cô Long Nữ.

Khi ấy, Ông Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng: “Cô nói là chóng đắc Đạo Vô Thượng, việc ấy khó tin. Vì sao như thế? Thân nữ dơ bẩn, chẳng phải là Pháp Khí, làm sao có thể đắc Bồ Đề Vô Thượng? Đạo Phật tót vời mênh mông, qua vô lượng kiếp cần khổ bồi hạnh, tu đủ các ba la mật, rồi sau mới thành. Lại thân người nữ còn năm chướng ngại. Một là chẳng được làm Phạm Thiên Vương; hai là Đế Thích; ba là Ma Vương; bốn là Chuyển Luân Thánh Vương; năm là thân Phật. Làm sao thân nữ chóng đắc thành Phật?”

Lúc ấy, Long Nữ có một ngọc báu giá trị ba ngàn đại thiên thế giới, cầm dâng lên Phật. Phật liền nhận ngọc.

Long Nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng: “Tôi dâng ngọc báu, Thế Tôn thu nhận, việc ấy nhanh chăng?”

Đáp rằng: “Rất nhanh”.

Long Nữ nói: “Dùng thần lực, Ngài xem tôi thành Phật còn nhanh hơn thế”.

Chúng hội đương thời đều thấy Long Nữ trong khoảng khắc hốt nhiên biến thành ra trai, đủ hạnh Bồ Tát, liền qua thế giới Vô Cấu Nam Phương ngồi tòa sen báu, thành Đẳng Chánh Giác, ba mươi hai tướng, tám chục thứ tốt, khắp vì mười phương tất cả chúng sanh diễn thuyết diệu pháp.

Khi ấy, nơi thế giới Ta Bà, Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, Rồng, tám bộ, người cùng Quỷ Thần đều xa thấy Long Nữ ấy thành Phật.

Đó là chỗ thuyết pháp thành tựu của Đức Văn Thù.

Biết đâu chỗ thành tựu của Đức Quan Âm chẳng lại như thế ư?

Thiện Tâm
10-04-2015, 09:17 AM
Kinh:

“Nếu có Dược Xoa muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Dược Xoa, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Dược Xoa gọi là nhanh nhẹ, cũng gọi là dò xét, tức là để giữ thành trì cửa Trời vậy.

Thầy Thích Thanh Hư tụng Kim Cang Bát Nhã, ba nghiệp đều chuyên nhất, thường trì tụng nơi núi rừng, có điềm lành bảy con nai thuần lành thuận theo. Khi thầy nhập hạ tại Thiếu Lâm, trên đỉnh núi có một cái thất thờ Phật, không ai dám đến, cho là nhà của Quỷ Thần.

Từng có một thầy Luật Sư ỷ vào Giới Hạnh, đêm nọ đến tụng Luật thì thấy một người cao lớn cầm giáo đâm mình, lê lết khốn khổ xuống núi, đi không nổi, mất hết khí lực.

Lại còn có nhà sư trì chú Hỏa Đầu Kim Cang, ai cũng tôn trọng. Đại chúng nói với thầy rằng: “Chú lực của thầy vô song, có thể ở nơi đó được chăng ?”

Đáp rằng: “Đây há sợ ư?”

Liền cầm hương đèn và ngồi trì chú. Chốc lát, vị thần xuất hiện, lấy tay nắm cẳng lôi đi, ném xuống khe nước. Suốt bảy ngày chẳng nói được, tinh thần hôn mê đảo lộn.

Thầy Thanh Hư nghe được, nói rằng: “Hạ thú, quỷ vật dám thế ư?”

Liền sang đó tụng kinh như thường. Đêm nghe trên không dường như có tiếng rất hung ác, liền niệm chú Quan Âm Thập Nhất Diện. Lại nghe trong điện như có tiếng hai con trâu đánh nhau, tượng Phật đều rung rinh. Chú cũng đã mất hiệu nghiệm. Trở lại trì tụng kinh Kim Cang, tương tự như một cái gút vững chắc, thì ảnh hưởng đều dứt.

Từ đó, người ở không còn lo sợ. Há cũng là nghe tứ cú kệ mà chóng được Giải Thoát đó ư?

Có nhà sư hỏi Tổ Đạo Ngô Chơn: “Thế nào là thể Chân Như?”

Đáp: “Dạ Xoa quỳ gối, con ngươi đen thui”.

Hỏi: “Thế nào là dụng Chân Như?”

Đáp: “Gậy Kim Cang đập bể núi Thiết Vi”.

Tức đây là chỗ dẫn ra “Thần Kim Cang, quỷ Dạ Xoa”, cũng đủ phát minh việc hướng thượng. Há đâu chẳng phải Chân Như sao?

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:21 PM
Kinh:

“Nếu có Càn Thát Bà muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Càn Thát Bà, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Càn Thát Bà gọi là Tầm Hương, là Thần Nhạc của Đế Thích.

Nhân dịp Vua Càn Thát Bà hiến nhạc cho Đức Thế Tôn, khi ấy núi sông đất đai, hết thảy đều khởi tiếng đàn.

Ngài Ca Diếp đứng lên nhảy múa.

Vua hỏi: “Ca Diếp há chẳng phải là A La Hán, các lậu đã hết, sao còn sót tập khí cũ?”

Phật rằng: “Thật không còn tập khí cũ, chớ phỉ báng pháp”.

Vua lại gảy đàn ba phen thì Ngài Ca Diếp cũng ba phen nhảy múa.

Vua nói: “Không phải Ca Diếp nhảy múa sao?”

Phật rằng: “Thật chẳng từng nhảy múa”.

Vua nói: “Thế Tôn sao có vọng ngữ?”

Phật rằng: “Chẳng có vọng ngữ. Ông đánh đàn, núi sông đất đai gỗ đá hết thảy đều nổi tiếng đàn, chẳng phải sao?”

Vua nói: “Thật vậy”.

Phật rằng: “Ông Ca Diếp cũng lại như thế. Vì thế thật chẳng từng nhảy múa”.

Vua bèn tin nhận.

Cổ đức tụng rằng:

“Nhè nhẹ gảy lên một tiếng đàn

Vang tiếng Tam Thiên với Đại Thiên

May có Ẩm Quang hay ý ấy

Mới dùng tay (áo) lụa rước khói xuân”.

Tổ Huyền Sa hỏi nhà sư: “Thành Càn Thát Bà, ông hiểu thế nào ?”

Đáp: “Như mộng như huyễn”.

Tổ Pháp Nhãn riêng gõ vật chỉ bày đó.

Hai tắc công án này thịnh hành. Thật là Thần Càn Thát Bà còn ở đây nói pháp.

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:25 PM
Kinh:

“Nếu có A Tu La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân A Tu La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

A Tu La gọi là Phi Thiên [Chẳng Phải Trời], lại gọi là Vô Tửu [Không Rượu], vì sân mà chẳng do uống rượu. Lại gọi là Không Đoan Chánh, vì nữ đẹp mà nam xấu vậy.

Tổ Lâm Tế nói: “Ông nói Phật có sáu thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả Chư Thiên, Thần Tiên, A Tu La, Đại Lực Quỷ cũng có thần thông, có phải là Phật chăng? Kẻ học đạo chớ lầm! Như A Tu La cùng Trời Đế Thích đánh nhau, thua trận, dẫn tám vạn bốn ngàn quyến thuộc chun trốn trong lỗ cọng sen, không là Thánh ư?

“Như chỗ nêu ra của sơn tăng, đó đều là Nghiệp Thông, Y Thông [Nghiệp thông, y thông: thần thông từ nghiệp, thần thông có nương dựa]. Phàm như Lục Thông của Phật, thì vào Sắc Giới chẳng bị Sắc lầm gạt; vào Thanh Giới chẳng bị Tiếng lầm gạt; vào Hương Giới chẳng bị Hương lầm gạt; vào Pháp Giới chẳng bị Pháp lầm gạt. Vì lẽ thông đạt sáu thứ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều là Không Tướng, làm sao trói buộc. Đạo nhơn Không-chỗ-nương này tuy là xác phàm năm Ấm, chính là bậc Địa Hành Thần Thông”.

Khiến cho A Tu La nghe được pháp này mà đem hồi hướng lục thông, chẳng có tự ỷ vào cái Thần Thông Nương Dựa vậy. Thì sao có sự không thể Giải Thoát ư?

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:33 PM
Kinh:

Thêm vào rằng: “Nếu có Ca Lâu Na muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Ca Lâu Na, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Theo bản dịch kinh Pháp Hoa, Bích Chi Phật tuy gồm hai ý Độc Giác, Duyên Giác mà thật chỉ là một Bích Chi vậy. Kinh này đối với Độc Giác, Duyên Giác chia làm hai, mới thiếu một loài Ca Lâu Na, đối với phẩm Phổ Môn chẳng phù hợp, nay bổ khuyết thêm. Ca Lâu Na gọi là Kim Xí Điểu, cánh màu vàng, dương ra dài ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, xem rồng biển nào mạng sắp hết thì dùng cánh quạt tách nước biển, bắt lấy mà ăn.

Thuở Ông Xá Lợi Phất sáng lập vườn Cấp Cô Độc, cùng với Lao Độ Sai tranh thắng. Thầy Sai hóa rồng dữ muốn hại Ông Phất. Ông Phất hóa ra chim Diệu Xí chụp xé mà ăn.

Về sau có nhà sư hỏi Tổ Hưng Dương Phẩu rằng: “Ta Kiệt [Vua Rồng] xuất biển, Càn Khôn sạch. Đối mặt trình nhau sự thế nào?”

Tổ Phẩu nói: “Diệu Xí Điểu Vương trùm vũ trụ. Trong kia ai kẻ ló đầu ra?”

Nhà sư hỏi: “Bỗng gặp lúc ló đầu, lại làm thế nào?”

Tổ Phẩu nói: “Như (chim) cắt, bắt (chim) cưu, ông chẳng rõ. Trước lầu ngự nghiệm mới hay Chân”.

Nhà sư nói: “Như thế ắt khoanh tay ngay ngực, lui thân ba bước!”

Tổ Phẩu nói: “Dưới núi Tu Di con rùa đen ngu ngốc

“Chẳng đợi dạy lại chuyện “Điểm dấu trên trán””.

Tổ Thiên Đồng tụng rằng:

“Chiếu chỉ xuống, hiệu lịnh phân

Trong cõi: Thiên Tử; ngoài ải: Tướng Quân

Chẳng chờ sấm chớp nở sâu

Ai hay gió tạt mây đi

Cơ quan ấy liên miên, hề, tự có kim vàng chỉ ngọc

Trước mặt ấn rộng không, hề, nguyên không dấu điểu vết trùng”.

Đây là dùng Kim Xí Điểu phát minh việc hướng thượng, thì không đối thủ, nên Kim Xí Điểu hẳn là Thuyết Pháp Đệ Nhất.

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:41 PM
Kinh: “

Nếu có Khẩn Na La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Khẩn Na La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng :

Khẩn Na La gọi là Nghi Nhân, vì thân người mà có sừng, thấy đó đâm nghi. Đây là Thần Pháp Nhạc của Thiên Đế. Càn Thát Bà tấu nhạc thế gian. Khẩn Na La thì tấu nhạc xuất thế gian. Tấu pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, sáu Ba La Mật thì nhạc phàm tục không thể sánh.

Hiện đời này, thần Già Lam chùa Thiếu Lâm từng hiện thần lực, hai chân nhảy vượt hai hòn núi Thái Thất và Thiếu Thất, cầm gậy đuổi giặc. Giặc sợ, vỡ tan chẳng dám vào chùa. Sư trong chùa vì lẽ ấy nên phần nhiều học quyền bổng. Mỗi khi điều động dẹp giặc, chỉ tụng danh hiệu Khẩn Na La Vương Bồ Tát, do đó không khiếp sợ, thường thường thắng địch. Hoặc nói rằng “Tức là Quan Âm Bồ Tát hóa thân vậy”.

Thầy Phong Huyệt làm người coi vườn ở Tổ Nam Viện. Một hôm, Tổ Nam Viện đến vườn, hỏi rằng : “Một gậy phương Nam làm sao thương lượng?”

Thầy Huyệt rằng: “Thương lượng kỳ đặc!”

Chập lâu, thầy Huyệt lại hỏi: “Nơi đây Hòa Thượng làm sao thương lượng?”

Tổ Nam Viện dơ gậy lên, nói:

“Dưới gậy: Vô Sanh Nhẫn

Đang cơ: chẳng thấy Thầy”.

Thầy Huyệt ngay ấy hoát nhiên đại ngộ.

Pháp bổng của Tổ Lâm Tế ít có truyền lại, mà pháp bổng của Khẩn Na La cho đến nay thương lượng cũng chưa rồi. Có khác ư? Không khác ư?

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:45 PM
Kinh:

“Nếu có Ma Hô La Già muốn thoát loài mình, tôi ở trước họ, hiện thân Ma Hô La Già, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Ma Hô La Già gọi là Đại Mãng [Trăn lớn], bò đi bằng bụng, cũng gọi là Rồng Đất gìn giữ Già Lam vậy.

Tổ Thứ Mười Ba là Tôn Giả Ca Tỳ Ma La, đi trong núi chừng vài dặm đường, gặp một con trăn lớn. Tổ đi thẳng chẳng để ý đến, trăn mới quấn quanh thân Tổ. Tổ nhân đó truyền cho pháp Tam Quy Y. Trăn nghe xong mà lui đi.

Tổ đến hang đá, một ông già mặc áo trắng bước ra, chắp tay chào hỏi.

Tổ hỏi: “Ông ở chốn nào?”

Đáp rằng: “Xưa tôi từng làm Tỳ Khưu, rất thích sự lặng yên. Có nhiều kẻ mới tu đến học đạo, tôi bực chuyện ứng đáp, khởi tưởng sân hận. Mạng hết, đọa làm thân trăn, ở trong hang này đã ngàn năm nay. Vừa rồi gặp được Tôn Giả, được nghe Giới Pháp, nên cảm tạ vậy”.

Tổ hỏi rằng: “Núi này còn có ai ở không?”

Đáp: “Cách đây mười dặm, có cây lớn che năm trăm con rồng lớn, Thọ Vương ấy tên Long Thọ, thường vì chúng rồng nói pháp. Tôi cũng được nghe”.

Tổ bèn đến đó.

Long Thọ bước ra đón, nói: “Núi sâu cô tịch, rồng rắn ở đầy, Đại Đức Chí Tôn, việc gì phải đến đây?”

Tổ nói: “Tôi chẳng phải bậc Chí Tôn, đến thăm hiền giả đó”.

Long Thọ nghĩ thầm rằng: “Thầy này đắc đạo nhãn quyết định tánh minh chăng? Là Đại Thánh kế tục Chân Thừa chăng?”

Tổ nói: “Tuy ông nói trong lòng, tôi đã biết ý. Chỉ việc xuất gia, lo gì tôi chẳng Thánh?”

Ông Long Thọ nghe xong, ăn năn tạ lỗi. Tổ liền độ thoát cho. Đến năm trăm chúng Rồng, đều thọ Giới Cụ Túc.

Bài kệ truyền pháp rằng :

Pháp chẳng ẩn chẳng hiển

Nói đấy Chân Thật Tế

Ngộ pháp ẩn hiển này

Chẳng ngu cũng chẳng trí.

Chỉ cái chẳng ngu chẳng trí này thì rồng rắn cũng đều có thể độ thoát vậy.

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:47 PM
Kinh:

“Nếu có chúng sanh thích loài người, tu làm người, tôi hiện thân người, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Ở trước, nào là vua chúa, tể quan, trưởng giả, cư sĩ, trọn bốn chúng, chẳng phải là người ư? Sao còn có kẻ muốn tu làm loài người? Ấy là chỉ hạng sĩ, nông, công, thương, là nói những người không để ý đến Tam Thừa. Họ vẫn sẵn đủ Phật Tánh, suốt ngày từng thuyết pháp mà chẳng tự hay biết vậy.

Thiền sư Bàn Sơn Tích nhân đi dạo chơi phố chợ, thấy một người khách mua thịt heo nói với người hàng thịt rằng: “Thứ ngon, cắt cho một cân”.

Người hàng thịt ném dao xuống, khoanh tay nói: “Thưa Ngài, có cái nào chẳng phải thứ ngon đâu?”

Sư nơi đây có chỗ tỉnh ngộ.

Lại ngày nọ ra cửa, thấy người ta xúm khiêng đám táng, phường ca đánh chuông ca rằng : “Vầng hồng quyết định về Tây lặn. Chưa rõ hồn linh đến chốn nao?” Dưới trướng, đám con hiếu khóc lên ai oán.

Sư bỗng nhiên thân tâm bay bổng, về nói lại với Đức Mã Tổ. Tổ ấn khả cho.

Hòa Thượng Bửu Thọ ban đầu ở Tổ Bửu Thọ làm chủ cúng dường.

Tổ Thọ hỏi: “Trước khi cha mẹ sanh ra, đưa đây cái bổn lai diện mục ta xem!”

Sư đứng đến khuya, đáp lời chẳng khế hợp, sáng ngày từ giã ra đi.

Tổ Thọ hỏi: “Ông đi đâu?”

Sư đáp: “Hôm qua, nhờ Hòa Thượng hỏi, con chẳng hiểu được, nên sang phương Nam tham học thiện tri thức”.

Tổ Thọ nói: “Phương Nam cấm Hạ chẳng cấm Đông, ta ở đây cấm Đông chẳng cấm Hạ. Ông hãy kiết hạ ngay chốn phố phường. Thật là Phật Pháp thì trong chỗ đô hội, bụi trần dầy đẫy thường thuyết chánh pháp!”

Sư chẳng dám bỏ đi.

Một hôm, giữa ngã tư thấy hai người đang cãi nhau. Một người hoa nắm tay, nói: “Mày thật là đồ không mặt mũi!”

Sư ngay đó đại ngộ. Chạy về ra mắt Tổ Bửu Thọ, chưa kịp mở lời, Tổ đã nói : “Ông hiểu rồi, khỏi cần nói!”

Sư bèn lễ bái.

Hai tắc này, chỉ hiện thân người, bèn hay thuyết pháp, há phải Đại Sĩ hiện ra rồi sau mới có thành tựu ư?

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:51 PM
Kinh:

“Nếu có các Phi Nhơn, Vô Hình hoặc Hữu Hình, Hữu Tưởng hoặc Vô Tưởng, muốn thoát loài mình, tôi ở trước kẻ ấy, đều hiện thân họ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng:

Trời, Rồng nói là Xuất (Ra). Trời hay chán sự vui, Rồng hay sợ khổ, vì tự có con đường xuất thân, rất dễ độ vậy. Loài Càn Thát Bà, nói là Thoát (Khỏi), vì nghiệp báo ràng buộc, rất khó giải thoát. Phi Nhơn, Dược Xoa nói là Độ (Qua) vì đã chìm trong sự khổ sở tối tăm, như đắm trong biển lớn, ắt cần bè cứu vớt, đều gọi là độ thoát, nhưng trong ấy khó dễ chẳng đồng như thế. Loài vô hình, vô tưởng là loài thần quỷ, tinh linh vậy. Loài hữu hình vô tưởng là đất, cây, kim, đá vậy.

Kinh Du Già Diệm Khẩu, Tiêu Diện Quỷ Vương tức là Đức Quan Âm Đại Sĩ hóa hiện ra vậy.

Ở Trung Nhạc, có Hòa Thượng Phá Táo Đọa lời lẽ việc làm không thể lường được. Trũng núi có cái miễu rất linh, trong điện chỉ để một cái bếp, xa gần cúng kiến chẳng ngớt.

Sư một ngày kia dẫn thầy đạo hầu đi vào miếu, lấy gậy gõ bếp ba cái, nói: “Ối chà! Cái này chỉ là đất sét nhồi thành, Thánh từ đâu đến, linh từ đâu ra mà nấu nướng sinh mệnh thế!”

Lại đánh ba cái. Bếp bèn bể ra rớt xuống.

Chốc lát, có một người áo xanh mũ cao hiện ra, làm lễ trước mặt sư.

Sư nói: “Người nào đây?”

Đáp: “Tôi vốn là thần bếp miễu này, đã lâu chịu nghiệp báo. Ngày nay nhờ thầy nói pháp Vô Sanh, được thoát khỏi chốn này, sanh ở cõi trời, riêng đến tạ ơn”.

Sư nói: “Đó là cái Tánh vốn có của ông, chẳng phải ta gượng nói”.

Vị thần lại làm lễ rồi biến mất.

Chút sau, thầy đạo hầu hỏi rằng: “Chúng con hầu Hòa Thượng đã lâu, mà chẳng được bày dạy, thần bếp được yếu chỉ vắn tắt nào mà liền được sanh cõi trời?”

Sư đáp: “Ta chỉ hướng về người ấy nói “Đó là đất sét hòa thành”. Không có đạo lý gì riêng cho ông ta”.

Thầy đạo hầu không có lời nào để nói.

Sư hỏi: “Hiểu chăng?”

Đạo hầu nói: “Chẳng hiểu”.

Sư nói: “Cái Tánh sẵn có, vì sao chẳng hiểu?”

Thầy đạo hầu liền bèn lễ bái.

Sư nói: “Rớt rồi! Rớt rồi! Bể rồi! Bể rồi!”

Về sau, thiền sư Nghĩa Phong kể lại với An Quốc Sư. Tổ An than rằng: “Vị ấy hiểu trọn vật-ngã nhất như, khá nói như trăng sáng giữa không, không đâu chẳng thấy. Thật khó có ra cái ngữ mạch của người ấy”.

Sư Phong hỏi: “Chưa rõ người nào có được ngữ mạch ấy?”

Tổ Am nói: “Người chẳng biết thì gọi là Phá Táo Đọa!”

Không biết là ai, há cũng chẳng phải là sự hóa hiện của Đức Quan Âm ư?

Thiện Tâm
10-05-2015, 08:56 PM
Kinh:

“Đó gọi là ba mươi hai Ứng Thân Diệu Tịnh, vào các cõi nước. Đều là Diệu Lực Vô Tác của Văn Huân Văn Tu Tam Muội mà tự tại thành tựu.

Thông rằng:

Hiệp Luận nói, chỗ nói cái “Diệu Lực Vô Tác tự tại thành tựu”, là chỗ trong kinh Tạp Hoa xưng là “Phổ Hiền Đối Hiện Sắc Thân”, Kinh Pháp Hoa xưng là “Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội” vậy. Bởi vì âm thầm xông khắp pháp giới, là cái căn lực từ thiện, chân tế bất động, ứng hiện khắp mười phương. Lấy cái Từ Bi của Thánh Hạnh ứng với cơ Không, thì giữ lấy hình thể bất tịnh, hình trạng dường như dễ sợ. Lấy cái Từ Bi của Thiên Hạnh ứng với cơ Trung, thì như ngựa hay thấy bóng roi, chạy đường thẳng lớn, không gì ngại sợ. Lấy cái Từ Bi của Phạm Hạnh ứng với cơ Giả, thì ngồi tòa sư tử, để chân ghế báu, như người buôn bán giỏi, qua khắp các nước, vào ra đều lời lãi, không đâu chẳng có. Đó là ba thứ cơ Không, Giả và Trung, nói ra khiến cho chúng sanh thấy sự việc như thế, đây là Sắc Thân Tam Muội của kinh Pháp Hoa vậy.

Thần dụng Như Lai khắp mười phương, tùy căn mà đối hiện. Dùng nguyện lực đại từ bi chẳng bỏ chúng sanh, nên trong một niệm là toàn khắp mà không có gây làm. Như địa vị Diệu Giác, chỗ lợi lạc cho chúng sanh thảy đồng pháp giới, tùy căn tùy thời, Đối Hiện Sắc Thân, chẳng làm mà dụng, chẳng gây mà ứng. Dùng Trí sáng rỡ khắp nơi, chẳng thuộc nơi chốn, đồng tâm chúng sanh, tùy vật hiện hình, không đến không đi, đây là Đối Hiện Sắc Thân của Kinh Tạp Hoa vậy. Đây là tùy duyên mà thị hiện, đều tức là Như Huyễn, nên dùng Như Huyễn Tam Muội, Văn Huân Văn Tu tự tại thành tựu.

Tổ Lâm Tế nói: “Chỗ nói của sơn tăng, chỉ là cái nghe pháp độc sáng rỡ ràng hiện giờ trước mắt quý vị. Người này chốn chốn chẳng ngưng trệ, tự tại thông suốt mười phương ba cõi. Vào tất cả cảnh sai biệt mà chẳng hề thay đổi, trong khoảng sát na thấu nhập pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La Hán nói La Hán, gặp ngạ quỷ nói ngạ quỷ. Dạo chơi tất cả quốc độ mà giáo hóa chúng sanh, chưa từng lìa Nhất Niệm, tùy chốn mà trong sạch, ánh sáng thấu suốt mười phương, muôn pháp Nhất Như. Này quý vị! Hàng đại trượng phu ngày nay mới biết bổn lai vô sự, Chỉ vì các ông tin chẳng đến, niệm niệm chạy cầu, bỏ đầu mà kiếm đầu, tự mình chẳng thể dứt!”

Chỗ thuyết pháp của Tổ Lâm Tế được cái Chánh Pháp Nhãn của Đức Quan Âm. Nếu tin được rằng xưa nay vô sự thì ba mươi hai Ứng Thân từ Diệu Lực Vô Tác liền được hiện tiền.