PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Trích đăng Truyền Đăng Lục Quyển 4



lavinhcuong
06-22-2015, 08:33 AM
Trích đăng Truyền Đăng Lục Quyển 4



Bài 41.

Thiền sư Pháp Dung 法融 (594-657 Tây lịch).

Ngài là môn đệ của Tứ tổ Đạo Tín, Sơ Tổ Thiền phái Ngưu Đầu.

Gốc người Duyên Lăng, Nhuận Châu, họ Vi; năm 19 tuổi đã học thông Kinh sử, nhơn xem bộ Kinh Đại Bát Nhã, Ngài thâm nhập Giáo lý Tánh Không. Một hôm than thở :

_ Tứ Thư Ngũ Kinh chẳng có gì hay, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh cũng chẳng giúp ta giác ngộ Chân Lý Phật Pháp, chỉ có giáo lý Bát nhã là cứu cánh giải thoát phàm trần.

Sư bèn vào ở ẩn núi Mao theo thầy xuất gia học đạo. Sau, Sư đến núi Ngưu-Đầu ở trong thất đá trên ngọn núi phía bắc chùa U-Thê. Lúc đó, có các loài chim tha bông đến cúng dường. Các loài thú dữ quanh quẩn bên Sư không ngớt.

Đời Đường niên hiệu Trịnh-Quán thứ tư (630 T.L.) Tứ Tổ Đạo Tín đang ở trên núi Phá-Đầu nhìn xem khí tượng, biết trên núi Ngưu-Đầu có bậc dị nhơn. Sư đích thân tìm đến núi nầy, vào Chùa U-Thê hỏi thăm những vị tăng rằng:

_ Ở đây có đạo nhơn chăng ?

Có vị tăng đáp: -Phàm là người xuất gia ai chẳng phải đạo nhơn ?

Sư hỏi: -Cái gì là đạo nhơn ?

Tăng im lặng không đáp được. Có vị tăng khác thưa:

_ Cách đây chừng mười dặm bên kia núi, có một vị sư tên Pháp-Dung, lười biếng đến thấy người chẳng đứng dậy chào, cũng không chấp tay, phải là đạo nhơn chăng ?

Tứ Tổ liền trèo núi đi tìm, thấy Pháp-Dung đang ngồi thiền trên tảng đá, dường như chẳng để ý đến ai.

Sư hỏi: -Ở đây làm gì ?

Pháp-Dung đáp: -Quán tâm.

_ Quán là AI quán ?, Tâm là cái gì ?

Pháp-Dung không đáp được, bèn đứng dậy làm lễ thưa: -Đại đức an trụ nơi nào?

Sư đáp: -Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc Đông hoặc Tây.

_ Ngài biết thiền sư Đạo-Tín chăng ?

_ Vì sao hỏi ông ấy ?

_ Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến lễ yết.

_ Không dám, Đạo-Tín là bần đạo đây.

_ Vì sao Ngài quan lâm đến đây ?

_ Vì tìm đến thăm hỏi ngươi, ở đây có chỗ nào nghỉ ngơi chăng ?

Pháp-Dung chỉ phía sau, thưa: -Riêng có cái am nhỏ.

Pháp-Dung liền dẫn Sư về am. Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng lăng xăng, Tứ Tổ giơ hai tay lên làm như sợ hãi, Pháp-Dung hỏi:

_ Ngài vẫn còn cái đó sao ?

Sư hỏi: -Cái đó là cái gì ?

Pháp-Dung không đáp được. Giây lát, Sư lại tấm đá của Pháp-Dung ngồi vẽ một chữ PHẬT (佛), Pháp-Dung nhìn thấy giật mình, không dám ngồi. Sư bảo:

_ Vẫn còn cái đó sao ?

Pháp-Dung không hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Sư chỉ dạy chỗ chân yếu. Sư bảo:

_ Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tất vuông. Diệu đức như hà-sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới, định, huệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền não xưa nay đều không lặng. Tất cả nhơn quả đều như mộng huyễn, không có tam giới có thể ra, không có bồ-đề có thể cầu. Người cùng phi nhơn tánh tướng bình đẳng. Đại đạo thênh thang rộng lớn bặt suy dứt nghĩ. Pháp như thế, nay ngươi đã được không thiếu khuyết, cùng Phật không khác, lại không có pháp gì lạ. Chỉ tâm ngươi tự tại, chớ khởi quán hạnh, cũng chớ lóng tâm, chớ khởi tham sân, chớ ôm lòng lo buồn, rỗng rang không ngại, mặc tình tung hoành, chẳng làm các việc thiện, chẳng làm các việc ác, đi đứng ngồi nằm, mắt thấy gặp duyên thảy đều là diệu dụng của Phật. Vì vui vẻ không lo buồn nên gọi là Phật.


Pháp-Dung thưa: -Tâm đã đầy đủ, cái gì là Phật ? cái gì là tâm ?

Tứ Tổ đáp: -Chẳng phải tâm thì không hỏi Phật, hỏi Phật thì chính là tâm.

Pháp-Dung thưa: -Đã không khởi quán hạnh, khi gặp cảnh khởi tâm làm sao đối trị ?

Tứ Tổ đáp: -Cảnh duyên không có tốt xấu, tốt xấu khởi nơi tâm, nếu tâm chẳng theo danh (tên),vọng tình từ đâu khởi ? Vọng tình đã chẳng khởi, chơn tâm mặc tình biết khắp. Ngươi chỉ tùy tâm tự tại, chẳng cầu đối trị, tức gọi là pháp thân thường trụ, không có đổi thay.

Ta thọ pháp môn đốn giáo của Tổ Tăng-Xán, nay trao lại cho ngươi. Nay ngươi nhận kỹ lời ta, chỉ ở núi nầy sau có năm vị đạt nhơn đến nối tiếp giáo hóa.

Từ khi đắc pháp về sau, nơi pháp tịch của Sư Pháp Dung đại thạnh. Khoảng niên hiệu Vĩnh-Huy đời Đường (650-656 T.L) đồ chúng thiếu lương thực, Sư phải sang Đơn-Dương hóa duyên. Đơn-Dương cách núi Ngưu-Đầu đến tám mươi dặm, Sư đích thân mang một thạch (tạ) tám đấu, sáng đi chiều về để cúng dường ba trăm tăng. Như vậy, mà ngót ba năm, Sư cung cấp không thiếu. Quan Ấp Tể tên Tiêu-Nguyên-Thiện thỉnh Sư giảng Kinh Bát-Nhã tại chùa Kiến-Sơ. Thính giả vân tập. Sư giảng đến phẩm Diệt-Tĩnh, đất chấn động.

Bác-Lăng-Vương hỏi Sư: -Khi cảnh duyên sắc phát, không nói duyên sắc khởi; làm sao biết được duyên, muốn dứt cái khởi ấy ?

Sư Pháp Dung đáp: -Cảnh sắc khi mới khởi, Sắc cảnh tánh vẫn không, Vốn không người biết duyên, Tâm lượng cùng tri đồng, Soi gốc phát chẳng phát, Khi ấy khởi tự dứt, Ôm tối sanh hiểu duyên, Khi duyên, tâm chẳng theo, Chí như trước khi sanh, Sắc tâm không nuôi dưỡng, Từ không vốn vô niệm, Tưởng thọ ngôn niệm sanh, Khởi pháp chưa từng khởi, Đâu cầu Phật chỉ dạy.

Hỏi: -Nhắm mắt không thấy sắc, Cảnh lự lại thêm phiền, Sắc đã chẳng quan tâm, Cảnh từ chỗ nào phát ?

Sư đáp: -Nhắm mắt không thấy sắc, Trong tâm động lự nhiều, Huyễn thức giả thành dụng, Há gọi trọn không lỗi, Biết sắc chẳng quan tâm, Tâm cũng chẳng quan người, Tùy đi có tướng chuyển, Chim bay trông không thật.


Hỏi: -Cảnh phát không chỗ nơi, Duyên đó hiểu biết sanh, Cảnh mất hiểu lại chuyển, Hiểu bèn biến làm cảnh, Nếu dùng tâm kéo tâm, Lại thành biết bị biết, Theo đó cùng nhau đi, Chẳng lìa mé sanh diệt ?

Sư đáp:-Tâm sắc, trước, sau, giữa; Thật không cảnh duyên khởi, Một niệm tự ngừng mất, Ai hay tính động tịnh, Đây biết tự không biết, Biết, biết duyên chẳng hợp, Nên tự kiểm bản hình, Đâu cầu tìm ngoại cảnh, Cảnh trước không biến mất, Niệm sau chẳng hiện ra, Tìm trăng chấp bóng huyền, Bàn dấu đuổi chim bay, Muốn biết tâm bản tánh, Lại như xem trong mộng, Ví đó băng tháng sáu, Nơi nơi đều giống nhau, Trốn không trọn chẳng khỏi, Tìm không lại chẳng thành, Thử hỏi bóng trong gương, Tâm từ chỗ nào sanh ?!

Hỏi: -Khi đều đặn dụng tâm, Nếu là an ổn tốt ?

Sư đáp :-Khi đều đặn dụng tâm, Đều đặn không tâm dụng, Bàn quanh danh tướng nhọc, Nói thẳng không mệt phiền, Không tâm đều đặn dụng, Thường dụng đều đặn không, Nay nói chỗ không tâm, Chẳng cùng có tâm khác.

Hỏi: -Người trí dẫn lời diệu, Cùng tâm phù hợp nhau, Lời cùng tâm đường khác, Hiệp thì trái vô cùng ?

Sư đáp:-Phương tiện nói lời diệu, Phá bệnh đạo đại thừa, Bàn chẳng quan bản tánh, Lại từ không hóa tạo, Vô niệm là chơn thường, Trọn phải bặt đường tâm, Lìa niệm tánh chẳng động, Sanh diệt chẳng trái lầm, Cốc hưởng đã có tiếng, Bóng gương hay ngó lại.

Niên hiệu Hiển-Khánh năm đầu (656 T.L) nhà đường, Ấp Tể Tiêu Nguyên Thiện thỉnh Sư xuống núi trụ trì chùa Kiến Sơ. Sư hết lời từ chối mà không được. Bất đắc dĩ, Sư gọi đệ tử thượng thủ là Trí-Nham truyền trao pháp ấn và dặn dò tiếp nối truyền dạy tại núi nầy.

Sư sắp xuống núi bảo chúng: -Ta không còn bước chơn lại núi nầy. Lúc đó chim thú kêu buồn gần suốt tháng không dừng. Trước am có bốn cây ngô đồng, giữa tháng hè bỗng nhiên rụng lá.

Năm sau (657 T.L) ngày 23 tháng giêng, Sư thị tịch tại chùa Kiến-Sơ, thọ 64 tuổi, tuổi hạ được 41. Ngày 27 đưa quan tài lên núi Kê-Long an táng, số người tiển đưa hơn vạn.

Phái thiền của Sư truyền, sau nầy gọi là Ngưu-Đầu-Thiền, vì lấy tên núi mà đặt tên. Số môn đồ khá đông, lưu truyền thạnh hành đến sáu đời mới dứt.

(Khả nghi tác phẩm Tuyệt Quán Luận là do sư Pháp Dung trước tác).

hoatihon
06-22-2015, 09:35 AM
Vô tam giới khả xuất.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/votamgioikhaxuat2_zpsb08a7d32.jpg

hoatihon
06-22-2015, 09:37 AM
Mạc trừng tâm.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/mactrungtam2_zps91fa9f98.jpg

hoatihon
06-22-2015, 09:39 AM
Cảnh duyên không tốt xấu.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/canhduyenvohaoxu_zpsd7052278.jpg

hoatihon
06-22-2015, 09:41 AM
Như dấu chim bay (giữa hư không).



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhudauchimgiuahukhong_zpsc8ed599c.jpg

hoatihon
06-22-2015, 09:44 AM
Như dấu chim bay 2.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhudauchimgiuahukhong2_zps6fd4e0c6.jpg

hoatihon
06-22-2015, 09:46 AM
Như vang theo tiếng.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhuvangtheoti1EBFng_zps8f957b77.jpg

lavinhcuong
06-22-2015, 09:48 AM
Bài 42

Trí Nham Thiền sư _ 智巖禪師

Người Khúc A, họ Hoa, năm 20 tuổi đã cao 7 thước 6 tấc (thước Tàu), xuất thân võ tướng (Lang tướng).

Bốn mươi tuổi mới xin xuất gia với Thiền sư Bảo Nguyệt, ở núi Hoàn công. Một hôm chợt thấy một dị Tăng thân cao hơn một trượng hiện ra nói : “Khanh đã 80 đời xuất gia, nay nên tinh tấn hơn!”, nói xong liền biến mất.

Sư thường thiền định trong cốc, có lần nước trên núi đổ xuống như thác, sư vẫn điềm nhiên tĩnh toạ, nước tự rút.

Có 2 người bạn chiến đấu xưa, nghe danh sư vào núi tìm gặp :

_ Vì sao Ngài ở đây ? Lang tướng có điên hay không ?

_ Ta điên sắp tỉnh, còn các ngươi điên đang phát triển. Phàm háo sắc, thanh âm bất chính; tham vinh hoa, cậy sủng ái thì bị sanh tử lưu chuyển, làm sao tự ra khỏi ?

ngã cuồng dục tỉnh, quân cuồng chính phát. Phu thị sắc dâm, thanh tham vinh mạo sủng, lưu chuyển sinh tử, hà do tự xuất ?

我狂欲醒, 君狂正發。夫嗜色淫,聲貪榮冒寵。流 生死 何由自出 ?

Năm Trinh Quán thứ 17 (643 _ Đường Thái Tông), sư trở về Kiến Nghiệp, vào núi Ngưu Đầu tham kiến Thiền sư Pháp Dung. Thiền sư Dung dạy :

_ Ta nhận bí pháp chơn truyền từ Đạo Tín Đại sư, các sở đắc đều tiêu vong, giả sử có một pháp cao hơn Niết Bàn, ta cũng coi như mộng huyễn. Phàm một mảy trần dấy lên mà trời bị mờ, một hạt cải rơi xuống mà đất bị che. Ông nay đã vượt qua cái thấy này, ta còn nói gì nữa. Việc hoá đạo ở sơn môn nay giao cho ông.

Ngô thụ Tín đại sư chân quyết sở đắc đô vong, thiết hữu nhất pháp thăng quá Niết bàn, ngô thuyết diệc như mộng ảo. Phu nhất trần phi nhi ế thiên, nhất giới đoạ nhi phú địa. Nhữ kim dĩ quá thử kiến, ngô phục hà vân. Sơn môn hoá đạo đương phó chi ư nhữ.

吾受信大師真訣所得都亡。設 有一法勝過涅槃,吾說亦如夢幻。夫一 飛 而翳天。一芥墮而覆地。汝今已過此 。吾復
何云。山門化導當付之於汝.

Sư vâng mệnh thừa kế đời thứ 2 (tông Ngưu Đầu), sau đem chánh pháp truyền cho Thiền sư Phương. Sư trụ 2 chùa Bạch Mã và Thê Huyền, sau dời chỗ đến thành Thạch Đầu.

Năm Nghi Phụng thứ 2 (677 _ Đường Cao Tông), ngày 10 tháng giêng thị hiện nhập diệt, nhan sắc không đổi, tứ chi vẫn mềm mại, co duổi như người còn sống, trong thất có mùi hương lạ đến 10 ngày.

Ngài có di ngôn thuỷ táng, thọ 78 tuổi, 39 hạ lạp.

hoatihon
06-22-2015, 09:50 AM
Sinh Tử & Niết Bàn.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nietbansinhtu_zps9564c494.jpg

hoatihon
06-22-2015, 09:50 AM
Sinh Tử & Niết Bàn.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nietbansinhtu_zps9564c494.jpg

lavinhcuong
06-22-2015, 09:52 AM
Bài 43

Thiền sư Huệ Phương 慧方禪師

(Sư vâng mệnh thừa kế đời thứ 3, tông Ngưu Đầu)

Người Duyên Lăng, Nhuận Châu, họ Bộc. Xuất gia ở chùa Khai Thiện rồi thọ giới cụ túc, thông suốt Kinh Luận.

Về sau vào núi Ngưu Đầu, tham yết Thiền sư Trí Nham, thưa hỏi chỗ bí yếu. Trí Nham xem biết Sư kham nhận chánh pháp, bèn đem Tâm ấn khai thị. Sư hoát nhiên lãnh ngộ, từ đó chẳng rời núi rừng cả 10 năm.

Học giả 4 phương tụ học đông đúc, một hôm Sư bảo chúng :

_ Ta sắp đi nơi khác, tuỳ duyên lợi vật, các ông nên tự an.

Rồi đem Chánh pháp truyền trao Thiền sư Pháp Trì, Sư về lại Mao sơn được (?) năm, định diệt độ thì bổng gặp 500 người búi tóc buông thòng phía sau, mỗi người đều cầm phướng kết hoa nói :

_ Thỉnh Pháp sư giảng Kinh.

Lại cảm đến Sơn Thần hiện thân rắn lớn đến trước sân tiễn biệt.

Sư bảo thị giả Hồng Đạo :

_ Ta đi thôi, ông báo cho mọi người giúp ta.

Khi các môn nhân vội vã đến thì Sư đã nhập diệt. Bấy giờ nhằm năm Thiên Sách nguyên niên (759), ngày mùng 1 tháng 8. Sư thọ 67 tuổi, hạ lạp 40.

lavinhcuong
06-22-2015, 09:54 AM
Bài 44.

Thiền sư Pháp Trì 法持禪師 (634 _ 702 TL)

(Sư vâng mệnh thừa kế đời thứ 4, tông Ngưu Đầu)

Người Giang Ninh, Nhuận Châu, họ Trương, xuất gia từ nhỏ, năm 30 tuổi đến tham học với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, nghe pháp tâm khai mở.
Về sau gặp Thiền sư Huệ Phương được ấn khả, rồi kế thừa dẫn dắt sơn môn, làm Tổ đời thứ 4 tông Ngưu Đầu.

Khi Tổ Hoàng Mai sắp tạ thế có nói với đệ tử Huyền Trách : “Về sau có khoảng 10 người truyền pháp ta, Pháp Trì ở Kim Lăng là một trong 10 người đó”.

Sau, Sư đem “pháp nhãn” truyền lại cho Thiền sư Trí Oai.

Năm Trường An thứ 2 (702 _ Đường Võ Hậu), ngày 5 tháng 9 Sư tịch ở viện Vô Thường, chùa Duyên Tộ ở Kim Lăng.

Sư di chúc bỏ hình hài dưới gốc cây cho muông thú ăn.

Tương truyền ngày sư bỏ xác có phướng thần nhiễu quanh núi mấy vòng, rừng trúc biến màu tang 7 ngày mới hết.

Sư thọ 68 tuổi, hạ lạp 41.

lavinhcuong
06-22-2015, 09:55 AM
Bài 45.

Thiền sư Trí Uy 智威禪師

(Sư vâng mệnh thừa kế đời thứ 5, Tông Ngưu Đầu)

Người Giang Ninh, họ Trần. Lúc còn bé, một hôm người nhà phát hiện Ngài mất tích, sau đó mới biết Sư đã xuất gia với pháp sư Thống, chùa Thiên Bảo rồi, năm 20 tuổi thọ cụ túc giới.

Sau nghe danh Thiền sư Pháp Trì, sư tìm đến xin theo học và được truyền thụ Chánh Pháp. Từ đó học đồ miền Giang Tả đổ xô tìm đến, trong đó có Huệ Trung là bậc pháp khí.

Thường ngày Thiền sư Trí Uy có dạy :

Mạc hệ niệm niệm
Thành sanh tử hà
Luân hồi lục thú hải
Vô kiến xuất trường ba.

莫繫念念  
成生死河
輪迴六趣海  
無見出長波

(Chớ vọng niệm hoài,
thành sông sanh tử,
luân hồi mãi trong 6 đường.
Không nhận ra đạo _ Chân Lý _ thì sẽ sanh sóng lớn).

Huệ Trung 慧忠 hoạ lại :

Niệm tưởng do lai huyễn,
Tánh tự vô chung thuỷ.
Nhược đắc thử trung ý,
Trường ba đương tự chỉ.

念想由來幻  
性自無終始
若得此中意  
長波當自止

(Niệm tưởng vốn là huyễn,
Nó đâu có đầu đuôi gì.
Nếu biết được điều này,
Sóng lớn tự nhiên ngưng).

Sư Trí Uy cũng có dạy bài kệ khác :

Dư bổn tánh hư vô,
Duyên vọng sanh nhân ngã,
Như hà tức vọng tình ?
Hoàn quy không xứ toạ.

余本性虛無  
緣妄生人我
如何息妄情  
還歸空處坐

(Bổn tánh vốn hư vô,
Theo vọng sanh nhân ngã
Làm sao dứt vọng tình ?
Trở về ngồi chỗ không).

Huệ Trung dùng kệ hoạ đáp :

Hư vô thị thực thể.
Nhân ngã hà sở tồn ?
Vọng tình bất tu tức,
Tức phiếm Bát Nhã thuyền.

虛無是實體  
人我何所存
妄情不須息  
即汎般若船

(Thật thể vốn trống không,
Nhân ngã do đâu có ?
Không nên ngăn vọng tình,
Mênh mông thuyền Bát nhã).

Sư biết Huệ Trung liễu ngộ, bèn đem sơn môn giao phó. Sau đó tùy duyên hóa đạo. Vào năm Khai Nguyên thứ 17 (729 – Đường Huyền Tông), ngày 18 tháng 2, Sư tịch ở chùa Duyên Tộ. Sắp thị hiện nhập diệt, Sư bảo đệ tử:

_ Hãy mang thây ta bỏ trong rừng bố thí cho các cầm thú.

Sư thọ 77 tuổi.

hoatihon
06-22-2015, 09:57 AM
Chính vọng niệm sinh ra luân hồi.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/luanhoi_zps74f481a0.jpg

hoatihon
06-22-2015, 09:58 AM
Vọng niệm giai không.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/phapkhong2_zpscbadbf04.jpg

hoatihon
06-22-2015, 10:03 AM
Trở về không.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/quykhong_zpsbf984231.jpg

hoatihon
06-22-2015, 10:04 AM
Sóng mặc sóng, tình mặc tình.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/songmacsong2_zps154a77e0.jpg

lavinhcuong
06-22-2015, 10:10 AM
Bài 46

Đời thứ sáu: THIỀN SƯ HUỆ TRUNG _ 慧忠禪師

Người ở Thượng Nguyên, Nhuận Châu, họ Vương, năm 23 tuổi thọ nghiệp ở chùa Trang Nghiêm, sau đó nghe thiền sư Trí Uy ra đời bèn đến yết kiến. Uy vừa thấy Sư, nói:

- Sơn chủ đến rồi!

Sư cảm ngộ ý chỉ sâu kín, Uy bèn cho làm thị giả thân cận. Về sau Sư từ giã thầy, đi quan sát lễ thiện tri thức các nơi. Trí Uy thấy dây hoa Lăng tiêu (còn gọi là tử oai) ở cụ giới viện, vào hạ bị bỏ phế điêu tàn. Có người định chặt bỏ, nhân đó Trí Uy can bảo:

- Đừng chặt, khi Huệ Trung trở về thì dây tử oai đó đâm chồi lại.

Đến khi Sư về thì ứng nghiệm như lời dự đoán. Uy bèn đem sơn môn giao phó Sư, rồi ra ở chùa Duyên Tộ.

Sư bình sanh chỉ có một áo nạp không thay đổi, đồ dùng chỉ có một cái chõ để đổ xôi. Thường có hai kho chứa lúa cho tăng dùng, kẻ trộm hay rình mò thì có hổ gìn giữ cho.

Huyện lệnh Trương Tốn lên núi yết kiến, hỏi Sư:

- Sư ở đây có một mình hay có đồ đệ nào theo hầu hay không ?

Sư đáp:

- Có dăm ba người.

Tốn hỏi:

- Sao tôi không thấy ai hết vậy ?

Sư gõ thiền sàng, có ba con cọp gầm thét vừa bước ra. Tốn sợ hãi thối lui.

Sau chúng thỉnh Sư vào trong thành, ở chùa Trang Nghiêm Cựu. Sư muốn xây dựng pháp đường riêng biệt ở phía đông chánh điện. Đã có sẵn cây cổ thụ, bầy chim khách đóng tổ trên đó, công nhân sắp đốn cây. Sư báo loài chim khách: “Sắp xây pháp đường ở đây, các người sao chẳng đi mau?”. Nói xong, bầy chim khách liền dời tổ qua cây khác. Lúc mới xây nền có hai thần nhân trấn giữ bốn góc, lại ngầm giúp làm việc ban đêm, chẳng mấy hôm xong việc.

Từ đó học đồ bốn phương vân tập dưới tòa, có 34 người đắc pháp, mỗi người trụ một nơi giáo hóa nhiều chúng.

Sư thường có kệ dạy chúng an tâm, kệ rằng:

Nhân pháp song tịnh,
Thiện ác lưỡng vong.
Chơn tâm chơn thật
Bồ đề đạo tràng.

人法雙淨  
善惡兩忘  
真心真實
菩提道場

(Ngã pháp đều rỗng,
Thiệc ác quên hết.
Chơn tâm chơn thật,
Bồ đề đạo tràng).

Năm Đại Lịch thứ ba (768 – Đường Đại Tông), trước thạch thất cây treo chõ, dây mây móc áo bỗng nhiên khô chết giữa nắng hạ. Năm thứ tư (769) ngày 15 tháng 6 họp chúng bố tát xong, Sư sai thị giả cạo sạch tóc tắm rửa. Đến tối có mây lành bao phủ tịnh xá Sư, trên không lại nghe tiếng nhạc trời. Tới sáng sớm Sư thản nhiên ngồi hóa, bấy giờ mưa to gió lớn gây sấm sét quật ngã cây rừng, lại có cầu vồng trắng bắc qua các hang núi.
Năm thứ năm (770), mùa xuân trà tỳ thu xá lợi nhiều không kể xiết. Thọ 87 tuổi.

hoatihon
06-22-2015, 10:13 AM
Bồ đề đạo tràng.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/bodedaotrang2_zpsaacfe0f0.jpg

lavinhcuong
06-22-2015, 10:15 AM
Bài 47

PHÁP TỰ BÀNG XUẤT TỪ THIỀN SƯ PHÁP DUNG

THIỀN SƯ ĐÀM THÔI 曇璀禪師 Ở CHUNG SƠN, KIM LĂNG

Người Ngô Quận, họ Cố. Ban đầu đến yết kiến Đại sư Dung ở Ngưu Đầu, Đại sư trông qua đánh giá Sư là người kỳ đặc, bèn gọi Sư bảo:

- Sắc thanh … là đồ độc đối với vô sanh, thọ tưởng … là hầm hố đối với bậc chí nhân. Ông biết điều đó chăng?
-
Sư lặng thinh và suy xét đó, đại ngộ huyền chỉ.

Sư tìm đến ở Chung Sơn, ẩn dấu trải qua nhiều năm, am tranh nồi đất đạm bạc đến hết tuổi già. Đời Đường năm Thiên Trụ thứ ba (694 - Đường Vũ hậu) ngày mùng 6 tháng 2, điềm nhiên nhập định bảy ngày rồi tịch. Thọ 62 tuổi.

__________________


NHỮNG PHÁP TỰ BÀNG XUẤT BA ĐỜI TỪ THIỀN SƯ TRÍ UY

1. THIỀN SƯ HUYỀN ĐĨNH 玄挺禪師 Ở CHÙA AN QUỐC, TUYÊN CHÂU.

Chẳng biết Sư là người ở đâu. Một hôm có vị tăng từng đến Trường An để giảng kinh Hoa Nghiêm, tăng đó đến hỏi Ngũ Tổ (Trí Uy):

- Chơn tánh duyên khởi, nghĩa đó như thế nào?

Tổ lặng thinh. Lúc đó Sư đứng hầu Tổ, sau đó đáp:

- Đại đức! Lúc đang hỏi dấy lên một niệm, đó là duyên khởi trong chơn tánh.

Ngay lời nói của Sư, tăng đó đại ngộ.

Lại có người hỏi Sư:

- Nam Tông do đâu mà lập?

Sư đáp:

- Tâm tông không có Nam Bắc.


-----------------


2. THIỀN SƯ HUYỀN TỐ 玄素禪師 Ở CHÙA HẠC LÂM, NHUẬN CHÂU.

Người ở Duyên Lăng, Nhuận Châu, họ Mã. Vào năm Như Ý nhà Đường (692 - Đường Vũ hậu), Sư thọ nghiệp ở chùa Trường Thọ, Giang Ninh.

Tham vấn bữa tối với thiền sư Trí Oai, Sư bèn ngộ chơn tông. Về sau Sư ở chùa Hạc Lâm, Kinh Khẩu.

Từng có lần kẻ đồ tể lễ yết kiến Sư, muốn thỉnh Sư đến nhà để lo liệu cúng dường. Sư vui vẻ mà đi, chúng đều ngạc nhiên. Sư nói:

- Phật tánh bình đẳng, trí ngu có một. Chỉ cần người độ được ta liền độ cho, lại có gì là khác biệt đâu?

Hoặc giả có tăng hỏi:

- Thế nào là ý Tây lai?

Sư đáp:

- Hội tức là chẳng hội (hiểu), nghi tức là chẳng nghi.

Sư lại nói:

- Cái chẳng hội chẳng nghi, cái chẳng nghi chẳng hội.

Lại có tăng gõ cửa, Sư hỏi:

- Ai đó?

Đáp: - Tăng

Sư nói:

- Không những là tăng, Phật đến cũng chẳng được.

Hỏi:

- Phật đến tại sao chẳng được?

Sư đáp:

- Không có chỗ cho ông dừng đậu.

Năm Thiên bảo thứ 11 (752 – Đường Huyền Tông), nửa đêm Sư không bệnh mà tịch, thọ 85 tuổi.

Xây tháp thờ ở núi Hoàng Hạc. Sắc ban thụy hiệu là Đại Tân Thiền Sư, tháp hiệu Đại Hòa Bảo Hàng.

lavinhcuong
06-22-2015, 10:17 AM
Bài 48

3. THIỀN SƯ SÙNG HUỆ 崇慧禪師 Ở NÚI THIÊN TRỤ, THƯ CHÂU.

Người Bành Châu, họ Trần. Đầu niên hiệu Càn Nguyên (758 – Đường Túc Tông), Sư đến lập chùa ở núi Thiên Trụ, Thư Châu. Năm Vĩnh Thái nguyên niên (765 – Đường Đại Tông) sắc ban hiệu chùa là Thiên Trụ.

Có vị Tăng hỏi:

- Thế nào là cảnh Thiên Trụ ?

Sư đáp:

Chủ bạc sơn cao nan kiến nhật
Ngọc kính phong tiền dị hiểu nhân.

主薄山高難見日
玉鏡峯前易曉人。

(Chủ nhạt núi cao khó thấy trời,
Gương báu trên soi dễ biết người).

Hỏi:

- Khi Đạt-ma chưa đến xứ này, ở đây có Phật pháp không?

Sư đáp:

- Khi chưa đến hãy tạm gác qua, việc ngay bây giờ ra sao?

- Con chẳng hội xin Sư chỉ dạy.

Sư nói:

- Không gian muôn thuở, gió trăng nhất thời.

萬 古長空一時風月

(Vạn cỗ trường không, nhất thời phong nguyệt)

Hồi lâu Sư lại hỏi:

- Xà lê hội chăng? Trên phận sự chính mình ra sao? Đạt ma kia đến hay chưa đến có can hệ gì? Nhà kia đến giống hệt gã đi bói toán kiếm ăn, thấy ông chẳng hội mới dùng văn tự cho ông hiểu quẻ. Cát hung vừa sanh, hãy tự xem tất cả ở trên phần của ông.

Tăng hỏi:

- Thế nào là người biết bói?

Sư đáp:

- Lúc ông vừa ra cửa liền chẳng trúng.

Hỏi:

- Thế nào là gia phong của Thiên Trụ?

Sư đáp:

- Thời hữu bạch vân lai bế hộ,
Cánh vô phong nguyệt tứ sơn lưu.

時有白雲來閉戶。
更無 風月四山流

(Có lúc mây trắng giăng màn cửa,
Đâu còn trăng gió cuốn tứ sơn*).

* Tứ sơn : sanh, lão, bệnh, tử.

Hỏi:

- Tăng chết thiên hóa đi về đâu ?

Sư đáp:

Tiềm nhạc phong cao trường tích thúy,
Thư giang minh nguyệt sắc quang huy.

灊嶽峯高長積翠
舒江明月色光暉.

(Núi Tiềm cao ngọn mãi xanh tươi.
Sông Thư trăng sáng sắc quang huy).

Hỏi:

- Thế nào là Phật Đại Thông Trí Thắng?

如 何是大通智勝佛 ?

Như hà thị Đại Thông Trí Thắng Phật

Sư đáp:

- Trống không từ đại kiếp đến nay chưa từng che đậy, chẳng phải Phật Đại Thông Trí Thắng thì là gì ?

曠大劫來未曾擁滯。 不是大通智勝佛是什麼

Khoáng đại kiếp lai vị tằng ủng trệ, bất thị Đại Thông Trí Thắng Phật thị thập ma.

Hỏi:

- Tại sao Phật pháp không hiện tiền?

Vi thập ma Phật pháp bất hiện tiền ?

為什麼佛法不 現前

Sư đáp:

- Chỉ vì ông không hội cho nên không hiện tiền. Nếu ông hội rồi cũng không có Phật đạo nào để thành.

Chỉ vi nhữ bất hội, sở dĩ thành bất hiện tiền, nhữ nhược hội khứ, diệc vô Phật đạo khả thành.

只為汝不會。所以成不現前。汝若 會去。亦無佛道可成.

Hỏi:

- Thế nào là đạo? (như hà thị đạo) 如何是道

Sư đáp:

- Mây trắng che núi xanh,
Ong chim lượn sân hoa.

白雲覆青嶂
蜂鳥步庭華。

(Bạch vân phú thanh chướng,
Phong điểu bộ đình hoa).

Hỏi:
- Chư Thánh từ trước có nói lời nào chăng ?

Tùng thượng chư Thánh hữu hà ngôn thuyết ?

從上諸聖有何言說 ?

Sư hỏi lại:

- Ông nay thấy ta có lời nói nào chăng ?!

Nhữ kim kiến ngô hữu hà ngôn thuyết ?!

汝今見吾有何言說

Hỏi:

- Mời Sư cử xướng trong tông môn.

Sư đáp:

- Thạch ngưu trường hống chơn không ngoại,
Mộc mã tê thời nguyệt ẩn sơn.

石牛長吼真空外,
木馬嘶時月隱山。

(Trâu đá rống to ngoài chân không,
Ngựa gỗ hí vang, trăng khuất núi.)

Hỏi:

- Thế nào là chỗ Hòa thượng làm lợi người?

Sư đáp:

- Một trận mưa nhuần khắp, ngàn núi sắc xinh tươi.

Nhất vũ phổ tư, thiên sơn tú sắc.

一雨普滋千山秀色

Hỏi:

- Thế nào là người ở trong núi Thiên Trụ?

Sư đáp:

- Độc bộ thiên phong đỉnh,
Ưu du cửu khúc tuyền.

獨步千峯頂
優游九曲泉。

(Một mình thả bước qua ngàn đỉnh,
Thong dong chín chỗ suối cong queo).

Hỏi:

- Thế nào là ý Tây lai?

Sư đáp:

- Bạch viên bão tử lai thanh chướng,
Phong điệp hàm hoa lục nhị gian.

白猿 抱子來青嶂
蜂蝶銜華綠蘂間。

(Vượn trắng bồng con nơi hẻm núi,
Ong bướm dập dìu hút mật hoa).

Sư ở núi diễn nói đạo khoảng 22 năm. Năm Đại Lịch thứ 14 (779 – Đường Đại Tông), ngày 22 tháng 7 Sư quy tịch. Tháp xây ở phía bắc chùa, chơn thân hiện còn (thời điểm 1004).

lavinhcuong
06-22-2015, 10:18 AM
Bài 49

PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ HUYỀN TỐ CHÙA HẠC LÂM, NHUẬN CHÂU

4. THIỀN SƯ ĐẠO KHÂM 道欽禪師 Ở KÍNH SƠN, HÀNG CHÂU.

Người thuộc Côn Sơn, Tô Châu, họ Chu. Ban đầu ôm ấp lòng khâm phục Nho giáo, năm 28 tuổi Sư gặp thiền sư Huyền Tố, nhân đó Tố bảo:

- Xem ông thần khí ôn hòa mà tinh thuần, đúng là pháp bảo.

Sư cảm ngộ nhân đó xin làm đệ tử. Tố đích thân xuống tóc truyền giới cho, rồi bảo:

- Ông xuôi dòng sông mà đi, gặp Kính thì ở.

Sư bèn đi về Nam, đến Lâm An thấy một hòn núi phía đông bắc, nhân hỏi thăm một tiều phu. Tiều phu nói: _ Đó là Kính Sơn! Sư bèn trú ở đó.

Có tăng hỏi:

- Thế nào là đạo?

Sư đáp:

- Sơn thượng hữu lý ngư,
Thủy để hữu bồng trần.

山上有鯉魚,
水底有蓬 塵。

(Cá lý ngư trên núi,
Bụi cỏ bồng đáy sông).

Mã Tổ sai người đem thư đến, trong thư vẽ một vòng tròn. Sư mở thư, vẽ thêm một vạch trong vòng tròn rồi phong vào bao thư, gửi lại Mã Tổ (Quốc Sư Huệ Trung nghe chuyện, bèn nói “Thầy Khâm còn bị thầy Mã lừa”).

Tăng hỏi:

- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây đến?

Sư nói:

- Câu hỏi ông chẳng đúng.

Hỏi:

- Thế nào mới đúng?

Sư đáp:

- Chờ khi ta mất rồi mới nói với ông.

Mã Tổ sai môn nhân Trí Tạng đến hỏi:

- Trong 12 giờ (suốt ngày) lấy gì làm cảnh?

Sư đáp:

- Đợi khi ông về thì có tin tức.

Tạng nói:

- Bây giờ về liền.

Sư nói:

- Nói ra rồi lại phải hỏi Tào Khê mới được.

Năm Đại Lịch thứ ba (768), vua Đường Đại Tông ban chiếu mời Sư đến cửa khuyết để tự nhà vua chiêm lễ thêm. Một hôm gặp nhà vua tại cung ở trong, Sư đứng dậy.
Vua hỏi:

- Thầy vì sao phải đứng dậy?

Sư đáp:

- Đàn việt hướng vào bốn oai nghi, làm sao thấy được bần đạo?

Vua đẹp lòng, bảo Quốc sư Huệ Trung:

- Trẫm định ban cho thầy Khâm một danh hiệu.

Trung vui vẻ phụng chiếu, rồi ban cho Sư hiệu Quốc Nhất.

Sau Sư từ giã vua, về núi cũ. Vào năm Trinh Nguyên thứ 8 (792), tháng 12, Sư thị hiện có bệnh thuyết pháp rồi tịch. Thọ 79 tuổi. Sắc ban thụy hiệu Đại Giác Thiền Sư.

lavinhcuong
06-22-2015, 10:19 AM
Bài 50

PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ ĐẠO KHÂM Ở KÍNH SƠN, HÀNG CHÂU

5. THIỀN SƯ ĐẠO LÂM ĐIỂU KHÒA 鳥窠道林禪師 Ở HÀNG CHÂU.

Người huyện Phú Dương, bổn quận (Hàng Châu), họ Phan. Mẹ là Chu thị mộng thấy ánh sáng mặt trời vào miệng, nhân đó mang thai, đến khi sanh có mùi hương lạ xông khắp nhà, rồi đặt tên Sư là Hương Quang.
Chín tuổi xuất gia, năm 21 tuổi thọ giới ở chùa Quả Nguyện, Kinh Châu. Về sau lại đến pháp sư Phục Lễ, chùa Tây Minh ở Trường An, học Kinh Hoa Nghiêm, luận Khởi Tín; Phục Lễ đem bài tụng về chơn vọng dạy cho, chủ yếu để tập tu thiền định.

Sư hỏi:

- Ban sơ, sao gọi là quán? Dụng tâm thế nào?

Phục Lễ yên lặng hồi lâu mà không nói, Sư lễ bái ba lần rồi lui ra.
Đúng lúc Đường Đại Tông ban chiếu mời thiền sư Kính Sơn Quốc Nhất đến cửa khuyết, Sư bèn yết kiến Ngài rồi được chánh pháp. Đến khi Sư đi về Nam, trước đó có tháp Bích Chi Phật ở chùa Vĩnh Phúc núi Cô Sơn, bấy giờ người đạo kẻ tục cùng nhau tạo pháp hội ở đây. Sư chấn tích và vào hội, trong hội có pháp sư Thao Quang chùa Linh Ẩn hỏi:

- Pháp hội ở đây, vì sao (ông) phát ra tiếng?

Sư đáp:

- Không có tiếng ai biết đó là pháp hội?

Về sau thấy núi Tần Vọng có cây tùng lớn, cành lá sum suê quanh co như cái lọng, Sư bèn nương thân ở trên đó. Vì thế thời nhân gọi Sư là thiền sư Điểu Khòa (Tổ chim), lại có chim khách đóng tổ kế bên tự nhiên thuần quen con người, còn gọi Sư là Hòa thượng Thước Sào (Tổ chim khách).
Có thị giả Sư là Hội Thông, bỗng một hôm muốn từ giã ra đi. Sư hỏi:

- Nay ông đi đâu?

Đáp:

- Hội Thông vì pháp xuất gia mà Hòa thượng không rủ lòng từ dạy bảo, nay đi các nơi để học Phật pháp.

Sư nói:

- Nếu là Phật pháp, ở đây ta cũng có chút ít.

Hỏi:

- Thế nào là Phật pháp của Hòa thượng?

Sư rút sợi chỉ vải trên thân đưa lên thổi nó. Hội Thông liền lãnh ngộ huyền chỉ.

Khoảng năm Nguyên Hòa (806 – 820 – Đường Hiến Tông), Bạch Cư Dị ra làm thái thú quận đó (Thiệu Hưng, Chiết Giang), nhân lúc vào núi lễ ra mắt, bèn hỏi Sư:

- Chỗ thiền sư ở rất nguy hiểm!

Sư nói:

- Chỗ thái thú càng nguy hiểm hơn.

Hỏi:

- Chỗ đệ tử là trấn thủ giang sơn, có gì là nguy hiểm đâu?

Sư nói:

- Củi lửa gặp nhau, thức tánh đâu dừng. Chẳng phải là nguy hiểm ư?

Lại hỏi:

- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư đáp:

- Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.

諸 惡 莫 作 _ 眾 善 奉 行

(Chớ làm các điều ác, vâng làm các điều lành)

Bạch nói:

- Đứa bé ba tuổi cũng biết nói như thế.

Sư đáp:

- Đứa bé ba tuổi tuy nói được, mà ông già tám mươi làm không được.*

Bạch bèn làm lễ.

Vào năm Trường Khánh thứ tư (824), ngày 10 tháng 2, Sư bảo thị giả: “Thân nghiệp báo ta nay đã hết”. Nói xong ngồi tịch. Thọ 84 tuổi, tuổi lạp 63.
(Có chỗ nói Sư tên là Viên Tu, e là thụy hiệu).

_____________

*
白曰: 三歲 孩兒也解恁麼道。

師曰: 三歲孩兒雖道得。八 十老人行不得

Bạch viết : tam tuế hài nhi dã giải nhẫm ma đạo.

Sư viết : tam tuế hài nhi tuy đạo đắc, bát thập lão nhân hành bất đắc.

lavinhcuong
06-22-2015, 10:21 AM
Bài 51


PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ ĐẠO LÂM ĐIỂU KHÒA, HÀNG CHÂU

6. THIỀN SƯ HỘI THÔNG 會通禪師 CHÙA CHIÊU HIỀN 招賢寺, HÀNG CHÂU.

Người bổn quận, họ Ngô. Bổn danh là Nguyên Khanh. Hình tướng nghiêm trang, còn nhỏ tuổi mà thông minh mẫn tiệp.
Thời Đường Đức Tông (779 -805) làm lục cung sử. Họ hàng nhà vua đều khen ngợi Ngài. Mùa xuân thấy hoa cỏ cung điện Chiêu Dương phô sắc thắm tươi, thong thả từng bước ngoạn cảnh, chợt nghe trong không có tiếng nói:

Hư ảo chi tướng khai tạ bất đình, năng hoại thiện căn, nhân giả an khả thị chi.

虛幻之相開謝 不停,能壞善根。仁者安可嗜之

(Cảnh sắc hư huyễn nở rồi tàn có chi bền vững, nó hay làm hư hoại thiện căn. Bậc nhân giả sao có thể ham chuộng được ?)

Sư xét nhớ hồi nhỏ tuổi ưa thích việc thiện mà rất chán hoạn nạn thế gian. Một hôm vua dạo chơi trong cung, hỏi:

- Khanh sao chẳng vui?

Đáp:

- Thần từ nhỏ không ăn mặn tanh hôi, chí nguyện theo Phật.

Vua nói:

- Trẫm xem khanh như anh em, nếu chí nguyện khanh muốn sẽ giàu sang hơn người thì trẫm không trái ý khanh, xin hãy đừng xuất gia.

Đã trải qua tuần (10 ngày) vua thấy sắc mặt Ngài tiều tụy, ban chiếu cho trông coi vịêc tiếp khách nhà vua. Ngài tâu:

- Người đó phải thiệu long tam bảo.

Vua nói với Sư:

- Nếu khanh muốn thì tùy ý chọn một ngày nào đó rồi tâu lên.

Sư mang ơn vua, gởi lời cảm tạ. Chẳng bao lâu nhận được tin ở quê báo mẹ bệnh, xin hãy về coi sóc. Vua ban cho được như sở nguyên, lệnh hữu ty theo tiễn đưa Sư tới bến, chẳng bao lâu về đến nhà.

Gặp lúc pháp sư Thao Quang khích lệ, Sư đến Đạo Lâm Điểu Khòa làm đàn việt kết am dựng chùa. Chùa hoàn thành, Sư quỳ thưa:

- Đệ tử bảy tuổi ăn chay, mười một tuổi thọ ngũ giới. Nay hăm hai tuổi, thôi làm quan vì muốn xuất gia, xin Hòa thượng cho con được làm tăng.

Thiền sư nói:

- Hiện nay làm tăng ít có người tinh tấn chịu khó, phần đông làm chuyện nông nổi phóng túng.

Sư đáp:

_ Bản tịnh phi trác ma, nguyên minh bất tùy chiếu.

本淨非琢磨。元明不隨照

(Vốn tịnh không phải mài giũa, Sáng vốn sẵn đâu do nơi cảnh).

Thiền sư nói:

Nhữ nhược liễu tịnh trí diệu viên thể tự không tịch, tức chân xuất gia, hà giả ngoại tướng.
Nhữ đương vi tại gia bồ tát giới thí câu tu như Tạ Linh Vận chi trù dã.

汝若了淨智 妙圓體自空寂。即真出家,何假外相。 當為 在家菩薩戒施俱修如謝靈運之儔也

(Nếu ông liễu đạt tịnh trí, thể diệu viên thì tự không tịch, tức là chơn xuất gia, cần gì tướng bên ngoài? Ông nên làm Bồ tát tại gia, bố thí trì giới đều tu như bọn Tạ Linh Vận vậy).

Sư thưa:

- Dạ, lý tuy như thế, còn về sự có ích lợi gì cho ai?

Nếu như thầy rủ lòng thu nhận, con thề tuân theo lời dạy của thầy.

Ba lần Sư thỉnh cầu như thế đều bị từ chối. Lúc đó pháp sư Thao Quang cương quyết bày tỏ với Điểu Khòa:

- Cung sử chưa từng lấy vợ cũng không chứa người nữ làm hầu. Nếu thiền sư không cứu vớt thì ai độ ông ấy?

Điểu Khòa mới cho thế phát thọ giới cụ túc. Sư thường độ trai giờ mão (5 – 7 giờ sáng), ngày đêm tinh tấn, tụng đọc Kinh Đại thừa và thực tập An ban tam muội. Rồi Sư cố xin từ giã để du phương, Điểu Khòa đưa sợi chỉ vải lên dạy, Sư ngộ huyền chỉ. Bấy giờ thời nhân gọi là thị giả Bố Mao (Đã thuật trong chương nói về Điểu Khòa). Đến khi Điểu Khòa quy tịch gần 20 năm, vua Đường Võ Tông ra lệnh phế chùa, Sư cùng chúng tăng lễ từ linh tháp Điểu Khòa rồi đi xa, về sau không biết nữa.

lavinhcuong
06-22-2015, 10:22 AM
Bài 52

NHỮNG PHÁP TỰ BÀNG XUẤT HAI ĐỜI TỪ THIỀN SƯ HUỆ TRUNG

1. THIỀN SƯ DUY TẮC 惟則禪師 Hang PHẬT QUẬT 佛窟巖, núi THIÊN THAI 天台山.


Người Kinh Triệu, họ Trưởng Tôn. Ban đầu tham yết thiền sư Huệ Trung ở Ngưu Đầu, đại ngộ huyền chỉ; về sau ẩn cư ở hang núi phá tây Bộc Bố trên núi Thiên Thai. Trong niên hiệu Nguyên Hòa (806 –820 – Đường Hiến Tông), pháp tịch Sư thạnh dần.

Lúc đầu ẩn cư, Sư tự đặt tên hang núi mình là Phật Quật. Một hôm Sư dạy chúng:

_ Trời đất vốn không, ta cũng không, tuy nhiên chưa hẵn là không có vật. Hãy xem, thánh nhân như bóng, trăm năm như mộng, có ai sanh tử đâu? Vì thế bậc Giác Ngộ chiếu soi chỉ có một mình, mà hay làm chủ muôn vật. Điều này ta đã biết, các ông biết không ?

天地無物也。我 無物也。然未甞無物。斯則聖人如影, 年如
夢。孰為生死哉。至人以是獨照。能 萬物之 主。吾知之矣。汝等知之乎 ?

Thiên địa vô vật dã, ngã vô vật dã, nhiên vị thường vô vật, tư tắc thánh nhân như ảnh, bá niên như mộng, thục vi sinh tử tai. Chí nhân dĩ thị độc chiếu, năng vi vạn vật chi chủ, ngô tri chi hĩ, nhữ đẳng tri chi hồ ?.

Có tăng hỏi:

- Thế nào là mũi tên Na-la-diên ?

(Na-la-diên: Âm Hán Việt từ chữ Phạn, nghĩa là Kim cang lực sĩ)

Sư đáp:

- Trúng đích.

Một hôm Sư chợt báo môn nhân:

- Các ông phải tự cố gắng. Ta có nói chi đâu?

Hai ngày đêm sau đó Sư ngồi yên thị tịch. Thọ 80 tuổi, tuổi lạp 58.

hoatihon
06-22-2015, 10:27 AM
]


Thánh nhân như mộng.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thanhnhannhuanh_zps0aaa551b.jpg

lavinhcuong
06-22-2015, 10:35 AM
Bài 53.


PHÁP TỰ CỦA HÒA THƯỢNG DUY TẮC HANG PHẬT QUẬT, THIÊN THAI

1. THIỀN SƯ TRÍ 智禪師 CHÙA VÂN CƯ 雲居 NÚI THIÊN THAI 天台山.


Từng có lần Kế Tông (繼宗), vị tăng ở viện Hoa Nghiêm, hỏi:

_ Kiến tánh thành Phật, nghĩa đó như thế nào?

見性成佛其義云何 ?

Kiến tính thành Phật kì nghĩa vân hà ?

Sư đáp:

- Tánh thanh tịnh xưa nay trong suốt, không hề dao động, thể ấy chẳng thuộc có không, dơ sạch, dài ngắn, lấy bỏ … tự nó trùm khắp. Thấy rõ ràng như thế gọi là kiến tánh, tánh tức Phật Phật tức tánh, thế nên nói “Kiến tánh thành Phật”.

清淨之性本來湛 然無有動搖。不屬有無淨穢長短取捨 自 翛然。如是明見乃名見性。性即佛佛 性。故 云見性成佛。

Thanh tịnh chi tính bản lai đạm nhiên vô hữu động dao, bất thuộc hữu vô tịnh uế trường đoản thủ xả thể tự tiêu nhiên. như thị minh kiến nãi danh kiến tính, tính tức phật phật tức tính, cố vân kiến tính thành Phật.

Hỏi:
_ Tánh đã thanh tịnh chẳng thuộc có không, tại sao có thấy ?

性既清淨不屬有無因何有見 ?

Tính kí thanh tịnh bất thuộc hữu vô nhân hà hữu kiến ?

Sư đáp:

_ Thấy mà không có cái bị thấy.

見無所見

Kiến vô sở kiến.

Hỏi:

_ Không có cái bị thấy tại sao lại có (cái hay) thấy ?

無所見因何更有見 ?

Vô sở kiến nhân hà canh hữu kiến ?

Sư đáp:

_ Chỗ thấy cũng không.

見處亦無

Kiến xứ diệc vô

Hỏi:

_ Như thế, khi thấy chính ai thấy đó?

如是見時是誰之見 ?

Như thị kiến thời thị thùy chi kiến ?

Sư đáp:

_ Không có ai hay thấy.

無有能見者

Vô hữu năng kiến giả

Hỏi:

_ Rốt cục lý ấy ra sao?

究竟其理如何

Cứu cánh kì lí như hà ?

Sư bảo:

_ Ông biết chăng? Vọng kế (tính toán suy lường) cái có liền có, có năng có sở gọi là mê, nương theo cái thấy sanh ra hiểu biết liền rơi vào sanh tử. Người tỏ rõ cái thấy thì không như thế, suốt ngày thấy mà như chưa từng thấy, tìm hình thể tướng mạo của chỗ thấy không thể được, năng sở đều mất, gọi là kiến tánh.

汝知否。妄 計為有即有。能所乃得名迷。隨見生 便墮 生死。明見之人即不然。終日見未嘗 。求見 處體相不可得。能所俱絕。名為見性.

Nhữ tri phủ, vọng kế vi hữu tức hữu, năng sở nãi đắc danh mê, tùy kiến sinh giải tiện đoạ sinh tử, minh kiến chi nhân tức bất nhiên, chung nhật kiến vị thường kiến, cầu kiến xứ thể tướng bất khả đắc, năng sở câu tuyệt, danh vi kiến tính.

Hỏi:

_ Tánh đó biến khắp nơi, phải không?

此性 遍一切處否?

Thử tính biến nhất thiết xứ phủ ?

Sư đáp:

_ Không đâu chẳng khắp.

無處不遍

Vô xứ bất biến

Hỏi:

_ Phàm phu có đầy đủ tánh đó không?

凡夫具否?

Phàm phu cụ phủ ?

Sư đáp:

_ Trên nói "Không đâu chẳng khắp”. Há có bảo phàm phu chẳng đầy đủ ư !

上言無處不遍。豈凡夫而不具乎

Thượng ngôn vô xứ bất biến, khởi phàm phu nhi bất cụ hồ.

Hỏi:

_ Vì sao chư Phật Bồ Tát không bị việc sanh tử bó buộc, nhưng riêng phàm phu luẩn quẩn với cái khổ đó, có bao giờ họ biến khắp được đâu ?.

因何 諸佛菩薩不被生死所拘。而凡夫獨縈 苦。 何曾得遍。

Nhân hà chư Phật Bồ tát bất bí sinh tử sở câu, nhi phàm phu độc oanh thử khổ, hà tằng đắc biến ?.

Sư đáp:

_ Ở trong tánh thanh tịnh mà phàm phu khởi phân biệt, có năng sở liền rơi vào sanh tử. Chư Phật và bậc đại sĩ khéo biết trong tánh thanh tịnh, không phụ thuộc tướng có không thì năng sở chẳng lập.

凡夫於清淨性中, 計有能所 即墮生死, 諸佛大士善知清淨性中不屬有 無,即能所不立。

Phàm phu ư thanh tịnh tính trung, kế hữu năng sở tức đoạ sinh tử. Chư Phật đại sĩ thiện tri thanh tịnh tính trung bất thuộc hữu vô, tức năng sở bất lập.

Hỏi:

_ Nếu nói như thế tức có người liễu và người chẳng liễu?

若如是說, 即有了不了人?

Nhược như thị thuyết, tức hữu liễu bất liễu nhân.

Sư nói:

_ Liễu còn không thể được, há có người hay (năng) liễu ư !

了尚不可得。豈有能了人乎.

Liễu thượng bất khả đắc, khởi hữu năng liễu nhân hồ.

Hỏi:

_ Chí lý ra sao?

至理如 何 ?

Chí lí như hà ?

Sư nói:

_ Ta nói tóm tắt, ông nên nhớ rằng trong tánh thanh tịnh không có phàm thánh, cũng không có người liễu hay người chẳng liễu. Phàm và thánh cả hai đều là giả danh, nếu theo danh sanh hiểu biết thì rơi vào sanh tử, nếu biết là giả danh không thực thì không có cái gì tương xứng với tên gọi.

我以要言之。汝即應念。清淨性中無 有凡聖。亦無了人不了人。凡之與聖 俱是 名。若隨名生解即墮生死。若知假名 實。即 無有當名者.

Ngã dĩ yếu ngôn chi, nhữ tức ưng niệm, thanh tịnh tính trung vô hữu phàm thánh, diệc vô liễu nhân bất liễu nhân, phàm chi dữ thánh nhị câu thị danh, nhược tùy danh sinh giải tức đoạ sinh tử, nhược tri giả danh bất thật, tức vô hữu đương danh giả.

Sư lại nói:

_ Đó là chỗ tột cứu cánh. Nếu cho rằng ta hay liễu ngộ, người kia không thể liễu ngộ thì đó là bệnh nặng; thấy có sạch dơ phàm thánh cũng là bệnh nặng. Khởi kiến giải không có phàm thánh lại thuộc về bác bỏ, không có nhân quả (chấp đoạn). Thấy có tánh thanh tịnh để nương trụ cũng là bệnh nặng, khởi kiến giải không nương trụ cũng là bệnh nặng. Nhưng trong tánh thanh tịnh tuy không dao động mà đầy đủ những ứng dụng và phương tiện không hề hoại; cho đến hưng khởi tâm từ vận dụng tâm bi, chỗ vận dụng hưng khởi như thế chính là tánh thanh tịnh hoàn toàn, nên gọi là kiến tánh thành Phật.

此是極究竟處。若云我能 了彼不能了即是大病。見有淨穢凡聖 是 大病。作無凡聖解又屬撥無因果。見 清淨 性可棲止亦大病。作不棲止解亦大病 然清 淨性中雖無動搖。具不壞方便應用。 興慈 運悲。如是興運之處。即全清淨之性 可謂 見性成佛矣。

Thử thị cực cứu cánh xứ, nhược vân ngã năng liễu bỉ bất năng liễu tức thị đại bệnh, kiến hữu tịnh uế phàm thánh diệc thị đại bệnh; tác vô phàm thánh giải hựu thuộc bát vô nhân quả, kiến hữu thanh tịnh tính khả thê chỉ diệc đại bệnh, tác bất thê chỉ giải diệc đại bệnh, nhiên thanh tịnh tính trung tuy vô động dao, cụ bất hoại phương tiện ứng dụng, cập hưng từ vận bi, như thị hưng vận chi xứ, tức toàn thanh tịnh chi tính, khả vị kiến tính thành Phật hĩ .

Kế Tông vui mừng nhảy nhót, lễ tạ rồi lui.

hoatihon
06-22-2015, 10:37 AM
Thấy như chẳng thấy.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thaynhuchangthay_zps79c006b2.jpg

hoatihon
06-23-2015, 08:17 AM
Thánh & Phàm.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thanhpham_zpse2eb4609.jpg

hoatihon
06-23-2015, 08:19 AM
Giả danh.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/giadanh2_zps3ce4acf1.jpg

hoatihon
06-23-2015, 08:22 AM
Bất hoại phương tiện.



http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/bathoaiphuongtien_zpsd8979d4b.jpg

lavinhcuong
06-23-2015, 08:24 AM
Bài 54.


NHỮNG PHÁP TỰ BÀNG XUẤT TỪ TỔ THỨ 32 HOẰNG NHẪN ĐẠI SƯ

PHÁP TỰ BÀNG XUẤT ĐỜI THỨ NHẤT

1. THIỀN SƯ THẦN TÚ BẮC TÔNG.


Người huyện Úy Thị, phủ Khai Phong (Hà Nam), họ Lý. Lúc nhỏ mến nghiệp Nho, học rộng biết nhiều. Chẳng bao lâu bỏ sở thích xuất gia tìm thầy học đạo, đến chùa Đông Sơn núi Song Phong ở Kì Châu, gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư. Lấy tọa thiền làm nhiệm vụ, rồi thán phục:

- Đây đúng là thầy ta.

Sư nguyện với lòng chịu khổ nhọc để giữ tiết, tự phục dịch bằng cách bửa củi xách nước mà cầu đạo.
Hoằng Nhẫn thầm biết Sư sâu sắc, hơn nữa xem là nhân tài, nói với Sư:

- Ta độ nhiều người rồi, riêng những người giải ngộ thì không ai bằng ông.

Sau khi Hoằng Nhẫn đã thị hiện nhập diệt, Tú mới đến trụ ở núi Đương Dương thuộc Giang Lăng. Đường Vũ hậu nghe tiếng, triệu Sư đến kinh đô, cúng dường ở đạo tràng nội cung đặc biệt tôn kính.
Vua truyền mệnh Sư về núi cũ, ban cho biển ngạch treo trước chùa Độ Môn để vinh danh đức hạnh. Bấy giờ hàng vương công, nhà quý tộc, kẻ sĩ và thứ dân đều hết mực tôn kính bái phục. Đến vua
Trung Tông tức vị lại càng kính trọng, đại thần Trương Thuyết thường hỏi về pháp yếu giữ lễ làm đệ tử.

Sư có bài kệ dạy chúng:

Nhất thiết Phật pháp,
Tự tâm bổn hữu.
Tương tâm ngoại cầu,
Xả phụ đào tẩu.

一切佛法  
自心本有  
將心外求
捨父逃走

(Tất cả Phật pháp,
Tâm mình vốn có.
Đem tâm cầu ngoài,
Chạy trốn bỏ cha).

Năm Thần Long thứ 2 (706 – Đường Trung Tông), Sư nhập diệt ở chùa Thiên Cung, Đông Đô. Vua ban thụy hiệu là Đại Thông Thiền Sư, Vũ Nghi Pháp Vật (chỗ chứa pháp làm tiêu biểu cho người noi theo). Đưa đi an táng ở Long Môn, vua tiễn đến đầu cầu, vương công sĩ thứ đều đưa đến nơi an táng. Trương Thuyết và Trưng sĩ Lô Hồng mỗi người làm bài văn viếng khắc trên bia. Môn nhân Phổ Tịch, Nghĩa Phước … đều được triều đình và thôn dã kính trọng.

hoatihon
06-23-2015, 08:26 AM
Hạt châu búi tóc.

http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hatchaubuitoc3_zpsfca37ebb.jpg

lavinhcuong
06-23-2015, 08:28 AM
Bài 55.

QUỐC SƯ HUỆ AN 慧安 國師 Ở TUNG NHẠC 嵩嶽 .


Người ở Chi Giang, Kinh Châu, họ Vệ. Năm Khai Hoàng thứ 17 (597), Tùy Văn đế cho khám xét về tư độ tăng ni (tăng ni được chánh quyền đã cấp cho độ điệp xuất gia) khắp trong nước. Khám Sư, Sư nói:

“Chất phác, không tên tuổi”, rồi lánh vào hang núi.

Trong năm Đại Nghiệp (605 – 617 – Tùy Dạng đế), tổng phát động đinh phu khai thông kinh vận hà. Phu phen chết đói chồng chất lên nhau, Sư khất thực để cứu họ, số người cứu được rất đông. Dạng đế cho mời, Sư không đi mà lẻn vào núi Thái Hòa.

Tình hình trong nước nhiễu nhương, Sư bèn chống gậy lên chùa Hành Nhạc tu hạnh đầu đà.
Trong những năm Trinh Quán (627 – 649 –Đường Thái Tông), Sư đến Hoàng Mai tham yết Tổ Hoằng Nhẫn rồi được tâm yếu. Năm Lân Đức nguyên niên (663 - Đường Cao Tông), nhân du phương đến Thạch Bích núi Chung Nam rồi dừng trụ ở đó. Vua Cao Tông thường cho mời, Sư đều từ chối.
Sư dạo khắp các danh tích rồi đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Sư nói: “Đây là nơi ta ở suốt đời”. Từ đó thiền giả tụ họp đông đúc.

Có hai người là Thản Nhiên và Hoài Nhượng đến tham vấn, hỏi:

- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây đến?
- 如何是祖師西來意 ?
- Như hà thị tổ sư Tây lai ý ?

Sư hỏi:

- Sao chẳng tự hỏi ý mình ?
- 何不問自己意 ?
- hà bất vấn tự kỉ ý ?

Hỏi:

- Thế nào là ý tự mình?
- 如何是自己意 ?
- như hà thị tự kỉ ý ?

Sư đáp:

- Hãy xem cái gì lúc này !
- 當觀 密作用
- đương quan mật tác dụng

Hỏi:

- Thế nào là "cái gì lúc này" ?
- 如何是密作用 ?
- như hà thị mật tác dụng ?

Sư nhắm mở con mắt để chỉ dạy họ, nhưng cơ duyên Nhượng không hợp cho nên không hiểu gì cả, bèn từ giã Sư, đi Tào Khê.

Vũ hậu mời Sư đến kinh thành, đãi Sư theo lễ thầy trò. Sư và thiền sư Thần Tú càng được thêm kính trọng. Vũ hậu có lần hỏi tuổi tác Sư. Sư đáp:

- Chẳng nhớ.

Hậu hỏi:

- Sao lại không nhớ ư?

Sư đáp:

- Cái thân sanh tử nó tuần hoàn như vậy, luân chuyển không có sự bắt đầu và chấm dứt, cần nhớ làm gì? Huống nữa tâm kia không ngừng làm môi giới tưới tẩm, từ cái thức ban đầu dẫn đến tướng thô động, thấy tâm sanh diệt như hòn bọt chỉ là vọng tưởng thôi. Hết sanh diệt rồi cũng chỉ như thế, có năm tháng nào đáng nhớ đâu !

生死之身其若循環。環無起盡 焉用記為。況此心流注中間無間。見 起滅 者乃妄想耳。從初識至動相。滅時亦 如此。 何年月而可記乎。

Sinh tử chi thân kì nhược tuần hoàn, hoàn vô khởi tận yên dụng kí vi, huống thử tâm lưu chú trung gian vô gian, kiến âu khởi diệt giả nãi vọng tưởng nhĩ, tùng sơ thức chí động tướng, diệt thời diệc chỉ như thử, hà niên nguyệt nhi khả kí hồ.


Vũ hậu nghe qua cúi đầu lạy tín thọ. Đến năm Thần Long thứ hai (706), vua Đường Trung Tông ban cho Sư ca sa tía. Mười bốn đệ tử đắc độ của Sư, vẫn được mời vào trong cung cấm
cúng dường ba năm và ban cho mỗi vị một bộ y ma nạp.

Năm Cảnh Long thứ ba 709, Sư từ giã kinh đô trở về Tung Nhạc ngày 3 tháng 3 năm đó (709), dặn dò môn nhân:

- Sau khi ta chết, đem thây ta vô rừng, đợi dã hỏa (lửa ma trơi) thiêu.

Chốc lát thì Vạn Hồi Công đến gặp Sư, nắm tay Sư bàn luận râm ran, thị giả bên cạnh nghiêng tai lắng nghe đều không hiểu gì. Đến ngày mùng 8, Sư cho đóng cửa nằm an nghỉ và tịch.

Tuổi Sư là 128 (sanh năm Nhâm Dần, năm Tùy Khai Hoàng thứ hai 582; mất năm Kỷ Dậu, năm Đường Cảnh Long thứ ba 709. Đương thời gọi Lão An Quốc Sư).

Môn nhân tuân theo lời dạy đem thây đặt trong rừng, quả thật dã hỏa thiêu tự nhiên, được 80 viên xá lợi. Trong đó có năm viên màu đỏ tía, được giữ ở trong cung.

Đến năm Tiên Thiên thứ hai 711, môn nhân xây tháp thờ.

hoatihon
06-23-2015, 08:30 AM
Không có gì thật.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/maytuoi2_zps06adb6a3.jpg

lavinhcuong
06-23-2015, 08:31 AM
Bài 56.


1. THIỀN SƯ ĐẠO MINH 道明 禪師 Ở MÔNG SƠN 蒙山, VIÊN CHÂU 袁州.

Người Bá Dương, là con cháu xa của Trần Tuyên đế, nước Trần (557 – 588), mất dòng dõi vua lưu lạc vào chốn nhân gian. Lấy tư cách là vương tôn nên từng tạm nhận chức vụ, nhân đó có hiệu là Tướng quân.

Lúc nhỏ xuất gia ở chùa Vĩnh Xương, lòng mộ đạo rất tha thiết. Sau đến nương tựa pháp hội Ngũ Tổ hết lòng nghiên tầm, ban đầu không giải ngộ, đến khi nghe tin Ngũ Tổ mật truyền y pháp cho Lư hành giả (Lục Tổ Huệ Năng), Sư liền đốc suất khoảng mười người đồng ý theo dấu truy đuổi đến Đại Dữu Lãnh. Sư vượt xa về trước thấy bọn còn lại chưa theo kịp. Lư hành giả thấy Sư chạy đến, liền để Y Bát trên tảng đá, nói:

- Y này là vật làm tin, khá dùng sức mạnh giành được ư? Mặc cho ông ta lấy đi.

Sư bèn xách Y lên, Y bất động như núi. Sư ngập ngừng lo sợ rồi nói:

- Tôi đến để cầu pháp chẳng phải vì Y, mong hành giả khai thị giúp tôi.

Lục Tổ nói:

- Không nghĩ thiện không nghĩ ác, chính lúc đó cái nào là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?

Bất tư thiện bất tư ác chính nhẫm ma thời, a na cá thị Minh thượng toạ bản lai diện mục ?

不思善不思惡正恁麼時。阿那箇是 明上坐本來面目 ?

Ngay lời nói Sư đại ngộ, khắp thân xuất mồ hôi, khóc lạy mấy lần.

Sư hỏi:

- Ngoài mật ý mật ngữ vừa rồi, còn có ý chỉ nào khác không ?

Tổ nói:

- Cái mà tôi đang nói với ông tức chẳng phải mật, nếu ông phản chiếu diện mục tự mình thì mật lại ở bên ông.

Ngã kim dữ nhữ thuyết giả, tức phi mật dã, nhữ nhược phản chiếu tự kỉ diện mục, mật khước tại nhữ biên.

我今與汝說者, 即非密也。汝若返 照自己面目。密却在汝邊.

Sư nói:

- Tôi tuy ở Hoàng Mai theo chúng mà thật ra chưa tỉnh biết diện mục tự mình. Nay nhờ chỉ dạy, nhận được chỗ vào như người uống nước nóng lạnh tự biết. Nay hành giả là thầy của tôi.

Tổ nói:

- Nếu ông như thế thì tôi và ông cùng thầy Hoàng Mai. Hãy khéo tự giữ gìn.

Sư lại hỏi:

- Sắp tới tôi nên đi đâu?

Tổ đáp:

- Gặp Viên nên dừng, gặp Mông thì ở.

(Phùng Viên khả chỉ, ngộ Mông tức cư)

Sư lễ tạ rồi vội vã xuống chân núi, bảo với chúng nhân:

- Lên đỉnh cao ngất trông xa hoàn toàn bặt dấu vết, phải qua đường khác tìm.

Chúng đều tin là vậy. Sau khi trở về, Sư một mình đến Bố Thủy Đài ở Lô Sơn trải ba năm. Sau đó mới đến Mông Sơn thuộc Viên Châu đại xướng việc giáo hóa thiền tông. Ban đầu Sư tên Huệ Minh, vì tránh chữ đầu của tên thầy (Huệ Năng) nên đổi tên là Đạo Minh.

Các đệ tử Sư đều được sai đi Lãnh Nam tham lễ Lục Tổ.

lavinhcuong
06-23-2015, 08:33 AM
Bài 57.


I. PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ THẦN TÚ BẮC TÔNG

I.1. Thiền sư Cự Phương Ngũ Đài Sơn

Người An Lục, họ Tào, hồi nhỏ thọ nghiệp với thiền sư Lãng ở viện Minh Phước, lúc đầu giảng kinh luận sau mới tham thiền. Lúc đến Bắc Tông, sư Tú hỏi:

- Mây trắng tan, chỗ đó ra sao?

Sư đáp:

- Chẳng mê.

Tú lại hỏi:

- Đến trong đó rồi thì sao?

Sư đáp:

- Thấy đúng một cành sanh năm lá.

Tú mặc nhiên thừa nhận cho vào thất hầu bên cạnh, hy vọng hết sai lầm. Rồi Sư đến ở Hàn Lãnh, Thượng Đảng, khoảng mấy năm chúng đông đúc hàng ngàn. Sau đó Sư xiển hóa ở Ngũ Đài Sơn hơn 20 năm mới nhập diệt, thọ 81 tuổi. Vào ngày mùng 3 tháng 9 năm Đường Khai Nguyên thứ 15 (727), chúng đem toàn thân Sư nhập tháp.

________________________


I.2. Thiền sư Trí Phong núi Trung Điều phủ Hà Trung.

Sư họ Ngô. Ban đầu học tập luận Duy thức vướng mắc danh tướng, bị tri thức vấn nạn rồi nổi giận thôi giảng.
Sư du hành lên núi Vũ Đương, gặp thiền sư Thần Tú tâm nghi liền tiêu tan, muốn nuôi dưỡng thánh thai bèn từ giã ra đi, đến núi An Phong ở Bồ Tân, ăn rau uống nước suối không dưới mười năm. Gặp lúc châu mục Vệ Văn Thăng thỉnh vô nội thành, xây quốc viện Tân An rồi ở đó, tăng tục quy y tới lui không ngớt.

Sứ quân hỏi:

- Tôi từ nay về sau ra sao?

Sư đáp:

- Mặt trời từ « mông phiếm » mọc. (Mặt trời mọc hướng Tây)
Chiếu cây hoàn toàn vô ảnh.

Lúc đầu sứ quân không thể hiểu, chắp tay xá chào rồi lui, chẳng bao lâu mới hiểu ra, từ đó tự được thảnh thơi.

Sư qua lại núi Trung Điều trên 20 năm, những người thọ giáo với Sư không thể ghi hết.

Sư nhập diệt rồi, môn nhân xây tháp thờ ở phía bắc châu thành.

lavinhcuong
06-23-2015, 08:34 AM
Bài 58.


I.3 . Thiền sư Hàng Ma Tạng ở Duyện Châu.

Người Triệu Quận, họ Vương, cha làm Hào duyện (chức quan phó). Bảy tuổi Sư xuất gia. Bấy giờ cánh đồng Chúc có nhiều yêu ma quấy nhiễu làm mê hoặc người dân, Sư một mình đến hàng phục chúng chưa từng có một chút sợ sệt, thế nên có tên Hàng Ma.
Sau lại nương tựa thiền sư Minh Tán viện Quảng Phước xuất gia phục vụ chuyên cần. Thọ pháp rồi gặp lúc Bắc Tông giáo hóa thạnh hành, Sư thệ vén áo đi theo.
Sư Tú hỏi:

- Ông tên Hàng Ma, ở đây không có sơn tinh mộc quái. Trái lại ông làm ma chăng?

Sư đáp:

- Có Phật thì có ma.

Tú nói:

- Nếu ông là ma ắt ở cảnh giới bất tư nghì?

Sư đáp:

- Làm Phật cũng rỗng không, có gì là cảnh giới đâu?

Tú huyền ký Sư, bảo:

- Ông có duyên với gò Thiếu Hạo.

Rồi Sư vào Thái Sơn, ít năm học giả quy tụ đông đúc. Một hôm Sư bảo môn nhân:

- Nay thân ta già mà vô dụng, sự vật đến cùng cực thì trở về.

Sư nói xong rồi đi, thọ 91 tuổi.

_________________________


I.4. Thiền sư Đạo Thọ ở Thọ Châu.

Người Đường Châu, họ Văn. Lúc nhỏ tìm học kinh sách, tuổi gần năm mươi nhân gặp cao tăng khuyên bảo, rồi thệ nguyện xuất gia.

Đến lễ ngài Huệ Văn núi Minh Nguyệt ở Bản Bộ làm thầy. Tuổi lớn cầu pháp chậm trễ, Sư tự lấy làm thẹn, gắng chí du phương không đâu không đến. Sau trở lại Đông Lạc gặp thiền sư Thần Tú, qua lời nói Tú biết nhỏ muộn nhưng thành pháp khí.

Rồi chọn chỗ kết am trên núi Tam Phong, Thọ Châu mà ở đó. Thường có con dã nhân vỏ cây che thân, nói bàn chuyện kỳ dị, ngoài việc nói cười còn biến hóa làm hình Phật và hình Bồ tát, La-hán, Thiên tiên … Có khi phóng thần quang hoặc trình diễn âm nhạc. Học đồ của Sư thấy vậy, đều không đánh giá được, việc như thế trải qua mười năm, sau dã nhân chết không còn hình ảnh nào, Sư dạy chúng:

- Dã nhân biến hóa ra nhiều sắc tướng, có tài khéo huyễn hoặc người. Chỉ là trò tiêu khiển, lão tăng không thấy không nghe; tài năng y có giới hạn, cái không thấy không nghe của ta là vô tận.

Năm Đường Bảo Lịch nguyên niên 825, Sư thị hiện có bệnh rồi mất. Thọ 92 tuổi.
Tháng giêng năm sau xây tháp thờ.

____________________________


I.5. Thiền sư Toàn Thực núi Đô Lương, Hoài Nam.

Người Quang Châu, họ Nhuế. Ban đầu kết am tạm ở, thái thú Vệ Văn Khanh mời Sư khai pháp, tụ tập đồ chúng ở chùa Trường Thọ tại châu nhà.
Văn Khanh hỏi:

- Về sau Phật pháp thạnh suy ra sao?

Sư đáp:

- Vật chơn thật thì không xưa không nay cũng không dấu vết. Pháp hữu vi chịu bốn tướng đổi đời, pháp này hẳn phải trở ngại, quân hầu nên biết.

Sư 93 tuổi mới mất. Năm Hội Xương thứ tư nhà Đường, ngày mùng 7 tháng 9 năm Giáp Tý 844 nhập tháp.

lavinhcuong
06-23-2015, 08:35 AM
Bài 59.


II. PHÁP TỰ CỦA QUỐC SƯ HUỆ AN TUNG NHẠC

II.1. Thiền sư Nhân Kiệm chùa Phước Tiên, Lạc Kinh.

Từ khi Tung Sơn thôi dạy, Sư phóng khoáng chỗ đông người (hàng quán), người bấy giờ gọi Sư là Hòa thượng Đằng Đằng.

Vào năm Đường Thiên Sách Vạn Tuế (niên hiệu Đường Vũ hậu) 694, Thiên Hậu mời Sư vào trước điện. Ngước nhìn Thiên Hậu (Vũ hậu) một hồi lâu, Sư hỏi:

- Hội chăng ?

Hậu đáp:

- Không hội.

Sư nói:

- Lão tăng giữ giới “không nói”.

Lão tăng trì bất ngữ giới.

Nói xong rồi đi ra. Hôm sau dâng lên tập đoản ca gồm 19 bài, Thiên Hậu xem qua khen Sư và ban thưởng hậu hĩ. Sư đều không nhận. Hậu lệnh Sư viết lời ca từ truyền bá trong thiên hạ, lời ca đó phô diễn đầy đủ chơn lý nhằm cảnh tỉnh người thế tục đương thời, riêng bài Liễu Nguyên Ca là thạnh hành ở đời.

lavinhcuong
06-23-2015, 08:36 AM
Bài 60.


II.2. Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc.


Không có danh xưng và họ. Lời nói và việc làm không thể lường, Sư ẩn cư ở núi Tung Nhạc.

Sơn ổ có cái miếu rất linh, trong điện thờ chỉ đặt một ông táo. Người gần xa đến cúng tế không ngớt, sát hại sanh mạng loài vật rất nhiều.Một hôm Sư dẫn theo tăng thị giả cùng vô miếu. Sư dùng gậy gõ táo ba cái, nói:

- Thôi đi táo này! Chỉ là đất bùn nắn thành, thánh từ đâu đến, linh từ đâu có? Sát hại sanh mạng loài vật như thế sao?

Rồi đánh táo ba gậy, táo đổ bể rơi xuống đất (nhân đó An Quốc Sư đặt tên là Phá Táo Đọa), chốc lát có một người mặc áo xanh vận mũ cao bỗng nhiên xuất hiện trước mặt Sư và lạy. Sư hỏi:

- Đó là ai ?

Đáp:

- Tôi vốn là thần táo của miếu này, thọ nghịêp báo lâu rồi. Hôm nay nhờ ân Hoà thượng nói pháp vô sanh, thoát được chốn này sanh vào cõi trời, đặc biệt đến để cảm tạ.

Sư nói:

- Đó là tánh vốn có của ông, đâu phải ta nói ép buộc ông.

Thần lễ Sư lần nữa rồi biến mất. Chốc lát trong những tăng theo Sư, có thị giả hỏi:

- Chúng con ở lâu bên cạnh Hòa thượng mà chưa được Hòa thượng đinh ninh dạy bảo, đặc biệt vì chúng con. Táo thần được gì mà thầy chỉ thẳng liền được sanh Thiên?

Sư đáp:

- Ta chỉ nói với y đó là ngói bùn hợp thành, ngoài ra không có đạo lý nào cho y.

Các tăng theo Sư đều đứng lên, không nói lời nào.

Sư hỏi:

- Hội chăng?

Chủ sự đáp:

- Không hội.

Sư hỏi:

- Tánh đã sẵn có, tại sao không hội?

Các tăng bèn lễ bái.

Sư nói:

- Đổ, đổ đi! Bể, bể đi!

----------

Sau có thiền sư Nghĩa Phong, nêu chuyện trên hỏi An Quốc sư. Quốc sư khen:

- Ông ấy hội suốt ngã vật nhất như, có thể nói như trăng sáng trên không trung không gì chẳng thấy. Khó nghe được ngữ mạch của y.

Thiền sư Phong bèn cúi đầu, chắp tay hỏi:

- Chưa biết ai nghe được ngữ mạch của ông ấy?

Quốc sư đáp:

- Cái chẳng biết.

-----------

Lại có tăng hỏi:

- Mọi vật đều không hình tướng thì thế nào?

Sư đáp:

- Lễ thì chỉ có ông chẳng có ta, không lễ thì chỉ có ta chẳng phải ông.

Tăng ấy bèn lễ tạ. Sư nói:

- Vật vật vốn sẵn có đó mà chẳng phải vật. Vì vậy nói “Tâm chuyển được vật tức đồng Như Lai”.

Bản hữu chi vật vật phi vật dã, sở dĩ đạo tâm năng chuyển vật tức đồng Như Lai

----------

Lại có tăng hỏi:

- Thế nào là người tu thiện hạnh?

Sư đáp:

- Cầm binh khí, mang giáp.

Hỏi:

- Thế nào là người làm ác hạnh?

Sư đáp:

- Tu thiền nhập định.

Hựu tăng vấn :

Như hà thị tu thiện hành nhân

Sư viết :

Niêm sang đái giáp

Vân :

Như hà thị tác ác hành nhân

Sư viết :

Tu thiền nhập định.

Tăng nói:

- Con căn cơ thiển cận, xin thầy chỉ thẳng.

Sư nói:

- Ông hỏi ta về ác, ác thì không theo thiện. Ông hỏi ta về thiện, thiện thì không theo ác.

Hồi lâu Sư lại hỏi:

- Hội chăng?

Tăng đáp:

- Chẳng hội.

Sư nói:

- Người ác không có nghĩ thiện, người thiện không có tâm ác. Thế nên nói “Thiện ác như phù vân, đều không có chỗ sanh diệt”.

Thiện ác như phù vân, câu vô khởi diệt xứ

Qua lời Sư nói, tăng ấy đại ngộ.

---------------

Có vị tăng từ đạo tràng Ngưu Đầu đến. Sư hỏi:

- Đến từ pháp hội của ai?

Tăng đến gần trước mặt Sư, chắp tay nhiễu Sư một vòng, rồi bỏ đi ra. Sư nói:

- Trong pháp hội Ngưu Đầu không thể có người này.

Tăng bèn trở lại, bước lên gần bên Sư, chắp tay mà đứng. Sư nói:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Tăng lại hỏi:

- Vật ứng hiện (ở đó) mà (đó) chẳng theo vật thì thế nào?

Sư hỏi:

- Sao không theo vật được?

Tăng hỏi:

- Thế nào là thuận theo chánh (trí) về nguồn?

Sư hỏi:

- Về nguồn còn thuận gì?

Tăng nói:

- Nếu chẳng là Hòa thượng thì chuốc mấy lỗi lầm.

Sư nói:

- Vì thế khi chưa gặp Tứ Tổ thì nói lý, gặp rồi thì thông suốt tương lai.

Tăng lại nhiễu Sư một vòng rồi bỏ đi, Sư nói:

- Cái đạo thuận theo chánh xưa nay vẫn như vậy.

Tăng lễ bái.

-------------

Có tăng đứng hầu lâu. Sư nói:

- Chư Phật Tổ chỉ tùy theo người mà nói, riêng bổn tâm bổn tánh thì không có nói lý. Hãy hội lấy, hội lấy!

Tăng lễ tạ. Sư bèn lấy phất tử đánh, nói:

- Một chỗ như thế, ngàn chỗ cũng thế.

Tăng bèn chắp tay đến trước mặt Sư, ứng “dạ” một tiếng. Sư nói:

- Còn chưa tin, còn chưa tin.

Tăng hỏi:

- Thế nào là người đại xiển đề?

Như hà thị đại xiển đề nhân ?

Sư đáp:

- Tôn trọng lễ bái.

Tôn trùng lễ bái

Lại hỏi:

- Thế nào là người đại tinh tấn?

Như hà thị đại tinh tấn nhân ?

Sư đáp:

- Hủy báng sân hận.

Huỷ nhục sân khuể

Về sau chẳng biết Sư tịch ở đâu.

lavinhcuong
06-23-2015, 08:42 AM
Bài 61.

II.3. Thiền sư Nguyên Khuê núi Tung Nhạc.


Người Y Khuyết, họ Lý. Xuất gia hồi nhỏ. Năm Đường Vĩnh Thuần thứ hai (683), Sư thọ giới cụ túc thuộc chùa Nhàn Cư, thực tập luật (Tỳ-ni) không biết mệt.

Sau yết kiến Quốc sư An ấn chứng đốn ngộ huyền chỉ đối với chơn tông, rồi chọn dinh lớn trong núi Tung Nhạc cất am tranh ở. Một hôm có dị nhân đến, đội mũ cao quần cụt áo kép với người tùy tùng rất đông, y nhẹ bước thong thả tuyên bố đến yết kiến đại sư.

Sư thấy y hình mạo kỳ vĩ phi thường, bèn bảo:

- Hãy lại đây, nhân giả! Cớ sao mà đến đây?

Kia đáp:

- Sư lẽ nào lại biết tôi ư?

Sư nói:

- Ta xem Phật với chúng sanh bình đẳng, ta thấy qua nào có phân biệt đâu.

Ngô quan Phật dữ chúng sinh đẳng, ngô nhất mục chi khởi phân biệt da.

吾觀佛與眾生等, 吾一目之豈分別耶.

Kia nói:

- Tôi là thần nhân ở núi nầy, có quyền sanh sát với người. Sư làm sao nhìn qua mà biết tôi được?

Ngã thử nhạc thần dã năng sinh tử ư nhân, sư an đắc nhất mục ngã tai ?

我此嶽神也, 能生死於人, 師安得一目我哉 ?

Sư đáp:

- Ta vốn chẳng sanh, ông làm sao chết được? Ta thấy thân ta với hư không như thế nào, thì ta cũng thấy ta với ông như thế ấy. Ông có thể làm hoại hư không và ông được chăng mà mong làm hoại hư không và làm hoại ông được? Ta thì bất sanh bất diệt, ông còn chưa thể như thế thì làm sao đoạt quyền sanh tử nơi ta ư?

Ngô bản bất sinh, nhữ yên năng tử? Ngô thị thân dữ không đẳng thị ngô dữ nhữ đẳng, nhữ năng hoại không dữ nhữ hồ cẩu năng hoại không cập hoại nhữ. Ngô tắc bất sinh bất diệt dã, nhữ thượng bất năng như thị hựu yên năng sinh tử ngô da ?

吾本不生汝焉能死. 吾視身與空等, 視吾與汝等, 汝能壞空與 汝乎, 苟能壞空及壞汝. 吾則不生不滅也, 汝 尚不能如是, 又焉能生死吾耶 ?.


Thần cúi lạy nói:

- Tôi đây thông minh chính trực hơn những thần khác, há biết Sư có trí tuệ biện tài quảng đại đâu? Xin đem chánh giới trao cho, giúp tôi độ đời.

Sư nói:

- Ông đã xin giới thì đã thọ giới rồi. Tại sao vậy? Ngoài giới không có giới, còn ai truyền giới đâu?!

Nhữ kí khí giới tức kí giới dã, sở dĩ giả hà ? giới ngoại vô giới hựu hà giới tai !

汝既乞戒即既戒也, 所以者何 ? 戒外無戒又何戒哉.


Thần nói:

- Lý nầy, nghe qua tôi mờ mịt. Chỉ xin Sư truyền giới để thân tôi làm môn nhân đệ tử.

Sư vì thần liền cho xếp đặt chỗ ngồi, đem lò hương và cái bàn con đặt ở giữa, rồi nói:

- Truyền cho ông năm giới. Nếu hay phụng trì thì đáp là “được” (năng), không giữ được thì đáp là “không” (phủ).

Thần thưa:

- Kính xin vâng lời.

Sư hỏi:

- Ông không dâm được chăng?

Nhữ năng bất dâm hồ ?

汝能不婬乎 ?

Đáp:

- Cũng có vợ rồi.

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là không bị ái dục ràng buộc.

Phi vị thử dã, vị vô la dục dã.

非謂此也, 謂無羅欲也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không trộm cắp được chăng?

Đáp:

- Tôi đây có thiếu cái gì? Sao có thể trộm cắp được ?!

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là phước lộc và hưởng thụ xa xỉ lãng phí quá, không nghĩ tới cung dưỡng người khác mà điều lành thành tai vạ.

Phi vị thử dã vị hưởng nhi phúc dâm bất cung nhi hoạ thiện dã

非謂此也, 謂饗而福淫, 不供而禍善也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không sát sanh được chăng?

Đáp:

- Thật tôi đang nắm quyền đó, sao nói không sát được ?

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là có lạm sát, ngộ sát, nghi sát và hỗn sát.

Phi vị thử dã, vị hữu hạm ngộ nghi hồn dã.

非謂此也, 謂有濫 誤疑混也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không nói láo được chăng?

Đáp:

- Tôi chánh trực làm sao có nói láo đây?

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là trước sau chẳng hợp lòng trời

Phi vị thử dã vị tiên hậu bất hợp thiên tâm dã

非謂此也, 謂先後不合天心也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không uống rượu say sưa được chăng?

Đáp:

- Được.

Sư nói:

- Như trên đây là giới của Phật.

lavinhcuong
06-23-2015, 08:42 AM
Sư lại nói:

- Với tấm lòng phụng trì giới mà không có tâm cố chấp, với tấm lòng vì sự vật mà không có tâm nghĩ cho mình. Hay như thế thì sống trước trời đất mà chẳng phải là linh hồn, chết sau trời đất mà chẳng phải là già; suốt ngày biến hóa mà chẳng là động, hoàn toàn vắng lặng chẳng phải là nghỉ.
Ngộ được cái đó dù lấy vợ mà chẳng có vợ, dù hưởng thụ mà chẳng có thụ, dù nắm quyền mà chẳng phải quyền, dù làm mà chẳng cố ý, dù say mà chẳng hôn mê. Nếu hay vô tâm với muôn vật thì dục bủa vây chẳng phải là dâm; phước thừa (phước dâm) lành mắc nạn (họa thiện) chẳng phải là trộm cắp; sát không lý do, lầm lỡ, còn nghi ngờ, loạn lạc mà chẳng phải là sát; trước sau nói trái thiên lý mà chẳng phải là vọng; mê loạn điên đảo mà chẳng phải say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì không có giới, không có giới chính là vô tâm, không Phật không chúng sanh, không có ông cũng không có ta. Không có ông thì cái gì là giới đây?!

Dĩ hữu tâm phụng trì nhi vô tâm, câu chấp dĩ hữu tâm vi vật nhi vô tâm tưởng, thân năng như thị tắc tiên thiên địa sinh bất vi tinh, hậu thiên địa tử bất vi lão, chung nhật biến hoá nhi bất vi động, tất tận tịch mặc nhi bất vi hưu. Ngộ thử tắc tuy thú phi thê dã, tuy hưởng phi thủ dã, tuy bính phi quyền dã, tuy tác phi cố dã, tuy tuý phi hôn dã, nhược năng vô tâm ư vạn vật tắc la dục bất vi dâm, phúc dâm hoạ thiện bất vi đạo, hạm ngộ nghi hồn bất vi sát, tiên hậu vi thiên bất vi vọng, hôn hoang điên đảo bất vi tuý, thị vị vô tâm dã. Vô tâm tắc vô giới, vô giới tắc vô tâm, vô Phật vô chúng sinh, vô nhữ cập vô ngã, vô nhữ thục vi giới tai ?

以有心奉持, 而無心拘執, 以有心為物, 而無心想身, 能如是則先天地生不為精, 後天地死不為老, 終日變化而不為動, 畢盡寂默而不為休. 悟此則雖娶非妻也, 雖饗非取也,雖柄非權也, 雖作非故也, 雖醉非惛也,若能無心於萬物, 則羅欲不為婬福淫禍善不為盜, 濫誤疑混不為殺, 先後違天不為妄, 惛荒顛倒不為醉, 是謂無心也. 無心則無戒, 無戒則無心, 無佛無眾生, 無汝及無我, 無汝孰為戒哉.

Thần nói:

- Thần thông của tôi dưới Phật một bực.

Sư nói:

- Thần thông của ông, năm phần được năm phần chưa được. Phật thì bảy phần được ba phần chưa được.

Thần sợ hãi rời chỗ ngồi, quỳ thưa:

- Có thể cho nghe được chăng?

Sư nói:

- Ông có thể đến thượng đế, hành sự ở Trời Đông mà vận dụng bảy vì sao (Thất diệu: Bảy thiên thể: Nhật, nguyệt, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) ban phước giáng họa cho thiên hạ ở Trời Tây được chăng?

Đáp:

- Không được.

Sư hỏi:

- Ông có thể đoạt quyền Địa thần, làm chảy tan năm ngọn núi lớn, rồi kết thành bốn bể chăng?

Đáp:

- Không được.

Sư nói:

- Đó là năm điều ông không làm được. Phật có khả năng rỗng không hóa tất cả tướng, chuyển thành trí nơi muôn pháp, nhưng không thể diệt liền định nghiệp. Phật có khả năng biết sự việc suốt ức kiếp và tánh khí chúng sanh mà không thể hóa đạo người không có duyên. Phật độ được vô lượng hữu tình mà không thể độ hết chúng sanh giới. Đó là ba điều Phật không làm được.
Định nghiệp cũng chẳng bền vững, vô duyên cũng nghĩa là một thời kỳ, chúng sanh giới vốn không tăng giảm. Không có ai làm chủ tể pháp hữu vi, pháp hữu vi không có chủ tể gọi đó là vô pháp, vô pháp vô chủ tể gọi đó là vô tâm. Theo chỗ ta hiểu thì Phật cũng không thần thông, chỉ hay dụng pháp vô tâm thông đạt tất cả pháp mà thôi !.

Thị vị ngũ bất năng dã, Phật năng không nhất thiết tướng thành vạn pháp trí, nhi bất năng tức diệt định nghiệp, Phật năng tri quần hữu tính cùng ức kiếp sự nhi bất năng hoá đạo vô duyên, Phật năng độ vô lượng hữu tình nhi bất năng tận chúng sinh giới; thị vị tam bất năng dã. Định nghiệp diệc bất lao cửu, vô duyên diệc vị nhất kì, chúng sinh giới bản vô tăng giảm, canh vô nhất nhân năng chủ hữu pháp, hữu pháp vô chủ thị vị vô pháp, vô pháp vô chủ thị vị vô tâm. Như ngã giải Phật diệc vô thần thông dã, đãn năng dĩ vô tâm thông đạt nhất thiết pháp nhĩ !.

是謂五不能也 : 佛能空一切相成萬法智, 而不能即滅定業, 佛能知群有性窮億劫事, 而不能化導無緣, 佛能度無量有情, 而不能盡眾生界, 是謂三不能也. 定業亦不牢久,無緣亦謂一期, 眾生界本無增減, 更無一人能主有法, 有法無主是謂無法無法無主是謂無心. 如我解佛亦無神通也, 但能以無心通達一切法爾.

Thần nói:

- Tôi quả thật thiển cận mê muội, chưa nghe về nghĩa không. Giới thầy truyền cho, tôi phải phụng hành, nay đem hết sức mình làm theo, nguyện báo đáp từ đức.

Sư nói:

- Ta quán thân không là vật gì, quán các pháp vô thường, trơ trọi một mình còn có gì để ham muốn?

Thần nói:

- Thầy phải sai bảo tôi làm việc thế gian, thi triển công năng tiểu Thần của tôi, khiến cho năm hạng người đã phát tâm, sơ phát tâm, chưa phát tâm, bất tín tâm ắt đều được tín tâm. Thế gian dõi theo vết chân Thần tôi mà biết có Phật, có thần, có cái làm nổi, có cái không làm nổi, có cái tự nhiên, có cái không tự nhiên.

Sư nói:

- Vô vi đó, vô vi đó.

Thần nói:

- Phật cũng bảo Thần hộ pháp, lẽ nào thầy lại làm trái Phật ư ? Xin thầy tùy ý dạy cho.

Sư bất đắc dĩ mới nói:

- Bờ đê Chùa Đông Lãnh không có cây lớn, cỏ hoang rậm rạp. Hang Bắc có cây lớn, nhưng đều chẳng có công dụng che chắn. Ông có thể dời cây ở hang Bắc đến đê chùa Đông Lãnh chăng ?

Thần đáp:

- Xin nghe lời dạy, nhưng giữa đêm tối ắt có ồn náo, mong thầy đừng sợ.

Nói xong liền làm lễ từ giã. Sư tiễn đưa tới cổng mà còn trông theo, thấy nghi vệ uốn dài như bậc vương giả, khí mây khói ráng quấn quít nhau thỉnh thoảng tách ra rồi nhập vào, tràng phan vòng ngọc nhô lên rồi chìm mất trong không trung.

Đêm ấy quả nhiên có cuồng phong nổi dậy, tiếng sấm vang dội, mây cuốn theo ánh chớp rung chuyển, phòng ốc rung động, loài chim đang ngủ rối rít kêu vang.

Sư bảo chúng:

- Đừng sợ, đừng sợ! Thần với chúng ta hợp nhau thôi.

Sáng hôm sau trời yên tĩnh, những cây tùng cây quát nơi hang Bắc dời hết đến núi Đông, thành hàng
ngay thẳng vẫn xanh tươi rậm rạp.

Sư nói với đồ chúng:

- Sau khi ta chết rồi các ông không được để người bên ngoài biết việc này, làm cho người ta có cớ ngỡ ta là yêu quái.

Vào năm Khai Nguyên thứ tư, năm bính thìn 716.

Sư dặn dò môn nhân:

- Lúc đầu ta ở chùa Đông Lãnh, ta mất rồi các ông phải an trí hài cốt ta ở đó.

Nói xong bỏ xác. Tuổi đời 73. Môn nhân xây tháp tại chỗ đó.

hoatihon
06-23-2015, 09:18 AM
Nhược năng vô tâm.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhuocnangvotam_zpsf79de032.jpg

hoatihon
06-23-2015, 09:20 AM
Định nghiệp diệc như huyễn.


http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Dinhnghiepnhuhuyen_zpsab0f4ef3.jpg

lavinhcuong
06-23-2015, 09:21 AM
Bài 62.

PHÁP TỰ BÀNG XUẤT ĐỜI THỨ BA

PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ PHỔ TỊCH 普寂 TUNG SƠN (dòng THẦN TÚ).

THIỀN SƯ DUY CHÁNH 惟政 NÚI CHUNG NAM 終南.


Người Bình Nguyên (tỉnh Sơn Đông), họ Châu. Thọ nghiệp tại châu nhà với pháp sư Thuyên Trừng, chùa Duyên Hòa. Đắc pháp nơi thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn, đã quả quyết liễu ngộ chơn thuyên Sư bèn vào ở trong núi Thái Nhất. Học giả đầy thất.

Nhà Đường trong năm Thái Hòa (827 – 835), vua Văn Tông thích ăn sò. Quan lại miền duyên hải lần
lượt phải dâng nạp sò trước mùa, người dân cũng tỏ vẻ mệt mỏi.Một hôm trong ban ngự soạn có người dùng ngón tay cái tách con sò không ra. Vua lấy làm lạ, thắp hương cầu xin, giây lát con sò đó biến thành hình Bồ tát đầy đủ phạm tướng. Vua sai đem tiền gạo trầm hương bày biện, lấy gấm đẹp trùm lên, ban hiệu là chùa Hưng Thiện. Lệnh chúng tăng đến chiêm lễ, nhân đó hỏi quần thần:

- Thế ấy có điềm lành nào?

Có người đáp:

- Có thiền sư Duy Chánh ở núi Thái Nhất thâm minh Phật pháp, học rộng biết nhiều.

Vua liền sai sứ mời Sư đến kinh thành để hỏi việc ấy. Sư nói:

- Thần nghe sự vật ứng hiện đâu phải không duyên cớ, đây là điềm khai mở tín tâm cho bệ hạ vậy. Thế nên khế kinh nói: “Ưng dùng thân ấy để độ, liền hiện thân ấy mà nói pháp cho nghe”.

Ưng dĩ thử thân đắc độ giả, tức hiện thử thân nhi vi thuyết pháp

應以此身得度者。即現此身而為說法.

Vua hỏi:

- Thân Bồ tát đã hiện, vẫn chưa nghe nói pháp?

Sư hỏi:

- Bệ hạ thấy như thế là thường hay phi thường, tin hay chẳng tin ư?

Vua đáp:

- Việc lạ hiếm có trẫm rất tin cậy.

Sư nói:

- Như thế bệ hạ đã nghe thuyết pháp rồi.

Bấy giờ lòng vua hân hoan chưa từng có, ban chiếu cho các tự viện trong dân gian, mỗi nơi lập tượng Bồ tát Quan Âm để đáp đền sự đặc biệt tốt lành đó. Nhân đó vua lưu Sư ở lại đạo tràng trong cung. Sư nhiều phen cáo từ xin về núi, vua lại ban chiếu cho trụ trì chùa Thánh Thọ. Đến khi vua Võ Tông tức vị, Sư vội vào núi Chung Nam ẩn cư, có người hỏi duyên cớ, Sư đáp:

- Ta đi lánh kẻ thù.

Về sau Sư tịch ở sơn xá, thọ 87 tuổi, thiêu xác thu xá lợi được 49 hạt, đem nhập tháp vào ngày mùng 4 tháng 9 năm Hội Xương thứ ba 843.

lavinhcuong
06-23-2015, 09:22 AM
Bài 63.


PHÁP TỰ BÀNG XUẤT ĐỜI THỨ TƯ

PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ VÔ TƯỚNG 無相 ÍCH CHÂU (DÒNG TRÍ SĂN).

THIỀN SƯ VÔ TRỤ 無住 CHÙA BẢO ĐƯỜNG ÍCH CHÂU.


Ban đầu Sư đắc pháp nơi Đại sư Vô Tướng, rồi đến ở núi Bạch Nhai, Nam Dương (Hà Nam). Sư chuyên về tu định trải qua nhiều năm, học giả dần dần đến siêng năng thưa hỏi không ngớt. Từ đó Sư bắt đầu dạy, tuy Sư nói rộng về ngôn giáo nhưng chỉ lấy vô niệm làm tông.

Tướng quốc nhà Đường Đỗ Hồng Tiệm xuất quân phủ dụ một vùng trọng yếu, nghe danh Sư muốn đến chiêm lễ một lần. Tháng 9 năm Đại Lịch nguyên niên 766, Đỗ công sai sứ đến núi thỉnh mời Sư, bấy giờ tiết độ sứ Thôi Ninh cũng lệnh cho tăng đồ các chùa từ xa đi đón rước. Ngày mồng một tháng 10 Sư đến chùa Không Tuệ, bấy giờ Đỗ công và nhung soái triệu tập hạng thạc đức về tam học câu hội trong chùa.

Làm lễ xong, Đỗ công hỏi:

- Vừa nghe thầy dừng trụ ở đây, rồi còn đi đâu nữa chăng?

Sư đáp:

- Tánh vô trụ thích quê mùa thường ghé trong núi. Dạo khắp các thắng cảnh từ Hạ Lan đến Ngũ Đài; nghe ở chỗ tiên sư, chùa Đại Từ Quý Phong có thuyết pháp tối thượng thừa, bèn từ xa vội vã đến lạm dự ngồi ghế giảng; sau đó nương thân ở Bạch Nhai trải qua nhiều năm. Nay được mời, may gặp tướng công, sao dám không nghe mệnh.

Công hỏi:

- Đệ tử nghe Hòa thượng Kim thuyết “không nhớ, không nghĩ, đừng vọng”, là pháp môn tam cú phải không?

Đáp:

- Phải.

Công hỏi:

- Tam cú đó là một hay là ba?

Đáp:

- Không nhớ gọi là giới, không nghĩ gọi là định, đừng theo vọng gọi là huệ. Nhất tâm bất sanh gồm đủ giới định huệ, không là một không là ba.

Vô ức danh giới, vô niệm danh định, mạc vọng danh tuệ, nhất tâm bất sinh cụ giới định tuệ, phi nhất phi tam dã.

無 憶名戒, 無念名定, 莫妄名慧, 一心不生具戒 定慧, 非一非三也

Công hỏi:

- Chữ vọng ở cú sau có lẽ là quên chúng từ tâm khởi chăng?

Đáp:

- Đó là vọng từ tâm ông khởi.

Công hỏi:

- Có chứng cứ chăng?

Đáp:

- Kinh Pháp Cú nói: “Nếu khởi tâm tinh tấn, đó là vọng chẳng phải tinh tấn. Nếu tâm không vọng thì tinh tấn không có bờ bến”.

Nhược khởi tinh tấn tâm thị vọng phi tinh tấn, nhược năng tâm bất vọng tinh tấn vô hữu nhai.

若起精進心是妄非精進, 若能心不妄 精進無有涯.

Công nghe qua nghi tình hết sạch. Lại hỏi:

- Thầy có dùng tam cú dạy người không?

Đáp:

- Đối với học nhân sơ tâm, dạy họ dừng niệm lắng đọng sóng thức, nước trong ảnh hiện, ngộ niệm không tự thể thì tịch diệt hiện tiền. Vô niệm cũng là không thành lập vậy.

Đối sơ tâm học nhân hoàn linh tức niệm, trừng đình thức lang, thuỷ thanh ảnh hiện, ngộ vô thể niệm tịch diệt hiện tiền, vô niệm diệc bất lập dã.

對初心學人還令息念, 澄停識 浪, 水清影現, 悟無體念, 寂滅現前, 無念亦不立也.

Khi ấy quạ khoang cất tiếng kêu trên cây trước sân.

Công hỏi:

- Thầy nghe chăng?

Đáp:

- Nghe

Quạ bay đi rồi, Công lại hỏi:

- Thầy nghe chăng?

Đáp:

- Nghe

Công hỏi:

- Quạ khoang bay đi không có tiếng, sao bảo là nghe?

Sư bèn bảo tất cả đại chúng:

- Phật ra đời khó gặp, chánh pháp khó nghe. Mỗi người hãy lắng nghe! Nghe mà không có cái để nghe, cái để nghe (tiếng) không dính dáng với tánh nghe, tánh nghe xưa nay chẳng sanh chưa từng có diệt. Lúc có tiếng đó là thanh trần tự sanh, lúc không có tiếng đó là thanh trần
tự diệt, nhưng tánh nghe ấy không theo tiếng mà sanh cũng không theo tiếng mà diệt. Ngộ tánh nghe ấy thì thoát khỏi sự ràng buộc của thanh trần, nên biết (tánh) nghe không sanh diệt, (tánh) nghe không khứ lai.

Phật thế nan trực, chính pháp nan văn. Các các đế thính, văn vô hữu văn, phi quan văn tính, bản lai bất sinh hà tằng hữu diệt, hữu thanh chi thời thị thanh trần tự sinh, vô thanh chi thời thị thanh trần tự diệt, nhi thử văn tính bất tùy thanh sinh bất tùy thanh diệt, ngộ thử văn tính tắc miễn thanh trần chi sở chuyển, đương tri văn vô sinh diệt, văn vô khứ lai.

佛世難值正法難聞. 各各諦聽, 聞無有聞非關聞性. 本來不生何 曾有滅, 有聲之時是聲塵自生, 無聲之時是 聲塵自滅, 而此聞性不隨聲生不隨聲滅, 悟 此聞性則免聲塵之所轉, 當知聞無生滅, 聞 無去來.

Công cùng liêu thuộc đại chúng kính lạy. Công lại hỏi:

- Sao gọi là đệ nhất nghĩa, theo thứ lớp nào nhập được đệ nhất nghĩa?

Sư đáp:

- Đệ nhất nghĩa không có thứ lớp cũng không có xuất nhập. Thế đế có tất cả, đệ nhất nghĩa không tất cả. Tánh vô tự tánh của các pháp (tánh không) gọi là đệ nhất nghĩa. Phật dạy: “Pháp có gọi là tục đế, vô tự tánh gọi là đệ nhất nghĩa”.

Đệ nhất nghĩa giả vô hữu thứ đệ, diệc vô xuất nhập, thế đế nhất thiết hữu, đệ nhất nghĩa tức vô, chư pháp vô tính tính thuyết danh đệ nhất nghĩa. Phật ngôn hữu pháp danh tục đế vô tính đệ nhất nghĩa.

第一義者 無有次第, 亦無出入, 世諦一切有, 第一義即 無, 諸法無性性說名第一義, 佛言: 有法名俗 諦, 無性第一義.

Công nói:

- Khai thị như thầy quả thật bất khả tư nghì !

Công lại nói:

- Đệ tử tánh thức thiển cận. Trước đây nhân việc công rỗi rảnh, có soạn được hai quyển “Khởi Tín Luận Chương Sớ”, gọi là Phật pháp được chăng?

Sư đáp:

- Phàm tạo chương sớ đều dùng tâm thức, suy nghĩ phân biệt hữu vi hữu tác, khởi tâm động niệm đúng là tạo thành tâm thức. Cứ theo Luận văn nói:
“Nên biết tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không có biến dị, chỉ có nhất tâm thế nên gọi là chơn như”.
Nay tướng công mắc tướng ngôn thuyết, mắc tướng danh tự, mắc tướng tâm duyên. Đã mắc nhiều tướng sao gọi là Phật pháp?!

Phu tạo chương sớ giai dụng thức tâm, tư lượng phân biệt hữu vi hữu tác, khởi tâm động niệm nhiên khả tạo thành. Cứ luận văn vân : đương tri nhất thiết pháp tùng bản dĩ lai, li ngôn thuyết tướng, li danh tự tướng, li tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng vô hữu biến dị, duy hữu nhất tâm cố danh chân như. Kim tướng công trước ngôn thuyết tướng, trước danh tự tướng, trước tâm duyên tướng, kí trước chủng chủng tướng, vân hà thị Phật pháp ?!

夫造章疏 皆用識心, 思量分別有為有作, 起心動念然 可造成. 據論文云: 當知一切法從本以來, 離 言說相, 離名字相, 離心緣相, 畢竟平等無有 變異, 唯有一心故名真如. 今相公著言說相, 著名字相, 著心緣相, 既著種種相, 云何是佛法.

Công đứng dậy làm lễ, thưa:

- Đệ tử cũng từng hỏi chư đại đức quan cung phụng, họ đều khen đệ tử là bất khả tư nghì. Nên biết họ chỉ thuận theo nhân tình, nay thầy theo lý giảng giải phù hợp với pháp môn tâm địa, đúng là chơn lý bất khả tư nghì.

Công lại hỏi:

- Thế nào là bất sanh, thế nào là bất diệt? Làm sao được giải thoát?

Sư đáp:

- Thấy cảnh “Cái tâm chẳng khởi” gọi là bất sanh, bất sanh tức là bất diệt. Đã không sanh diệt thì không bị tiền trần trói buộc, ngay đó giải thoát.Bất sanh gọi là vô niệm, vô niệm tức là vô diệt, vô niệm tức là vô phược (không trói buộc), vô niệm tức là vô thoát (không có giải thoát).
Nói tóm lại: Tâm thức tức là ly niệm, kiến tánh tức là giải thoát, lìa tâm thức cách xa kiến tánh. Há có cái gọi là pháp môn chứng vô thượng bồ đề ư ? Không có chuyện đó !.

Kiến cảnh tâm bất khởi danh bất sinh, bất sinh tức bất diệt. Kí vô sinh diệt tức bất bí tiền trần sở phọc, đương xứ giải thoát. Bất sinh danh vô niệm, vô niệm tức vô diệt, vô niệm tức vô phọc, vô niệm tức vô thoát. Cử yếu nhi ngôn : thức tâm tức li niệm, kiến tính tức giải thoát, li thức tâm kiến tính ngoại, canh hữu pháp môn chứng vô thượng bồ đề giả, vô hữu thị xứ.

見境心不起名不生, 不生即不滅. 既無生滅即不被前塵所縛, 當處解脫. 不生名無念, 無念即無滅, 無念即無縛, 無念即無脫. 舉要而言, 識心即離念, 見性即解脫, 離識心見性外, 更有法門證無上菩提者, 無有是處.

Công hỏi:

- Sao gọi là kiến tánh nơi tâm thức?

Sư đáp:

- Tất cả người học đạo tùy theo niệm mà trôi giạt là vì chẳng biết chơn tâm. Chơn tâm đó, niệm sanh nó chẳng sanh theo, niệm diệt cũng chẳng theo đó mà diệt, không đến không đi, không định không loạn, không chấp không bỏ, không chìm không nổi, vô vi vô tướng, hoạt bát bình thường tự tại. Tâm thể ấy rốt ráo bất khả đắc, không thể tri giác được, chạm mắt đều như, đều là kiến tánh.

Nhất thiết học đạo nhân tùy niệm lưu lang, cái vi bất thức chân tâm. Chân tâm giả, niệm sinh diệc bất thuận sinh, niệm diệt diệc bất y tịch, bất lai bất khứ, bất định bất loạn, bất thủ bất xả, bất trầm bất phù, vô vi vô tướng, hoạt bát bát bình thường tự tại. Thử tâm thể tất cánh bất khả đắc, vô khả tri giác, xúc mục giai như vô phi kiến tính dã.

一切學道人隨念流浪, 蓋為不識真心. 真心者, 念生亦不順生, 念滅亦不依寂, 不來不去, 不定不亂, 不取不捨, 不 沈不浮, 無為無相, 活鱍鱍平常自在. 此心體 畢竟不可得, 無可知覺, 觸目皆如無非見性也.

Công và đại chúng làm lễ, xưng tán vui mừng rồi lui.

Về sau Sư ở chùa Bảo Đường và tịch tại đó.




HẾT QUYỂN IV