PDA

Xem phiên bản đầy đủ : Lời vàng của thầy tôi



Trang : 1 [2]

hoangtri
04-19-2017, 04:37 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Hình ảnh được đưa ra cho tâm hoan hỷ vô lượng là hình ảnh một con lạc đà mẹ đi tìm đứa con thất lạc của nó. Trong tất cả các thú vật, lạc đà được coi là những bà mẹ âu yếm con nhất. Do đó nếu một lạc đà mẹ bị mất con thì nỗi đau buồn của nó sẽ rất dữ dội. Khi tìm lại được con thì nó vui mừng vô hạn. Đó là loại hoan hỷ mà bạn nên cố gắng phát triển.

Bốn phẩm tính Tứ Vô Lượng không bao giờ đem đến thất bại khi giúp ta phát triển Bồ Đề Tâm chân thật. Do đó, rất cần nuôi dưỡng tâm Tứ Vô Lượng cho tới khi bốn tâm ấy thật sự bén rễ trong ta.

Để cho dễ hiểu hơn, chúng ta có thể tóm tắt bốn tâm Vô lượng trong một cụm từ duy nhất, “một tấm lòng nhân từ.” Hãy tu tập bản thân để bạn luôn luôn có một trái tim nhân từ trong mọi tình huống.

Một hôm, bàn tay của đức Atisa bị thương, và vì thế Ngài đặt nó trong lòng của Drom Tonpa và nói: “Ông là người có lòng nhân từ, hãy ban phước cho bàn tay ta!”

Ngài Atisa luôn luôn chỉ nhấn mạnh tới tầm quan trọng của lòng từ ái, và thay vì hỏi mọi người “Bạn có khỏe không?” thì Ngài sẽ hỏi “Trái tim bạn có nhân từ không?” *
* Thông thường, người ta hay hỏi xin các vị Lạt Ma đã chứng ngộ thổi vào vết thương để giúp cho vết thương được lành.

Bất cứ khi nào Ngài giảng dạy, Ngài đều thêm vào “Hãy có một trái tim nhân từ!”

Chính năng lực của những tác ý tốt lành hay bất thiện sẽ làm cho một hành vi trở nên là một thiện hạnh hay là một ác hạnh, mạnh hay yếu. Khi tác ý đằng sau những việc làm này là tốt, thì mọi hành vi của thân hay ngữ đều tốt lành, như đã được minh họa trong câu chuyện của một người lấy đế da che tsa- tsa. Khi tác ý ở phía sau là xấu, thì bất kỳ hành vi nào, dù nhìn có vẻ tốt nhưng thực ra sẽ là xấu. Vì thế hãy học tập để luôn luôn có những tác ý thiện lành, bất kể trong hoàn cảnh nào. Có câu nói rằng:

Nếu tác ý tốt đẹp thì quả vị [Bồ-Tát địa] và con đường tu sẽ tốt. Nếu tác ý xấu, những quả vị và con đường tu sẽ xấu.133
Bởi mọi sự đều tùy thuộc vào tác ý,
Phải luôn luôn giữ vững tất cả những tác ý thiện lành.

Con đường tu và quả vị sẽ tốt nếu tác ý tốt nghĩa là như thế nào?

Có một lần, một bà lão và cô con gái đang vượt qua một con sông rộng, bà nắm lấy tay con, và cả hai bị dòng nước cuốn trôi.

Người mẹ nghĩ: “Ta có bị nước cuốn trôi thì cũng chẳng quan trọng gì, miễn là con ta được cứu sống!”

Cùng lúc đó, người con gái nghĩ: “Cho dù tôi có bị cuốn trôi thì cũng chẳng sao, miễn là mẹ tôi không bị chết đuối!”

Cả hai người đều chết chìm, và là kết quả do những tư tưởng thiện lành cho lẫn nhau, cả hai mẹ con được tái sinh vào cõi Trời Phạm Thiên (Brahma).

Trong một trường hợp khác, sáu vị tăng sĩ và một người đưa thư lên đò để qua sông Jasako. Chiếc đò rời bến.

Đi khoảng được một phần tư đường, người lái đò nói: “Chúng ta quá nặng. Nếu ai biết bơi thì xin nhảy xuống nước. Nếu không, tôi sẽ nhảy xuống và một người trong quý vị có thể cầm chèo.”

hoangtri
04-19-2017, 04:42 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Không một ai biết bơi; và cũng chẳng có ai biết chèo.

Vì thế người đưa thư nhảy ra khỏi con thuyền, kêu lên: “Tốt nhất là tôi chết một mình để cho mọi người sống!”

Ngay lập tức một cầu vồng xuất hiện và một trận mưa hoa rơi xuống. Mặc dù người đưa thư không biết bơi nhưng ông đã được đưa vào bờ an toàn. Ông ta chưa từng thực hành Giáo Pháp. Đây là lợi ích trực tiếp phát xuất từ một tư tưởng tốt lành duy nhất.

Con đường và công hạnh sẽ xấu nếu những tư tưởng xấu là như thế nào?

Có một lần, một người hành khất nằm ngay cổng hoàng cung và nghĩ: “Ta ước mong nhà vua bị cắt đầu, và ta có thể chiếm trọn nơi này!”

Tư tưởng này không ngừng quay cuồng trong tâm ông suốt đêm dài. Đến sáng ông ta rơi vào giấc ngủ và trong khi ông ngủ, nhà vua ngồi trên xa mã đi ra. Một bánh xe cán ngang cổ người hành khất và cắt đứt đầu ông ta.

Trừ phi bạn nhớ tới mục đích của việc tìm kiếm Giáo Pháp của bạn trong chánh niệm và cảnh giác, và luôn luôn theo dõi tâm bạn, nếu không thì những cảm xúc mãnh liệt của tham ái và thù ghét có thể dễ dàng dẫn tới việc tích lũy những nghiệp ác rất nghiêm trọng. Mặc dù những mong ước của ông lão hành khất không bao giờ có thể trở thành sự thật nhưng hậu quả của những tư tưởng của ông ta đã đưa tới việc trổ quả của ác nghiệp, làm cho chuyện ấy trở thành sự thật ngay lập tức. Có thể xảy ra việc nhà vua đang ngủ thoải mái trên giường ngọc trong cung điện lại bị mất đầu không? Cho dù nhà vua bị mất đầu, thì chuyện vị thái tử sẽ thừa kế vương quốc chẳng là một chuyện hợp lý hơn sao? Ngay cả nếu vì một lý do nào đó thái tử không lên ngôi, thì liệu có thể có việc một ông lão hành khất sẽ thừa kế ngai vàng bất chấp tất cả các vị thừa tướng là những người như những con cọp, beo và gấu? Tuy nhiên, trừ phi bạn tự kiểm soát tư tưởng mình một cách thận trọng, còn thì ngay cả những tư tưởng tiêu cực lố bịch như vậy cũng có thể xuất hiện. Vì thế, Geshe Shawopa nói:

Đừng cai trị vương quốc mộng tưởng của những triển vọng tương lai, lúc nào cũng như đang nảy nở vô tận!

hoangtri
04-19-2017, 04:45 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Một hôm Đức Phật và các vị tăng sĩ của Ngài được mời đến thọ trai tăng do một thí chủ cúng dường tại nhà của ông ta. Ở đó cũng có hai người hành khất trẻ tuổi, một người thuộc giai cấp chiến sĩ (ksatriya), còn người kia là một người Bà la môn (brahmin). Người Bà la môn đi tới xin trước khi Đức Phật và các tăng sĩ được cúng dường nên không nhận được gì. Người chiến sĩ đợi tới khi mọi người được cúng dường xong mới đến xin và nhận được nhiều thực phẩm ngon lành được để lại trong bình bát của các Ngài.134 Trưa hôm đó, trên đường đi, hai người nói chuyện với nhau về những suy nghĩ của họ.

Người chiến sĩ trẻ nói: “Nếu tôi giàu có, tôi sẽ cúng dường y phục và vật thực cho Đức Phật và các tu sĩ của Ngài cho tới cuối đời tôi. Tôi tôn kính các ngài bằng cách cúng dường tất cả những gì tôi có.”

Người Bà la môn trẻ tuổi nói: “Và nếu tôi là một vị vua đầy uy quyền, tôi muốn cái đầu cạo trọc của kẻ mê tín kia sẽ bị chặt và cả nhóm bị xử tử cùng với ông ta!”

Người chiến sĩ trẻ tới một xứ khác và cư ngụ dưới bóng của một thân cây lớn. Khi những bóng cây khác di chuyển, thì bóng của thân cây đặc biệt này vẫn đứng yên. Vị vua xứ đó vừa băng hà, và vì nhà vua không có người thừa kế nên dân chúng quyết định rằng người nào xứng đáng và dũng cảm nhất xứ sẽ được tôn làm vua của họ. Khi tiến hành tìm kiếm vị tân vương, họ chợt thấy người chiến sĩ trẻ đang ngủ dưới gốc cây, vẫn ở dưới bóng cây mặc dù quá ngọ đã lâu. Họ đánh thức anh ta dậy và tôn anh lên làm vua. Sau đó, vị vua này đã bày tỏ sự tôn kính Đức Phật và các tăng sĩ của Ngài như đã ước nguyện.

Về phần người Bà la môn trẻ, câu chuyện kể rằng khi nằm nghỉ ở ngã tư đường, đầu của anh ta bị bánh của một chiếc xe ngựa cán đứt.

Nếu bạn học tập để luôn luôn chỉ có những tư tưởng tốt lành, mọi mong ước của bạn trong đời này sẽ trở thành hiện thực. Những vị Trời nhân đức sẽ bảo vệ bạn và bạn sẽ nhận được ân phước từ tất cả chư Phật và Bồ Tát. Mọi việc bạn làm sẽ tốt đẹp, và vào lúc chết bạn sẽ không bị đau khổ. Trong những đời tương lai bạn sẽ luôn luôn được tái sinh vào cõi Trời hay người cho tới khi cuối cùng bạn đạt được Phật Quả viên mãn.

Đừng chỉ biết vội vã mà không thẩm xét những tư tưởng và cảm xúc của bạn, và cũng đừng thực hiện một cuộc phô bày vĩ đại các hoạt động đức hạnh như: lễ lạy, đi nhiễu, cầu nguyện, tụng niệm thần chú v.v… Thay vào đó, điều quan trọng là luôn kiểm soát thái độ [động lực] của bạn và trau dồi lòng nhân ái.

hoangtri
04-21-2017, 10:29 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


II. KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM

1. Phân Loại Bồ Đề Tâm Dựa Trên Ba Mức Độ Dũng Cảm

1.1 SỰ DŨNG CẢM CỦA MỘT VỊ VUA

Ưu tiên hàng đầu của một vị vua là chiến thắng tất cả quân địch, thăng chức cho những người đã giúp đỡ ngài, và tuyên bố rằng quyền bính thuộc về mình. Chỉ sau khi thực hiện xong những việc đó thì ước nguyện chăm lo cho thần dân của Ngài mới có kết quả. Tương tự như vậy, trước tiên bạn có ước nguyện mong muốn bản thân mình đạt đến Phật Quả và sau đó, sẽ đưa những người khác đến quả vị Phật, ước nguyện như thế này thì được gọi là phương thức khơi dậy Bồ Đề Tâm của một quân vương.

1.2 SỰ DŨNG CẢM CỦA NGƯỜI CHÈO THUYỀN

Mục đích của người chèo thuyền là cùng đi tới bờ bên kia với tất cả những người khách của ông. Tương tự, mong ước đạt được Phật Quả cho mình cùng lúc với tất cả chúng sinh được gọi là phương cách khơi dậy Bồ Đề Tâm của người chèo thuyền.

1.3 SỰ DŨNG CẢM CỦA NGƯỜI CHĂN CỪU

Những người chăn cừu lùa bầy cừu của họ đi phía trước để biết chắc rằng chúng tìm được cỏ và nước, và cũng không bị chó sói, chó rừng hay những thú dữ khác tấn công. Bản thân người chăn cừu thì đi theo sau bầy cừu. Tương tự như thế, thái độ của những người mong muốn dẫn dắt tất cả chúng sinh khắp ba cõi đến bờ Giác ngộ viên mãn trước khi bản thân họ đạt được Phật Quả thì đây được gọi là cách khơi dậy Bồ Đề Tâm của người chăn cừu.

Cách thức của vị vua, được gọi làï “khơi dậy Bồ Đề Tâm với ước nguyện lớn lao,” là cách ít can đảm nhất trong ba phương cách. Cách của người chèo thuyền, gọi là “khơi dậy Bồ Đề Tâm với trí tuệ thiêng liêng” thì dũng cảm hơn. Người ta nói Đức Di Lặc (Maitreya) khơi dậy Bồ Đề Tâm theo cách này. Cách của người chăn cừu, được gọi là “khơi dậy Bồ Đề Tâm không gì so sánh được” là cách dũng đảm nhất. Người ta nói đó là cách Đức Văn Thù (Manjusri) đã khơi dậy Bồ Đề Tâm.

hoangtri
04-21-2017, 10:40 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2. Phân Loại Theo Các Địa Bồ Tát

Trên con đường vun bồi tích lũy công đức và hợp nhất phước huệ, khơi dậy Bồ Đề Tâm được gọi là “phát khởi Bồ Đề Tâm bằng cách phát nguyện.” Từ sơ địa cho tới địa Bồ Tát thứ bảy, cách thức khơi dậy Bồ Đề Tâm được gọi là “phát khởi Bồ Đề Tâm nương vào tác ý hoàn toàn thanh tịnh.” Trên ba địa thanh tịnh, khơi dậy Bồ Đề Tâm được gọi là “phát khởi Bồ Đề Tâm hoàn toàn thuần thục,” và ở địa Phật Quả, là “phát khởi Bồ Đề Tâm vô chướng ngại”

3. Phân Loại Theo Tính Chất Của Bồ Đề Tâm

Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm tương đối và Bồ Đề Tâm tối thượng.

3.1 BỒ ĐỀ TÂM TƯƠNG ĐỐI:

Bồ Đề Tâm tương đối có hai khía cạnh: tác ý và áp dụng thực hành.

3.1.1 Tác Ý (Bồ Đề Tâm Nguyện):

Trong Nhập Bồ Tát Hạnh, Ngài Tịch Thiên (Santideva) có nói về hai khía cạnh của Bồ Đề Tâm:

Có ước muốn khởi hành và thực sự bước chân lên con đường,
Hãy nhận biết sự khác biệt giữa hai điều đó.
Người minh triết và uyên bác nên hiểu rõ
Sự khác biệt này, cần thiết phải có và tuần tự phát triển.

Hãy lấy một ví dụ về một cuộc du hành tới Lhasa. Bước đầu tiên là có ý định: “Tôi sắp đi tới Lhasa.” Niệm tưởng ban đầu tương ứng với ý định: “Tôi sắp làm bất cứ điều gì để bảo đảm rằng tất cả chúng sinh sẽ đạt được trạng thái Phật Quả viên mãn,” làø phương diện ý định của việc khơi dậy Bồ Đề Tâm.136

3.1.2. Áp dụng thực hành (Bồ Đề Tâm Hạnh):

Sau đó bạn chuẩn bị ngựa và lương thực cần thiết, bắt đầu lên đường và thực sự du hành tới Lhasa. Tương tự như thế, bạn quyết định thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và tu tập tâm bạn trong trí tuệ vô phân biệt để đưa tất cả chúng sinh đến Phật Quả viên mãn. Đó chính là bạn thực sự đưa con đường tu của sáu pháp toàn thiện siêu việt (sáu ba la mật) vào thực hành. Điều này tương ứng với chuyến du hành thực sự, và là phương diện áp dụng Bồ Đề Tâm.137

3.2 BỒ ĐỀ TÂM TỐI THƯỢNG

Cả hai phương diện ý định và áp dụng thực hành đều là Bồ Đề Tâm tương đối.138 Nhờ tu tập một thời gian dài nương nơi Bồ Đề Tâm tương đối trên con đường tích lũy và hợp nhất, cuối cùng bạn đi tới con đường của cái thấy (kiến), ở đó bạn có một trực nghiệm chân thực về chân như, trạng thái như nhiên của vạn pháp. Đây là trí tuệ siêu vượt mọi tạo tác, là chân lý của tánh Không. Vào lúc đó, bạn khơi dậy Bồ Đề Tâm tối thượng hay Bồ Đề Tâm viên mãn.139

hoangtri
04-22-2017, 09:56 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


4. Thọ Giới Nguyện Bồ Đề Tâm 140

Nhờ năng lực của thiền định mà ta đạt được Bồ Đề Tâm tối thượng đích thực, và điều này không tuỳ thuộc vào các nghi thức. Tuy nhiên, để phát triển Bồ Đề Tâm tương đối, là người sơ cơ, chúng ta cần phải tuân theo một số thủ tục, một số nghi thức mà qua đó chúng ta có thể thọ giới nguyện trong sự hiện diện của một vị Thầy tâm linh. Sau đó, chúng ta cần liên tục làm tươi mới giới nguyện đó qua các công phu và nghi thức thọ giới tương tự, và lập đi lập lại nhiều lần khiến cho Bồ Đề Tâm mà chúng ta đã khơi dậy không bị tàn lụi, trở nên càng lúc càng mãnh liệt hơn.

Hãy quán tưởng tất cả chư Phật, Bồ Tát và những Bổn Tôn khác trong không gian trước mặt bạn, như bạn đã làm trong khi thực hành pháp quán tưởng quy y. Hãy coi các Ngài như là những nhân chứng trong công phu phát Bồ Đề Tâm của bạn và suy nghĩ như vầy:

“Trong toàn thể vô số sinh loài khắp vũ trụ bao la, không ai chưa từng là cha mẹ của tôi trong tiến trình tiếp nối của những kiếp sống của tôi từ vô thủy. Tôi có thể quyết chắc rằng, là cha mẹ tôi, họ đã hết lòng chăm sóc tôi với tất cả sự dịu dàng âu yếm mà họ có thể có được, đã cho tôi thức ăn và quần áo tốt nhất trong số thực phẩm và quần áo của họ, đã nuôi dưỡng tôi với tất cả tình thương, giống như cha mẹ hiện tại của tôi đã làm. Bây giờ, tất cả những bậc cha mẹ nhân từ đó đang đắm chìm trong những cơn sóng của đại dương sinh tử luân hồi đau khổ. Họ bị nhận chìm trong bóng tối sâu dày nhất của vô minh. Họ không có ý niệm về con đường chân chính để thực hành, cũng như không biết con đường sai lầm để tránh bỏ. Họ không có người bạn tâm linh chân chính nào để hướng dẫn. Họ không có nơi nương tựa hay sự che chở, không người dẫn dắt hay bạn đồng hành, không hy vọng và không có ai để hướng tới, họ lạc loài như một người mù lang thang không bạn hữu giữa một cánh đồng hoang. Những bà mẹ già của tôi, làm sao tôi có thể tự giải thoát một mình mình và bỏ mặc các vị trong luân hồi? Vì lợi ích của tất cả chúng sinh, tôi sẽ đánh thức Bồ Đề Tâm tối thượng. Trong khi học tập để noi gương những hành động phi thường của những bậc Bồ Tát trong quá khứ, tôi sẽ nỗ lực bằng mọi cách làm bất cứ điều gì cần thiết cho tới khi không còn một chúng sinh nào bị bỏ lại trong luân hồi!”

hoangtri
04-24-2017, 09:43 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Với thái độ này, hãy tụng bài kệ sau đây càng nhiều càng tốt khi có thể:

Ô! Do lầm lạc của sắc tướng -- những ánh trăng phản chiếu dưới nước,
Chúng sinh lang thang trong chuỗi luân hồi vô tận;
Để cho họ được an nghỉ trong không gian chói ngời của giác tánh,
Với bốn đại hạnh vô lượng, con xin phát khởi Bồ Đề Tâm. 141 .

Vào lúc kết thúc thời công phu, hãy quán tưởng rằng, nương vào năng lực của lòng quy ngưỡng nhiệt thành của bạn đối với các Bổn Tôn trong ruộng công đức, toàn thể thánh chúng tan thành ánh sáng, bắt đầu từ bên ngoài, và cuối cùng hoà tan vào vị Thầy ở chính giữa; vị Thầy chính là sự hợp nhất của cả tam quy y (Tam Bảo). Tới lượt vị Thầy tan thành ánh sáng và hòa tan vào bạn, nhờ đó, Bồ Đề Tâm tối thượng hiện diện trong tâm của các Bổn Tôn quy y sẽ hiển lộ rõ ràng trong tâm bạn. Hãy tụng lời nguyện ước này:

Nguyện cho Bồ Đề Tâm, trân quý và tối thượng,
Nơi nào chưa hiện diện, xin tâm ấy phát khởi,
Nơi nào đã phát khởi, xin không hề mai một
Mà lớn mạnh, nở rộ, mỗi ngày mỗi hơn lên.

Sau đó hồi hướng công đức với những câu như sau:

Khi noi gương Đấng anh hùng Văn Thù,
Phổ Hiền, cùng tất cả những bậc đại trí,
Con cũng xin hồi hướng toàn bộ công đức
Của tất cả những việc làm thiện lành.

Việc phát khởi Bồ Đề Tâm, là tinh tuý của tám vạn bốn ngàn pháp môn mà Đấng Chiến Thắng đã chỉ dạy. Đây là giáo huấn bạn cần phải có, ngay cả chỉ một giáo huấn đó thôi cũng đã đủ rồi. Nhưng nếu thiếu Bồ Đề Tâm thì tất cả mọi thứ khác cũng thành ra vô ích. Đây là món thuốc trị bá bệnh, chữa lành mọi bệnh tật. Tất cả những con đường khác của Giáo Pháp, chẳng hạn như việc tích lũy [hai bồ công đức], việc tịnh hóa những ô nhiễm, thiền định về các Bổn Tôn, và việc trì tụng các câu thần chú, đơn thuần chỉ là những phương pháp giúp cho viên-ngọc-như-ý-Bồ-Đề-Tâm phát khởi trong tâm thức của bạn. Không có Bồ Đề Tâm thì không phương pháp nào trong những phương pháp tu tập kia tự chúng có thể đưa dẫn bạn tới Phật Quả viên mãn.142 Nhưng một khi Bồ Đề Tâm đã được khơi dậy trong bạn, thì bạn có hành trì bất kỳ pháp tu tập nào, pháp ấy cũng sẽ dẫn bạn tới Phật Quả viên mãn. Hãy luôn luôn học tập để sử dụng bất kỳ phương tiện nào bạn có thể sử dụng được để giúp cho Bồ Đề Tâm phát khởi trong bạn, ngay cả nếu đó chỉ là một tia lửa nhỏ bé nhất mà thôi.143

hoangtri
04-24-2017, 09:45 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Vị Thầy ban cho bạn những giáo huấn cốt tuỷ của con đường phát khởi Bồ Đề Tâm đang dìu dắt bạn bước đi trên con đường Đại Thừa, vì thế lòng tốt của Ngài thì vĩ đại hơn lòng tốt của những vị Thầy ban cho bạn bất kỳ những giáo huấn nào khác. Khi Ngài Atisa nhắc tới danh hiệu của những vị Thầy của Ngài, Ngài thường chắp tay trước ngực. Nhưng khi Ngài nói tới Đức Suvarnadvipa, Ngài chắp tay đặt lên đầu và mắt Ngài đẫm lệ. Chúng đệ tử hỏi Ngài tại sao có sự phân biệt như vậy.

“Thực sự có một sự khác biệt nào giữa những phẩm hạnh tâm linh hay thiện tâm của những vị Thầy này không?” họ hỏi.

“Tất cả những vị Thầy của ta đều là những bậc tu chứng đích thực” Ngài Atisa trả lời, “và phẩm hạnh của các Ngài đều đồng nhất. Nhưng có một số điểm khác biệt trong thiện tâm của các Ngài. Chút ít Bồ Đề Tâm mà ta có được đến từ thiện tâm của Đức Suvarnadvipa. Đó là lý do tại sao ta cảm thấy biết ơn Ngài nhiều hơn hết cả.”

Có một câu nói rằng, điều quan trọng nhất về Bồ Đề Tâm không phải là việc khơi dậy tâm ấy, mà đúng hơn là tâm ấy đã thực sự phát khởi. Lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm phải thực sự sống động mãnh liệt trong chúng ta. Do đó, trì tụng nghi thức nhiều hằng trăm ngàn lần mà không thâu nhận được ý nghĩa vào trong tâm thì hoàn toàn vô ích. Thọ nhận giới nguyện Bồ Đề Tâm trước sự hiện diện của Chư Phật và Bồ Tát, và sau đó không trì giữ lời nguyện ấy thì đúng là lừa gạt các Ngài. Không có lỗi lầm nào tệ hại hơn thế. Vì thế cũng đừng lừa gạt chúng sinh – hãy luôn cố gắng nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm.

hoangtri
04-26-2017, 09:59 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


III. RÈN LUYỆN THEO GIỚI LUẬT CỦA BỒ ĐỀ TÂM

Đối với Bồ Đề Tâm nguyện [là tác ý muốn phát triển Bồ Đề Tâm], việc tu tập gồm có ba giai đoạn: coi người khác ngang bằng với mình, hoán đổi mình và người khác, và coi người khác quan trọng hơn chính mình. Đối với Bồ Đề Tâm hạnh, việc tu tập bao gồm việc thực hành sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật).

1. Bồ Đề Tâm Nguyện và Giới Luật

1.1 COI NGƯỜI KHÁC NGANG BẰNG VỚI MÌNH

Lý do khiến chúng ta lang thang trong biển luân hồi đau khổ từ vô thủy là bởi ta tin vào một cái “tôi” ở nơi không có cái tôi, tin vào một cái “ngã” ở nơi không có cái ngã, và bởi ta làm cho cái ngã đó trở thành đối tượng duy nhất của tình yêu thương của chúng ta. Thay vào đó, hãy quán chiếu như sau:

Chúng ta luôn luôn muốn được hạnh phúc và không bao giờ muốn đau khổ. Khi có bất kỳ điều khó chịu nào xảy tới cho ta, chúng ta cảm thấy không thể chịu đựng nổi. Ngay cả cái kim châm hay một tia lửa nhỏ cũng làm chúng ta kêu la đau đớn - chúng ta hoàn toàn không thể đương đầu được với những điều đó. Nếu một con rận nhỏ cắn trên lưng chúng ta cũng khiến ta nổi cơn thịnh nộ. Chúng ta bắt con rận đó, nghiền nát nó trong hai móng tay, và mãi sau đó chúng ta vẫn cứ tiếp tục chà xát móng tay trong sự giận dữ. Đa số mọi người thời nay coi việc giết con rận là vô hại. Nhưng vì nó luôn luôn được làm trong cơn giận dữ, nên đó là một nguyên nhân chắc chắn để tái sinh trong Địa Ngục Vây Bắt và Nghiền Nát. Chúng ta phải xấu hổ khi nhận ra rằng ngay cả những khó chịu nhỏ bé như thế mà ta cũng không chịu được và phản ứng bằng cách gây ra đau khổ cho chúng sinh khác.

Giống như chúng ta, tất cả chúng sinh trong tam giới cũng muốn hạnh phúc và thoát khỏi mọi đau khổ. Nhưng mặc dù muốn được hạnh phúc, họ lại không biết rằng hạnh phúc chỉ đến từ việc thực hành thập thiện. Dù không muốn đau khổ, họ dâng hiến mọi nỗ lực cho mười ác hạnh khiến đem lại đau khổ. Điều họ ước muốn và những nỗ lực đạt được những điều đó lại hoàn toàn trái ngược nhau, và họ luôn luôn đau khổ. Trong tất cả những chúng sinh đó, không ai không từng là cha mẹ của chúng ta trong một khoảng thời gian nào đó từ vô thủy. Giờ đây chúng ta đã được một vị Thầy tâm linh chân chính nhận làm đệ tử, giờ đây chúng ta đã nhận lãnh Giáo Pháp chân chính và có thể phân biệt được điều gì có lợi và cái gì có hại. Với tình thương tràn đầy, chúng ta phải quan tâm chăm sóc tất cả những bà mẹ già (chúng sinh) đang bị trói buộc bởi chính màng lưới vô minh của họ, và nên chấm dứt bất kỳ việc tạo tác tâm phân biệt nào giữa họ và chúng ta. Kiên nhẫn trước sự vô ơn và trước thành kiến của họ, chúng ta nên thiền định về sự vắng bóng của bất kỳ ý niệm đối đãi nào giữa thù và bạn.

hoangtri
04-26-2017, 10:05 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Luôn luôn giữ điều này trong tâm, hãy thiền quán về tâm vô phân biệt nhiều lần.

Bất cứ những gì tốt lành hay ích lợi mà bạn muốn cho chính mình, thì người khác cũng mong muốn y như vậy. Do đó, giống như bạn siêng năng làm việc để đem lại hạnh phúc và tiện nghi cho bạn, thì bạn cũng hãy luôn luôn cần mẫn làm việc vì hạnh phúc và tiện nghi cho người khác. Cũng như bạn cố gắng tránh cả những đau khổ nhỏ nhoi nhất cho chính mình, cũng hãy nỗ lực để ngăn ngừa cho người khác khỏi phải đau khổ dù là do một tổn hại nhỏ bé nhất. Giống như bạn cảm thấy hài lòng về hạnh phúc và sự thịnh vượng của riêng bạn, bạn hãy hoan hỷ tận đáy lòng khi người khác cũng được hạnh phúc và thịnh vượng như vậy. Tóm lại, khi thấy không có khác biệt nào giữa bạn và tất cả những chúng sinh trong tam giới, hãy lấy đó làm sứ mệnh duy nhất của bạn để tìm ra những phương cách giúp từng người trong tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bây giờ và mãi mãi.

Khi được Trungpa Sinachen thỉnh cầu một giáo huấn đầy đủ tóm gọn trong một câu duy nhất, Ngài Padampa Sangye trả lời: “Bất cứ những gì ông muốn, tất cả người khác cũng muốn như thế; hãy hành động dựa trên điều đó!”

Hãy hoàn toàn diệt trừ tận gốc tất cả những thái độ sai lầm được đặt nền tảng trên sự tham luyến và thù hận, khiến bạn loại bỏ những người khác và chỉ quan tâm tới chính mình, và hãy nghĩ tưởng rằng bản thân bạn và những người khác hoàn toàn bình đẳng.

1.2 HOÁN ĐỔI MÌNH VÀ NGƯỜI

Hãy quan sát một người đang thật sự đau khổ vì bệnh tật, đói, khát hoặc vì một số những phiền não khác. Hoặc, nếu việc đó không thể làm được thì hãy tưởng tượng một người như thế đang ở trước mặt bạn. Khi thở ra, hãy tưởng tượng rằng bạn đang cho người đó tất cả hạnh phúc của bạn và những điều tốt đẹp nhất mà bạn có, thân thể bạn, tài sản và suối nguồn công đức của bạn, như thể bạn đang cởi bỏ quần áo của mình và mặc vào người họ. Sau đó, khi hít vào hãy tưởng tượng rằng bạn đang nhận vào mình tất cả những đau khổ của người đó, và kết quả là người đó trở nên hạnh phúc và thoát khỏi mọi phiền não. Hãy bắt đầu phương pháp thiền định này để ban tặng hạnh phúc và nhận lãnh đau khổ đối với một cá nhân, sau đó dần dần mở rộng để bao gồm tất cả chúng sinh.

Bất kỳ những điều gì bạn không mong muốn hoặc khi đau khổ xảy đến với bạn, hãy phát khởi lòng trắc ẩn chân thành, chan chứa đối với tất cả chúng sinh trong tam giới của luân hồi, là những chúng sinh giờ đây đang chịu đựng đau khổ giống như đau khổ của bạn. Hãy phát khởi ước nguyện mạnh mẽ rằng tất cả những đau khổ của họ có thể trổ quả trong bạn thay vì trong họ, và họ có thể hoàn toàn thoát khỏi đau khổ và được hạnh phúc. Bất cứ khi nào bạn cảm thấy hạnh phúc hay cảm thấy mọi chuyện tốt đẹp, hãy phát khởi mong ước rằng hạnh phúc của bạn có thể trải rộng ra và đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh.

hoangtri
04-26-2017, 10:11 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Phương pháp thực hành Bồ Đề Tâm hoán chuyển ngã tha – hoán đổi mình và người khác – là tinh tuý của thiền định tối thượng và phương pháp này sẽ không bao giờ vơi cạn cho tất cả những ai đã khởi hành trên con đường của giáo lý Đại Thừa. Nếu bạn thật sự kinh nghiệm sự hoán đổi này dù chỉ một lần, kinh nghiệm này sẽ tịnh hoá những ác hạnh và những chướng ngại trong nhiều kiếp, và sẽ giúp bạn tích tụ được hai bồ phước huệ vô biên. Kinh nghiệm ấy sẽ cứu bạn thoát khỏi những cõi thấp và thoát khỏi bất kỳ con đường tái sinh nào dẫn bạn tới những cõi thấp đó.

Trong một đời trước, Đức Phật bị đọa vào một Địa ngục, ở đó những tội nhân bị buộc phải kéo những toa xe. Ngài phải kéo một toa xe cùng một người khác tên là Kamarupa, nhưng cả hai người quá yếu nên không làm cho xe di chuyển được, lính canh hối thúc và đánh họ bằng những vũ khí nóng-đỏ, khiến họ đau đớn vô tả.

Vị Phật tương lai nghĩ: “Ngay cả hai chúng ta cùng nhau kéo cũng không thể làm cho toa xe di chuyển, mà mỗi người lại chịu đau khổ như nhau. Tôi sẽ kéo và chịu đau khổ một mình để Kamarupa có thể được nhẹ bớt.”

Ngài nói với lính canh: “Hãy đặt dây cương của anh ta lên vai tôi, mình tôi kéo được rồi.”

Nhưng những tên lính canh nổi giận: “Ai có thể làm được bất kỳ điều gì để tránh cho người khác khỏi phải kinh qua những hậu quả của những hành vi của chính họ?” họ nói, và đánh tới tấp lên đầu Ngài bằng dùi cui.

Tuy nhiên, nhờ thiện niệm này, Đức Phật lập tức thoát khỏi cuộc sống Địa ngục và được tái sinh vào một cõi Trời. Người ta nói đây là cách thức mà Ngài khởi đầu làm lợi lạc cho người khác.

Một câu chuyện khác kể về bằng cách nào mà Đức Phật, trong một tái sinh ở đời trước là Ái Nữ của thuyền trưởng Vallabha, có lần được giải thoát khỏi những cõi thấp ngay khi Ngài thực sự kinh nghiệm sự hoán chuyển này của Ngài với những người khác. Có lần, một gia chủ tên là Vallabha, tất cả những con trai của ông đều chết cả. Do đó, khi sinh đứa con trai khác, ông quyết định đặt tên cho nó là Ái Nữ với hy vọng điều này sẽ làm cho nó được sống sót. Sau đó, Vallabha vượt biển để tìm châu báu, nhưng thuyền chìm và ông ta bỏ mạng.

Khi người con trai trưởng thành, anh hỏi mẹ rằng trước đây cha mình thuộc giai cấp nào. Sợ rằng nếu nói ra sự thật thì đứa con cũng có thể lại đi biển, nên người mẹ bảo với con rằng cha anh thuộc giai cấp thương nhân buôn gạo. Vì thế Ái Nữ trở thành một người buôn bán gạo và chăm sóc mẹ với bốn đồng xu của một karsa kiếm được trong ngày. Nhưng một người buôn gạo khác nói với anh rằng anh không thuộc giai cấp của họ, vì thế anh làm nghề buôn bán như họ là không đúng. Anh bị bắt buộc phải ngưng công việc.

Anh trở về với mẹ và hỏi bà lần nữa. Lần này mẹ anh nói rằng cha anh là một người bán hương liệu. Anh bắt đầu bán hương liệu, và chăm sóc mẹ với tám karsa kiếm được mỗi ngày.

hoangtri
04-26-2017, 10:19 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Nhưng Ái Nữ bị bắt phải ngưng công việc một lần nữa, và lần này mẹ anh nói rằng cha anh đã buôn bán quần áo. Anh bắt đầu làm người buôn quần áo, và chẳng mấy chốc đã có thể đưa cho mẹ mười sáu karsa mỗi ngày. Nhưng một lần nữa anh bị buộc bỏ việc vì những người buôn quần áo khác.

Khi được biết cha thuộc giai cấp buôn châu báu, anh bắt đầu buôn ngọc và đem về cho mẹ ba mươi hai karsa mỗi ngày. Sau đó, những người buôn ngọc khác nói với anh là anh thuộc giai cấp những người đi tìm ngọc từ những chuyến đi biển và đây mới là công việc mà anh được sinh ra để làm.

Khi về nhà ngày hôm đó, anh nói với mẹ: “Con thuộc về giai cấp những người đi tìm châu báu. Vì thế con quyết định vượt đại dương để tiếp tục công việc buôn bán của riêng con!”

“Đúng là con thuộc giai cấp những người đi tìm châu báu” bà mẹ nói, “nhưng cha con và tất cả tổ tiên của con đều chết trên biển trong khi đi tìm ngọc. Nếu con đi, con cũng sẽ chết. Thôi con đừng đi! Hãy ở lại nhà và buôn bán tại đây.”

Nhưng Ái Nữ không thể vâng lời mẹ. Anh chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho chuyến đi. Khi bắt đầu lên đường, mẹ anh không thể nào chia tay với anh được, bà nắm lấy viền áo anh và khóc. Anh ta nổi giận.

Anh la lên: “Nước mắt của mẹ sẽ đem lại vận rủi cho con trong chuyến vượt đại dương!” anh đá vào đầu mẹ rồi bỏ đi.

Trong cuộc hành trình dài, tàu của anh ta bị đắm và hầu như toàn bộ thủy thủ bị chết đuối, nhưng Ái Nữ nhanh tay nắm được một miếng ván và bị đánh dạt vào bờ trên một hòn đảo. Anh đi tới một thành phố tên là Hoan Hỉ. Trong một ngôi nhà đẹp làm bằng kim loại và ngọc quý, bốn vị thiên nữ xinh đẹp xếp những tấm nệm lụa cho anh ngồi và dâng cho anh ba loại thực phẩm trắng và ba thực phẩm ngọt.

Khi anh chuẩn bị về, họ cảnh báo, “Đừng đi về hướng Nam. Đại bất hạnh sẽ xảy ra cho anh nếu anh cứ đi!” Nhưng Ái Nữ không nghe và lên đường.

hoangtri
04-26-2017, 10:22 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Anh đến một thành phố gọi là Hân Hoan, thậm chí còn đẹp hơn thành phố trước. Ở đây tám phụ nữ xinh đẹp phục vụ anh. Như lần trước, họ báo cho anh biết rằng đại hoạ đang đe doạ anh nếu anh đi về hướng Nam nhưng anh không chú ý và lên đường lần nữa.

Ở một thành phố được gọi là Nhiễm Độc thì còn hoàn hảo hơn những nơi khác, anh được mười sáu thiên nữ cực kỳ xinh đẹp chào đón, họ phục dịch anh và cũng như những lần trước, họ cảnh báo anh, nhưng một lần nữa lời cảnh báo ấy chẳng có hiệu quả gì.

Anh tiếp tục cuộc du hành và chợt nhìn thấy một pháo đài trắng mà chóp đỉnh của nó vươn tới tận trời cao. Nó được gọi là Lâu Đài của Đạo Sư Phạm Thiên (Guru Brahma), và ở đó ba mươi hai thiên nữ xinh đẹp mê hồn mời anh vào. Họ sửa soạn cho anh một giường có nệm bằng lụa, phục vụ ba món thực phẩm trắng và ba món thực phẩm ngọt và van nài anh ở lại. Nhưng anh vẫn muốn đi.

Khi anh bắt đầu lên đường, họ nói: “Cho dù Ngài đi đâu, hãy tránh hướng Nam! Tai họa sẽ giáng xuống Ngài.” Nhưng anh cảm thấy một sự thôi thúc phải đi về phương Nam, và anh đi về hướng đó.

Chẳng bao lâu một tòa thành bằng sắt hiện ra trước mặt anh, những tháp của nó cao vút lên tận bầu trời. Tại cổng, anh thấy một người da đen với đôi mắt đỏ ngầu đáng sợ, tay cầm thanh sắt dài. Ái Nữ hỏi ông ta trong lâu đài có gì, nhưng người đàn ông chỉ im lặng. Khi đến gần hơn, anh thấy nhiều người đàn ông giống người đầu tiên. Một cảm giác khủng khiếp lan khắp thân thể làm tóc anh dựng lên.

Anh tự bảo: “Nguy hiểm! Đây hẳn là sự nguy hiểm mà họ đã báo cho ta.”

Anh đi vào trong. Ở đó anh thấy một người mà óc bị nghiền thành bột bởi một bánh xe thép đang quay trên đầu anh ta.

“Anh làm điều gì mà phải chịu trừng phạt như vậy?” Ái Nữ hỏi.

“Tôi đã đá vào đầu mẹ tôi, và đây là nghiệp trổ quả. Nhưng còn bạn? Tại sao không hưởng hạnh phúc mà người ta dâng tặng anh ở Lâu Đài Đạo Sư Phạm Thiên? Tại sao lại đến đây để tìm kiếm đau khổ?”

“Tôi tin rằng mình bị đẩy đến đây cũng là do nghiệp của tôi” Ái Nữ nghĩ.

Vào lúc đó, từ trên bầu trời có một giọng nói lớn: “Hãy để những người đang bị trói được tự do, và những kẻ tự do bị trói lại!”

Bánh xe thép bất ngờ quay trên đầu Ái Nữ. Giống như người kia, óc anh bị vỡ nát thành bột nhão và anh chịu đựng nỗi đau đớn và khốn khổ không tả xiết. Sự đau khổ này đánh thức trong lòng anh một cảm thức Bi mẫn mãnh liệt đối với tất cả những người đang ở trong tình trạng như anh.

hoangtri
04-26-2017, 10:41 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Anh nghĩ: “Trong các cõi luân hồi có những chúng sinh khác đang chịu đau khổ như tôi vì họ cũng đã đá vào đầu mẹ của họ. Cầu mong nỗi khổ của họ trổ quả trong tôi và cầu mong chỉ một mình tôi chịu đựng nỗi khổ đó thay cho tất cả. Cầu mong sẽ không còn ai phải trải qua nỗi đau khổ như thế trong bất kỳ đời nào trong chuỗi tái sinh liên tục của họ.”

Đột nhiên, bánh xe bay lên không trung, nỗi thống khổ của anh chấm dứt và anh bay lên tới độ cao của bảy cây dừa trong một trạng thái đại lạc.

Thực hành Bồ Đề Tâm bằng phương pháp hoán đổi mình với người khác là phương pháp tối cao và hết sức cần thiết để đạt được giác ngộ. Thật vậy, các Đạo Sư Kadampa trong quá khứ thường lấy đó làm pháp tu tập chính yếu. Có lần Geshe Chekawa, bậc thông suốt nhiều giáo lý của cả hai truyền thống Tân và Cựu và là bậc đã nhập tâm nhiều bản văn luận lý, tới thăm Geshe Chakshingwa. Ở trên gối của vị này, ông nhìn thấy một bản văn nhỏ, và khi mở nó ra ông tình cờ đọc được câu này:

Hãy hiến tặng lợi lạc và vinh quang cho người khác.
Hãy nhận lãnh thua thiệt và thất bại cho chính mình.

“Thật là một giáo lý tuyệt vời!” Chekawa nghĩ, và hỏi Chakshingwa giáo lý này tên gì.

“Đó là Tám Bài Kệ Luyện Tâm của Langri Thangpa”

Chakshingwa nói.

“Ai đã thuyết những giáo huấn này?”

“Chính Ngài Langri Thangpa”

Chekawa quyết định thọ lãnh những giáo lý này. Trước hết, ông tới Lhasa và dùng một vài ngày để đi nhiễu quanh những Thánh địa. Một buổi chiều, một người cùi ở Langthang nói với ông rằng Langri Thangpa đã viên tịch. Chekawa hỏi ai là người thừa kế dòng truyền thừa và được cho biết là hai người có khả năng kế vị, đó là Shangshungpa và Dodepa, nhưng họ có thể không đồng ý về chuyện này. Tuy nhiên họ không cãi cọ vì tranh giành nhau.

Shangshungpa nói với Dodepa: “Ông là người lớn tuổi hơn, ông nên kế vị. Tôi sẽ phụng dưỡng ông như thể ông chính là Ngài Langri Thangpa!”

hoangtri
04-26-2017, 10:50 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Nhưng Dodepa trả lời: “Ông uyên bác hơn. Ông nên làm người kế vị!”

Mặc dù cả hai nhìn nhau bằng tri giác thanh tịnh, Chekawa giải thích việc họ không tán thành việc kế thừa là một sự thiếu sót và cho rằng cả hai đều không phải là người trì giữ giáo lý của Ngài Langri Thangpa. Ông cố gắng tìm cho ra người trì giữ xuất sắc nhất, và mọi người nói với ông rằng người đó là Sharawa.

Sharawa đang ban một giáo lý gồm nhiều quyển sách cho hàng ngàn người trong Tăng đoàn. Chekawa lắng nghe Ngài trong vài ngày, nhưng không nghe Ngài nói một lời nào về giáo lý mà ông đang tìm kiếm.

“Dường như vị này cũng không có được giáo lý đó,” ông nghĩ, “nhưng ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài có giáo lý này, ta sẽ ở lại. Còn không, tốt hơn ta nên đi.”

Vì thế Chekawa tới gặp Sharawa, Ngài đang nhiễu quanh một bảo tháp. Ông trải một tấm vải lên mặt đất và mời Sharawa ngồi một lát và nói: “Con có một số việc muốn hỏi Ngài.”

“Đại Đức” Sharawa nói, “ông cần hỏi vấn đề gì? Về phần ta, ta luôn tìm mọi câu trả lời trên gối thiền của mình.”

“Con đọc được những lời này trong một bản văn: ‘Hãy hiến tặng lợi lạc và vinh quang cho người khác. Hãy nhận lãnh thua thiệt và thất bại cho chính mình.’ Con rất thích những lời này. Đây có phải là một giáo lý sâu xa hay không?”

“Đại Đức” Ngài Sharawa trả lời, “dù thích hay không thích giáo lý này, nhưng nếu ông muốn đạt được Phật Quả thì ông không thể bỏ qua giáo lý ấy.”

“Có phải Ngài đang trì giữ giáo lý này?”

“Đúng, đó là pháp tu chính yếu của ta” Ngài Sharawa trả lời.

“Vậy thì con cầu khẩn Ngài dạy cho con” Chekawa nói.

“Ông có thể ở lại đây với ta trong một thời gian dài hay không?” Ngài Sharawa hỏi, “Nếu ông có thể ở lại thì ta sẽ dạy cho ông.”

Từ Ngài, Chekawa nhận được những hướng dẫn dựa trên kinh nghiệm của Ngài 144 trong một tiến trình liên tục huấn luyện tâm thức kéo dài sáu năm. Qua việc thực hành giáo lý trên, ông đã có thể giải thoát hoàn toàn khỏi mọi dấu vết của tâm vị kỷ.

Để xua tan bệnh tật và những đau khổ trong đời này và để chế ngự những tinh linh, những thế lực xấu ác và những kẻ gây nên chướng ngại, không có giáo huấn nào tốt hơn phương pháp thiền định Bồ Đề Tâm hoán đổi mình và người khác. Hãy thiền định về điều này với sự kiên trì, luôn luôn từ bỏ thuốc độc tâm thức tiêu cực, thứ thuốc độc đem lại cho bạn quá nhiều tánh tự kiêu cho mình là quan trọng.

hoangtri
04-27-2017, 04:05 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


1.3 COI NGƯỜI KHÁC QUAN TRỌNG HƠN MÌNH

“Tôi có thể ở trong vòng luân hồi, tôi có thể bị đọa vào trong Địa ngục, tôi có thể bị bệnh tật, bồn chồn xúc động, hay đau khổ vì bất kỳ sự bất hạnh nào khác, nhưng tôi sẽ chịu đựng tất cả những điều đó. Cầu mong cho đau khổ của người khác trổ quả trong tôi! Cầu mong những chúng sinh khác có được mọi hạnh phúc và mọi quả tốt của những thiện hạnh của tôi!”

Hãy khơi dậy tư tưởng này từ tận sâu thẳm trong tâm bạn và hãy thực sự đưa chúng vào thực hành, noi theo gương của những vị Thầy của Ngài Atisa, là các Ngài Maitriyogi và Dharmaraksita, và của Đạo Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta trong những kiếp tái sinh làm Vua Padma, làm một con rùa và làm Vua Manicuda.

Có lần, Ngài Maitriyogi, Thầy của Atisa, đang thuyết giảng Giáo Pháp thì một người đàn ông ở gần đó ném đá vào một con chó. Vị Đạo Sư đang ngồi trên ngai la lên đau đớn và ngã xuống đất. Những người hiện diện không nhìn thấy việc xảy ra cho con chó nên nghĩ rằng Ngài giả vờ. Nhưng Ngài Maitriyogi biết được điều họ đang nghĩ, Ngài cho họ thấy trên lưng Ngài rõ ràng có một vết sưng do hòn đá ném vào con chó. Chứng cớ này đã thuyết phục được mọi người có mặt ở đó: Ngài đã nhận vào thân mình nỗi đau đớn của con chó khi bị ném đá.

Khởi đầu, Đạo Sư Dharmaraksita là một học giả Thanh Văn của phái Vaibhasika. Mặc dù vào lúc đầu đời, Ngài chưa bao giờ được nghe giáo lý Đại Thừa, nhưng Ngài phát khởi lòng mến mộ tự nhiên đối với truyền thống Đại Thừa, và Ngài tràn đầy lòng bi mẫn mà không cần bất kỳ nỗ lực hay dụng công nào.

Một lần kia, một người trong vùng Ngài đang sống lâm trọng bệnh mà thầy thuốc bảo rằng chỉ có thể được chữa lành bằng một loại thuốc – đó là thịt tươi. Nếu không tìm được nó thì không hy vọng gì.

“Nếu thế thì tôi sẽ cho thịt của tôi” Dharmaraksita nói, và cắt một ít thịt ở đùi đưa cho người bệnh; họ ăn và khỏi bệnh.

Kết quả là bởi vì chưa chứng ngộ tánh Không nên Dharmaraksita bị đau đớn dữ dội, nhưng tâm đại bi của Ngài đã chặn đứng bất kỳ cảm giác hối tiếc nào của Ngài.

“Bạn có cảm thấy khoẻ hơn không?” Ngài hỏi người bệnh.

“Vâng, tôi khoẻ rồi, nhưng hãy nhìn những đau đớn khổ sở tôi đem lại cho Ngài!”
“Thậm chí tôi sẵn sàng chịu chết nếu điều đó có thể đem lại hạnh phúc cho bạn” Ngài Dharmaraksita nói.

Tuy nhiên Ngài đau đớn tới nỗi không ngủ được. Cuối cùng, Ngài lơ mơ ngủ được một lát và có một giấc mơ.

Một người đàn ông màu trắng toát hiện ra nói với Ngài: “Bất kỳ ai muốn đạt được giác ngộ đều phải trải qua những thử thách như ngươi. Hoàn hảo! Hoàn hảo!” rồi người đàn ông nhổ vào vết thương và lấy tay chà xát. Vết thương biến mất, hoàn toàn không để lại dấu vết.

Khi Dharmaraksita thức dậy, Ngài thấy vết thương đã hoàn toàn lành lặn. Người đàn ông màu trắng chính là Đức Đại Bi.145 Sau đó, sự chứng ngộ đích thực về trạng thái bản nhiên đã ló rạng trong tâm Dharmaraksita và những lời vàng của Trung Quán Luận của Đức Long Thọ luôn ở trên môi Ngài.

hoangtri
04-28-2017, 04:15 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Thời xa xưa, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong một đời trước là một vị Vua tên là Padma, có một trận dịch trầm trọng bột phát trong đám thần dân của Ngài và nhiều người đã chết. Nhà vua mời những vị thầy thuốc tới và hỏi họ cách chữa trị ra sao.

“Bệnh này chỉ có thể chữa khỏi bằng thịt cá rohita” họ nói. “Nhưng cơn bệnh đã che mờ tâm trí chúng tôi tới nỗi chúng tôi không thể nghĩ ra cách chữa trị nào khác.”

Vào buổi sáng của một ngày tốt lành, nhà vua tắm rửa, mặc quần áo mới và cử hành một nghi lễ sám hối và tịnh hóa. Ngài thực hiện lễ cúng dường thịnh soạn cho Tam Bảo và cầu nguyện nhiệt thành, Ngài nói: “Ngay khi con chết, cầu mong con được lập tức tái sinh thành một con cá rohita sống trong sông Nivritta!”

Sau đó, Ngài lao mình xuống từ cung điện cao một ngàn cubit (khoảng 450m) – và ngay lập tức được tái sinh thành một con cá, thét lên bằng giọng người: “Ta là một con cá rohita, hãy lấy thịt ta và ăn đi!”.

Mọi người đến để ăn. Ngay khi một bên thân nó đã được ăn, con cá liền lật sang và mời họ ăn tiếp thân bên kia. Khi họ đang cắt thịt, phần thân đầu tiên trở lại đầy như cũ. Bằng cách này, khi tuần tự ăn từng bên thân cá, những ai bị bệnh đều có thể được chữa khỏi. Sau đó, con cá nói với tất cả mọi người rằng:

“Ta là Padma, vua của các người. Ta đã từ bỏ thân mạng để tái sinh thành một con cá rohita cứu các người khỏi bệnh dịch. Để biểu lộ lòng biết ơn của các người đối với ta, hãy từ bỏ những hành động xấu ác và làm mọi điều thiện mà các người có thể.”

Tất cả đều vâng lời Ngài và từ đó không bao giờ còn rơi vào vòng tái sinh ở các cõi thấp nữa.

Một lần khác, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tái sinh làm một con rùa khổng lồ, lúc đó một chiếc thuyền chở năm trăm nhà buôn bị đắm giữa biển.

Tất cả đều sắp chết đuối thì con rùa gọi họ bằng giọng người: “Hãy trèo lên lưng ta! Ta sẽ đưa tất cả các ngươi tới nơi an toàn!”.

Con rùa đem những nhà buôn này đến vùng đất khô ráo, sau đó kiệt sức qụy ngã bên bờ biển, và ngủ thiếp đi. Nhưng khi nó ngủ, một đám mây gồm tám mươi ngàn con ruồi ketaka bay đến và bắt đầu hút máu con rùa. Khi tỉnh dậy, nó nhìn thấy ruồi đông vô kể và nhận ra rằng nếu nó lặn xuống nước trở lại hay bò lên mặt đất thì những con ruồi sẽ chết. Vì thế nó cứ nằm yên đó, hiến tặng thân mạng nó cho những con ruồi.

Sau này khi con rùa đã thành Phật thì đàn ruồi ấy trở thành tám mươi ngàn vị Trời lắng nghe giáo lý của Ngài và lãnh hội được Chân lý.

Trong một dịp khác, Đức Phật tái sinh ở xứ Saketa thành con trai của vị Vua Chỏøm Vàng cùng hoàng hậu Sắc Đẹp Làm Hoan Hỷ. Nơi đỉnh đầu của cậu bé là một nhục kế146 chứa một viên ngọc báu, từ đó chảy ra một chất cam lồ có năng lực biến sắt thành vàng. Vì lý do này cậu được gọi là Manicuda, “Chỏm Ngọc.” Khi cậu bé sinh ra, một trận mưa gồm đủ loại châu báu đổ xuống. Trong số của cải của cậu có một con voi lộng lẫy tên là Núi Tuyệt Hảo. Là vua, Ngài chỉ đạo những công việc thế gian phù hợp với Giáo Pháp, luôn phân phát của bố thí cho người nghèo, nhờ đó chấm dứt được sự nghèo khổ và ăn xin.

Một nhà hiền triết (risi) tên là Brighu gả con gái cho Ngài. Cô sinh ra từ hoa sen và có mọi điềm lành. Từ sự kết hợp này, một đứa con trai giống như cha ra đời, và người ta gọi cậu là Chỏm Hoa Sen.

hoangtri
04-28-2017, 04:23 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________



Atisa (982 - 1054)


Học giả Ấn Độ vĩ đại của đại học viện Vikramasila, đã trải qua mười năm cuối đời mình tại Tây-Tạng, ở đó Ngài giảng dạy giáo lý chú trọng vào hai pháp môn căn bản là (1) Quy y và (2) Rèn luyện tâm thức nương vào lòng Từ và Bi.

Một ngày nọ, nhà vua quyết định tổ chức một lễ cúng dường lớn và mời nhiều vị khách, trong số họ có risi Brighu và một vị vua tên Dusyanta _ Khó-Kham Nhẫn. Khi ấy Vua Trời Indra (Đế Thích) muốn thử ý định của Vua Chỏm Ngọc nên mang thân tướng của một Dạ Xoa (raksasa). Ông nhảy ra khỏi đồ cúng lửa và đi tới nhà vua, yêu cầu thực phẩm và nước uống. Nhà vua tặng Ông đủ loại món ăn và thức uống, nhưng Ông từ chối tất cả.

“Tất cả những cái tôi cần” Ông nói với nụ cười mỉm, “là thịt và máu còn ấm của một người vừa bị giết!”

Nhà vua hơi giật mình. “Ta không thể làm được việc này mà không làm tổn hại người khác,” Ngài nghĩ. “Cho dù ông ta giết ta, ta sẽ không bao giờ làm hại người khác. Tuy nhiên, trừ khi ta cho ông ta những gì ông ta cần, còn không thì mọi hy vọng của ông ta sẽ bị đổ vỡ. Ta sẽ làm gì?”

Lúc đó, Nhà vua quyết định đã tới lúc cúng dường chính máu và thịt của mình và nói: “Tôi sẽ cho ông máu và thịt của chính tôi.”

Sự hoảng loạn lan khắp tập hội và họ cố gắng thuyết phục Vua, nhưng không có hiệu quả. Nhà vua cắt tĩnh mạch cổ để cho máu. Dạ Xoa uống máu no nê rồi cắt những miếng thịt của Vua và Quỷ Ma ăn thịt cho đến tận xương. Quyến thuộc của Nhà vua buồn bã. Hoàng hậu ngã bất tỉnh trên mặt đất. Nhưng Nhà vua vẫn làm chủ được năng lực của mình và Trời Indra trở nên cực kỳ hoan hỷ.

“Ta là Vua Trời Đế Thích” Ông ta nói. “Ta không cần thịt và máu vì thế Ngài có thể ngưng hành vi nhân đức của Ngài lại.” Ông bôi chất cam lồ linh thánh lên những vết thương trên thân nhà vua khiến vua hồi phục như trước.

Về sau, Vua Chỏm Ngọc ban con voi Núi Tuyệt Hảo cho quan thượng thư của Ngài tên là Cỗ xe của Brahma. Vào lúc đó một trong những đệ tử của risi Marici tới, risi Marici là người đã thành tựu trong thiền định. Nhà vua đón tiếp ông ta với lòng tôn kính sâu xa và hỏi ông ta cần gì.

“Để tỏ lòng biết ơn vị thầy đã dạy tôi kinh Veda, tôi muốn dâng cho thầy tôi một người hầu, vì hiện tại thầy tôi đã già và không còn ai. Tôi tới xin vợ và con Ngài.”

Vì thế nhà vua để cho vợ con của mình đi. Người đệ tử cùng đi với họ và dâng họ cho thầy mình.

hoangtri
04-28-2017, 04:27 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Trong lúc đó, Vua Khó-Kham Nhẫn thèm muốn con voi. Khi về tới vương quốc của mình, Vua gởûi một thông điệp yêu cầu rằng con voi phải được đem trình diện vua. Vua được trình báo kịp thời là con voi đã được đem cho một người bà la môn. Nhưng nhà vua không nghe và đe dọa sẽ có chiến tranh nếu không giao voi. Khi địch quân tiến đến, Vua Chỏm Ngọc cảm thấy một nỗi buồn sâu xa trong lòng.

“Đáng buồn biết bao tính tham lam có thể biến người bạn thân nhất thành kẻ thù dữ dội nhất chỉ trong chốc lát!” Ngài nghĩ. “Nếu ta chuẩn bị chiến đấu, ta có thể dễ dàng đánh bại ông ta. Nhưng nhiều người sẽ đau khổ, vì thế ta phải trốn đi!”

Bốn vị Phật Độc Giác xuất hiện và nói: “Đại Vương, đã đến lúc Ngài vào rừng.”

Vì thế Ngài đi tới Rừng Niềm Say Mê Của Người Khác, trong khi những vị thượng thư của Ngài tới gặp Marici và hỏi xin vị hoàng tử trẻ là người đã được tặng cho ông ta. Marici trả lại hoàng tử và hoàng tử nắm quyền chỉ huy quân đội và lâm chiến. Vua Khó-Kham Nhẫn bị thua trận và bị buộc phải lui về, và những tư tưởng cùng những hành vi xấu ác đã mang lại bệnh tật và đói kém cho vương quốc của nhà vua.

Khi vua Khó-Kham Nhẫn hỏi những người bà la môn của ông ta điều gì có thể làm cho những tai họa này chấm dứt, họ nói: “Phương thuốc đó là những viên ngọc của Vua Chỏm Ngọc. Ngài nên xin nhà vua viên ngọc đó.”

“Nhưng chắc chắn là ông ta sẽ từ chối” Vua Khó-Kham Nhẫn nói.

Tuy nhiên, những người bà la môn cứ khăng khăng nói rằng Vua Chỏm Ngọc sẽ cho – bởi vua đã chẳng nổi danh là không bao giờ từ chối một lời thỉnh cầu nào đó sao? Một người bà la môn được phái đi để xin vua viên ngọc.

Vua Chỏm Ngọc đang đi dạo trong rừng, nhìn quanh quẩn, và tới gần ẩn thất của Marici. Cùng lúc đó, hoàng hậu ¬vợ Ngài – đang tìm rễ và lá trong rừng không xa nơi đó, bị một thợ săn tấn công.

“Vua Chỏm Ngọc cứu tôi!” bà la lên.

Tiếng kêu khóc từ xa của bà vang tới tai Vua Chỏm Ngọc, Ngài tự hỏi điều gì xảy ra và đi tới xem. Người thợ săn thấy Ngài đến gần, tưởng là vị risi. Sợ bị nguyền rủa, hắn bỏ chạy. Một người như Hoàng hậu trước đây từng thụ hưởng vô số tiện nghi của hoàng cung mà nay lâm vào cảnh khốn cùng đến nỗi Vua Chỏm Ngọc phải bàng hoàng khi Ngài nhìn thấy bà. “Buồn làm sao!” Ngài nghĩ. “Mọi sự duyên hợp chẳng có gì xác thực.”

Đúng lúc đó sứ giả bà la môn của Vua Khó-Kham Nhẫn đi tới. Ông ta thuật lại cho Ngài câu chuyện và hỏi xin nhục kế trên đầu Ngài.

“Hãy cắt nó và lấy đi” nhà Vua nói.

hoangtri
04-29-2017, 04:32 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Người Bà la môn làm theo và ra đi. Mọi bệnh tật và đói kém đã chấm dứt trong vương quốc của Vua Khó-Kham Nhẫn.

Khi Vua Chỏm Ngọc chịu đựng nỗi đau đớn do vết thương của Ngài gây ra, nó khơi dậy trong Ngài lòng Đại Bi đối với tất cả chúng sinh trong các Địa ngục nóng. Sau đó Ngài bất tỉnh.

Trong lúc đó, được thúc đẩy bởi những điềm lành xuất hiện, nhiều người trong triều đình cũng như các vị Trời đi tới.

“Ôi, Đức Vua!” họ nói, “điều gì đã xảy ra?”

Nhà vua ngồi dậy và chùi những vết máu trên mặt Ngài.

“Vua Khó-Kham Nhẫn cho người tới xin ta nhục kế trên đầu vì thế ta đã tặng nó cho ông ta” Ngài trả lời.

“Điều gì khiến Ngài làm như vậy?” họ hỏi.

“Ta không cố giữ bất kỳ điều gì cho mình. Mong ước duy nhất của ta là xứ sở của Vua Khó-Kham Nhẫn phải được cứu thoát khỏi bệnh tật và nạn đói kém. Nhưng ta còn muốn một điều nữa..”

“Đó là gì?” họ hỏi.
“Có khả năng che chở tất cả chúng sinh” Ngài trả lời.
“Nhưng Ngài không cảm thấy hối tiếc chút nào chứ?” họ hỏi.
“Không, hoàn toàn không” nhà vua nói.
“Nhìn vẻ đau đớn trên mặt Ngài thì thật khó có thể tin điều Ngài nói.”
“Tốt" nhà vua nói, “nếu ta thật sự không hối tiếc về việc tặng nhục kế cho Vua Khó-Kham Nhẫn và quần thần của ngài, thì cầu mong thân ta trở lại y như trước!”

Và đó là điều đã xảy ra. Quần thần của Ngài van nài Ngài trở lại cung điện, nhưng Ngài từ chối. Vào lúc đó, bốn vị Phật Độc Giác lại xuất hiện.

“Bởi Ông đã giúp cho kẻ thù quá nhiều rồi, thì tại sao lại không giúp cho những bạn hữu?” các Ngài nói. “Bây giờ ông nên trở về cung điện của mình.”

Nhà Vua trở về cung điện, và đem lại lợi ích và hạnh phúc cho thần dân của Ngài.

hoangtri
04-29-2017, 04:39 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2. Bồ Đề Tâm Hạnh:
Nương Theo Giới Hạnh
Của Sáu Pháp Toàn Thiện Siêu Việt (Lục độ ba-la-mật)

Năm pháp đầu tiên trong sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba-la-mật hay sáu ba-la-mật) – bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định – bao gồm tất cả các phương tiện thiện xảo khác nhau.
Pháp thứ sáu, trí tuệ, thuộc về pháp vun bồi trí huệ nguyên sơ.147

2.1 BỐ THÍ SIÊU VIỆT (Bố thí ba-la-mật)

Bố thí có thể áp dụng qua ba hình thức: bố thí vật chất (tài thí), bố thí Pháp (Pháp thí), và bố thí sự che chở thoát khỏi sợ hãi (vô uý thí).

2.1.1 Bố thí vật chất (Tài thí)

Có ba loại bố thí vật chất: bố thí thông thường, đại bố thí và đại bố thí phi thường.

Bố thí thông thường. Điều này ám chỉ việc bố thí bất kỳ vật chất nào, cho dù nó không nhiều hơn một nhúm trà hay một chén bột lúa mạch. Nếu nó được bố thí với một tác ý hoàn toàn thanh tịnh thì số lượng không quan trọng. Sự Sám Hối Những Sa Sút nói về “kết quả tốt lành trong tương lai của việc bố thí dù chỉ một muỗng thực phẩm cho một chúng sinh trong cõi Súc sinh.” Ta được biết rằng Các Đấng Chiến Thắng, khéo léo lão luyện trong phương tiện và với lòng Đại Bi quảng đại, có thể cứu giúp Ngạ quỷ nhiều như cát sông Hằng (Gange) chỉ với một giọt nước hay một hạt lúa mạch bằng cách sử dụng oai lực của các dharani,* các thần chú và những phương tiện khác.

Những lễ cúng dường lửa -- đỏ và trắng, đem lại lợi ích to lớn cho Ngạ quỷ di chuyển khắp hư không. Mặt khác, những Tinh linh được nuôi dưỡng trên sự sống của những chúng sinh khác có thể tạm thời thỏa mãn bằng mùi vị của thực phẩm cúng dường được thiêu hoá (cúng dường lửa) và tâm họ được giải thoát nhờ tặng phẩm của Giáo Pháp.** Kết quả là những Tinh linh đó không còn làm tổn hại người khác, và do đó nhiều chúng sinh khác được bảo vệ, thoát khỏi hiểm họa của cái chết. Điều này dẫn đến pháp bố thí sự che chở thoát khỏi sợ hãi (vô uý thí), vì thế thực hành cúng dường lửa bao gồm cả ba loại bố thí.

*Một loại thần chú dài được tìm thấy trong các Kinh điển. ** Trong nghi thức của một lễ cúng dường lửa (xem Thuật ngữ), “bố thí Pháp” thường được bao gồm trong hình thức của bài kệ tóm tắt giáo lý của Đức Phật, “Hãy từ bỏ ác hạnh…,” được trích dẫn ở tiết 2.1.2 Bố thí Pháp trong Chương này.

Vì cả hai việc cúng dường lửa và torma nước đều dễ thực hiện và rất hiệu quả nên hãy cố gắng thực hành đều đặn và không gián đoạn. Thật là vô cùng tốt lành nếu mỗi năm chúng ta cúng dường một trăm ngàn torma nước.

hoangtri
04-29-2017, 04:49 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Khi người ta nhận được một ít thực phẩm hay một ít tiền, họ nắm chắc chúng trong tay bằng cái siết chặt của một người đang hấp hối, và chẳng thể dùng chúng cho đời này hay những đời sau. Cho dù họ có nhiều tới đâu chăng nữa thì họ vẫn nghĩ là họ không có gì, và rên rỉ như thể họ sắp chết đói. Cách cư xử như vậy có thể tức khắc tạo nên một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm của cõi Ngạ quỷ, qua kết quả tương đồng với nguyên nhân.#
# xem Phần Một, Chương Bốn, Mục I, tiết 2.2.2 Những kinh nghiệm tương tự với nguyên nhân.

Hãy tránh những thái độ như vậy và cố gắng rộng rãi quảng đại, qua những hoạt động như cúng dường Tam Bảo và bố thí cho các hành khất. Như Ngài Jetsun Mila đã nói:

Hãy moi thực phẩm ra từ miệng bạn và cho đi như của bố thí.

Mặt khác, nếu bạn để cho mình trở thành kẻ nô lệ cho tính tham lam ích kỷ, thì cho dù bạn có tất cả của cải trong thế gian nhưng dường như của cải đó vẫn không đủ cho một người. Ngoài ra, không dám buông bỏ những gì bạn có, bạn tự nhủ rằng bất kỳ những gì bạn sắp sử dụng để cúng dường hay bố thí cho người nghèo khó, sau này bạn sẽ phải tìm kiếm ra lại để bù đắp vào, hoặc tiền của ấy phải đến từ một nơi nào khác.

Nói chung, Đức Phật dạy pháp bố thí vật chất và pháp bố thí sở hữu vật chất chủ yếu là để cho giới Bồ Tát cư sĩ. Nếu bạn là một vị tăng hay ni, điều quan trọng là đơn thuần giảm thiểu lòng ham muốn, học cách bằng lòng với những gì bạn có, và thực hành tu tập ba nhánh của con đường cao cấp (three-fold training of the higher path), quyết tâm ẩn thất trên núi cao và ở những nơi cô tịch, vui vẻ chấp nhận mọi gian khổ.

Một số hành giả từ bỏ những tu tập tâm linh để lao mình vào việc buôn bán, nông nghiệp hay những phương tiện sinh nhai khác, và chất đống của cải qua thủ đoạn quỷ quyệt và gian xảo. Họ chống chế rằng họ đang thực hành Pháp qua việc cúng dường và đóng góp vào các chương trình từ thiện bằng của cải mà họ đã kiếm được. Nhưng người ta nói về những người ấy như sau:

Khi Pháp không được thực hành phù hợp với Pháp thì ngay chính Pháp có thể gây ra việc tái sinh vào đường dữ.

Cách tiếp cận Pháp hay đến với Pháp của họ hoàn toàn vô giá trị. Vì thế, điều tối ư quan trọng là luôn hài lòng với những gì mình có.

hoangtri
04-30-2017, 03:56 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Đại bố thí. Điều này có nghĩa cho người khác bất cứù thứ gì cực kỳ hiếm hoi hay quý báu đối với cá nhân bạn, chẳng hạn như ngựa hay voi, hay thậm chí con trai hay con gái của riêng bạn.

Đại bố thí phi thường. Điều này ám chỉ việc hiến tặng tứ chi, thân thể hay cuộc sống của chính bạn. Những tấm gương sáng là Hoàng Tử Đại Dũng Cảm (Tiền thân của đức Phật) hiến thân mạng cho một cọp cái đói khát. Tổ Long Thọ (Nagarjuna) cắt đầu cho con trai vua Surabhibhadra,* và Công Chúa Mandabhadri cũng hiến thân mạng cho một con cọp cái. Tuy nhiên, loại bố thí này chỉ được thực hành bởi những vị đã đạt được một trong những địa của Bồ Tát. Những người bình thường không thể làm nổi những việc như thế.148 Tạm thời, trong tâm thức bạn, hãy dâng hiến thân thể, cuộc sống và tài sản của bạn cho lợi ích của những người khác, trong lòng không chút mảy may tham luyến, và cầu nguyện rằng một ngày nào đó bạn sẽ có đủ khả năng để thực sự bố thí như vậy.
* Xem Phần Một, Chương Bốn, Mục III.

2.1.2 Bố thí Pháp (Pháp thí)

Điều này có nghĩa là dẫn dắt người khác đến với việc thực hành tâm linh bằng cách ban những quán đảnh, giảng Pháp, trao truyền Kinh văn và v.v.. Tuy nhiên, làm điều tốt cho người khác trong khi tánh tham dục ích kỷ của chính mình vẫn chưa biến mất thì sẽ chẳng khác nào một màn trình diễn.

Các đệ tử của Ngài Atisa hỏi Ngài khi nào thì họ có thể giảng dạy cho người khác, làm việc vì lợi ích của người khác hay thực hiện pháp chuyển di thần thức cho người vừa mới chết. Ngài trả lời như sau:

Ông có thể dẫn dắt người khác một khi ông đã chứng ngộ
tánh Không và phát triển khả năng thấu thị.
Ông có thể làm việc vì lợi ích của người khác một khi
chẳng còn gì để làm đối với lợi lạc của riêng ông.149
Ông có thể thực hiện pháp chuyển di cho người chết một
khi ông đã đi vào con đường của cái Thấy (Kiến Đạo).

Ngài cũng nói:

Thời buổi suy đồi này không phải là lúc để khoe khoang;
Đã tới lúc khơi dậy lòng cương quyết.
Không phải là lúc để nắm giữ những địa vị cao;
Đã tới lúc giữ một vị trí khiêm tốn.
Không phải là lúc để có người hầu và đệ tử;
Đã tới lúc sống trong cô tịch.
Không phải là lúc để chăm sóc đệ tử;
Đã tới lúc tự chăm sóc chính mình.
Không phải là lúc để phân tích những ngôn từ;
Đã tới lúc để quán chiếu yếu nghĩa.
Không phải là lúc để đi rong;
Đã tới lúc ở yên một chỗ.

hoangtri
04-30-2017, 04:00 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Ba Anh Em hỏi Geshe Tonpa rằng tu tập trong cô tịch hoặc giúp đỡ người khác bằng Giáo Pháp, cái nào quan trọng hơn. Geshe Tonpa trả lời:

Đối với một người sơ cơ không có kinh nghiệm tu tập lẫn kinh nghiệm chứng ngộ thì thật vô ích khi cố gắng giúp đỡ người khác bằng Giáo Pháp. Họ chẳng gia hộ được cho bất kỳ một ai, giống như không có gì để rót ra từ một chiếc bình rỗng. Những giáo huấn của họ vô vị và không có thực chất, giống như ủ bia mà không nén hạt.

Một số người ở giai đoạn phát nguyện, là những người đã có hơi ấm150 của công phu tu tập nhưng chưa được kiên cố vững chắc trong việc tu tập cho lắm, thì họ không thể làm việc vì lợi ích của chúng sinh. Lực gia trì của họ giống như thứ gì đó được rót từ bình này sang bình khác: họ chỉ có thể đổ đầy cho người khác bằng cách làm cạn kiệt chính mình. Những giáo huấn của họ giống như một ngọn đèn được chuyền từ tay này qua tay khác: nếu họ cho người khác ánh sáng thì họ sẽ ở trong bóng tối.

Nhưng người đã đạt được một trong những quả vị của Bồ Tát thì sẵn sàng làm việc vì lợi ích chúng sinh. Lực gia trì của các vị ấy giống như năng lực của một chiếc bảo bình như ý: họ có thể giúp tất cả chúng sinh mà không bao giờ trở nên khô cạn. Những giáo huấn của các vị ấy giống như một ngọn đèn đặt ở ngay trung tâm, từ đó mọi người có thể bắt lấy ánh sáng mà ngọn đèn không bao giờ bị lu mờ.

Do đó, thời đại suy đồi này không phải là lúc để những người bình thường giúp đỡ người khác một cách hời hợt bề ngoài, mà đúng hơn là lúc để họ sống ở những nơi cô tịch và tu luyện tâm thức trong lòng Từ và Bi của Bồ đề Tâm. Đây là lúc tránh xa những cảm xúc ô nhiễm tiêu cực. Khi một cây thuốc quý 151 vẫn còn là một cây non chưa tới lúc thu hoạch, thì đó là lúc phải bảo vệ nó.

Vì những lý do này, thật là khó khăn để thực sự bố thí Pháp cho người khác. Thuyết giảng một giáo lý cho người khác mà bản thân chưa từng có kinh nghiệm về giáo pháp đó thì sẽ chẳng giúp được gì cho họ. Đối với việc góp nhặt những phẩm vật cúng dường và tài sản bằng việc giảng Pháp, Ngài Padampa Sangye gọi đó là “sử dụng Pháp như món hàng để làm giàu.”

hoangtri
04-30-2017, 04:09 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Trừ phi bạn đã vượt qua niềm ước muốn bất kỳ điều gì cho chính bản thân mình, còn thì sẽ chẳng tốt lành gì hơn khi vội vã lao vào những hoạt động vị tha. Thay vào đó, hãy cầu nguyện rằng tâm thức của những Tinh linh có thiện căn có thể được giải thoát khi nghe bạn cầu nguyện, trì tụng thần chú hay tụng đọc Kinh điển. Hãy suy xét kỹ lưỡng điều đó để có thể tụng những bài nguyện bố thí Pháp được tìm thấy ở phần cuối của các bản văn nghi thức torma nước hay cúng dường thân, 152 chẳng hạn như:

Hãy từ bỏ điều xấu
Năng làm các hạnh lành.
Thường làm chủ tâm mình.
Đây là lời Phật dạy.

Khi những tham dục ích kỷ của bản thân bạn đã cạn kiệt, thì sẽ tới lúc để bạn hoàn toàn dâng hiến bản thân cho người khác, không chút bận tâm về sự an toàn và hạnh phúc của riêng mình và không lơi lỏng nỗ lực của bạn dù chỉ trong giây lát.

2.1.3 Bố thí sự che chở khỏi sợ hãi (Vô Uý thí)

Điều này có nghĩa là thực sự làm bất kỳ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người khác trong lúc khó khăn. Chẳng hạn, vô úy thí bao gồm việc cung cấp nơi trú ẩn cho những người không có bất kỳ nơi nào an toàn, ban tặng sự che chở cho những người không có bất kỳ sự che chở nào, và đến với những người không có ai làm bạn đồng hành. Vô uý thí đặc biệt đề cập tới những hành động như cấm săn bắn và đánh bắt cá bất kỳ nơi nào bạn có khả năng làm việc đó, hoặc mua lại những con cừu đang bị mang đi làm thịt, và cứu mạng những con cá, những con sâu, ruồi muỗi và những sinh vật sắp chết khác. Bởi Đức Phật đã dạy rằng trong tất cả những hành vi tương đối tốt, cứu mạng sống của chúng sinh là điều tốt đẹp nhất.

Việc đồng loạt thực hiện những loại bố thí khác nhau tạo thành một giới nguyện quan trọng nhất của các giới nguyện của Mật Thừa. Trong Những Giới nguyện của Ngũ Bộ Phật có nói:

Như mật nguyện của Bảo Sanh Bộ,
Hãy luôn thực hành bốn loại bố thí.

hoangtri
05-02-2017, 03:47 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.2 TRÌ GIỚI SIÊU VIỆT (Giới ba-la-mật)

Trì Giới siêu việt bao gồm việc tránh làm những hành vi bất thiện, quyết làm điều thiện, và đem lại lợi ích cho người khác.

2.2.1 Tránh những hành động bất thiện

Điều này có nghĩa là loại bỏ như loại bỏ thuốc độc tất cả muời ác nghiệp của thân, khẩu và ý là những gì không nhắm tới lợi ích cho người khác.153

2.2.2 Quyết làm việc thiện Điều này có nghĩa luôn tạo ra càng nhiều càng tốt những hạt nhân tốt lành cho tương lai bằng cách luôn làm bất kỳ thiện hạnh nào khi bạn có thể làm, bất luận chúng có vẻ tầm thường vô nghĩa tới đâu chăng nữa.

Như tục ngữ bình dân có nói: “Thiện hạnh chỉ xảy ra khi miệng và tay ta được giải phóng, còn ác hạnh xảy ra khi ta ngồi một chỗ hay đi lòng vòng.” Chỉ bằng cách luôn luôn kiểm soát tâm ta bằng chánh niệm, tỉnh giác, bằng sự chú tâm cao độ, và bằng nỗ lực làm điều thiện, tự chế không làm điều ác, là bạn có thể tránh không mắc phạm nhiều ác hạnh trầm trọng – ngay cả khi bạn đang thuần túy mua vui cho chính mình.

Làm những ác hạnh nhỏ bé nhất,
Vì tin rằng chúng không thể tác hại:
Nhưng ngay cả một tàn lửa nhỏ
Có thể đốt cháy một núi rơm.

Hãy luôn luôn đưa lời khuyên này vào thực hành, áp dụng chánh niệm và tỉnh giác liên tục, và cuối cùng bạn sẽ tích lũy được một khối lượng không thể tưởng tượng những thiện hạnh trong tiến trình sinh hoạt hàng ngày của bạn. Việc hoàn toàn tỏ lòng tôn kính khi đi ngang qua một đống đá mani bằng cách giở nón và nhiễu quanh đó theo chiều kim đồng hồ, và ứng dụng ba phương pháp tối cao, những điều này có thể đưa dẫn ta tới Toàn Giác chứ không còn gì phải nghi ngại. Có câu nói rằng:

Không làm những thiện hạnh nhỏ bé nhất,
Vì tin rằng chúng khó giúp ích được ai:
Nhưng từng giọt nước rơi
Sớm hay muộn cũng làm đầy một hồ lớn.

Có câu chuyện về một con heo bị con chó rượt chạy quanh một bảo tháp, và câu chuyện khác về bảy con sâu bướm rơi khỏi chiếc lá xuống một con suối và được dòng nước dẫn trôi quanh tháp: rốt cuộc những sự kiện như thế đủ để đưa những chúng sinh đó đi tới giải thoát.

Vì thế hãy luôn từ bỏ hành vi ác hại nhỏ bé nhất; hãy làm bất kỳ điều thiện nào bạn có thể làm và hồi hướng tất cả công đức cho lợi lạc của chúng sinh. Điều này bao gồm tất cả mọi giới luật của Bồ Tát nguyện.

2.2.3 Đem lại lợi lạc cho người khác

Như chúng ta đã thấy, khi bạn hoàn toàn thoát khỏi lòng ham muốn bất kỳ điều gì cho bản thân thì sẽ tới lúc để bạn trực tiếp làm việc vì lợi ích của người khác, sử dụng bốn cách nhiếp phục người khác (tứ nhiếp pháp). Nhưng là một kẻ sơ cơ, cách đem lại lợi ích cho người khác là hồi hướng mọi công phu thực hành của bạn trong khi thực hiện các thiện hạnh và tránh làm những ác hạnh cũng vì lợi lạc của tất cả chúng sinh. Tất cả những điều này được thực hiện bằng cách áp dụng ba phương pháp tối cao.

hoangtri
05-02-2017, 03:52 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.3 NHẪN NHỤC SIÊU VIỆT (Nhẫn ba-la-mật)

Nhẫn nhục bao gồm ba phương diện: nhẫn nhục khi gặp bất công, nhẫn nhục chịu đựng những gian khổ vì Giáo Pháp, và nhẫn nhục đối mặt với chân lý sâu xa với tâm vô úy.

2.3.1 Nhẫn nhục khi gặp bất công

Loại nhẫn nhục này nên áp dụng bất cứ khi nào bạn bị tấn công, mất trộm hay thất bại, bị sỉ nhục vào mặt hay nói xấu sau lưng. Thay vì khó chịu và phản ứng một cách giận dữ thì bạn nên đáp lại một cách tốt lành với lòng Từ và Bi. Nếu mất kiên nhẫn và chịu thua cơn giận dữ, thì dù chỉ một lóe nhỏ thịnh nộ nổi lên là có thể hủy hoại hết các quả lành của những thiện hạnh mà bạn đã tích lũy trên một ngàn kiếp, như đã được đề cập trong Nhập Bồ Tát Hạnh:

Thiện hạnh tích lũy trong một ngàn kiếp,
Chẳng hạn hạnh bố thí,
Hay cúng dường các bậc đã chứng đại lạc:
Chỉ một tia giận dữ loé lên là thiện hạnh bị thiêu huỷ. 154

Ngoài ra:

Không xấu ác nào như sân hận,
Không khổ hạnh nào sánh được nhẫn nhục.155
Vì thế, hãy tắm mình trong nhẫn nhục -
Bằng mọi cách với lòng nhiệt thành khẩn thiết.

Hãy nhớ tới những tật bệnh mà sân hận mang lại, hãy nỗ lực vun bồi nhẫn nhục trong mọi hoàn cảnh. Ngài Padampa Sangye nói:

Thù ghét kẻ địch là một mê lầm gây ra bởi nghiệp. Hãy chuyển hóa tư tưởng xấu xa của quý vị, hỡi dân chúng xứ Tingri!

Và Ngài Atisa nói:

Không nên tức giận những người làm hại bạn.
Nếu nổi giận với những người làm hại mình,
Thì khi nào bạn mới trau dồi được nhẫn nhục?

Bất cứ khi nào có ai làm hại bạn, lăng mạ hay buộc tội bạn một cách sai lầm, nếu bạn không bị mất bình tĩnh hay để tâm thù hằn người đó, thì kết quả là nhiều ác hạnh và chướng ngại trong quá khứ của bạn sẽ vơi cạn. Nhờ phát triển tánh nhẫn nhục trong những tình huống như thế, bạn có thể tích lũy được rất nhiều công đức. Vì thế hãy coi những người đã đối xử bất công với bạn như những vị thầy của mình. Có câu nói rằng:

Nếu không có người làm bạn nổi sân, thì bạn có thể trau dồi hạnh nhẫn nhục với ai?

Ngày nay, chúng ta thường nghe nói rằng một người nào đó là một Lạt Ma hay một vị Tăng sĩ chân chính nhưng lại có một tính khí kém tệ. Nhưng trong thế gian không có điều gì tệ hại hơn sân hận – vì thế làm sao có thể có người rất tốt đồng thời lại có một tính khí kém tệ? Ngài Padampa Sangye nói:

Bạn không biết rằng một hành động phát sinh từ sân hận dù trong khoảnh khắc thì còn tệ hại hơn một trăm hành vi phát sinh từ tham dục.

hoangtri
05-02-2017, 04:00 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Nếu thực sự thấm nhuần giáo lý một cách đúng đắn, thì mọi việc bạn làm, nói, và suy nghĩ phải mềm mại như bước chân trên vải len và dịu nhẹ như súp tsampa hoà với bơ. Nhưng rất có thể việc bạn có thể nhẫn nhục trở thành một điều nghịch, và việc thực hành đức hạnh nhỏ bé nhất mà bạn làm được, hoặc giới nguyện mà bạn giữ được, sẽ khiến bạn cảm thấy rất hài lòng với chính mình và bạn sẽ thổi phồng bạn lên với lòng kiêu hãnh. Hoặc mỗi khi có ai nói với bạn chỉ một lời nhưng bạn lại cực kỳ nhạy cảm với cách họ nói lên lời đó, và bạn lại giận sôi lên bất kỳ lúc nào bạn nghĩ mình đang bị nhục mạ hay chỉ trích. Tánh khí tự ái đó là một dấu hiệu cho thấy tâm bạn và Pháp đi theo hai con đường riêng rẽ và Giáo Pháp hoàn toàn không chuyển hoá được tâm bạn. Geshe Chengawa nói:

Khi chúng ta học tập, quán chiếu và thiền định, nếu bản
ngã của chúng ta phát triển ngày càng lớn hơn, sự nhẫn
nại của ta trở nên còn mỏng manh hơn cả da non của
một đứa trẻ, và chúng ta cảm thấy dễ cáu kỉnh thậm chí
còn hơn cả quỷ Tsang Tsen, thì đây chắc chắn là những
dấu hiệu cho thấy công phu học tập, thiền định và quán
chiếu của chúng ta đã đi sai hướng.

Hãy luôn luôn khiêm tốn, ăn mặc giản dị, và đối xử tôn kính với mọi người dù họ tốt, xấu hay tầm thường. Hãy điều phục tâm bạn bằng Giáo Pháp, lấy từ và bi của Bồ Đề Tâm làm nền tảng của mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là điểm tối trọng yếu của tất cả con đường tu tập, còn tốt lành gấp ngàn lần những cái thấy “tối thượng” hay những loại thiền định “sâu xa nhất” mà chẳng làm được điều gì tốt đẹp cho tâm thức.

hoangtri
05-02-2017, 04:05 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.3.2 Nhẫn nhục chịu đựng những gian khổ vì Đạo Pháp (Pháp Nhẫn)

Vì lợi ích của việc thực hành Đạo Pháp, bạn nên quên đi cái nóng, lạnh và mọi khó khăn khác. Trong các Mật điển có nói:

Ngay cả phải đi qua hỏa ngục hay biển dao kiếm sắc nhọn, Hãy tìm cầu Giáo Pháp cho tới khi bạn tắt hơi.

Phái Kadampa cổ có bốn mục tiêu như sau:

Hãy đặt tâm của bạn trên Pháp,
Hãy đặt Pháp của bạn trên một cuộc đời khiêm tốn,
Hãy đặt cuộc đời khiêm tốn của bạn trên sự suy nghiệm về cái chết,
Hãy đặt cái chết của bạn trên một lỗ hang trống không, trơ trụi.

Ngày nay, song song với những hoạt động thế gian, chúng ta nghĩ là mình có thể thực hành Giáo Pháp mà chẳng cần chút xíu quyết tâm hay kinh nghiệm gian khó nào, tiếp tục hưởng thụ tiện nghi, sự trọng vọng và hạnh phúc. “Những người khác có thể thực hiện được điều đó,” chúng ta kỳ kèo như vậy, và nói một cách thán phục rằng “Đó là một Lạt Ma xuất sắc, Ngài biết cách kết hợp Giáo Pháp và đời sống thế gian.”

Nhưng làm sao có thể có một cách thức kết hợp chặt chẽ Giáo Pháp với đời sống thế gian? Những người tuyên bố là mình đang làm điều đó có thể đang trải qua một cuộc sống thế gian tốt đẹp, nhưng bạn có thể tin chắc rằng hiện tại họ đang không thực hành Giáo Pháp thuần tịnh. Tuyên bố rằng bạn có thể vừa thực hành Giáo Pháp và vừa sống cuộc sống thế gian cùng một lúc thì cũng giống như nói bạn có thể may vá bằng một cây kim có hai mũi, đặt lửa và nước vào chung một bình chứa, hay cưỡi hai con ngựa ở hai hướng khác nhau. Tất cả những điều này hoàn toàn không thể thực hiện được.

Đã có một người bình thường nào vượt trội hơn đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa? Ngay cả chính Ngài cũng không tìm ra cách thức để thực hành Giáo Pháp và sống cuộc sống thế tục song hành với nhau. Thay vào đó, Ngài bỏ lại vương quốc sau lưng giống như nhổ bãi nước bọt, và đến sống ở bờ Sông Ni Liên Thiền (Nairanjana), ở đó Ngài tu tập khổ hạnh trong sáu năm, chỉ tự nuôi sống bằng một giọt nước và một hột lúa mạch mỗi năm.

Còn về Ngài Jetsun Milarepa? Trong lúc tu tập, Ngài không có thực phẩm lẫn y phục. Ngài chẳng có gì để ăn ngoài rau tầm ma, và toàn thân Ngài trở nên như bộ xương phủ một lớp lông xanh lợt. Ai nhìn thấy Ngài cũng đều không hiểu Ngài là người hay là quỷ. Việc Ngài thực hành tu tập Giáo Pháp tới mức độ đó, thật kiên cường, hoàn toàn vui lòng chấp nhận gian khổ, đã chứng minh một cách chắc chắn rằng không thể đồng thời theo đuổi Giáo Pháp lẫn đời sống thế gian cùng một lúc. Không lẽ nào Ngài Milarepa đã quá tuyệt vọng đến nỗi không biết cách kết hợp tu tập và thế tục hay sao?

hoangtri
05-02-2017, 04:10 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Đại thành tựu giả Melong Dorje đạt được thành tựu sau khi tu luyện trong chín năm, không có gì để ăn ngoài vỏ cây lakhe. Ngài Longchen Rabjam, Pháp Vương Toàn Trí của Giáo Pháp, chỉ sống bằng hai mươi mốt viên thủy ngân trong nhiều tháng.* Khi trời đổ tuyết, Ngài thường chui vào một bao vải thô nhám mà Ngài vừa dùng làm nệm vừa làm quần áo.

* Thuỷ ngân được dùng trong pháp tu bcud len (pháp trích chiết tinh chất). Độc chất của nó được làm trung hoà và người ta làm thành các viên thuốc. Các thiền giả sống bằng những viên thuốc này, không dùng tới thực phẩm thông thường.

Tất cả những bậc thành tựu giả trong quá khứ đạt được thành tựu chỉ bằng cách tu tập với quyết tâm, bằng lòng chấp nhận tất cả gian khổ, vứt bỏ mọi hoạt động thế gian. Không một ai trong các Ngài đạt được giác ngộ bằng cách thực hành Pháp song song với những hoạt động thông thường của đời sống hàng ngày, hưởng thụ tiện nghi, hạnh phúc và danh vọng. Ngài Rigdzin Jigmed Lingpa nói:

Khi bạn gầy dựng cho mình một chỗ ở tiện nghi, thực phẩm dồi dào, áo quần ấm cúng và có một đại thí chủ quảng đại, thì bạn đã hoàn toàn nuôi dưỡng quỷ ma thậm chí còn trước cả việc bắt đầu trau dồi Giáo Pháp.

Ngài Geshe Shawopa nói:

Để tu tập Pháp với lòng chân thành thì tham vọng trong đời sống của bạn phải cùng kiệt. Vào lúc cuối của một cuộc đời nghèo túng, bạn phải biết cách đối phó với cái chết của mình. Nếu bạn có thái độ này, bạn có thể đoan chắc rằng không có vị Trời, Ma Quỷ hay con người nào còn có thể gây ra những khó khăn cho bạn.

Ngài Jetsun Milarepa đã từng hát:

Không ai hỏi thăm nếu tôi bệnh;
Không ai than khóc khi tôi chết:
Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là tất cả những gì một yogi (hành giả du già) mong ước.

Không một dấu chân ngoài cửa thất,
Không dấu vết thịt thà bên trong:
Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là tất cả những gì một yogi mong ước.

Không ai tự hỏi tôi đã đi đâu,
Chẳng có nơi chốn riêng biệt nào để đi.
Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là tất cả những gì một yogi mong ước.

Thân xác tôi có thể thối rữa và bị côn trùng ăn thịt,
Xương cốt tôi bị ruồi nhặng rút rỉa;
Chết cô độc ở đây trong chốn ẩn tu này
Là tất cả những gì một yogi mong ước.

Do đó, điều tối quan trọng là xem thường mọi ham muốn của đời sống thế tục và tu tập bất chấp nóng, lạnh hoặc bất kỳ những khó khăn nào khác.

hoangtri
05-03-2017, 03:08 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.3.3 Nhẫn nại đối mặt chân lý sâu xa với tâm vô uý

Bạn nên cố gắng thọ nhận các giáo lý về trạng thái như nhiên của tánh Không sâu xa, hay đặc biệt hơn, giáo lý trọng yếu của Đại Viên Mãn Như Nhiên siêu việt mọi hoạt động và mọi nỗ lực, hay giáo lý Mười Hai Tiếng Cười Kim Cương siêu việt về nhân quả của các thiện hạnh và ác hạnh, hoặc giáo lý Tám Bài Kệ Vĩ Đại Tuyệt Vời... Hãy cố gắng lãnh hội chân nghĩa của những giáo lý này mà không phát sinh tà kiến.

Có tà kiến hay chỉ trích những giáo lý này là điều được gọi là “ác hạnh xoay lưng lại với Giáo Pháp.” Làm như vậy, ta có thể bị đọa xuống đáy sâu của Địa ngục trong vô lượng kiếp. Như một bản văn sám hối có ghi:

Con luôn sám hối vì đã phạm một hành vi thậm chí còn nguy hại hơn cả năm hành vi bị quả báo tức thời: đó là việc từ bỏ Giáo Pháp.

Một ngày nọ, hai vị Tăng Ấn Độ có mười hai phẩm tính của công phu tu tập chân chính tự đến trình diện trước Ngài Atisa. Khi Atisa giảng cho họ rằng bản ngã là không có sự hiện hữu nội tại [không có tự tánh], họ đều hài lòng.

Nhưng khi Ngài giảng rằng các hiện tượng cũng không có hiện hữu nội tại 156 [không có tự tánh] thì họ kêu lên: “Thật kinh khủng! Đừng nói những điều như thế!” và khi Ngài đọc Tâm Kinh, họ bịt chặt tai lại.

Ngài Atisa buồn bã nói với họ: “Trừ phi các ông tự tu tập bằng lòng Từ và Bi của Bồ đề Tâm và sau đó phát triển niềm xác tín về giáo lý sâu xa này, còn không thì chỉ với những giới nguyện thanh tịnh của các ông sẽ chẳng dẫn các ông tới đâu.”157

Vào thời của Đức Phật, có nhiều vị Tăng vô cùng kiêu mạn, khi nghe Ngài giảng về tánh Không sâu xa đã ói máu ra mà chết, và bị đọa vào các Địa ngục. Một số những chuyện khác đã kể lại những việc xảy ra tương tự.

Điều quan trọng là phải có một mối quan tâm chân thành và tôn kính nơi Giáo lý sâu xa và nơi những bậc Thầy giảng dạy những giáo lý này. Cho dù những giới hạn của tâm thức bạn khiến bạn dửng dưng, nhưng tối thiểu bạn cũng đừng bao giờ phê bình những giáo lý đó.

hoangtri
05-03-2017, 03:14 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.4 TINH TẤN SIÊU VIỆT (Tinh tấn ba-la-mật)

Có ba loại tinh tấn: tinh tấn như áo giáp, tinh tấn trong hành động và tinh tấn không thể ngưng nghỉ.158

2.4.1 Tinh tấn như áo giáp

Khi bạn nghe những câu chuyện về cuộc đời của những bậc Thầy vĩ đại, về chư Phật và Bồ Tát, về những công hạnh các Ngài đã làm và những nỗi gian nan mà các Ngài đã trải qua vì Giáo Pháp, bạn đừng để bị thối chí. Đừng bao giờ nghĩ rằng các Ngài có thể thành tựu được tất cả những gì các Ngài làm chỉ vì các Ngài là những vị Phật và Bồ Tát, và bạn sẽ chẳng bao giờ làm được như vậy. Thay vào đó, hãy nhớ rằng, chỉ bằng cách hành động theo phương thức này mà tất cả các Ngài đã thành tựu như thế. Vì bạn là đệ tử của các Ngài, cho dù bạn không thể làm điều gì tốt hơn những gì các Ngài đã làm, bạn cũng không có lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo dấu chân của các Ngài.

Nếu vô cùng gian khó và kiên trì lại là điều cần thiết với các Ngài như vậy, thì làm sao những điều như thế lại có thể không khẩn thiết với chúng ta, trong khi chúng ta không có được công phu tu tập liên tục từ vô thuỷ như các Ngài và hiện nay lại còn đang bị đè nặng bởi những ác nghiệp từ quá khứ?

Chúng ta có tất cả những điều kiện tự do và thuận lợi của kiếp hiện tại làm người. Chúng ta đã gặp được những vị Thầy tâm linh chân chính và đang thọ nhận những giáo huấn sâu xa. Giờ đây khi có được cơ hội này để thực hành chân pháp một cách đúng đắn, chúng ta phải hứa nguyện tự đáy lòng mình để thực hiện được như thế, và sẵn sàng chấp nhận những gian khổ, gánh vác những gánh nặng, và sẵn sàng hy sinh tính mạng mà không chút quan tâm đến máu thịt của chính mình. Điều đó được gọi là tinh tấn như áo giáp.*
* “Cốt tuỷ của tinh tấn là hoan hỷ trong khi làm các thiện hạnh.”NT

2.4.2 Tinh tấn trong hành động

Mỗi lúc có ý định học tập và thực hành Giáo Pháp, có thể bạn sẽ cứ trì hưỡn việc đó tới ngày mai hay ngày mốt, ngày này qua ngày khác suốt cả đời bạn. Bạn không thể lãng phí cả một đời người chỉ toàn với những dự tính thực hành. Ngài Druk Pema Karpo nói:

Kiếp người giống như ở trong chuồng thú của kẻ đồ tể:
Cái chết đến gần trong từng giây phút.
Nếu bạn cứ chậm rãi trì hưỡn hôm nay chờ qua ngày mai,
Thì coi chừng niềm ân hận và nước mắt sẽ đến với bạn bên tử sàng!

Không nên chờ đợi một lúc nào khác để thực hành. Hãy làm điều gì đó để tu tập ngay lập tức, giống như một người nhát gan nhìn thấy con rắn trong vạt áo mình, hay một vũ nữ có mái tóc bị bén lửa. Hãy hoàn toàn từ bỏ những hoạt động thế gian và tự hiến dâng cho việc thực hành Pháp ngay bây giờ. Nếu không, bạn sẽ không bao giờ tìm ra thời gian – hoạt động thế tục này sẽ tiếp theo sau bằng một hoạt động thế tục khác, sẽ bất tận, giống như những gợn sóng trên mặt nước. Chúng sẽ chỉ dừng lại khi bạn quyết định dứt khoát dập tắt chúng. Như Đấng Toàn Giác Longchenpa nói:

Những mối bận tâm thế gian không bao giờ chấm dứt cho tới khi ta chết. Nhưng chúng chấm dứt khi ta buông bỏ chúng – bản chất của chúng là như vậy.

Và:

Những hoạt động của chúng ta giống như trò chơi con nít. Chúng tiếp diễn chừng nào ta còn tiếp tục, chúng chấm dứt ngay khi ta ngừng chơi.

Một khi bạn cảm thấy muốn thực hành Giáo Pháp, đừng để sự lười biếng và trì hưỡn làm chủ bạn dù chỉ trong khoảnh khắc. Hãy thực hành tu tập ngay lập tức, luôn thôi thúc với những quán chiếu suy niệm về lẽ vô thường. Điều đó gọi là tinh tấn trong hành động.

hoangtri
05-03-2017, 03:23 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.4.3 Tinh tấn không ngưng nghỉ

Không nên cảm thấy thỏa mãn khi chỉ mới thực hiện một khóa nhập thất nhỏ bé, hay thực hành được một vài pháp tu hay đạt được một vài thành tựu, tụng đọc được một ít bài cầu nguyện hay làm được một, hai việc tốt. Ngày nào mà bạn còn sống, hãy hứa nguyện thực hành pháp, và quyết định duy trì những nỗ lực của bạn với tất cả sức mạnh bền bỉ của một dòng sông lớn cho tới khi bạn đạt được Phật Quả viên mãn.

Những bậc siêu phàm trong quá khứ đã nói rằng ta phải thực hành giống như trâu yak đói đang ăn cỏ. Khi một con trâu yak giựt mạnh một bụi cỏ thì mắt nó đã bị gắn dính vào bụi kế tiếp. Cũng thế, trước khi bạn chấm dứt tu tập một Pháp nào, hãy tự nhủ rằng ngay sau khi bạn kết thúc tu tập pháp môn ấy, bạn sẽ bắt đầu một pháp môn mới.

Mỗi ngày hãy cố gắng miên mật tu tập càng lúc càng mãnh liệt; trong mọi lúc, không bao giờ để thân, khẩu và ý bạn rơi vào sự lười nhác hay xa lìa Pháp dù chỉ trong chốc lát. Ngài Rigdzin Jigme Lingpa nói:

Khi càng tới gần cái chết mà càng thực hành Pháp một cách kiên định thì đó là dấu hiệu của một hành giả không bị nhiễm sương giá.*

* Sương giá, là thứ phá hoại vụ thu hoạch cây trái của ta, tượng trưng cho những chướng ngại ngăn cản chúng ta không đạt được mục đích.

Ngày nay, có những người nổi tiếng là đại thiền giả hay Lạt Ma xuất sắc, thường được nghe người ta nói: “Giờ đây Ngài không còn cần lễ lạy, tụng đọc những bài cầu nguyện, tích tập công đức và trí tuệ, hay cần tịnh hoá những chướng ngại và những thứ tương tự.”

Chẳng bao lâu, bản thân họ bắt đầu tin vào điều đó, và tự coi mình là người rất quan trọng, không còn cần tới việc tu tập này nữa. Nhưng, như Ngài Dagpo Rinpoche vô song nói:

Nghĩ rằng mình không cần những điều như vậy chứng tỏ rằng họ lại cần chúng hơn bao giờ hết.

hoangtri
05-03-2017, 03:26 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Mỗi ngày, Đại Sư Ấn Độ Dipamkara** đều bắt tay vào việc nhào nặn các tsa-tsa. Chẳng mấy chốc tay Ngài dính đầy đất sét.

** Một danh hiệu khác của Ngài Atisa.

Những đệ tử của Ngài nói: “Người ta đang bàn tán vì một bậc thầy vĩ đại như Ngài mà tay lại dính bùn. Hơn nữa, bản thân Ngài đang mệt mỏi. Sao không để cho chúng con làm việc đó cho Ngài?”

Ngài Dipamkara nói: “Các ông nói gì? Các ông cũng sắp bắt đầu ăn dùm tôi phải không?”

Cho tới khi bạn đạt được Phật Quả viên mãn, bạn vẫn còn có những khuynh hướng và hành vi huân tập trong quá khứ cần loại bỏ, và vẫn còn cần đạt được càng lúc càng nhiều hơn những phẩm tính tâm linh. Vì thế không nên rơi vào biếng nhác và tu tập một cách lơ là. Hãy tinh tấn thực hành Giáo Pháp từ đáy lòng bạn, đừng bao giờ có cảm tưởng là mình đã thực hành đầy đủ rồi.

Nói chung, việc bạn có đạt được Phật quả hay không chỉ tùy thuộc vào hạnh tinh tấn của bạn. Vì thế, hãy sử dụng mọi nỗ lực để hành trì ba loại tinh tấn. Một người với trí thông minh ngoại hạng nhưng chỉ có một chút tinh tấn sẽ chỉ là một hành giả hạng thấp. Nhưng một người ít thông minh mà lại tinh tấn phi thường thì sẽ trở thành một hành giả Thượng thừa. Không có chút tinh tấn nào thì mọi phẩm hạnh sẽ trở thành vô dụng. Đấng Toàn Giác Jigme Lingpa nói:

Không có sự thông minh hay năng lực,
Chẳng có của cải hay sức mạnh nào có thể giúp được
một người không chút tinh tấn –
Anh ta giống như một người chèo thuyền mà thuyền của anh
có đủ mọi thứ, trừ mái chèo.

Hãy luôn luôn điều độ trong việc ăn uống. Hãy ngủ nghỉ quân bình. Hãy miên mật, bền bỉ và liên tục. Hãy dụng tâm bạn như một dây cung tốt, không chùng quá mà cũng không căng quá. Nó sẽ giúp bạn thực hành tu tập thường xuyên.

hoangtri
05-04-2017, 09:47 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.5 THIỀN ĐỊNH SIÊU VIỆT (Định ba-la-mật)

Không thể phát triển thiền định nếu trước tiên không từ bỏ những kích động, từ bỏ những mối bận tâm làm ta sao lãng, và không sống ở nơi cô tịch. Vì thế vào lúc ban đầu, điều quan trọng là phải từ bỏ những xao lãng.

2.5.1 Từ bỏ những phóng dật

Bất cứ những gì tụ rồi cũng sẽ tán. Cha mẹ, anh em, vợ chồng, bạn bè và những mối liên hệ khác, thậm chí cả thịt, xương của thân thể mà ta đã nhận lúc sinh ra – tất cả sẽ đều đi tới chỗ ly tán. Hãy thấu suốt sự vô ích của việc bám luyến vào những người thân yêu và bằng hữu phù du, và hãy luôn luôn an trú trong cô tịch. Ngài Repa Shiwa O nói:

Phật Quả chỉ hiện diện trong chúng ta chứ không ở đâu khác. Mặc dù bằng hữu tâm linh hỗ trợ cho việc tu tập của chúng ta, Nhưng nếu có hơn ba hay bốn người họp lại thì họ sẽ đem tới tham luyến và sân hận. Vì vậy tôi sẽ chỉ ở một mình.

Mong muốn cái này cái nọ là điều gây ra mọi phiền não cho chúng ta. Chúng ta không bao giờ hài lòng với những gì mình có, và càng giàu có thì chúng ta lại càng tham lam hơn. Như tục ngữ có nói: “Đang giàu có nghĩa là đang nghèo túng” Hoặc: “Giống như những người giàu, càng có nhiều thì càng cần nhiều” và “Đánh mất kẻ thù, là đánh mất chính tài sản của bạn” Bạn càng sở hữu nhiều nguồn lợi, tiền bạc và tài sản, thì bạn càng phải đối mặt với những nguy hiểm do kẻ thù, kẻ trộm và v.v.. gây ra. Bạn có thể tiêu phí cả cuộc đời bạn để thâu hoạch, bảo vệ và gia tăng tài sản của mình. Điều này chỉ dẫn tới đau khổ và những ác hạnh. Ngài Long Thọ (Nagarjuna) siêu phàm đã nói:

Tích lũy, bảo vệ và phát triển của cải sẽ khiến bạn kiệt sức;
Hãy hiểu rằng giàu có chỉ đem lại hư hoại và sự hủy diệt không cùng.

Cho dù một người sở hữu tất cả những của cải và tài sản trong thế gian, thì điều đó cũng chẳng làm thay đổi được sự thực là họ chỉ cần thực phẩm và y phục đủ dùng cho một người. Không chú ý tới những hành vi sai trái hay đau khổ, không biết tới mọi lời phẩm bình, họ bỏ phí cuộc đời hiện tại và ném bỏ những đời tương lai cho gió cuốn đi; đối với của cải vật chất tầm thường nhất, họ coi thường bất kỳ cảm giác xấu hổ, coi thường sự thẳng thắn trung thực, bỏ qua tất cả mọi tư tưởng khôn ngoan, thận trọng, bỏ qua mọi tôn kính Giáo Pháp hay mật nguyện của họ. Sử dụng tất cả thời gian có được, họ chạy theo thực phẩm, lợi nhuận và địa vị xã hội, giống như những Tinh linh lang thang săn tìm các bánh cúng (torma); họ lãng phí toàn bộ cuộc đời họ mà chưa từng kinh nghiệm ngay cả một ngày giải thoát, an lành hay hạnh phúc. Cuối cùng, khi đã chất đống tất cả tài sản đó, họ có thể phải trả một giá rất đắt cho nó bằng cả cuộc đời họ và bị đâm hay bị bắn chết chỉ vì tiền bạc của họ. Rồi thì những gì họ đã một đời tích lũy lại bị kẻ thù và người khác tiêu xài. Tất cả là một sự lãng phí. Nhưng hàng đống những ác hạnh cao như Núi Tu Di mà họ tích luỹ để làm giàu thì vẫn còn dành riêng cho họ, và sẽ khiến cho họ phải lang thang trong đáy sâu của những cõi thấp, không bao giờ được tự do. Vì thế trong khi bạn vẫn còn cơ hội, hãy sử dụng một ít sở hữu mà bạn có thể có trong đời này để cung cấp cho những đời tương lai. Hãy bằng lòng với một lượng thực phẩm đạm bạc và quần áo đủ để tránh gió.

hoangtri
05-04-2017, 09:52 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Những người mà tham vọng của họ bị giới hạn vào cuộc đời hiện tại, trong kinh văn gọi là “những người bạn ấu trĩ”. Họ không hề biết ơn đối với bất kỳ sự giúp đỡ nào mà bạn có thể dàn trải ra cho họ, và ngược lại còn có thể làm hại bạn. Bất kỳ những gì bạn làm cho họ đều không bao giờ đúng. Họ rất khó hài lòng. Nếu bạn có nhiều hơn họ, họ ganh tị; nếu bạn có ít hơn, họ khinh khi. Càng gần họ lâu thì những ác hạnh của bạn càng gia tăng và thiện hạnh suy yếu dần. Hãy từ bỏ những người bạn như vậy và hãy tránh họ thật xa.

Những nghề nghiệp như thương mại, nông nghiệp, kỹ nghệ và nghiên cứu thu hút bạn vào nhiều hoạt động, và cung cấp những nguồn xao lãng vô tận. Những theo đuổi tầm thường này làm bạn bận rộn thường xuyên vì những mục tiêu vụn vặt. Dù bạn có nỗ lực tới đâu chăng nữa, chẳng cái nào trong số đó có chút ý nghĩa nào. Trong tiến trình chiến thắng đối thủ và biệt đãi bạn bè, sẽ không bao giờ có được chấm dứt.

Hãy từ bỏ tất cả những hoạt động và những xao lãng vô cùng tận này, giống như nhổ nước bọt vào bãi rác. Hãy rời bỏ quê nhà của bạn và hướng về những vùng đất xa lạ. Hãy sống ở chân những vách đá với bạn đồng hành duy nhất là những thú hoang. Hãy an định thân và tâm bạn trong một trạng thái thư thản.159 Hãy chấm dứt tất cả mọi quan tâm tới thực phẩm, quần áo hay bất kỳ những gì người ta nói đến. Hãy trải cuộc đời của bạn ở chốn hoang vắng nơi không có một bóng người. Ngài Jetsun Milarepa nói:

Trong động đá ở nơi hoang dã
Nỗi buồn của con không sao khuây khoả.
Hỡi bậc Thầy của con, vị Phật trong ba thời,
Con mong tưởng Ngài không phút nào ngơi nghỉ.

Nếu bạn làm như Ngài đã làm, bạn sẽ nhận ra rằng, như tục ngữ nói: “Ở những nơi bạn cảm thấy cô độc, thiền định sẽ phát sinh.” Ở những nơi đó, ảo tưởng về luân hồi sẽ tan vỡ, quyết tâm tự giải thoát khỏi luân hồi, lòng tín tâm, tri giác thuần tịnh, thiền định và thể nhập, tất cả những phẩm tánh tốt đẹp của con đường đạo sẽ xuất hiện một cách tự nhiên. Hãy làm bất cứ những gì bạn có thể làm để sống một cuộc đời như vậy.

Trong những khu rừng hẻo lánh, là những nơi mà chư Phật và Bồ Tát trong quá khứ đã tìm thấy sự an bình, không điều gì làm bạn bận rộn, không có những xao lãng, không có việc mua bán, không có những cánh đồng để làm việc, không có đám bạn bè ấu trĩ. Chim muông và hươu nai hoang dã dễ dàng kết bạn, nước suối và lá cây cung cấp thực phẩm khổ hạnh ngon lành. Giác tánh sẽ trở nên sáng tỏ một cách tự nhiên và thiền định tự động phát triển. Không kẻ thù, không bạn hữu, bạn có thể giải thoát khỏi những sợi dây xích của tham luyến và sân hận. Những nơi như vậy có đủ mọi thuận lợi. Trong Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh và những Kinh khác, Đức Phật nói rằng chỉ đơn thuần có ước muốn tới những chốn hoang vắng và đi bảy bước hướng về những nơi đó thì đáng giá hơn cả việc cúng dường tất cả mười phương chư Phật trong nhiều kiếp nhiều như cát sông Hằng. Và còn giá trị hơn nữa nếu bạn thực sự sống ở những nơi như vậy. Cũng có câu nói rằng:

Ở nơi hoàn toàn hẻo lánh, ẩn sâu trong những rặng núi,
Mọi việc người ta làm đều tốt lành.

Thậm chí không cần chút nỗ lực tinh tấn nào để thực hành, ở những nơi như vậy, ảo tưởng về sinh tử luân hồi sẽ tan vỡ, quyết tâm giải thoát khỏi luân hồi, lòng từ, bi và tất cả những phẩm tánh tuyệt hảo khác của đường tu sẽ phát sinh một cách tự nhiên. Kết quả là toàn bộ cách sống của bạn trở nên lành mạnh. Lòng tham luyến, sân hận và tất cả những cảm xúc tiêu cực ở những nơi chốn sinh hoạt rộn ràng mà bạn đã cố gắng kiểm soát nhưng không có kết quả thì nay tự chúng sẽ suy giảm đi, chỉ vì giờ đây bạn đang sống trong cô tịch. Bạn sẽ dễ dàng phát triển tất cả những đức tánh của đường tu.

Những vấn đề này là những chuẩn bị sơ khởi cho thiền định, và là sự quan trọng sống còn, không thể bỏ qua.

hoangtri
05-06-2017, 11:23 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.5.2 Thiền định thực sự

Thiền định có ba loại: thiền định do những người bình thường thực hành, thiền định có nhận thức phân biệt rõ ràng (clearly discerning concentration), và thiền định siêu việt của các Đấng Như Lai.

Thiền định do những người bình thường thực hành. Khi bạn chấp vào những kinh nghiệm hỷ lạc, trong sáng và vô niệm trong thiền định và cố tình tìm kiếm chúng, hoặc công phu thực hành của bạn bị bóp méo bởi lòng ham thích bất kỳ một kinh nghiệm nào, thì điều đó được gọi là thiền định được thực hành bởi những người bình thường.160

Thiền định có nhận thức phân biệt rõ ràng. Khi bạn thoát khỏi bất kỳ dính mắc nào về kinh nghiệm thiền định và không còn bị quyến rũ bởi thiền định nữa, nhưng vẫn bám lấy tánh Không như cách đối trị, điều đó được gọi là thiền định có nhận thức phân biệt rõ ràng.

Thiền định siêu việt của các Đấng Như Lai. Khi bạn không còn bất cứ khái niệm nào về tánh Không như một cách đối trị nữa, mà an trụ trong một trạng thái thiền định phi khái niệm về chân tánh như thị, điều đó được gọi là thiền định siêu việt của các Đấng Như Lai.

Bất cứ khi nào bạn thực hành thiền định, điều quan trọng là ngồi trong “tư thế bảy điểm của Tỳ Lô Giá Na (Vairocana)” 161 với đôi mắt ngó ra xa trong một cách thức thích hợp. Có câu nói rằng:

Khi thân thẳng, các kinh mạch đều thẳng;
Khi kinh mạch thẳng, các năng lực đều thẳng;
Khi các năng lực thẳng thì tâm thức thẳng.162

Không nên nằm hay dựa vào bất cứ cái gì, mà hãy ngồi thẳng, tâm trí thoát khỏi bất kỳ niệm tưởng nào, và nghỉ ngơi thư thản trong trạng thái không bám chấp vào bất kỳ điều gì. Đó là cốt tủy của thiền định siêu việt.

hoangtri
05-06-2017, 11:28 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


2.6 TRÍ TUỆ SIÊU VIỆT (Tuệ ba-la-mật)

Trí tuệ siêu việt có ba phương diện: trí tuệ hình thành nhờ lắng nghe, trí tuệ hình thành nhờ quán chiếu, và trí tuệ hình thành nhờ thiền định.

2.6.1 Trí tuệ nhờ lắng nghe Điều này có nghĩa là lắng nghe tất cả những ngôn từ và ý nghĩa của Pháp do một vị Thầy tâm linh nói ra, và hiểu được ý nghĩa của những ngôn từ đó khi chúng được nói ra.

2.6.2 Trí tuệ nhờ quán chiếu

Điều này có nghĩa là không chỉ lắng nghe những gì vị Thầy giảng dạy và hiểu được những lời dạy mà rồi sau đó phải xem xét lại trong tâm bạn và củng cố ý nghĩa của những lời dạy này qua công phu quán chiếu, khảo sát và phân tích, cũng như đặt câu hỏi về những điều bạn không thấu suốt. Nếu bạn tin rằng bạn hiểu biết hay thấu suốt một vài vấn đề đặc biệt nào đó thì điều này hoàn toàn không đủ. Bạn phải tuyệt đối đoan chắc rằng khi tới lúc để bạn tu tập ở nơi cô tịch, bạn sẽ có thể tự lo liệu cho mình mà không cần tham khảo bất kỳ người nào để hiểu rõ về một số vấn đề trong tu tập.

2.6.3 Trí tuệ nhờ thiền định

Nhờ thiền định, khi bạn trực nhận được kinh nghiệm của những gì trước đây bạn hiểu được bằng trí thông minh thì trạng thái chứng ngộ tâm thức bản nhiên sẽ phát triển một cách tự nhiên không chút sai lạc. Lòng xác quyết sẽ nảy sinh ra từ sâu thẳm bên trong bạn. Giải thoát khỏi những nghi ngờ và lưỡng lự đầy giới hạn, bạn thấy được chân tánh của trạng thái bản nhiên.

Trước tiên, khi đã diệt trừ mọi nghi ngờ qua lắng nghe và quán chiếu, bạn sẽ có những kinh nghiệm trực nhận qua thiền định, và thấy tất cả vạn pháp và tất cả mọi hình tướng chỉ là rỗng không huyễn ảo, chẳng có bất kỳ thực chất nào. Chẳng hạn như trong tám tỉ dụ về ảo giác:

Như trong một giấc mơ, tất cả những đối tượng bên ngoài đến từ cảm nhận của năm giác quan đều không hiện hữu; chúng xuất hiện từ sự mê lầm.

Như trong một màn biểu diễn ảo thuật, mọi thứ được « làm cho xảy ra » (giả hợp) nhưng tựu chung những màn ảo thuật này chỉ xuất hiện do sự kết hợp tạm thời của hoàn cảnh và các nhân duyên tương khởi.

Như trong một cái nhìn sai lạc, sự vật xuất hiện ở đó, nhưng lại không có gì.
Như trong một ảo ảnh, sự vật xuất hiện nhưng không có thực.
Như trong một tiếng vang, sự vật có thể được nhận biết nhưng không có gì ở đó, dù bên ngoài hay trong.
Như trong một thành phố của các Gandharvas (thần hương ấm sống nhờ mùi hương), chẳng có nhà cũng không có người ở.
Như trong một phản chiếu, một vật xuất hiện, nhưng tự nó không thực có.
Như trong một thành phố được tạo bởi ma thuật, có đủ mọi thứ hình tướng nhưng chúng thực sự không có ở đó.

hoangtri
05-06-2017, 11:35 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Nếu bạn nhìn tất cả mọi đối tượng nhận thức của bạn theo cách này, bạn sẽ hiểu được rằng tất cả những gì xuất hiện đều là hư ảo vì bản tánh đích thực của chúng (là tánh Không). Khi bạn nhìn vào chân tánh của cái « chủ thể » đã nhận ra đựơc những đối tượng này – tức là nhìn vào chính tâm của bạn – thì những đối tượng xuất hiện trong tâm của bạn sẽ không ngừng xuất hiện, nhưng những « khái niệm» cho rằng những đối tượng này thực sự hiện hữu, những khái niệm đó sẽ lắng xuống. Hãy để tâm an trụ trong cái nhận biết về chân tánh, rỗng rang nhưng sáng tỏ như bầu trời, đó chính là trí tuệ siêu việt.

Để giải thích thật chi tiết sáu pháp toàn thiện siêu việt (sáu Ba la mật), mỗi một pháp toàn thiện được chia làm ba, tổng cộng là mười tám phần. Tự phạm trù bố thí vật chất có ba phần, cả thảy là hai mươi phần. Nếu chúng ta thêm vào phương tiện siêu việt, thành hai mươi mốt phần; năng lực siêu việt, thành hai mươi hai; ước nguyện siêu việt, thành hai mươi ba và trí tuệ nguyên sơ siêu việt, thành hai mươi bốn.163

Đi sâu vào từng chi tiết, mỗi một pháp toàn thiện siêu việt (Ba la mật) được chia làm sáu, làm thành ba mươi sáu phần. Chúng ta có thể thấy được điều này xảy ra như thế nào bằng cách khảo sát về phần bố thí Pháp (Pháp thí) thuộc bố thí ba la mật.

Khi vị Thầy giảng dạy, Giáo Pháp được giảng dạy và những đệ tử được truyền dạy giáo lý này tập hợp lại cùng một lúc, thì việc giảng dạy giáo lý là bố thí siêu việt. Việc vị Thầy giảng dạy không tìm kiếm lợi lộc hoặc thanh danh trong việc giảng Pháp, và không làm ô nhiễm điều Ngài đang dạy bằng cách tự thổi phồng mình lên (do bực bội với địa vị của những người khác), hay bằng bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào khác, thì đây chính là trì giới siêu việt. Việc vị Thầy lập đi lập lại ý nghĩa của một lời giảng và không quan tâm tới những khó khăn và mệt nhọc chính là nhẫn nhục siêu việt. Việc vị Thầy giảng dạy đúng giờ đã định, không lười biếng giải đãi hay trì hưỡn chính là tinh tấn siêu việt. Việc vị Thầy thuyết giảng chủ đề đang giảng mà không cho phép tâm xao lãng xa rời ngôn từ và ý nghĩa của chủ đề, không tạo ra bất kỳ sai sót nào và không thêm thắt hay bỏ sót bất kỳ điều gì, đó là thiền định siêu việt. Trong khi giảng dạy, vị Thầy an trụ, thấm đẫm trí tuệ, thoát khỏi tất cả mọi khái niệm về chủ thể, đối tượng, và hành động, đây chính là trí tuệ siêu việt. Vì thế tất cả các Ba la mật hay các pháp toàn thiện siêu việt đều hiện diện đầy đủ.

Bây giờ hãy nhìn vào việc bố thí vật chất – ví dụ bố thí thực phẩm hay thức uống cho một hành khất. Khi vật cho, người cho và người nhận tất cả cùng hội hợp lại và hành động bố thí xảy ra, đó chính là bố thí. Việc đem cho thức ăn hay đồ uống của chính bạn, chứ không cho thực phẩm dở hay hư thối chính là trì giới. Việc không bao giờ nổi giận ngay cả khi bị hỏi xin liên tục, đó là nhẫn nhục. Việc sẵn sàng bố thí, không bao giờ nghĩ tưởng tới sự mệt nhọc hay khó khăn ra sao, là tinh tấn. Việc không để bản thân bạn bị xao lãng bởi những niệm tưởng khác, đó là thiền định. Việc biết được ba yếu tố chủ thể, đối tượng và hành động không có thực tánh là trí tuệ. Một lần nữa ở đây cũng bao gồm sáu hoàn thiện siêu việt. Những phân chia tương tự cũng được định rõ cho giới luật, nhẫn nhục, và v.v..

hoangtri
05-06-2017, 11:40 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Khi tóm tắt tinh tuý của những pháp toàn thiện siêu việt, Ngài Jetsun Milarepa nói:

Hoàn toàn từ bỏ niềm tin chấp «có»
Không có bố thí nào hơn được điều này.
Hoàn toàn từ bỏ mọi thủ đoạn và xảo trá,
Không giới luật nào hơn được điều này.
Hoàn toàn vượt lên mọi sợ hãi về chân nghĩa,
Không có nhẫn nhục nào hơn được điều này.
Hoàn toàn an trú không tách biệt với thực hành,
Không có tinh tấn nào hơn được điều này.
Hoàn toàn an trụ trong dòng chảy tự nhiên,
Không thiền định nào hơn được điều này.
Hoàn toàn chứng ngộ trạng thái bản nhiên,
Không trí tuệ nào hơn được điều này.
Hoàn toàn thực hành Giáo Pháp trong mọi việc làm,
Không phương tiện nào hơn được điều này.
Hoàn toàn chiến thắng bốn quỷ ma,
Không có sức mạnh nào hơn được điều này.
Hoàn toàn thành tựu mục đích (vun bồi hai bồ phước huệ),
Không có nguyện ước nào cao xa hơn điều này.
Nhận biết nguồn gốc thật sự của những cảm xúc ô nhiễm,
Không có trí tuệ nguyên sơ nào hơn được điều này.

Có lần khi Khu, Ngok, và Drom* hỏi Ngài Atisa điều nào là tốt nhất trong tất cả các yếu tố của đường tu, Ngài trả lời:
* Ba đệ tử chính của Ngài Atisa (xem Thuật ngữ).

Học giả lỗi lạc nhất là người trực hiểu rằng chẳng có gì thực sự hiện hữu.
Tu sĩ xuất sắc nhất là người đã điều phục được tâm mình.
Phẩm tánh tốt nhất là lòng khát khao vĩ đại làm lợi lạc cho người khác.
Giáo huấn tuyệt diệu nhất là luôn quán sát tâm.
Phương thuốc hay nhất là hiểu rằng không sự vật nào có tự tánh.
Cách sống lý tưởng nhất là cách sống không hợp với phương cách thế gian.
Thành tựu tốt đẹp nhất là những cảm xúc tiêu cực từ từ giảm thiểu.
Dấu hiệu tốt lành nhất của công phu tu tập là những ham muốn từ từ giảm thiểu.
Bố thí tốt nhất là không vướng mắc.
Trì giới tốt nhất là làm an bình tâm thức.
Nhẫn nhục tốt nhất là giữ một vị trí khiêm tốn.
Tinh tấn tốt nhất là từ bỏ mọi hoạt động.
Thiền định hoàn hảo nhất là tâm không biến đổi.164
Trí tuệ tuyệt vời nhất là hoàn toàn không coi bất kỳ điều gì thực sự hiện hữu.

hoangtri
05-06-2017, 11:44 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Và Ngài Rigdzin Jigme Lingpa nói:

Bố thí siêu việt được tìm thấy ở sự hài lòng,
Tinh túy của bố thí là hoàn toàn buông bỏ.
Giới luật là không làm phật lòng Tam Bảo.165
Nhẫn nhục tốt nhất là chánh niệm và tỉnh giác không bao giờ vơi cạn.
Tinh tấn rất cần thiết để duy trì tất cả các pháp toàn thiện siêu việt khác.
Thiền định là để kinh nghiệm rằng tất cả mọi hình tướng mà ta bám chấp vào đều chính là các vị Bổn Tôn.166
Trí tuệ là tự giải thoát khỏi đắm nhiễm và bám chấp.
Trong đó không có việc suy nghĩ và người nghĩ tưởng.
Đây không phải là tầm thường.
Đây là thoát khỏi những xác tín chết cứng.167
Đây là siêu vượt đau khổ.
Đây là an bình tối thượng.
Không nên tiết lộ điều này cho mọi người –
Hãy thành kín giữ gìn trong tâm của chính bạn.

Để đúc kết toàn bộ con đường bao la của giáo lý Bồ Tát, bao gồm sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật), thì toàn bộ con đường này có thể được trình bày một cách cô đọng là “tánh Không mà cốt tuỷ đích thực chính là lòng từ bi.” Ngài Saraha có nói trong các Doha (Đạo ca) của Ngài:

Không có lòng từ bi, thì cái thấy của tánh Không
Sẽ không bao giờ dẫn bạn tới được con đường siêu phàm.
Nhưng chỉ thiền định duy nhất về lòng từ bi, bạn sẽ vẫn kẹt trong luân hồi sinh tử.
Vậy thì làm sao có thể giải thoát được?
Người có đủ cả hai điều này (lòng từ bi và tánh Không)
Sẽ không ở trong sinh tử mà cũng chẳng trụ ở Niết bàn.

Không trụ trong luân hồi lẫn Niết bàn là “Niết Bàn vô-trụ” của Phật Quả viên mãn. Như Đức Long Thọ đã nói:

Tinh tuý đích thật của tánh Không là lòng từ bi
Chỉ dành cho những người cầu tìm giác ngộ.

hoangtri
05-06-2017, 11:49 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Có lần, Drom Tonpa hỏi Ngài Atisa trong tất cả các giáo lý, cái nào là tuyệt hảo nhất.

“Trong tất cả các giáo lý, giáo lý tuyệt hảo nhất là tánh Không mà lòng từ bi lại chính là cốt tuỷ của tánh Không ấy” vị Thầy trả lời. “Nó giống như một loại thuốc cực mạnh, một loại thuốc trị bá bệnh, một loại thuốc có thể chữa lành mọi bệnh tật trên thế gian. Và cũng giống như loại thuốc chữa bá bệnh đó, việc nhận ra chân lý của tánh Không, bản tánh của thực tại, là phương thuốc cho tất cả những cảm xúc ô nhiễm tiêu cực khác nhau.”

Drom Tonpa tiếp tục: “Như vậy thì tại sao rất nhiều người tuyên bố rằng mình đã chứng ngộ tánh Không nhưng họ vẫn không bớt được tham luyến và sân hận?”

“Đó là bởi sự chứng ngộ của họ chỉ là ngôn từ” Ngài Atisa trả lời: “Nếu họ thực sự nắm được chân nghĩa của tánh Không, thì tư tưởng, ngôn ngữ và hành vi của họ phải mềm mại như bước đi trên thảm len hay như súp tsampa được trộn bơ. Đạo sư Aryadeva nói rằng ngay cả việc tự hỏi mọi sự có rỗng rang hay không cũng sẽ làm luân hồi tan rã.168 Do đó, thực sự chứng ngộ tánh Không là phương thuốc tối hảo trị bá bệnh bao gồm mọi yếu tố của con đường tu.”

“Làm sao tất cả mọi yếu tố của con đường tu lại có thể được bao gồm trong sự chứng ngộ tánh Không?” Drom Tonpa hỏi.

“Tất cả mọi yếu tố của con đường tu đều được chứa đựng trong sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ Ba la mật). Vì vậy nếu ông thực sự chứng ngộ tánh Không, ông sẽ tự giải thoát khỏi những tham luyến. Khi ông không cảm thấy khao khát, bám chấp hay ham muốn bất kỳ điều gì, dù bên trong hay bên ngoài, ông sẽ luôn có bố thí siêu việt. Giải thoát khỏi bám chấp và tham luyến, ông không còn bị ô nhiễm bởi những việc làm bất thiện nên ông luôn có trì giới siêu việt. Không có bất cứ khái niệm về “tôi” và “của tôi,” ông không còn sân hận, vì thế ông luôn có nhẫn nhục siêu việt. Nhờ chứng ngộ tánh Không, tâm ông thực sự hoan hỷ nên ông luôn có tinh tấn siêu việt. Thoát khỏi những phóng dật xao lãng xuất phát từ việc bám chấp cho rằng mọi vật là thường hằng bền vững, nên ông luôn có thiền định siêu việt. Khi ông không khái niệm hóa bất kỳ việc gì trong các phạm vi chủ thể, đối tượng và hành động, ông luôn có trí tuệ bát nhã siêu việt.”

“Có phải những người đã chứng ngộ chân lý đều thành Phật chỉ nhờ thấy được tánh Không và nhờ thiền định hay không?” Drom Tonpa hỏi.

“Trong tất cả những gì chúng ta thấy biết chẳng hạn như hình tướng và âm thanh, thì không gì không xuất hiện từ tâm. Nhận ra rằng tâm là sự tỉnh giác bất khả phân với tánh Không, đây chính là cái Thấy (kiến). Luôn luôn trì giữ nhận thức này trong tâm và không bao giờ xao lãng cái thấy ấy chính là thiền. Thực hành hai tích tập (vun bồi phước huệ) không khác chi thực hành một việc huyễn hóa trong trạng thái của cái thấy, đó là hành. Nếu ông có một kinh nghiệm sống động về việc thực hành này, kinh nghiệm đó sẽ tương tục trong các giấc mộng của ông. Nếu kinh nghiệm đó đi vào trạng thái mộng, kinh nghiệm đó sẽ đến vào lúc chết. Nếu kinh nghiệm đó hiện diện trong trạng thái trung ấm, ông có thể chắc chắn rằng ông sẽ đạt được thành tựu tột bực nhất.”

hoangtri
05-06-2017, 11:51 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Như thế tám mươi bốn ngàn cánh cửa dẫn tới Giáo Pháp mà Đấng Chiến Thắng đã giảng dạy là tất cả những phương tiện thiện xảo để phát khởi Bồ Đề Tâm – là tánh Không mà cốt tủy đích thật của tánh Không chính là lòng bi mẫn.

Không có Bồ Đề Tâm, giáo lý về cái thấy và thiền định dù có vẻ uyên thâm tới đâu chăng nữa cũng sẽ không lợi ích chút nào để đạt được Phật Quả viên mãn. Những pháp tu của Kim Cương Thừa như giai đoạn phát triển, giai đoạn thành tựu v.v., được thực hành trong phạm vi của Bồ Đề Tâm, sẽ dẫn đến Phật Quả viên mãn chỉ trong một đời. Nhưng nếu không có Bồ Đề Tâm thì chúng chẳng khác với những pháp môn của các tirthika. Những người tirthika cũng có nhiều thực hành liên quan tới thiền định về các Bổn Tôn, tụng niệm các thần chú và tu tập sử dụng các kinh mạch và năng lực; họ cũng hành xử phù hợp với luật nhân quả. Nhưng chỉ vì họ không quy y và khơi dậy Bồ Đề Tâm nên họ không thể giải thoát khỏi các cõi luân hồi. Đó là lý do tại sao Ngài Geshe Kharak Gomchung nói:

Chẳng ích lợi gì khi thọ mọi giới nguyện, từ giới nguyện quy y cho tới những mật nguyện của Kim Cương thừa, trừ phi bạn chuyển tâm ra khỏi những sự việc của thế gian.
Chẳng ích lợi gì khi cứ liên tục thuyết giảng Giáo Pháp cho người khác, trừ phi bạn an định được tánh ngã mạn (tự phụ) của riêng mình.
Chẳng ích lợi gì để thăng tiến trong tu tập nếu cuối cùng bạn từ bỏ những giới luật quy y.
Chẳng ích lợi gì khi thực hành cả ngày lẫn đêm trừ phi bạn kết hợp công phu tu tập với tâm Bồ Đề.

Trước tiên, nếu bạn không tạo được một nền tảng đúng đắn để có thể quy y và nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm, thì cho dù bạn có tỏ ra học tập, quán chiếu và thiền định mãnh liệt tới đâu chăng nữa, điều đó cũng sẽ hoàn toàn không ích lợi gì hơn việc xây lâu đài chín tầng trên mặt hồ đóng băng vào mùa đông và việc vẽ tranh bích họa trên tường thạch cao. Rốt cuộc sẽù chẳng có chút ý nghĩa nào.

Đừng bao giờ xem thường các pháp thực hành quy y và Bồ Đề Tâm, cho rằng những điều này thấp bé hay chỉ để dành cho những người sơ cơ. Hãy hoàn thành pháp quy y và Bồ Đề Tâm thật đầy đủ, trong khuôn khổ của các pháp môn chuẩn bị, trong các pháp môn thực hành chính yếu cũng như trong phần kết thúc, vì quy y và Bồ Đề Tâm là hai pháp tu thích hợp với bất kỳ con đường nào [mà bạn lựa chọn để tu tập]. Điều hết sức quan trọng cho tất cả mọi người, dù xấu hay tốt, cao hay thấp, là tập trung các nỗ lực chân thành nhất vào những pháp tu này.

Trong trường hợp đặc biệt của những Lạt Ma và tăng sĩ, là những người nhận của cúng dường từ các thí chủ, nhận tài vật nhân danh người chết, hay là những người cử hành các buổi lễ dẫn dắt người chết, điều tuyệt đối mà họ không thể thiếu là Bồ Đề Tâm chân thật. Không có Bồ Đề Tâm thì chẳng có nghi lễ và pháp tịnh hóa nào của họ đem lại được lợi ích nhỏ bé nhất cho người sống hay người chết. Đối với những người khác, họ có thể xuất hiện để cứu giúp, nhưng tận sâu thẳm bên trong thì sự giúp đỡ này luôn bị pha trộn với những động cơ ích kỷ. Đối với chính họ, họ sẽ bị ô nhiễm bởi việc thọ nhận những vật cúng dường đó, và sẽ gây ra vô số lỗi lầm có thể dẫn họ tới những cõi thấp trong đời kế tiếp.

hoangtri
05-06-2017, 11:53 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Ngay cả người nào đó có thể bay như chim, di chuyển dưới mặt đất như chuột, đi qua núi đá không bị ngăn trở, để lại những dấu tay và chân trên đá, người nào đó có khả năng thấu thị không giới hạn và có thể thực hiện đủ mọi loại huyền thuật – nếu một người như vậy mà không có Bồ Đề Tâm, thì họ chỉ có thể là một tirthika hay đã bị một vài quỷ ma đầy năng lực nào đó ám nhập. Thoạt tiên, họ có thể lôi cuốn một số người ngây thơ bị cảm kích và đem cúng dường. Nhưng về lâu dài thì họ chỉ đem lại sự hủy hoại cho chính họ và những người khác. Trái lại, một người có Bồ Đề Tâm thật sự, thì cho dù không có bất kỳ phẩm tánh nào khác, họ cũng sẽ làm lợi ích cho bất kỳ ai đến tiếp xúc với họ.

Bạn không biết được ở nơi đâu có thể có một vị Bồ Tát. Người ta nói nhiều Bồ Tát sử dụng những phương tiện thiện xảo, thậm chí được tìm thấy trong số những kẻ sát sinh thú vật và gái điếm. Thật khó có thể nói người nào đó có Bồ Đề Tâm hay không. Đức Phật có nói:

Ngoài bản thân ta và những người giống ta, không ai có thể phán xét người khác.

Vì thế, hãy coi bất kỳ ai khơi dậy được Bồ Đề Tâm trong bạn là một vị Phật đích thực, hoặc một Bổn Tôn, một vị Thầy, một thiện tri thức hay bất kỳ vị nào khác.

Bất cứ khi nào bạn cảm thấy mình đã đạt được một vài phẩm tánh nào đó chẳng hạn như những dấu hiệu tiến bộ trên con đường tu, bất kỳ chúng có thể là gì – chứng ngộ trạng thái bản nhiên, thần nhãn, thiền định, hoặc có được các linh kiến của Bổn Tôn v.v. – bạn có thể tin chắc rằng những dấu hiệu này thực sự là những phẩm tánh đích thực nếu lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm liên tục tăng trưởng thật vững chắc như là kết quả của kinh nghiệm tu tập kia. Tuy nhiên, tương tự như vậy, nếu kết quả của những kinh nghiệm như trên chỉ làm suy giảm lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, thì bạn có thể tin chắc rằng những gì có vẻ giống như là một dấu hiệu của sự thành công trên con đường tu thực ra chỉ là một chướng ngại của ma quỷ, hoặc một chỉ dấu cho thấy bạn đang đi lạc đường.

Đặc biệt hơn nữa, khi bạn chứng ngộ được trạng thái chân như đích thực thì bạn không thể nào không phát khởi một tín tâm phi thường và một nhận biết thanh tịnh về những bậc toàn thiện hơn bản thân bạn. Song song với kinh nghiệm chứng ngộ đó, bạn cũng sẽ phát khởi lòng từ và bi phi thường đối với những người kém toàn thiện hơn mình.

Ngài Dagpo Rinpoche vô song có lần hỏi Ngài Jetsun Mila: “Khi nào con có thể dẫn dắt người khác?”

Ngài Jetsun trả lời: “Một ngày nào đó, con sẽ có một thị kiến phi thường trong sáng về chân tánh của tâm con, nó hoàn toàn khác với thị kiến mà con hiện có, và thoát khỏi mọi ngờ vực. Vào lúc đó, trong một tâm trạng hoàn toàn khác thường, con sẽ nhận ra được ta, người cha già của con, như một vị Phật thật sự và chắc chắn con sẽ cảm thấy một cách rất tự nhiên lòng từ và bi đối với tất cả chúng sinh. Đó là lúc con nên bắt đầu giảng dạy.”

hoangtri
05-06-2017, 11:58 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Vì thế, hãy học tập, quán chiếu và thiền định về Giáo Pháp, trên nền tảng vững chắc của lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, không tách riêng cái này với cái khác. Trước tiên nếu không loại bỏ những nghi ngờ qua việc học tập, bạn sẽ không bao giờ có thể thực hành pháp. Có câu nói rằng:

Thiền định mà không học tập
Giống như leo núi mà không có đôi tay.

Loại bỏ những nghi ngờ qua việc học tập không có nghĩa bạn phải thông suốt vô số những vấn đề rộng lớn. Trong thời buổi suy đồi này, sẽ không thể làm được điều đó trong một đời người ngắn ngủi. Điều quan trọng là bất kỳ giáo lý nào mà bạn sắp đưa vào công phu thực hành thì bạn nên biết chính xác phải làm những gì để thực hành pháp tu đó từ đầu tới cuối mà không phạm lỗi lầm. Nếu có bất kỳ do dự nào thì bạn nên loại bỏ ngay lòng ngờ vực này bằng cách quán chiếu về các giáo lý đó.

Khi Ngài Atisa ở Nyethang, Nachung Tonpa xứ Shan, Kyung Tonpa, và Lhangsang Tonpa xin Ngài dạy cho họ về những hệ thống luận lý khác nhau.

Ngài Atisa trả lời: “Những người ngoại đạo phi-Phật-Giáo và bản thân những Phật Tử có nhiều hệ thống giáo lý, nhưng chúng hoàn toàn chỉ là những chuỗi tư tưởng lan man. Không cần tới hằng hà sa số tư tưởng đó: cuộc đời quá ngắn ngủi không thể thấu biết hết những điều này được. Giờ đây là lúc cắt giảm những điều này cho tới tận cốt lõi của chúng.”

“Làm thế nào để cắt giảm cho tới cốt tủy của chúng?”

“Bằng cách tu tập Bồ Đề Tâm với lòng từ và bi đối với tất cả chúng sinh đầy khắp không gian. Bằng cách thực hiện những nỗ lực tích cực trong việc tích tụ hai bồ công đức vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Bằng cách hồi hướng tất cả suối nguồn của những điều tốt lành của đời vị lai -- những điều tốt lành này đã được tạo ra [để hồi hướng] cho giác ngộ viên mãn của mỗi chúng sinh và cho tất cả chúng sinh. Và, cuối cùng, bằng cách nhận ra rằng tất cả những điều này đều rỗng rang tự bản chất, giống như những giấc mộng hay những trò huyễn hóa.”

Nếu bạn không biết làm cách nào để cắt giảm bất kỳ pháp môn nào cho tới phần tinh tuý, thì sẽ chẳng có số lượng thông tin, kiến thức và sự hiểu biết thông tuệ nào có thể đem lại lợi ích gì cho bạn.

Khi Ngài Atisa đến Tây Tạng, Ngài được mời tới thăm đại dịch giả Rinchen Zangpo. Ngài hỏi vị dịch giả về những giáo lý mà ông biết, liệt kê một danh sách dài, tuần tự từng cái một. Hoá ra không giáo lý nào Rinchen Zangpo không biết. Ngài Atisa đặc biệt hài lòng.

“Tuyệt vời!” Ngài nói. “Sự kiện đã có một bậc uyên thâm như ông sống ở Tây Tạng có nghĩa là cuộc thăm viếng của tôi hoàn toàn không cần thiết. Vậy làm cách nào ông kết hợp tất cả những giáo lý này khi ông ngồi xuống thực hành?”

hoangtri
05-06-2017, 12:01 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


“Tôi thực hành từng thứ như được giảng trong bản văn” Rinchen Zangpo nói.

“Lão dịch giả vô dụng!” Ngài Atisa kêu lên trong thất vọng: “Như vậy rốt cuộc việc ta tới Tây Tạng là cần thiết”!

“Nhưng thay vào đó tôi nên làm gì?” vị dịch giả hỏi.

“Ông phải tìm ra điểm cốt lõi chung cho tất cả các giáo lý và thực hành theo cách đó” Ngài Atisa bảo với ông ta.

Rất cần thiết phải tìm ra điểm trọng yếu của các pháp thực hành là những phương pháp được đặt trên nền tảng của những giáo huấn tinh tuý của vị Thầy. Một khi bạn thấu suốt được điểm trọng yếu, bạn phải đưa điều ấy vào thực hành, nếu không sẽ hoàn toàn vô ích. Ngài Jetsun Mila nói:

Người đói bụng sẽ không thỏa mãn bằng cách nghe nói về thực phẩm; điều mà họ cần là ăn. Tương tự như thế, chỉ hiểu biết suông về Pháp thì không có gì ích lợi; Pháp phải được thực hành.

Mục đích của tất cả các pháp tu là khi chính việc tu tập trở thành cách đối trị cho những cảm xúc ô nhiễm tiêu cực và tâm chấp ngã. Ngài Jetsun Mila lại nói:

Người ta nói rằng bạn có thể khẳng định một người nào đó có phải là vừa mới ăn hay không bằng cách nhìn coi mặt họ đỏ như thế nào. Tương tự như thế, bạn có thể cả quyết người nào đó có hiểu và thực hành Giáo Pháp đúng đắn hay không bằng cách xem Pháp có là một phương thuốc chữa lành những cảm xúc tiêu cực và chấp ngã của họ hay không.

Potowa hỏi Geshe Tonpa đâu là ranh giới giữa Pháp và phi-Pháp. Vị geshe trả lời:

Nếu chống lại những cảm xúc tiêu cực thì đó là Pháp.
Nếu không, đó là phi- Pháp.
Nếu không thích hợp với những phương cách của thế gian thì đó là Pháp.
Nếu thích hợp, đó là phi-Pháp.
Nếu phù hợp với kinh điển và những giáo huấn của bạn thì đó là Pháp.
Nếu không phù hợp, đó là phi-Pháp.
Nếu để lại dấu ấn tích cực thì đó là Pháp.
Nếu để lại dấu ấn tiêu cực, đó là phi-Pháp.

Đạo Sư Chegom nói:

Tin vào nhân quả của mọi hành động là chánh kiến dành cho những người có căn cơ bình thường.

Nhận ra mọi hiện tượng bên ngoài và bên trong là sự hợp nhất của cả sắc lẫn tánh Không, và của giác tánh và tánh Không, là chánh kiến dành cho những người có căn cơ cao hơn.

Nhận ra rằng cái thấy, người có cái thấy và chính sự trực nhận cái thấy đều bất khả phân169 , đó là chánh kiến dành cho những người có căn cơ cao nhất.

Giữ tâm hoàn toàn tập trung trên đối tượng là thiền định đúng đắn dành cho những người có căn cơ bình thường.

Trụ tâm trên bốn sự hợp nhất 170 là thiền định đúng đắn dành cho những người có căn cơ cao hơn.

Một trạng thái vô niệm trong đó không có đối tượng của thiền định, không có người thiền định và không có kinh nghiệm thiền định là thiền định đúng đắn dành cho những người có căn cơ cao nhất.

Thận trọng về những kết quả của các hành động của mình như người ta cẩn thận bảo vệ con mắt mình là hành vi đúng đắn dành cho những người có căn cơ bình thường.

Hành động trong khi kinh nghiệm được tất cả giống như giấc mơ và ảo ảnh là hành vi đúng đắn dành cho những người có căn cơ cao hơn.

Hoàn toàn không hành động (không tạo tác)171 là hành vi đúng đắn dành cho những người có căn cơ cao nhất.

Không ngừng giảm thiểu tâm chấp ngã, giảm thiểu các cảm xúc và niệm tưởng tiêu cực là dấu hiệu của “hơi ấm” dành cho tất cả hành giả, dù họ có căn cơ bình thường, trung bình hay cao nhất.

hoangtri
05-06-2017, 12:03 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG II : KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM
__________________________________________________ ______________________________________


Những lời tương tự như trên được tìm thấy trong Con Đường Trân Quý Siêu Việt của Ngài Dagpo vô song. Vì thế, khi học Giáo Pháp, bạn nên biết cách rút ra được tinh túy của Giáo Pháp. Ngài Longchenpa vĩ đại có nói:

Kiến thức thì vô tận như sao trên trời;
Tất cả những vấn đề có thể học được thì vô cùng tận.
Tốt hơn nên lập tức nắm lấy tinh tuý tối hậu của cái học–
Thành trì bất biến của Pháp Thân.

Sau đó, khi bạn quán chiếu về Pháp, bạn nên thoát khỏi mọi nghi ngờ. Ngài Padampa Sangye nói:

Hãy tìm kiếm những giáo huấn của vị Thầy giống như chim ưng mẹ săn mồi. Hãy lắng nghe các giáo lý như một con nai đang nghe nhạc; Hãy thiền định về giáo lý như một người ngu thưởng thức món ăn; Hãy suy niệm về giáo lý như một người du mục phương Bắc xén lông cừu; Hãy đạt được kết quả của giáo lý, giống như mặt trời nhô khỏi vầng mây.

Việc lắng nghe Pháp, quán chiếu và thiền định về Pháp phải được thực hành chặt chẽ với nhau. Ngài Dagpo vô song nói:

Hoà nhập sự học tập, quán chiếu và thiền định về Pháp là điểm trọng yếu không thể sai lầm.

Kết quả của việc học tập, quán chiếu và thiền định phải là sự phát triển vững chắc và chân thật của lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, cũng như phải là sự giảm thiểu vững chắc và chân thật của tâm chấp ngã và những cảm xúc ô nhiễm tiêu cực khác.

Giáo huấn này, về việc làm thế nào khơi dậy Bồ Đề Tâm, là tinh túy của tất cả các Giáo Pháp và là yếu tố cốt tủy của tất cả những con đường tu. Đây là giáo lý tối hậu, có được giáo lý này thì dứt khoát tự thân một mình giáo lý ấy thôi đã là đầy đủ, còn nếu thiếu giáo lý ấy thì chắc chắn sẽ khiến cho tất cả mọi pháp tu đều thành vô dụng. Không nên hài lòng với việc chỉ lắng nghe và hiểu biết về giáo lý ấy. Tận trong đáy lòng của bạn, hãy đưa giáo lý ấy vào thực hành!

Con quả quyết là đang khơi dậy Bồ Đề Tâm, nhưng Bồ Đề Tâm trong con vẫn chưa phát khởi. Con đã tu tập trên con đường của sáu pháp toàn thiện siêu việt, nhưng vẫn còn ích kỷ. Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ có tâm lượng nhỏ hẹp như con, Để chúng con có thể rèn luyện được Bồ Đề Tâm cao cả.

hoangtri
05-07-2017, 05:53 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________



CHƯƠNG 3

TRÌ TỤNG VÀ THIỀN QUÁN VỀ BỔN SƯ NHƯ ĐỨC KIM CANG TÁT ĐỎA (Vajrasattva)

ĐỂ TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI 172


Đã vượt khỏi hai chướng ngại ô nhiễm,*
Ngài vẫn giả như đang tịnh hóa chúng.
Chắc chắn đã đạt tới Đạo Quả cuối cùng của con đường cao cả,
Ngài vẫn tự nhận là đang học hỏi.
Đã vượt khỏi hai cực đoan đắm nhiễm Sinh Tử và Niết bàn,
Ngài vẫn hoạt hiện trong vòng quay luân hồi.
Bậc Thầy Vô Song, con xin đảnh lễ dưới chân Ngài.

Hãy lắng nghe chương này với thái độ tương tự như ở các chương trước.

I. LÀM THẾ NÀO TỊNH HOÁ CHƯỚNG NGẠI NƯƠNG VÀO PHÁP SÁM HỐI ?

Ác hạnh, chướng nghiệp và tập khí** là các chướng ngại chính yếu ngăn trở sự hiển lộ của tất cả những kinh nghiệm và chứng ngộ phi thường trên con đường đạo thâm sâu. Giống như mặt gương phải lau sạch mới soi rõ, chướng nghiệp phải được diệt trừ thì chứng ngộ mới có thể xuất hiện, giống như sự phản chiếu trên tấm gương Tạng Thức.***Để đạt được mục đích này thì Đức Phật đã dạy vô vàn phương pháp tịnh hóa, nhưng phương pháp tốt nhất vẫn là pháp trì tụng và thiền quán vị Bổn Sư của mình như là đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva)173 .

* Những chướng ngại của các cảm xúc tiêu cực và các chướng ngại thuộc ý niệm (phiền não chướng và sở tri chướng). “Những chướng ngại” có nghĩa là những yếu tố trùm lấp và ngăn che Phật tánh của ta (xem Thuật ngữ).
** Các tập khí được tạo nên bởi những hành động quen thuộc trong quá khứ.
*** Phạn. Alaya [A Lại Da Thức]. Thức tiềm ẩn, trong đó những dấu vết của nghiệp được tàng trữ. Xem thuật ngữ.

Không có ác hạnh nào mà không thể tịnh hóa được nhờ vào sám hối. Các bậc Thầy vĩ đại xưa kia đã khẳng định rằng:

Không có gì là tốt đẹp trong các ác hạnh – trừ việc ác hạnh có thể được tịnh hóa nhờ vào pháp sám hối.

Trong tất cả các ác hạnh – dù là các vi phạm bên ngoài liên quan đến các giới Biệt Giải Thóat - Ba La Đề Mộc Xoa (Pratimoksa), hay các vi phạm bên trong của Bồ Đề Tâm, hoặc những vi phạm bí mật của các thệ nguyện của Mật thừa (tantric samayas) – thì không có ác hạnh nào dù trầm trọng tới đâu mà không thể tịnh hóa được nương vào pháp sám hối.

hoangtri
05-07-2017, 05:59 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Trong Kinh điển, Đức Phật đã kể lại vài câu chuyện để minh chứng cho điều này. Ví dụ, có câu chuyện về người Bà la môn Atapa, được gọi là Angulimala, “Xâu Chuỗi Ngón Tay.” Angulimala giết chết chín trăm chín mươi chín người,174 nhưng về sau đã tự thanh tẩy được những ác hạnh đó nhờ pháp sám hối, và đã đạt được quả vị A La Hán ngay chính trong đời đó. Ngoài ra còn có câu chuyện của Vua A Xà Thế (Ajatasatru); Ngài giết hại cha mình, nhưng về sau đã chuộc lại tội lỗi của mình bằng pháp sám hối và đã đạt được giải thoát. Trước khi được giải thoát, nhà vua chỉ phải kinh qua những đau khổ của địa ngục trong thời gian dài bằng một trái banh nẩy lên một lần mà thôi. Đấng hộ pháp Long Thọ (Nagarjuna) đã nói rằng:

Những kẻ đã hành động buông thả
Nhưng về sau trở nên nghiêm cẩn và chú tâm
Thì tươi đẹp như vầng trăng sáng nhô lên từ những đám mây,
Như Nanda, Angulimala, Darsaka và Sankara. 175

Tuy nhiên, nghiệp chướng chỉ được tịnh hóa nếu ta chân thành sám hối một cách đúng đắn, sử dụng bốn lực tịnh hoá nghiệp (tứ lực tịnh nghiệp) làm pháp đối trị. Quá trình tịnh hóa sẽ không bao giờ thực hiện được nếu ta để mắt và miệng xao lãng vào việc khác, hoặc nếu ta chỉ đọc to những từ như “Con thú nhận.. Con sám hối...” trong khi tâm thì bận theo đuổi những niệm tưởng khác. Còn khi sám hối, nếu nghĩ rằng: “Trong tương lai, cho dù mình có làm điều quấy quá cũng không sao vì sau đó mình có thể sám hối được hết,” thì suy nghĩ đó sẽ làm cho nghiệp chướng không thể thanh tịnh hóa được, cho dù có phát lồ sám hối đi chăng nữa.

Ngài Jetsun Mila đã nói rằng:

Con có thể nghi ngờ rằng sám hối không thể thực sự tịnh hoá các ác hạnh,
Nhưng nếu tâm thức của con trở nên thuần thiện, thì con đã được tịnh hoá rồi.

Điều tuyệt đối căn bản của bất cứ pháp sám hối nào là cần phải dựa trên tất cả bốn ‘lực’ tịnh hoá nghiệp như là phương pháp đối trị.

hoangtri
05-07-2017, 06:04 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


II. TỨ LỰC TỊNH HOÁ NGHIỆP(Bốn Lực Tịnh Hoá Nghiệp)

Tứ lực tịnh hoá nghiệp bao gồm: 1) lực hỗ trợ (nương vào quy y và phát tâm Bồ Đề), 2) lực ân hận đã hành ác hạnh, 3) lực quyết chí chuyển tâm và 4) lực quyết chí hành thiện hạnh. Tứ lực tịnh hoá nghiệp này là các phương pháp đối trị.

1. Lực Hỗ Trợ

Trong trường hợp này, lực hỗ trợ có được là nhờ ta phát tâm quy y Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) và phát Bồ Đề Tâm cùng với việc thực hành các hạnh Bồ Tát. Trong các trường hợp khác, sức mạnh hỗ trợ có thể đến từ đối tượng đặc biệt mà ta phát lộ sám hối với. Ví dụ như khi ta trì tụng bài sám hối trong Tam Tụ Kinh (Đại Thừa Sám Hối Tam Tụ Kinh), sức mạnh hỗ trợ đến từ Ba Mươi Lăm vị Phật. Lực gia hộ đó cũng có thể đến từ một vị Thầy, hoặc một biểu tượng cho thân, khẩu và ý của chư Phật – nói tóm lại, có thể là bất kỳ ai hay đối tượng nào mà trước sự hiện diện các vị ấy hay các biểu tượng ấy, ta phát lồ sám hối.176

Trước khi thực hiện bất kỳ sự sám hối nào, việc phát khởi Bồ Đề Tâm và thực hành các hạnh Bồ Tát là việc không thể thiếu được. Đức Phật đã dạy rằng khi sám hối các ác hạnh và các giới đã phạm mà không phát khởi tâm Bồ Đề, thì cho dù có áp dụng bốn lực tịnh hoá nghiệp, nghiệp chướng chỉ có thể giảm thiểu, nhưng không thể được tịnh hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu tâm Bồ Đề được khởi phát một cách chân thành, thì tự bản thân việc ấy sẽ tịnh hóa được tất cả các ác nghiệp trong quá khứ, cho dù nghiệp tội có nặng đến đâu.177 Trong Nhập Bồ Tát Hạnh, ngài Santideva nói về Bồ Đề Tâm như sau:

Họ đi qua hiểm nguy như được anh hùng che chở,
Ngay cả những kẻ bị trọng tội khủng khiếp đè trĩu
Sẽ lập tức được giải thoát nhờ có Bồ Đề Tâm.
Như thế ai không đặt niềm tin nơi đó ?
Như các cơn bão lửa cuối thời đại,
Bồ Đề Tâm sẽ hoàn toàn thiêu hủy trọng tội.

hoangtri
05-07-2017, 06:07 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


2. Lực Ân Hận Đã Hành Ác Hạnh

Lực ân hận đã hành ác hạnh có được khi ta ăn năn hối hận về các việc lầm ác đã làm trong quá khứ. Không thể tịnh hóa được nếu ta không thấy ra rằng các ác hạnh của mình là sai lầm, và phát tâm sám hối với lòng ân hận sâu xa, không che đậy giấu giếm bất cứ điều gì.178 Trong Tam Tụ Kinh (Đại Thừa Sám Hối Tam Tụ Kinh), chúng ta trì tụng như sau:

Con xin sám hối tất cả (các ác nghiệp), không giấu giếm hay che đậy bất cứ điều gì.

Bậc thiện tri thức và thành tựu giả Karma Chagme đã có nói:

Ác nghiệp của quá khứ giống như một độc tố tiềm tàng,
Nếu sám hối mà không hối hận thì không thể tịnh hóa được.
Vì thế các con hãy sám hối với sự hổ thẹn, sợ hãi và lòng ân hận sâu xa.

3. Lực Quyết Chí Chuyển Tâm

Lực quyết chí chuyển tâm có được khi ta nhớ lại các lỗi lầm đã phạm phải và quyết tâm từ giờ trở đi không sẽ bao giờ tái phạm một lần nữa, cho dù có phải trả giá bằng mạng sống quí báu của mình. Trong Tam Tụ Kinh , chúng ta tụng như sau:

Từ giờ về sau, con nguyện quyết chấm dứt phạm ác hạnh.

Và trong Bài Nguyện Vãng Sanh Vào Cõi Cực Lạc có viết rằng:

Nếu không lập thệ nguyện từ nay đến mãi về sau, thì không có tịnh hóa,
Vì thế con lập lời thệ nguyện này, quyết từ nay cho đến mãi về sau
Dù phải trả giá bằng mạng sống của mình, con quyết không phạm điều bất thiện.

hoangtri
05-07-2017, 06:13 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


4. Lực Quyết Chí Hành Thiện Hạnh

Lực tịnh hoá nghiệp này đòi hỏi phải hoàn thành thật nhiều điều thiện, như liều thuốc để giải các ác nghiệp trong quá khứ. Lực này đặc biệt bao gồm các hạnh như lễ lạy chư Phật và Bồ Tát, hoan hỉ trước công đức của người khác, hồi hướng các công đức trong tương lai của mình để đạt được Giác Ngộ, nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm và hành các hạnh Bồ Tát, cũng như an trụ trong trạng thái như nhiên bất biến [của chân tâm].

Một ngày kia, có một thiền giả là đệ tử của Ngài Dagpo Rinpoche vô song, nói với thầy mình rằng, ông cảm thấy rất ân hận mỗi khi nhớ lại việc mình đã kiếm sống bằng cách bán các Kinh điển.

“Vậy hãy đi in sách” Đạo Sư bảo ông ta.179

Thế là ông lao vào việc in sách, nhưng rồi ông nhận ra rằng công việc này khiến ông bị phân tâm rất nhiều. Thất vọng, ông trở lại gặp thầy mình.

“Việc in ấn kinh sách này làm con bị phân tâm quá nhiều” ông nói. “Không có phương pháp sám hối nào sâu xa hơn việc an trụ trong chân tánh*, điều này không đúng sao ?”

* Sự an trụ trong trạng thái nhận biết bản tánh của tâm.

Ngài Dagpo Rinpoche rất vui mừng và nói rằng ông hoàn toàn đúng. “Cho dù con phạm vào các ác hạnh khổng lồ như Núi Tu Di” Ngài nói, “chúng sẽ được tịnh hóa ngay khi con nhận ra được chân tánh đó.”

Quả thực, để tẩy sạch các ác hạnh quá khứ thì không có cách thức nào sâu sắc hơn sự thiền định về Bồ Đề Tâm và giữ cho tâm an trụ trong bản tánh như nhiên bất biến. Hai điều này phải được ghi rõ trong tâm khảm khi thực hành các chi tiết thiền quán về đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva), chẳng hạn như khi quán tưởng là mình đang được tịnh hoá bằng dòng suối Cam lộ, hay khi trì tụng Bách tự minh chú, vân vân. Để thực hành chính pháp thiền quán và trì tụng, hãy noi theo các chỉ dẫn dưới đây, trong lòng luôn luôn ghi nhớ những ý nghĩa thuần tịnh đặc biệt 180 của mỗi một chi tiết trong khung cảnh của Bốn Lực Tịnh Hoá Nghiệp.

hoangtri
05-09-2017, 04:37 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


III. PHÁP THIỀN QUÁN KIM CANG TÁT ĐỎA (Vajrsattva)

Trong những phần quán tưởng sau đây, hãy quán bản thân mình trong thân tướng bình thường.181 Lơ lửng giữa không gian cách chừng một mũi tên trên đỉnh đầu, hãy quán tưởng một toà sen trắng ngàn cánh mở lớn và ở trên toà sen là một đài trăng tròn đầy. Khi nói “đài trăng tròn đầy”, điều đó không có nghĩa là đài trăng phải lớn cỡ nào, mà chỉ để biểu thị rằng nó tròn trịa, đều đặn thật toàn hảo và giống như mặt trăng tròn đầy vào ngày rằm âm lịch. Trên đài trăng, hãy quán tưởng một chữ hum** màu trắng sáng chói. Theo các truyền thống khác thì chữ hum này phóng toả ánh sáng rồi lại thu nhiếp ánh sáng ấy trở lại, nhưng theo phương pháp quán tưởng ở đây thì không phải quán như vậy.

** Chữ hūm Tây Tạng được tìm thấy ở Chương Ba, Phần III.


https://kinhmatgiao.files.wordpress.com/2013/02/hum.jpg

Trong giây khắc, chữ hum chuyển hóa thành vị Bổn Sư vinh quang, là nguồn bi mẫn vô song; tự bản chất, Ngài chính là chân tánh của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai cùng hội tụ lại. Ngài xuất hiện trong thân tướng của Báo Thân Phật, 182 là đức Kim Cang Tát Đoả, mang sắc trắng, sáng chói như đỉnh núi phủ tuyết được trăm ngàn mặt trời chiếu sáng.

Ngài có một mặt và hai tay. Ở trước ngực, tay phải Ngài cầm chùy Kim Cang năm ngặc, tượng trưng cho giác tánh và tánh Không. Dựa bên hông trái, tay trái Ngài cầm chuông, tượng trưng cho sắc tướng và tánh Không.183 Hai chân Ngài bắt chéo trong thế kiết già; Ngài đeo mười ba châu báu trang sức của Báo Thân – năm trang phục bằng lụa và tám món châu báu.

Năm trang phục bằng lụa là: 1/ dải buộc đầu, 2/ thượng y, 3/ khăn choàng dài, 4/ dây lưng và 5/ hạ y.

Tám món châu báu là: 1/ vương miện, 2/ hai hoa tai, 3/ một chuỗi hạt ngắn, 4/ hai vòng đeo ở hai cánh tay, 5/ hai chuỗi hạt dài, một cái dài hơn cái kia,184 6/ hai vòng ở hai cổ tay, 7/ hai chiếc nhẫn ở hai bàn tay và 8/ hai vòng đeo ở hai cổ chân.

Đức Kim Cang Tát Đoả ngự trên đầu ta, quay mặt cùng hướng với ta. Ngài ôm vị phối thân Vajratopa cũng sắc màu trắng, trong sự hợp nhất bất khả phân.185 Thân tướng các Ngài là sự hoạt hiện từ tánh Không, tuy hiện diện sống động nhưng phi vật chất, giống như ánh trăng phản chiếu trong nước hay hình sắc phản chiếu trên gương.

Quán tưởng như vậy đem lại cho ta lực hỗ trợ. Hình ảnh quán tưởng này không bằng phẳng như một bức hoạ Phật (tangka) hay như một tranh bích họa. Hình ảnh này không bất động và vô hồn như một bức tượng đất sét hay vàng, những vật thể mang tính chất đặc rắn và cụ thể. Mỗi một chi tiết xuất hiện rõ ràng và sống động, kể cả con ngươi và lòng trắng của mắt. Tuy thế hình ảnh (của đức Kim Cang Tát Đỏa) lại là mang tánh Không: không mang thể đặc rắn, không thịt, không máu, không các cơ quan nội tạng. Hình ảnh quán tưởng ấy giống như cầu vồng hiển hiện trong không trung hay giống như một cái bình pha lê trong suốt. Và hình ảnh ấy thấm đẫm trí tuệ: đức Kim Cang Tát Đoả mang bản chất đồng nhất với vị Bổn Sư bi mẫn của ta, và tâm của Ngài trải tới ta và tất cả chúng sinh với lòng từ bi vô hạn.

hoangtri
05-09-2017, 04:52 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Nói về lực ân hận đã hành ác hạnh thì trước sự hiện diện của Ngài, hãy tưởng nghĩ đến tất cả những ác hạnh mà bạn có thể nhớ được, những ác hạnh mà bạn đã tích tụ từ đời đời kiếp kiếp vô thỉ cho đến ngày nay: mười ác hạnh của thân, khẩu và ý, năm trọng tội với quả báo tức thời, bốn trọng tội, tám hành động lầm lỗi, tất cả những vi phạm các giới Biệt Giải Thoát thuộc về bên ngoài, các giới luật Bồ Tát bên trong, hay các thệ nguyện Mật Thừa của các bậc Trì Minh Vương (Vidyadhara), cùng tất cả các lời hứa thông thường mà bạn không giữ được, tất cả mọi điều dối trá mà bạn đã nói và tất cả mọi điều đáng hổ thẹn và ô nhục mà bạn đã làm. Hãy nghĩ rằng mình đang sám hối tất cả những lỗi lầm ấy trước sự hiện diện của vị tôn sư Kim Cang Tát Đỏa, toàn thân bạn nổ tung, da sởn gai ốc, vì xấu hổ, sợ hãi và ân hận. Bạn có thể tin chắc rằng, trải qua vô lượng kiếp trong luân hồi, bạn đã từng phạm nhiều ác hạnh không thể nhớ hết, vì thế hãy sám hối tất cả và nói rằng:

“Con không giữ điều gì bí mật, con không che dấu điều gì hết. Con xin thành tâm sám hối và xin được lượng thứ. Xin Ngài hãy thương xót con! Ngay giờ đây, ngay lúc này và chính nơi đây, xin hãy tẩy sạch và tịnh hóa con khỏi mọi ác nghiệp và khỏi mọi che chướng của con, khiến không còn sót lại bất kỳ một điều ác nào!”

Đối với lực quyết chí chuyển tâm thì hãy nghĩ rằng: “Bởi sự vô minh và mê lầm của con, cho tới lúc này đây, con đã tích lũy tất cả các ác hạnh đó. Nhưng giờ đây, nhờ lòng bi mẫn của bậc Bổn Sư từ ái của con, con đã hiểu ra được đâu là điều lợi lạc và đâu là điều ác hại. Con sẽ không bao giờ tái phạm ác hạnh nữa, cho dù phải trả giá bằng mạng sống của con.”

Ghi nhớ trong tâm ý nghĩa thanh tịnh của phương cách quán tưởng,180 rồi hãy trì tụng bản văn gốc, bắt đầu từ câu:

Ah! Con đang ở trong thân tướng bình thường của con, và trên đỉnh đầu con xuống tới những chữ sau đây:

..Xin hãy tịnh hóa con cho tới khi không còn sót lại bất kỳ một điều ác nào!

Tiếp theo, nơi trái tim của đức Kim Cang Tát Đỏa khi ấy đang hợp nhất bất khả phân với vị phối thân của Ngài, hãy quán tưởng một đài trăng phẳng lì, kích cỡ không lớn hơn một hột giống mù tạc, và trên đài trăng đó là một chữ hum trắng, cực kỳ mảnh, như thể chữ ấy được vẽ bằng một sợi tóc vậy. Trong khi đọc bài bách tự minh chú “Om Vajrasattva Samaya...”, hãy quán tưởng các ký tự của minh chú được xếp quanh chữ hum theo vòng tròn. Không có chữ nào chạm vào nhau, như những sừng trâu khi chúng đứng sát liền nhau.* Sau đó hãy trì tụng bài bách tự minh chú để cầu nguyện, đồng thời hãy tưởng tượng rằng nước cam lộ đại bi đại giác đang nhỏ xuống từ mỗi ký tự, từng giọt từng giọt lấp lánh, giống như nước nhỏ xuống từ băng đá khi nó tan chảy gần lửa vậy. Ào chảy qua thân của đức Kim Cang Tát Đoả, nước cam lộ thoát ra từ điểm hợp nhất của Ngài với vị phối thân, và xuyên qua đỉnh đầu bạn, chảy vào bạn và cũng chảy vào tất cả chúng sinh khác.
* Đó là, sát liền nhau không bị vướng



https://buddhadharmaobfinternational.files.wordpress.com/2009/12/vajrasattva-universe.jpg?w=540

hoangtri
05-09-2017, 05:16 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Như bụi đất được gội sạch bởi giòng suối ồ ạt, mọi bệnh tật của thân thể ta được trục ra trong hình thức của máu mủ hôi thối. Mọi tà lực đều bị trục xuất trong hình thức của những con nhện, bọ cạp, cóc, cá, rắn, nòng nọc, chấy rận và những sinh vật cùng loại. Mọi ác hạnh và nghiệp chướng được thải ra dưới dạng của chất lỏng, bụi đất, khói, mây và hơi nước màu đen. Tất cả các chất thải này bị dòng thủy triều cam lồ cuốn đi không thể cưỡng lại được và chảy tràn ra ngoài thân thể bạn như một trận mưa rào màu đen qua các lỗ phía dưới (cửa mình và hậu môn), qua gót chân và mọi lỗ chân lông trên da ban. Mặt đất dưới chân bạn mở ra và tận đáy sâu, Thần Chết - hiện thân của các hành nghiệp của bạn trong quá khứ ¬xuất hiện. Chung quanh Thần Chết là tất cả các chúng sinh nam nữ mà bạn mắc nợ nghiệp, và tất cả những chúng sinh này đang cố đòi bạn món nợ máu. Khi trì tụng bách tự minh chú, hãy quán tưởng tất cả những chất bất tịnh đó trút xuống những cái miệng đang mở ra của những chúng sinh kia, và xuống các bàn tay và cánh tay mong đợi của họ đang giang về phía bạn.

Nếu có thể, hãy quán tưởng tất cả các chi tiết của toàn bộ pháp tu này cùng một lúc. Nếu không thì có thể quán tưởng một cách tuần tự [từng chi tiết một]. Khi trì tụng bài minh chú, có thể khi thì tập trung nơi sắc tướng của đức Kim Cang Tát Đỏa, nơi khuôn mặt, đôi bàn tay Ngài và v.v.., khi thì tập trung trên các món châu báu trang sức và y phục của Ngài; hay trên dòng cam lồ đang tịnh hóa các bệnh tật, các tà lực, các ác hạnh và che chướng; hoặc tập trung vào cảm xúc hối hận về những gì bạn đã từng làm và quyết tâm không bao giờ lặp lại những việc đó nữa.

Sau cùng, hãy tưởng tượng rằng Thần Chết – hiện thân của các ác hạnh trong quá khứ, và các chúng sinh dưới mặt đất – tất cả các oan gia này, và những kẻ đang cố gắng đòi bạn trả món nợ máu, đều được mãn nguyện. Các vết tích quá khứ được thanh toán, nợ nần được trang trải và hận thù được tẩy sạch. Bạn được thanh lọc, mọi hành động bất thiện trong quá khứ và các che chướng được tẩy tịnh. Thần Chết khép miệng cùng hai tay lại và hạ hai tay xuống. Mặt đất cũng khép lại.

Hãy tưởng tượng rằng giờ đây bên trong và bên ngoài thân thể bạn trở nên trong suốt, và thân bạn là thân ánh sáng. Hãy quán tưởng đường kinh mạch trung ương chạy thẳng trong thân bạn, ở bốn điểm dọc theo bề dài của đường kinh mạch này là bốn luân xa (Cakra _ Chakra) nơi bốn luân xa này, các kinh mạch (phụ)186 tỏa ra hết cỡ như những nan của một cái dù. Ở ngang rốn bạn là luân xa hiển lộ, với sáu mươi tư đường kinh mạch tỏa ra hướng lên trên. Ở ngang tim bạn là luân xa Pháp, với tám kinh mạch tỏa ra hướng xuống dưới. Trong cổ họng bạn là luân xa hỉ lạc, với mười sáu kinh mạch tỏa ra hướng lên trên. Trên đỉnh đầu bạn là luân xa đại lạc, với ba mươi hai kinh mạch tỏa ra hướng xuống dưới.

Sau đo, chất cam lồ lại bắt đầu chảy xuống như trước. Bắt đầu với luân xa đại lạc trên đỉnh đầu bạn, nước cam lồ làm ngập đầy kinh mạch trung ương và ngập đầy mỗi một trong bốn luân xa rồi tràn ra ngoài, đầy ngập toàn thân bạn cho tới đầu các ngón tay và bàn chân bạn. Tràn ngập chất cam lồ trắng, bạn giống như một cái bình pha lê đựng đầy sữa.



https://kimtuthap.vn/wp-content/uploads/2016/11/cac-luan-xa.jpg

hoangtri
05-11-2017, 03:53 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Hãy quán tưởng rằng bạn đang nhận lãnh bốn nghi thức quán đảnh hay gia trì:187 gia trì tịnh bình (hay gia trì thân) (vase empowerment), gia trì ẩn mật, gia trì trí tuệ và gia trì ngôn từ quí báu. Bạn cũng tịnh hóa được bốn loại chướng ngại: các chướng ngại về nghiệp (nghiệp chướng), các chướng ngại thuộc về những cảm thọ tiêu cực (phiền não chướng), các chướng ngại thuộc về ý niệm (sở tri chướng) và các chướng ngại thuộc về tập khí (khuynh hướng quen thuộc). Trí tuệ của bốn trạng thái hỉ lạc xuất hiện trong bạn: hỉ lạc, hỉ lạc tối thượng, hỉ lạc phi thường và hỉ lạc nguyên sơ. Bốn Thân Phật, trong các quả vị chứng đắc khác nhau, được an lập trong bạn: Hóa Thân, Báo Thân, Pháp Thân và Tự Tánh Thân.

Sau đó hãy trì tụng bài cầu nguyện, bắt đầu bằng câu:

Ôi Bậc Hộ Trì, trong vô minh và mê lầm..

và chấm dứt ở câu:

...Con khẩn nguyện Ngài, xin tẩy sạch và tịnh hóa con!

Hãy tưởng tượng rằng vào giây phút bạn trì tụng những giòng này, đấng Đạo Sư Kim Cang Tát Đoả vui lòng, mỉm cười, và ban cho sự cầu nguyện của bạn những lời sau đây:

Hỡi kẻ may mắn, tất cả mọi ác hạnh, chướng ngại, phá rối và vi phạm của con đã được tịnh hoá.

Rồi Ngài tan ra thành ánh sáng và tan hòa vào bạn, khiến cho bây giờ bản thân bạn được chuyển hóa thành đức Kim Cang Tát Đỏa, giống như bạn đã quán tưởng Ngài trước đây.

Hãy quán tưởng ở trong tim của Ngài một đài trăng, kích cỡ chỉ bằng một hột giống mù tạc đập dẹp . Ở giữa đài trăng là một chữ hum màu xanh dương. Phía trước chữ hum là chữ om màu trắng; bên trái là chữ vajra màu vàng; phía sau là chữ sa màu đỏ; và bên phải là chữ tva màu xanh lá cây.


sa
tva hum vajra
om

Khi bạn trì tụng “Om Vajra Sattva Hum,” năm tia sáng trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây, và xanh dương phát ra từ những chữ tương ứng theo một hướng đi lên. Tận cùng các tia sáng này là Thiên Nữ Nhan Sắc và các thiên nữ đang cúng dường khác. Từ bàn tay của họ hiện ra vô số phẩm vật cúng dường, như tám món biểu tượng tốt lành và bảy báu vật tượng cho trưng vương quyền, những cánh dù có diềm xung quanh, những tràng phan chiến thắng, màn trướng, luân xa ngàn nan hoa nạm vàng, các vỏ ốc xà cừ màu trắng xoắn về bên phải và v.v... Các phẩm vật cúng dường này làm vui lòng tất cả chư Phật và Bồ Tát trong hằng hà sa số các cảnh giới thanh tịnh không thể nghĩ bàn ở khắp mười phương, giúp bạn hoàn tất việc tích lũy công phu cúng dường vàø tịnh hóa những chướng nghiệp của mình. Lòng đại bi và sự gia trì của tất cả chư Phật phóng toả ngược lại về bạn dưới hình thức của các tia sáng nhiều màu khác nhau và những ánh sáng này hoà tan vào bạn. Nương vào đó, kết quả là bạn đạt được các thành tựu siêu việt và các thành tựu thông thường; đạt được bốn cấp bậc của Trì Minh Vương có liên hệ đến con đường tu, và kết quả cuối cùng là quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác (kết hợp giữa Pháp Thân và Sắc Thân).188 Sự quán tưởng này tạo những giềng mối để giúp bạn chứng đắc Pháp Thân và đem lại lợi lạc cho chính mình.

hoangtri
05-11-2017, 03:57 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Sau đó, hãy quán tưởng rằng hằng hà sa số các tia sáng muôn màu phóng toả từ năm ký tự, chạm tới tất cả chúng sinh đang cư trú trong sáu cõi của tam giới, và tịnh hóa mọi ác hạnh, mọi che chướng, đau khổ và mọi tập khí, giống như ánh sáng mặt trời rạng đông xua tan bóng tối. Toàn thể thế giới trở thành Điều Hỷ Quốc (Abhirati - Cõi Tịnh Độ của Bất Động Phật Akshobhya). Mọi chúng sinh trong đó được chuyển hóa thành các đức Kim Cang Tát Đoả màu trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương. 189 Hãy trì tụng minh chú và quán tưởng rằng tất cả chúng sinh cũng đang tuyên đọc minh chú “Om Vajra Sattva Hum” với âm thanh rền vang xa rộng. Sự quán tưởng này tạo những giềng mối giúp bạn đạt được Rupakaya*(Sắc thân) và làm lợi lạc những người khác.
* Rupakaya, gzugs sku: Sắc thân (xem Thuật ngữ)

Về cách thức quán tưởng này, trong Pháp Hành Trì Giải Thoát Tức Thời Các Tập Khí Bám Chấp có nói rằng:

Khi đem lại lợi lạc cho chính mình và những chúng sinh khác bằng cách phóng tỏa và thu nhiếp lại ánh sáng, ta được tẩy tịnh khỏi các sở tri chướng.

Khi áp dụng pháp quán tưởng như thế, các phương tiện thiện xảo của Kim Cương Thừa giúp ta tích lũy, trong khoảnh khắc, một số lượng công đức và trí tuệ không thể nghĩ bàn, và đồng thời lại làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh khắp các cõi.

Hãy trì tụng bài minh chú càng nhiều lần càng tốt, và khi kết thúc thời khóa, hãy quán tưởng toàn thể thế giới mà bạn cảm nhận chính là cõi Phật Điều Hỷ Quốc hòa tan vào các chúng sinh đang cư trú trong đó – các chúng sinh này (thể hiện trong sắc tướng của) đức Kim Cang Tát Đoả thuộc năm Phật Bộ. Rồi các vị Hộ Phật này (trong sắc tướng của Kim Cang Tát Đoả) từ từ tan thành ánh sáng và tan hòa vào bạn. Sau đó bản thân bạn tan thành ánh sáng từ ngoài vào trong, và ánh sáng đó hòa tan thành chữ om trong tâm điểm của bạn. Chữ om hòa tan thành chữ vajra, vajra tan thành sa, sa tan thành tva, tva tan thành shapkyu của chữ hum, shapkyu tan thành a nhỏ, a nhỏ tan thành thân của ha, thân tan vào đầu, đầu tan vào mặt trăng lưỡi liềm, trăng lưỡi liềm tan vào (giọt) bindu và bindu tan vào (dấu móc) nada.

hoangtri
05-13-2017, 08:41 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Sau đó (dấu móc) nada, giống như một chiếc cầu vồng tan vào không gian, tan hoà thành một (trạng thái) đơn thuần, không đắm nhiễm bất kỳ ý niệm hay sự tạo tác nào. Hãy an trụ trong trạng thái đó trong một khoảng thời gian.

Khi các niệm tưởng bắt đầu xuất hiện, hãy quán tưởng rõ ràng rằng toàn thể thế giới và chúng sinh trong đó như là Cõi Tịnh Độ của đức Kim Cang Tát Đoả.

Sau hãy hồi hướng công đức bằng những lời tụng như sau:

Nhờ công đức của công phu hành trì này, xin cho con mau chóng đạt được quả vị của đức Kim Cang Tát Đỏa.

và v.v... và tụng đọc những lời cầu nguyện thiết tha khác.

Trong khi thực hành bất kỳ pháp thiền định và trì tụng nào, kể cả việc thực hành và trì tụng Kim Cang Tát Đoả, không bao giờ được để tâm sao lãng khỏi pháp hành trì, và không được gián đoạn việc trì tụng bằng việc sử dụng ngôn ngữ bình thường. Trong các Mật điển có nói rằng:

Trì tụng mà không chú tâm
Thì giống như ngâm một hòn đá tận cùng đáy sâu của đại dương;
Cho dù cả một đại kiếp cũng chẳng mang lại kết quả.*

và:

Thanh tịnh thì một ngàn lần tốt hơn bất tịnh,190
Chú tâm thì trăm ngàn lần tốt hơn không chú tâm.

* Dù hòn đá nằm ở đó bao lâu chăng nữa, nước sẽ chẳng bao giờ thấm vào nó.

Vàng hay bạc, dù chỉ chứa chút xíu đồng thau hay đồng đỏ, cũng bị coi là “không phải vàng thật” hoặc “bạc giả”. Cũng như vậy, nếu trộn lẫn chuyện tầm phào phàm tục khi đang trì tụng các câu minh chú hoặc khi đang thực hành thì sẽ làm cho minh chú trở thành bất tịnh. Đó là lý do tại sao Đại Đạo Sư xứ Oddiyana có nói:

Một tháng trì tụng không pha lẫn ngôn từ nào khác
Thì tốt hơn một năm trì tụng mà bị ô nhễm.

hoangtri
05-13-2017, 08:44 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Tương tự như vậy, đối với những người cử hành các nghi lễ trong các ngôi làng thì trong khi đang trì tụng những lời cầu nguyện và minh chú thì quan trọng nhất là cần kiềm chế, không nói chuyện phiếm trong vòng những người của hội chúng. Nếu những câu trì tụng như vậy bị trộn lẫn với ngôn ngữ bình thường, lời trì tụng sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Đặc biệt hơn nữa, khi một buổi lễ được cử hành cho một người đã chết thì kẻ đó, trong nỗi khiếp sợ và đau khổ của trạng thái trung ấm, sẽ chạy xô tới vị mạnh thường quân, tới các nhà sư đã được thỉnh mời và các Lạt Ma đang hành lễ, hy vọng tìm được sự cứu giúp. Chúng sinh trong trạng thái trung ấm biết rõ những gì đang xảy ra trong tâm người khác. Nếu những người hành lễ không tập trung cao độ, nếu họ không giữ các giới nguyện và mật nguyện, hoặc nếu những điều họ nói và nghĩ xuất phát từ sự ham muốn và thù hận, thì chúng sinh trong trạng thái trung ấm sẽ cảm thấy giận ghét họ, hoặc có cái nhìn không tốt về họ, và kết cục là sẽ rơi vào những cảnh giới thấp. Các chúng sinh sẽ thanh thản hơn khi không có sự giúp đỡ của những loại người như thế.

Trong các nghi lễ hay Mật Pháp của Mật Tông Kim Cương Thừa có nói rằng: “Trì tụng các nghi quỹ quán tưởng của giai đoạn phát triển (generation phase) là phương pháp sử dụng ngôn từ để tiếp cận.” Các ngôn từ dùng trong nghi quỹ quán tưởng là nhằm mục đích giúp cho tâm ta hồi nhớ lại các chi tiết của giai đoạn phát khởi.191 Tuy nhiên đối với nhiều người cử hành các buổi lễ như vậy thì mục đích thực sự của việc quán tưởng, vốn là ý nghĩa của giai đoạn phát triển và thành tựu, lại chẳng mảy may xuất hiện trong tâm trí họ. Họ chỉ thốt ra những ngôn từ của các nghi lễ một cách vô tâm, như “quán tưởng,” “thiền định,” và “chú tâm,” sử dụng mọi loại ngôn từ hoa mỹ, thổi kèn trum-pét, đánh các xập xõa và trống. Cuối cùng, đến thời điểm quan trọng nhất, giai đoạn thực hành khi mà họ cần phải trì tụng minh chú, thì vào lúc đó, họ lại cảm thấy như vừa thoát xong trách nhiệm của mình. Họ không còn cố gắng nữa dù chỉ để ngồi thẳng lưng. Họ bắt đầu hút thuốc lá, nguồn gốc của hàng trăm hành động sai trái, 192 và tuôn ra một kho đầy ắp những lời huyên thuyên vô ích, bàn cãi không dứt mọi chuyện ở địa phương từ các đỉnh núi tới đáy thung lũng, từ các đường đèo tới những vùng đất trũng. Trong khi huyên thuyên, họ dùng thì giờ lần chuỗi bằng các ngón tay với tốc độ cao nhất, như thể họ đang làm xúc xích. Về chiều, liếc nhìn bầu trời và ngó chừng vị trí mặt trời, họ bắt đầu hát cùng với tiếng loảng xoảng huyên náo của các xập xõa “Vajra puspe dhupe...”193 và v.v… Hành lễ như vậy không phải là hành lễ đúng đắn, thậm chí không cả được là sự phản chiếu của một sự phản chiếu của một buổi lễ. Thật không có gì phải nghi ngờ rằng việc trì tụng chỉ một lần Kinh Sám Hối hoặc bài Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán, với tâm nguyện hoàn toàn thanh tịnh, còn có lợi lạc hơn nhiều [so với những nghi lễ được cử hành không đúng đắn].

hoangtri
05-13-2017, 08:45 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Khi trì tụng một cách bất tịnh và cử hành các nghi lễ một cách bôi bác thì các Lạt Ma này khiến cho người chết bị tái sinh vào những cõi thấp kém hơn. Tương tự như vậy, đối với người sống, họ cũng sẽ chỉ làm hại nhiều hơn là đem lại lợi ích với cách thức hành lễ của họ. Hơn nữa, việc lạm dụng các cúng dường của người khác theo cách này hoàn toàn giống như “nuốt những viên kim khí nóng đỏ.” 194

Các Lạt Ma và nhà sư hưởng lợi lạc từ những cúng dường của thí chủ và từ những tài sản của người đã chết, cho nên việc hành trì của họ, từ trong tâm khảm, phải mang một ý nghĩa nào nhiều hơn là chỉ đơn thuần lượng định về khối lượng thịt, về độ dày của miếng phó mát, và về chất lượng của các phẩm vật cúng dường mà họ nhận được. Dù họ cử hành nghi lễ cho người đang bệnh hay người đã mất, thì đối với những chúng sinh này, những giây phút hành lễ này thật là vô cùng quan trọng. Đối với những người đã chết không biết nương tựa nơi đâu, để thoát khỏi đau khổ, họ cần được quan tâm và bảo vệ bằng lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm, cùng ước nguyện chân thành của vị Lạt Ma hành lễ muốn cứu giúp họ. Một cách chân thành và không sao lãng, các vị Lạt Ma phải cố gắng hết sức để thực hành bất kỳ pháp nào mà họ biết về giai đoạn phát khởi và thành tựu. Nếu họ không biết chút gì về các pháp này thì họ chỉ nên cố gắng tập trung tư tưởng vào ý nghĩa của các ngôn từ mà họ đang trì tụng. Và ít nhất, họ nên tập trung toàn thể thân, khẩu, ý họ vào lòng từ và bi đối với các chúng sinh đang đau khổ, và tập trung lòng tin của họ vào năng lực không thể nghĩ bàn của Tam Bảo. Nếu họ cũng có thể đảm bảo được rằng họ thực hiện nghi lễ một cách đúng đắn nhờ vào việc đã trì tụng các văn bản và các câu minh chú khác nhau một cách chính xác, thì chắc chắn rằng nhờ vào lòng bi mẫn của Tam Bảo, nhờ năng lực không thể nghĩ bàn của các quả thiện hạnh và nhờ lợi lạc vô biên của Bồ Đề Tâm, họ thực sự có thể giúp đỡ được người bệnh hoặc người chết. Đó là tất cả những gì các Lạt Ma nên cố gắng thực hiện. Như trong câu nói “làm tan biến các chướng ngại của riêng mình trên nệm ngồi của người khác,”* họ sẽ đồng thời hoàn tất hai phần tích lũy công đức cho chính họ và cho những người khác. Họ cũng gia hộ tất cả những ai có liên hệ với họ đến với con đường giải thoát.
* Điều này có nghĩa là bất kỳ công phu hành trì nào được thực hiện với động cơ giúp đỡ người khác sẽ làm lợi lạc không chỉ người đó mà cả cho người đang hành trì công phu.

Ngày nay, có những Lạt Ma và nhà sư được coi là ít nhiều giỏi hơn những người khác, và là những người hiểu biết nguyên lý nhân quả, đã quá sợ hãi các ô nhiễm liên quan đến các phẩm vật cúng dường đến nỗi họ từ chối ngay cả việc phải gia trì hay hồi hướng cho những chúng sinh đau khổ đang bệnh tật hoặc đang sắp chết. Hành động như vậy thì họ đã chặt đứt gốc rễ từ và bi của Bồ Đề Tâm.

hoangtri
05-16-2017, 11:30 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Nhưng đa số đều cực kỳ ích kỷ. Họ tham dự vào các buổi lễ theo lời thỉnh cầu của những thí chủ. Nhưng thay vì trì tụng điều gì mà gia đình hữu sự cần, thì họ lôi những Kinh sách cầu nguyện của riêng mình ra, đây là những Kinh sách cáu bẩn và sờn rách vì đã sử dụng lâu ngày, và như là một cách bào chữa, các Lạt Ma này nói rằng không ai được làm gián đoạn sự liên tục trong công phu hành trì riêng của các Lạt Ma ấy. Rồi họ trì tụng Kinh sách của riêng họ trong khi những người khác thì lại đang đọc các bài cầu nguyện.195 Bất kỳ lúc nào, cho dù họ đọc các bài nguyện ngắn nhất để cầu xin cho bản thân mình được tốt lành, thì họ cũng vô cùng thận trọng, và tuyên bố rằng họ đang tịnh hóa các chướng ngại của riêng mình hay tịnh hoá việc họ đã lạm dụng các vật cúng dường. Nhưng họ lại coi việc cầu nguyện trong những hội chúng đông đảo vì lợi lạc của những thí chủ là những việc vặt vãnh làm họ mệt nhọc. Họ luôn nhìn vơ vẩn, muốn gì nói nấy và thậm chí chẳng màng tưởng nghĩ gì đến người đã chết hay người còn đang sống mà họ có nhiệm vụ phải che chở gia hộ. Những việc làm này chặt đứt tận gốc rễ lòng từ bi của Bồ Đề Tâm. Sau này, cho dù họ có nỗ lực tự tịnh hóa sự lạm dụng các vật cúng dường đi nữa, thì thái độ xấu xa và ích kỷ của họ sẽ khiến việc tịnh hoá của họ rất khó thành công.

Thay vào đó, ngay từ đầu hãy lấy lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm làm nền tảng căn bản. Đừng bao giờ từ bỏ ước nguyện giúp đỡ người khác. Hãy nỗ lực chân thành để tận tụy áp dụng mọi hiểu biết của mình về hai giai đoạn phát khởi và thành tựu. Như vậy, việc thiền định về giai đoạn phát khởi và thành tựu, cùng việc trì tụng minh chú ở nhà người khác sẽ không có gì khác biệt với việc công phu hành trì tại nhà mình. Trong cả hai trường hợp, việc gạt bỏ các tư tưởng ích kỷ và việc quan tâm giúp đỡ người khác đều cần thiết như nhau. Ta cần phải có cả hai thái độ này.

hoangtri
05-16-2017, 11:36 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Nếu giữ cho tâm không sao lãng và không trộn lẫn những câu trì tụng với ngôn ngữ tầm thường, thì chắc chắn rằng, việc tụng đọc không gián đoạn bài Bách tự minh chú một trăm lẻ tám lần sẽ tịnh hóa tất cả các ác hạnh, tất cả các chướng ngại cùng tất cả các bội tín và các vi phạm giới nguyện và vi phạm mật nguyện. Hứa nguyện của Kim Cang Tát Đoả là như vậy. Trong Diệt Tội Trang Nghiêm Sám Hối Mật Điển có nói:

Bách tự minh chú là tinh túy của tâm Giác Ngộ của tất cả các Đấng Thiện Thệ. Bài minh chú này tịnh hóa mọi sự phá giới, mọi vi phạm, mọi chướng ngại thuộc ý niệm (sở tri chướng).

Bách tự minh chú là pháp sám hối siêu việt, và việc trì tụng bài minh chú này một trăm lẻ tám lần không gián đoạn sẽ chữa lành được mọi sự phá giới, vi phạm, và sẽ cứu ta khỏi bị đoạ vào ba cõi thấp.

Chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai sẽ nhìn kẻ hành giả trì tụng bài minh chú này trong công phu hằng ngày như là đứa con xuất sắc nhất của các Ngài, ngay cả trong chính đời này, và sẽ che chở và gia hộ kẻ ấy.

Vào lúc chết, chắc chắn người ấy sẽ trở thành người xuất chúng nhất trong những bậc trưởng tử của tất cả chư Phật.

Đối với sự bội ước hay vi phạm mật nguyện nào mà ta có thể mắc phải sau khi đã bắt đầu bước trên con đường Kim Cương Thừa, thì việc trì tụng mỗi ngày hai mươi mốt biến Bách tự minh chú trong khi thiền quán về đức Kim Cang Tát Đoả sẽ tạo nên nhiều lợi lạc gọi là “năng lực gia trì cho những sa ngã.” Trì tụng như vậy hằng ngày sẽ ngăn cản không để cho hậu quả của những sa ngã này phát triển hoặc tăng trưởng. Trì tụng một trăm ngàn lần bài ấy sẽ hoàn toàn tịnh hóa mọi sa ngã. Trong Bảo Trang Tối Yếu có nói:

Trì tụng đúng đắn hai mươi mốt biến bách tự minh chú,
Trong khi quán tưởng rõ ràng đức Kim Cang Tát Đoả
Ngự trên toà sen trắng và đài trăng,
Tạo thành năng lực gia trì nâng ta khỏi sa ngã,
Can ngăn không cho sa ngã tăng trưởng.
Các Đại Thành Tựu Giả đã dạy như thế.
Vì thế, hãy luôn luôn hành trì pháp môn này.
Nếu trì tụng bách tự minh chú một trăm ngàn lần,
Con sẽ trở thành hiện thân đích thực của sự cực kỳ thuần tịnh.

Ngày nay ở Tây Tạng không có một Lạt Ma, một vị sư, cư sĩ nam hay nữ nào mà chưa từng thọ nhận một lễ quán đảnh và vì thế không ai không hành trì Mật Tông. Giờ đây, một khi ta đã đi vào Mật Thừa, nếu không giữ các mật nguyện thì ta sẽ đi xuống Địa ngục, và nếu trì giữ mật nguyện thì ta sẽ đạt được Phật Quả viên mãn. Không có con đường thứ ba. Giống như đối với một con rắn bò theo bề dài trong thân cây tre, có thể nói rằng chỉ có hai cách để chui ra – thẳng lên hoặc thẳng xuống. Trong Kho Báu Thiện Đức có nói:

Một khi đã ở trong Mật Thừa, con chỉ có thể hoặc đi xuống các cõi thấp,
Hoặc đạt tới Phật Quả; không có hướng thứ ba.

hoangtri
05-16-2017, 11:40 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Các mật nguyện trong Kim Cương Thừa thì sâu sắc, rất nhiều và khó giữ. Ngay cả đại đạo sư như Ngài Atisa đã nói rằng sau khi bắt đầu tu tập trên con đường Kim Cương Thừa, ngài đã liên tục mắc phạm hết lỗi lầm này đến lỗi lầm khác. Đối với chúng ta ngày nay có rất ít cách đối trị. Sự tỉnh giác của ta thì yếu ớt và ta lại không có sự cẩn mật. Thậm chí chúng ta không thực sự hiểu rõ các loại sa ngã khác nhau là gì. Bởi vì những sa ngã của chúng ta chắc chắn lúc nào cũng nhiều như mưa rơi trút xuống đầu nên điều tối quan trọng để chữa trị là ta cần thực hành thiền quán và trì tụng Kim Cang Tát Đỏa hằng ngày, hoặc ít ra nhất định phải trì tụng bài Bách tự minh chú hai mươi mốt lần mỗi ngày.

Ngay cả đối với người đã nắm vững được những điểm tinh yếu của hai giai đoạn phát khởi và thành tựu, vốn là những người, nương vào sự tỉnh giác, tính cẩn mật và v.v... đã tránh không vi phạm các mật nguyện, thì việc sám hối và tịnh hóa vẫn là điều cần thiết. Bởi vì trên thực tế, bất kỳ tiếp xúc nào qua lời nói hoặc hành động với một người đã từng phá vỡ các mật nguyện gốc (root samayas) – cho dù ta chỉ uống nước trong cùng một thung lũng với người phạm lỗi đó thì cũng đủ để tạo thành các lỗi lầm được gọi là “sự vi phạm qua giao tiếp” hoặc “sự vi phạm ngẫu nhiên”. Các Mật điển có nói:

Khi kết giao với những người vi phạm mật nguyện hay đáp ứng các ước muốn của họ,
Khi giảng Pháp cho họ hoặc cho những người không thích hợp để nghe,
Khi không tránh được tất cả những kẻ vi phạm giới nguyện, chúng con biết chúng con cũng bị ô nhiễm
Bởi các chướng ngại của những vi phạm đó,
Sẽ đem lại nghịch cảnh trong đời này và các chướng ngại trong đời sau,
Tràn đầy hối hận, chúng con xin bày tỏ và sám hối tất cả những lồi lầm này.

Nếu chỉ một người trong đại chúng vi phạm mật nguyện, thì một trăm hay một ngàn người khác đã giữ các thệ nguyện riêng của họ sẽ bị ô nhiễm tới mức họ sẽ không nhận được sự lợi lạc từ công phu hành trì của họ. Cái đó cũng giống như chỉ một giọt sữa chua biến toàn thể hũ sữa tươi thành chua, hoặc một con ếch bị đau làm rầu cả bầy ếch. Như có câu nói rằng:

Một giọt sữa chua
Làm cả bầu sữa thành chua.
Một hành giả suy đồi
Làm hư hại tất cả các hành giả du già khác.

Hơn nữa, không có vị Thầy nào, dù là đại Đạo Sư hay thành tựu giả, có thể thoát khỏi ô nhiễm do những vi phạm mật nguyện này. Câu chuyện của đại Đạo Sư Lingje Repa minh chứng điều này. Khi Ngài đang ở trong thánh địa Tsari, Thiên Nữ Shingkyong bắt đầu gây các chướng ngại cho Ngài. Vào buổi trưa, bà đem xuống một bóng tối dày đặc đến nỗi các vì sao xuất hiện và sáng rực trên bầu trời. Tuy thế không gì có thể ngăn cản việc Ngài đi tới bờ Hồ Máu Đỏ Sẫm, ở đó Ngài múa hát một bài ca Kim Cương, và để lại các dấu chân trên tảng đá mà ngày nay vẫn còn có thể thấy được. Tuy nhiên, về sau trong cuộc đời Ngài, khi một đệ tử đã phá vỡ mật nguyện đến thăm Ngài – thì ngay cả một Đạo Sư đã thành tựu như Ngài vẫn có thể bị ô nhiễm. Ngài trở nên cuồng giận và bị cấm khẩu.

hoangtri
05-17-2017, 03:22 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Tương tự như vậy, chúng ta thấy trong các bài ca Kim Cương của Thành Tựu Giả Urgyenpa hát rằng:

Ta, Rinchen Pel, kẻ hành khất từ Xứ Tuyết,
Bị đánh bại không bởi kẻ thù nào khác ngoài sự ô nhiễm của việc vi phạm mật nguyện,
Và đã được che chở không bởi bằng hữu nào khác ngoài vị Thầy của ta.

Vi phạm các giới mật của Kim Cương Thừa là một lỗi lầm lớn lao, và trì giữ các giới ấy thì cực kỳ khó khăn. Khi ta không tự kiểm soát một cách thận trọng mà cho rằng mình đang trung thành trì giữ các giới nguyện và cảm thấy tự hào về điều này thì đây cũng là một điều sai lầm cực kỳ nghiêm trọng.

Các Mật điển đã từng giảng dạy rằng chỉ lãng quên trong giây lát sự hợp nhất [thân, khẩu, ý của ta với] thân, khẩu, và ý của ba mạn đà la196 đã là một vi phạm các giới mật của Kim Cương Thừa rồi. Vì thế việc trì giữ các mật giới thì thật khó khăn. Nói một các tường tận hơn, có tới một trăm ngàn mật nguyện khác nhau – một con số hết sức lớn. Theo các Mật điển, việc vi phạm các giới nguyện này sẽ đem đến cho chúng ta các bất hạnh như sau:

Yêu quái Kim Cương sẽ uống tâm huyết 197 của con,
Đời sống sẽ ngắn ngủi và bệnh hoạn, tài sản sẽ tan biến, kẻ thù sẽ khủng bố,
Trong Địa Ngục A Tì cực kỳ kinh khiếp
Con sẽ trải qua những đau khổ dằng dặc và không thể chịu đựng nổi.

Vì thế, để cứu chữa tất cả mọi vi phạm, lỗi lầm, và các sa ngã chìm nổi, hãy luôn luôn làm tất cả những gì mình có thể làm được để hành trì pháp môn thiền quán và trì tụng Kim Cang Tát Đoả, cùng sám hối tất cả các lỗi lầm đó bằng bài bách tự minh chú. Như các bậc Thầy vĩ đại ngày xưa thường nói:

Trước hết, tốt nhất là giữ cho không bị nhơ bẩn bởi các ác hạnh, nhưng một khi ác hạnh đã xảy ra, thì điều quan trọng là phải sám hối.

Việc vi phạm các mật nguyện Kim Cương Thừa thì dễ sửa chữa, bởi lẽ chúng có thể được tịnh hóa bằng pháp sám hối. Trong truyền thống Thanh Văn, mắc phạm một tội của giới Ba La Đề Mộc Xoa 198 thì giống như đập vỡ một cái bình bằng đất nung: đơn giản là không có cách để vá sửa được nữa. Còn làm vỡ bể các giới nguyện Bồ Tát thì giống như làm bể một đồ vật bằng kim loại quí. Một đồ vật như thế có thể được vá lành nếu giao được cho một thợ vàng khéo léo. Tương tự như vậy, việc các vi phạm giới nguyện có thể được tịnh hóa với sự trợ giúp của một bậc Thiện tri thức. Đối với các giới nguyện Kim Cương Thừa, việc mắc phạm vào các sa ngã thì giống như việc làm mẻ một vật bằng kim khí quí báu. Ta có thể hoàn toàn tự tịnh hóa việc sai phạm đó, chỉ đơn giản bằng cách sám hối, dựa vào sự hỗ trợ của Bổn Tôn, câu minh chú, và định. Nếu lỗi lầm được sám hối ngay lập tức thì việc tịnh hóa thật dễ dàng. Nếu trì hưỡn càng lâu dài thì lỗi lầm càng lớn, và sự sám hối càng thêm khó khăn. Nếu trì hưỡn hơn ba năm, thì không sám hối được sa ngã đó. Ngay cả nếu có sám hối thì cũng không tịnh hoá được.

Một số người có khả năng thiên phú, có thể sử dụng năng lực và phước báu của lời nói của mình để làm lợi lạc cho họ lẫn những người khác bằng cách che chở [cho mình và cho người], như chặn đứng sương giá, ngăn ngừa mưa đá, chấm dứt dịch hạch, chữa lành bệnh người lớn và trẻ em và v.v.. Ngay cả những người như thế, để có thể duy trì khả năng và các phước báu đó, cũng cần tịnh hóa các chướng ngại của ngôn ngữ. Để làm điều đó, không có phương tiện nào tốt hơn việc trì tụng bách tự minh chú. Khi trì tụng minh chú thì phải cần trì tụng một cách chân thành và liên tục.

hoangtri
05-17-2017, 03:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG III : TỊNH HÓA TẤT CẢ CHƯỚNG NGẠI
__________________________________________________ ______________________________________


Bổn Sư đáng kính của tôi thường nói đùa rằng những kẻ có thể che chở những người khác và sử dụng các vật cúng dường chắc chắn cần phải bắt đầu tịnh hóa các chướng ngại thuộc về ngôn ngữ (khẩu) bằng cách hoàn tất việc trì tụng mười triệu lần bài bách tự minh chú. Trong thực tế, nhiều đệ tử của Ngài đã thực sự trì tụng bài bách tự minh chú mười hoặc thậm chí hai mươi triệu lần, và không có một ai trong số họ không hoàn tất ít nhất hai hoặc ba trăm ngàn lần trì tụng.

Đạo Sư Kim Cang Tát Đoả là hiện thân một trăm vị Phật. Ngài được gọi là “Kim Cang Tát Đoả - Vajrasattva, Vị Hộ Phật Duy Nhất Của Đại Ẩn Mật.” Trong toàn thể hằng hà sa số không thể nghĩ bàn của các Bổn Tôn (yidam) an bình và phẫn nộ, không có vị nào mà Ngài không ứng thân vào. Khi thiền định về Ngài, hãy xem Ngài là một với bản tánh của Bổn Sư gốc của mình. Đây là phương thức thực hành pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga) “theo phương cách của viên ngọc quý bao gồm tất cả.”199 Đây là phương pháp tối hậu, thâm diệu nhất trong tất cả các pháp tu. Bởi lẽ, như tôi đã nói, bách tự minh chú là minh chú siêu vượt, cần phải hiểu rõ rằng không có pháp hành trì nào vi diệu hơn pháp hành trì này.

Con từng nghe giáo huấn lợi lạc, nhưng đã bỏ mặc qua bên như những ngôn từ.
Con từng hành trì chút ít, nhưng đã bị tật sao lãng phỉnh lừa.
Xin từ bi gia hộ cho con và tất cả chúng sinh quỷ quái như con,
Để chúng con có thể rút tỉa được tinh yếu của hai giai đoạn phát triển và thành tựu.



http://esotericplnarod.ru/tehnik/img/TM.jpg

Mạn Đà La của Vũ Trụ

Đây là một biểu tượng ba chiều trình bày toàn thể thế giới theo vũ trụ quan của Ấn Độ cổ, được quán tưởng trong một mạn đà la cúng dường. Ngọn núi Tu Di vuông vức, bề ngang chóp núi rộng hơn chân núi, ở trên cùng được điểm bằng cung điện của Vua Trời Đế Thích (Indra), chung quanh bao gồm bốn trung châu và các tiểu trung châu. Trên cao hơn nữa là những cõi Trời thuộc Sắc giới và Vô sắc giới.

hoangtri
05-19-2017, 06:54 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________



CHƯƠNG BỐN

CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA ĐỂ VUN BỒI PHƯỚC TUỆ


Ngài hiểu rõ những gì tương đối đều là dối gạt, nhưng Ngài vẫn vun bồi (hai bồ công đức). Ngài thấu suốt rằng trong viên mãn chẳng có gì để thiền định, nhưng Ngài vẫn thực hành thiền định. Ngài thấy tương đối và viên mãn thảy hợp nhất,* nhưng Ngài vẫn tinh tấn thực hành. Đạo Sư Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

* Theo nghĩa đen. “Ngài đã thể nhập trạng thái hợp nhất bất khả phân.”


I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC VUN BỒI HAI BỒ CÔNG ĐỨC


Ta không thể đạt được sự thuần tịnh hỗ tương 200 của Phật Quả hoặc hoàn toàn thấu suốt chân lý của tánh Không mà không hoàn tất việc vun bồi hai bồ công đức (phước đức và trí tuệ). Như trong Kinh điển có nói:

Chừng nào ta chưa hoàn tất vun bồi hai bồ công đức thiêng liêng,
Ta sẽ không bao giờ chứng ngộ được tánh Không vi diệu.

Và:

Trí tuệ nguyên sơ tối thượng chỉ có thể hình thành
Như là dấu hiệu của công đức đã được tích lũy và chướng ngại đã được tịnh hóa,
Cũng như nhờ lực gia trì của một bậc Thầy chứng ngộ.
Hãy biết rằng đặt niềm tin vào bất kỳ phương tiện nào khác là điều điên rồ.

Ngay cả những người đã thực sự chứng ngộ tánh Không cũng cần duy trì những bước tiến của họ trên con đường tu cho tới khi họ đạt được Phật Quả viên mãn, và vì thế họ vẫn cần nỗ lực vun bồi công đức. Đức Tilopa, Pháp Vương của các hành giả du già, đã nói với Naropa rằng:

Naropa, con ta, cho tới khi con chứng ngộ được rằng Mọi hình tướng –những gì xuất hiện do duyên tương khởi Thực ra không bao giờ sinh khởi, không bao giờ xa lìa, Thì hai bánh xe cho cỗ xe của con, là sự tích lũy công đức.

hoangtri
05-19-2017, 06:59 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


Bậc hành giả du già vĩ đại Virupa đã nói trong Doha (bài Chứng đạo ca) của Ngài:

Bạn có thể có sự xác tín vĩ đại không mong cầu Phật Quả tương đối * Nhưng đừng bao giờ từ bỏ việc vun bồi công đức vĩ đại; hãy nỗ lực tối đa trong khả năng của bạn.

* Điều này ám chỉ một trạng thái tu chứng, có lòng tin không thể lay chuyển nơi Phật tánh đã vẫn từng hiện diện trong bản tâm.

Và Đức Dagpo Rinpoche vô song nói:

Ngay cả khi sự chứng ngộ của bạn siêu vượt các ý niệm cho rằng chẳng có gì để vun bồi hay tịnh hóa,201 hãy cứ tiếp tục tích tụ ngay cả những lượng công đức nhỏ bé nhất.

Đấng Chiến Thắng, nương nơi lòng đại bi và nương nơi các phương tiện thiện xảo, đã giảng dạy vô số phương pháp để giúp ta thực hiện việc tích tụ công đức. Phương pháp tốt nhất trong các phương pháp này là cúng dường mạn đà la. Trong một Mật điển có nói:

Cúng dường chư Phật trong tất cả các cõi Phật
Toàn thể tam thiên đại thiên thế giới
Tràn đầy tất cả những gì có thể ao ước,
Sẽ làm viên mãn trí huệ nguyên sơ của chư Phật.**

** Có nghĩa là sự tích tụ công đức qua pháp tu này sẽ cho phép trí huệ viên mãn của Phật tánh của ta hiển lộ.

Theo truyền thống này, khi cử hành cúng dường mạn đà la như thế, chúng ta sử dụng hai mạn đà la riêng rẽ: mạn đà la thành tựu và mạn đà la cúng dường.

Theo truyền thống này, khi cử hành cúng dường mạn đà la như thế, chúng ta sử dụng hai mạn đà la riêng rẽ: mạn đà la thành tựu và mạn đà la cúng dường.

Vật liệu nào có thể dùng để làm mạn đà la thì tùy thuộc vào khả năng tài chánh của bạn. Loại đế mạn đà la (mandala base) tốt nhất được cấu tạo bằng các chất liệu quý như vàng và bạc. Một đế mạn đà la chất lượng trung bình làm bằng thứ kim loại để đúc chuông hoặc một vài vật liệu tốt khác. Trong trường hợp tệ nhất, bạn có thể sử dụng ngay cả một phiến đá nhẵn phẳng hoặc một miếng gỗ.

Những phẩm vật cúng dường lý tưởng nhất được đặt trên đế (base) của mạn đà la gồm có các loai đá quý: ngọc lam, san hô, ngọc bích, ngọc trai và những thứ khác. Tốt bậc nhì là các loại trái cây có dược tính như arura, và kyurura. Bình thường thì chúng gồm có các loại hạt như lúa mạch, lúa mì, gạo hay các hạt đậu, nhưng trong trường hợp tệ nhất thì bạn cũng có thể sử dụng ngay cả đá cuội, sỏi, cát và v.v… - đây chỉ đơn thuần là một sự hỗ trơ cho công phu quán tưởng của bạn. Dù đế mạn đà la của bạn được làm bằng bất kỳ vật liệu gì, hãy lau chùi sạch sẽ với sự cẩn trọng cao độ.

hoangtri
05-20-2017, 05:25 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


II. MẠN ĐÀ LA THÀNH TỰU 202

Hãy khởi sự bằng cách xếp đặt năm tụ (pile) trên mạn đà la thành tựu.203

Hãy đặt một tụ nhỏ ở giữa tượng trưng cho Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) có các Bổn Tôn trong Phật Bộ vây quanh. Đặt một tụ khác ở hướng Đông - có nghĩa là hướng về phía bạn 204- tượng trưng cho Đức Phật Vajra A Súc Bệ (Aksobhya) được vây quanh bởi các Bổn Tôn thuộc Kim Cương Bộ. Rồi đặt một tụ ở phương Nam tượng trưng cho Đức Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava) được vây quanh bởi các Bổn Tôn của Bảo Sanh Bộ, đặt một tụ ở phương Tây tượng trưng cho Đức Phật A Di Đà (Amitabha) được vây quanh bởi các Bổn Tôn thuộc Liên Hoa Bộ, và một tụ ở phương Bắc tượng trưng cho Đức Phật Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi) có các Bổn Tôn thuộc Nghiệp Bộ vây quanh.

Cũng có thể quán tưởng ruộng công đức như trong phần thực hành quy y. Thêm vào đó, tụ trung tâm (central pile) tượng trưng cho Đại Đạo sư xứ Oddiyana, bất khả phân với vị Thầy gốc của bạn cùng tất cả các bậc Thầy của dòng Đại Viên Mãn ở trên Ngài, được sắp xếp trật tự, vị này trên vị kia. Tụ phía trước (front pile) tượng trưng cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, được vây quanh bởi một ngàn lẻ hai Đức Phật của Hiền Kiếp này. Tụ bên phải (right pile) sẽ tượng trưng cho Tám Trưởng Tử Vĩ Đại (Tám Đại Bồ Tát) của Đức Thích Ca, vây quanh bởi Tăng đoàn cao quý của chư vị Bồ Tát, và tụ bên trái (left pile) tượng trưng Hai Thanh Văn trưởng tử, được Tăng đoàn cao quý gồm các Thanh Văn và Phật Độc Giác vây quanh. Tụ phía sau sẽ là Viên Ngọc Quý của Pháp (Pháp Bảo), trong hình thức các quyển sách dựng lên được bọc trong một cái lưới bằng tia sáng.

Trong bất kỳ cảnh ngộ nào, hãy đặt ‘Mạn đà la thành tựu’ này trên bàn thờ hoặc trên một giá đỡ thích hợp khác. Nếu có thể có được thì bạn hãy đặt năm vật cúng dường sau đây (hoa, hương nhang, đèn, dầu thơm, và thực phẩm) quanh Mạn đà la và đặt Mạn đà la ấy trước các biểu tượng thân, khẩu và ý của Đức Phật. Nếu không thể làm được như vậy, thì cũng có thể bỏ qua Mạn đà la thành tựu, và chỉ cần quán tưởng ruộng công đức.

hoangtri
05-20-2017, 05:27 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


III. MẠN ĐÀ LA CÚNG DƯỜNG

Dùng tay trái cầm đế của Mạn đà la cúng dường, còn cổ tay phải liên tục lau mặt đế trong khi tụng bài thất chi nguyện (seven-lined prayer) và những bài nguyện khác, không được sao lãng khi đang quán tưởng.

Việc lau chùi đế Mạn đà la này không chỉ tẩy sạch bất kỳ bụi bậm nào trên đế. Đây cũng là một cách nỗ lực dụng công để tự giải thoát khỏi hai chướng ngại ngăn che tâm thức chúng ta. Chuyện kể rằng các hành giả Kadampa vĩ đại trong quá khứ đã lau chùi Mạn đà la của các Ngài bằng mặt dưới cổ tay cho tới khi da mòn đi và bắt đầu làm thành các vết thương. Các Ngài vẫn tiếp tục và dùng tới cạnh của cổ tay. Khi vết thương hình thành ở đó, các Ngài thay thế bằng lưng cổ tay. Vì vậy khi tẩy chùi đế Mạn đà la, bạn đừng dùng khăn len hay vải mà chỉ dùng cổ tay giống như các hành giả Kadampa vĩ đại trong quá khứ.

Khi xếp đặt những tụ cúng dường trên cái đế, hãy làm trong lúc tụng bài nguyện tên là Mạn Đà La Ba Mươi Bảy Cúng Phẩm, do Ngài Chogyal Pakpa, bậc Gia Hộ Chúng Sinh của phái Sakya soạn ra. Phương pháp này dễ thực hành, và vì thế được mọi truyền thống cũ và mới chấp nhận không phân biệt. Ở đây chúng ta bắt đầu bằng việc cúng dường Mạn đà la theo cách này bởi đó cũng là truyền thống của ta.

Cả Cổ phái lẫn Tân phái đều có những phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp phù hợp với tập quán riêng của truyền thống đó. Quả thật, mỗi kho tàng tâm linh của truyền thống Nyingma có cách cúng dường Mạn đà la riêng. Trong truyền thống đặc biệt này của chúng ta có một vài bài nguyện cúng dường mạn đà la chi tiết của ba Thân được Đức Toàn Giác Longchenpa giảng dạy trong các tài liệu Tâm-Yếu 205 khác nhau. Một vài tâm yếu trong số này có thể được chọn lựa.

hoangtri
05-20-2017, 05:42 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


1. Cúng Dường Mạn Đà La Ba Mươi Bảy Cúng Phẩm

Hãy bắt đầu bằng cách đọc câu minh chú:

Om Vajra Bhumi Ah Hum

đồng thời cầm Mạn đà la trong bàn tay trái và với bàn tay phải, bạn rắc nước hoa có chứa bajung** lên đó. Sau đó, với ngón tay cái và ngón đeo nhẫn, hãy lấy một nhúm hạt và đọc:

Om Vajra Rekhe Ah Hum
* ba byung, một chuẩn bị có tính cách nghi lễ làm bởi năm chất liệu khác nhau lấy từ một con bò.

hãy xoay bàn tay phải trên đế Mạn đà la theo chiều kim đồng hồ và sau đó đặt nhúm hạt ở chính giữa. Nếu bạn có một “hàng rào núi sắt” 206 được làm sẵn thì bây giờ là lúc đặt nó trên Mạn đà la và đọc:

"Núi Tu Di, Vua của các Núi"
đặt một tụ lớn hơn ở giữa. Để sắp đặt bốn đại châu, hãy đọc:

"Ở phương Đông, cõi Đông Thắng Thần Châu (Purvavideha)"... và đặt một tụ nhỏ ở phương Đông, nó có thể ở về phía bạn, hoặc ở phía đối nghịch hướng về những vị mà bạn đang cúng dường.207 Rồi đặt ba tụ cho các châu lục khác, xoay tròn theo chiều kim đồng hồ bắt đầu từ phương Đông.

Để biểu tượng cho các trung châu, Deha, Videha và v.v... lần lượt đặt một tụ ở mỗi bên của từng đại châu.

Kế đó, đặt Núi Báu ở phương Đông, Cây Như Ý ở phương Nam, Bò Cái Dồi Dào Vô Tận ở phương Tây và Mùa Thu Hoạch Tự Nhiên ở phương Bắc.

Sau đó đến Bảy Báu Vật tượng trưng của Vương Quyền cộng thêm Bảo Bình Châu Báu Vĩ Đại, chúng được lần lượt đặt ở bốn hướng chính và bốn hướng phụ (kèm giữa các hướng chính).

Kế đó, đặt bốn Thiên nữ bên ngoài ở mỗi hướng chính, bắt đầu là Thiên Nữ Sắc Đẹp; và bốn Thiên Nữ bên trong ở bốn hướng trung gian, bắt đầu với Thiên Nữ Tràng Hoa...

hoangtri
05-20-2017, 05:46 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


Đặt Mặt Trời ở phương đông và Mặt Trăng ở phương tây. Đặt Bảo Cái ở phương nam và Phướn Chiến Thắng Toàn Phương ở phương bắc.

Trong khi bạn đọc:

Tất cả tài sản của Chư Thiên và loài người, không sót thứ gì...

thì hãy đổ thêm hạt trên phần còn lại khiến không chỗ nào là không đầy tràn. Nếu bạn có một vật trang hoàng trên đỉnh, bây giờ hãy đặt lên đỉnh và đọc:

Con dâng cúng Mạn đà la này lên tất cả các bậc Bổn Sư quang vinh và cao cả của dòng truyền thừa, và lên tất cả chư Phật và Bồ Tát.

Ở điểm này, một vài người thêm vào những lời như: “..tất cả mọi phần đều xinh tươi và đầy đủ, không thiếu món gì,” nhưng theo Đạo Sư của tôi, đó là một thêm thắt không được tìm thấy trong nguyên bản.

Đối với những gì cần được quán tưởng trong mỗi cúng phẩm, Đạo Sư của tôi khi ban giáo lý đã không nói thêm bất kỳ điều gì ngoài điều này, vì thế bản thân tôi sẽ không viết gì thêm ở đây. Tuy nhiên, đối những ai muốn hiểu thêm chi tiết thì nên tham khảo Yếu Nghĩa Mật Kinh, như đã được đề nghị trong bản văn căn bản dùng để giảng giải về các pháp thực hành dự bị này. 208

hoangtri
05-21-2017, 03:59 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


2. Cúng Dường Mạn Đà La Của Ba Thân Theo Bản Văn Này

2.1. MẠN ĐÀ LA THÔNG THƯỜNG209 CỦA HOÁ THÂN

Bốn trung châu (lục điạ) được đề cập ở trên được sắp xếp theo cách sắp xếp các tụ vật cúng dường, với Núi Tu Di ở giữa và các cõi Trời Phạm Thiên (Brama) ở trên, tạo thành một thế giới. Một ngàn thế giới này tạo thành cái được gọi là “một thế giới bậc nhất gồm một ngàn thế giới.” Lấy một thế giới gồm một ngàn thế giới như thế, mỗi thế giới với bốn trung châu, và nhân một ngàn thế giới này lên một ngàn lần, chúng ta có một cái gọi là “một thế giới trung gian bậc hai gồm một ngàn lần một ngàn thế giới,” hay một thế giới gồm một triệu thế giới. Lấy một thế giới gấp triệu lần như thế và lại nhân nó lên một ngàn lần cho ta “một hệ thống thế giới vĩ đại bậc ba gồm một ngàn triệu thế giới,” hay một vũ trụ gồm cóù một tỉ thế giới. Một thế giới ở bậc này, tạo bởi một ngàn triệu thế giới, mỗi thế giới có bốn trung châu, nằm dưới sự cai quản của một Hóa Thân Phật duy nhất - chẳng hạn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà cõi Phật của Ngài được gọi là Thế Giới Kham Nhẫn.210

Hãy tưởng tượng trong khắp Hằng hà sa số thế giới không thể nghĩ bàn này, tất cả những kho tàng tuyệt hảo nhất được tìm thấy trong các cõi Người hay cõi Trời, như bảy báu vật tượng trưng cho vương quyền và v.v... cho dù những kho tàng hay châu bảo này có thuộc quyền sở hữu hay không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ ai. Thêm vào những thứ này là thân thể, tài sản, cuộc đời, vận may, năng lực và sức mạnh của riêng bạn, cũng như tất cả các nguồn công đức mà bạn đã tích tụ trong mọi lúc và sẽ tích tụ trong tương lai, cùng tất cả những gì đã từng có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho bạn. Hãy chất đầy tất cả những gì tốt đẹp nhất và đáng ao ước nhất, ngay cả một tham muốn hay bám luyến nhỏ bé như hạt mè cũng không thiếu, hãy cúng dường đầy đủ và tất cả những cúng phẩm này không thiếu thứ gì cho Thầy của bạn và các Bổn Tôn Hóa Thân. Đây là pháp cúng dường Mạn đà la thông thường của Hóa Thân.

hoangtri
05-21-2017, 04:03 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


2.2. MẠN ĐÀ LA PHI THƯỜNG CỦA BÁO THÂN

Trên tất cả những thứ đó, hãy tưởng tượng vô vàn các cõi Trời và cung điện không thể nghĩ bàn trong năm cõi Phật vĩ đại,211 tất cả được các Thiên Nữ Tuyệt Mỹ gia trì, được các Thiên nữ khác cúng dường bao niềm vui của các cảm thọ, tất cả những năng lực gia hộ và niềm vui này được nhân lên vô hạn. Hãy cúng dường tất cả những thứ này cho Thầy của bạn và các Bổn Tôn Báo Thân. Đây là pháp cúng dường Mạn đà la phi thường của Báo Thân.

2.3. MẠN ĐÀ LA ĐẶC BIỆT CỦA PHÁP THÂN

Trên cái đế Mạn đà la tượng trưng cho Pháp Giới vô sanh tuyệt đối, hãy đặt các tụ tượng trưng cho bốn thị kiến cũng như cho bất kỳ tư tưởng tạo tác nào. Hãy cúng dường tất cả cho vị Thầy và các Bổn Tôn Pháp Thân. Đây là pháp cúng dường Mạn đà la đặc biệt của Pháp Thân.

Đối với pháp cúng dường Mạn đà la này của ba Thân, hãy duy trì một ý niệm trong sáng về tất cả những giáo huấn thực hành này và với lòng quy ngưỡng, hãy lập lại lời cầu nguyện, bắt đầu bằng:

Om Ah Hum. Tam thiên đại thiên thế giới, cõi giới gồm một ngàn triệu thế giới...

...Trong khi bạn tính đếm (counting) các cúng phẩm bạn đang dâng cúng, hãy cầm cái đế của Mạn đà la trong bàn tay trái, để nguyên các vật cúng dường lần đầu trên đó, và cứ mỗi lần trì tụng bản văn thì bạn lại đặt thêm một tụ lên trên bằng bàn tay phải. Hãy thực hành với lòng kiên nhẫn, đưa đế Mạn đà la lên cho tới khi tay bạn đau tới độ không còn cầm được nữa. “Chịu đựng gian khổ và kiên nhẫn một cách dũng cảm vì Pháp” thì có ý nghĩa hơn việc hoàn toàn nhịn đói. 212 Đó có nghĩa là luôn luôn quyết tâm hoàn tất bất kỳ pháp hành trì nào cho dù pháp ấy có khó làm chăng nữa, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào đi nữa. Hãy thực hành như thế này, và trong khi làm thế, bạn sẽ tích lũy được một số lượng khổng lồ công đức nhờ vào sự kiên trì và nỗ lực của bạn.

Khi thực sự không thể cầm Mạn đà la được nữa, hãy đặt Mạn đà la xuống bàn trước mặt bạn và tiếp tục chồng lên đó các tụ cúng dường và đếm số lần. Khi bạn dừng nghỉ, chẳng hạn để uống trà, hãy gom mọi thứ bạn đã cúng dường lại, và khi bắt đầu trở lại, hãy khởi sự với Mạn đà la ba mươi bảy cúng phẩm trước khi tiếp tục như trước.

Hãy quả quyết thực hiện ít nhất một trăm ngàn lần công phu cúng dường Mạn đà la theo cách này. Nếu bạn không kham nổi số lượng đó khi sử dụng Mạn đà la chi tiết của ba Thân, thì thay vào đó có thể tụng câu kệ bắt đầu bằng:

Mặt đất được tịnh hóa với nước thơm...

trong khi cúng dường mạn đà la bảy cúng phẩm.213

hoangtri
05-21-2017, 04:24 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


Bất kỳ bạn dùng hình thức cúng dường nào, điều quan trọng là áp dụng ba phương pháp siêu việt như trong bất kỳ pháp môn thực hành nào khác. Hãy bắt đầu bằng việc phát khởi Bồ Đề Tâm, sau đó thực hiện chính pháp môn hành trì mà không để cho bất kỳ ý niệm tạo tác nào khởi lên, và niêm phong pháp hành trì cho thật hoàn hảo vào lúc cuối bằng việc Hồi hướng công đức.

Nếu đang dùng lúa mạch, lúa mì, hoặc loại hạt khác để cúng dường Mạn đà la, chừng nào mà bạn có thể lo liệu được phí tổn thì hãy luôn luôn cúng dường hạt mới và không dùng cùng một hạt hai lần. Những vật đã cúng dường thì bạn có thể đem cho chim muông, phân phát cho những hành khất, hoặc xếp chồng lên trước một biểu tượng của Tam Bảo. Nhưng đừng bao giờ nghĩ rằng đó là của riêng bạn hoặc sử dụng cho bạn. Nếu bạn thiếu tài lực để sắm sửa lại các hạt cúng dường mỗi lần thực hành pháp hành trì này thì hãy cố gắng sắm sửa các hạt mới mỗi khi điều kiện cho phép. Nếu quá nghèo, bạn cũng có thể dùng đi dùng lại số lượng hạt đó.

Tuy nhiên, bạn hãy thường thay đổi hạt, làm sạch các hạt này trước khi cúng dường bằng cách nhặt ra các vật lạ, bụi đất, vỏ trấu, rơm, phân chim và những thứ tương tự, và tẩm hạt bằng nghệ hoặc loại nước hoa khác.

Cho dù giáo lý cho phép dùng vật cúng dường bằng đất và đá, nhưng đây là vì lợi lạc cho những người quá nghèo khó đến nỗi không có chút sở hữu nào, hoặc để dành cho những người có năng lực siêu việt đến nỗi chỉ với một hạt bụi duy nhất, tâm họ có thể tạo nên các cõi Phật nhiều như tất cả những hạt bụi trên toàn thể thế giới. Còn bản thân bạn tuy có thể thực sự có được đầy đủ những gì cần thiết, nhưng lại không thể buông bỏ và cúng dường một cách rộng rãi. Bạn có thể quả quyết bằng đủ loại loại lý lẽ đã được cân nhắc và có vẻ rất hợp lý – thậm chí tự thuyết phục mình – rằng bạn đang thực hiện cúng dường bằng cách trì tụng thần chú hoặc bằng quán tưởng. Nhưng bạn sẽ chỉ tự lừa gạt mình.

Hơn nữa, tất cả các Mật điển và giáo huấn cốt tủy đều nói về “các cúng phẩm trong sạch, được chuẩn bị sạch sẽ” hoặc “những cúng phẩm đã được chuẩn bị sạch sẽ.” Các Mật điển không bao giờ khuyên nên dùng “các cúng phẩm dơ bẩn, được chuẩn bị một cách dơ bẩn.” Vì thế đừng bao giờ cúng dường các đồ thừa hay thực phẩm bị ô nhiễm bởi tính keo kiệt hay bụi bẩn. Đừng dành riêng cho mình phần lúa mạch tốt nhất và dùng phần còn lại để cúng dường hoặc làm các bánh cúng (torma) bằng món bột lúa mì xay nhuyễn (tsampa). Các hành giả Kadampa thuở xưa thường nói:

Giữ phần tốt nhất cho bạn và cúng dường phó mát mốc meo và rau quả héo úa cho Tam Bảo là điều không nên làm.

hoangtri
05-21-2017, 04:36 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


Đừng làm các bánh cúng hoặc đèn cúng dường với những vật liệu hư ôi hoặc thối rữa, trong khi dành những thứ hảo hạng cho mình. Lối hành xử đó sẽ làm cạn kiệt công đức của bạn.

Khi làm shelze 214 hay các torma, hãy chuẩn bị bột nhào cho vừa vặn (không quá đặc cũng không quá lỏng), với chính độ vừa mà chính bản thân bạn cũng sẽ ưa thích. Thật sai lầm nếu bạn đổ thêm nhiều nước vào bột nhào chỉ để cho dễ làm hơn.

Ngài Atisa thường nói: “Những người Tây Tạng này sẽ không bao giờ có thể giàu có, họ làm bánh cúng bằng bột nhào mỏng teo!”

Ngài cũng nói: “Ở Tây Tạng, chỉ cúng dường nước thôi cũng đủ tích lũy công đức. Ở Ấn Độ trời quá nóng và nước chẳng bao giờ tinh sạch được như ở Tây Tạng đây.”

Như một cách tích lũy công đức, cúng dường nước tinh trong, thanh tịnh sẽ cực kỳ hiệu quả nếu bạn có thể thực hiện việc này thật tinh tấn. Hãy rửa sạch bảy chén cúng dường hoặc các đồ đựng khác và đặt chúng cạnh nhau, đừng quá sát và không quá xa. Chén phải được đặt thẳng tắp, không chén nào trong số đó lệch khỏi hàng. Nước phải tinh khiết không lẫn các hạt, tóc, bụi hoặc các côn trùng nổi ở trong đó. Phải thận trọng khi rót đầy các chén, nhưng đừng quá đầy tới miệng chén, không làm đổ chút nước nào trên bàn cúng dường. Đây là cách thực hiện cúng dường nước tốt đẹp và hoan hỉ.

Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán có nói về các phẩm vật cúng dường “được sắp xếp hoàn hảo, đặc biệt và tuyệt vời...” Cho dù bạn thực hiện hình thức cúng dường nào, nếu bạn làm thật tốt đẹp và hoan hỉ, thì ngay cả trong cách thức sắp đặt, lòng tôn kính mà bạn biểu lộ đối với chư Phật và Bồ Tát trong khi cúng dường sẽ đem lại một lượng công đức bao la. Vì thế hãy nỗ lực chuẩn bị thật chu đáo các phẩm vật cúng dường của bạn.

Nếu bạn thiếu tài lực hoặc không thể thực hiện các pháp cúng dường, thì ngay cả việc cúng dường những vật dơ bẩn hay thô xấu cũng không có gì sai miễn là tác ý của bạn hoàn toàn trong sạch. Chư Phật và Bồ Tát không có ý niệm sạch hay dơ. Có những ví dụ về những sự cúng dường như thế trong các truyện kể, như câu chuyện về một người đàn bà nghèo khó có tên Người Bới Rác Thành Phố cúng dường Đức Phật một ngọn đèn bơ. Và có câu chuyện về người đàn bà cùi hủi cúng dường Ngài Đại Ca Diếp một chén cháo gạo mà bà đã nhận trong buổi khất thực. Khi bà đang cúng dường Ngài thì một con ruồi rơi vào chén. Bà cố lấy con ruồi ra và ngón tay bà cũng nhúng vào trong chén. Dù thế nào đi nữa, Ngài Đại Ca Diếp đã dùng nó để hoàn thành ý hướng tốt đẹp của bà, và vì vật cúng dường của bà đã cung cấp thực phẩm trọn ngày cho Ngài nên bà tràn ngập niềm vui. Bà đã được tái sinh ở cõi Trời thứ Ba Mươi Ba.

hoangtri
05-22-2017, 05:00 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


Nói tóm lại, khi bạn cúng dường mạn đà la, dù cúng dường thứ gì đi nữa thì món ấy cũng cần phải tinh sạch, được cúng dường trong một cách thế hoan hỉ, và ý hướng của bạn phải hoàn toàn thanh tịnh.

Trong bất cứ giai đoạn nào của đường tu, bạn không nên ngưng nỗ lực thực hiện các pháp hành trì để tích lũy công đức, chẳng hạn cúng dường Mạn đà la. Như các Mật điển có nói:

Chẳng có chút công đức nào thì làm gì có thành tựu;
Người ta không thể ép cát để lấy dầu.

Hy vọng vào bất kỳ một thành tựu nào mà không lo tích lũy công đức thì giống như cố gắng ép cát ở bờ sông để lấy dầu thực vật. Cho dù bạn ép bao nhiêu triệu hạt cát, bạn sẽ chẳng bao giờ lấy được chút xíu dầu nào. Nhưng muốn tìm kiếm các thành tựu bằng việc tích lũy công đức thì giống như nỗ lực lấy dầu bằng cách ép các hạt mè. Bạn càng ép mè thì bạn càng lấy được nhiều dầu. Cho dù chỉ ép một hạt mè duy nhất trên móng tay bạn cũng sẽ làm toàn thể móng tay mình bóng dầu. Có một câu tục ngữ tương tự:

Trông chờ các thành tựu mà không tích lũy công đức thì giống như cố gắng khuấy nước để làm bơ.
Mưu cầu các thành tựu sau khi vun bồi công đức thì giống như khuấy sữa làm bơ.

Không còn nghi ngờ gì rằng việc đạt được mục đích tối hậu của thành tựu siêu việt cũng là kết quả của việc hoàn tất tốt đẹp việc tích lũy hai bồ công đức. Chúng ta đã thảo luận về việc không thể nào đạt được hai thân thuần tịnh của Phật Quả nếu không thành tựu việc vun bồi tích lũy phước đức và trí tuệ. Đức Long Thọ đã có nói:

Nhờ những thiện hạnh này mà mọi chúng sinh có thể thành tựu vun bồi phước đức và trí tuệ Và đạt được hai Thân siêu việt Đến từ công đức và trí tuệ.

Nhờ thành tựu vun bồi công đức là một việc tuy vẫn còn bao hàm các ý niệm (tạo tác),215 bạn đạt được Sắc Thân (rupakaya) siêu việt. Nhờ thành tựu vun bồi trí tuệ siêu vượt các ý niệm, bạn đạt được Pháp Thân siêu việt.

Các thành tựu nhất thời của cuộc đời bình thường cũng có thể được tạo ra bởi việc tích lũy công đức. Nếu chẳng có chút công đức nào thì mọi nỗ lực của ta dù to dù lớn đến đâu cũng sẽ thất bại. Ví dụ có những người chưa từng nỗ lực chút nào mà chẳng bao giờ thiếu thực phẩm, tiền bạc hay tài sản trong hiện tại là nhờ kho công đức họ đã tích lũy trong quá khứ. Những người khác tiêu phí cả đời đâm đầu vào mọi chỗ, cố làm giàu bằng thương mại, trồng trọt v.v... nhưng chúng không đem lại ngay cả chút lợi ích nhỏ bé nhất, và cuối cùng phải chết đói. Đây là những điều mà mọi người có thể tự thấy cho chính mình.

hoangtri
05-22-2017, 05:05 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


Thậm chí điều này cũng thích hợp trong việc làm nguôi dịu các vị Thần tài bảo, các Hộ Pháp và v.v... với hy vọng có được một thành tựu siêu nhiên tương ứng. Những Bổn Tôn như thế không thể ban cho ta điều gì trừ phi ta có thể thu hoạch được hoa trái (quả) đến từ hạnh bố thí (nhân) của chính ta trong quá khứ.

Có một lần một ẩn sĩ không có gì để sống, vì thế ông bắt đầu thực hiện thực hành pháp tu Damchen.* Ông trở nên lão luyện trong pháp tu đến nỗi có thể trò chuyện với vị Hộ Pháp như thể nói với một người khác, nhưng ông vẫn chưa đạt được thành tựu.

* Damchen Dorje Lekpa, Phạn: Vajrasadhu, một trong những Hộ Pháp chính.

Damchen nói với ông: “Ông không có ngay cả chút kết quả ít ỏi nhất đến từ bất kỳ hành động bố thí nào trong quá khứ, vì thế ta không thể đem lại cho ông một thành tựu nào.”

Một hôm nhà ẩn sĩ đứng vào hàng cùng một vài hành khất và được bố thí một tô súp đầy. Khi ông về nhà, Damchen hiện ra và nói với ông: “Hôm nay ta đã ban cho ông một vài thành tựu. Ông có nhận thấy không ?”

“Nhưng tất cả các hành khất đều nhận một tô súp, đâu phải chỉ mình tôi,” nhà ẩn sĩ nói. “Tôi không thấy (dấu hiệu) thành tựu đến từ Ngài ra sao.”

Damchen nói “Khi ông nhận súp, một miếng mỡ lớn đã rơi vào tô ông, đúng không ? Đó là thành tựu đến từ ta!”

Không thể khắc phục sự nghèo khổ bằng các pháp tu tài bảo và những pháp tu tương tự mà không có một vài tích tụ công đức trong những đời quá khứ. Nếu có những vị như các vị Trời tài bảo thực sự có khả năng ban cho các thành tựu tài bảo siêu nhiên thì chư Phật và Bồ tát, với khả năng và năng lực có thể thực hiện các điều huyền nhiệm còn lớn hơn hàng trăm, hàng ngàn lần, và là những bậc Giác Ngộ đã hoàn toàn hiến mình để giúp đỡ chúng sinh ngay cả khi không được thỉnh cầu, thì chắc chắn chư Phật và Bồ Tát sẽ trút xuống thế giới này một khối lượng dồi dào của cải khiến tất cả mọi sự cùng khổ đều được giải trừ trong giây lát. Nhưng điều này đã không xảy ra.

Bởi bất kỳ những gì ta có chỉ là kết quả của công đức ta từng tích tụ trong quá khứ, nên một chút công đức thì đáng giá hơn một trái núi nỗ lực. Ngày nay khi những người thấy được chút ít của cải hay quyền lực ít ỏi nhất trong xứ sở man dại này của chúng ta, họ hoàn toàn sửng sốt và tán thán: “Ôi chao, ôi chao! Có thể có được chuyện này sao?” Thật ra có được của cải này cũng chẳng cần phải đòi hỏi gì nhiều trong cách tích tụ công đức. Khi tác ý của người cúng dường và đối tượng được cúng dường đều thanh tịnh, thì kết quả của hành động cúng dường này được minh chứng bởi câu chuyện của Mandhatri.** Bằng hành động cúng dường bảy hạt đậu, ông đạt được vương quyền tối cao tận Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba. Rồi có trường hợp của Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) mà quyền lực của ngài là kết quả của hành động cúng dường một đĩa thực phẩm nóng sốt không muối.

** Xem Phần Một, Chương Bốn, Mục III.

hoangtri
05-22-2017, 05:48 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG IV : CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA
__________________________________________________ ______________________________________


Khi Ngài Atisa đến Tây Tạng, xứ ấy giàu và lớn hơn ngày nay. Và tuy thế Ngài nói: “Tây Tạng thực sự là một vương quốc gồm các thành phố ngạ quỷ. Ở đây ta không thấy ai đang hưởng quả của việc đã từng cúng dường, thậm chí chỉ một lượng lúa mạch duy nhất cho một đối tượng thanh tịnh!”

Nếu người ta thực sự cho rằng của cải hoặc một chút quyền lực tầm thường là cái gì thật kỳ diệu và tuyệt vời, thì trước hết đó là một dấu hiệu cho thấy tâm hồn họ nhỏ bé biết bao; thứ đến, điều này chứng tỏ họ bám chấp vào các hình tướng phàm tục ra sao; và thứ ba, họ không hiểu biết đúng đắn sự đơm hoa kết trái của tất cả mọi hành động, như đã được minh họa trước đây bằng hạt giống của cây asota – hoặc cho ta thấy họ không tin vào kết quả này cho dù họ có hiểu biết về điều đó.

Nhưng bất kỳ ai có được sự xả bỏ chân thành và chân thật thì họ sẽ hiểu rằng trong tất cả những sự kiện hoàn hảo hiển nhiên được tìm thấy trong thế gian này – ngay cả việc giàu có như một Long vương, có một địa vị cao như bầu trời, mạnh mẽ như sấm sét hoặc tươi đẹp như một ánh cầu vồng – không điều gì trong những thứ này có chút gì thường hằng, bền chắc hoặc có được chút thực chất nào. Những thứ như thế chỉ khơi dậy sự nhờm tởm, giống như một đĩa thức ăn béo ngậy được đem mời một người mắc bệnh vàng da.

Việc tích lũy phước đức với hy vọng được giàu có trong đời này thì là điều hoàn toàn tốt lành đối với người thế gian bình thường, nhưng điều này khác xa Phật Pháp chân chính, vì Phật Pháp chân chính được đặt nền tảng trên quyết tâm giải thoát khỏi sinh tử. Như tôi đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nếu bạn đang tìm kiếm một Chân Pháp đưa tới giải thoát, bạn phải từ bỏ mọi tham luyến với đời sống thế tục như thể có quá nhiều nước bọt trong bụi đất. Bạn phải lìa bỏ quê hương và hướng về những miền đất vô danh, luôn luôn ở những nơi cô tịch. Bạn phải phấn khởi tu tập khi đối diện với bệnh tật và vui vẻ đương đầu với cái chết.

Một lần kia, một đệ tử của đức Dagpo Rinpoche vô song hỏi Ngài: “Trong thời đại suy thoái này thật khó tìm ra thực phẩm, áo quần và những thứ cần thiết khác để thực hành chân Pháp. Vậy con phải làm gì ? Con cần nỗ lực để làm nguôi dịu phần nào các Bổn Tôn tài bảo, hay học một phương pháp hữu hiệu để trích ra các tinh chất,216 hoặc cam chịu một cái chết nào đó?”

Bậc Đạo Sư đáp: “Dù con hết sức nỗ lực, nhưng nếu không có bất kỳ hoa trái nào của hành động bố thí trong quá khứ thì việc làm lành với các Bổn Tôn tài bảo sẽ rất khó khăn. Ngoài ra, việc tìm kiếm giàu sang trong đời này thì mâu thuẫn với việc chân thành thực hành Pháp. Việc thực hành pháp trích xuất tinh chất ra từ các bất động vật thì bây giờ không còn phải như là trong đại kiếp tăng tiến nữa,217 khi mà tinh chất của đất, đá, nước, thảo mộc, v.v... đã tiêu tán. Bây giờ việc đó chẳng còn hiệu nghiệm nữa. Tự buông mình vào một cái chết nào đó thì cũng chẳng tốt. Sau này, sẽ rất khó khăn để có thể có lại được một thân người với đầy đủ tự do và thuận lợi như con hiện có. Tuy nhiên, nếu con có niềm tin chắc chắn tận đáy lòng rằng con có thể thực hành mà không quan tâm đến việc con sống hay chết, thì con sẽ chẳng bao giờ thiếu thực phẩm và quần áo.”

Tất cả các pháp hành trì mà chư Bồ Tát thực hiện để vun bồi công đức và trí huệ hay để giải trừ các chướng nhiễm chỉ có một mục đích duy nhất: đó là hạnh phúc của tất cả chúng sinh đầy khắp không gian. Bất kỳ ước muốn nào hầu đạt được Phật Quả viên mãn chỉ cho riêng bạn thì chẳng dính dáng gì tới Đại Thừa, huống hồ là thứ thực hành nhắm tới việc thành tựu các mục đích tầm thường của đời này. Cho dù bạn có thể hành trì bất cứ loại pháp môn nào, dù là thực hành tích lũy phước đức và trí tuệ hay thực hành pháp tịnh hóa các chướng nhiễm, hãy thực hiện các pháp ấy vì sự lợi lạc của toàn thể chúng sinh vô biên, và đừng trộn lẫn pháp hành trì với bất kỳ thứ tâm tham luyến chấp ngã nào. Ngay cả khi bạn không ước muốn những điều này, thì như một tác dụng phụ, tất cả các lợi lạc, tiện nghi và hạnh phúc của riêng bạn trong đời này sẽ được đầy đủ, giống như khói tự xuất hiện khi bạn thổi vào một ngọn lửa, hay chồi lúa mạch tất nhiên sẽ nảy nở khi bạn gieo hạt. Nhưng đối với bất kỳ sự thôi thúc nào khiến bạn hiến mình cho riêng những điều đó (lợi lạc, tiện nghi và hạnh phúc) thì hãy vứt bỏ hết những thôi thúc này như vứt bỏ thuốc độc đi.

hoangtri
05-23-2017, 04:22 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________



CHƯƠNG NĂM

KUSALI
PHÁP TÍCH TỤ CÔNG ĐỨC CỦA KẺ HÀNH KHẤT:
DIỆT TRỪ (*) BỐN MA VƯƠNG
BẰNG MỘT ĐỘC CHIÊU


Bây giờ hãy nói đến một pháp tu ngắn gọn là pháp cúng dường chính thân thể của ta, cũng còn được gọi là Kusali, pháp tích tụ công đức của kẻ hành khất. Bởi pháp tu này được nối kết với pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga) trong tập luận giải An Trú Trong Chân Tánh nên việc kết hợp pháp tu Kusali với Guru Yoga là việc có thể chấp nhận được. Theo một phương thức khác, và phương thức này cũng không có gì mâu thuẫn với phương thức kết hợp như đã nói bên trên, pháp Kusali cũng có thể được thực hành như là một phần của công phu tích lũy công đức, song song với việc cúng dường Mạn đà la. [Kết hợp với pháp cúng dường Mạn đà la] sẽ là cách thức pháp Kusali này được giảng dạy ở đây, phù hợp với truyền thống khẩu truyền đã từng giảng dạy về pháp ấy.

* Tên của pháp thực hành được bàn đến ở đây là gcod, phiên âm là “Chư” (âm Việt: sẽ rất gần với âm ‘chút’). Ý nghĩa căn bản của “Chư” là “chặt đứt.” Trong chương này, “Chư” luôn luôn được dùng với ý nghĩa riêng biệt là tiêu diệt, chặt đứt, tiệt trừ, cắt đứt các ý niệm. Chúng tôi đã dịch từ này trong nhiều cách khác nhau tùy theo văn cảnh. Khi “Chư” xuất hiện như tên của pháp thực hành, chúng tôi để mặc mà không dịch, người đọc cần thấu hiểu phạm vi ý nghĩa hàm ý trong đó.

I. THÂN THỂ NHƯ MỘT PHẨM VẬT CÚNG DƯỜNG

Từ “Kusali” có nghĩa là người hành khất. Để vun bồi phước đức và trí huệ, các hành giả du già (yogi) – chẳng hạn như là những ẩn sĩ sống trong núi non – là những vị đã từ bỏ cuộc đời bình thường, họ dùng hình thức quán tưởng để cúng dường thân thể của chính họ khi không có được các vật sở hữu nào khác để có thể dâng lên cúng dường.

Tất cả những sở hữu vật chất khác mà chúng ta đã lo lắng và nỗ lực thâu thập cho bản thân ta, thật ra chỉ là để chăm chút cho thân xác của chúng ta, và khi so sánh với bất kỳ tài sản nào khác thì rõ ràng là thân xác của chúng ta là vật sở hữu mà ta yêu quý nhất. Như thế, so với việc cúng dường bất kỳ tài sản nào khác, việc chúng ta cắt đứt lòng mê đắm thân xác mình và sử dụng thân xác này như một phẩm vật cúng dường* thì điều này thật lợi lạc hơn nhiều. Có câu nói rằng: * Đây là phần thực hành căn bản của pháp Cho.

Cúng dường ngựa hay voi của bạn thì giá trị bằng hàng trăm các phẩm vật cúng dường khác; Cúng dường con cái hay vợ (chồng) bạn thì tương đương hàng ngàn các phẩm vật cúng dường khác; Cúng dường thân thể của chính bạn thì giá trị bằng hàng trăm ngàn lần các phẩm vật cúng dường khác.

Machik Labdron có nói:

Bởi không hiểu rằng việc từ bỏ thân xác không chút tham luyến là tích lũy phước đức và trí huệ,
Nên con đã bám luyến vào thân xác yêu quý này.218
Con sám hối điều này với Hóa Thân của Mẹ.219

hoangtri
05-23-2017, 04:28 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


II. PHÁP TU CÚNG DƯỜNG THÂN XÁC

Trước tiên, nếu bạn quen thuộc với pháp quán tưởng, bạn có thể chọn cách phóng tâm thức của bạn thẳng vào không gian và quán tưởng tâm thức của bạn lập tức hiện ra như là Bà Mẹ Chân Chính Sắc Đen Phẫn Nộ. 220 Nếu bạn không quen quán tưởng thì hãy tưởng tượng trong trái tim bạn giọt tinh túy của tâm thức bạn trong thân tướng của Bà Mẹ Phẫn Nộ. Bà đang nhảy múa lắc lư, bàn tay phải vung cao một lưỡi dao cong lên không trung, và bàn tay trái cầm một bình bát làm bằng sọ người đầy máu, giơ cao ở phiá trước ngực ngay khoảng trái tim. Cái đầu kêu eng éc của một con lợn cái màu đen nhô ra từ phía sau tai phải của Bà. Bà mặc y phục của một Thiên nữ phẫn nộ.

Khi bạn phát ra âm “P’et”221 thì Bà Mẹ Phẫn Nộ bay lên qua kinh mạch trung ương của bạn. Ngay vào giây phút Bà phóng vọt qua cửa Phạm Thiên trên đỉnh đầu bạn, thân bạn trở thành một tử thi và ngã qụy xuống. Ở đây, đừng nghĩ rằng thân bạn có một hình tướng thông thường. Thay vì thế, hãy hình dung thân thể ấy béo mập, khổng lồ, to lớn như toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới.

Với một độc chiêu duy nhất bằng lưỡi dao cong trong bàn tay phải, Bà Mẹ Sắc Đen Phẫn Nộ – là tâm thức bạn mà bạn quán tưởng trong sắc tướng Bà Mẹ Phẫn Nộ - lập tức lạng một nhát trên đỉnh sọ của thân thể vô tri ở khoảng cặp chân mày để làm thành một cái bình bát bằng sọ người. Một lần nữa, hãy thiền định rằng bình bát bằng sọ người này không lớn như bình thường trong thực tế, mà lớn như thể toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới. Bằng bàn tay trái, Bà Mẹ Phẫn Nộ nhặt bình bát sọ người và đặt bình bát ấy với cặp lông mày của bình bát nhìn về phía Bà trên một chiếc kiềng ba chân làm bằng ba cái sọ người, mỗi cái sọ lớn như Núi Tu Di. Rồi với lưỡi dao có hình móc câu trong bàn tay phải, bà nâng toàn thân tử thi và đặt vào trong bình bát sọ người trên chiếc kiềng ba chân.

Bây giờ hãy quán tưởng trong không gian trên cái sọ một chữ hang màu trắng với bản chất là cam lồ, và dưới cái sọ là nét vạch thẳng đứng của một chữ A,222 màu đỏ, có bản chất là lửa.

hoangtri
05-23-2017, 04:32 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


Khi bạn đọc “Om Ah Hum,” lửa cháy bùng lên từ vạch thẳng của chữ A và đun nấu bình bát sọ người cho tới khi tử thi cháy xèo xèo và tan ra thành cam lồ, nước cam lồ sôi lên và tràn đầy cả cái sọ. Mọi thứ hôi thối và bất tịnh tràn ra ngoài dưới hình thức của một thứ váng bọt. Hơi bốc lên từ nước cam lồ và chạm vào chữ hang; nhờ sự va chạm này mà chữ hang như được hun nóng. Chữ hang rỉ ra những giòng cam lồ đỏ và trắng, nhỏ xuống và hòa trộn nhau trong một hợp thể bất khả phân ở trong cái sọ. Bản thân chữ hang tan ra thành ánh sáng và cũng tan thành chất cam lồ. Khi quán tưởng tất cả những điều này, bạn hãy tụng:

P’et! Tự giải thoát tôi ra khỏi mê đắm xác thân...

và v.v... Sau đó, khi bạn lập lại “Om Ah Hum,” hãy quán tưởng rằng chữ Om tịnh hóa chất cam lồ gồm tất cả những gì bất toàn thiện của màu sắc, hương, vị và v.v....; chữ Ah làm chất cam lồ tăng trưởng gấp nhiều lần; và chữ Hum chuyển hóa chất cam lồ thành tất cả những gì mà ta có thể ước muốn. Chất cam lồ này biến thành bản chất của chất cam lồ tuyệt hảo 223 của trí huệ nguyên sơ, hiển lộ trong dạng những đám mây cuồn cuộn và có thể thỏa mãn bất cứ điều gì bạn đang khao khát.

Hãy quán tưởng trên bầu trời trước mặt bạn một chiếc ngai chất đầy những chiếc nệm bằng lụa, ngự trên đó là vị Thầy gốc (Bổn Sư) tôn quý của bạn trong thân tướng của con người. Ở trên Ngài là các Đạo Sư dòng truyền thừa, xung quanh Ngài là tất cả các Bổn Tôn (Yidam), và phía dưới trong khoảng không phía trên bình bát sọ người là Bảy Mươi Lăm Vị Hộ Pháp Vinh Quang 224 cùng tất cả tập hội những Hộ Pháp khác, cả những vị Hộ Pháp trí tuệ lẫn những Hộ Pháp bị nhiếp phục do nghiệp quả của các hành động trong quá khứ của họ, cùng với các vị thổ thần, thổ địa.

Phía dưới bình bát sọ người, hãy quán tưởng tất cả mọi chúng sinh trong sáu cõi và tam giới– trong số ấy có các vị khách chính của bạn là tám mươi ngàn loại chúng sinh gây ra chướng ngại, mười lăm đại ma quỷ săn bắt trẻ con, và tóm lại, tất cả những kẻ gây ra chướng ngại và những người mà bạn mắc nợ nghiệp, ngập đầy như vô lượng vô số những hạt bụi trong một tia nắng.

hoangtri
05-23-2017, 04:51 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


1. Bữa Tiệc Trắng Dành Cho Thượng Khách

Bây giờ hãy quán tưởng rằng vị Thầy gốc của bạn, các Đạo Sư dòng truyền thừa và tất cả thánh hội chư Phật và Bồ Tát ở trên đầu vị Thầy, tất cả đều hút lấy chất cam lồ bằng lưỡi của các Ngài – lưỡi ấy có hình dạng như những cái ống chày kim cương rỗng. 225 Kết quả của việc quán tưởng này là bạn thành tựu pháp tu tích lũy công đức, giải thoát khỏi các chướng ngại và những giới nguyện mà bạn đã vi phạm hay những thệ nguyện mà bạn đã phá vỡ sẽ được tịnh hóa, cũng như bạn sẽ đạt được các thành tựu thông thường lẫn thành tựu siêu việt.

Các Bổn Tôn (yidam) và các vị Hộ Phật (deity) của bốn và sáu cấp Mật điển, đang vây quanh vị Thầy, cũng đang thọ dụng chất cam lồ, hút chất cam lồ ấy bằng những chiếc lưỡi rỗng – những chiếc lưỡi này có hình dạng tương ứng với biểu tượng của từng vị một như chày kim cang, bánh xe pháp, ngọc quý, hoa sen, hoặc chày kim cang đôi.* Kết quả là bạn thành tựu pháp tu tích lũy công đức, tẩy sạch các chướng ngại của bạn, tịnh hóa những giới nguyện mà bạn đã vi phạm và những thệ nguyện mà bạn đã phá vỡ, đạt được các thành tựu thông thường và siêu việt.

Bây giờ các vị Không Hành nam (daka), Không Hành nữ (dakini), Bảy Mươi Lăm Vị Hộ Pháp Vinh Quang và tất cả các vị Hộ Pháp khác cũng hút phần cam lồ dành riêng cho họ qua những chiếc lưỡi rỗng bằng ánh sáng của họ. Bạn thành tựu pháp tu tích lũy công đức và thoát khỏi mọi chướng ngại; tất cả các chướng ngại và hoàn cảnh bất lợi đối với Pháp và đối với những thành tựu giác ngộ thảy đều được tẩy trừ. Tất cả những hoàn cảnh thuận lợi và những điều tốt đẹp mà bạn tìm kiếm được nhân bội phần lên.

hoangtri
05-24-2017, 04:30 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


2. Bữa Tiệc Trắng Dành Cho Các Vị Khách Ở Dưới Thấp

Kế đó, nếu bạn đã thuần thục trong việc quán tưởng như trên thì hãy tiếp tục quán tưởng chính bạn là Bà Mẹ Chân Chính Sắc Đen Phẫn Nộ, và từ trái tim bạn phóng tỏa ra vô số những vị Không Hành nữ (dakani) đang biểu dương các hoạt động -các dakini này có sắc trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương, giống như vô số những hạt bụi nhảy múa trong những tia nắng mặt trời. Hãy tưởng tượng các vị ấy giúp cho tất cả chúng sinh khắp sáu cõi và trong tam giới được an dịu và hài lòng, vì các vị ấy đã ban tặng cho mỗi chúng sinh một bình bát trí tuệ làm bằng sọ người chứa đầy chất cam lồ tinh khiết.

Nếu bạn thiếu kinh nghiệm trong việc quán tưởng, hãy tưởng tượng rằng chính bạn là Bà Mẹ Sắc Đen Phẫn Nộ – bạn sử dụng bình bát sọ người trong bàn tay trái của bạn để múc nước cam lồ ra khỏi chiếc sọ lớn rồi tung rải nước cam lồ ấy như mưa, cho những giọt cam lồ rơi xuống khắp nơi trong sáu cõi và trong tam giới của sinh tử luân hồi. Tất cả mọi chúng sinh đều uống nước cam lồ ấy và cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn.

3. Bữa Tiệc Đa Dạng Cho Thượng Khách

Một lần nữa, hơi bốc lên từ chất cam lồ được nấu sôi, tạo ra những đám mây cúng dường không thể nghĩ bàn. Hãy cúng dường những đám mây ấy cho các thượng khách: nước tinh khiết để uống và rửa chân, hoa, hương nhang, đèn, nước hoa, thực phẩm và âm nhạc, tám biểu tượng kỳ diệu và bảy báu vật tượng trưng của vương quyền, các dù lọng, cờ chiến thắng, màn trướng, bánh xe vàng với một ngàn cây căm, các ốc xà cừ trắng xoắn về bên phải, và thêm nhiều thứ nữa. Kết quả là bạn và tất cả chúng sinh thành tựu các pháp tích lũy công đức và tất cả mọi chướng ngại đều được tẩy sạch.

hoangtri
05-24-2017, 04:33 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


4. Bữa Tiệc Đa Dạng Dành Cho Các Vị Khách Ở Dưới Thấp

Bây giờ đến các vị khách ở dưới thấp, là tất cả chúng sinh ở sáu cõi luân hồi sinh tử. Bất kỳ thứ gì mà mỗi chúng sinh trong số đó ham muốn, bất kỳ điều gì mỗi chúng sinh ao ước, tất cả những điều ấy trút xuống họ như mưa, làm cho họ thỏa mãn và khiến họ tràn ngập niềm vui.

Hãy đặc biệt nghĩ tưởng tới chúng sinh mà bạn từng mắc nợ trong tất cả các kiếp đã qua của bạn cho tới tận ngày nay trong vòng sinh tử vô thủy vô chung. Chúng ta có đủ thứ loại nghiệp nợ do các hành vi trong quá khứ: các món nợ thâu ngắn đời ta bởi ta từng sát sinh; các món nợ khiến ta nghèo khổ bởi ta từng trộm cắp; các món nợ gây tai họa bệnh tật bởi ta đã tấn công và đánh đập người khác; các món nợ do người quyền thế hơn ta ban cho ta, các món nợ do người thấp hơn ta cung phụng ta, và các món nợ tình cảm bạn bè của những người ngang hàng ta; các món nợ đối với những chúa công và những bộ hạ,226 đối với những người thân yêu, với bạn bè, thần dân, con cái và gia súc; các món nợ của thực phẩm chúng ta đã ăn và quần áo chúng ta đã mặc, của tiền bạc chúng ta đã vay mượn, sữa chúng ta đã vắt, của các gánh nặng mà ta khiến những người khác phải mang vác, các món nợ của các cánh đồng ta đã cày, và của bất kỳ thứ gì khác mà chúng ta có thể đã từng sử dụng.

Tất cả những chủ nợ hay oan gia đó, dù nam hay nữ, đều mong muốn đòi bạn món nợ xương máu, thâu ngắn thọ mạng của bạn và vồ chụp sinh lực của bạn. Họ vác những cái thùng tròn để chưá, chạy theo sau bạn và đòi bạn phải trang trải món nợ đã vay. Phẩm vật cúng dường (chất cam lồ) được chuyển hóa thành một kho tàng vô tận gồm tất cả những gì có thể ước muốn, tất cả trút như mưa xuống họ, đem đến cho từng chúng sinh trong số đó bất kỳ những gì mà họ ao ước nhất. Đem thực phẩm đến cho những ai muốn thực phẩm, quần áo cho những ai cần quần áo, của cải cho những người muốn của cải, vườn tược cho những ai muốn vườn tược, ngựa cho những người muốn ngựa, nhà để ở cho những ai muốn nhà cửa, bạn bè và những người thân yêu cho những ai muốn bạn bè và những người thân yêu.

Khi mỗi chúng sinh trong bọn họ vui hưởng những điều này thì bạn được giải thoát khỏi những món nợ ơn nghĩa của bạn. Các món nợ của bạn đều được trang trải. Bạn được giải thoát khỏi những kẻ tử thù, và tất cả mọi hành vi ác hại và những chướng ngại của bạn đều được giải thoát. Tất cả đều nguôi ngoai và hài lòng.

hoangtri
05-24-2017, 04:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


Sau đó hãy tưởng tượng rằng những người có thể bị bỏ quên - người tầm thường, người yếu đuối, người què cụt, người mù lòa, người điếc, người câm và tất cả chúng sinh trong sáu cõi bị hành hạ và kiệt lực bởi nỗi khổ – hãy nghĩ đến họ và quán tưởng phẩm vật cúng dường (chất cam lồ) biến thành bất kỳ điều gì mà họ có thể cần đến. Thành một nơi nương tựa cho những ai không chỗ nương tựa, một vị mạnh thường quân cho những ai không người bảo trợ, một sự giúp đỡ thân thiết cho những ai không được trợ giúp, người thân và bạn bè cho người cô độc, một vị trí trong xã hội cho người bị tước đoạt, thuốc men để cứu chữa người bệnh, thuốc hồi sinh cho người hấp hối, đôi chân thần kỳ cho người què, đôi mắt minh triết cho người mù, đôi tai thần tình cho người điếc, những cái lưỡi trí tuệ cho người câm,227 và v.v… Hết thảy chúng sinh vui hưởng các món quà tặng và cảm thấy hài lòng, được giải thoát khỏi nghiệp báo, khỏi những đau khổ và khỏi các thói quen huân tập của mỗi một cõi trong sáu cõi luân hồi. Tất cả những chúng sinh nam đạt tới thành tựu của đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara) cao cả, tất cả những chúng sinh nữ đạt tới được thành tựu của đức Quan Âm (Tara) cao quý, và ba thế giới của luân hồi sinh tử (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) được giải thoát khỏi vực thẳm cùng cực.

Tiếp tục trì tụng “Om Ah Hum” cho tới khi bạn hoàn tất toàn bộ công phu quán tưởng này. Rồi đọc đoạn sau đây:

P’et! Các vị khách của pháp cúng dường cao...

xuống tới những chữ:

..Đại Viên Mãn không tạo tác. Ah!

Sau đó hãy an trụ trong trạng thái siêu vượt bất kỳ ý niệm nào về phẩm vật cúng dường, người cúng dường và người thọ nhận cúng dường.

Trong các bản văn Chư thường có bốn đại tiệc: trắng, đỏ, lốm đốm nhiều màu và đen. Trong luận giải này, có các bữa tiệc trắng và lốm đốm màu, không có các bữa tiệc đỏ và đen.

hoangtri
05-24-2017, 04:43 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


Điều mà những người tạm gọi là hành giả Chư ngày hôm nay, họ coi Chư như là một tiến trình rùng rợn hủy diệt các tinh linh hiểm ác bằng cách giết, quất, chặt, đánh hay săn đuổi những tinh linh này. Ý niệm của họ về pháp thực hành Chư bao gồm cả việc luôn luôn giận dữ. Việc làm ra vẻ can đảm của họ không là gì khác hơn ngoài lòng thù ghét và kiêu ngạo. Họ tưởng tượng rằng họ phải hành xử như những thuộc hạ của Thần Chết. Ví dụ, khi thực hành Chư cho một người bệnh, họ tự đưa mình vào một màn phô diễn điên cuồng, nhìn chòng chọc với đôi mắt lớn như những cái đĩa tròn ngập đầy thù hận, nắm chặt tay lại, cắn chặt môi dưới, bất thần đấm mạnh và túm lấy bệnh nhân thật dữ dội đến nỗi lưng áo người bệnh bị rách bươm ra. Họ gọi việc này là sự chế ngự các tinh linh, nhưng thực hành Pháp như thế là việc hoàn toàn sai lầm. Machik Labdron nói:

Từ vô thủy, các tinh linh độc hại đã từng sống trong một cơn lốc ảo giác và đau khổ vô tận, là nghiệp chướng họ phải chịu do các ác hạnh chính họ đã gây trong quá khứ, và bởi các hoàn cảnh bất hạnh này đã cuốn họ đi như một cơn gió. Khi chết, họ không thể tránh khỏi việc bị đọa sâu vào trong vực thẳm của các cõi thấp. Với cái móc của lòng bi mẫn, ta thâu tóm được những tinh linh xấu ác đó. Khi cúng dường cho họ thịt và máu ấm của chính ta để làm thực phẩm, nương vào lòng từ ái và đại bi của Bồ Đề Tâm, ta chuyển hóa cách thức họ nhìn mọi sự và khiến họ trở thành những đệ tử của ta. Đối với ta, những tinh linh hiểm ác đó là phần thưởng ta có được với cái móc của lòng bi mẫn - nhưng những người lão luyện vĩ đại của pháp Chư trong tương lai sẽ lấy làm kiêu hãnh về việc giết hại, trục xuất hay đánh đập những tinh linh này. Đó sẽ là dấu hiệu cho thấy các giáo thuyết sai lầm về pháp thực hành Chư, các giáo lý của quỷ ma, đang lan rộng.

Tất cả các pháp thực hành Chư sai lầm mà nữ hành giả (Machik Labdron) tiên đoán, chẳng hạn như pháp Chư Đen Chín Phẩm – pháp ấy chỉ là kết quả của cái nhìn cho rằng người ta có thể chế ngự các tinh linh bằng bạo lực, không có chút xíu lòng từ và bi nào của Bồ Đề Tâm.

Một người sử dụng các pháp thực hành đó có lẽ cũng có thể hoàn toàn chiến thắng một hoặc hai tinh linh yếu nhỏ, nhưng nếu người ấy gặp phải bất kỳ tinh linh thực sự xấu ác nào thì chúng sẽ đe dọa mạng sống của người ấy để trả đũa như đã từng thấy xảy ra trong nhiều trường hợp.

Đối với các hành giả, thật là đặc biệt khó khăn để có thể biết được những dấu hiệu thành công xảy ra trên đường tu – như việc chế ngự quỷ ma, hoặc một kinh nghiệm được nhận được lực gia trì nào đó – không biết được đây là những dấu hiệu xác thực của tiến bộ trong tu tập, hay thực ra cũng chỉ là các chướng ngại gây ra bởi các thế lực ma vương.

Thường thường, những người bị ám nhập bởi các tinh linh hiểm độc dường như có tài thấu thị cùng các năng lực siêu nhiên. Nhưng càng lúc họ càng xa rời Chánh Pháp cho tới khi họ chẳng còn chút gì tốt lành trong họ. Những phẩm vật cúng dường cao như núi có thể được chất chồng trên người họ, hoàn toàn chỉ là những món nợ nghiệp trong tương lai, và thậm chí cũng không đem lại cho họ điều gì tốt lành trong đời này. Cuối cùng họ nhận ra rằng ngay cả việc tích cóp để đủ ăn đủ mặc cũng là việc rất khó. Rồi những gì họ có thì họ không thể nào đem ra sử dụng. Khi chết, chắc chắn họ sẽ tái sinh trong một địa ngục phù du hay một vài cảnh giới như thế, như chúng ta đã đề cập đến (trong các chương trước).228

hoangtri
05-25-2017, 06:24 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


III. Ý nghĩa của pháp CHO (hoặc CHƯ)

Những chúng sinh gọi là tinh linh bị tiêu diệt trong pháp Chư không ở đâu xa. Họ ở trong chúng ta. Tất cả mọi ảo tưởng mà chúng ta nhận thấy xuất hiện ra, trong hình thức của các tinh linh bên ngoài chúng ta (ngoại ma), là bởi chúng ta không diệt trừ được tánh tự phụ (hay ngã mạn) 229 trong việc tin tưởng ở một cái “tôi” và chấp vào cái “ngã.” Như Machik đã có nói:

Ma quỷ hữu hình, ma quỷ vô hình,
Ma quỷ hả hê và ma quỷ tự phụ -
Tất cả chúng ma đến từ ma vương ngã mạn.230

Cái mà chúng ta gọi là một tinh linh thực ra là ma vương tự phụ, hay là ma chấp ngã, chấp có cái tôi. Machik cũng nói:

“Nhiều tinh linh” có nghĩa là nhiều ý niệm;
“Tinh linh mạnh mẽ” có nghĩa là tin vào một bản ngã;
“Các tinh linh man dã” có nghĩa là các vọng tưởng.
Người tiêu diệt được các tinh linh này sẽ là một hành giả
lão luyện của pháp thực hành Cho.

Cuộc đối thoại giữa Ngài Jetsun Mila với Nữ Yêu Tinh Ở Tảng Đá có những lời như sau:

Việc tin vào một cái “tôi” thì mạnh mẽ hơn cả ngươi, hỡi nữ yêu tinh.
Các ý niệm thì còn nhiều hơn cả ngươi, hỡi nữ yêu tinh.
Các vọng tưởng bị những thói quen huân tập cướp phá
còn nhiều hơn cả bị ngươi cướp phá, hỡi nữ yêu tinh.

Ngài cũng phân loại các loại pháp môn Cho khác nhau sau đây:

Cho bên ngoài là lang thang trong những nơi chốn đáng sợ và núi non cô tịch;
Cho bên trong là quăng ném thân xác hành giả làm thực phẩm;
Cho tối thượng là chặt đứt gốc rễ một lần và mãi mãi.
Ta là một hành giả du già sở hữu ba loại Cho này.

Như thế tất cả các pháp thực hành Cho là để chặt đứt ma chấp ngã, chặt đứt niềm tin vào bản ngã, vì cái ngã là gốc rễ của mọi vô minh và mọi tri kiến lầm lạc. Đây là điều được nói tới qua câu “Cho tối thượng là chặt đứt gốc rễ một lần và mãi mãi.” Các ma quỷ bên ngoài chỉ là những nhận thức lầm lạc, và chừng nào mà bạn không tiêu diệt hết niềm tin của bạn nơi ma chấp ngã [nội ma] thì việc cố gắng tiêu diệt chúng [ngoại ma] sẽ không làm chúng chết được. Đánh đập chúng sẽ không có kết quả. Dẫm nát chúng sẽ không làm chúng tiêu tan. Săn đuổi chúng sẽ không làm chúng bỏ đi. Trừ phi bạn chặt đứt gốc rễ là cái ngã mạn ở trong bạn thì khả năng bạn có thể hủy diệt các tinh linh huyễn ảo -- là biểu hiện bên ngoài của tánh tự phụ -- sẽ không hơn gì việc muốn hết khói mà không dập tắt ngọn lửa. Nữ Yêu Tinh Ở Tảng Đá đã nói với Jetsun Mila:

Nếu Ngài không biết rằng quỷ ma đến từ bản tâm Ngài,
Thì sẽ có những quỷ ma khác chứ chẳng riêng tôi!
Tôi sẽ không ra đi chỉ vì Ngài bảo tôi đi.

hoangtri
05-25-2017, 06:33 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


và Ngài Jetsun Mila đã nói:

Coi một quỷ ma như một quỷ ma thì nó sẽ làm hại ông;
Biết rõ con quỷ trong tâm ông thì ông sẽ giải thoát khỏi nó;
Biết được rằng quỷ ma là trống rỗng thì ông sẽ hủy diệt được nó.

và lại còn nói:

Các ngươi xuất hiện như các tinh linh họa hại và các dạ xoa đực hay cái,
Chỉ khi người ta không hiểu rõ, các ngươi mới là ma quỷ,
Đem lại tất cả những điều xấu ác và chướng ngại.
Nhưng một khi người ta thấu hiểu, thì ngay cả quỷ ma các
ngươi cũng là các Bổn Tôn,
Và trở thành suối nguồn của mọi thành tựu.

Pháp Cho là sự diệt trừ bất kỳ sự tin tưởng nào vào các quỷ ma đến từ bên trong, chứ không phải pháp Cho là để tiêu diệt chúng, đánh đập, trục xuất, đè bẹp và huỷ diệt chúng. Chúng ta phải hiểu rằng cái cần phải bị tiêu diệt thì không ở bên ngoài; nó ở ngay trong chúng ta.

Nói chung, phần lớn các truyền thống tôn giáo khác giảng dạy những phương cách có tính gây hấn với các thế lực thù địch bên ngoài, và với các tác nhân của các chướng ngại từ bên ngoài, sử dụng những phương pháp bạo động sắc bén, dữ dội và mãnh liệt, các đầu tên mũi giáo, tất cả đều hướng ra bên ngoài. Nhưng truyền thống của chúng ta thì như Jetsun Mila nói:

Hệ thống giáo lý của ta nhằm diệt trừ sự tin tưởng vào một bản ngã, ném phăng tám mối quan tâm thế tục ào theo cơn gió, và khiến bốn ma vương cảm thấy bối rối.

Hãy hướng tất cả mọi công phu tu tập của bạn vào bên trong và huy động toàn bộ sức mạnh, phương tiện thiện xảo và các năng lực của bạn để chống lại niềm tin rằng có một bản ngã tồn tại trong bạn. Nếu nói được một lần: “Hãy ăn nuốt tôi! Hãy mang tôi đi!” thì còn tốt hơn gấp trăm lần khi kêu gào: “Xin che chở tôi! Xin hãy cứu vớt tôi!” Cúng dường bản thân bạn để làm thực phẩm cho một trăm tinh linh thì có giá trị hơn việc kêu gọi một trăm vị Bổn Tôn che chở cứu giúp cho bạn.

Chúng ta giao phó bệnh nhân cho ma quỷ.
Chúng ta nương cậy vào kẻ thù để dẫn dắt ta
Một lần nói: “Hãy nuốt tôi đi! Hãy chiếm đoạt tôi đi!”
Thì tốt gấp trăm lần “Xin che chở tôi! Xin cứu vớt tôi!”.
Đây là truyền thống của Bà Mẹ tôn kính. 231

hoangtri
05-28-2017, 10:20 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


Nếu bạn chặt đứt tận gốc niềm tin có quỷ ma bên trong lòng bạn thì bạn sẽ nhận thức được rằng mọi sự đều thanh tịnh, và như có câu tục ngữ nói rằng:

Quỷ ma trở thành các Hộ Pháp, và khuôn mặt của các
Hộ Pháp trở thành khuôn mặt của Hóa Thân.

Ngày nay những người tự cho là các hành giả của Chư lại không hiểu chút gì về điều này, và khăng khăng cho rằng các Tinh linh là cái gì ở ngoài bản thân họ. Họ tin tưởng vào Quỷ ma, và tiếp tục nhận ra chúng trong mọi thời điểm; trong mọi sự việc đang hay đã xảy ra, họ nhìn thấy có một con ma hay gyalgong nào đó. Bản thân họ không có sự an bình trong tâm, và luôn luôn làm người khác bối rối với những tin tưởng sai lầm của họ, được họ bày tỏ với sự quyết đoán khoác lác rằng:

“Có một con Ma ở trên kia! Và một Tinh linh dưới kia nữa! Một con Ma đấy! Một con Quỷ kìa! Một tsen đấy! Tôi có thể thấy nó... Ha! Tôi bắt được nó rồi! Tôi đã giết nó! Coi chừng, có một con Ma đang rình anh đó! Tôi đã đuổi nó đi! Kìa - nó nhìn lại kìa!”

Các Tinh linh và Quỷ đói biết rõ những người như thế đang làm gì, và quanh quẩn bên họ bất kỳ nơi nào họ đến. Chúng chiếm hữu tài sản của những người đàn bà dễ rơi vào hôn mê, chẳng hạn là như vậy, và dùng mọi loại luận điệu khẳng định và có vẻ hợp lý như sau: ”Ta là một vị Trời,” “Ta là một con Ma,” “Ta là người đã chết,” “Ta là cha trong tiền kiếp của ngươi,” “Ta là mẹ trong tiền kiếp của ngươi,” và v.v... Đôi khi họ tuyên bố: “Ta là Bổn Tôn, ta là một Hộ Pháp. Ta là Damchen,” và nói về các thị kiến siêu nhiên hay đưa ra các tiên đoán sai lạc.

Quỷ ma lừa gạt các Lạt Ma và các Lạt Ma lừa gạt các thí chủ, hoặc như tục ngữ có nói: “Đứa con trai lừa phỉnh cha nó trong khi kẻ thù lừa phỉnh đứa con trai.” Đó là những dấu hiệu hiển nhiên của thời đại suy thoái, và chỉ ra rằng chúng Quỷ Ma đang kế tục sự nghiệp. Như Đại Đạo sư xứ Oddiyana đã tiên đoán:

Trong thời đại suy đồi, các Tinh linh đực sẽ nhập vào tim những người nam,
Tinh linh cái sẽ nhập vào tim những người nữ;
Yêu tinh sẽ nhập vào tim trẻ con;
Những kẻ vi phạm Mật nguyện sẽ nhập vào trái tim của giới Tăng lữ.
Sẽ có một Tinh linh trong mỗi trái tim người Tây Tạng.

hoangtri
05-28-2017, 10:48 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG V : KUSALI
__________________________________________________ ______________________________________


Và:

Khi các yêu tinh được coi như các vị Trời, một thời đại đau khổ sẽ tấn công xứ Tây Tạng.

Các tiên tri này đã xảy ra.

Đừng để bị lừa gạt bởi tri kiến sai lầm khiến cho các vị Trời, Tinh linh và những kẻ gây chướng ngại có cơ hội xuất hiện ở bên ngoài bạn; điều đó sẽ chỉ tăng thêm sức mạnh cho tri kiến sai lầm của bạn. Hãy tu tập bản thân để nhận ra rằng mọi sự đều là một phô diễn như mộng hay như ảo ảnh. Các hiện tượng có Tinh linh ở một phía và có người bệnh ở phía bên kia đang xuất hiện chốc lát, như có kẻ gây hấn và có một nạn nhân, cả hai đều phát sinh từ những hành vi xấu ác, và rồi các tri kiến lệch lạc liên kết với nhau trong cách thức đó. Đừng đứng về phe nào, đừng yêu thích người này và ghét bỏ người khác. Hãy phát khởi lòng từ và bi của Bồ Đề Tâm tới cả hai bên. Hãy chặt đứt tận gốc mọi mối quan tâm tới bản ngã và chặt đứt mọi tin tưởng vào một cái “tôi” của bạn, và hãy hiến tặng thân thể và đời sống bạn để làm thực phẩm cho các tinh linh không chút do dự. Hãy cầu nguyện từ tận đáy lòng bạn rằng những chúng sinh này có thể được lợi lạc trong Giáo Pháp chân chính và hãy làm an dịu lòng thù ghét và ác tâm của chúng, và sau đó hãy giảng giải giáo lý cho chúng. 232

Sau cùng, khi bạn chặt đứt tận gốc tất cả mọi sự tin tưởng sai lạc vào tính nhị nguyên của kẻ gây hấn và của nạn nhân, chặt đứt mọi sự tin tưởng sai lạc vào nhận thức đây là Bổn Tôn và kia là ma quỷ, đây là mình và kia làø người - và vào tất cả mọi ý niệm phân chia đối đãi đến từ hy vọng và sợ hãi, từ tham luyến và thù ghét, từ cái tốt và cái xấu, từ niềm vui và nỗi khổ – thì rồi ra, bạn sẽ nhận ra được rằng:

Không Bổn Tôn, cũng không quỷ ma: sự xác tín của cái Thấy.
Không phóng tâm, cũng không bám luyến: điểm trọng yếu của thiền định.
Không chấp nhận, cũng không phủ nhận: điểm trọng yếu của hành động.
Không hy vọng, cũng không sợ hãi: điểm trọng yếu của đạo quả.

Khi mọi ý niệm (tạo tác) về bất cứ điều gì đều được cắt đứt và người thực hiện việc cắt đứt ấy tan hòa vào cái bao la của thực tại tuyệt đối nơi mà mọi sự đều bình đẳng, thì Tinh linh hãm hại bên trong của tánh tự phụ hay ngã mạn sẽ bị chặt đứt tận gốc rễ. Đó là dấu hiệu bạn đã chứng ngộ pháp Chư tuyệt đối và tối hậu:

Con hiểu ra rằng không có bản ngã, nhưng vẫn còn có các ý niệm khổng lồ về cái “tôi”.
Con từng quyết định từ bỏ tâm đối đãi, nhưng bị bao vây bởi hy vọng và sợ hãi.
Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ chấp ngã như con
Để chúng con có thể chứng ngộ trạng thái như nhiên, vắng bặt bản ngã.

hoangtri
05-29-2017, 11:13 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________



CHƯƠNG 6

PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ 233

CÁNH CỔNG DẪN ĐẾN NĂNG LỰC GIA TRÌ,

PHƯƠNG PHÁP TỐI HẬU ĐỂ CHỨNG NGỘ TUỆ GIÁC


Trước tiên, Ngài đã theo chân một Đạo Sư siêu việt và tuân lời Thầy;
Ngài đã tu tập trải qua bao gian khổ lớn lao;
Cuối cùng, tâm Ngài và tâm của Đạo Sư đã hợp nhất,
và Ngài thừa kế dòng truyền thừa.
Bậc Thầy Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

I. LÝ DO CÓ PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ (Guru Yoga)

Để có thể thực hành Chân Pháp, điều tối quan trọng trước tiên là phải đi tìm một vị Thiện tri thức chân chính, một vị Chân Sư với tất cả các phẩm hạnh cần thiết. Sau đó bạn cần tuân theo từng giáo huấn của Ngài, khẩn cầu Ngài từ tận đáy lòng bạn và coi Ngài như một vị Phật đích thực. Như một trong các Kinh điển có nói:

Chính nhờ có tín tâm mà Chân lý Tuyệt đối được chứng ngộ.

Tương tự, Ngài Atisa đã nói:

Các bạn, cho tới khi đạt được giác ngộ, các bạn cần một vị Thầy, vì thế hãy đi theo một vị Thiện tri thức siêu việt.
Cho tới khi chứng ngộ trạng thái như nhiên, các bạn cần phải học hỏi, vì thế hãy lắng nghe các giáo huấn của Ngài.
Tất cả hạnh phúc là năng lực gia trì của Thầy, vì thế hãy luôn luôn tưởng nhớ đến lòng tốt của Ngài.

Geshe Kharak Gomchung cũng nói:

Ta cần ý thức được rằng vị Thầy giống như suối nguồn của mọi thành tựu thế gian lẫn các thành tựu xuất thế gian.

và cũng nói:

Bạn có thể thông hiểu toàn bộ Tam Tạng, nhưng nếu không có lòng quy ngưỡng đối với Thầy của bạn thì những thứ đó sẽ chẳng có ích lợi gì cho bạn.

Điểm đặc biệt là trong tất cả các con đường của Mật Thừa, bậc Thầy có một tầm quan trọng vô song và tột bậc. Vì lý do này, tất cả mọi Mật điển đều dạy phương pháp thực hành Bổn Sư Du Già, và dạy rằng pháp này siêu vượt tất cả các pháp hành trì khác trong các giai đoạn phát triển và thành tựu. Trong một Mật điển có nói:

Lợi lạc hơn cả công phu thiền định về một trăm ngàn Bổn Tôn trong mười triệu kiếp
Là việc ta nghĩ tưởng về Thầy mình trong một khắc giây.

hoangtri
05-29-2017, 11:22 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Điều ấy đặc biệt đúng trong Thừa này, là tâm yếu của Đại Viên Mãn như nhiên, là giáo lý kim cương cốt lõi. Ở đây ta không được dạy rằng chân lý thâm diệu phải được thiết lập trên nền tảng của phân tích và luận lý, như các pháp thực hành trong các Thừa thấp hơn đã dạy.234 [Theo các chỉ dạy trong pháp Bổn Sư Du Già], ta không cần phải sử dụng các thành tựu thông thường để cuối cùng mới đạt đến được các thành tựu tối cao như trong các Mật điển cấp thấp đã dạy. Thông thường, qua lễ quán đảnh thứ ba – tức lễ quán đảnh về tâm của các Mật điển thượng thưà, ta sẽ được chỉ cho thấy đâu là Giác tánh nguyên sơ qua những dẫn dụ về tâm, và xuyên qua đó, ta sẽ đến gần hơn với Giác tánh nguyên sơ đích thực. 235 Nhưng trong pháp môn Guru Yoga thì cách thức quán đảnh và dẫn dụ như trên không phải là điều được chú trọng đến. Điều được dạy trong truyền thống Guru Yoga là hãy hướng tâm ta đến một vị Thầy đã chứng ngộ siêu việt và cầu nguyện Ngài với lòng quy ngưỡng nhiệt thành và với một tín tâm tuyệt đối. Vị Thầy ấy phải là người xuất thân từ một giòng truyền thừa không bị hoen ố vì bất cứ một vi phạm thệ nguyện nào, giống như một sợi giây xích bằng vàng ròng – hãy nương cậy nơi Ngài, chỉ độc nhất một mình Ngài, và hãy coi Ngài đích thực là một vị Phật.236 Qua phương cách này, tâm bạn sẽ hoàn toàn hòa nhập với tâm Ngài. Nhờ năng lực gia hộ mà Ngài trao truyền cho bạn, kinh nghiệm chứng ngộ sẽ nảy sinh.237 Như chúng ta đã trích dẫn trước đây:

Tuệ giác bẩm sinh viên mãn chỉ có thể hình thành
Như là dấu hiệu của công phu tích lũy công đức và tịnh hóa chướng ngại,
Và nhờ vào năng lực gia trì của một bậc Thầy chứng ngộ.
Hãy hiểu rằng nương tựa vào bất kỳ phương tiện nào khác là điên rồ.

Và Ngài Saraha có nói:

Khi lời dạy của Thầy đi vào trái tim của bạn,
Bạn sẽ thấy chẳng khác nào có một kho tàng trong lòng bàn tay.

hoangtri
05-29-2017, 11:24 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Ngài Longchenpa, Pháp Vương Toàn Giác, trong tác phẩm luận giải An Trú Xa Lìa Ảo Giác ,238 đã viết:

Trong các pháp thực hành chẳng hạn như những pháp tu tập trong giai đoạn phát triển và thành tựu, không phải tự bản chất của những pháp tu này sẽ đem lại giải thoát, bởi vì điều đó còn tùy thuộc vào những yếu tố khác, chẳng hạn như là việc làm thế nào để ta có thể biến kinh nghiệm tu tập thành kinh nghiệm sống thực, giúp cho công phu thực hành của ta thêm phần sâu sắc. Tuy là như vậy nhưng trong pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga), tự ngay bản chất của con đường này đã có khả năng làm sống dậy kinh nghiệm chứng ngộ trạng thái chân như trong ta, và đem lại cho ta giải thoát. Bởi vì lý do như thế mà Guru Yoga là con đường thâm diệu nhất trong tất cả mọi con đường [trong tất cả các pháp tu].239

Trong Mật Điển Trình Tự Giới Nguyện có nói:

Lợi lạc hơn cả việc thiền định trong một trăm ngàn đại kiếp
Về một Bổn Tôn với tất cả các tướng chánh và phụ
Là việc ta hướng tâm về Thầy mình trong giây khắc.
Lợi lạc hơn cả một triệu câu trì tụng của các pháp tu trong giai
đoạn phát triển và thành tựu (của Bổn Sư Du Già).
Là một lời cầu nguyện độc nhất gửi tới Thầy ta.

Và trong Mật Điển Trình Tự Pháp Tu A-Ti Du Già có nói:

Bất kỳ ai thiền định về bậc Thầy từ ái của mình
Trên đỉnh đầu họ,
Nơi giữa trái tim họ
Hoặc trong lòng bàn tay,
Sẽ có được các thành tựu của một ngàn vị Phật.

Bậc tôn kính Gotsangpa đã nói:

Thực hành pháp tu Bổn Sư Du Già
Làm cạn kiệt mọi khiếm khuyết và hoàn thiện mọi thành tựu.

và cũng có nói:

Có vô số các pháp tu trong giai đoạn phát triển,
Nhưng không có pháp nào trong số đó vượt qua pháp thiền
định về Thầy.
Có vô số các pháp tu trong giai đoạn toàn thiện,
Nhưng không có pháp nào vượt qua niềm tin tuyệt đối và lòng quy phục kia.

hoangtri
05-30-2017, 11:19 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Drikung Kyobpa Rinpoche nói:

Trừ phi mặt trời của lòng quy ngưỡng chiếu sáng
Trên đỉnh núi tuyết của bốn Thân của Thầy (four kayas),
Thì lực gia trì của Ngài sẽ không bao giờ tuôn chảy.
Vì thế, hãy hết lòng khơi dậy lòng quy ngưỡng trong tâm con!

Và Ngài Jetsun Rangrik Repa nói:

Muốn cho trí tuệ nguyên sơ siêu vượt tri thức ló rạng
Mà không có lòng tin nhiệt thành nơi Thầy
Thì giống như mong chờ ánh nắng mặt trời trong một cái hang quay về hướng bắc.
Theo đó, tướng và tâm sẽ không bao giờ hòa hợp được.240

Pháp tu quy ngưỡng của Bổn Sư Du Già là con đường duy nhất đánh thức được trong bạn trạng thái chứng ngộ như nhiên phi tạo tác. Không phương pháp nào khác có thể đem lại sự chứng ngộ như thế.

Ngài Naropa là một học giả hết sức uyên bác trong cả ba Thừa, và sau khi đánh bại mọi thách thức của những kẻ ngoại đạo (tirthika), Ngài được ban cho tước vị của một vị Hộ Thần của các học giả ở cổng phía bắc của Vikramasila.100

Nhưng một ngày kia một Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini) bảo Ngài: “Ông uyên bác trong ngôn từ, chứ không thâm nhập ý nghĩa của chúng. Ông vẫn cần phải theo chân một vị Thầy.”

Tuân theo những giáo huấn trên, Ngài đi theo Tổ Tipola và chịu đựng nhiều thử thách, cho tới một hôm Tilopa bảo Ngài: “Mặc dầu ta dạy ông mọi sự, ông vẫn chẳng hiểu gì cả!” và đánh một chiếc dép lên trán Ngài. Ngay khi đó, Naropa chứng ngộ bản tánh như nhiên và trí huệ của Ngài trở nên đồng nhất với trí huệ của Thầy.*
* Để biết thêm chi tiết xin xem thêm Phần Một, Chương Sáu, Mục III.

hoangtri
05-30-2017, 11:23 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Cũng có truyện kể lại rằng Ngài Nagabodhi đã đạt được thành tựu tối cao bằng cách chộp lấy và nuốt một bện nước mũi nhỏ xuống của Đạo Sư cao quý Nagarjuna. Và Rigdzin Jigme Lingpa nói:

Khi tôi xem các tác phẩm của Ngài Longchenpa, một vị Phật Thứ Hai - thì trong trí tôi lóe lên tư tưởng rằng Ngài đích thật là một vị Phật, và tôi cầu nguyện Ngài với lòng chí thành mãnh liệt. Ngài đã thị hiển trong một linh kiến và đã chấp nhận [lời khẩn cầu] của tôi. Kinh nghiệm chứng ngộ tự nhiên phát sinh trong tôi và từ ngày hôm đó trở về sau, tôi đã có thể dẫn dắt trên một trăm đệ tử. Những đệ tử tinh tấn lẽ ra không vượt quá khả năng nhập định tầm thường, những đệ tử thông minh lạc lối lẽ ra đã có thể lạc vào lối mòn trí thức; nhưng họ đã chứng ngộ được chân lý tuyệt đối vì họ được lòng quy ngưỡng dẫn dắt như một năng lực đối trọng [để đem lại cho họ sự quân bình trong tu tập].

Suốt thời kỳ tha hương ở Gyalmo Tsawarong, đại dịch giả Vairotsana đã dạy cho cụ già Pang Mipham Gonpo cách vận dụng năng lực gia trì của bậc Thầy như một con đường tu. Mipham Gonpo đã tám mươi tuổi và thân thể trì trệ vì tuổi già. Vì thế Ngài Vairotsana đã giúp ông giữ thân thể ngồi thẳng bằng một dây-đai-thiền-định và dựa đầu trên một giá-đỡ-thiền định.** Mipham Gonpo đã chứng ngộ kinh nghiệm thuần tịnh nguyên thủy của trekcho không chút sai lạc. Thân ông hòa tan thành vô lượng những hạt cực vi (infinitestimal particles) và đã đạt được Phật Quả.241
** Dây-đai-thiền-định là một dây thắt lưng dài giúp thiền giả duy trì trong một tư thế ngay ngắn suốt thời gian dài ngồi thiền. Giá- đỡ- thiền-định là một cây gậy dài khum lại ở một đầu dùng như một giá đỡ cằm.

Bạn có thể so sánh giáo lý này với bất kỳ giáo lý nào khác của tất cả chín Thừa, nhưng bạn sẽ không bao giờ tìm ra được một con đường tốt đẹp hoặc thâm diệu nào hơn giáo lý này. Pháp tu Guru Yoga này có thể được gọi là một pháp tu sơ đẳng nhưng thực ra đây là chìa khóa then chốt tối hậu của toàn thể các pháp tu chính yếu. Trong bất kỳ tình huống nào cũng vậy, nếu bạn luôn lấy pháp tu này làm cốt tủy cho việc tu hành của bạn, thì chỉ mình pháp ấy thôi là đã đủ – ngay cả nếu bạn không thực hành pháp nào khác nữa. Vì thế, điều cực kỳ quan trọng là bạn hãy hiến mình cho pháp tu này từ tận đáy lòng sâu thẳm.

hoangtri
05-31-2017, 05:19 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ

Phần thực hành chính yếu của pháp tu Bổn Sư Du Già thâm diệu gồm có ba giai đoạn: quán tưởng ruộng công đức, cúng dường thất chi phổ hiền (seven-branch offering) và cầu nguyện với lòng tin chí thành.

1. Quán Tưởng Ruộng Công Đức

Để có thể chuyển hóa nhận thức của bạn về thế giới này, việc ấy đòi hỏi một tâm thức mạnh mẽ và khai phóng. Vì thế hãy bắt đầu bằng việc quán tưởng tất cả mọi thứ mà bạn có thể nhìn thấy trong tầm nhìn xa rộng của bạn chính là Cung Điện Liên Hoa Quang, với đầy đủ những đường nét đặc thù của một cung điện.

Hãy quán tưởng chính bạn ở ngay trung tâm của cung điện, và thấy rằng bạn đang hiển lộ những đặc tánh tự nhiên của Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini) Yeshe Tsogyal. Việc quán tưởng như trên đảm bảo rằng bạn sẽ là một bình chứa thích hợp cho các lễ quán đảnh, sẽ giúp khơi dậy trí huệ nguyên sơ của đại lạc và tánh Không, và sẽ liên kết được với những hướng dẫn mà vị Thiên Nữ ấy đã được thọ nhận từ bậc Sư Phụ. 242 Theo hình tướng thì thật ra, bạn phải quán chính bản thân bạn là vị Hộ Phật Kim Cang Thủ (Vajrayogini). Đấng Vajrayogini có sắc tướng màu đỏ, với một khuôn mặt, hai tay và ba mắt. Vajrayogini đang tha thiết hướng mắt nhìn vào trái tim của vị Thầy –“tha thiết” ở đây diễn tả một cảm giác nóng lòng, không thể kiên nhẫn chờ đợi trong việc hoà nhập với Thầy. Ngài là suối nguồn duy nhất của mọi hỉ lạc. Sử dụng bàn tay phải,

Vajrayogini đang đánh vào một cái trống nhỏ làm bằng sọ người được giơ cao lên trong không trung, đánh thức chúng sinh ra khỏi giấc ngủ vô minh và lầm lạc. Bàn tay trái đặt lên hông, và cầm một lưỡi dao cong chặt đứt gốc rễ của tam độc. Vajrayogini không mặc y phục ngoại trừ những vật dụng bằng xương và các vòng hoa. Vajrayogini thị hiện ra trước mặt ta nhưng đó chỉ là giả hợp, không có thực chất, giống như một chiếc cầu vồng ở giữa bầu trời.

hoangtri
05-31-2017, 05:24 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Lơ lửng trong không gian trên đầu vị ấy cách khoảng một mũi tên là một hoa sen trăm ngàn cánh làm bằng nhiều loại châu báu đang nở rộ. Trên (đoá sen) đó là một đĩa mặt trời, trên nữa là một đĩa mặt trăng. Trên pháp toà này, có vị Thầy gốc hay Bổn Sư vinh quang của bạn đang an tọa. Ngài thị hiện trong hình tướng của đại Đạo Sư xứ Oddiyana, là kho tàng của lòng Đại Bi vô song, là hiện thân của chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ngài mang sắc trắng, pha đỏ. Ngài có một khuôn mặt, hai tay và hai chân. Ngài ngồi trong tư thế vương gia và choàng một vuông vải bằng gấm thêu kim tuyến, đắp thêm chiếc y của một vị Tăng, cùng một áo choàng xanh lam dài tay, trên đầu đội một chiếc mũ hoa sen.

Có cả thảy ba chiếc mũ khác nhau có liên hệ với Guru Rinpoche. Ngài cũng được gọi là Đức Phật Thứ Hai của xứ Oddiyana. Chiếc mũ thứ nhất được các dakini cúng dường cho Ngài khi Ngài sinh ra đời. Ngài không được thụ thai bởi một người cha hay được sinh ra từ một người mẹ, mà được đản sinh ở phương Tây-Nam, trên Hồ Sữa, giữa một bông sen. Việc đản sinh này của Ngài đã xảy ra thình lình, là một nảy nở tự nhiên của giác tánh, là kinh nghiệm chứng ngộ rằng vạn pháp hữu vi đều phát sinh từ nền tảng nguyên sơ. Chiếc mũ miện mà các dakini cúng dường Ngài để tôn phong ngài như Pháp vương của họ, chiếc mũ miện ấy được gọi là Nụ-Sen.

Về sau, khi Ngài thực hành các hoạt động phi thường 243 nơi Tám Mộ Địa Vĩ Đại và siêu vượt mọi hành động tốt hoặc xấu, các vị Không-Hành-nữ (dakini) đã hiến dâng cho Ngài chiếc mũ gọi là Mũ Da-Hươu 244 như một biểu tượng cho sự vĩ đại của Ngài.

Chiếc mũ thứ ba do Arsadhara, Vua xứ Zahor cúng dường Ngài. Vua đã quyết tâm thiêu sống Đạo Sư, nhưng ông khám phá ra thân kim cương của Ngài không bị ngọn lửa làm cho tổn hại, thân này đang ngồi trần trụi, hoàn toàn tươi tắn, mát mẻ giữa một đoá sen kỳ diệu. Nhà vua hết sức kinh ngạc và đức tin xuất hiện trong lòng Ngài.

“Hãy mở kho quần áo lụa mới của ta ra,” vua ra lệnh, “và đem cho ta tất cả những mũ miện và y phục.” *Xem Thuật ngữ.

hoangtri
05-31-2017, 05:30 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Cái mũ mà vua cúng dường (cho đức Liên Hoa Sanh) vào lúc đó, không những được cúng dường cùng với những của cải khác của nhà vua, mà còn cùng với quyến thuộc, vương quốc và thần dân của vua nữa. Mũ ấy được gọi là Hoa Sen Giải thoát Nương Nơi Cái Thấy, cũng được gọi là Mũ Cánh Hoa Thuộc Ngũ Bộ Phật. Chính cái mũ đặc biệt này là cái mũ mà chúng ta quan tâm đến ở đây. Mũ này có hai lớp, trong và ngoài, tượng trưng cho sự hợp nhất của các giai đoạn phát triển và thành tựu. Mũ có ba chỏm, tượng trưng cho ba Thân (three kayas). Năm màu của mũ tượng trưng cho năm Thân* làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Mũ được trang trí với một mặt trời và mặt trăng tượng trưng cho các phương tiện thiện xảo và trí tuệ. Mũ còn có thêm một viền xanh dương tượng trưng cho các mật nguyện vô giới hạn. Trên chóp đỉnh có một chiếc chày kim cương (vajra) là biểu tượng của công năng thiền định cao độ không gì lay chuyển được, và thêm một chiếc lông chim kên kên, tượng trưng cho kinh nghiệm chứng ngộ của cái thấy cao tột và là cực điểm của công phu tu hành.

Bàn tay phải của Ngài đặt nơi khoảng trái tim, phô diễn ấn phẫn nộ và trong tay có cầm một chiếc chày kim cang bằng vàng. Bàn tay trái đặt trong lòng trong ấn thiền định và trong tay có cầm một bình bát làm bằng sọ người. Bình bát chứa đầy nước cam lồ bất tử của trí tuệ và [bên trong bình bát có đặt] một bình trường thọ, trên bình trường thọ có cắm một chồi non của cây ước nguyện. Trong vòng tay trái, Đạo Sư (Guru Rinpoche) cầm cây chĩa ba khatvanga**— cây khatvanga này là biểu tượng bí mật của Mandarava, là vị Thiên Nữ Trí Tuệ (dakini) thủ hộ đứng đầu tất cả các Thiên Nữ. Ba ngạnh của khatvanga tượng trưng cho chân tánh tinh yếu, cho sự biểu lộ tự nhiên, và cho lòng bi mẫn, và ở dưới ba ngạnh này là là ba thủ cấp: một đầu đã khô tượng trưng Pháp Thân, một đầu thối rữa, tượng trưng Báo Thân, và một đầu mới cắt tượng trưng Hóa Thân. Chín vòng kim khí móc trên những ngạnh của khatvanga tượng trưng cho chín thừa; những giải cờ lụa năm màu tượng trưng cho năm trí tuệ. Khatvanga cũng được trang điểm bằng những mảng tóc của các mamo *** hoặc đã chết hoặc còn sống và của những vị Thiên Nữ, như một dấu hiệu cho thấy Đạo Sư đã nhiếp phục được họ trong suốt thời gian Ngài đã thực hành các hoạt động phi thường trong Tám Mộ Địa Vĩ Đại. 245
**Một loại đinh ba đặc biệt
*** Phạn: matrika, một loại thiên nữ (dakini) phẫn nộ

Khắp chung quanh Ngài, trong một khối cầu vồng chói lọi được vây quanh bởi một mạng lưới gồm vô số những tụ điểm ánh sáng năm màu, hãy quán tưởng Tám Vị Trì Minh Vương (Vidyadhara) của Ấn Độ, Hai Mươi Lăm Đại Đệ tử của Tây Tạng, cũng như hằng hà sa số các vị Bổn Tôn của Ba Nguồn

hoangtri
05-31-2017, 05:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Gia Trì (Three Roots) cùng các vị Hộ Pháp trung thành. Các ngài phải thật sự hoá hiện [trước mặt bạn] như thế nào để chính sự hiện hữu ấy có thể chặt đứt được những tư tưởng phàm tục trong bạn.

Nói rộng ra thì có ba phương cách khác nhau để quán tưởng dòng truyền thừa. Trong phần thực hành quy y, chúng ta đã quán tưởng các Lạt Ma vị này ở trên vị kia. Tất cả các Lạt Ma của dòng đại Viên Mãn xuất hiện vị này trên vị kia trên đỉnh đầu của Đạo Sư xứ Oddiyana. Còn cách thức chúng ta quán tưởng khi thiền định và trì tụng pháp Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) còn được biết đến như làø viên ngọc dung chưá tất cả. Tất cả các Lạt Ma gốc và các Lạt Ma thuộc dòng truyền thừa cùng xuất hiện trong hình tướng của duy nhất của đức Kim Cang Tát Đoả. Nhưng bây giờ, khi thiền định về Guru Yoga, chúng ta quán tưởng các Lạt Ma như một tổng hợp [cùng hội tụ lại]. Tất cả các Lạt Ma của dòng Đại Viên Mãn, đại dương của Ba Nguồn Gia Trì, cùng với các vị Hộ Pháp trung thành, tất cả đều tụ hội lại thành một thánh chúng xung quanh đại Đạo Sư xứ Oddiyana.

Hãy trì tụng bản văn quán tưởng, chú ý tới ý nghĩa của các ngôn từ:

Emaho! 246 Tất cả những gì con cảm nhận đều là một Phật cảnh đang được hình thành tự nhiên, thanh tịnh và vô tận...

xuống tới:

...được quán tưởng trong sự đồng nhất vĩ đại, bất khả phân của tánh sáng (clarity) và tánh Không (emptiness).

Rồi với lòng quy ngưỡng mãnh liệt, hãy trì tụng những giòng này:

Hum! Nơi biên địa Tây Bắc xứ Oddiyana..

xuống tới:

..Guru Padma Siddhi Hum.247

Khi bạn tụng đọc những dòng này, hãy tưởng tượng rằng tất cả các Bổn Tôn và Cung Điện Liên Hoa Quang ở Núi Đồng Đỏ Huy Hoàng như thực sự xuất hiện và tan hoà vào các Bổn Tôn thệ nguyện và vào cung điện 248 mà bạn đã quán tưởng, tất cả trở thành một như nước đổ vào với nước.

hoangtri
06-01-2017, 11:34 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2. Cúng Dường Thất Chi Phổ Hiền


Con đường Kim Cương Thừa bao gồm nhiều phương pháp tu tập đa dạng, và không phải trải qua các gian khổ lớn lao. Con đường này được dành cho những người có căn cơ sâu sắc. Nếu chúng ta bền bỉ tu luyện bản thân để tích lũy công đức và trí tuệ với một quyết tâm mạnh mẽ, mọi sự lẽ ra phải mất cả một đại kiếp để tích lũy qua con đường hành trì sáu Ba la mật, nhưng nay theo con đường của Kim Cương Thừa thì ta có thể thành tựu chỉ trong khoảnh khắc, và có thể đạt được giải thoát chỉ trong một đời.

Không còn gì phải nghi ngại vì thửa ruộng công đức tối hảo duy nhất, bí mật và vô song ấy chính là bậc Đạo Sư Kim Cương.249 Đó là lý do vì sao pháp vun bồi công đức được kết hợp với pháp tu Bổn Sư Du Già (Guru Yoga). Thất chi phổ hiền của pháp cúng dường cũng bao gồm toàn thể rất nhiều các phương pháp tích lũy công đức và trí tuệ.

2.1 LỄ LẠY,250 PHƯƠNG PHÁP ĐỐI TRỊ TÁNH KIÊU NGẠO

Đối với pháp môn lễ lạy này, hãy quán tưởng là bạn đang phân thân thành một trăm, một ngàn, rồi thành ra vô số thân thể như thân thể bạn hiện nay, nhiều như vô lượng những hạt bụi trong thế giới. Đồng thời hãy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh vô lượng như không gian vô lượng đang lễ lạy cùng bạn. Những câu tụng đọc được sử dụng trong phần này là:

Hrih! Con xin quy mạng lễ, hoá hiện thành nhiều thân,
Nhiều như những vi trần trong toàn thể thế giới.

Nói chung, khi bạn thực hành toàn bộ “năm trăm ngàn pháp tu chuẩn bị”,251 bạn có thể kết hợp phần lễ lạy với pháp thực hành quy y, làm như vậy là đúng chứ không sai, và truyền thống kết hợp cả hai phương pháp đó cũng thường được [các hành giả] noi theo. Nhưng riêng trong giáo lý giảng dạy về pháp lễ lạy được cắt nghiã ở đây thì việc kết hợp phần lễ lạy với pháp hành trì Bổn Sư Du Già mới chính là một phương pháp tuyệt hảo để tu tập.

hoangtri
06-01-2017, 11:36 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Điều quan trọng cần chú ý khi thực hành pháp môn lễ lạy là phải liên kết thân, ngữ, và ý. Khi bạn lễ lạy bằng thân, hãy trì tụng lời cầu nguyện lễ lạy bằng ngữ của bạn. Trong khi đó, hãy dùng tâm để nhận biết rằng bạn đang thực hành lễ lạy cùng tất cả chúng sinh và thực hành lễ lạy với lòng tôn kính và quy ngưỡng, hoàn toàn nương tựa vào Thầy của bạn và hoàn toàn quy phục Ngài. Mặt khác, bạn sẽ phải hoàn toàn dứt bỏ việc phát ngôn bừa bãi theo sở thích, hoặc ngó quanh ngó quất khắp mọi nơi trong khi tâm bạn tiếp tục theo đuổi đủ loại hiện tượng đang xảy ra bên ngoài. Có một kẻ nào đó đi ngang qua, hay một người nào đó đang nói chuyện ở phía bên phải của bạn thì bạn sẽ chú ý về phía đó và đôi mắt bạn sẽ bị lôi kéo về phía đó, và bạn sẽ thấy mình đang chắp đôi bàn tay lại ép lên má trái. Khi có ai đó xuất hiện ở bên phiá trái của bạn, bạn sẽ nhìn quanh, lắng nghe về phía đó và đôi bàn tay chắp lại của bạn cuối cùng lại chạm vào má bên phải. Bạn phải hiểu rằng nếu bạn chỉ trình diễn bề ngoài bằng cách lễ lạy như thế, để cho tâm buông lung phóng dật trong khi thân bạn tự lắc lư lên xuống thì đó chỉ là một thứ thử thách cho xác thân mà không đem lại bất kỳ lợi lạc nào.

Khi lạy, bạn hãy chụm hai bàn tay lại trong hình dạng của một búp sen sắp nở, còn chừa một khoảng trống ở giữa [hai lòng bàn tay]. Không được ép sát hai bàn tay lại với nhau mà không để chừa khoảng không ở giữa, cũng như không được chắp hai tay bằng cách chỉ chạm các đầu ngón tay lại với nhau mà thôi. Kinh Đại Giải Thoát có nói:

Đôi bàn tay chắp lại trên đầu
Như một búp sen hé nở,
Và với vô lượng thân này tụ hội giữa trời mây
Con quỳ lạy mười phương chư Phật.

Và Kho Báu Thiện Đức có nói:

Hãy làm một biểu hiện tôn kính nơi tim,
Thân cúi xuống thấp, tâm không phóng dật,
Đôi bàn tay chụm lại như một búp hoa
Và gắn liền với nhau như chiếc hộp đựng xá lợi.

hoangtri
06-01-2017, 11:38 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Hãy chắp hai bàn tay lại và đặt trên đỉnh đầu bạn, rồi đặt ở yết hầu (cổ họng) và đặt nơi tim bạn để tịnh hóa các chướng ngại của thân, khẩu và ý của bạn. Rồi bạn hạ người xuống trên nền nha,ø chạm vào nền nhà ở năm điểm trên thân thể là trán, hai lòng bàn tay và hai đầu gối,252 để tịnh hóa các chướng ngại của ngũ độc và nhận được năng lực gia trì cho thân, khẩu, ý, phẩm hạnh và hoạt động. Sau đó hãy đứng thẳng lên, lại chắp tay lại và tiếp tục thực hành lễ lạy theo phương cách như trên.

Việc đong đưa hai cánh tay mà không chắp hai bàn tay lại là việc sai trái. Còn nếu bạn chỉ cúi xuống phía trước mà đầu gối và trán không chạm đất thì cũng không đúng. Cũng không đúng nốt nếu khi đứng dậy, bạn cứ lom khom mà không đứng thẳng người lên. Lễ lạy như thế là thiếu tôn kính. Người ta nói rằng nghiệp trổ quả của việc lễ lạy mà không đứng thẳng là kẻ thực hành lễ lạy sẽ bị tái sinh làm một người lùn gù lưng. Chúng ta thực hiện việc lễ lạy với hy vọng công phu tu tập này sẽ đem đến cho ta lợi lạc – vì thế, chẳng có ý nghĩa gì trong việc thực hành lễ lạy nếu kết quả của việc làm ấy chỉ đem đến cho ta một thân thể méo mó biến dạng.

Ngay cả nếu bạn không thể lễ lạy được nhiều lần, thì hãy nỗ lực bằng mọi cách để bảo đảm rằng bất kể cái lạy nào của bạn cũng sẽ là một cái lạy hoàn hảo, không thể chê vào đâu được. Thật là vô nghĩa nếu bạn cố tình làm cho công việc lễ lạy trở nên dễ dàng hơn bằng cách thực hiện lễ lạy trên một chỗ dốc, chẳng hạn ở sườn một ngọn đồi, hoặc bằng bất kỳ phương pháp nào khác.

Hơn nữa, ngày nay khi người ta tỏ lòng tôn kính một ai, ví dụ như khi viếng thăm một Lạt Ma, họ thi lễ và lạy một cái lạy tạm coi như là đúng cách, và rồi sau đó bồi thêm hai cái lạy nữa chẳng khác nào hai cái « nghiêng mình ». Đại khái cứ cho như đó là cách lễ lạy của những kẻ có tầm vóc quan trọng đi - và hầu hết những kẻ ngu dốt lại noi theo gương của họ. Nhưng đó là một cách lễ lạy cực kỳ thô tục. Mục đích của việc thỉnh cầu giáo lý, ngay cả trong những sự việc đơn giản như cách quỳ lạy ra sao, là để nghe Đạo Sư giảng dạy bất kỳ điều gì ta không biết, và sau đó luôn luôn đưa những giáo huấn đó vào thực hành mà không bỏ quên bất kỳ chi tiết nào. Nếu ta không thể đưa vào thực hành ngay cả một điều thật dễ học và dễ làm thì việc học hỏi về Phật Pháp sẽ trở nên hoàn toàn vô nghĩa và không đem lại kết quả nào. Những người đã từng nghiên cứu Phật Pháp phải giỏi giang thành thạo hơn những người không nghiên cứu Pháp, kể cả trong cách thức họ thi lễ, cách lạy những cái lạy thật đơn giản.

hoangtri
06-01-2017, 11:43 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Khi Ngài Jetsun Mila đến cầu Pháp với Lạt Ma Ngokpa, Ngài tới vào lúc Lạt Ma Ngokpa đang giảng Mật điển Hô Kim Cương (Hevajra Tantra) cho một tập hội tăng sĩ đông đảo. Ngài Mila tỏ lòng tôn kính bằng cách quỳ lạy từ xa. Vị Lạt Ma rất hài lòng.

Bỏ mũ miện xuống khỏi đầu, vị Lạt Ma lạy trả ngài Mila và nói: “Đây thật là một việc gián đoạn tốt lành! Người quỳ lạy đằng kia đang lạy theo cung cách của các đệ tử của Ngài Marpa xứ Lhodrak.* Hãy hỏi xem ông ta là ai.”
* Vị thầy gốc (bổn sư) của Milarepa, và cũng là bổn sư của Ngokpa.

Bất kỳ ai đi theo một vị Thầy nào và nhận giáo lý của Ngài thì cũng phải giống như một miếng vải được ngâm trong thuốc nhuộm. Khi anh ta học tập để noi theo những hành động của vị Thầy đáng kính của mình, thì chắc chắn sẽ có một vài chuyển biến đáng lưu ý xảy ra so với anh ta trước kia. Khi một miếng vải được nhuộm màu, thể nào màu mới cũng sẽ ít nhiều ngấm vào miếng vải— làm sao mà miếng vải đó lại không thay đổi màu sắc chút xíu nào cho được? Ngày nay, có những người từng thọ nhận Pháp hàng trăm lần, nhưng họ vẫn không cải thiện bản thân được chút nào, và xử sự hoàn toàn như một người thế tục trên mọi phương diện. Tất cả những gì Giáo Pháp sản sinh ra lại chỉ là những hành giả trơ lì, là những kẻ vi phạm mật nguyện. Có câu nói rằng:

Đạo Pháp có thể là nguồn cảm hứng khiến những kẻ xấu ác biến đổi, nhưng không thể truyền cảm hứng cho những hành giảû trơ lì đối với Pháp – giống như mỡ có thể làm loại da cứng trở nên mềm mại, nhưng không thể làm mềm da của túi đựng bơ.253

Một khi bạn đã học hỏi về lợi lạc của các thiện hạnh, về tai hại của các ác hạnh và về phẩm hạnh của chư Phật, thì điều đó sẽ không bao giờ đủ nếu bạn chỉ đơn thuần tán đồng tin tưởng ; bạn còn phải khơi dậy sự xác quyết và lòng tín tâm để có thể thực sự chuyển hoá cái nhìn của bạn. Nếu không thì ngay cả vị Phật Toàn Giác bằng xương bằng thịt cũng sẽ chẳng thể nào cứu giúp bạn. Đấng Vĩ Đại xứ Oddiyana đã ban lời cảnh cáo sau đây:

Đừng tham dự vào giữa đám đông những kẻ đệ tử lạc lối chuyên bàn suông về Giáo Pháp trong khi tâm họ đã trở nên trơ lì với Pháp.
Đừng liên kết với những bằng hữu nào muốn giới hạn các mật nguyện của họ.

Cho dù bạn chỉ hiểu một chữ duy nhất của Giáo Pháp thì bạn cần nhận biết ra được cách nào để cho chữ ấy chan hoà trong tâm bạn và đưa được chữ ấy vào trong thực hành. Mục đích của việc đi theo một vị Thầy là quan sát tư tưởng, lời nói và hành động của Ngài và học cách hành pháp như Ngài hành pháp. Như tục ngữ có câu:

Mọi hành động chỉ là noi gương: Những người hành động tuyệt hảo là những người noi gương giỏi nhất.

hoangtri
06-01-2017, 11:45 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Theo cách này, bạn nên để cho những phẩm hạnh bên ngoài, bên trong và ẩn mật của Thầy in dấu lên bạn, giống như một mẫu tượng tsa-tsa hình thành từ chính cái khuôn của nó.

“Lễ lạy” là một từ tổng quát mô tả một cử chỉ tôn trọng và kính phục. Có nhiều cách khác nhau để lễ lạy, và những tập tục lễ lạy biến đổi từ nơi này sang nơi khác. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Thầy của bạn đã hướng dẫn bạn cách thức lễ lạy cho phù hợp với lời dạy của Đấng Chiến Thắng. Vì thế, nếu bạn cố ý lễ lạy theo một cách thức sai lầm, dù bởi kiêu ngạo hay dù để giúp cho việc lễ lạy dễ dàng hơn, thì cả hai đều là một hành vi thiếu tôn kính và là một biểu hiện của sự khinh thường. Bạn cũng cần phải hiểu rõ rằng nếu chỉ thực hành lễ lạy như thể để thanh toán một món thuế thì việc làm này sẽ không có nghiã lý gì cả và chỉ đem lại những kết quả sai lầm.

Trái lại, nếu lễ lạy đúng đắn thì việc này đem lại vô lượng lợi lạc. Một lần, khi một nhà sư đang lễ lạy một cái tháp đựng những mẩu tóc và móng chân tay của Đức Phật, Ngài Ananda hỏi Đức Phật một hành động như thế có thể có lợi lạc gì. Đức Phật đáp:

Kết quả gặt hái được từ một cái lạy duy nhất có oai lực khủng khiếp nhiều đến nỗi nếu như ta được trở thành một vị đại đế vô lượng lần nhiều bằng số lượng hạt bụi ở dưới thân ta xuống cho đến vực sâu nhất của trái đất,254 thì lợi lạc của cái lạy đó vẫn không cạn kiệt.

Và trong Kinh điển có nói:

Nhục kế không thể nghĩ bàn trên đầu Đức Phật hình thành từ việc Ngài đã lễ lạy Đạo Sư của Ngài với tất cả lòng tôn kính.

Cuối cùng, lễ lạy cũng sẽ dẫn dắt chúng ta đến việc có được nhục kế (usnisa) không thể nghĩ bàn trên đỉnh đầu của chư Phật Toàn Giác.

hoangtri
06-02-2017, 08:20 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.2 CÚNG DƯỜNG 255

Hãy sắp đặt những phẩm vật cúng dường trong khả năng tài chánh của bạn cho phép, như đã được giảng dạy trong chương viết về cúng dường Mạn đà la – nói cách khác, hãy cúng dường các phẩm vật trong sạch, hoàn toàn thanh tịnh, và không để cho mình vướng mắc vào tính keo kiệt, đạo đức giả hay tính khoe khoang. Các phẩm vật cúng dường này chỉ là phương tiện hỗ trợ cho công phu thiền định của bạn.

Sau đó, hãy cúng dường trong tâm tưởng theo cách thức của Bồ Tát Phổ Hiền (Samantabhadra),256 để cho toàn thể thế giới và toàn bộ không gian tràn ngập với tất cả những phẩm vật cúng dường của các cõi người và Trời: hoa, hương, đèn, nước hoa, thực phẩm, cung điện, phong cảnh, lâu đài, lạc viên, bảy vật tượng trưng cho vương quyền và tám biểu tượng tốt lành, với mười sáu Thiên Nữ kim cương nhảy múa và ca hát, mỗi vị sử dụng một nhạc cụ riêng của mình.

Nhờ năng lực của thiền định, Bồ Tát Phổ Hiền phóng ra hàng trăm triệu tia sáng đủ màu sắc từ tim Ngài, như vô số những hạt bụi trong hằng hà sa số các cõi Phật. Ở cuối mỗi tia sáng, Ngài phóng ra một thân tướng đồng nhất với bản thân Ngài, rồi cũng phóng ra các tia sáng đồng nhất từ tim của các thân tướng đó. Ở cuối mỗi tia sáng đó, còn lần lượt xuất hiện thêm các đức Phổ Hiền, và như thế tiếp tục tăng trưởng vô hạn, cho tới số thân tướng hiển lộ thì hoàn toàn không thể nghĩ bàn. Mỗi một vị trong những thân tướng Phổ Hiền này đang cúng dường chư Phật và chư Bồ tát khắp mười phương vô số những phẩm vật cúng dường vô vàn đủ thứ loại. Đây là cái được gọi là “những đám mây cúng dường của đức Phổ Hiền cao quý.” Hãyï cúng dường bằng cách quán tưởng nhiều Hoá Thân hiển lộ trong tâm bạn tuỳ theo mức độ quán tưởng mà bạn có thể đạt được theo cách này, vừa quán tưởng vừa đọc những lời tương ứng như sau:

Với những phẩm vật cúng dường được chuẩn bị bằng cả vật chất lẫn quán tưởng, Con cúng dường tất cả mọi thứ trong vũ trụ như một động tác cúng dường bao la.

Dù khả năng cúng dường của ta ra sao thì chư Phật và Bồ Tát vẫn có đủ oai lực để thu nhiếp. Vì vậy, trong tâm tưởng, hãy vận dụng tất cả của cải không có sở hữu chủ trong toàn thể các cõi người và trời khắp thế giới, và dâng cúng tất cả. Sau đó, bằng trí tưởng tượng, hãy tưởng tượng ra thật nhiều của cải càng tốt trong mức độ bạn có thể tưởng tượng ra được, và hãy cúng dường tất cả. Theo cách này bạn có thể vun bồi công đức tương đương với lượng công đức mà bạn có thể có được nếu như những vật cúng dường đó là tài sản của riêng bạn. Đừng bao giờ cho rằng bạn không có gì để cúng dường. Bất kỳ thứ gì bạn hay những người khác có và bất cứ điều gì bạn thấy, hãy để cho ý nghĩ đầu tiên của bạn luôn luôn là ý nghĩ cúng dường những phẩm vật đó cho Tam Bảo, cho các Bổn Sư và các Đạo Sư thuộc dòng truyền thừa. Bằng chính tâm bạn, hãy cúng dường cho Tam Bảo bất kỳ điều gì bạn thấy đẹp đẽ khi đi ngang qua, thậm chí một dòng nước trong trẻo hay những cánh đồng hoa, như thế bạn sẽ hoàn thiện công phu vun bồi công đức và trí tuệ ngay giữa các hoạt động thường nhật của bạn.

hoangtri
06-02-2017, 08:22 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.3 SÁM HỐI ÁC HẠNH 257

Trước tiên, hãy sám hối bằng việc suy tưởng như sau: “Với lòng hổ thẹn và ân hận mãnh liệt, con phát lồ sám hối việc con đã phá giới và sám hối những ác hạnh của con, những gì con còn nhớ và những gì con đã quên, tất cả những hành vi tiêu cực không thể tưởng tượng nổi mà con đã từng làm trong tất cả các kiếp sống trong vòng sinh tử từ vô thủy: mười ác hạnh của thân, khẩu và ý, năm tội bị quả báo tức thời (ngũ nghịch trọng tội) và năm tội nặng gần bằng ngũ nghịch trọng tội, bốn lỗi lầm nghiêm trọng, tám hành vi độc ác, tội lạm dụng tiền của được hiến cúng cho Tam Bảo và v.v... Từ giờ trở đi, con sẽ không bao giờ lập lại những hành vi xấu ác này.”

Với những ý nghĩ như trên, hãy sám hối như đã được giảng dạy trong chương viết về Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), trong khi ghi nhớ trong tâm cách đối trị của bốn công năng sám hối. Rồi hãy tưởng tượng rằng tất cả những hành động sai lầm và những chướng ngại của bạn cùng tập hợp lại trong hình dạng một nhúm đen trên lưỡi bạn. Hãy quán tưởng các tia sáng đang tuôn chảy ra từ thân, khẩu, ý* của các Bổn Tôn trong ruộng công đức, chạm vào chỗ nhúm đen, và tẩy sạch tất cả các ô nhiễm của bạn như thể tất cả bụi đất đều được cuốn trôi đi. Hãy tụng đọc những lời này:

Trong Pháp Thân chói lọi
Con sám hối mọi tư tưởng, lời nói và hành vi sai trái.

* Ánh sáng trắng từ giữa trán, tượng trưng cho thân; ánh sáng đỏ từ giữa cổ họng, tượng trưng cho ngữ; ánh sáng xanh dương từ giữa trái tim tượng trưng cho tâm.

hoangtri
06-03-2017, 03:31 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.4 HOAN HỈ, PHƯƠNG PHÁP ĐỐI TRỊ TÁNH GANH TỊ

Hãy phát tâm hoan hỉ sâu xa và chân thành trước công cuộc chuyển Pháp Luân Vĩ Đại đã được các Đấng Chiến Thắng khởi động vì lợi lạc của chúng sinh. Hãy hoan hỉ trước các hoạt động bao la, đầy uy dũng của chư Bồ Tát, và trước các thiện hạnh của chúng sinh là những việc đáng tán thán và đưa tới giải thoát.258 Hãy hoan hỉ trước bất kỳ điều tốt lành nào mà bản thân bạn đã làm trong quá khứ, đang làm trong hiện tại và chắc chắn sẽ làm trong tương lai. Hãy tụng đọc:

Con hoan hỉ trước tất cả các thiện hạnh
Được gói trọn trong hai chân lý (chân đế và tục đế)

Chúng ta hoan hỉ trước tất cả các thiện hạnh bao gồm trong hai chân lý,259 dù được thực hiện bởi chúng ta hay bởi người khác, dù bị các cảm xúc làm cho ô nhiễm hay dù thanh tịnh hoàn toàn, bởi vì không một giáo lý nào trong tất cả chín Thừa mà không được bao gồm trong chân lý tương đối (tục đế) hay chân lý tuyệt đối (chân đế).

Việc phát khởi tâm hoan hỉ theo cách này sẽ đem đến lợi lạc vô hạn. Có một lần vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) thỉnh mời Đức Phật và chúng đệ tử của Ngài dùng bữa hằng ngày tại cung điện trong thời gian bốn tháng. Trong thời gian này ông đã cúng dường hội chúng tất cả tài sản của mình. Một bà lão hành khất đi ngang qua đó tràn ngập lòng hoan hỉ trước hành động này.

“Vua Ba Tư Nặc đã đạt được mọi của cải này nhờ công đức vua đã tích tập trong quá khứ,” bà lão nghĩ, “và giờ đây vua đã được gặp Đức Phật. Đức Phật là người mà nhà vua chú tâm gửi đến hết tất cả mọi cúng dường, và công phu tích lũy công đức của nhà vua thực là cực kỳ to lớn. Kỳ diệu thay!”

Nhờ lòng hoan hỉ chân thành và hoàn hảo mà bà lão đã tạo được vô lượng công đức. Đức Phật thấu suốt điều này.

Chiều hôm đó, khi đến lúc hồi hướng công đức, Đức Phật nói với vua: “Ngài muốn ta hồi hướng nguồn mạch công đức mà Ngài đã thâu đạt được cho Ngài, hay muốn ta sẽ hồi hướng công đức ấy cho người xứng đáng hơn Ngài ?”

Nhà vua đáp: “Xin hồi hướng công đức cho bất kỳ ai có nguồn mạch công đức to lớn nhất.”

hoangtri
06-03-2017, 03:34 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Vì thế Đức Phật đã hồi hướng công đức cho bà lão hành khất. Việc này xảy ra trong ba ngày liền. Quá bực tức, nhà vua thỉnh ý các thượng thư để tìm cách chấm dứt tình trạng này.

“Đức Vua quyết định về việc này thế nào ?” họ hỏi. “Ngày mai, khi thỉnh mời đức Thế Tôn và các đệ tử của Ngài đến để cúng dường, chúng ta sẽ đánh đổ một số thực phẩm và thức uống quanh những cái nồi. Khi những người hành khất đến nhặt thực phẩm rơi rớt, chúng ta sẽ đánh họ thật nghiêm khắc để ngăn cản họ.”

Và họ đã làm như thế. Khi bà lão hành khất hoan hỉ đến nhặt thực phẩm bị đánh đổ, họ ngăn lại và đánh bà. Bà trở nên giận dữ, vì vậy tiêu hủy nguồn mạch công đức của bà.

Như tôi đã lập lại ở đây nhiều lần, chỉ duy nhất tác ý của người thực hiện công việc ấy sẽ quyết định được là các hành động người đó làm là hành động tích cực hay tiêu cực – chứ không phải việc thật sự thực hiện công việc bằng vật chất hay bằng những lời lẽ dựa vào tác ý trên. Vì lý do này, trong Thắng Quân Vương Sở Vấn Kinh, Đức Phật đã giảng giải tỉ mỉ rằng việc chỉ đơn thuần nhìn thấy điều tốt người khác đã làm với một tâm thức thanh tịnh, chân thành hoan hỉ trước điều đó và hồi hướng năng lực của việc làm đó cho Giác Ngộ viên mãn của tất cả mọi chúng sinh, thì hạnh hoan hỉ ấy sẽ đem lại công đức còn nhiều hơn những hành vi tốt đẹp có tính phô trương, là những hành vi đã bị tám mối quan tâm thế tục làm cho băng hoại, bị ô nhiễm bởi các tham vọng đối với cuộc đời này, bởi tánh kiêu ngạo về các hành vi tốt đẹp của mình, bởi ước muốn ganh đua với đức hạnh của người khác và v.v... Chagme Rinpoche có nói:

Khi nghe nói về điều tốt của người khác,
Nếu như ta đuổi được đi mọi niệm tưởng ganh tị tiêu cực
Và thực sự hoan hỉ tận sâu thẳm trong tim ta,
Thì công đức của ta sẽ ngang bằng công đức của họ.

Bát Nhã Tập Kệ cũng có nói:

Sức nặng của tất cả các núi Tu Di trong một tỉ thế giới có thể cân đo được, Nhưng không thể đo lường được với công đức của việc tùy hỉ công đức.

Hãy luôn luôn hoan hỉ trước điều tốt mà những người khác đã làm, vì hạnh hoan hỉ rất dễ thực hiện và thật lợi lạc.

hoangtri
06-05-2017, 05:33 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.5. KHẨN CẦU CHƯ PHẬT CHUYỂN PHÁP LUÂN260

Hãy tưởng tượng trước mặt bạn hiện ra tất cả chư Phật và Bồ Tát, chư Đạo Sư và tất cả những bậc thầy có thể đảm đương gánh nặng to lớn để làm lại lợi lạc cho chúng sinh. Hãy tưởng tượng rằng các Ngài đã chán ngán vì thái độ vô ơn và ngã lòng của những chúng sinh đo,ù và các Ngài không có ý định giảng dạy gì nữa hết mà sẽ an trụ vĩnh viễn trong trạng thái an bình. Bạn hóa hiện thành hàng trăm và hàng ngàn triệu thân, hãy cúng dường bánh xe, châu báu và các báu vật khác cho toàn thể chư vị, và khẩn thiết kêu nài các Ngài hãy chuyển Pháp Luân với những lời nguyện sau đây:

Con khẩn nài các Ngài chuyển Pháp Luân của ba Thừa.

Phật Pháp được phân chia tổng quát thành ra ba Thừa: Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa. Hợp nhất lại thì ba Thừa này bao gồm toàn thể giáo lý của Đức Phật. Nhưng Giáo Pháp ấy cũng có thể được chia nhỏ thành chín Thừa: ba Thừa bên ngoài là các Thừa của chư vị Thanh Văn, Phật Độc Giác và Bồ Tát, với giáo lý giải thoát gốc rễ của đau khổ;* ba Thừa bên trong, Kriya, Upayoga và Yoga có liên quan tới các pháp tu khổ hạnh giống như theo truyền thống Vệ Đà;** và ba Thừa bí mật, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga, hướng dẫn các phương pháp mãnh liệt để chuyển hóa. Khi chúng ta thỉnh cầu các Ngài chuyển Pháp Luân, điều ta đang cầu khẩn là khẩn cầu Giáo Pháp của ba Thừa này, Giáo Pháp ấy được phân chia xa hơn nữa thành chín Thừa, và chín Thưà ấy có thể cung cấp các giáo lý thích hợp cho đệ tử [với nhiều loại căn cơ khác nhau].

*Theo một cách hiểu khác: “giáo lý này dẫn dắt chúng ta biết cách vận dụng nhân đau khổ như một khởi điểm [để giúp ta tu tập].”
** Trong đó có một điểm nhấn mạnh rất quan trọng về sự sạch sẽ thuần tịnh có tính cách nghi lễ và về cung cách cư xử bên ngoài.

hoangtri
06-05-2017, 05:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.6. KHẨN CẦU CHƯ PHẬT ĐỪNG NHẬP NIẾT BÀN 261

Hãy hướng những lời khẩn cầu của bạn đến chư Đạo Sư, chư Phật và chư Bồ Tát là những bậc đã hoàn thành công hạnh của các Ngài vì lợi ích của chúng sinh, hiện đang ở trong cõi Phật này và những cõi Phật khác, và giờ này các Ngài đều muốn nhập Niết Bàn. Giống như cư sĩ Cunda 262 đã làm trong quá khứ, hãy nài xin các Ngài bằng cách quán tưởng trong tâm bạn hiện ra nhiều Hóa Thân của chính mình. Hãy thỉnh nài như sau:

Cho tới khi vòng luân hồi trở nên trống rỗng,
Xin ở lại với chúng con và đừng nhập Niết Bàn!

Rồi hãy nghĩ tưởng rằng do công phu cầu nguyện của các bạn mà tất cả chư Phật đều ở lại trụ thế để làm việc lợi lạc cho chúng sinh cho tới khi vòng luân hồi trở thành trống rỗng!

hoangtri
06-05-2017, 05:43 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.7. HỒI HƯỚNG 263

Hãy theo gương mẫu của Đức Văn Thù bằng cách hồi hướng cho tất cả chúng sinh bất kỳ công đức nào bạn hay bất kỳ ai khác đang tích lũy qua hành động mà giờ đây bạn và những người ấy đang làm. Hãy niêm phong bằng dấu niêm của trí tuệ vô niệm. Hãy tụng đọc những dòng dưới đây:

Tất cả những thiện căn đã được tích lũy trong suốt quá khứ, hiện tại và vị lai, Con hồi hướng như là một hạt nhân đưa đến đại Giác Ngộ.

Đừng quên hồi hướng vào lúc cuối, trước khi bất kỳ hành động đáng khen nào chấm dứt, dù lớn hay nhỏ. Bất kỳ thiện căn (nguồn mạch công đức) nào không được hồi hướng theo lối này thì sẽ chỉ kết trái một lần và sau đó sẽ bị cạn kiệt. Nhưng bất cứ điều gì được hồi hướng cho Giác Ngộ tối hậu thì sẽ không bao giờ bị khô cạn, thậm chí khi đã kết trái một trăm lần. Thay vào đó, công đức đó sẽ tăng trưởng và phát triển cho tới khi bạn thành tựu được Phật Quả toàn hảo. Trong Kinh Sagaramati có nói:

Giống như một giọt nước rơi vào đại dương
Sẽ không bao giờ biến mất cho tới khi đại dương khô cạn,
Công đức được hoàn toàn hồi hướng cho Giác ngộ
Sẽ không bao giờ biến mất cho tới khi đạt được Giác Ngộ.

Bạn có thể ước muốn đạt được mức độ tu chứng của một vị Thanh Văn hay Phật Độc Giác, hay đạt được thành tựu Toàn Giác. Bạn có thể chỉ ước muốn được tái sinh trong các cõi giới cao, như một vị Trời hay một con người. Hoặc bạn có thể chỉ ước muốn một kết quả nhất thời như một cuộc đời trường thọ hoặc dồi dào sức khỏe. Nhưng khi bạn làm điều gì đáng khen, thì dù trong cái nhìn của bạn có mục đích nào chăng nữa, điều quan trọng là hãy hồi hướng việc ấy cho mục đích Giác Ngộ. Ngài Drikung Kyobpa Rinpoche có nói:

Trừ phi bạn nguyện cầu
Bằng cách xoa tay vào viên ngọc như ý của hai công năng tích tụ (hai bồ công đức),
Thì kết quả bạn mong ước sẽ không bao giờ xuất hiện:
Vì vậy, khi kết thúc, hãy phát tâm hồi hướng với tất cả tấm lòng.

hoangtri
06-05-2017, 05:52 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Chính công năng hồi hướng sẽ quyết định được xem những thiện hạnh mà bạn đã làm có sẽ dẫn tới Toàn Giác hay không. Còn những hành động tạo tác thiện lành mà bạn tích lũy dù có khổng lồ đến đâu chăng nữa, cũng không thể dẫn tới giải thoát trừ phi bạn giúp cho những hành động này có được một hướng đi tốt bằng cách hồi hướng hết thảy mọi việc. Geshe Khampa Lungpa có nói:

Không một thiện hạnh nào do tạo tác có được một định hướng riêng,264 Vì thế hãy phát tâm nguyện rộng lớn vì lợi lạc của chúng sinh.

Tương tư như vậy, đối với một hành động tích cực hay một hạnh lành mà bạn có thể thực hiện nhân danh cha, mẹ hoặc nhân danh những người thân yêu của bạn, hoặc cho người đã chết, thì bạn cũng phải phát tâm hồi hướng y như trên. 265 Không hồi hướng thì hành động đó không có hiệu quả. Nhưng nếu bạn hồi hướng việc đã làm thì những người mà bạn muốn hướng tâm đến sẽ được lợi lạc một cách tương ứng.

Một lần kia những cư dân ở Vaisali đến mời Đức Phật tới dùng bữa vào ngày hôm sau.

Sau khi họ ra về, năm trăm quỷ đói đến và khẩn cầu Ngài: “Xin hồi hướng cho chúng tôi công đức bố thí mà dân chúng ở Vaisali sắp cúng dường cho Ngài và cho chúng đệ tử của Ngài vào ngày mai.”

“Các ông là ai ?” Đức Phật hỏi, mặc dù Ngài đã biết câu trả lời. “Tại sao nguồn công đức của dân chúng ở Tỳ Xá Li (Vaisali) lại phải hồi hướng cho các ông?”

“Chúng tôi là cha mẹ họ” các quỷ đói đáp. “Chúng tôi bị tái sinh làm quỷ đói là hậu quả của thái độ bủn xỉn của chúng tôi.”

Đức Phật nói: “Trong trường hợp này, hãy đến đó trong phần hồi hướng và ta sẽ làm như các ông yêu cầu.”

“Điều đó không thể được” họ nói. “Chúng tôi rất xấu hổ vì thân hình xấu xí của mình.”

Đức Phật đáp: “Các ông nên xấu hổ khi làm những hành động xấu ác đó. Lúc ấy không cảm thấy xấu hổ thì có gì là khôn ngoan đâu, nhưng bây giờ lại thấy xấu hổ khi các ông đã bị tái sinh trong thân tướng khốn khổ này ư ? Nếu các ông không đến, ta sẽ không thể hồi hướng công đức cho các ông.”

“Nếu thế chúng tôi sẽ tới” họ nói và cáo biệt.

hoangtri
06-05-2017, 05:56 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Ngày hôm sau, khi đã đến lúc, chúng quỷ đói tới để nhận hồi hướng. Những cư dân ở Vaisali khiếp sợ và bắt đầu chạy trốn.

“Không có lý do gì phải sợ” Đức Phật trấn an họ. Đây là cha mẹ quý vị đã bị tái sinh làm quỷ đói. Chính họ đã nói với ta như thế. Ta có nên hồi hướng nguồn công đức của quý vị cho họ hay không ?”

“Tất nhiên là Ngài nên làm như vậy!” họ la to lên.

Đức Phật liền nói:

Nguyện xin hồi hướng công đức của hạnh cúng dường cho chúng quỷ đói này.
Cầu mong họ thoát khỏi thân tướng xấu xí
Và đạt được hạnh phúc của những cõi cao hơn!

Vừa khi đức Phật mở lời nói thì tất cả quỷ đói đã lăn ra chết. Đức Phật giảng rằng họ đã được tái sinh ở cõi Trời thứ Ba Mươi Ba.

Ngài Jetsun Mila nói:

Giữa một ẩn sĩ thiền định trong núi non
Và kẻ cúng dường cung cấp lương thực cho Ngài
Có một mắt xích đưa họ cùng nhau đến bờ Giác Ngộ.
Việc hồi hướng công đức chính là tinh túy của mắt xích đó.

Muốn cho bất kỳ công phu hồi hướng công đức nào đưa dẫn tới Toàn Giác thì việc hồi hướng ấy phải được đi kèm với trí huệ, hoàn toàn tách khỏi ba ý niệm [đối đãi]. Nếu ta bám chấp vào các ý niệm đó như thật có thì việc ta hồi hướng công đức sẽ bị ô uế và việc hồi hướng đó sẽ bị gọi là hồi hướng độc hại. Bát Nhã Tập Kệ có nói:

Đấng Chiến Thắng đã dạy rằng ta làm việc tốt chung với các ý niệm tạo tác
Thì giống như ăn thực phẩm dinh dưỡng pha lẫn thuốc độc.

hoangtri
06-05-2017, 05:59 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Ba ý niệm được đề cập ở đây là các ý niệm sau đây: có một nguồn mạch công đức (thiện căn) để hồi hướng, có người được hồi hướng và có mục đích mà ta nhắm tới cho việc hồi hướng. Nếu ta có thể hồi hướng công đức trong trạng thái trí tuệ, hoàn toàn thấu hiểu rằng ba điều trên không thực sự hiện hữu, thì việc hồi hướng đó quả thực không có pha lẫn chất độc. Điều đó có lẽ vượt quá khả năng của những người bình thường với căn cơ như của chúng ta. Tuy nhiên, nếu ta chỉ đơn giản nghĩ rằng ta đang hồi hướng công đức theo đúng phương cách mà chư Phật và chư Bồ tát trong quá khứ đã làm thì công phu hồi hướng của ta sẽ hoàn toàn thoát khỏi ba ý niệm tạo tác. Trong Kinh Sám Hối (một tên khác của Đại Thừa Sám Hối Tam Tụ Kinh) có nói:

Giống như tất cả chư Phật Thế Tôn trong quá khứ đã hồi hướng công đức một cách toàn hảo; giống như tất cả chư Phật Thế Tôn chưa xuất hiện sẽ hồi hướng công đức một cách toàn hảo; và giống như tất cả chư Phật Thế Tôn trụ thế đang hồi hướng công đức một cách toàn hảo; thì cũng như thế, con cũng xin hồi hướng tất cả mọi công đức một cách toàn hảo.

và trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán có nói:

Noi gương đấng anh hùng Văn Thù,
Phổ Hiền và tất cả những Bậc đại trí,
Con cũng xin hồi hướng thật toàn hảo
Tất cả mọi hành động thiện lành.

Bất cứ lúc nào cũng phải luôn luôn niêm phong các hành động thiện lành của bạn bằng việc hồi hướng đúng đắn, bởi đó là phương pháp duy nhất không thể sai lầm để bảo đảm rằng công đức ấy sẽ dẫn tới Toàn Giác.

hoangtri
06-07-2017, 08:15 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


3. Khẩn Cầu 266 Với Lòng Tin Kiên Quyết Chí Thành

Điều này giúp cho tâm ta đạt được chân tánh của bốn Pháp Thân kim cương 267 qua việc ta khẩn cầu Đạo Sư với lòng tin kiên quyết chí thành.

Hãy quán chiếu rằng bậc Thầy đáng kính của bạn, bậc Hộ Thần vinh quang, bậc quyền uy toàn hảo như có mang trong mình bản tánh uy mãnh của Heruka 268 trong mỗi mạn đà la của các Bổn Tôn. Chỉ đơn thuần nhìn thấy Ngài, nghe Ngài nói, chạm được đến Ngài hay nghĩ tưởng về Ngài là đã gieo trồng hạt giống giải thoát. Bởi những việc làm của Ngài cũng tương tự như việc làm của tất cả chư Phật nên Ngài là viên Ngọc Quý thứ tư (đệ tứ Bảo). Đối với bạn, lòng tốt của Ngài vĩ đại hơn lòng tốt của tất cả chư Phật. Nương vào lực gia trì đến từ lòng từ bi của Ngài và nương vào con đường tu thâm diệu nay đang trổ quả và đưa bạn đến giải thoát, Ngài đã nhanh chóng dẫn dắt bạn – trong một đời duy nhất và trong chính thân xác này – đạt đến quả vị của Kim Cương Trì (Vajradhara). Đối với các phẩm hạnh của Ngài, kinh nghiệm chứng ngộ của Ngài thì bao la như bầu trời, trí tuệ và từ tâm của Ngài thì vô hạn như đại dương. Lòng bi mẫn của Ngài mãnh liệt như một con sông lớn. Chân tánh của Ngài vững chắc như Núi Tu Di. Ngài như một người cha và một người mẹ của tất cả chúng sinh, bởi trái tim Ngài thương yêu tất cả đồng đều không phân biệt. Bất kỳ một khiá cạnh nào trong mỗi một phẩm hạnh của Ngài đều không thể đo lường. Ngài giống như một viên ngọc như ý. Bạn chỉ cần đặt niềm tin trên Ngài và khẩn cầu Ngài, và bất kỳ thành tựu nào mà bạn đang tìm kiếm sẽ xuất hiện mà không phải dụng công.

hoangtri
06-07-2017, 08:17 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Với nước mắt của lòng quy ngưỡng, hãy nghĩ tưởng rằng: “Con hoàn toàn nương cậy Ngài, con đặt hết thảy hy vọng nơi Ngài, con phó mạng con chỉ duy nhất nơi Ngài!” Hãy đọc những giòng này khi thực hành pháp thọ nhận các thành tựu, bắt đầu từ câu:

Đức Bổn Sư Tôn Quý (Guru Rinpoche),
Trong tất cả chư Phật, Ngài là..

cho tới câu:

...Con xin nương cậy nơi Ngài, đức Liên Hoa Sanh vĩ đại!

Kế đó, hãy tập trung tư tưởng trì tụng thần chú Vajra Guru (Đạo Sư Kim Cương), như một lời khẩn cầu. Sau mỗi một trăm lần trì tụng câu chú thì hãy đọc bài cầu nguyện “Đức Bổn Sư Tôn Quý...” thêm một lần nữa. Khi đã qua được một nửa thời gian bạn dành cho việc trì tụng này, thì sau mỗi lần hoàn tất một chuỗi trì tụng, hãy khẩn cầu [để được thọ nhận] công năng thành tựu bằng cách tụng đọc bài cầu nguyện bắt đầu bằng câu dưới nay:

Con không hy vọng vào ai khác ngoài Ngài...

và chấm dứt:

Ôi, đấng vĩ đại, xin tịnh hóa con khỏi hai chướng ngại!

hoangtri
06-08-2017, 08:49 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


4. Thọ Nhận Bốn Pháp Quán Đảnh (Bốn pháp gia lực)

Khi đã đến lúc để khẩn cầu những thành tựu, bạn hãy tự thọ nhận bốn pháp quán đảnh hay gia lực bằng cách quán tưởng chữ om ở giữa cặp lông mày của đức Bổn Sư Guru chiếu sáng như một vầng trăng-pha lê, phóng toả ánh sáng thấm nhập vào đỉnh đầu bạn và tịnh hóa hết nghiệp quả của ba ác hạnh thuộc về thân –sát sinh, lấy cắp thứ gì không được cho, và tà dâm – và tịnh hóa mọi che chướng của các đường khí mạch của bạn, từ đó thân (kim cương) sẽ phát khởi.269 Hãy đọc những giòng chữ bắt đầu bằng câu:

Năng lực gia trì của thân kim cương tan hoà trong con...

và hãy nghĩ tưởng rằng tiềm năng để thành đạt quả vị tu chứng của Hóa Thân (nirmānakāya) đã được thiết lập trong bạn.

Rồi từ trong cổ họng đức Bổn Sư Guru, một chữ ah, chói lọi như một viên hồng ngọc phóng toả ánh sáng vào cổ họng bạn, tịnh hóa nghiệp quả của bốn hành động ác hại thuộc ngữ - nói dối, gieo mối bất hòa, nói ác và nói tầm phào – và tịnh hóa mọi chướng ngại trong năng lực của bạn, từ đó ngữ hay khẩu (kim cương) sẽ phát khởi. Đọc tụng những giòng chữ bắt đầu bằng câu sau đây:

Năng lực gia trì của ngữ kim cương tan hoà trong con…

và nghĩ tưởng rằng tiềm năng để đạt được quả vị tu chứng của Báo Thân (sambhogakāya) đã được thiết lập trong bạn.

Rồi chữ hum màu xanh dương đậm trong tim Đạo Sư phóng toả ánh sáng vào tim bạn, tịnh hoá nghiệp quả của ba ác hạnh thuộc về ý - tham lam, ước muốn làm hại người khác và tà kiến - và tịnh hoá mọi chướng ngại trong phần tinh túy của bạn, từ đó tâm thức (kim cương) sẽ phát khởi. Hãy trì tụng những giòng chữ bắt đầu bằng câu:

Năng lực gia trì của tâm kim cương tan hoà trong con…

và nghĩ tưởng rằng tiềm năng đạt được quả vị tu chứng của Pháp Thân (dharmakāya) đã được thiết lập trong bạn.

hoangtri
06-08-2017, 08:52 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Rồi từ chữ hum trong tim Đạo Sư một chữ hum thứ hai, giống như một ngôi sao băng, phóng vụt xuống và hoàn toàn hòa lẫn với tâm bạn, tịnh hóa mọi chướng ngại của nghiệp và của vọng niệm, là những chướng ngại đã ngăn che thức nền tảng A-lại-da (the ground of all), là thức nền tảng của thân, khẩu, và ý. Hãy đọc những giòng bắt đầu bằng:

Năng lực gia trì của trí tuệ kim cương nguyên thuỷ tan hoà trong con...

và nghĩ tưởng rằng từ giây phút đó, tiềm năng để đạt được kết quả tối hậu, quả vị tu chứng của Tự Tánh Pháp Thân (svabhavikakāya), được thiết lập trong bạn.

Sau cùng, hãy hoàn toàn hoà lẫn tâm bạn với tâm Đạo Sư, và an trụ ở trong trạng thái đó. Vào cuối thời khóa, hãy trì tụng với lòng quy ngưỡng và khao khát mãnh liệt bài cầu nguyện bắt đầu bằng câu:

Khi cuộc đời con đến lúc kết thúc..

và chấm dứt với câu:

...xin gia hộ cho con viên thành ước nguyện, con khẩn cầu Ngài.

Đức Bổn Sư Tôn Quý (Guru Rinpoche) mỉm cười, đôi mắt Ngài tràn đầy lòng bi mẫn. Từ tim Ngài, một tia sáng màu đỏ ấm áp chiếu tỏa ra. Cho tới bây giờ bạn vẫn quán tưởng chính mình là Vajrayogini (Nữ Kim Cang Du Già) – và ngay giây khắc tia sáng này chạm vào người bạn, bạn chuyển hóa thành ra một viên ánh sáng màu đỏ có kích thước bằng một hạt đậu. Hạt đậu màu đỏ đó phóng vọt hướng về Guru Rinpoche như một tia lửa xẹt, và tan hòa vào tim của Ngài. Hãy an trụ trong trạng thái đó.

Sau cùng, hãy nhìn thấy tất cả những gì hiện hữu đều không khác gì là những hoá hiện của Đạo Sư, và hãy kết thúc bằng cách trì tụng bài kệ hồi hướng sau đây:

Nhờ công đức của pháp tu này, nguyện con nhanh chóng đạt được
Quả vị của Đạo Sư vinh quang, vị Hộ Thần của con..

cũng như đọc tụng bài Nguyện Vãng Sanh Quốc Độ Đồng Sơn (nguyện tái sinh vào cõi Núi Đồng Đỏ của đức Liên Hoa Sanh).

hoangtri
06-08-2017, 08:54 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Bất kỳ khi nào bạn đang đi tới đi lui đây đó, bạn vẫn có thể thực hành pháp Bổn Sư Du Già bằng cách quán tưởng Thầy của bạn hiện ra trên trời ở trên vai phải của bạn và tưởng tượng rằng bạn đang đi nhiễu quanh Ngài. Bất kỳ khi nào bạn ngồi xuống, hãy quán tưởng Ngài ở trên đầu để hướng tâm và hướng lời cầu nguyện của bạn đến Ngài. Khi bạn đang ăn uống, hãy quán tưởng Ngài ngự ở nơi cổ họng và cúng dường Ngài phần đầu tiên của thức ăn hay thức uống của bạn. Khi đi ngủ, hãy quán tưởng Ngài ở giữa trái tim bạn: đây là tinh tuý của kỹ thuật thực hành du già trong giấc ngủ (sleep yoga), “rót đầy mọi sự có thể biết được vào chiếc bảo bình.”270

Tóm lại, hãy khơi dậy lòng quy ngưỡng của bạn trong mọi lúc, trong mọi tình huống. Hãy vững tâm tin tưởng rằng cho dù bạn đang ở bất kỳ nơi đâu thì nơi đó cũng thực sự là núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ, và hãy tịnh hóa tất cả mọi quan kiến bằng cách nhìn thấy tất cả chính là thân tướng của Đạo Sư.

Bất cứ khi nào bệnh tật, các chướng ngại từ các thế lực tiêu cực hay những hoàn cảnh bất như ý khác xuất hiện, đừng cố gắng vùng vẫy để thoát ra. Hãy hoan hỉ nghĩ rằng bệnh tật, chướng ngại và mọi sự bất như ý đang được Đạo Sư đem đến cho bạn trong tình thương yêu của Ngài như một phương cách giúp cho các ác hạnh trong quá khứ của bạn phải cạn kiệt. Bất cứ khi nào niềm hạnh phúc, sung sướng thoải mái và đức hạnh của bạn trội vượt thì hãy nhận thức rằng bạn có được những điều này cũng là nhờ vào lòng từ bi của Đạo Sư, và đừng kiêu ngạo hay kích động thái quá. Trong khi thiền định, bất cứ khi nào bạn cảm thấy sự xuất hiện của các tâm thái như ngã lòng, mệt mỏi, hôn trầm và trạo cử (kích động), hãy hợp nhất tâm tỉnh giác của bạn vào với tâm của Đạo Sư. Hãy an trụ trong cái thấy của trạng thái như nhiên, duy trì tánh sáng nguyên sơ của tâm tỉnh giác ấy. Đồng thời, hãy đọc thần chú Vajra Guru như một phương pháp cầu nguyện và trì tụng. Theo phương cách này, mọi sắc tướng sẽ xuất hiện như đây chính là Đạo Sư và các Bổn Tôn. Tất cả những gì bạn làm sẽ trở nên tốt lành tích cực. Như Ngài Jetsun Mila có nói:

Khi tôi đi, tôi dùng mọi tri giác như con đường ;
Đó là cách đi thế nào để cho sáu thức tự giải thoát.271
Khi tôi nghỉ, tôi nghỉ ngơi trong trạng thái tự nhiên bất biến;
Đó là phương cách tinh chuyên và tuyệt đối để nghỉ ngơi.
Khi tôi ăn, tôi ăn thực phẩm của tánh Không;
Đó là cách ăn không có ý niệm đối đãi.
Khi tôi uống, tôi uống nước của chánh niệm và cẩn mật;
Đó là cách uống bất tận không bao giờ dứt.

hoangtri
06-08-2017, 09:02 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Hơn nữa, một khi bạn đi vào Kim Cương Thừa, điều thiết yếu là phải thọ nhận các lễ quán đảnh hay gia lực (empowerment), vì các pháp ấy sẽ ngày một tăng trưởng và đem lại giải thoát.272 Các pháp gia lực sẽ hàn gắn các vi phạm mật nguyện, và khiến bạn có thể thiền định về tất cả các pháp tu của giai đoạn phát triển, của giai đoạn thành tựu, và của Đại Viên Mãn. Các pháp ấy sẽ ngăn ngừa những chướng ngại và không để cho lỗi lầm sinh khởi, giúp cho tất cả những thành tựu của bạn phát triển thêm mãi. Có câu nói rằng:

Trong Mật Thừa, không thể có thành tựu mà không cần quán đảnh,
Bởi điều ấy cũng giống như người lái đò không có mái chèo.

và cũng có câu nói:

Không có quán đảnh thì không có thành tựu;
Bạn không thể ép cát để lấy dầu.

Pháp quán đảnh (điểm đạo hay gia lực) mà ta nhận lãnh trước tiên khi chúng ta mới bước chân vào một mạn đà la do một vị Đạo Sư Kim Cương chân chính ban truyền thì đó gọi là gia lực nền tảng (ground empowerment). Pháp quán đảnh bốn năng lượng (fourfold empowerment) mà ta tự thọ nhận khi chính ta thực hành pháp môn Bổn Sư Du Già mà không cần lệ thuộc vào bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì khác, đó là gia lực đường tu (path empowerment). Pháp quán đảnh mà ta có được vào giây phút của thành tựu tối hậu được gọi là “ánh sáng vĩ đại của gia lực tịnh quang” (great ray of light empowerment) hay “gia lực của tánh vi diệu và tánh sáng bất khả phân,” (empowerment of indivisible profundity and radiance), đây chính là gia lực quả vị thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác (fruit empowerment, perfect and total Buddhahood).273

Các pháp quán đảnh (điểm đạo hay gia lực) này có ba đặc điểm sâu xa không thể nghĩ bàn: đó là tịnh hóa, toàn thiện hoá và trổ quả . 274 Ngay cả khi bạn đang thực hành một pháp môn chính yếu nào đó, nếu bạn bỏ qua bất kỳ một pháp tu dự bị căn bản nào thì đó là một việc sai lầm. Điều đặc biệt quan trọng là khi bạn đang thiền định về các pháp môn tu tập, chẳng hạn như các pháp môn trong giai đoạn phát triển và thành tựu, thì hãy luôn luôn bắt đầu mỗi thời khóa với pháp gia lực đường tu (path empowerment) của Bổn Sư Du Già.

Bất kỳ một ai có lòng quy ngưỡng và có mật nguyện hoàn hoàn thanh tịnh và đã hoàn tất con đường tu đến giai đoạn Bổn Sư Du Già (Guru Yoga) thì ngay cả khi không thực hành các pháp môn chính yếu, họ cũng sẽ được tái sinh nơi núi Huy Hoàng ở đại châu Tây Nam.275 Trong cõi Phật thanh tịnh đó, họ sẽ bước trên con đường của bốn đạo quả của bậc Minh Trì (Vidyādhara), còn nhanh chóng hơn cả những chuyển động của mặt trời và mặt trăng, và họ sẽ đạt tới quả vị của đức Phật Phổ Hiền.

hoangtri
06-10-2017, 05:28 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


III. LỊCH SỬ CHÀO ĐỜI CỦA CỰU PHÁI DỊCH THUẬT


Ngay bây giờ, để giúp người nghe có thêm chút vui vẻ thư giãn cũng như vì một số lý do khác, những giải thích về lịch sự chào đời của giáo pháp nói chung, và của ba pháp tu “nội du già” (inner yogas) nói riêng, thường thường được đem ra trình bày ở đây một cách không quá vắn tắt mà cũng không quá tỉ mỉ. Do đó, bây giờ tôi sẽ giải thích một cách vắn tắt về lịch sử ra đời và truyền thưà của ba pháp tu “nội du già (inner yogas) của Cựu Phái Dịch Thuật (Old Translations), gồm có Mahāyoga, Anuyoga và Atiyoga, và làm thế nào mà ba pháp tu này – tương ứng với các giai đoạn phát triển, thành tựu và Đại Viên Mãn, đã được truyền xuống đến tận chúng ta ngày hôm nay. Có tất cả ba dòng truyền dạy khác nhau: (1) dòng tâm truyền (mind lineage) [hay biệt truyền] của các Đấng Chiến Thắng, (2) dòng truyền dạy qua biểu tượng (symbol lineage) của các bậc Minh Trì (Vidyādhara) và (3) dòng nhĩ truyền (hearing lineage) (hay khẩu truyền) của các chúng sinh bình thường.

hoangtri
06-10-2017, 05:32 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


1. Dòng Tâm Truyền (Biệt Truyền) Của Các Đấng Chiến Thắng

Đức Phật Phổ Hiền* đã giác ngộ từ vô thủy. Những cõi Tịnh độ của toàn thể chư Phật, những nơi chốn mà giáo lý được giảng dạy và toàn thể chư đạo sư của tất cả bốn Thân Phật (four kāyas), tất cả đều đã xuất hiện nhờ vào vô lượng vô số những hoá hiện nhiệm mầu phát xuất từ lòng Từ bi của đức Phật Phổ Hiền. Tập hội những đệ tử của Ngài bao gồm những vị Minh Trì (Vidyadhara) của năm Thân Phật và của hằng hà sa số các Đấng Chiến Thắng không thể nghĩ bàn; không có gì khác biệt giữa các vị ấy và bản thân của đức Phật Phổ Hiền. Đức Phật Phổ Hiền giảng dạy không qua giáo lý; ngài truyền dạy tất cả các giáo thuyết không qua ngôn từ hay qua các biểu tượng thông thường mà truyền dạy một cách hết sức tự nhiên không cần dụng công hay tạo tác, qua tánh sáng rất tự nhiên của lòng đại Từ bi đến từ tuệ giác nguyên sơ của Ngài. Chúng đệ tử của Ngài tự thể nhập yếu nghĩa của giáo lý viên mãn này không chút sai lạc, và phẩm hạnh cùng quả vị tu chứng và giải thoát của các vị ấy 276 trở thành nhất như với phẩm hạnh và quả vị tu chứng và giải thoát của đức Phật Phổ Hiền.

* Tây Tạng: kun tu bzang po, xem Dẫn nhập: Đại Viên Mãn

Đối với những ai không có may mắn thấu hiểu được dòng truyền dạy đầu tiên này thì đã có những Thừa khác hướng dẫn họ tu theo một con đường tiệm tiến hay con đường tuần tự tu chứng (progressive path). Đức Phật Phổ Hiền đã truyền dạy những Thừa này bằng cách hóa hiện ra thành vô số thân tướng trong Hằng hà sa số các thế giới không thể nghĩ bàn trong vũ trụ để làm lợi lạc cho chúng sinh, dẫn dắt từng chúng sinh một bằng phương tiện thiện xảo thích hợp nhất. Ngài đã dạy dỗ sáu loài chúng sinh qua sáu thân tướng đặc biệt gọi là Sáu Đức Mâu Ni. Trong cõi Diêm Phù Đề này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp Luân ở ba mức độ khác nhau cho các vị Trời và người. Ngài đã giảng dạy Quả Thừa, bao gồm Luật (Vinaya), Kinh (Sūtra) và A-tì-đàm Luận (Abhidharma), và truyền dạy ngoại Mật Thừa (outer Mantrayana) gồm có các Mật điển (Kriya Tantra), Hạ Du Già Mật điển (Upayoga Tantra), Du Già Mật điển (Yoga Tantra), v.v…

Để đối trị cảm xúc tham đắm
Đức Phật dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Luật Tạng;
Để đối trị cảm xúc sân hận
Ngài dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Kinh Tạng ;
Để đối trị cảm xúc u mê
Ngài đã dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Luận Tạng;
Để đối trị và điều phục tam độc cùng một lúc
Ngài đã dạy hai mươi mốt ngàn phẩm của Tứ Tạng
(Fourth Pitaka).

hoangtri
06-10-2017, 05:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2. Dòng Truyền Dạy Qua Biểu Tượng Của Các Bậc Minh Trì (Vidyadhara)

Vào thời điểm Ngài nhập Niết Bàn, chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán về sự hình thành của giáo thuyết Mật Thừa vô song:

Hai mươi tám năm
Sau khi ta ngừng xuất hiện trong thế giới này,
Tinh túy tột vời của Giáo Pháp,
Được tôn vinh khắp ba cõi vi diệu,
Sẽ được giảng dạy ở phương Đông cõi Diêm Phù Đề
Cho một người được gọi là đức Vua Ja,
Một người cao quý và may mắn,
Được báo trước bởi các điềm lành.
Và trên đỉnh núi mang tên Đáng Sợ
Đức Kim Cương Thủ sẽ truyền dạy
Cho vị Pháp Vương của Lanka
Cùng với bằng hữu dưới quyền và những người khác.

Sau khi ban phát lời tiên tri này, Đức Phật đã thị hiện nhập Niết Bàn. 227 Sau đó, ba pháp du già của giáo thuyết nội điển (inner doctrine) vô song, cùng các giai đoạn phát triển, thành tựu và Đại Viên Mãn đều xuất hiện như Đức Phật đã tiên tri.

hoangtri
06-10-2017, 05:38 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.1 CÁC MẬT ĐIỂN ĐẠI DU GIÀ (MAHAYOGA)

Hai mươi tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Vua Ja nhận được bảy điềm triệu trong các giấc mơ của mình. Sau đó, trên mái cung điện, nhà vua tìm thấy một số lượng to lớn gồm các pho sách quý báu của các kinh Mật điển (tantra), được viết bằng bột đá màu xanh biếc trên các phiến vàng, cũng như tìm thấy một pho tượng Kim Cương Thủ (Vajrapani) cao một cubit (khoảng 46cm). Nhà vua đã hết lòng cầu nguyện và sau đó đã có thể thông hiểu được phẩm viết về Linh Kiến của Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Nhà vua đã hành trì pháp môn này trong sáu tháng ròng, vận dụng những giảng dạy trong phẩm đó và bức tượng Kim Cương Thủ như Pháp bảo hỗ trợ cho công phu thiền định của mình. Sau đó, nhà vua đã có được một linh kiến của Kim Cang Tát Đoả, Ngài đã gia lực cho nhà vua khiến vua hoàn toàn thông suốt ý nghĩa của toàn bộ ba pho Giáo Pháp này. Từ đó trở đi, các giáo pháp ấy dần dần lan rộng.

2.2 LỊCH SỬ TRUYỀN DẠY A-NẬU DU GIÀ (ANUYOGA)

Trong cùng thời gian đó, trên đỉnh núi Malaya,278 Năm Đấng Tuyệt Hảo Cao Quý Siêu Phàm279 đã định tâm hướng về tất cả chư Phật ở mười phương và tụng đọc một bài kệ ai oán gồm hai mươi ba câu, bắt đầu bằng câu:

Than ôi! Than ôi! Than ôi!
Giờ đây mặt trời của đức Phật đã biến mất
Ai sẽ xua tan bóng tối của thế gian?

Tất cả chư Như Lai đồng khẩn cầu vị Pháp Vương của Mật Pháp, đức Kim Cương Thủ:

Xin hãy lắng nghe, Pháp Vương của Mật Pháp, chúng con
khẩn cầu Ngài! Lẽ nào Ngài đã quăng bỏû áo giáp thuở xa xưa? Lẽ đâu ngài không thấy khổ đau của thế giới ? Xin Ngài xót thương và nhập thế, Xua tan bao thống khổ của thế gian!

Pháp Vương của Mật Pháp ưng thuận:

Không bắt đầu và không chấm dứt
Không bao giờ từ bỏ thệ nguyện,
Đáp ứng bất kỳ khi được khẩn cầu,
Ta khai mở những hiển bày kỳ diệu.

Ngay lúc đó, ngay trên đỉnh núi Mālaya, Ngài đã giảng dạy Yếu Nghĩa Mật Kinh 280 và các giáo lý khác cho năm Đấng Cao Quý kia. Tại Dhanakośa ở phía Tây xứ Oddiyāna, đức Vajrapani đã giảng dạy Mật điển Bí Mật Tập Hội 281 cùng với các giáo huấn tinh túy của Ngài và các giáo huấn Mật điển thuộc hệ Kila, Mamo và những giáo huấn khác cho vị hóa thân Garab Dorje.282 Tất cả các truyền dạy này được Ngài Padma Thotrengtsel xứ Oddiyāna (Đức Liên Hoa Sanh) thọ nhận và sau đó những giáo huấn này ngày càng lan rộng.

hoangtri
06-11-2017, 06:07 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.3 CÁC GIÁO HUẤN TÂM YẾU CỦA ĐẠI VIÊN MÃN

Atiyoga (A Đề Du Già, A Tì Du Già) tức Đại Cứu Kính hay Đại Viên Mãn, trước tiên được dạy cho những vị Trời. Trong cõi Trời thứ Ba Mươi Ba, có một vị trời tên là Devabhadrapala, ông có năm trăm người con trai, tất cả được đản sanh ra từ trong tâm của ông.* Người lớn nhất có tên là Ānandagarbha, thông minh và có sức mạnh phi thường hơn hẳn các em. Ngài thích hành trì tụng đọc các bài kệ Kim cương, một mình đơn độc trong tịnh thất. Ngài được gọi là Devaputra Adhicitta, “Thiên tử với tâm siêu việt.”

Vào năm Nữ Ngưu thuộc mạng thủy, Ngài nằm mơ bốn giấc mơ với nhiều biểu tượng. Trong giấc mơ thứ nhất, tất cả chư Phật đang phóng toả hào quang khắp mười phương, và thân tướng của Sáu Đức Mâu Ni được tạo bởi các luồng ánh sáng đang xoay quanh chúng sinh trước khi tan lẫn vào Ngài qua đỉnh đầu. Trong giấc mơ thứ hai, Ngài nuốt trọn Brama, Visnu và Pasupati.* Trong giấc mơ thứ ba, mặt trời và mặt trăng trong bầu trời xuất hiện trong đôi bàn tay của Ngài khiến cho toàn thể thế giới tràn đầy ánh sáng. Trong giấc mơ thứ tư, một trận mưa cam lồ rơi xuống từ một đám mây mang màu châu ngọc, và đột nhiên hiện ra những khu rừng, những loài cây quý, các thứ hoa, trái và quả mọng của cây dâu dại. * Họ được sinh ra một cách thần diệu chỉ nhờ vào ước muốn của ông ta.

* Đây là ba vị thần chính yếu của đạo Bà-La-Môn (Hindu gods). Pasupati là một tên khác của Siva.

Hôm sau, Ngài đến kể về các giấc mơ cho Kausika, vua các vị Trời nghe. Nhà vua liền phát ra lời tán tụng này:

Emaho (Kỳ diệu thay)!
Bây giờ là lúc để giáo pháp tâm yếu xuất hiện mà không phải dụng công!
Hóa Thân của Chư Phật, Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại và vị lai,
Pháp Vương của thập địa – Ngài sẽ thắp sáng toàn thể thế giới. Thật là một tô điểm kỳ diệu cho các cõi Trời!

hoangtri
06-11-2017, 06:10 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Giấc mơ đầu tiên là dấu hiệu cho thấy Ngài sẽ nhiếp thụ trí huệ của toàn thể chư Phật và trở thành vị đại diện cho chư Phật. Giấc mơ thứ hai biểu thị rằng Ngài sẽ nhiếp phục được tất cả Ma Quỷ và đoạn diệt tam độc. Giấc mơ thứ ba có ý nghĩa là Ngài sẽ xua tan bóng tối trong tâm chúng sinh và soi sáng tâm họï bằng các giáo pháp. Giấc mơ thứ tư tượng trưng cho sự dập tắt những nỗi thống khổ mãnh liệt do các cảm xúc tiêu cực gây ra, dập tắt bằng giòng cam lồ của giáo lý Ati tự nhiên hiển lộ và bằng quả vị thành tựu không cần dụng công của thừa Ati.

Một lần nữa, tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai cùng tụ hội lại và nói:

Chúng tôi khẩn cầu đấng quang vinh Kim Cang Tát Đoả:
Là đấng sở hữu viên ngọc phương tiện kỳ diệu,
Xin mở cánh cửa đến với tất cả những gì chúng sinh ước muốn.
Xin ban cho họ viên ngọc siêu vượt mọi dụng công.

Từ tim của đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva) xuất hiện một bánh xe nạm ngọc rực rỡ-- Ngài tặng bánh xe đó cho Sattvavajra** Một tên khác của Vajrapani (Kim Cương Thủ). và nói:

Trí huệ bát nhã siêu vượt nhị nguyên, siêu vượt thực tại bị che chắn,
Đức Phật nguyên sơ, không dụng công và không tạo tác:
Con đường này được gọi là Trung Đạo Vĩ Đại.
Hãy khai mở cho tập hội các đệ tử.

Sattvajra hứa sẽ giảng dạy như sau:

Kim Cang Tát Đoả, bao la như bầu trời,283
Siêu vượt phạm vi ngôn từ,
Thật khó để diễn tả.
Nhưng với những ai chưa chứng ngộ, ta sẽ sử dụng ngôn từ
Chỉ ra yếu nghĩa khiến họ có thể chứng ngộ,
Và sẽ sử dụng bất kỳ phương tiện nào giúp giải thoát các hành giả.

hoangtri
06-11-2017, 06:14 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Ở Vajraloka, cõi Phật phía đông, đức Kim Cang Thủ đã tham vấn đức Phật Vajraguhya và chư Như Lai của Kim Cương Bộ (Vajra Family). Ở Ratnaloka, cõi Phật phía nam, Ngài tham vấn đức Như Lai Ratnapada và chư Như Lai của Bảo Sanh Bộ (Jewel Family). Ở Padmakata, cõi Phật phía tây, Ngài tham vấn đức Thế Tôn Padmaprabha và tất cả hằng sa chư Như Lai của Liên Hoa Bộ (Lotus Family). Ở Visuddhasiddha, cõi Phật phía Bắc, Ngài tham vấn đức Như Lai Siddhyaloka và Hằng sa chư Như Lai của Hạnh Bộ (Action Family).Ở Viyoganta, cõi Phật ở trung tâm, Ngài tham vấn đức Như Lai Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) và nhiều Đấng Chiến Thắng khác của Như Lai Phật Bộ (Tathāgata Family).

Như thế đức Vajrapani đã chắt lọc tinh tuý trí huệ của tất cả các đấng Chiến Thắng và giải tan mọi hiểu biết sai lầm về mỗi một khía cạnh của Đại Viên Mãn (Atiyoga), là tinh túy tuyệt diệu của Giáo Pháp, là kinh nghiệm chứng ngộ tự nhiên không cần dụng công, siêu vượt nhân quả. Ngài biết rằng Adhicitta, bậc thiên tử, đã có thiện nghiệp và phước duyên, và Ngài biết phải tìm Adhicitta ở Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba, trong gian chính của Cung Điện Toàn Thắng, nơi đỉnh có đặt một cây sinh lực, trên ngọn có đặt một chày Kim cương chín chấu. Đức Kim Cang Thủ đi tới đó để gặp Adhicitta và ngự trên một chiếc ngai khảm ngọc chói ngời trên chóp đỉnh của chày Kim cang này.

Adhicitta mở rộng tấm màn che làm bằng đủ loại châu báu và cúng dường cho đức Kim Cang Thủ (Vajrapani) nhiều phẩm vật linh thiêng. Rồi đức Kim Cang Thủ truyền cho Ngài, qua phương tiện của những biểu tượng, toàn thể năng lực gia hộ bằng cách trực tiếp “rót đầy phương tiện của các Đấng Chiến Thắng.”284 Đức Kim Cang Thủ cũng ban truyền cho Ngài mười giáo huấn tâm yếu kỳ diệu, bảy pháp quán đảnh, năm giáo huấn tâm yếu và một số rất nhiều các Mật điển và giáo huấn tâm yếu khác, toàn bộ đã được trao truyền chỉ trong một giây khắc. Đức Kim Cang Thủ gia hộ và ấn chứng cho Ngài là vị đại diện lỗi lạc nhất của chư Phật và tuyên bố những lời này:

Cầu mong yếu nghĩa kỳ diệu này của Giáo Pháp
Được biết đến khắp ba cõi vi diệu
Và được truyền bá giữa cõi Diêm Phù Đề
Bởi một trưởng tử là hóa thân của một Hóa Thân.285
Theo đó, Giáo Pháp đã lan truyền khắp ba cõi linh hiển.

hoangtri
06-12-2017, 04:17 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.4 GIÁO PHÁP ĐẠI VIÊN MÃN ĐẾN VỚI CÕI NGƯỜI

Nằm ở phía tây Ấn Độ là Oddiyāna, xứ sở của các vị Không Hành nữ hay Thiên Nữ Trí Tuệ. Ở đó, trong miền Dhanakośa, có một hồ nước tên là Kutra. Trên bờ hồ, trong một rừng cây tươi đẹp đầy hoa cỏ xinh tươi có một cái hang tên là Cung Điện Kim Cương, và đây là nơi cư ngụ của một thiếu nữ tên là Hoa Tươi, con gái của Vua Uparāja và Hoàng hậu Ālokabhāsvati. Cô mang trên người tất cả những dấu hiệu toàn thiện, có một trái tim đức hạnh và tâm Bồ Đề bao la. Từ bỏ thói đạo đức giả và phóng dật, cô được thọ giới làm tỳ kheo ni và giữ mọi giới nguyện thật toàn hảo không một lỗi lầm. Cô có một chúng đệ tử gồm năm trăm vị ni.

Vào năm Mộc Ngưu, ngày mồng tám tháng hai của mùa hạ, khi bình minh vừa ló dạng, cô nằm mơ một giấc mơ trong đó cô nhìn thấy tất cả chư Như Lai phát hào quang, những luồng ánh sáng biến thành mặt trời và mặt trăng. Mặt trời tan vào cô qua đỉnh đầu, di chuyển xuống phiá dưới. Mặt trăng tan vào cô qua các gót chân, di chuyển lên phiá trên. Sáng ra, kinh nghiệm chứng ngộ của cô tăng trưởng, và cô đi ra lau rửa trên bờ Hồ Kutra. Trong lúc đó, đức Vajrapani trong thân tướng của một con thiên nga, vua của các loài chim; Ngài biến Adhicitta thành một chữ hūm và sau đó tự biến mình thành bốn con thiên nga. Bốn con thiên nga từ trên trời cao hạ cánh xuống dầm mình trong nước hồ. Rồi ba con trong số đó lại cất cánh bay lên giữa bầu trời, nhưng một trong những hiện thân này của Pháp Vương Mật Pháp (đức Kim Cang Thủ -Vajrapani), trước tiên đã chạm mỏ vào tim công chúa ba lần, và một chữ hūm sáng chói tan vào tim cô. Rồi con thiên nga ấy cũng bay đi.

Quá kinh ngạc, công chúa báo lại cho phụ thân và chúng đệ tử biết chuyện gì đã xảy ra. Trong lòng tràn đầy xúc cảm kỳ diệu, vua cha rất hoan hỷ.

“Đây có phải là điềm báo trước sự chào đời của hóa thân của một vị Phật ?” nhà vua hỏi.

Nhà vua tiến hành tổ chức nhiều đại tiệc và lễ lạc. Mặc dù công chúa không có dấu hiệu gì chứng tỏ cô đang mang thai, nhưng khi gần đến thời kỳ ở cữ, một chày Kim cang chín chấu lấp lánh phóng ra từ tim cô. Rồi chày Kim cang ấy biến mất, để lại ở ngay vị trí đó một em bé với những tướng chính và phụ của Phật Quả, em cầm một chày Kim cang trong bàn tay phải và tay trái cầm một cây gậy bằng vật liệu quý. Em đang tụng đọc những lời nguyện bắt đầu bằng câu: “Đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva), mênh mông như bầu trời...” Mọi người thảy đều hoan hỉ. Họ đưa em tới gặp một người Bà la môn thông thạo nghệ thuật lý giải những dấu hiệu kỳ lạ. Hết sức kinh ngạc, người Bà la môn tuyên bố em bé là một hóa thân hiển lộ, bậc nắm giữ các giáo lý của Thừa tối thượng (highest vehicle). Vì mọi người đang hết sức sung sướng hoan hỉ và em bé đang cầm một cái chày trong tay nên họ gọi em là Garab Dorje, có nghĩa là Kim Cương Cực Hỉ. Vì mọi người đang rất vui mừng, họ cũng gọi em là Kim Cương Niềm Vui. Và vì họ tràn đầy tiếng cười nên họ cũng gọi em là Kim Cương Tiếng Cười.

hoangtri
06-12-2017, 04:22 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


2.4 GIÁO PHÁP ĐẠI VIÊN MÃN ĐẾN VỚI CÕI NGƯỜI

Nằm ở phía tây Ấn Độ là Oddiyāna, xứ sở của các vị Không Hành nữ hay Thiên Nữ Trí Tuệ. Ở đó, trong miền Dhanakośa, có một hồ nước tên là Kutra. Trên bờ hồ, trong một rừng cây tươi đẹp đầy hoa cỏ xinh tươi có một cái hang tên là Cung Điện Kim Cương, và đây là nơi cư ngụ của một thiếu nữ tên là Hoa Tươi, con gái của Vua Uparāja và Hoàng hậu Ālokabhāsvati. Cô mang trên người tất cả những dấu hiệu toàn thiện, có một trái tim đức hạnh và tâm Bồ Đề bao la. Từ bỏ thói đạo đức giả và phóng dật, cô được thọ giới làm tỳ kheo ni và giữ mọi giới nguyện thật toàn hảo không một lỗi lầm. Cô có một chúng đệ tử gồm năm trăm vị ni.

Vào năm Mộc Ngưu, ngày mồng tám tháng hai của mùa hạ, khi bình minh vừa ló dạng, cô nằm mơ một giấc mơ trong đó cô nhìn thấy tất cả chư Như Lai phát hào quang, những luồng ánh sáng biến thành mặt trời và mặt trăng. Mặt trời tan vào cô qua đỉnh đầu, di chuyển xuống phiá dưới. Mặt trăng tan vào cô qua các gót chân, di chuyển lên phiá trên. Sáng ra, kinh nghiệm chứng ngộ của cô tăng trưởng, và cô đi ra lau rửa trên bờ Hồ Kutra. Trong lúc đó, đức Vajrapani trong thân tướng của một con thiên nga, vua của các loài chim; Ngài biến Adhicitta thành một chữ hūm và sau đó tự biến mình thành bốn con thiên nga. Bốn con thiên nga từ trên trời cao hạ cánh xuống dầm mình trong nước hồ. Rồi ba con trong số đó lại cất cánh bay lên giữa bầu trời, nhưng một trong những hiện thân này của Pháp Vương Mật Pháp (đức Kim Cang Thủ -Vajrapani), trước tiên đã chạm mỏ vào tim công chúa ba lần, và một chữ hūm sáng chói tan vào tim cô. Rồi con thiên nga ấy cũng bay đi.

Quá kinh ngạc, công chúa báo lại cho phụ thân và chúng đệ tử biết chuyện gì đã xảy ra. Trong lòng tràn đầy xúc cảm kỳ diệu, vua cha rất hoan hỷ.

“Đây có phải là điềm báo trước sự chào đời của hóa thân của một vị Phật ?” nhà vua hỏi.

Nhà vua tiến hành tổ chức nhiều đại tiệc và lễ lạc. Mặc dù công chúa không có dấu hiệu gì chứng tỏ cô đang mang thai, nhưng khi gần đến thời kỳ ở cữ, một chày Kim cang chín chấu lấp lánh phóng ra từ tim cô. Rồi chày Kim cang ấy biến mất, để lại ở ngay vị trí đó một em bé với những tướng chính và phụ của Phật Quả, em cầm một chày Kim cang trong bàn tay phải và tay trái cầm một cây gậy bằng vật liệu quý. Em đang tụng đọc những lời nguyện bắt đầu bằng câu: “Đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva), mênh mông như bầu trời...” Mọi người thảy đều hoan hỉ. Họ đưa em tới gặp một người Bà la môn thông thạo nghệ thuật lý giải những dấu hiệu kỳ lạ. Hết sức kinh ngạc, người Bà la môn tuyên bố em bé là một hóa thân hiển lộ, bậc nắm giữ các giáo lý của Thừa tối thượng (highest vehicle). Vì mọi người đang hết sức sung sướng hoan hỉ và em bé đang cầm một cái chày trong tay nên họ gọi em là Garab Dorje, có nghĩa là Kim Cương Cực Hỉ. Vì mọi người đang rất vui mừng, họ cũng gọi em là Kim Cương Niềm Vui. Và vì họ tràn đầy tiếng cười nên họ cũng gọi em là Kim Cương Tiếng Cười.

hoangtri
06-12-2017, 04:26 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Khi Garab Dorje lên ngôi, đức Kim Cang Thủ (Vajrapani) xuất hiện trong thân tướng con người và trực tiếp ban cho ngài pháp gia trì viên mãn bằng cách rót đầy những yếu nghĩa của các Đấng Chiến Thắng cũng như rót đầy các pháp gia lực khác. Chỉ trong giây khắc, đức Vajrapani cũng truyền cho ngài toàn bộ các Mật điển (tantra) và các giáo huấn tinh túy, chẳng hạn như hai mươi ngàn pho Cửu Phương Quảng Trí (Nine Expanses) v.v.., và trao quyền cho Ngài làm người trì giữ giáo pháp. Đức Kim Cang Thủ chỉ định các vị hộ pháp trung thành làm bạn đồng hành với Garab Dorje để bảo vệ Giáo Pháp. Không cần phải dụng công và chỉ trong khoảnh khắc, Garab Dorje đạt được Phật Quả thuộc quả vị Đại Viên Mãn.

Vào lúc đó, ở tại xứ Ấn Độ cao quý, người Bà la môn Sukhapāla và vợ ông là Kuhanā sinh hạ một bé trai, là một hóa thân của đức Văn Thù (Mađjuśrī) cao quý. Em bé Bà la môn được đặt tên là Sārasiddhi, và cũng còn được gọi là Samvarasāra. Về sau em trở thành một tu sĩ, là người đứng đầu năm trăm vị học giả và được nhận lãnh danh hiệu Đạo sư Diệu Đức Hữu (Mađjuśrīmitra).

Trong một linh kiến, đức Văn Thù cao quý bảo Ngài Mađjuśrīmitra: “Hãy đi về phía Tây xứ Oddiyāna. Quanh bờ Hồ Kutra, có một mộ địa tên là Cung Điện Mahahe Vàng. Ở giữa là một cái hang gọi là Cung Điện Kim Cương, ở đó có hoạt hiện một hóa thân được gọi là Garab Dorje. Ngài là một Hóa Thân của đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Ngài nắm giữ Giáo Pháp không cần dụng công của tất cả chư Phật, và tất cả chư Phật đã gia lực cho Ngài. Hãy đi đến gặp Ngài và khẩn cầu yếu nghĩa phi thường của các giáo lý, là pháp Atiyoga mà Ngài đang nắm giữ và nhờ đó có thể đạt được Phật Quả mà không cần dụng công. Ông phải là người biên soạn lại Giáo Pháp đó của Ngài.”

Mađjuśrīmitra nói với những người bạn học giả của Ngài: “Ở phương Tây trong xứ Oddiyana có một Đạo Sư đang giảng dạy một giáo thuyết siêu vượt nguyên lý nhân quả. Chúng ta phải lên đường và đánh đổ ông ta bằng luận lý.”

Họ bàn cãi về vấn đề và bảy người trong số đó, gồm cả bậc huynh trưởng Rajahasti, đã du hành gian khổ đến xứ Oddiyāna. Nhưng mặc dù họ tranh luận gay gắt đến đâu với Garab Dorje chăng nữa, tranh luận về các giáo lý đặt trên nền tảng nhân quả, hoặc tranh luận về các giáo lý của ngoại hay nội Mật Thừa (outer or inner Mantrayana) thì họ vẫn không thể đánh bại Ngài.

hoangtri
06-12-2017, 04:31 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Rồi Mađjuśrīmitra hỏi các học giả khác: “Chúng ta có nên cầu hỏi vị ứng hiện hóa thân này về giáo pháp siêu vượt nguyên lý nhân quả của Ngài không?”

Huynh trưởng Rajahasti muốn thỉnh cầu Giáo Pháp nhưng lại tuyên bố: “Tôi không dám, bởi chúng ta đã tỏ ra thiếu tôn kính với Ngài.”

Một số người khác cảm thấy rằng họ có thể thỉnh cầu Giáo Pháp vì giờ đây họ đã được Ngài thuyết phục. Họ cùng nhau quyết định sám hối với bậc Đạo Sư. Một số bắt đầu lễ lạy và đi nhiễu quanh Ngài. Những người khác bắt đầu kêu khóc.

Mađjuśrīmitra quỳ lạy trước mặt Ngài và nói: “Bậc ứng hiện Hóa Thân, bằng cách tuôn ra những luận cứ không sao kìm hãm được, con đã xử sự bất kính đối với Ngài.”

Với ý định cắt đứt lưỡi mình để bày tỏ sự thống hối, ông bắt đầu đi tìm kiếm một lưỡi dao cạo. Nhưng Ngài Garab Dorje đọc được tâm ông.

“Ông sẽ không bao giờ tịnh hóa các hành động xấu ác của ông bằng cách cắt đứt lưỡi được!” Ngài nói. “Hãy biên soạn một giáo pháp siêu vượt các giáo pháp dựa trên nguyên lý nhân quả. Việc làm đó sẽ tịnh hóa chính ông.”

Tất cả những học giả còn thiếu thiện nghiệp cần thiết và thiếu phước duyên, họ đều quay trở về nhà. Nhưng Mađjuśrīmitra đã thâu hóa toàn bộ Giáo Pháp, đạt được chứng ngộ tức thời chỉ nhờ thấy được một cử chỉ của Đạo Sư. Để giúp cho Giáo Pháp được hoàn toàn viên mãn, Garab Dorje ban cho Ngài pháp gia lực trực tiếp bằng cách rót đầy những phương tiện thiện xảo của các Đấng Chiến Thắng, rót đầy tất cả các Mật điển (tantra) và các giáo huấn tâm yếu không thiếu thứ nào, gồm cả hai mươi ngàn pho sách của Cửu Đại Quảng Trí (Nine Expanxes). Chính vào lúc này Ngài ban cho ông danh hiệu Mađjuśrīmitra. Bậc ứng hiện Hoá Thân Garab Dorje đã ghi chép ý nghĩa của các giáo huấn này và ban cho Mađjuśrīmitra Giáo Pháp sau đây:

Từ vô thủy, bản tánh của tâm là Phật.
Không sinh cũng không diệt, tựa không gian.
Khi ông liễu ngộ chân nghĩa, thấy ra tánh của vạn pháp vốn đồng đẳng,
Hãy an trụ trong trạng thái đó, đừng kiếm tìm 286 thì đó là thiền định.

hoangtri
06-12-2017, 04:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Mađjuśrīmitra hoàn toàn thấu suốt, hiểu rõ Giáo Pháp này muốn nói gì và diễn tả kinh nghiệm chứng ngộ của riêng Ngài như sau:

Ta là Mađjuśrīmitra,
Ta đã thành tựu quả vị Yamāntaka.
Ta đã liễu ngộ tánh đại bình đẳng giữa sinh tử Niết Bàn;
Tuệ giác nguyên sơ đã phát khởi.

Ngài đã viết Giáo Huấn Về Bồ Đề Tâm Khắc Bằng Vàng Trên Đá 287 để ăn năn sám hối, và ghi lại hết các giáo huấn của Garab Dorje.

Kế đó, các Giáo Pháp này được truyền cho Śri Simha, là người đã ra đời tại Trung Hoa ở một nơi có tên là Shosha, cha Ngài tên là Đức Hạnh và mẹ tên là Tri Giác Trong Sáng. Ngài trở nên tinh thông năm môn khoa học (Ngũ Minh khoa học), gồm có ngôn ngữ, luận lý, chiêm tinh học và v.v.., các môn này ngài học với Đạo sư Hastibhala. Năm hai mươi lăm tuổi, Ngài gặp Đạo Sư (Ācārya) Diệu Đức Hữu (Mađjuśrīmitra), và từ bậc Đạo Sư này, Ngài đã nhận lãnh toàn bộ Giáo Pháp Đại Viên Mãn thâm diệu, với những Mật điển, khẩu truyền, cùng với những giáo huấn tâm yếu, và Ngài đạt được Chứng ngộ Tối thượng, giải thoát khỏi mọi tạo tác trong tâm thức.

Từ Śri Simha, các Giáo Pháp này đã được trao truyền tới Đức Phật Thứ Nhì ở xứ Oddiyāna* và sau đó tới học giả Jđānasūtra, đại học giả Vimalamitra, và đại dịch giả Vairotsana. Dòng truyền thừa cho tới thời điểm này là dòng truyền thừa qua biểu tượng của các đấng Minh Trì (Vidyadhara).
* Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh).

hoangtri
06-14-2017, 05:54 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


IV. LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ TÂM-YẾU Ở XỨ TUYẾT TÂY TẠNG

Vào thời Đức Phật, Tây Tạng không có cư dân là con người. Về sau, có một bộ lạc con người phát xuất từ sự kết hợp giữa một loài vượn (là Hóa Thân của đức Quán Thế Âm Avalokiteśvara cao quý) cùng với một nữ tinh linh núi**. Trong thời kỳ phôi thai này, Tây Tạng ở trong một tình trạng hỗn loạn không tôn giáo, không luật lệ, không người cai trị.
** Có chỗ nói rằng đó là một hóa thân của Đức Quan Âm (Tara).

Trong lúc đó ở Ấn Độ, một vị vua tên là Śatānīka sinh hạ được một bé trai. Bàn tay và bàn chân của đứa trẻ có màng giống màng của một con thiên nga và mí mắt của em khép lại hướng lên trên như mí mắt của một con chim. Cha em cho rằng đứa trẻ hẳn có nguồn gốc quái thai không phải là người, tuyên bố là em phải bị trục xuất khỏi vương quốc. Ngay khi vừa lớn lên một chút, em bé đã bị đuổi đi. Do nghiệp lực dẫn dắt, em bé đã lang thang vô định và cuối cùng thì đến Tây Tạng. Ở đó em tình cờ gặp một vài người chăn cừu. Khi họ hỏi em từ đâu tới và là ai, em chỉ lên bầu trời. Những người chăn cừu cho rằng em bé phải là một vị Trời từ các cõi Trời hạ sinh, và tôn em làm thủ lãnh của họ. Họ làm cho em một chiếc ngai bằng đất và đá, và họ khiêng chiếc ngai đó trên vai, và vì thế em được gọi là Nyatri Tsenpo Cổ thời – Nyatri Tsenpo có nghĩa là “Đế Vương Của Chiếc Ngai Trên Vai.” Đây là vị vua đầu tiên, 288 và là một Hóa Thân của Bồ Tát Sarvanivāranaviskambhin.

Nhiều đời sau đó, trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen, Ngài là một Hóa Thân của Bồ Tát Phổ Hiền (Samantabhadra), hiện ra trên mái Cung Điện Yumbu Lakhar cùng với một số các bảo vật linh thiêng:289 gồm có một tôn tượng được gọi là Cintāmani,290 tượng trưng cho thân tướng của chư Phật; Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh 291 và Kinh Bách Nguyện Bách Bái,292 tượng trưng cho ngữ của chư Phật ; và một tháp pha lê cao một cubit (khoảng 46cm), tượng trưng cho tâm của chư Phật.

Đây là khởi đầu lịch sử của Giáo Pháp ở Tây Tạng.

Trải qua năm đời sau đó đến triều đại của vua Songtsen Gampo 293 là một Hóa Thân của đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara). Ngài xây dựng tất cả các điện thờ Thadul và Yangdul và cung điện chính ở thủ đô Lhasa 294 và kết hôn với công chúa Kongjo (Văn Thành Công Chúa) xứ Trung Hoa – một Hóa Thân của đức Quan Âm (Tara) – và với công chúa Tritsun xứ Nepal – một Hóa Thân của Thiên Nữ Bhrikutī. Mỗi công chúa đều có đem theo một pho tượng của Đức Phật, như một phần thuộc của hồi môn. Hai pho tượng này được biết đến như là Jowo.295

Lần đầu tiên một hệ thống chữ cái Tây Tạng được Thomi Sambhota khai lập; ông nghiên cứu ngôn ngữ dưới sự dạy dỗ của học giả Ấn Độ Devavit Simha, và sau đó đã bắt đầu dịch Bảo Vân Kinh và một số các Kinh điển khác. Vua Songtsen Gampo đã phóng toả ra một tu sĩ tên là Akarmati từ giữa cặp lông mày của ngài. Vị tu sĩ này đi nhiếp phục các vị vua phi Phật Giáo ở Ấn Độ, và tìm thấy năm bức tượng Quán Thế Âm tự hoá hiện có tên là Năm Anh Em Cao Quý ngay trong thân của một loại cây đàn hương gọi là “Mãng Xà Tâm Yếu,” ở ngay Cung Điện Cát nằm giữa Ấn Độ và Tamradvipa. Ngài cũng đã tạc pho tượng Quán Thế Âm Avalokitesvara mười một khuôn mặt (Quán Tự Tại Thập Nhất Diện hay Thiên Thủ Thiên Nhãn) đặc biệt linh thiêng hiện còn ở Lhasa.296 Chính trong triều đại này mà Phật Pháp thực sự bắt rễ ở Tây Tạng.

hoangtri
06-14-2017, 06:00 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Trải qua năm đời nữa, đến đời vua Trisong Detsen,297 một Hóa Thân của đức Văn Thù Cao Quý được sinh ra đời. Khi Ngài lên mười ba tuổi thì thân phụ mất. Trước tiên Ngài chinh phục một số các xứ sở bằng vũ lực sau khi đã tham khảo ý kiến với các quan thượng thư như Ngam Tara Lugong và Lhazang Lupel.

Sau đó, lúc mười bảy tuổi, khi tham khảo các tài liệu lưu trữ của tổ tiên, Ngài nhận ra rằng trước tiên Phật Pháp đã tới xứ Tây Tạng trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen và được vua Songtsen Gampo củng cố. Khi nhận thức được tổ tiên Ngài nhất tâm làm việc vì Pháp ra sao, Ngài cảm thấy chính mình cũng phải đặt hết mối quan tâm vào việc truyền bá giáo thuyết. Ngài hỏi ý kiến thượng thư Bộ Tôn Giáo của mình là Go Pema Gungtsen và khéo léo thỉnh ý các vị thượng thư khác khiến họ nhất trí xây dựng một ngôi chùa. Khi phải đi tìm một vị Thầy về để tổ chức tế lễ, làm an định (tức tai) thổ địa,298 họ hỏi ý kiến Nyang Tingdzin Zangpo, là vị Thầy rất được nhà vua tôn kính, khi đó đang ở Samye Chimpu.

Dựa vào công phu thiền quán, Ngài Tingdzin Zangpo biết rằng ở Zahor miền đông Tây Tạng có một đại Tu Viện Trưởng tên là Santaraksita, con trai của Pháp Vương Gomadeviya. Ngài báo tin này cho nhà vua, và vị Tu Viện Trưởng được mời sang Tây Tạng.

Sau đó Ngài Santaraksita cố gắng hiến cúng địa điểm của ngôi chùa. Nhưng một loài rồng nước (naga) sống trong một cung điện tên là Aryapalo, biết rằng bụi cây nơi ông ta sống sắp bị đốn hạ, đã kêu gọi tất cả các tinh linh tới trợ giúp ông. Hai mươi mốt genyen được người và các chúng phi-nhân (non-humans) hộ tống, cùng tập hợp thành một đội quân, và khi đêm đến, các tinh linh phá hủy bất kỳ những gì được con người xây dựng vào ban ngày, đưa mọi thứ đất đá trở về lại nơi xuất phát.

Nhà vua đến gặp Tu Viện Trưởng và yêu cầu một lời giải thích: “ Có phải bởi vì các chướng duyên của trẫm quá sâu dày? Hay tại Ngài đã không gia hộ cho mảnh đất? Phải chăng kế hoạch của trẫm vẫn chưa thực hiện được ?”

“Tôi đã thấu suốt Bồ Đề Tâm,” vị Tu Viện Trưởng đáp, “nhưng không thể điều phục các vị Trời và Quỷ Ma bằng các pháp an bình như thế. Chỉ có các pháp uy nộ mới đem lại kết quả. Hiện nay tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) ở Ấn Độ có một Đạo Sư tên là Liên Hoa Sanh xứ Oddiyāna. Ngài đến với thế giới này bằng một phương tiện thầân kỳ. Ngài tinh thông ngũ minh khoa học và đã làm chủ được năng lực của [kiến giải] tuyệt đối.299 Ngài đã đạt được các thành tựu thông thường lẫn siêu việt. Ngài đã dẹp tan ma quỷ, và buộc tám loại tinh linh phải quy phục Ngài. Ngài đã làm tất cả các vị Trời và ma quỷ phải run sợ và có thể điều phục các tinh linh mạnh mẽ. Nếu nhà vua thỉnh Ngài đến đây, sẽ không tinh linh nào có thể chống lại Ngài và mọi ước nguyện của nhà vua sẽ được mỹ mãn.”

hoangtri
06-14-2017, 06:05 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


“Lỡ không thể thỉnh mời được người như thế thì sao ?” nhà vua hỏi. Tu Viện Trưởng đáp: “Không đâu, Ngài sẽ có thể mời được vị ấy do bởi các lời cầu nguyện mà Ngài đã phát nguyện trong quá khứ. Thời xa xưa ở Nepal, có một người đàn bà tên là Samvari, con gái của người chủ trại gà Salé, bà ta có bốn con trai do sống chung với một người nuôi ngựa, một người nuôi heo, một người nuôi gà vịt và một người nuôi chó,” và Ngài kể cho vua câu chuyện tháp Jarung Khashor300 đã được xây dựng thế nào và những lời cầu nguyện đã được phát nguyện như thế nào vào lúc đó.

Nhà vua phái Ba Trisher, Dorje Dudjom Chim Śakyaprabha và Shubu Palgyi Senge tới Ấn Độ, mỗi vị mang một số lượng bụi vàng và một cái nơ vĩnh cửu bằng vàng. Các vị ấy giải thích cho Đạo Sư rằng Ngài cần có mặt ở Tây Tạng để gia trì cho địa điểm của một ngôi chùa.

Đạo Sư hứa sẽ đến. Ngài lên đường, dừng lại trên đường để buộc mười hai tenma, mười hai vị nữ hộ thần, hai mươi mốt genyen, cùng tất cả các vị Trời và tinh linh của Tây Tạng phải tuyên thệ.

Cuối cùng Ngài đến Trakmar để gia trì mảnh đất, và tu viện Samye Tự Hiển Lộ đã được xây dựng. Tu viện có một dinh thự ở giữa cao ba tầng, được bao quanh bởi những tòa nhà tượng trưng cho bốn đại châu và các trung châu. Hai điện Yaksa, một cao và một thấp tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng. Toàn bộ tu viện được một bức tường bao quanh. Tu Viện Trưởng Santaraksita, Đạo Sư Padma (Liên Hoa) và Vimalamitra tung hoa lên để cúng dường và làm an định cả thảy ba lần và người ta đã nhìn thấy nhiều dấu hiệu phi thường và kỳ diệu nhiệm mầu hiện ra.301

hoangtri
06-19-2017, 05:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


1. Dòng Nhĩ Truyền Của Những Chúng Sinh Bình Thường*

Sau đó Tu Viện Trưởng Śantaraksita đã giảng dạy về các truyền thống của Luật tạng và Kinh tạng, trong khi Đạo Sư Liên Hoa Sanh và Ngài Vimalamitra thiết lập các giáo lý Mật Thừa. Chính vào lúc này Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna tức Đạo Sư Padma và đại học giả Vimalamitra đã truyền dạy cho ba đệ tử tâm yếu – gồm có Đức Vua, Thần Dân và Hiền Hữu**– cũng như dạy cho Nyangwen Tingdzin Zangpo và các đệ tử may mắn khác là những chiếc bình chứa thích hợp để đón nhận Giáo Pháp. Đối với những đệ tử này các Ngài đã chuyển Pháp Luân gồm ba nội du già (inner yogas), kể cả Atiyoga của Đại Viên Mãn, và chỉ rõ ba điểm trọng yếu: phân biệt, xác quyết và tự giải thoát (distinguishing, clear decision and self-liberation).302 Bắt đầu từ đó trở đi, dòng truyền thừa này được gọi là “dòng truyền thừa qua lắng nghe hay dòng nhĩ truyền của những chúng sinh bình thường.”

* Đề mục này được đưa vào trong bản dịch để thêm sáng nghĩa.

** Trisong Detsen, Yeshe Tsogyal và Vairotsana.

Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna cũng ban Giáo Pháp thích hợp cho mỗi một người trong Hai Mươi Lăm Đại Đệ Tử của Ngài,+ là những vị có được phước duyên cần thiết để đón nhận bất kỳ Giáo Pháp nào trong vô số Giáo Pháp của Đức Phật miễn là Giáo Pháp đó phù hợp với thiện nghiệp của họ. Sau đó, những bản văn Mật Thừa này đã được viết trên “các cuộn giấy vàng” 303 và được cất dấu như những kho tàng tâm linh hay tàng bảo kinh.++ Đạo Sư đã cầu nguyện và cất dấu những bản văn này như những di sản vì lợi lạc của chúng đệ tử trong tương lai. Về sau, vào những thời điểm đã được tiên tri, Hóa Thân của những vị thành tựu giả trong số chúng đệ tử đó, là những người mà trước đây Đạo Sư đã hướng lời cầu nguyện đến, họ sẽ tái sinh trong hoàn cảnh tốt đẹp để làm nhiệm vụ khai quật những kho tàng tâm linh thâm diệu này. Nhiều đệ tử với nghiệp lực thích ứng đã đi theo các vị này, hoằng hóa làm lợi lạc chúng sinh và lập nên các dòng truyền thừa thường được gọi là những dòng lục truyền hay cửu truyền (those lineages with six or nine transmissions).304

hoangtri
06-19-2017, 05:40 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Trong vô số các vị Hóa Thân và những vị khai quật tàng bảo kinh, có một vị có rất nhiều liên hệ với chúng ta ở đây, đó là ngài Rigdzin Jigme Lingpa. Ngài đích thực là đức Quán Thế Âm An Trụ Trong Bản Tánh Của Chân Tâm,# và ngài hoá hiện trong hình tướng của một vị Thiện tri thức. Cùng một lúc, Ngài nhận lãnh những giáo huấn của toàn thể ba dòng truyền thừa - dòng truyền tâm, dòng truyền qua biểu tượng và dòng nhĩ truyền qua sự lắng nghe - từ Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna, đại học giả Vimalamitra và bậc Toàn Giác Longchen Rabjam. 305 Ngài là một vị Phật Toàn Giác. Ngài đã chuyển pháp luân của Giáo Pháp Viên Mãn cho những chúng sinh nào có được nhiều may mắn và thuận duyên. Như tục ngữ có nói:

Dù sắc thân Ngài là của một vị Trời hay con nguời phàm tục, nhưng tâm thức toàn hảo của Ngài đích thật là Phật.

+ rje `bango, nghĩa đen là “đức vua và thần dân,” gồm có đức vua Trisong
Detsen và các thần dân là hai mươi bốn đệ tử khác.
++ Xem Thuật Ngữ: kho tàng tâm linh.
# sems nyid ngal gso: một hiện thân của đức Quán Thế Âm Avalokitesvara

Vì lý do này, vị Thầy tôn kính** của tôi thường nói: “Đối với những ai có khả năng tu tập và cầu nguyện thì Bổn Sư của ta, đấng Kim Cương Trì 306 (Vajradhara) -- vị Pháp Vương và Hộ Thần của toàn thể chúng sinh, Ngài thực sự là một vị Phật Toàn Giác. Ta không nói thế chỉ vì muốn tán thán hay tôn kính Ngài. Ngài thực sự là đức Kim Cương Trì Toàn Giác Vĩ Đại, đã hạ sinh để làm lợi lạc chúng sinh trong thân tướng của người phàm. Trong dòng truyền thừa này, giữa Ngài và các con không có ai khác ngoài ta. Và đối với ta, ngay từ lần đầu tiên gặp Ngài, ta đã thọ trì tất cả những gì Ngài dạy bảo. Ta đã phụng sự Ngài theo ba phương cách+ và không bao giờ làm điều gì khiến Ngài phải phiền lòng hay thậm chí làm Ngài phải cau mày. Vì thế các con có thể tin chắc rằng, các mật nguyện tuyệt đối chưa hề bao giờ bị suy đồi khiến cho sợi dây xích vàng của dòng truyền thừa này phải bị ô uế. Suối nguồn năng lực gia hộ của dòng truyền thừa này thật khác biệt với suối nguồn của bất kỳ dòng truyền nào khác.”

** Bổn Sư của Patrul Rinpoche, Ngài Jigme Gyalwai Nyugu, là một trong trưởng tử của Ngài Ridzin Jigme Lingpa. Xem Dẫn Nhập.
+ Xem Phần Một, Chương Sáu, Mục II.

hoangtri
06-19-2017, 05:54 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN HAI _ CHƯƠNG VI : PHÁP BỔN SƯ DU GIÀ
__________________________________________________ ______________________________________


Mật điển Nhật Nguyệt Hợp Nhất có nói:

Nếu bạn không giải thích lịch sử nguồn gốc (của dòng truyền thừa),
Người ta sẽ phạm phải lỗi lầm
Không tin tưởng vào Chân Pháp tột cùng ẩn mật.

Chính vì cần phải đem đến nguồn cảm hứng giúp cho chúng đệ tử phát khởi niềm tin, bằng cách giảng dạy cho họ biết nguồn gốc xác thực của dòng truyền thừa, và bằng cách thuật lại chi tiết lịch sử nguồn gốc đó, nên ta đã làm công việc giảng dạy những điều như thế này trong phạm vi của pháp môn Bổn Sư Du Già (Guru Yoga).

Trong pháp Bổn Sư Du Già, điều tối quan trọng là phải trì tụng câu minh chú mười triệu lần. Một số người không trì tụng câu minh chú trong thời gian đủ dài (cho mười triệu lần), và cho rằng các tu pháp dự bị này không thực sự quan trọng. Hoặc có lẽ sau khi nghe giảng rằng giáo lý của pháp thực hành chính yếu thật sự thâm diệu như thế nào thì họ nảy sinh ra rất nhiều kỳ vọng cao xa. Nhưng hãy thử tưởng tượng xem, việc họ có thể thực hiện các pháp tu thuộc hai giai đoạn phát triển và thành tựu mà không bỏ thời gian ra để thực hành đúng đắn các pháp tu dự bị thì cũng giống như tục ngữ phổ thông có nói:

Thè lưỡi ra trước khi cái đầu được nấu chín,307
Duỗi chân ra trước khi chỗ nằm được hơ ấm.

Thực hành các pháp tu dự bị mà không đi cho tới kỳ cùng thì sẽ không có bất kỳ ý nghĩa nào cả. Cho dù có được một vài dấu hiệu nhỏ bé nhất thời như “hơi ấm” xuất hiện, nhưng những dấu hiệu này cũng không có gì là bền vững giống như một tòa nhà không có nền móng.

Một phần của một tư tưởng sai lạc tương tự khác là việc buông bỏ các pháp tu dự bị một khi bạn bắt đầu thực hành các pháp tu chính yếu, cho rằng bạn đã thực hành các pháp tu dự bị đầy đủ đúng đắn rồi – thầm nhủ rằng các pháp tu dự bị chỉ là dự bị, và bây giờ đến lúc các pháp tu dự bị ấy không còn cần thiết nữa. Nếu bạn bỏ rơi các pháp tu dự bị, là nền tảng của đường tu, là bạn đã chặt đứt gốc rễ rốt ráo nhất của Chân Pháp. Việc bỏ rơi các pháp tu dự bị cũng giống như việc cố gắng vẽ một tấm tranh bích họa ở nơi không có ngay cả một bức tường. Hãy luôn luôn dụng công tu tập cho tới khi bạn khơi dậy được lòng tin chân thành nơi các pháp tu dự bị. Hãy đặc biệt tập trung tu tập pháp Bổn Sư Du Già, là cánh cổng mở vào năng lực gia trì, và hãy để cho pháp ấy trở thành nền tảng đích thực của công phu tu tập của bạn. Đây chính là vấn đề cốt tủy.

Con nhận ra vị Thầy từ ái của con đích thực là một vị Phật,
Nhưng với bản tánh ngoan cố, con bất tuân những chỉ dạy của Ngài.
Con biết rằng tất cả chúng sinh trong ba cõi đã từng là cha mẹ,
Nhưng với tính khí xấu xa, con vẫn sỉ nhục các Pháp hữu.
Xin từ bi gia hộ cho con và những ai có ác nghiệp như con,
Để chúng con có thể, trong đời này và tất cả những đời khác,
Khiêm tốn, vững chãi trong giới hạnh, mềm mỏng trong tâm hồn và hành động, Bước theo chân vị Đạo Sư tâm linh của mình.

hoangtri
06-20-2017, 04:43 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


[/CENTER]CHƯƠNG MỘT
PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC,
GIÁO HUẤN DÀNH CHO NGƯỜI HẤP HỐI:
PHẬT QUẢ KHÔNG CẦN THIỀN ĐỊNH [/CENTER]


Cao cả thay hành động bi mẫn của Ngài đối với chúng sinh vô minh.
Cao cả thay cách thức Ngài gia hộ những kẻ đại ác như chung đệ tử.
Cao cả thay phương pháp thiện xảo
Ngài ban cho những kẻ khó điều phục.
Đạo Sư Vô Song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

I. PHÂN LOẠI NĂM PHÁP CHUYỂN DI

Có năm loại chuyển di tâm thức khác nhau:

Chuyển di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy (kiến)
Chuyển di trung bình tới Báo Thân nhờ hợp nhất các giai đoạn phát triển và toàn thiện.
Chuyển di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn vô lượng.
Chuyển di thông thường nương vào ba ẩn dụ.
Chuyển di thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn.

1. Chuyển Di Siêu Việt Tới Pháp Thân Nhờ Dấu Ấn Của Cái Thấy (Kiến)

Đối với những người khi còn sống đã tu tập thuần thục và kinh qua được một cái thấy (kiến) không hề sai lầm về chân tánh vô tạo tác, thì vào lúc lìa đời, họ có thể đưa không gian (space) và tánh giác (awareness) vào con đường tu tập ẩn mật của pháp trekcho thuần tịnh nguyên sơ, và có thể chuyển di tâm thức của họ vào Đại-phương quảng-trí của Pháp Thân.308

hoangtri
06-20-2017, 04:54 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


2. Chuyển Di Trung Bình Tới Báo Thân Nhờ Hợp Nhất Hai Giai Đoạn Phát Triển Và Toàn Thiện

Đối với những người đã quen thuộc với công phu hành trì các pháp tu của hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, kết hợp cả hai như một pháp môn du già bất khả phân, cũng như đã tu tập thuần thục để có thể nhìn thấy sắc tướng của vị Hộ Phật (deity) chẳng khác gì một cảnh trí hoá hiện thần diệu, thì khi những ảo giác của trạng thái trung ấm xuất hiện vào giây phút lìa đời, họ có thể chuyển hoá tâm thức của họ thành Thân trí tuệ hợp nhất (the union wisdom kāya).309

3. Chuyển Di Thấp Tới Hoá Thân Nhờ Lòng Bi Mẫn Vô Lượng

Những người đã nhận các lễ gia lực của Kim Cương - Mật Thừa, những người đã trì giữ mật nguyện không hề sai trái, những người có thiên hướng nghiêng về các pháp tu trong hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, và những người đã thọ lãnh những giáo huấn về trạng thái trung ấm, họ có thể:

Hãy gián đoạn việc nhập thai, hãy nhớ quay ngược lại:*
Đây là lúc đòi hỏi một quyết định và thị kiến thuần tịnh.
* Điều này ở đây có nghĩa là quay ngược lại trước khi thần thức nhập thai.
Những người đang thực hành pháp chuyển di này phải chặn đứng bất kỳ lòng tham cầu muốn nhập vào một thai tạng bất tịnh nào. Được lòng đại bi dẫn dắt cũng như mong muốn thực hiện được ước nguyện tái sinh như một Hoá Thân, họ chuyển di tâm thức và tái sinh vào một trong những cõi tịnh độ.310

hoangtri
06-21-2017, 04:54 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


4. Chuyển Di Thông Thường Nuơng Vào Ba Ẩn Dụ

Người ta cũng có thể thực hành pháp chuyển di này bằng cách tưởng tượng đường khí mạch trung ương (trong thân thể) như con đường, giọt tinh chất (bindu) của tâm thức như người lữ khách, và cõi tịnh độ Cực Lạc như là đích đến.311

5. Chuyển Di Thực Hiện Cho Người Chết Với Cái Móc Của Lòng Bi Mẫn

Pháp chuyển di này cũng được thực hiện cho người đang hấp hối, hay cho người đã ở trong trạng thái trung ấm. Pháp này có thể được thực hiện bởi một hành giả du già (yogi) với mức độ tu chứng sâu dầy, có khả năng làm chủ được tâm và tri giác, và có khả năng nhận ra được tâm thức của người chết trong trạng thái trung ấm. Nói chung, để thực hiện pháp chuyển di cho người chết, ta cần phải chứng đắc được Kiến Đạo, Con đường của Cái Thấy (Path of Seeing). Như ngài Jetsun Mila có nói:

Không được thực hành pháp chuyển di cho người chết,
Trừ phi đã trực nhận được chân lý của Kiến Đạo.

Tuy nhiên, bất cứ những ai là người thực sự biết được đích xác thời điểm nào là thời điểm để thực hiện pháp chuyển di -- là khi hơi thở bên ngoài (outer breath) đã ngưng và hơi thở bên trong (inner breath) vẫn còn tiếp tục 312 – thì họ cũng đều có thể thực hiện pháp chuyển di ngay vào lúc ấy nếu như họ có được chút ít kinh nghiệm về các giáo huấn chuyển di. Điều này cực kỳ lợi lạc cho người đang hấp hối, và giống như một lữ khách được bạn mình dẫn đi trên đúng con đường, việc ấy có khả năng ngăn chặn việc tái sinh vào các cõi thấp.

hoangtri
06-21-2017, 05:04 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Sẽ khó khăn hơn để có thể thực hiện pháp chuyển di một khi tâm và thân đã hoàn toàn tách rời. Vì thế, cần có một hành giả du già (yogi) có khả năng làm chủ được bản tâm, có thể nhận ra được người chết trong trạng thái trung ấm. Tác động tới người không còn thân xác vật lý nữa là điều dễ dàng, và khi được thực hiện bởi một hành giả du già như thế thì tự việc chuyển di ra khỏi trạng thái trung ấm cũng có năng lực chuyển đẩy tâm thức chúng sinh tới một cõi Tịnh độ. Tuy nhiên, thật là một điều hoàn toàn vô nghĩa khi cho rằng pháp chuyển di có thể được thực hiện bằng cách triệu thỉnh tâm thức quay trở lại thân xác sau khi chết.313

Ngày nay, nhiều người thực hành các nghi lễ chuyển di cho dù họ chỉ là các Lạt Ma hay tulku** trên danh nghĩa. Nếu họ thực hiện các pháp chuyển di này với lòng Từ Bi của Bồ Đề Tâm và không có chút tính toán vị kỷ nào, thì may ra chân tánh của họ sẽ không bị ngăn che khiến họ có thể thực sự giúp đỡ người chết. Điều này chỉ có thể được thực hiện với động lực của Bồ Đề Tâm. Còn bất kỳ ai khác thực hiện pháp chuyển di vì lợi ích cá nhân, chỉ biết cách đọc tụng một mớ chữ nghĩa rồi sau đó nhận thù lao là một con ngựa hay một thứ gì đáng giá khác, thì những kẻ ấy thật đáng khinh miệt.

**sprul sku, nghĩa đen: Hoá Thân. Một Lạt Ma hoá thân. Những Lạt Ma như thế thường được coi như là hiện thân của một Đại Bồ Tát.

Tuy nhiên, có nhiều ảnh hưởng xã hội trong việc tuyển chọn một tulku, và có nhiều trường hợp mà tính xác thực của việc tuyển chọn rất đáng nghi ngờ.

Là người chỉ đạo và bậc Thầy của kẻ khác,
Mà tự bản thân chưa tới được bến bờ giải thoát,
Thì cũng mâu thuẫn như đưa tay cho người chết đuối
Trong khi chính mình đang bị nước lũ cuốn trôi.

Một lần kia, khi đại Đạo Sư Tendzin Chopel đang ở Tsari, Ngài có một thị kiến về một người mà có lần ngài thực hành pháp chuyển di cho ông ta và nhận thù lao một con ngựa. Tất cả những gì Ngài có thể thấy là cái đầu người nhô lên từ một cái hồ máu đỏ thẫm. Vật ấy gọi tên Tendzin Chopel và yêu cầu Ngài làm một điều gì đó.

Tendzin Chopel cảm thấy sợ hãi. Ngài đáp lại: “Ta tặng ngươi cuộc hành hương tới Tsari của ta,”* và ảo cảnh biến mất.

* Đó là công đức của cuộc hành hương của ngài.

hoangtri
06-21-2017, 05:08 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Ngay cả đối với một vị Thầy vĩ đại có mức độ chứng ngộ sâu dầy, việc nhận các món cúng dường nhân danh người chết mà không thực hiện một nghi lễ hay một việc gì đó tương tự để đem lại lợi lạc cho người đã chết thì việc này sẽ gây nên những trở ngại trên con đường tu.

Khi vị Hoá Thân Tu Viện Trưởng Dzogchen, Ngài Gyurme Thekchok Tendzin thị tịch, thì Ngài Trime Shingkyong Gonpo được mời tới dự tang lễ. Suốt cả ngày Ngài chỉ cử hành các nghi lễ tịnh hoá và triệu thỉnh thần thức, cử hành đi cử hành lại pháp chuyển di, giống như Ngài đã làm sau cái chết của một người bình thường. Các nhà sư hỏi Ngài tại sao làm vậy.

Ngài giải thích: “Cách đây đã lâu, Dzogchen Rinpoche quên không cử hành các nghi lễ và cầu nguyện hồi hướng cho một người quá cố trong khi có một con ngựa đen đã được đem đến cúng dường cho Ngài nhân danh người đó. Người quá cố đó là một kẻ đại ác và vì thế Rinpoche đã gặp phải một ít chướng ngại trên các địa (trên quả vị tu chứng của Bồ Tát) và trên con đường tu. Giờ đây Ngài và ta đã phối hợp năng lực và giải quyết vấn đề xong rồi.” Kẻ đại ác được kể trong câu chuyện này có tên là Golok Tendzin.

Thật là sai lầm khi những người ở địa vị đại Lạt Ma hay Hoá Thân lại đón nhận cúng dường nhân danh người quá cố, suy nghĩ một cách đơn thuần rằng: “Ta là một bậc vĩ đại nào đó,” mà không áp dụng Bồ Đề Tâm hay không thực hiện việc cầu nguyện, thực hiện các nghi lễ cùng hồi hướng một cách đúng đắn và có hiệu quả. Các vị tulku quan trọng được tuyên nhận là những Hoá Thân chính thức của các bậc Thầy vĩ đại trong quá khứ, họ vẫn cần phải học đọc lại từ đầu, và phải bắt đầu trở lại học các mẫu chữ cái như những người bình thường. Bởi các Ngài đã quên mất cách đọc mà các Ngài đã biết từ những đời trước nên chắc chắn là các Ngài cũng đã quên mất mọi thứ mà các Ngài đã từng biết về các pháp tu du già của hai giai đoạn phát triển và toàn thiện. Tôi tự hỏi không biết các Ngài có thể khá được ra hơn không nếu như các Ngài chịu khó bỏ chút thời giờ ra để rèn luyện tâm Bồ Đề và học hỏi về các pháp môn tu tập và đi nhập thất, hơn là đi tới đi lui tìm kiếm cúng dường vừa ngay khi các Ngài [đủ lớn] để leo lên cưỡi trên một con ngựa.

hoangtri
06-22-2017, 11:13 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


II. CHUYỂN DI THÔNG THƯỜNG NƯƠNG VÀO BA ẨN DỤ

Bây giờ tôi sẽ mô tả về loại chuyển di được gọi là “chuyển di thông thường nương vào ba ẩn dụ” hay “chuyển di tâm thức vào tâm thức của Đạo Sư.” Pháp chuyển di này cũng phù hợp với điều mà Diệt Tội Trang Nghiêm Sám Hối Mật Điển gọi là “pháp chuyển di trái cầu ánh sáng (ball of light) nương vào âm thanh vào lúc lìa đời.” Đối với những vị hành giả đã có một mức độ chứng đắc sâu dầy thì pháp chuyển di này không cần thiết. Đối với những vị này, như trong Mật điển đã có nói:

Điều gọi là cái chết chỉ là một ý niệm,
đưa dẫn tới các cõi Tịnh.314

Và, trong đó cũng còn nói:

Cái chết, hay cái mà chúng ta biết tựa hồ như cái chết,
Là một tiểu ngộ đối với một hành giả du già.

Đối với những vị đã đạt được kinh nghiệm tối thượng một cách thật vững chãi trong khi họ còn sống và có thể làm chủ được sinh tử thì những vị ấy vẫn phải trải qua một cái gì có vẻ tựa hồ giống như là cái chết. Nhưng đối với họ, cái chết không khác gì việc di chuyển từ một nơi này sang nơi khác. Như chúng ta đã có đề cập đến trước đây, đối với những vị đã có kinh nghiệm về các pháp tu tâm yếu trong các giai đoạn phát triển và toàn thiện, các vị này có thể vận dụng một trong ba pháp tu liên hệ đến ba giai đoạn của (1) cái chết, (2) thân trung ấm hoặc (3) tái sinh, để chuyển di tâm thức của họ tới một trong ba Thân (kāya). Ngược lại:

Những kẻ không dầy công tu tập vẫn có thể được đón nhận nhờ vào pháp chuyển di.

Pháp môn này vô cùng cần yếu đối với những hành giả không có được thành tựu vững chắc trên con đường tu, hay đối với những người đã phạm phải nhiều ác hạnh. Đối với bất kỳ ai nắm giữ được những giáo huấn đặc biệt này thì cánh cửa dẫn tới các cõi thấp sẽ được đóng lại cho dù những ác hạnh mà họ đã tạo có nặng nề tới đâu chăng nữa. Thậm chí đối với những kẻ đã từng phạm phải một trong những ác nghiệp bị quả báo tức thời, và lẽ ra phải bị đoạ thẳng xuống Địa ngục thì chắc chắn kẻ ấy cũng sẽ không phải bị tái sinh trong các cõi thấp nếu họ biết vận dụng Giáo Pháp này.

hoangtri
06-22-2017, 11:17 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Các tài liệu Mật điển có nói:

Bạn có thể từng giết mỗi ngày một vị Bà la môn
Hay từng phạm phải năm ác hạnh bị quả báo tức thời,
Nhưng bạn vẫn sẽ được giải thoát nhờ con đường này.
Sẽ không có tội lỗi nào làm ô nhiễm bạn.

Và:

Bất kỳ ai thực hành pháp chuyển di,
Tập trung nơi cửa Phạm Thiên cao hơn chín cửa kia*
Thì sẽ không ác hạnh nào làm cho ô nhiễm,
Và sẽ được tái sinh trong một cõi Phật thanh tịnh.

* Cửa Phạm Thiên (Brahma) hay lỗ thoát trên đỉnh đầu nơi tâm thức có thể thoát ra ngoài khi lìa đời.

Và thêm nữa:

Dưới chân vị cha già -- bậc Thầy đầy đủ phẩm hạnh Được tôn vinh trên pháp toà nhật nguyệt nơi đỉnh đầu bạn,
Hãy bước theo con đường lụa trắng là đường kinh mạch trung ương,
Và bạn sẽ được giải thoát, cho dù đã từng mắc phạm ngũ nghịch trọng tội với quả báo tức thì.

Do đó, những giáo huấn về con đường chuyển di sâu xa là phương cách dẫn tới Phật Quả mà không cần thiền định, một con đường bí mật đem đến giải thoát một cách quyết liệt, ngay cả cho những kẻ phạm trọng tội. Đức Phật Kim Cang Trì (Vajradhara) đã nói:

Bạn có thể từng giết mỗi ngày một người Bà la môn
Hoặc mắc phạm năm ác hạnh bị quả báo tức thời,
Nhưng một khi bạn được thọ nhận giáo huấn này
Thì không cần nghi ngờ nữa, bạn sẽ được giải thoát.

Và chính Đại Đạo sư xứ Oddiyāna đã nói:

Mọi người đều thấu suốt Phật Quả nhờ thiền định Nhưng ta thấu suốt một con đường phi thiền định.

Đại học giả Naropa có nói:

Chín cánh cửa (cữu khiếu) mở ra sinh tử luân hồi
Nhưng một cửa khai mở lối vào Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā).
Hãy đóng lại chín cửa và mở ra một cửa;
Chớ nghi ngờ cửa ấy sẽ đưa đến giải thoát.

hoangtri
06-22-2017, 11:21 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Và Marpa, đại dịch giả xứ Lhodrak có nói:

Cho tới nay ta đã từng thực hành pháp chuyển di,
Miên mật, miên mật và miên mật thêm nữa.
Ta có thể chết một cái chết bình thường,
nhưng chẳngcần lo lắng;
Công phu thuần thục đem lại cho ta niềm xác tín tuyệt hảo.

Jetsun Shepa Dorje cũng nói:

Những giáo huấn này, hợp nhất, chuyển di và nối kết,*
Là cẩm nang để vượt qua thân trung ấm.
Ai có được một con đường như thế?
Kẻ ấy sẽ hạnh phúc biết bao khi sinh lực đi vào đường khí mạch trung ương –
Kỳ diệu thay! Đã đi đến một Pháp Giới viên mãn!

*Chúng ta nối kết với các cõi tịnh độ nương vào pháp chuyển di tâm thức bằng cách hợp nhất với vị thầy.

Các giáo huấn này có hai phần: phần đầu là thực tập [khi còn sống], và sau đó là phần thực hành thực sự [vào lúc lìa đời].

1. Thực Tập Pháp Chuyển Di

Khi nương vào những hướng dẫn về pháp chuyển di mà bạn đã được thọ nhận, bản thân bạn hãy miên mật tu tập và hãy tinh tấn thực hành pháp chuyển di cho tới khi có những dấu hiệu thành tựu xuất hiện.

Hiện nay, trong khi toàn thể các đường khí mạch, năng lực và tinh chất của bạn vẫn còn nguyên vẹn và sung mãn, bạn sẽ thấy rằng việc chuyển di thực sự rất khó khăn. Nhưng một khi đã tới giờ phút cuối cùng của cuộc đời, hay vào lúc đã quá già yếu, thì việc chuyển di sẽ trở nên rất dễ dàng. Giống như trái cây trên cành, khó hái vào mùa Hè khi trái non ấy còn đang phát triển. Nhưng vào mùa Thu, một khi nó đã chín nhũn và sẵn sàng rụng xuống, thì chỉ cần áo quần của bạn chạm nhẹ vào thôi là cũng đủ làm cho nó rụng xuống rồi.

hoangtri
06-24-2017, 04:16 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


2. Chuyển Di Thực sự

Thời điểm để thực sự thực hành pháp chuyển di là sau khi những dấu hiệu hấp hối của cái chết bắt đầu xuất hiện, khi mà bạn có thể biết chắc rằng không còn có thể quay ngược lại nữa và tiến trình tan rã đã bắt đầu. Không được làm như vậy vào bất kỳ thời điểm nào khác. Như trong các Mật điển có nói:

Chỉ thực hành pháp chuyển di khi thời điểm thích hợp đã đến, Nếu không, chẳng khác nào giết chết các Bổn Tôn.**

** Theo Kim Cương Thừa, thân thể con người được coi như một Mạn đà la thần diệu của các Bổn Tôn. Trong ý nghĩa này, thu ngắn mạng sống của ta bằng cách thực hành pháp chuyển di sớm hơn thời điểm đồng nghiã với việc phá huỷ Mạn đà la của các Bổn Tôn.

Có nhiều giai đoạn trong tiến trình tan rã hay phân tán nhưng để cho dễ hiểu thì tiến trình này có thể được chia ra thành bốn giai đoạn: giai đoạn tan rã của năm giác quan, giai đoạn tan rã của tứ đại (đất, nước, gió, lửa), và thêm ba giai đoạn của tánh sáng (clarity), tăng trưởng (increase) và thành tựu (attainment).

Giai đoạn tan rã của năm giác quan bắt đầu, ví dụ như khi tiếng trì tụng của chư Tăng tụ họp quanh tử sàng của bạn chỉ còn là những âm thanh giống như một thứ tiếng rì rầm lộn xộn rối rắm. Bạn không còn có thể phân biệt được các âm tiết. Hoặc ví dụ như khi bạn nghe âm thanh giọng nói của con người như thể đến từ rất xa, và không thể nhận ra được lời lẽ gì nữa. Đó là khi nhĩ thức của bạn đến lúc chấm dứt. Nhãn thức của bạn cũng đến lúc kết thúc khi bạn chỉ có thể nhìn thấy cảnh tượng lờ mờ thay vì nhìn thấy hình tướng thật sự của mọi vật. Khi những kinh nghiệm của khứu giác, nếm biết, và xúc chạm cũng chấm dứt và đi tới giai đoạn phân rã sau cùng thì dứt khoát là đã tới thời điểm thích hợp để có thể tiến hành pháp chuyển di.

Sau đó, khi yếu tố bên trong của da thịt tan rã thành yếu tố bên ngoài của đất,315 bạn sẽ kinh nghiệm một cảm giác giống như rơi xuống một cái hố. Bạn cảm thấy nặng nề, như thể bị đè bẹp bởi sức nặng của một trái núi. Đôi khi, người hấp hối yêu cầu hãy nâng người họ lên hay yêu cầu hãy đỡ cao chiếc gối của họ lên. Khi máu tan rã thành yếu tố nước bên ngoài, bạn sẽ chảy nước miếng và nước mũi. Khi yếu tố nhiệt của thân tan rã thành yếu tố lửa bên ngoài, miệng và lỗ mũi bạn cảm thấy ráo khô và thân bạn bắt đầu mất nhiệt, bắt đầu từ chân, tay (starting with the extremeties).

* Extremeties là một thuật ngữ tiếng Anh có nghĩa là chân, tay, các bộ phận nhô ra ngoài của thân thể.

Trong một vài trường hợp, hơi (vapour) bốc lên từ đỉnh đầu vào giai đoạn này. Khi hơi thở bên trong, tức yếu tố năng lực (energy) tan rã thành yếu tố khí (air) bên ngoài, thì các năng lực khác nhau của bạn – năng lực đi lên (ascending energy), năng lực bài tiết (energy of evacuation), năng lực nồng nhiệt (fiery energy) và năng lực tỏa khắp (pervading energy) – tất cả đều tan hoà vào năng lực hỗ trợ sinh lực (life-supporting energy). Thở vào trở nên rất khó khăn. Thở ra thì hổn hển, giống như đang đổ dần hết cả hai lá phổi qua cổ họng. Rồi tất cả máu trong thân bạn hội tụ lại trong đường khí sinh lực và có ba giọt tinh chất sẽ nhỏ giọt vào trung tâm của trái tim bạn, giọt này sau giọt kia. Rồi với ba hơi thở hắt thì sau đó hơi thở ra của bạn sẽ đột nhiên tắt ngúm.

hoangtri
06-24-2017, 04:24 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Vào lúc đó, yếu tố trắng hay “tinh dịch” mà bạn đã nhận được từ cha sẽ nhanh chóng từ đỉnh đầu bạn di chuyển xuống phía dưới [xuống đến luân xa tim]. Như một dấu hiệu bên ngoài, bạn trải qua một kinh nghiệm màu trắng giống như một bầu trời không mây được ánh trăng chiếu sáng. Như một dấu hiệu bên trong, bạn kinh nghiệm tánh sáng (clarity) trong tâm thức bạn và ba mươi ba loại thức (niệm tưởng) liên hệ đến tâm thù nghịch sẽ tuyệt dứt. Trạng thái này được gọi là “tánh sáng.”

Yếu tố đỏ hay “máu” mà bạn đã nhận được từ mẹ sẽ nhanh chóng từ vùng rốn (đan điền) của bạn di chuyển lên trên [lên đến luân xa tim]. Như một dấu hiệu bên ngoài, bạn nhận thức kinh nghiệm màu đỏ giống như một bầu trời trong trẻo được ánh sáng rực rỡ của mặt trời thắp sáng. Như một dấu hiệu bên trong, bạn sẽ có một kinh nghiệm hỉ lạc rất lớn lao trong tâm thức và bốn mươi loại thức (niệm tưởng) liên hệ đến tham dục sẽ tuyệt dứt. Trạng thái này được gọi là “tăng trưởng.”

Khi hai yếu tố đỏ và trắng hội tụ lại nơi [luân xa] tim của bạn, thì giọt tâm thức của bạn sẽ tiến vào nằm ở giữa hai yếu tố trắng và đỏ kia. Dấu hiệu bên ngoài là một nhận thức về màu đen giống như màu đen của một bầu trời trong trẻo hoàn toàn ngập trong bóng tối. Dấu hiệu bên trong là tâm thức bạn kinh nghiệm một trạng thái vô niệm, vắng bặt mọi niệm tưởng, và bạn ngất đi, rơi vào một trạng thái hoàn toàn tối nghịt. Điều này được gọi là giai đoạn “thành tựu.”

Sau đó, bạn sẽ bước ra khỏi trạng thái kích ngất và bước vào một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm về một bầu trời, nhưng bầu trời này hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì của ba bầu trời mà bạn đã kinh nghiệm qua trước đây. Đây chính là khi “thanh tịnh quang của chân tánh” 316 đang xuất hiện. Việc nhận thức ra được rằng thanh tịnh quang này chính là chân tánh của bạn và an trụ trong trạng thái đó, điều này được gọi là “chuyển di siêu việt tới Pháp Thân.” Đây là Phật Quả không kinh qua bất kỳ trạng thái trung gian nào [của thân trung ấm].

Sau thời điểm trên thì giai đoạn trung ấm của chân tánh và giai đoạn trung ấm của sự hình thành sẽ tuần tự hiển lộ, nhưng những giai đoạn đó sẽ không được miêu tả ở đây bởi những giai đoạn này sẽ được thuật lại trong các giáo huấn của phần thực hành chính yếu.

Đối với những người không có kinh nghiệm gì đáng kể về con đường tu chứng 317 thì giây phút tốt đẹp nhất để thực hiện pháp chuyển di là lúc tiến trình tan rã vừa mới bắt đầu. Vào lúc đó, hãy hoàn toàn cắt đứt mọi bám luyến với cuộc đời này và hãy làm sống dậy lòng can đảm của bạn bằng cách nghĩ tưởng như sau: “Bây giờ tôi đang hấp hối, tôi sẽ nương cậy vào các giáo huấn của Thầy tôi và bay vút tới các cõi Tịnh độ giống như một mũi tên được kẻ khổng lồ bắn vọt ra. Điều này thật là hỉ lạc biết bao!”

Vào lúc đó, bạn sẽ khó có thể nhớ lại một cách rõ ràng tất cả những đề mục và những gì phải quán tưởng trong pháp chuyển di, vì thế nếu bạn có một bằng hữu nào đó có thể nhắc nhở bạn về những điều này thì hãy yêu cầu người ấy làm công việc đó. Nhưng dù sao đi nữa, vào thời điểm đó, khi biết nương cậy vào công phu tu tập trước đây của bạn và biết đem giáo huấn của pháp tu sâu xa này vào thực hành, thì nay đã tới lúc bạn phải thực sự làm sao để cho pháp chuyển di này đem lại kết quả hữu hiệu!

Và sau đây là những bước thực hành chính yếu của pháp chuyển di; cho dù là bạn tu tập cho bản thân bạn [khi đang còn sống] hay là đem pháp tu này vào thực hành [khi lìa đời] thì những bước thực hành cũng đều giống như nhau.

hoangtri
06-25-2017, 10:36 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


3. Trình tự của pháp thiền định chuyển di

Hãy ngồi thoải mái trên một tấm nệm, chân bắt chéo trong tư thế kim cương, giữ cho lưng hoàn toàn thẳng.

1.1 PHÁP CHUẨN BỊ

Trước tiên, hãy hoàn tất toàn thể các pháp tu dự bị cho thật rõ ràng, chi tiết, bắt đầu bằng bài tụng đọc Gọi Thầy Từ Chốn Xa và tiếp tục cho tới phần tan hoà (dissolution) trong pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga).

1.2 PHÁP QUÁN TƯỞNG CHÍNH YẾU

Hãy quán tưởng xác thân phàm của bạn,318 trong một khoảnh khắc, trở thành thân tướng của Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī). Vajra Yoginī mang sắc màu đỏ, có một khuôn mặt và hai cánh tay, đang đứng bằng cả hai chân, bàn chân phải giở lên trong “tư thế đang bước.” Ba con mắt của Vajra Yoginī nhìn lên trời. Những hướng dẫn này nhằm mục đích chuyển di nên hãy quán tưởng Ngài với nét quyến rũ, an bình đồng thời hơi phẫn nộ. Bàn tay phải của Ngài giơ lên trong không trung, khua lách cách một cái trống nhỏ làm bằng sọ người đánh thức chúng sinh khỏi giấc ngủ của vô minh và lầm lạc. Trong bàn tay trái, Ngài cầm một lưỡi dao lưỡi liềm ngang hông để cắt đứt tận gốc tam độc tham sân si. Thân mình của Ngài trần trụi ngoại trừ một vòng hoa và các vật trang sức bằng xương [đeo trên người]. Như một căn lều bằng lụa đỏ, Ngài hiển lộ nhưng không có thực chất hay thực sự có ở đó. Tất cả những điều này là áo giáp hư huyễn bên ngoài (outer empty enclosure) của thân tướng.

Ở ngay trung tâm, suốt dọc thân thẳng đứng của bạn [nay trong hình tướng của Vajra Yoginī], hãy quán tưởng đường kinh mạch trung ương giống như một cây cột trong một ngôi nhà trống. Được gọi là kinh mạch “trung ương” bởi đường khí ấy nằm ngay nơi trục của thân, không nghiêng sang trái hay sang phải. Đường kinh mạch trung ương có bốn đặc tính. Thứ nhất, mang màu xanh biếc như một phim ảnh màu chàm (indigo), tượng trưng cho Pháp Thân bất biến. Thứ nhì, kết cấu của đường khí ấy vi tế giống như một cánh hoa sen, tượng trưng cho tính chất mỏng manh của những bức màn che chắn xuất hiện từ những thói quen huân tập. Thứ ba, đường khí ấy sáng như ngọn lửa của một cây đèn dầu mè, tượng trưng cho bóng tối vô minh đã được xua tan. Thứ tư, đường khí ấy thẳng như một khúc tre, là biểu hiện sẽ không bao giờ dẫn tới những con đường xấu thấp hoặc sai lạc. Đầu trên của đường kinh trung ương mở thẳng vào cửa Phạm Thiên nơi đỉnh đầu [nơi tâm thức có thể thoát ra], giống như một cửa sổ mở toang trên mái nhà, biểu hiệu cho con đường đưa tới giải thoát và những cõi tái sinh cao hơn, trong khi đầu dưới của đường kinh trung ương đóng kín lại không có lỗ mở nào, dưới rốn khoảng bốn ngón tay, biểu hiện rằng những lối trở lại vào vòng luân hồi sinh tử và các cõi tái sinh thấp đã được đóng kín. Tất cả những điều này là áo giáp rỗng rang bên ngoài (outer empty enclosure) của đường kinh mạch trung ương.

hoangtri
06-25-2017, 10:41 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Bây giờ hãy quán tưởng bên trong đường kinh mạch trung ương ở khoảng ngang tầm trái tim, chỗ đó như hơi phồng ra, giống như một cái mắt trong một thân tre. Phía trên chỗ cái mắt phồng ra này, hãy quán tưởng giọt tinh chất (bindu) của năng lực, màu xanh lá cây nhạt, sống động và mạnh mẽ. Ngay trên đó là tinh tuý của tâm thức của bạn, một chữ hrih màu đỏ, với dấu nguyên âm dài và hai chấm nhỏ thay thế cho visarga,* lay động và rung rinh như một lá cờ trong gió.

* Đây là một dấu hiệu của Phạn ngữ được phát âm như một âm “h” nặng. Theo cách phát âm của tiếng Tây Tạng thì chỉ cần kéo dài âm tiết, và được viết bằng hai vòng tròn nhỏ, cái này trên cái kia, tượng trưng cho trí tuệ và phương tiện.

(Chữ hrih được quán tưởng theo cách này) tượng trưng cho Giác tánh của bạn.319

Trong không gian trên đầu bạn một cubit (khoảng 46 cm), hãy quán tưởng một chiếc ngai báu, được tám con công vĩ đại nâng lên. Trên đó là một hoa sen nhiều màu, cùng với hai đĩa mặt trời và mặt trăng, cái này nằm trên cái kia, tạo thành một tấm nệm ba lớp [xếp chồng lên nhau]. An toạ trên toạ cụ ấy là Bổn Sư vinh quang của bạn, là kho tàng bi mẫn không gì sánh bằng, hiển lộ trong thân tướng cửa tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, và trong thân tướng của đức Phật Thế Tôn và đức Hộ Phật A Di Đà (Amitabha). Ngài mang sắc màu đỏ, giống như một trái núi bằng hồng ngọc được một ngàn mặt trời bao bọc. Ngài có một khuôn mặt, hai bàn tay nghỉ ngơi trong tư thế thiền định, cầm một bình bát chứa đầy chất cam lồ bất tử của trí tuệ. Ngài đắp tam y, là y phục của một Hoá Thân siêu phàm 320 tuân giữ phạm hạnh thanh tịnh. Thân Ngài mang ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, chẳng hạn như nhục kế nhô cao (usnisa) trên đỉnh đầu và các luân xa in dấu trên lòng bàn chân-- toàn thân Ngài được bao phủ trong ánh hào quang rực rỡ đến từ muôn ngàn tia ánh sáng đang phóng toả.

Bên phải đức A Di Đà là đấng Quán Thế Âm (Avalokitesvara) cao quý, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật -- đức Quán Thế Âm mang sắc trắng, với một khuôn mặt và bốn cánh tay. Đôi bàn tay ở phía trên chắp lại nơi tim, lòng bàn tay úp vào nhau. Bàn tay phải ở phiá dưới đang lần một chuỗi tràng pha lê màu trắng, và bàn tay trái phiá dưới đang cầm một cành sen trắng, bông hoa nằm sát tai Ngài, tất cả các cánh hoa đều nở bung ra.

Bên trái đức A Di Đà là Kim Cương Thủ (Vajrapani), Pháp Vương của các pháp ẩn mật, hiện thân của thần uy và oai lực của tất cả chư Phật. Ngài mang sắc màu xanh dương, hai bàn tay bắt chéo trước ngực; trong tay Ngài cầm một cái chày kim cang và một cái chuông.

hoangtri
06-25-2017, 10:48 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Cả hai vị Bổn Tôn (Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ) đều mang mười ba vật trang sức*của Báo Thân.

* Xem Phần Hai, Chương Ba, Mục III.

Đức Phật A Di Đà an tọa, hai chân xếp chéo trong tư thế Kim Cương. Điều này tượng trưng cho việc Ngài luôn an trụ mà không rơi vào những cực đoan của cả sinh tử lẫn Niết Bàn. Còn hai vị Bồ Tát (Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ) trong tư thế đang đứng thẳng, điều này tượng trưng việc các Ngài không bao giờ mệt mỏi khi làm việc vì lợi ích của chúng sinh.

Xung quanh ba vị Hộ Phật và Bổn Tôn chính yếu này, là tất cả các bậc Thầy của dòng truyền thừa của pháp chuyển di thâm diệu. Tất cả các Ngài hội tụ lại như những đám mây trong một bầu trời trong trẻo. Các Ngài hướng khuôn mặt tràn đầy lòng từ ái về phía bạn và tất cả các chúng sinh khác. Các Ngài chăm chú nhìn bạn với những đôi mắt ánh lên nụ cười, nghĩ tưởng về bạn với niềm hoan hỉ. Hãy nhớ tưởng tới các Ngài như những người đưa đường vĩ đại giúp giải thoát bạn và tất cả chúng sinh khỏi những thống khổ của vòng sinh tử và các cõi thấp, đưa dẫn bạn tới cõi thuần tịnh của đại lạc. Hãy quán tưởng theo văn bản, bắt đầu từ câu:

Thân xác phàm 318 của con trở thành sắc tướng của Thánh Nữ Kim Cang Du Già (Vajra Yoginī)...

xuống tới câu:

...Ba con mắt Ngài ngước nhìn lên bầu trời.

Rồi từ câu:

Đường khí mạch trung ương chạy dọc suốt giữa
thân Ngài...

cho tới câu:

...Thân Ngài thật toàn mỹ với tất cả các tướng chính và phụ...

Sau đó, với tất cả niềm tin và kỳ vọng, toàn thân bạn như bừng bừng lên và nước mắt tuôn rơi, hãy lập lại càng nhiều lần càng tốt lời khẩn nguyện sau đây:

Đức Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật Toàn Giác, đấng Hộ Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ. Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.

hoangtri
06-25-2017, 10:51 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Rồi hãy tụng đọc đầy đủ bài cầu nguyện kế tiếp ba lần, bắt đầu từ câu:

Emaho (Kỳ diệu thay)! Nơi chốn này, cõi Sắc Cứu Cánh Thiên viên mãn đã hiển hiện tự nhiên...

cho tới câu:

... Nguyện cho con nắm giữ được Đại-phương quảng-trí của Pháp Thân!

Kế đó hãy tụng ba lần phẩm cuối cùng, bắt đầu từ câu:

Với lòng quy ngưỡng trong tâm...

Cuối cùng, tụng ba lần dòng cuối cùng sau đây:

... Nguyện cho con an trụ trong Đại-phương quảng-trí của Pháp Thân!

Trong khi bạn cầu nguyện, hãy chỉ chú tâm vào chữ hrīh, là biểu tượng của Giác tánh của bạn, và cầu nguyện với lòng quy ngưỡng hướng về bậc Thầy và đấng Hộ Phật của bạn, tức đức Phật A Di Đà, tới nỗi đôi mắt bạn trở nên đẫm lệ.

Sau đây là đến phần nghi thức phóng xuất thần thức. Khi bạn tụng “Hrīh, Hrīh,” năm lần từ phía sau vòm miệng, chữ hrīh màu đỏ, tượng trưng cho Giác tánh của bạn, được giọt tinh lực (bindu of energy) rung động màu xanh lá cây nhạt 321 nâng bổng lên, càng lúc càng được nâng bổng lên cao và luôn luôn rung động [tất cả đều nằm ở giữa đường khí mạch trung ương]. Khi giọt tinh lực hiện ra ở cửa Phạm Thiên trên đỉnh đầu bạn, hãy hô lớn “Hik!” và quán tưởng giọt tinh lực ấy phóng vút lên, giống như một mũi tên được tên khổng lồø bắn đi, và tan hoà vào trái tim đức Phật A Di Đà.

Hãy thực hành nghi thức trên bảy lần, hai mươi mốt lần hoặc nhiều hơn nữa, trong khi quán tưởng chữ hrīh trong tim bạn và lập lại tiếng hô “Hik!” như trước đó. Trong các truyền thống khác, người ta hô “Hik!” khi phóng tâm thức lên và hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống, nhưng theo truyền thống này chúng ta không hô “Ka” khi thả cho thần thức rơi trở xuống.
Sau đó, hãy hành trì nghi thức như trên càng nhiều lần càng tốt, số lần nhiều ít tuỳ nghi sao cho phù hợp với bạn, và bắt đầu với câu:

Đức Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà...

Sau đó tụng những lời cầu nguyện và thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức và những nghi thức còn lại. Rồi một lần nữa, hãy tụng ba hay bảy lần câu:

Đức Thế Tôn... Đấng Hộ Phật A Di Đà...

xuống tới câu:

...Con xin cúng dường lên Ngài. Con xin nương tựa nơi Ngài.

hoangtri
06-25-2017, 10:54 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Hãy thực hành theo nghi thức này với lời khẩn nguyện chuyển di cô đọng được gọi là Cắm Cọng Cỏ, được vị tôn giả khai quật tàng kinh Nyi da Sangye 322 biên soạn và trao truyền qua dòng truyền thừa của Tu viện Dzogchen:

Đức Phật A Di Đà, con xin quy mạng lễ trước Pháp toà;
Đức Liên Hoa Sanh xứ Oddiyāna, con khẩn cầu Ngài;
Bổn Sư từ ái, xin che chở con bằng lòng bi mẫn của Ngài!
Chư vị Bổn Sư và Tôn Sư thuộc dòng truyền thừa, xin dẫn dắt con trên con đường tu.
Xin gia hộ cho con để con có thể thành tựu con đường chuyển di thâm diệu.
Xin gia hộ cho con để con đường chuyển di thần tốc này có thể đưa con tới cõi tịnh độ.323
Xin gia hộ cho con và những chúng sinh khác để ngay khi cuộc đời này chấm dứt,
Xin cho chúng con được vãng sinh nơi cõi Cực Lạc!

Hãy tụng lời cầu nguyện này ba lần, và sau đó lập lại ba lần dòng cuối cùng. Hãy tiếp tục thực hành kỹ thuật phóng xuất thần thức như đã được giảng dạy trước đây, trong một khoảng thời gian lâu hay mau sao cho phù hợp với bạn. Rồi lại bắt đầu từ câu:

Đức Thế Tôn, Như Lai...

và tụng đọc lời cầu nguyện chuyển di theo Giáo Lý Hư Không, được truyền dạy qua dòng truyền thừa của Tu viện Palyul:324

Emaho! Đức Phật A Di Đà, đấng Hộ Phật kỳ diệu nhất,
Đức Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi và đức Kim Cang Thủ đầy uy lực,
Vì lợi lạc của bản thân cùng những chúng sinh khác, con
xin chí tâm chí thành khẩn cầu chư vị:
Xin gia hộ cho chúng con để chúng con có thể thành tựu
con đường chuyển di thâm diệu.
Xin gia hộ cho chúng con để vào giây phút lìa đời,
Tâm thức của chúng con sẽ được chuyển di tới Pháp Giới Cực Lạc!

Hãy tụng đọc lời cầu nguyện này ba lần, lập lại hai dòng sau cùng thêm ba lần nữa. Rồi hãy thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức như đã được giảng dạy trước đó.

hoangtri
06-25-2017, 10:56 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Hai lời cầu nguyện sau cùng này không có trong những văn bản ghi chép giáo huấn Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí và không được Ngài Rigdzin Jigme Lingpa truyền dạy, nhưng được truyền xuống từ Ngài Dzogchen Rinpoche qua Tu viện Gochen, và qua các vị Đạo Sư kế thừa khác. Những lời cầu nguyện trên trở thành một phần trong những khẩu truyền được Ngài Kyabe Dodrup Chen Rinpoche thọ nhận, và Ngài đã hợp nhất tất cả những lời cầu nguyện thành một dòng pháp duy nhất. Bản thân Ngài đã sử dụng những lời cầu nguyện này, cũng giống như Bổn Sư tôn kính của tôi đã làm. Dodrup Chen Rinpoche cũng được kế thừa những giáo huấn về pháp chuyển di được truyền xuống từ Ngài Gampopa thuộc dòng Kagyu. Bởi thế, một số lời cầu nguyện của Ngài Gampopa được tìm thấy trong bản văn cầu nguyện chuyển di do Dodrup Chen Rinpoche biên soạn, mặc dù những lời cầu nguyện đặc biệt này không phải là những gì Bổn Sư của tôi thường trì tụng. Dù sao đi nữa, tiến trình quán tưởng của tất cả những truyền thống khác nhau vẫn hoàn toàn giống nhau, nên không còn phải nghi ngờ gì nữa mà phải hiểu là những suối nguồn giáo huấn này đã được hợp nhất để trở thành một con sông lớn. Vị Thầy tôn kính của tôi đã nhiều lần thọ nhận những giáo huấn này từ Kyabje Dodrup Chen Rinpoche. Tôi cho rằng tất cả những ai đã từng thọ nhận những giáo huấn chuyển di này từ Ngài cũng đã đồng lúc nhận được những giáo huấn về pháp chuyển di của truyền thống Kagyu, và vì thế, được cho phép trì tụng những lời cầu nguyện của dòng truyền thưà tương ứng cùng với những lời cầu nguyện khác. Cho dù hai lời cầu nguyện cô đọng được tôi ghi ra ở đây có đồng nhất với những lời cầu nguyện được ghi trong tuyển tập cầu nguyện của Ngài Dodrup Chen Rinpoche hay không chăng nữa, thì chúng cũng chỉ khác biệt rất tối thiểu nếu đem so với những văn bản khác, và vì thế tôi đã ghi lại theo đúng hệt như những gì mà vị Thầy tôn kính của tôi đã giảng dạy.

Có lần Thầy tôi đang truyền dạy pháp chuyển di theo truyền thống của Giáo Lý Hư Không. Trong khi Ngài đang thực hành (hướng dẫn) pháp chuyển di cho một đám đông khổng lồ thì một vài người đã không bắt kịp được câu sau đây mà Ngài đã thêm vào “...tất cả những điều này (di nam), khi giây phút lìa đời đến với họ;” và vì thế mà bây giờ một vài người thường nói: “...những nhận thức của cuộc đời này (dir nang)..,” và những người khác thì lại nói “...bởi thế (di ne)..,” nhưng theo ý kiến của tôi thì cả hai lối nói trên đều có phần hơi sai trật.

hoangtri
06-25-2017, 11:07 AM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Khi bạn đã hoàn tất pháp môn chuyển di nhiều lần và đến lúc kết thúc thời khóa, hãy niêm phong pháp môn lại trong đại-phương quảng-trí của năm Thân (expanse of the five kāyas) bằng cách hô lên tiếng “P’et” năm lần. Sau đó, hãy an trú trong trạng thái an tịch tự nhiên không tạo tác bất kỳ điều gì.

Sau đó, tất cả những vị Thầy của dòng truyền thừa trên đỉnh đầu bạn sẽ tan hòa vào ba vị thượng thủ (A Di Đà, Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ); rồi hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Kim Cương Thủ tan hòa vào đức Phật A Di Đà; và đức Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang) tan thành ánh sáng và sau đó tan hòa vào bạn. Hãy quán tưởng chính bạn ngay lập tức hoá hiện thành ra vị Hộ Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus) trong sắc màu đỏ, với một khuôn mặt, hai tay và hai chân. Ngài toạ thiền trong tư thế Kim Cương (Vajra). Hai tay ngài bắt ấn thiền định, cầm một bình bát sinh lực tràn đầy cam lồ của trí tuệ bất tử và trên đỉnh bình bát có một nhánh cây như ý. Ngài mang trên mình mười ba bảo vật trang sức của Báo Thân.

Hãy tụng câu “Om Amarani Jīvantiye Svāhā” (minh chú của đức Amitayus Vô Lượng Thọ) một trăm lần, sau đó hãy tụng đà ra ni trường thọ và những câu minh chú khác. Điều này ngăn ngừa giúp cho thọ mạng của bạn không bị ảnh hưởng bởi pháp thực hành chuyển di – và nhờ vào chân lý của duyên tương khởi này – sẽ tẩy trừ bất kỳ chướng ngại nào có thể đe dọa đến thọ mạng của bạn. 325 Phần hành trì minh chú và quán tưởng Vô Lượng Thọ này không cần thiết khi bạn thực hành pháp chuyển di tâm thức cho một người hấp hối hay cho người đã chết, và cũng không cần thiết khi bạn đang thực sự thực hành pháp chuyển di cho chính bản thân bạn vào lúc lìa đời.

Những dấu hiệu thành tựu trong pháp chuyển di được mô tả trong bản chánh văn như sau:

Đầu đau nhức; một giọt huyết thanh (serum) lóng lánh như sương xuất hiện; Có thể từ từ cắm sâu một cọng cỏ [vào trên đỉnh đầu].

Hãy miên mật hành trì cho đến khi những dấu hiệu này xuất hiện.

Để kết thúc, hãy hồi hướng công đức và trì tụng Bài Nguyện Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc và những bài nguyện khác. Khác với những pháp môn hành trì khác của hai giai đoạn phát triển và toàn thiện, những giáo huấn về con đường thâm diệu của pháp chuyển di không đòi hỏi thời gian tu tập lâu dài. Những dấu hiệu thành tựu nhất định sẽ xảy đến sau một tuần lễ thực tập miên mật. Đó là điều tại sao phương pháp này được gọi là “Giáo Pháp đem lại Phật Quả phi thiền định,” và đó là điều tại sao mọi người nên lấy con đường tắt vô song này làm pháp môn hành trì hằng ngày.

Không thể tự lo cho mình, con lảm nhảm lung tung với người quá cố.
Không tu hành, nhưng con trải rộng vòm Giáo Pháp vô tận.
Xin từ bi gia hộ cho con và những kẻ gian xảo như con,
Để chúng con có thể tinh tấn, hành trì miên mật.



http://www.dzogchen-monastery.org/assets/images/autogen/a_GR_cave.jpg
Các hang động gần Tu Viện Dzogchen

Tại những hang động này, Patrul Rinpoche đã trải qua nhiều năm trong thiền định. Hang động phía dưới mang tên “Cung Điện Kinh Hoàng của Yamantaka” là nơi đại sư Patrul Rinpoche đã trú ngụ trong thời gian biên soạn tác phẩm “Lời Vàng Của Thầy Tôi.”

hoangtri
06-26-2017, 05:08 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________



KẾT LUẬN

Những giáo huấn dưới đây, gồm mười hai đề mục chính yếu, với sáu đề mục đầu tiên liên quan tới những pháp tu dự bị thông thường bên ngoài:

1. Sử dụng đời người cho những điều thật sự quan trọng bằng cách quán chiếu về những điều kiện tự do và những thuận duyên rất khó tìm.

2. Tự thôi thúc mình phải tinh tấn bằng cách quán chiếu về lẽ vô thường của cuộc đời.

3. Phát khởi quyết tâm cầu tìm giải thoát cùng với tâm từ bi nhờ vào việc nhận biết ra được bản chất của toàn bộ vòng sinh tử luân hồi là đau khổ.

4. Từ bỏ những điều xấu ác và noi theo những điều tốt lành trong bất kỳ việc gì nhờ vào những hiểu biết rốt ráo về những hậu quả của việc làm của mình.

5. Càng ngày càng thiết tha với kết quả thành tựu bằng cách nhớ đến những lợi lạc của giải thoát.

6. Bằng cách theo chân một vị Thầy tâm linh chân chính, tự rèn luyện bản thân để tích cực theo gương những chứng nghiệm và thiện hạnh của Ngài.

Năm đề mục kế tiếp bao gồm những pháp tu dự bị phi thường hay những chuẩn bị bên trong:

1. Đặt ý nguyện tìm cầu giải thoát trên nền tảng của quy y Tam Bảo.

2. Thiết lập một cái khung vững chắc cho vô lượng công hạnh của một vị Bồ Tát bằng cách khơi dậy tâm Bồ Đề tối thượng.

3. Sám hối những ác hạnh và những vi phạm giới hạnh, là gốc rễ của tất cả những gì bất thiện, và nương vào bốn lực tịnh hoá nghiệp, thực hành thiền định và trì tụng về Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva).

4. Tích lũy công đức và trí tuệ, là suối nguồn của tất cả những tiến triển tâm linh, bằng cách cúng dường những cõi Tịnh Độ của ba Thân (kāyas) trong hình thức của một mạn đà la.

5. Tự khơi dậy tuệ giác tối thượng trong bản thân bằng cách khẩn nguyện Bổn Sư, là suối nguồn của mọi năng lực gia trì.

Cuối cùng, trong trường hợp cái chết đột ngột xảy đến trước khi bạn có thể hoàn tất con đường tu, hãy nương vào pháp chuyển di tâm thức để nối kết với các cõi Tịnh độ, dẫn đến Phật Quả mà không cần thiền định.

hoangtri
06-26-2017, 05:13 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Những pháp tu dự bị này cũng có thể được trình bày như sau. (1) Nhờ vào bốn tư tưởng quán chiếu chuyển tâm giúp bạn quay lưng lại với cõi sinh tử luân hồi và nhờ vào những hiểu biết về lợi ích của giải thoát, bạn có thể làm sống dậy lòng cương quyết tìm cầu giải thoát, và chính lòng cương quyết chí thành này sẽ mở ra một lối vào cho toàn bộ con đường tu. (2) Nhờ theo chân một vị Thầy tâm linh, suối nguồn của mọi phẩm hạnh tốt lành, bạn sẽ tạo được những thuận duyên cho con đường tu. (3) Nhờ quy y Tam Bảo làm nền tảng, và nhờ khơi dậy được tâm Bồ Đề, tu tập hành trì theo sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) mà bạn sẽ được dẫn dắt đi trên con đường chánh đạo của chư Phật Toàn Trí Toàn Giác.

Có những giáo huấn khác cũng được biết tới qua những giải thích dựa trên ba loại tri giác, 326 ba loại căn cơ của chúng sinh, hoặc dựa trên pháp tu Đại Thủ Ấn theo truyền thống Kinh điển 327... nhưng tất cả những điểm trọng yếu của những con đường đó đều được hợp nhất ở đây trong tác phẩm luận giải này.

Tuy nhiên, tất cả những Giáo Pháp như pháp tịnh hóa và tích lũy (hai bồ phước tuệ), vận dụng hai phương pháp tối cao là (1) pháp môn hành trì Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) và (2) pháp cúng dường Mạn đà la; (3) pháp Bổn Sư Du Già (Guru Yoga), con đường bí mật dẫn đến năng lực gia trì thâm diệu; và (4) những giáo huấn về pháp chuyển di tâm thức dẫn đến Phật Quả mà không cần thiền định – tất cả những Giáo Pháp trên đều là những Giáo Pháp vô song, được cắt nghĩa giảng giải một cách đặc biệt theo đúng truyền thống tu tập của riêng dòng truyền thừa này.

Sau những pháp môn hành trì này, ta sẽ bước vào con đường chính yếu phi thường, là tinh tuý của Giáo Pháp Kim cương Tâm-Yếu (Heart Essence), gồm có những pháp tu dự bị đặc biệt dẫn đến ba Thân (kāya), đến chân tâm, và đến giác tánh. Sau đó, một khi nương vào pháp gia trì của giác tánh năng hoạt 328 mà ta được chỉ cho thấy lối vào Chân như, thì rồi ta cũng sẽ nhận được thêm những hướng dẫn trực chỉ chân tâm, dựa trên chính những kinh nghiệm tuần tự tu chứng của riêng ta.

* Đoạn này ám chỉ các pháp thiền đặc biệt của Đại Viên Mãn.

Khi biên soạn những giáo huấn này, tôi gần như không để cho những cân nhắc về mỹ học hay văn chương lôi kéo. Mục đích chính của tôi là chỉ ghi chép một cách trung thực những giáo huấn truyền khẩu của vị Thầy tôn kính của tôi theo một cách trình bày dễ hiểu và có lợi lạc cho tâm thức. Tôi đã cố gắng bằng hết khả năng của mình để không làm hư hoại những giáo huấn ấy bằng cách pha trộn vào đó những ngôn từ và ý tưởng của riêng tôi.

hoangtri
06-26-2017, 05:15 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Trong một số trường hợp riêng biệt, Thầy tôi cũng thường ban nhiều giáo huấn đặc biệt chỉ dạy cách phơi bày những lỗi lầm tiềm ẩn, và tôi đã thêm vào bất kỳ những gì tôi nhớ được về những điều này trong những đoạn văn thích hợp nhất. Đừng nên coi những giáo huấn phơi bày lỗi lầm này như một cánh cửa sổ để qua đó bạn có thể xem xét lỗi lầm của người khác, mà phải coi đó là một tấm gương để quán sát chính bạn. Hãy xem xét kỹ lưỡng trong bản thân bạn để xem mình có hay không có những lỗi lầm tiềm ẩn đó. Nếu có, hãy nhận ra chúng và hãy trục xuất chúng. Hãy chỉnh sửa tâm bạn và thanh thản đặt tâm ấy trên con đường tu đúng đắn. Như Ngài Atisa đã nói:

Vị Thầy tâm linh tuyệt vời nhất là người tấn công vào những lỗi lầm tiềm ẩn của bạn. Giáo huấn xuất sắc nhất là giáo huấn đánh trúng vào những lỗi lầm đó. Những người bạn tuyệt hảo nhất là chánh niệm và tỉnh giác. Sự khích lệ tốt lành nhất là kẻ thù, chướng ngại và đau khổ của bệnh tật. Phương pháp thiện xảo nhất là không tạo tác bất kỳ điều gì.

Điều cực kỳ quan trọng là hãy làm sao để cho những giáo huấn ấy tác động được tới những lỗi lầm tiềm ẩn của bạn, vận dụng Giáo Pháp để sửa chữa tâm bạn, luôn luôn duy trì chánh niệm và tỉnh giác, nhận về mình toàn bộ trách nhiệm khi có bất kỳ điều gì xảy ra, thậm chí không bao giờ để cho dù chỉ một tư tưởng bất thiện phát khởi, và hãy nương vào Giáo Pháp để điều phục tâm bạn. Nếu bạn có thể làm được tất cả những điều này, bạn sẽ ban cho chính bạn một đặc ân. Giáo Pháp sẽ trở nên vô cùng lợi lạc cho tâm bạn, và việc bạn theo chân một vị Thầy sẽ bắt đầu có ý nghĩa thật sự. Ngài Atisa cũng có nói:

Cách tốt nhất bạn có thể giúp đỡ người khác là dẫn dắt họ đến với Pháp. Cách tốt nhất họ có thể đón nhận sự giúp đỡ là chuyển tâm hướng về Pháp.

Tóm lại, giờ đây bạn đã có được những điều kiện tự do và thuận lợi của đời người. Bạn đã gặp một vị chân sư và nhận được những giáo huấn thâm diệu. Duyên may để đạt được Phật Quả bằng cách đưa giáo pháp của chín thừa vào thực hành giờ đây là của bạn. Bây giờ là lúc bạn có thể vạch ra một con đường cho tất cả những đời vị lai của bạn – hoặc bây giờ cũng là lúc bạn có thể phó mặc đời mình cho định mệnh. Giờ đây là lúc bạn có thể chuyển tâm hướng về những điều thiện – hoặc giờ đây là lúc bạn từ bỏ điều thiện để đến với những gì xấu ác. Chính giây phút này là bước ngoặt giữa hai hướng đúng và sai của toàn bộ sự sống của bạn. Phước duyên này giống như việc bạn tìm được một chút thức ăn khi bạn chỉ mới ăn được một bữa trong một trăm bữa suốt cuộc đời bạn. Vì thế hãy tận dụng Giáo Pháp để tự giải thoát bản thân trong khi bạn còn có thể làm được điều đó, hãy để cho cái chết trở thành một thôi thúc, (thúc đẩy bạn tu tập) trong bất kỳ giờ phút nào. Hãy cắt bớt những hoạch định thế tục của bạn trong đời này, và hãy tinh tấn thực hành những thiện hạnh và từ bỏ những ác hạnh – cho dù phải trả giá bằng cả cuôc đời mình. Hãy theo học một vị Thầy chân chính và chấp nhận không chút do dự bất cứ điều gì Ngài khuyên bảo bạn. Hãy dâng hiến thân và tâm của bạn cho Tam Bảo. Khi hạnh phúc đến, hãy nhận ra đó là lòng từ bi của các Ngài. Khi đau khổ xảy ra, hãy nhận ra đó là kết quả của những nghiệp đã tạo trong quá khứ của chính bạn. Hãy chuyên chú hành trì các pháp tích tập công đức và pháp tịnh hóa với tác ý hoàn toàn thanh tịnh của Bồ Đề Tâm. Cuối cùng, nhờ vào lòng quy ngưỡng và mật nguyện thanh tịnh, hãy hợp nhất tâm bạn với tâm của vị Thầy cao cả của dòng truyền thừa chân chính, mãi mãi hợp nhất, không bao giờ chia cắt. Hãy chiếm giữ thành lũy của chân như ngay trong đời này, can đảm nhận lãnh trách nhiệm giải thoát tất cả chúng sinh, là những bà mẹ già nua của chúng ta ra khỏi ngục tối luân hồi. Điều này bao gồm tất cả những giáo huấn cốt tủy trọng yếu nhất.

hoangtri
06-26-2017, 05:20 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Giáo huấn cốt tủy của dòng truyền thừa ba chi phái giữa con sông cam lồ,
Hương vị dịu ngọt từ môi Thầy thuộc truyền thống chân chính,
Những điểm trọng yếu trong các pháp tu của chín thừa,
Tất cả được đúc kết ở đây, không lỗi lầm hay pha tạp.

Những lời tốt lành này giống như thực phẩm khéo nấu,
Mọi hí luận của lời lẽ hoa mỹ đều đã được sàng lọc,
Được nêm bằng tinh túy thơm ngon của pháp hành trì thâm diệu nhất,
Trong nước cốt của giáo huấn đặt trên nền kinh nghiệm.

Những lời tốt đẹp này giống như một nông dân thiện nghệ
Khắp mảnh đất hoang của tâm xấu ác, tam độc mọc tràn lan,
Đã đào xới mọi lỗi lầm tiềm ẩn bằng lưỡi cày kim cương của giáo lý,
Và khéo léo tưới tẩm đất hoang bằng nước mát của Chân Pháp.
Những lời tốt đẹp này giống như một vụ mùa bội thu.
Trên mảnh đất phì nhiêu của quyết tâm thoát khỏi luân hồi,
Hạt giống Bồ Đề Tâm được gieo trồng cẩn thận,
Được nuôi dưỡng bằng công đức, cùng tẩy tịnh, sinh ra
trái quả của thành tựu tâm linh.

Những lời tốt đẹp này giống một vú em tử tế.
Xem xét lỗi lầm tiềm ẩn và nhổ bật tận gốc rễ,
Khéo léo thúc đẩy hãy tốt lành hơn một trăm lần như thế,
Luôn quan tâm giúp đỡ chỉ vì muốn trẻ thơ thêm toàn thiện.

Không chỉ là ngôn từ mà là yếu nghĩa thâm sâu;
Còn nồng ấm hơi thở của vị Thầy vô song của tôi.
Ai coi những lời này như viên ngọc quý trong tâm họ
Chắc chắn đang bước đi trên con đường thuần khiết chân chính.

Những giáo huấn tốt lành này là phương tiện thiện xảo đặc biệt của chư Bồ Tát,
Một bản văn linh hiển được viết ra, không tao nhã, không văn thơ
Mà sử dụng ngôn ngữ thông thường để giảng dạy con đường chân chính,
Để mọi lợi lạc và các pháp tu có thể thâm nhập đáy lòng.

hoangtri
06-27-2017, 03:13 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Những bình giảng rộng rãi đầy ắp chi tiết Không dễ thích hợp trong không gian tù túng của tâm thức hạn hẹp.
Những luận giảng cao xa về các quan điểm triết học và giáo thuyết thâm sâu
Khó đưa vào thực hành đối với những kẻ trí tuệ thấp kém trong thời đại suy đồi.

Đó là lý do tại sao bản văn này cô đọng và dễ hiểu,
Là thần dược quý báu thấm nhập khe hở tí hon trong tâm trí chật hẹp,
Một ngọn đèn soi sáng bóng tối cho những kẻ độn căn,
Một ông giáo điềm tĩnh, tự truyền đạt rõ ràng yếu nghĩa đúng đắn.

Đối với bậc thông thái yêu thích luận thuyết dông dài,
Đối với vị thầy vĩ đại không tìm được điều gì để áp dụng cho chính mình, trong văn bản, và trong truyền thống khẩu truyền,
Khi được uống giòng cam lồ giáo huấn tâm yếu tuyệt hảo này
Sẽ làm hồi sinh tinh túy của công phu hành trì, không còn gì nghi ngại.

Đối với người ẩn tu, thiền định thiếu hướng dẫn như thể ném đá vào bóng tối,
Đối với kẻ lão luyện, kiêu căng về tất cả các pháp hành trì,
Đối với những kẻ thành tựu hư giả chưa từng đương đầu với giới hạn của bản thân,
Con đường này sẽ chữa lành tật bệnh trong tâm họ.

Bản văn này không pha chế những câu cú vẽ vời, phức tạp,
Không là cầu vồng tô vẽ khéo léo bằng ngôn từ kỳ dị
Bởi một số kẻ tinh thông uyên bác nhưng hời hợt trong văn điển,
Chúng chẳng là gì cả so với những lời vàng của vị Thầy từ ái của tôi.

Chư huynh đệ Kim cương của tôi vẫn còn có thể làm chứng,
Về thời đại hiện hữu của bậc Toàn Giác, vị Thầy vô song
của tôi Bởi thời đại tốt đẹp đó đâu đã là một quá khứ xa xăm,
Một thời đại may mắn cho cả Tây Tạng và thế giới -

Công hạnh của bậc tôn quý ấy là nguồn cảm hứng cho tôi,
Để biên soạn một trước tác những lời chân thật của Ngài.
Là dấu ấn của lòng quy ngưỡng và thiện ý của tôi,
Đáng được chư huynh đệ và ngay cả chư Thiên hoan hỉ tán thán.

Những kẻ may mắn sống trong đời vị lai cũng thế:
Hãy phát khởi lòng quy kính tương tự khi đọc bản văn này
Chẳng khác nào được giáp mặt vị Thầy giác ngộ của tôi,
Tôi tin rằng những lời này chuyên chở tinh hoa giáo huấn của Ngài không sai lạc.

Bất kỳ công đức nào có được từ tác phẩm này
Tôi hồi hướng đến tất cả chúng sinh, những bà mẹ của tôi trong quá khứ,
Nguyện xin họ được một vị Thầy tâm linh tối thắng gia hộ,
Đem giáo huấn toàn hảo của Ngài vào thực hành, và hưởng được quả lành.

Đặc biệt nguyện cho tất cả những ai được nuôi dưỡng bằng cam lồ này,
Đến từ đôi môi của vị Phật toàn giác, bậc Thầy vô song của tôi,
Nguyện tất cả đồng trọn thành Phật Quả viên mãn;
Nguyện thấy họ lên đường và dẫn dắt chúng sinh.

Nguyện những bậc Trưởng Tử của vị Thầy từ ái nhất của tôi,
Những vị đã uống lời cam lồ toàn thiện của Ngài,
Đã thu phục những kẻ may mắn, làm cho họ say đắm những bài ca giáo huấn.
Nguyện xin gót sen của chư vị an tru bền vững tren toà kim cương.*

Từ nay trở đi, nguyện xin trong mọi kiếp vị lai của tôi
Được phụng dưỡng Thầy tôi và những ai theo bước chân Ngài;
Nguyện đáp ứng bất kỳ những gì được yêu cầu, làm vui lòng tất cả.
Nguyện cho tôi được Ngài dẫn dắt như đệ tử.

Cho tới khi luân hồi tuyệt dứt, đối với mỗi một chúng sinh,
Nguyện cho tôi tích lũy thân thể, vật dụng và công đức;
Nguyện cho tôi phụng dưỡng chúng sinh, những bà mẹ già chìm đắm trong đau khổ,
Và nguyện cho họ cùng tu tập Giáo Pháp của đấng Thế Tôn.

Trong khi đó, nguyện cho lực gia hộ của dòng truyền thừa tôn quý
Ló rạng trong tâm chúng sinh như vầng dương tuyệt hảo.
Sau khi hiến dâng cuộc đời hành trì nơi ẩn thất,
Nguyện cho họ đời đời núp dưới bóng của vị Thầy vô song.

*Một biểu lộ thi vị thường được dùng để cầu chúc các vị Thầy tâm linh được trường thọ và dồi dào sức khoẻ.

hoangtri
06-27-2017, 03:16 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________


Những hướng dẫn tổng quát bên ngoài và bên trong dẫn đến Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Longchen Nyingtik), tất cả đều rất trung thực với những lời giảng dạy của vị Thầy vô song của tôi. Trước tác này đã xuất hiện do sự khẩn cầu bền bỉ của Dronma Tsering, một đệ tử tinh tấn và nghiêm trì giới luật, là người đã đưa tặng lại một số ghi chép mà ông đã ghi lại những gì có thể nhớ được. Ông ta nài nỉ tôi viết một giảng văn dựa trên những ghi chú này, ghi chép thật trung thực những giảng dạy của Thầy của chúng tôi. Ngoài ra, Kunzang Thekchok Dorje, một vị Hoá Thân tôn quý, là người đại diện của Đạo sư tôn quý và là bậc nắm giữ giáo lý tăng trưởng và giải thoát này, đã lập đi lập lại hai ba lần lời khẩn nài tương tự – thậm chí còn cung cấp cho tôi rất nhiều tấm giấy để ghi chép.

Sau này lại tới phiên Ngài Kushab Rinpoche Changchub Dorje 329 - vị Pháp Vương của tất cả mọi giáo thuyết, bậc lỗi lạc nhất trong tất cả những trưởng tử tâm linh là những bậc nắm giữ dòng truyền thừa của truyền thống khẩu truyền của vị Thầy siêu phàm của tôi – Ngài Kushab Rinpoche đã khuyến khích tôi, nói rằng tôi phải dứt khoát viết ra những lời dạy của vị Thầy đáng kính của chúng tôi đúng như những lời mà Ngài đã dạy các vị ấyï, bởi điều đó sẽ giúp tất cả chúng tôi giữ được Ngài trong tâm tưởng và làm sống lại lòng sùng kính quy ngưỡng của chúng tôi đối với Ngài. Tôi cũng được một số pháp hữu kim cương thân yêu khuyến khích và truyền cảm hứng; đây là những người bạn mà tôi yêu quý chẳng khác nào chính đôi mắt của mình, và chắc chắc họ sẽ vẫn tiếp tục gần gũi thân thiết với tôi như ngọn lửa và tim đèn, cho tới khi tất cả chúng tôi cùng đến được bên kia bờ giác.

Vì thế, đây là nguyên bản của trước tác này, được viết ra bởi một người mà Ngài Rigdzin Changchub Dorje, 330 bậc trưởng tử của hàng trăm vị thành tựu giả vô song, đã ban cho danh hiệu Orgyen Jigme Chokyi Wangpo – tuy nhiên, phía sau danh hiệu đẹp đẽ đó, thực ra chỉ là Abu Rách Rưới, 331 thô lỗ, và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa của năm độc.

Bản văn này được hoàn tất tại nơi ẩn tu, còn hẻo lánh hơn cả tu viện trực thuộc tên là Rudam Samten Choling* hẻo lánh. Nơi đây được gọi là Cung Điện Kinh Hoàng Của Yamantaka – một nơi tráng lệ được trang hoàng bằng tất cả những dáng vẻ cô tịch; ở đó những tàng cây tắm mình trong tinh chất ấm áp của ánh nắng mặt trời, trong lúc bộ rễ của chúng hấp thụ những giọt cam lồ mát lạnh; nơi mà những giàn cây, những lùm rậm, những bụi thấp, những cành, lá, những hoa và trái, cùng với những tràng hoa, đủ mọi loại trải dài sặc sỡ, chắt lọc chất cam lồ từ nụ cười rạng rỡ của Thiên Nữ Cung Trời Xanh Biếc** khi giòng cam lồ ấy chảy xuống làm cho trái tim cực kỳ mãn nguyện.

Nhờ công đức của việc hoàn thành tốt đẹp tác phẩm này, nguyện tất cả vô lượng chúng sinh sẽ đi theo con đường Tối thượng này và hoàn toàn được giải thoát vào pháp giới nền tảng của Đức Phật nguyên sơ!

* Tu viện Dzogchen
** Mặt trời. Cách hành văn trau chuốt ở đây được mượn từ truyền thống thi ca Ấn Độ, dùng để làm lời bạt ở cuối tập sách theo đúng truyền thống thông thường.

hoangtri
06-27-2017, 03:19 PM
Lời vàng của thầy tôi
PHẦN BA _ CHƯƠNG I : PHÁP CHUYỂN DI TÂM THỨC
__________________________________________________ ______________________________________



LỜI BẠT

Của Jamgon Kongtrul Lodro Thaye 332

Om Swasti Siddham

Kho tàng trí tuệ Phổ Hiền này, với sáu phương pháp giải thoát, 333
Được hiển lộ nương vào đại ấn Du Già Pháp Giới của + Đại-Phương Quảng-Trí.
Lừng lẫy với danh hiệu Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí, vinh quang với hai quả vị thành tựu,
Năng lực vĩ đại sẽ gia hộ cho mọi ước nguyện viên thành.
Chỉ cần nghe giảng giải về giáo lý của những pháp tu dự bị,
Là có đủ năng lực để bất thần chuyển hoá tâm thức chúng sinh.
Tuân theo những khẩu truyền của Đạo Sư Jigme Gyalwai Nyugu,
Về tất cả những điều mà Ngài Orgyen Chokyi Wangpo đã khai thị, ấy là điều tâm yếu.
Hãy hiến tặng món quà Giáo Pháp này, không đắm nhiễm ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động,
Pema Lekdrup, sở hữu tín tâm lẫn tài sản hoàn hảo,

+ klong chen nam mkha’i rnal ‘byor, tức Jigme Lingpa.

Vị thượng thư tâm linh và thế tục của xứ Dergé cao
quý, nơi có bốn vùng và mười thiện hạnh,

Qua tác phẩm này, Ngài đã trút xuống một trận mưa Pháp vô tận.

Nhờ công đức này, nguyện giáo lý tịnh quang kim cương tột bậc
Sẽ tồn tại lâu dài, lan truyền và trải rộng khắp ba cõi.
Nguyện tất cả chúng sinh có thiện duyên với giáo lý
này, sẽ nhanh chóng thọ hưởng vương quốc nguyên sơ vĩ đại,
Và thoạt nhiên đạt được thành tựu phúc lạc cho mình và cho người.

Vào lúc hoàn tất bản hiệu đính đầu tiên của tác phẩm này, Ngài Lodro Thaye – người có tri kiến thanh tịnh về tất cả những bậc Đạo Sư, tâm không mảy may có chút thành kiến nào về các bộ phái – đã soạn ra lời bạt trên đây. Nguyện thiện hạnh tăng trưởng!

hoangtri
06-29-2017, 05:17 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________



CHÚ THÍCH


Những chữ viết tắt:

DKR Dilgo Khyentse Rinpoche
ZR Zenkar Rinpoche
PWR Pema Wangyal Rinpoche
NT Chú Thích Lời Vàng Của ThầyTôi (xem danh mục Tài Liệu Tham Khảo)
HIST Tác phẩm “Trường Phái Nyingma Phật Giáo Tây Tạng: Nền Tảng và Lịch Sử của Dudjom Rinpoche
DICT Đại Tự Điển Tạng-Hoa
AT Một cách phiên dịch khác
Skt. Phạn ngữ (Sanskrit)
lit. literally (nghĩa đen)

1. Với những người sơ cơ, điều này có nghĩa là tránh một thái độ duy vật hay tâm tham vọng khi thực hành Phật Pháp. Trong thực tế, chỉ những hành giả chứng ngộ mới có thể hành trì với tâm không đắm nhiễm (hoàn toàn xa lìa mọi khái niệm), nhưng khi công phu tu tập của ta trở nên thuần thục thì tâm không đắm nhiễm sẽ ngày càng tăng trưởng, giúp ta ngày càng xa lìa được bám chấp.

2. Năng lực tích cực của công phu hành trì cũng có thể bị chuyển dịch từ trạng thái Giác Ngộ vào những sự thể khác. NT có đề cập tới bốn hoàn cảnh có thể phá hủy cội nguồn công đức của ta. (dge rtsa): 1) Không hồi hướng hành động nhắm tới quả vị Phật viên mãn tối thượng vì lợi ích của người khác. 2) Sân hận: người ta nói rằng một giây khắc sân hận có thể hủy hoại những hành nghiệp thiện lành trong nhiều kiếp. 3) Hối tiếc: hối tiếc những hành vi lợi ích mà ta đã làm, dù chỉ một phần nào. 4) Khoe khoang những hành vi thiện lành đã làm cho người khác.

3. NT giải thích rằng cũng như khi một giọt nước trở thành một phần của đại dương, giọt nước ấy sẽ tiếp tục hiện hữu chừng nào đại dương còn hiện hữu. Khi công đức của các hành nghiệp của ta hoàn toàn được hồi hướng cho “Đạo Quả hay đại dương của quả vị Toàn Giác,” thì công đức ấy sẽ không bị mất đi cho tới khi ta thành tựu Phật Quả viên mãn.

hoangtri
06-29-2017, 05:23 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


4. “Đối tượng của cái thấy (lta yul) của các Kinh điển (sutra) và Mật điển (tantra) đều như nhau, tức là Pháp Giới tuyệt đối (chos kyi dbyinsg, Phạn: dharmadhatu – Pháp Giới). Nhưng đối với chính cái thấy (kiến), thì ta có thể thiết lập một sự phân biệt, như khi ta nói rằng ta nhìn thấy một hình tướng ‘rõ ràng’ hay nhìn thấy ‘lờ mờ.’ Khế Thừa (Vehicle of Characteristics - the sutras) có thể tạo được sự hỗ trợ, [giảng dạy và trực nhận về] tinh túy, về chân lý tuyệt đối, cũng như về tánh Không vĩ đại siêu vượt tám thái cực của các khái niệm đắm nhiễm (spros mtha’), nhưng không thể nhận ra được rằng chân tánh của tánh Không vĩ đại ấy là sự hợp nhất bất khả phân của Pháp Giới và trí tuệ nguyên sơ (dbying ye zung ‘jug). Đối với những hiện tượng của thực tại tương đối, Khế Thừa cho rằng hiện tượng này là một cái gì tương thuộc (duyên sinh) và giống như một tuồng huyễn hóa. Nhưng Thừa này không đi xa hơn việc cho rằng tất cả các hiện tượng chỉ là sự phô bày huyền diệu bất tịnh, để có thể thiết lập các Thân (kaya) và các trí tuệ. Trái lại, Mật Thừa thiết lập một Pháp Thân (dharmakaya) vĩ đại cao cả hơn như thế, là một sự trùng điệp của các Thân và các trí tuệ, không bao giờ có thể phân tách, như là hai chân lý tuyệt đối.”NT

5. “Trong Khế Thừa không dạy rằng ta có thể đạt được Giác Ngộ mà không cần từ bỏ năm đối tượng của tham dục (‘dod pai yon tan lnga). Nhưng ở đây [trong Quả Thừa – Resultant Vehicle], ta ứng phó với tâm một cách mau lẹ và dễ dàng, đưa tâm ấy vào những con đường tu mà không cần phải từ bỏ năm đối tượng này, và ta có thể đạt được quả vị Hợp Nhất, quả vị của đức Kim Cương Trì (Vajradhara), trong một đời người và trong một thân người duy nhất”.

6. Những người có căn cơ nhạy bén là người: “đủ thông tuệ để có thể chứng ngộ cái thấy sâu xa của Kim Cương Mật Thừa và là những người có đủ tín tâm không e sợ những hành động mạnh mẽ và lớn lao”.

hoangtri
06-29-2017, 05:27 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


7. Theo Mật Thừa, ta không tạo tác hay phát khởi bất kỳ điều gì bằng cách đi theo con đường tu tập. Ta chỉ đơn giản làm hiển lộ điều đã sẵn có – đó là Phật tánh của chính mình.

8. Ta không nên coi các Ngài như là những chúng sinh bình thường (rags pa) mà phải coi các Ngài như là những hiện thể vi tế (phraba) hoặc cực kỳ vi tế (shin tu phra ba).” DKR “Tất cả các vị trong tăng đoàn, cho dù các vị ấy có nhận ra điều đó hay không, nhưng các Ngài được tắm đẫm trong Phật tánh giống như những hạt mè tràn ngập bởi dầu... Vì thế tất cả chúng sinh đều là những vị Phật, bản tánh thanh tịnh tuyệt đối của chúng sinh là bản tánh của Phật Quả, tinh túy nguyên sơ của chúng sinh là tinh tuý nguyên sơ của Phật Quả, và những phẩm hạnh bẩm sinh trong họ là những phẩm hạnh của Phật Quả... tất cả là những vị Phật đích thực, được quán tưởng như những Không Hành nam và Không Hành nữ (daka và dakini) thuộc các Phật Bộ thích hợp. Nếu cả vị Thầy lẫn tăng thân đều là những vị Phật, thì cõi Phật của các Ngài cũng thanh tịnh và phải được quán tưởng như cõi Sắc Cứu Cánh Thiên (Akanistha) hay một cõi Tịnh độ khác.” NT

9. gsal btab pa có nghĩa là quán tưởng, nhưng cũng có nghĩa là lưu tâm, nhận biết một cách trong sáng tâm thức ta, làm tươi mới ký ức của ta. “Quán tưởng theo cách này không có nghĩa là tự nhủ rằng con lừa là con ngựa, hay một cục than là cục vàng; chỉ có nghĩa là nhận biết một cách sinh động trong tâm ta những gì luôn luôn hiện hữu như thế từ vô thủy, là những hình tướng và hiện thể xuất hiện từ nền tảng nguyên sơ, là trạng thái của Phật Quả.”NT

10. “Trong kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiện. Tuy nhiên, chúng ta đã không gặp được những vị Phật đã xuất hiện – hay nếu như ta đã có gặp các Ngài thì các Ngài đã không thành công trong việc dẫn dắt chúng ta đến bờ giải thoát. Đối với chư Phật trong tương lai thì việc chúng ta gặp các Ngài vẫn còn quá sớm. Vì thế nếu không có những vị Thầy tâm linh thì sẽ chẳng có một ai cứu giúp ta.” DKR

11. Ba niềm tin đầu tiên được giải thích trong Phần Hai, Chương Một. Niềm tin thứ tư, tín tâm bất thối chuyển, đôi khi được thêm vào để ám chỉ tuyệt đỉnh của lòng tin, khi mà lòng tin ấy đã trở thành một phần không thể thiếu bên trong chính ta.

hoangtri
06-29-2017, 05:31 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


12. NT nói: “Dù ta có nhận lãnh Giáo Pháp hay không, nếu ta không quan tâm tới Pháp thì ta sẽ giống như một con ngựa được ban cho một cục xương, hay một con chó được cho một nắm cỏ.” don gnyner, “sự quan tâm,” cũng có nghĩa là “nỗ lực tinh tấn,” không chỉ là sự quan tâm trong tâm thức mà còn phải tham gia tích cực.

13. Những ví dụ này lấy ra từ những câu chuyện tiền kiếp của Đức Phật để minh họa mức độ thệ nguyện của Ngài, và không nên coi đó đơn thuần như là những câu chuyện giới thiệu về phái tu khổ hạnh cực đoan.

14. Giác quan thứ sáu là thức, bởi vì những phản ứng tâm lý tương tự là do những đối tượng xuất hiện trong tư tưởng tạo ra, cũng giống như những đối tượng của tri giác xuyên qua năm giác quan vật lý.

15. Điều này ám chỉ những người Tây Tạng bình thường, là những người có niềm tin thật đặc trưng nơi Giáo Pháp và thường tụng niệm câu minh chú nổi tiếng: Om mani padme hum, nhưng họ lại có thể không có chút hiểu biết cặn kẽ nào về giáo lý của Đức Phật. Ở đây, Gyalse Rinpoche đang sử dụng thuật ngữ theo một cách thức hơi xúc phạm để khích động thính giả của Ngài.

16. grims kyis sgrim la lhod kyis glod. “Điều này có nghĩa là không sao lãng, nhưng đồng thời hết sức thư thái.” DKR. Ngoài ra, trước tiên, phải kiểm soát những niệm tưởng lộn xộn để đạt được sự an định (zhi gnas), sau đó phải buông lỏng tâm để phát triển những kinh nghiệm nội quán sâu xa (lhag mthong).

17. “Cách giáo lý được biểu lộ hoàn toàn là đến từ những ngôn từ và vì thế, không cần thiết – đó là lối nói của những người nghĩ mình là những thiền giả Nyingma vĩ đại. Họ nghĩ rằng họ có thể nắm bắt ý nghĩa cốt tủy, nắm bắt được chân nghĩa mà không cần bận tâm về ngôn từ. Khi chỉ thẳng vào trái tim của họ, họ nói rằng những giảng giải này chỉ là những ngôn từ không có thực chất, và điều cần thiết chỉ là thấu hiểu chân tánh của tâm.”

18.Ý nghĩa chân thực diễn tả chân lý từ quan điểm của những bậc Giác Ngộ. Ý nghĩa thích hợp ám chỉ các giáo lý được đề ra để dẫn dắt những người chưa giác ngộ hướng đến chân lý, là những người không thể chấp nhận hay thấu hiểu giáo lý nếu giáo lý này được thuyết giảng một cách trực tiếp thẳng thừng. Ý nghĩa gián tiếp (dụ nghĩa) ám chỉ những giáo lý được ban cho chúng sinh nhằm giới thiệu với họ một cách gián tiếp một ý nghĩa nào đó không được trực tiếp nói ra.

19. “Đó là sự ngộ nhận về ý nghĩa, chẳng hạn như tưởng tượng rằng từ giây phút ta thọ nhận giáo lý của Mật Thừa thì ta có thể hưởng thụ rượu chè và tình dục, và hành trì những pháp môn liên quan đến sự hợp nhất và giải thoát. Để tránh các lỗi lầm này, cách hành xử của ta phải hợp thời (có nghĩa là phù hợp với mức độ tu chứng của tâm linh mà chúng ta thực sự đạt được trong giây phút hiện tại).”

20. AT “một niềm hứng khởi tốt lành hay xấu xa vĩnh viễn.” Ở đây chúng ta theo giải thích của DKR.

hoangtri
06-29-2017, 05:42 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


21. Điều này ám chỉ một pháp môn tịnh hóa dành cho người chết trong đó người chết được tượng trưng bằng một tấm bìa ghi tên của họ.

22. Thành ngữ thod pa bor chog ma nghĩa đen là “tống khứ cái sọ người,” có nghĩa là loại bỏ thân xác ta, trong ý nghĩa giải thoát chính mình khỏi những cảnh tái sinh trong tương lai. DKR

23. ‘du shes med pa. AT “không có tri giác.” Chúng ta theo giải thích của DKR: “Chư Thiên phi tưởng (vô tưởng) đã tạo ra một trạng thái trống rỗng trong tâm thức họ và không nhận thức được bất cứ điều gì cả, như trong trạng thái ngủ sâu không nằm mộng.”

24. klo kha khra ám chỉ vùng rộng lớn mà những cư dân bộ lạc cư trú ở miền nam của trung phần và ở miền đông Tây Tạng. Ngày nay bao gồm Arunachal Pradesh, Nagaland và những phần của Assam ở đông-bắc Ấn Độ, cũng như những phần của tây-bắc Miến Điện.

25. Những người Tây Tạng quen gọi Bồ Đề Đạo Tràng là rdo rje ldan, hay Toà Kim Cương, ám chỉ nơi Đức Phật ngồi khi Ngài đạt được Giác Ngộ. Đây cũng được coi là trung tâm của thế giới.

26. Xem chú thích 295.

27. Những ngôi chùa này được xây dựng tại những địa điểm chính xác được chuẩn định cốt để chế ngự những tà lực ở Tây Tạng. Ở giữa tập hợp những ngôi chùa này là Rasa Trulnang, là tên thuởû ban đầu của chùa Jokhang. Xem Phần II, Chương Sáu, mục IV và chú thích 294.

28. Theo NT, Đức Liên Hoa Sanh muốn nói rằng chỉ trong ba thời kỳ này mà Kim Cương Thừa được khám phá trong một phạm vi rộng lớn.

29. Nghĩa đen: “những niên lịch (năm),” nhưng điều này không ám chỉ những đơn vị thời gian chính xác mà muốn nói tới những thời kỳ phát triển hay suy tàn gây ra bởi những nguyên nhân khác nhau chẳng hạn như sự xuất hiện của một thánh nhân hay, ngược lại, ảnh hưởng có hại của những tinh linh xấu ác. DKR

30. Trong thời kỳ lập tức theo sau thời kỳ giáo lý được truyền bá, những người thực hành Giáo Pháp hầu như đắc quả tức thời.

31. Trong thời kỳ thành tựu thì có những người thực hành Giáo Pháp, nhưng có ít người hơn, và kết quả của họ tới chậm hơn.

32. NT giải thích rằng những hiện tượng này có thể nảy sinh bất ngờ ở khoảng giữa một thời khoá thực hành và thời khoá kế tiếp, hay nảy sinh ngay giữa một thời khoá, và hủy hoại một hay vài yếu tố trong số mười tám điều kiện tự do và thuận duyên, giống như một con sói đi vào bãi nhốt cừu và tha đi một hoặc hai con trong số mười tám con cừu.

hoangtri
06-29-2017, 05:53 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


33. “Những điều này tách rời tâm thức ta khỏi giải thoát và Toàn Giác. Khi một trong những điều này xảy ra, sẽ làm khô héo chồi Giác Ngộ và cắt lìa ta khỏi Phật Bộ của giải thoát.” NT

34. Một cái lọng nghi lễ được mang đi trước một vị Lạt Ma trưởng lão như là một biểu tượng của sự tôn kính.

35. “Đại dương tượng trưng cho đáy sâu và sự bao la vô tận của ba cõi tái sinh thấp và cho những đau khổ vô biên của chúng sinh trong các cõi này. Con rùa mù tượng trưng chúng sinh trong ba cõi thấp, họ không có mắt để biết tuân theo những gì ích lợi và từ bỏ những điều có hại. Việc con rùa mù chỉ nổi lên mặt biển một trăm năm một lần tượng trưng cho một sự việc rất hiếm khó để có thể thoát khỏi những trạng thái của ba cõi thấp. Một cái lỗ trong cái ách tượng trưng cho sự hiếm hoi của việc được sinh làm người và Trời. Gió xô dạt cái ách theo cách này và điều đó tượng trưng cho sự phụ thuộc vào những hoàn cảnh thuận lợi.”

36. Chúng ta đã chọn ‘Surabhibhadra’ như một sự tái tạo có thể chấp nhận được từ Phạn ngữ của tiếng Tây Tạng bde spyod bzang po, là danh hiệu của vị vua mà Ngài Long Thọ viết tặng bản văn này. Thực ra, mặc dù đa số những bài tường thuật đều đồng ý Ngài là bạn thân và là một đại thí chủ của Ngài Long Thọ, nhân dạng của vị vua trong phạm vi lịch sử vẫn còn mù mờ. Có thể Ngài là dòng dõi Satavahana của các vị vua ở Andhra, và trong khi một số học giả đồng nhất Ngài với Gautamiputra Satakarni, người trị vì vào đầu thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên; những người khác gọi Ngài là Udayana hay Udayi, hoặc coi Ngài là các vua Yajnasri hay Vikramaditya.

37. Điều này ám chỉ một thứ bia Tây Tạng được chuẩn bị bằng cách đổ nước nóng lên những loại hạt đã lên men. Theo cách này thì thùng chứa vật liệu này sẽ đầy ngập hạt.

38. “Một nửa” ám chỉ triều đại của vua Mune Tsenpo, ông mất đi khi mới trị vì một năm chín tháng.

39. Ông ta có thể điều phục tâm mình có nghĩa là ông có thể phát triển ‘định’ nhưng không có nghĩa là đã điều phục được các cảm xúc tiêu cực hay chứng ngộ được bản tánh của tâm. Trên quan điểm của Pháp, thiền định mà không có một sự định hướng đúng đắn thì là điều vô ích.

40. lam du ’khyer ba: nghĩa đen là đưa vào con đường. Điều này có nghĩa là sử dụng mọi tình huống trong đời sống hàng ngày như là một phần của các pháp tu. Nếu Gelong Thangpa đưa những tư tưởng tiêu cực của ông vào con đường tu, ví dụ sử dụng lòng từ như là một pháp đối trị thái độ thù nghịch, hoặc bằng cách nhận ra được tánh Không của một niệm tưởng ngay khi nó sinh khởi, thì điều ấy không dẫn tới bất kỳ tai hại nào.

hoangtri
06-29-2017, 05:58 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


41. rkyen: duyên hợp (hoàn cảnh). Nhân tố hỗ trợ để cho nguyên nhân sâu xa (rgyu) trổ quả. Ví dụ, nếu người nào đó chết trong một tai nạn, thì chính tai nạn, hoàn cảnh của cái chết đó, là rkyen (duyên), và nguyên nhân sâu xa (rgyu) là hành nghiệp xấu ác đã tạo trong quá khứ, và cái chết là nghiệp quả của hành nghiệp đó.

42. gyur dug: trong y khoa Tây Tạng, thành ngữ này ám chỉ các lương thực có chất dinh dưỡng tốt lành, nhưng lại trở nên độc hại hay khó tiêu khi được dùng chung với những thực phẩm nào khác.

43. sha sgren có nghĩa là thịt quá ôi thiu nhưng không hẳn là bị thối rữa. Ở Tây Tạng, thực phẩm có thể được tích trữ trong một thời gian dài nhờ điều kiện khí hậu hết sức đặc biệt.

44. Nếu như trong giấc ngủ, ta vẫn có thể chú tâm vào tịnh quang là sự hiển lộ tự nhiên của giác tánh nguyên sơ, thì mọi kinh nghiệm tâm linh của ta sẽ hòa trộn với Giác tánh và ta sẽ không phải bị coi như là đang ở trong một trạng thái mê lầm.

45. Sau khi chết, sẽ không có trạng thái tái sinh (do nghiệp lực chiêu cảm) diễn ra tiếp theo đó.

46. Đây là ba loại tinh tấn đã được giải thích chi tiết ở Phần Hai, Chương Hai. PWR viết thêm: Khi bạn có sự tinh tấn như áo giáp thì không gì có thể ngăn cản bạn khởi đầu. Khi bạn tinh tấn trong hành động, không gì có thể làm gián đoạn điều bạn đang làm. Khi bạn có sự tinh tấn không thể ngừng dứt, không gì có thể ngăn trở bạn đạt được mục đích.

47. Thuật ngữ Tây Tạng là chos dred, nghĩa đen là “Con gấu Pháp”. DICT: “người không được điều phục bởi Pháp. Anh ta hiểu Pháp nhưng không thực hành Pháp, tâm anh ta trở nên khô cứng.” Nếu đến với Phật Pháp bằng một thái độ sai lạc, ta có thể có một niềm tin giả tạo, khiến ta không nhạy cảm đối với vị Thầy và giáo lý.

48. Theo truyền thống thì những thân tướng thuộc thiên giới (celestial bodies) được xem là nơi an trú của những chúng sinh thuộc các cõi Trời nào đó mà người phàm không thể thấy được.

49. dkor za ba thường có nghĩa là sử dụng nguồn tài chính được hiến cúng bởi tín tâm, trong ý nghĩa đặc biệt là sử dụng chúng một cách không đúng đắn. Đôi khi còn ám chỉ việc những người đang ở một địa vị quyền thế lạm dụng của cải chung như tài sản của một quốc gia.

50. Ở đây, ngữ (ngag) ám chỉ năng lực vi tế của ngữ (hay khẩu). Khi được vận dụng bởi một người có khả năng tu tập tâm linh nào đó hoặc bởi một người với một loại nghiệp đặc biệt thì năng lực này là phương tiện để biểu lộ âm thanh của các câu mật chú và có thể có năng lực chữa lành, làm an bình, hàng phục...

hoangtri
07-01-2017, 11:31 AM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


51. Pháp sư ném mạnh những vật tượng trưng khác nhau vào họ, chẳng hạn như những bánh cúng torma, hạt mù tạt, hay bột, là những thứ mà các ngạ quỷ nhận biết là những vũ khí tiêu diệt thân thể họ.

52. Các naga là một loại chúng sinh sống dưới mặt đất và có năng lực phi thường. Mặc dù giống như những tinh linh, chúng vẫn được xếp loại cùng với các súc sinh vì thân chúng giống như rắn. Xin xem thêm Thuật ngữ: “garuda”

53. Thành ngữ ‘du byed kyi sdug sngal mà chúng tôi đã dịch là “nỗi khổ của tất cả những gì giả hợp” được giải thích như sau: rgyu rkyen ‘du byed nas sdug sngal ‘byung, “khi nhân và duyên cùng tụ hội thì sự đau khổ xuất hiện.” Nỗi khổ này được coi là nguồn gốc của hai loại đau khổ căn bản khác trong vòng sinh tử luân hồi, được mô tả là khyab pa, có nghĩa là có mặt khắp nơi hay cùng khắp.

54. Những hiện tượng tái sinh chính yếu khác xảy ra trong sáu cõi luân hồi là sinh ra từ trứng (noãn sanh), sinh ra từ hơi nóng và sự ẩm ướt (thấp sanh), và đản sinh một cách kỳ diệu (hoá sanh).

55. Đây là cách dịch gần đúng được với những thuật ngữ được dùng trong y khoa Tây Tạng đối với giai đoạn trong năm tuần đầu tiên của sự phát triển của bào thai trong thời kỳ trứng nước.

56. las kyi rlung: nghiệp lực của những hành vi trong quá khứ, thúc đẩy toàn bộ tiến trình của luân hồi.

57. Một tấm kim loại có đục một lỗ qua đó kim loại được kéo thành dây.

58. Ở Tây Tạng, bơ được xoa trên đỉnh đầu trẻ sơ sinh để giúp cho cái thóp mau đóng lại. Mặc dù việc này được coi như có lợi cho sức khỏe của nó, nhưng trẻ sơ sinh nhạy cảm tới nỗi những năng lực vi tế của thân nó cũng bị kích động.

59. Giống như trong những nền văn hóa Đông phương khác, đối với người Tây Tạng thì việc bước qua đầu (hay thân) một người nào là điều hết sức sỉ nhục và là một nguồn nhiễm ô. Đối với những hành giả Kim Cương Thừa thì đó là sự thiếu tôn kính mạn đà la của thân, là một cái gì thiêng liêng. Tuy nhiên, với một hành giả du già đã chứng ngộ được sự thanh tịnh tối hậu của tất cả mọi hiện tượng trong lẽ tuyệt đối thì tất cả những loại kinh nghiệm đều có cùng một vị của tánh Không.

60. las kyi sa ba, một nơi mà nghiệp lực mãnh liệt hơn và những hậu quả của hành nghiệp được chiêu cảm mạnh mẽ hơn, và trong một vài trường hợp, sẽ xảy ra sớm hơn. Trong bốn trung châu trong thế giới thuộc vũ trụ quan truyền thống (của Phật Giáo), thì đặc biệt là trong châu Jambudvipa (Diêm Phù Đề – cõi người), các hành nghiệp sẽ đưa đến quả báo mạnh mẽ, và trong đó những kinh nghiệm cá nhân có thể thay đổi nhiều hơn. Chúng sinh của những trung châu khác thì thường phải chịu quả báo của những hành vi trong quá khứ hơn là tạo ra những nguyên nhân mới. Kinh nghiệm quả báo và thọ mạng của họ thì cố định hơn chúng sinh ở cõi người.

hoangtri
07-01-2017, 11:34 AM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


61. Nếu chúng ta không bị những hoàn cảnh thuận lợi đánh lừa, mà nhận ra rằng chúng chỉ có tính cách xác thực tùy theo mức độ cảm nhận của ta, thì những hoàn cảnh này có thể trở thành một trợ lực giúp cho công phu thiền định của chúng ta tiến bộ thay vì tạo nên những tham luyến gây nên chướng ngại cho ta.

62. Chính nhờ quán sát những vị Thầy cả tốt lẫn xấu mà ta có thể nhận chân ra được những vị Thầy tốt. Việc quán sát những hành giả tốt và xấu giúp ta học được cách thức giúp mình tự hành xử.

63. Cũng như cách thức các hiện tượng bên ngoài xuất hiện và biến mất vào không gian, những hiện tượng của tâm khởi lên từ bản tánh của tâm (sems nyid) và lại tan hòa trở lại vào đó. Những hiện tượng ấy không có tự tánh độc lập.

64. Một phần đặc tính của cõi Trời được mô tả như là không có sự giận dữ và thù ghét. Vì thế ở đây, để có thể chiến đấu, chư Thiên trong cõi Trời thứ Ba Mươi Ba phải đi đến một khu rừng huyền bí, ở đó họ trở nên hung hăng, thích gây hấn.

65. Sắc giới và vô sắc giới. Xem thuật ngữ: “tam giới.”

66. Nghĩa đen: “năm cõi:” một cách phân loại khác của sáu cõi với chư Thiên và A Tu La nhập làm một.

67. las su ‘char ba. Chúng tôi nhận được nhiều giải thích khác nhau cho thành ngữ này. Chúng tôi đã dịch theo cách giải thích của Ngài DKR là tương đương với las su rung ba, có nghĩa là thích hợp hay có thể thực hiện được.

68. Giống như một tháp canh giữ một vai trò hết sức trọng yếu trong một trận chiến để quan sát kẻ địch và dành phần chiến thắng, samaya (xem Thuật Ngữ) hay mật nguyện là điều cốt yếu trong Mật Thừa để tránh các chướng ngại và đạt được Phật Quả.

69. Noi theo tiến trình của các Thừa (Phạn: yana) có nghĩa là bên ngoài ta theo giới luật của Tiểu Thừa trong khi bên trong thực hành Đại Thừa, và một cách bí mật, ta thực hành Kim Cương Thừa. Ở đây Ngài Patrul Rinpoche ngụ ý rằng Thầy của Ngài dù tâm đã hoàn toàn vượt khỏi mọi đắm nhiễm luân hồi, nhưng vẫn là một tấm gương hoàn hảo để soi rọi cho đệ tử cách thức đi theo một tiến trình tu tập.

70. Có thêm hai hành động có quả báo tức thời là tội gây chia rẽ Tăng đoàn, và làm thân Phật chảy máu.

71. Trong hầu hết xã hội Tây Tạng lúc đó, việc dùng thịt trong mỗi bữa ăn được coi là dấu hiệu của giàu có sung túc và vì vậy thuộc địa vị cao. Người khách đang khoe khoang để người khác có cảm tưởng rằng ở nha,ø ngoài món thịt ra, cô không quen ăn bất kỳ món gì khác.

72. Ở đây Ngài Patrul Rinpoche phân biệt giữa hiện tượng tâm lý không liên quan đến trí tuệ với tính siêu việt đích thực của không gian và thời gian mà những bậc Giác Ngộ đã chứng nghiệm; đây là những người đã đạt được ba địa Bồ Tát cao nhất. Cái trước được mô tả là zag bcas, “bị đắm nhiễm” (bởi những khái niệm), và cái sau là zag med, “vô cấu nhiễm.”

hoangtri
07-01-2017, 11:36 AM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


73. “Nghi lễ của những người Bà la môn” ám chỉ những nghi lễ thực hiện không vì động lực muốn đạt được Giác Ngộ cho tất cả chúng sinh. Mặc dù là những nghi lễ tôn giáo, chúng vẫn không được coi là sẽ dẫn đến giải thoát rốt ráo.

74. dkor nag po: vì sự linh thiêng thật sự của Phật, Pháp, Tăng nên lạm dụng các vật cúng dường sẽ gây nên cho họ nghiệp quả hết sức nặng nề. Ở đây đặc biệt nói đến những cúng dường của các thí chủ trong các nghi lễ được thực hiện cho người chết, người bệnh, v.v…

75. thar pa dang grol ba: chúng tôi đã dịch hai thuật ngữ ở đây là giải thoát và tự do, gần như đồng nghĩa trong Anh ngữ. PWR giải thích sự khác nhau trong văn cảnh này là: giải thoát (thar pa) là thoát khỏi sinh tử luân hồi, đặc biệt là thoát khỏi những cõi thấp, trong khi tự do (grol ba) là thoát khỏi mọi chướng ngại đưa đến Toàn Giác hay Giác Ngộ. Trong những văn cảnh khác, thar pa có thể bao hàm cả hai nghĩa này, như trong Chương Sáu.

76. Quan điểm này được coi là không đúng, không phải vì nó phủ nhận một tác nhân, mà bởi nó phủ nhận tiến trình nhân quả.

77. Điều này không có nghĩa là ta không nên đặt câu hỏi hay phân tích giáo lý. Thực ra Đức Phật khuyến khích những câu hỏi như vậy. Dù thế nào đi nữa, việc để cho quan điểm riêng của ta đóng chặt tâm ta đối với Phật Pháp; việc đóng chặt tâm lại là việc ta phải thường xuyên đối phó hằng ngày, nhưng việc này có thể thực sự ngăn trở không cho ta bước đi trên con đường dẫn đến giải thoát.

78. Bởi những bậc Thầy tâm linh, là những người hướng dẫn chúng sinh, xuất hiện tùy theo những hành nghiệp trong quá khứ của chúng sinh nên nhân duyên nối kết giữa vị Thầy và đệ tử không thể chia cách được. Do đó, nếu đệ tử cư xử không phù hợp thì những hậu quả sẽ phản nghịch lại vị Thầy (trong lãnh vực tương đối), làm suy giảm thời gian hoá thân của Thầy và gây chướng ngại cho những công hạnh cốt đem lại lợi ích cho người khác của vị Thầy.

79. Tà kiến sẽ làm cho quan điểm của ta trở nên chật hẹp. Ngay cả quả lành của những hành động tốt lành của ta cũng sẽ bị giới hạn bởi ta đã làm những nghiệp lành này mà không có động lực đạt tới Giác Ngộ viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Ngoài ra, nếu không tin vào những bậc truyền dạy Giáo Pháp, ta sẽ không có được lực hỗ trợ cho công phu sám hối đã được mô tả trong Phần Hai, Chương Ba.

79. Tà kiến sẽ làm cho quan điểm của ta trở nên chật hẹp. Ngay cả quả lành của những hành động tốt lành của ta cũng sẽ bị giới hạn bởi ta đã làm những nghiệp lành này mà không có động lực đạt tới Giác Ngộ viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Ngoài ra, nếu không tin vào những bậc truyền dạy Giáo Pháp, ta sẽ không có được lực hỗ trợ cho công phu sám hối đã được mô tả trong Phần Hai, Chương Ba.

hoangtri
07-03-2017, 11:08 AM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


80. Điều này ám chỉ thời điểm mà nghiệp lực chiêu cảm trổ quả tối đa, nhưng quả ấy cũng có thể được thúc đẩy để trổ ra nhanh hơn hay làm cho chậm lại tuỳ vào kết quả của những hành động khác.

81. Một bản dịch hơi khác biệt của trích dẫn này được đưa ra trong ấn bản của Zenkar Rinpoche của bản văn Tây Tạng: “Muốn biết nơi bạn sinh ra trước kia, hãy nhìn xem bây giờ bạn là gì. Muốn biết nơi bạn sắp tái sinh, hãy nhìn xem hiện bạn đang làm gì.”

82. Bố thí bất tịnh là bố thí với thái độ chấp ngã, trong kiểu cách bủn xỉn hay miễn cưỡng, hoặc cho đi xong rồi sau đó lại hối tiếc. Kết quả của việc bố thí theo cách này là ta sẽ được giàu có nhưng sẽ không hưởng được lợi ích từ sự giàu sang sung túc này.

83. Những phẩm tính của một vị Phật: gồm ba mươi hai tướng chính, tám mươi tướng phụ, mười năng lực v.v...
84. seng ldeng là một loại cây thân mộc, tức cây cao su Acacia catechu, được tìm thấy khắp miền bắc Ấn Độ, Nepal và những thung lũng ở Tây Tạng.

85. Xem chú thích 36.

86. Chúng tôi không thể làm cụm từ này dễ hiểu hơn. srog có nghĩa là sinh lực, hỗ trợ cho hơi ấm (nhiệt) và cho ý thức hoặc hơi thở. Dường như Surabhibhadra (xem chú thích 36) là vị thí chủ của Nagarjuna, người cung cấp thuốc trường sinh cho Surabhibhadra. Nếu đúng như thế thì có lẽ người con muốn giết cha nên đã quyết định giết Nagarjuna để ngăn trở việc Ngài đưa thuốc trường sinh cho cha mình.

87. Theo truyền thuyết, đầu và thân Ngài Long Thọ (Nagarjuna) có hình dạng hai tảng đá lớn bị tách rời (tại Nagarjunakonda miền nam Ấn Độ) mà trải qua nhiều thế kỷ dần dần xích lại gần nhau hơn. Khi chúng hợp nhất, Ngài Long Thọ sẽ hồi sinh.

88. Thêm vào những hành vi tiêu cực nói chung thì có những hành động mà Đức Phật ngăn cấm những người đã thọ những giới đặc biệt. Ở đây, vị tăng đang vi phạm một giới luật ngăn cấm tu sĩ đã thọ cụ túc giới chặt phá cây cối.

89. Những cái đế hình tròn mà trên đó những nhúm gạo, v.v... được đặt lên theo Mật pháp cúng dường mạn đà la. Cúng dường mạn đà la là một phần của tiến trình tịnh hoá. Pháp tu cúng đường mạn đà la đã được giải thích chi tiết trong Phần Hai, Chương Bốn.

90. Việc dùng ngôn ngữ của Giáo Pháp về hạ thấp hay xem thường luật nhân quả có nghĩa là dùng giáo lý của Chân lý Tuyệt đối như một cái cớ để làm bất kỳ điều gì mình mong muốn, nói rằng không có khác biệt giữa thiện và ác, giữa luân hồi và Niết Bàn, giữa chư Phật và phàm phu, v.v…

91. Điều này có nghĩa là bất kỳ ai được tạo duyên nối kết với một người theo bất cứ cách nào, dù là tích cực, tiêu cực, hay hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngay cả một quan hệ nhỏ bé tối thiểu với một vị Bồ Tát, qua việc thấy, nghe, chạm, v.v. cũng có thể đem lại lợi lạc to lớn và dẫn đến giải thoát.

hoangtri
07-03-2017, 11:10 AM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


92. Xem Dẫn Nhập về một giải thích tóm tắt của phần thực hành chính yếu. “Mặc dù tất cả những pháp tu của phần chính yếu của con đường không được giải thích một cách chính thức trong tập sách này, nhưng những điều ấy vẫn hiện diện ở đó từ trong cốt tuỷ. Tập sách đầy đủ bởi nó chứa đựng toàn bộ ý nghĩa của con đường tu.”

93. Trong chương này, Ngài Patrul Rinpoche đưa ra một bài kệ tóm tắt về từng vấn đề mà không trích dẫn từ bất kỳ nguồn gốc đặc biệt nào. Những bài kệ này là để giúp người đọc hay người nghe nhớ lại chúng.

94. Việc khẩu truyền trực tiếp (từ Thầy xuống đến trò) luôn luôn đóng một vai trò quan trọng trong Đạo Phật, và người Tây Tạng thường xuyên ghi chép toàn bộ những pho Kinh điển vào trong ký ức. Công năng tu tập này có thể giúp họ ghi nhớ từng chi tiết một của những giáo lý khẩu truyền. Chẳng hạn, hệ thống cấu trúc của bản văn này phần nào làm cho các hành giả thường xuyên có sẵn những giáo huấn trong tâm thức.
Họ hành động trái với thông lệ, bất chấp những phép tắc cư xử theo tục lệ, như thể hành vi của họ được đặt nền tảng trên trí tuệ không đắm nhiễm đích thực. Thật ra, họ chỉ đang tự lừa gạt chính mình.

95. NT chỉ rõ rằng để thấy vị Thầy tâm linh của ta như một vị Phật, ta cần cảm thấy: 1) Ngài là một vị Phật trong thân người trong cả hai ý nghĩa tương đối và tuyệt đối, 2) mọi hoạt động của Ngài dù thuộc tâm linh hay thế gian đều là những công hạnh của một vị Phật, 3) thiện tâm của Ngài đối với ta thì vượt trội thiện tâm của chư Phật, 4) Ngài là hiện thân, là bậc vĩ đại nhất trong tất cả những nơi nương tựa, và 5) nếu hiểu được điều này, ta cầu nguyện Ngài mà không dựa vào bất kỳ sự trợ giúp nào khác trên con đường tu thì ta vẫn sẽ phát triển được trí tuệ của sự chứng ngộ.

96. srid pa: nghĩa gốc là “triển vọng”-- nghĩa là bất cứ những gì có thể chuyển hoá thành bất kỳ những cái gì khác. Vì thế ở đây, ý này tượng trưng cho tất cả những khái niệm mà chúng ta phóng vào thực tại, và là một cái gì đã trở thành thế giới huyễn hóa mà chúng ta nhận thấy. Vì thế điều này có thể được dịch là: trở thành (thành), hiện hữu (trụ), luân hồi, thế giới.

97. Con ngựa hoàn hảo (ngựa báu) là một trong những sở hữu của Chuyển Luân Thánh Vương. Con ngưạ báu biết được những ước muốn của Ngài trước khi Ngài trình bày về ước muốn đó. Ở đây người đệ tử lý tưởng nhận biết được ý định của Thầy mình và theo đó mà hành động thích hợp.

98. “Học hỏi tư tưởng và hành động của Thầy có nghĩa là đạt được tất cả những tánh đức của thân, khẩu, ý của Thầy mình.” DKR. “Nếu trước tiên ta không đạt được chứng ngộ của Thầy thì việc noi gương hành động của Thầy chỉ là đạo đức giả.” NT

99. nor rdzas: nghĩa đen: “tài sản vật chất.” Chúng ta thường dịch thuật ngữ này là “tiền bạc,” mặc dù cũng có thể có nghĩa là bất kỳ những gì quý báu và giá trị, không phải chỉ là một vài hình thức tiền tệ đặc biệt.

100. Một trong ba đại học tu viện lớn của Phật Giáo Ấn Độ, hai đại học kia là Nalanda và Odantapuri. Nhiệm vụ “học giả phân khoa trưởng (người giữ cổng)” của các “cánh cổng,” hay các phân khoa, trong mỗi một địa hạt chính yếu, đều được giao cho các học giả có khả năng nhất để bảo vệ quan điểm triết học Phật Giáo, chống lại những thách thức tranh luận của những tư tưởng gia phi Phật Giáo. Việc tranh luận mãnh liệt, được đề ra giữa những người đề xướng của những học phái tư tưởng khác nhau, là đặc tính của thời kỳ văn minh cao độ ở miền Bắc Ấn Độ.

hoangtri
07-05-2017, 09:12 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


101.gyang rim gsum: ba lớp tường đất sét,” khoảng ba mét. Trong nhiều vùng của Tây Tạng, tường nhà được xây bằng đất sét (gyang) được kết chặt khi còn ẩm giữa những khuôn gỗ song song được đặt dọc theo tường và để cho khô. Cái khuôn này sau đó được di chuyển lên trên để giữ những lớp (rim) đất sét kế tiếp. Các bảng gỗ được sử dụng như những cái khuôn thường rộng khoảng một mét. Thuật ngữ gyang hoặc gyang rim thường được sử dụng như một cách đo lường phỏng chừng chiều sâu của tuyết.

102.Có thể giải thích về ba câu này như sau: “Gốc (của pháp tu ấy) là sự chiến thắng của nguyên sơ,” có nghĩa rằng Phật tánh là bản tánh nguyên sơ của chúng ta, không thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ nguyên nhân hay hoàn cảnh nào. “Ngọn của pháp ấy chính là sự chiến thắng của quả vị thành tựu” có nghĩa là ta có thể đắc được Đạo Quả tối thượng. “Quả của pháp ấy chính là sự chiến thắng của pháp môn du già” có nghĩa là không có phương pháp du già (yoga) nào có thể đem lại một kết quả tốt đẹp hơn.

103.Truyền thống dựa trên những giáo lý ban đầu được đưa từ Ấn Độ vào Tây Tạng trong thế kỷ thứ 8 được gọi là truyền thống Cổ Mật (Cựu Phái) hay là Nyingma. Còn truyền thống đặt nền tảng trên một trào lưu giáo lý mới, bắt đầu từ thế kỷ 11 trở về sau gọi là Tân Dịch, hay Sarma. Vị Thầy đầu tiên của Milarepa, Ngài Rongton Lhaga, thuộc về phái Nyingma, trong khi Marpa là một dịch giả và hành giả thành tựu của giáo lý Tân Phái.

104.Jetsun Mila muốn cúng dường một bình đầy lúa mạch. Cúng dường một bình rỗng được coi là điềm chẳng lành.

105. Những thử thách mà Milarepa đã trải qua trước khi nhận giáo lý từ Marpa cũng là để tịnh hoá ác nghiệp đã tạo trong quá khứ, tích tụ công đức và là những chuẩn bị có tính chất tâm lý. Những thử thách này cũng có một mối liên hệ với tương lai của dòng truyền thừa của Ngài, mỗi chi tiết đều có một biểu tượng đầy ý nghĩa mà theo lý duyên sinh (rten ‘bral), sẽ ảnh hưởng tới tương lai của chính Milarepa và những đệ tử của Ngài.

106. Ý nghĩa căn bản là đi tìm sự che chở để thoát khỏi một mối hiểm nguy, trong trường hợp này là những hiểm nguy của vòng sinh tử luân hồi.

107.“Tại sao tất cả mọi con đường? Bởi vì quy y là một phần quan trọng trên mỗi một con đường tu theo Kinh điển và Mật điển.” NT

108.Ở đây niềm tin chỉ đơn giản là một sự đáp ứng tự nhiên. “Trong trường hợp này, ta không nhất thiết phải hiểu lý do vì sao mình tin.” NT

hoangtri
07-05-2017, 09:16 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


109.“Khi ta có loại niềm tin này, ta biết lý do tại sao. Ta có niềm tin bởi ta hiểu rằng Tam Bảo, và đặc biệt là vị Thầy tâm linh, là nơi nương tựa không thể nào lầm lẫn được.” NT

110.Từ “cửa” (sgo) ở đây hoàn toàn ám chỉ cho niềm tin, đây là yếu tố đưa ta đến với năng lực gia trì của Đức Phật, hay của Đức Liên Hoa Sanh, hoặc của vị Thầy của ta. PWR

111.Đây là quy y ở trình độ tu tập của Đại Viên Mãn. 112.tshogs zhing: “ruộng (tức là đối tượng) để tích lũy công đức qua những pháp tu như lễ lạy, cúng dường và cầu nguyện.” DICT.
Nhờ những phẩm tánh Giác Ngộ của Phật, Pháp và Tăng mà kết quả của bất kỳ hành động tốt lành nào hướng tới các Ngài cũng đều có năng lực to lớn. Xem thêm ruộng công đức trong Thuật Ngữ.

113.Hoa sen biểu tượng cho sự thanh tịnh của tâm Giác Ngộ. Mặc dù mọc trong bùn, hoa sen vẫn không bị nhiễm mùi bùn.

114.Số chân tay được định rõ qua hình tướng được quán tưởng của những vị Thầy và Bổn Tôn; thông thường các vị ấy được quán tưởng với số lượng nhiều hơn một đầu và hai tay hay chân, và mỗi một chi tiết đều có một ý nghĩa biểu tượng đặc biệt.

115.Những vị Pháp Vương Tử hay Đại Bồ Tát trong giáo đoàn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gồm có: Manjusri (Văn Thù), Avalokiteshvara (Quán Tự Tại tức Quán Thế Âm), Vajrapani (Kim Cương Thủ tức Đại Thế Chí), Maitreya (Di Lặc), Akasagarbha (Hư Không Tạng), Ksitigarbha (Địa Tạng), Sarvanivaranaviskambhin (Trừ Cái Chướng), và Samantabhadra (Phổ Hiền).

116.Mười ba món trang sức của Báo Thân, xem Phần Hai, Chương 3, Mục III.

117.Tích trượng của tăng sĩ, được gọi là ‘khar gsil, nghĩa đen là “trượng ngân vang,” gồm có một tay cầm bằng gỗ và sắt, có hai cái tháp bọc ở trên; bên dưới cái tháp cao nhất có treo bốn bánh xe và mười hai vòng kim loại, âm thanh kêu vang của chúng báo hiệu sự hiện diện của vị tăng sĩ. Bình bát thường bằng kim loại, được gọi là lhung bzed, nghĩa đen là “vật chứa những thứ rơi rớt”.

118.Những vị Hộ Pháp đôi khi là các Hóa Thân của Chư Phật hay Bồ Tát, và đôi lúc là những tinh linh, các vị Trời hay ma quỷ đã được một bậc Đạo Sư tâm linh vĩ đại nhiếp phục và buộc phải giữ những lời thề. Những vị Hộ Pháp thuộâc phân loại thứ nhất (Hoá Thân của Chư Phật hay Bồ Tát) không còn vướng mắc bởi nghiệp, và hoàn toàn hành xử do lòng bi mẫn. Những vị trong phân loại thứ hai (tinh linh hay các vị Trời hay ma quỷ đã được nhiếp phục) là những vị Hộ Pháp nương vào nghiệp duyên mà có.

119.“Vào giây phút đó (giây phút đạt được Giác Ngộ), ta sẽ có muời oai lực và được gia hộ mười thần lực, nhờ đó ta thoát khỏi mọi sợ
hãi. Khi ta có khả năng che chở người khác, ta không cần quy y nữa”. NT

hoangtri
07-05-2017, 09:18 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


109.“Khi ta có loại niềm tin này, ta biết lý do tại sao. Ta có niềm tin bởi ta hiểu rằng Tam Bảo, và đặc biệt là vị Thầy tâm linh, là nơi nương tựa không thể nào lầm lẫn được.” NT

120.“Quy y tối thượng duy nhất là quy y nơi trạng thái tối thượng của Phật Quả. Giáo Pháp và Tăng đoàn chỉ là quy y tạm thời. Pháp của sự truyền dạy là một yếu nghĩa mà ta phải chứng ngộ. Một khi ta đã chứng ngộ được yếu nghĩa đó một cách đúng đắn thì ta không còn cần tới quy y nữa, giống như sau khi qua sông ta không còn cần tới đò. Đối với Pháp của sự chứng ngộ thì một khi đã tiến bộ trên con đường tu, ta phải bỏ lại phía sau những chứng ngộ trước đó của mình; nói một cách khác, những chứng ngộ trước đây cũng chỉ là mê ảo và không thường trụ. Đối với Tăng đoàn, các vị Thanh Văn và Phật Độc Giác không có những phẩm tính của các Bồ Tát đã đạt tới những quả vị siêu việt, và những Bồ Tát siêu việt không có những phẩm tính của Chư Phật; các vị Bồ Tát đang còn là chúng sinh bình thường thì vẫn còn sợ hãi các cõi thấp. Do đó, những bậc tuy đã đắc quả như vậy vẫn không phải là nơi nương tựa lâu dài.”NT

121.Ở đây, quy y được diễn tả theo ba giai đoạn khác nhau của công phu hành trì chính yếu. Xin xem Dẫn Nhập.

122.Để thực hành một cách có hệ thống, ta được khuyên là nên phân chia một khoảng thời gian đều đặn, trong đó ta tập trung vào công phu hành trì mà không bị gián đoạn (một thời công phu). Có thể chỉ một thời trong một ngày, hoặc trong một chương trình nhập thất liên tục thì một ngày có bốn thời: sáng sớm, giữa sáng, chiều và tối, chẳng hạn là như thế.

123.Thành tựu thông thường (thun mong) bao gồm những năng lực kỳ diệu v.v... và đối với Phật Giáo và những con đường du già khác thì thành tựu này cũng giống nhau. Thành tựu tối thượng (mchog) là Giác Ngộ viên mãn siêu vượt luân hồi.

124.rus pa can, nghĩa đen là “nhiều xương,” ở đây ám chỉ thành ngữ snying rus, nghĩa đen là “một cái xương trong tim,” có nghĩa là một sự quyết định dũng mãnh và lòng can đảm không bao giờ đầu hàng hay từ bỏ.

125.Một yêu cầu căn bản trước khi cử hành các nghi lễ để trợ giúp người khác là ta nên hành trì nhuần nhuyễn phần chính yếu của nghi quỹ đang được bàn tới; hành trì nghi quỹ bao gồm phần tụng niệm câu minh chú nhiều ngàn lần để tịnh hóa chính tâm thức của ta.

126.“Mạn đà la” trong văn cảnh này có nghĩa hội chúng các Bổn Tôn được quán tưởng và thỉnh cầu cho công phu hành trì. Trong truyền thống đạo Phật chân chính thì pháp tu này được coi là một phương pháp để đánh thức tuệ giác của chính ta. Ở đây pháp ấy bị lạm dụng như một nghi thức huyền thuật thô thiển.

127.Mặc dù có những giáo lý trí tuệ trong truyền thống đạo Bon rất gần với Phật Giáo nhưng ở đây đang nói về đạo Bon nguyên thuỷ của các phù thuỷ ở trong làng.

128.Sân hận thực sự (zhe sdang rang mtshan pa) là một cảm xúc tiêu cực được đặt nền tảng trên ý niệm đối đãi (nhị nguyên) về “ta” và “người.” Loại sân hận này được phân biệt qua cách biểu lộ một hình thức phẫn nộ của những bậc đã thoát khỏi ý niệm đối đãi, và mỗi hành vi của họ được đặt nền tảng trên lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Hình thức phẫn nộ này là một phương pháp mãnh liệt để giúp cho những người vốn không nhạy cảm với phương pháp an bình.

hoangtri
07-06-2017, 06:09 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


129.Ở đây ám chỉ câu chuyện xây Đại Bảo Tháp ở Bodhnath, gần Kathmandu của một người phụ nữ nuôi gia cầm và các con trai của bà. Đây là kết quả của những nguyện ước họ đã thực hiện vào lúc đó; ba người con trai được tái sinh làm Đạo Sư Liên Hoa Sanh, vua Trisong Detsen, và Tu Viện Trưởng Santaraksita. Các Ngài cùng chịu trách nhiệm đặt nền móng vững chắc cho Giáo Pháp ở Tây Tạng. Bảo tháp nguy nga này là một trung tâm đầy hấp lực đối với những người Tây Tạng có tâm quy ngưỡng; họ biết đến nó với cái tên Jarung Khashor. (Muốn xem toàn bộ câu chuyện, xin đọc Truyền Thuyết Về Đại Bảo Tháp, Keith Dowman dịch, nhà Xuất bản Dharma, Berkley, 1973).

130. Theo những tiên tri của một nhà chiêm tinh Bà la môn thì sau khi hoàng tử Tất Đạt Đa (Siddharta) hạ sinh, đứa trẻ sẽ trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương hay một vị Phật.

131. Những Mật điển khác thì có nhắc đến những con sư tử và con công thay vì chó hay bò. Tất cả những loại thịt này thường bị cấm kỵ, không được phép ăn theo lối suy nghĩ của người bà la môn ở thời Ấn Độ thời cổ, vì họ cho rằng loại thịt này quá thiêng liêng hoặc quá bất tịnh. Do đó, những loại thịt này đã được chỉ định để được sử dụng trong các pháp hành trì (của Mật Tông) cốt để phá vỡ những khái niệm (bám chấp).

132. Một vài kinh nghiệm chẳng hạn như linh kiến hay giấc mộng v.v... có thể là những dấu hiệu của sự tiến bộ trong công phu tu tập thực hành (tuy không nhất thiết là như vậy). Những vị Thầy trong dòng truyền thừa của Ngài Patrul Rinpoche nhấn mạnh rằng người ta không nên để cho những kinh nghiệm như thế mê hoặc. Đúng hơn, ta nên đo lường sự tiến bộ bằng cách phát triển lòng quy ngưỡng, phát triển tâm từ bi và giải thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực trong tâm ta.

133.Mười cấp độ tu chứng (Thập Địa) và năm con đường tu của một vị Bồ Tát. Ở đây dường như có nghĩa là sự tiến bộ trên con đường tu nói chung.

134.Từ thời xa xưa, truyền thống của những tăng sĩ Phật Giáo là dâng cúng phần đầu tiên của những gì họ nhận được trong bữa khất thực hàng ngày cho Tam Bảo, họ ăn phần giữa với tâm không phân biệt, và bố thí phần cuối cho người nghèo khổ.

135.“Khơi dậy Bồ Đề Tâm” chỉ là một cách dịch khả dĩ có thể chấp nhận được của từ sems bskyed. Từ bskyed có nghĩa là sinh ra, tạo nên, nhưng cũng có nghĩa là tăng trưởng, phát triển. Từ sems là chữ viết tắt của byang chub kyi sems (Phạn ngữ: bodhicitta, Bồ Đề Tâm), “tâm Giác Ngộ,” và từ này có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau. Đối với người sơ cơ, chỉ đơn giản là ý hướng giải thoát tất cả chúng sinh. Tuy nhiên, trong một ý nghĩa sâu xa hơn, Bồ Đề Tâm đồng nghĩa với Phật tánh (Phạn ngữ: Tathagatagarbha, Như Lai Tạng) và với Giác tánh nguyên sơ (rigpa). Ở mức độ hiểu biết này, tâm Bồ Đề không phải là điều gì được tạo mà trước đó không có; tâm ấy được coi như là bản chất nền tảng của tâm ta, là cái gì luôn hiện diện cùng chúng ta và chỉ cần được khám phá và làm hiển lộ ra thôi. Chúng tôi chọn từ “khơi dậy” để cố gắng truyền đạt một chút gì đó của cả hai khía cạnh trên.

hoangtri
07-06-2017, 06:12 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


136. Điều này được NT định nghĩa là “hứa nguyện sẽ đạt được kết quả”.

137. NT nói: “Bồ Đề Tâm hạnh (Bodhicitta of application) là ý định hành trì sáu pháp ba la mật, vì các pháp này là nguyên nhân hay phương tiện để đắc quả.”

138. “Bồ Đề Tâm tương đối được tạo nên nương vào sự hỗ trợ của những ý niệm của ta”. NT

139. “Bồ Đề Tâm viên mãn chính là trí tuệ, khi mà những hoạt động của tư tưởng đã biến mất”. NT

140. Ở đây để cho sáng sủa hơn, chúng tôi (Padmakara Translation Group) đã thêm vào một tiêu đề mà trong nguyên bản không có.

141. Ánh trăng trong nước xuất hiện sống động nhưng không có sự hiện hữu thực sự và độc lập. Cũng đúng như thế đối với những gì chúng ta cảm nhận được qua các giác quan, bởi vì những hiện tượng (mà ta cảm nhận được) không có bất kỳ bản chất khách quan nào. Tuy nhiên, chúng ta bị lạc lối vì tin rằng những hiện tướng đó là thật có một cách khách quan. Chính sự vô minh căn bản này là nền tảng cho những cảm xúc tiêu cực độc hại, khiến chúng ta phải lang thang trong luân hồi sinh tử.

142. Lý do khiến Bồ Đề Tâm là nền tảng tối yếu của con đường đi tới Giác Ngộ là vì ở bình diện tuyệt đối, đấy chính là Phật tánh, là tánh bẩm sinh trong tất cả chúng sinh, là lòng từ và bi vô giới hạn một cách tự nhiên. Tiến trình của Bồ Đề Tâm tương đối là làm cho chân tánh Bồ Đề Tâm hiển lộ ra. NT nói về hai khía cạnh này như sau: “Cái đầu tiên là nguyên nhân sâu xa của việc đạt được Phật Quả, và cái thứ hai là nguyên nhân do hoàn cảnh.”

143. NT giải thích rằng trước tiên ta phải cố gắng khơi dậy Bồ Đề Tâm chỉ trong một thời khắc ngắn ngủi nhất, rồi hai khắc, rồi ba khắc và hơn nữa...

144. Những hướng dẫn dựa trên kinh nghiệm, nyams khrid, là một phương pháp giảng dạy mà trước tiên, vị Thầy chỉ ban đôi chút giáo huấn cho đệ tử. Tiếp theo, người đệ tử đưa giáo huấn vào thực hành rồi trình bày kinh nghiệm mà mình chứng nghiệm được trong khi thực hành cho vị Thầy nghe (trình pháp). Sau đó Ngài sẽ tiếp tục khuyên dạy đệ tử hoặc ban cho một giáo huấn sâu xa hơn dựa trên căn bản đó, và cứ tiếp tục theo tiến trình đó trong một sự trao đổi liên tục…

145. Một sắc tướng của Bồ Tát Avalokitesvara (Quán Thế Âm), có màu trắng pha lê.

146. Phạn ngữ, usnisa: chỗ nhô lên trên đỉnh đầu (nhục kế) là một trong những tướng quý của một vị Phật. Trong trường hợp của Vua Mão Ngọc, tướng này đã hiện diện cho dù Ngài chưa là một vị Phật Toàn giác.

147. Năm pháp toàn thiện (ba la mật) đầu tiên có liên quan tới việc tích lũy “phước đức,” tuy nhiên những pháp toàn thiện đó vẫn thấm nhuần “trí tuệ.” Chính điều này giúp cho bố thí ba la mật và những ba la mật khác trở thành là những pháp “toàn thiện siêu việt” (“bát nhã ba la mật.”)

hoangtri
07-06-2017, 06:18 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


148. Những vị Bồ Tát đạt được quả vị siêu việt đã chứng ngộ tánh Không và có những ý hướng thanh tịnh và bao la, không phải là trường hợp của chúng sinh bình thường.

149. rang don, lợi ích của riêng ta hay tự lợi (AT: mục đích), ngụ ý ám chỉ sự hoàn toàn chứng ngộ tánh Không, Pháp Thân (dharmakaya), rồi từ đó Báo Thân và Hóa Thân mới hiển lộ nhờ có lòng bi mẫn để thành tựu gzhan don, tức là thành tựu lợi ích của những người khác hay lợi tha.

150. Xem Thuật Ngữ: hơi ấm.

151.Cây thuốc biểu tượng cho Bồ Đề Tâm, chữa lành mọi đau khổ của bản thân ta và những người khác.

152. Pháp môn cúng dường thân xác một cách tượng trưng, được giải thích trong Phần Hai, Chương Năm.

153. Điều này được giải thích trong Phần Một, Chương 4, mục III.

154. NT giải thích rằng những gì có thể bị huỷ hoại theo cách này chính là kết quả của những hành vi tốt lành, là những thiện nghiệp chỉ tạo ra công đức (bsod nams) -- nghĩa là những gì được thực hiện không nương vào ba phương pháp tối cao.

155. “Trì giới trong một ngày thì có giá trị hơn một trăm năm bố thí; vun bồi nhẫn nhục trong một ngày thì có giá trị hơn một trăm năm trì giới.” NT

156. Có lẽ họ là những đệ tử của một trong những phái Thanh Văn khi tin rằng không thực sự có sự hiện hữu của bản ngã (gang zag gi bdag med), nhưng họ lại không thừa nhận tánh Không toàn diện của chính sự hiện hữu chân thật của các hiện tượng (chos kyi bdag med).

157.Chính sự rộng mở vô biên của lòng từ và bi đối với tất cả chúng sinh là yếu tố cho phép tâm thức hoàn toàn mở ra trước cái bao la rộng lớn của quan điểm Đại Thừa.

158. Cũng xem chú thích 46.

159. “Tránh rơi vào một thái cực nào vì điều này sẽ gây ra những mệt mỏi quá mức, hoặc tránh thực hành một khổ hạnh nào thái quá vì điều này sẽ kết thúc cuộc đời bạn.” NT

hoangtri
07-06-2017, 06:21 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


160. “Ta trở nên càng lúc càng bám chấp vào những kinh nghiệm thiền định. Đây là kinh nghiệm về hỉ lạc, trong đó ta cảm thấy hạnh phúc mà không cần có lý do; kinh nghiệm về tánh sáng, khi sự vẩn đục của niệm tưởng đã lắng xuống và ta cảm thấy như một căn nhà trống không, không trong không ngoài; kinh nghiệm về vô niệm, trong đó, khi ta quán sát xem có niệm tưởng nào khởi lên hay không, ta có cảm tưởng rằng chẳng có gì xuất hiện. Ta vẫn chấp vào tính xác thực của một cái “tôi,” (gang zag gi bdag) bằng cách nghĩ tưởng về “kinh nghiệm của tôi.” Và ta cũng bám chấp vào tính xác thực của đối tượng (chos kyi bdag) bằng cách nghĩ rằng có những kinh nghiệm thực sự để bám víu. Điều này mâu thuẫn với việc nhận ra tánh Không của thực tại, là suối nguồn của giải thoát.” NT. Vào giai đoạn thiền định này, ta chỉ đạt được trạng thái an định (zhi gnas, Phạn ngữ: samatha, chỉ), chứ không có được kinh nghiệm nội quán sâu xa (lhag mthong, Phạn ngữ: vipasyana, quán).

161. Tư thế bảy điểm của Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) – mam snang chos bdun, bảy điểm của tư thế thiền định lý tưởng: chân xếp chéo theo tư thế kim cương (vajra), lưng thẳng, tay kết ấn thiền định, mắt nhìn hướng về đầu mũi, cằm hơi gấp vào, hai vai kéo ra sau “giống như cánh chim kên kên” và đầu lưỡi chạm vòm họng.

162. Việc giữ lưng thẳng cho phép năng lực vi tế (rlung) lưu thông tự do trong các kinh mạch vi tế (rtsa). Đây là một mối liên hệ mật thiết giữa cơ cấu vật lý vi tế này và những hoạt động của tâm. Người ta nói rằng tâm cưỡi trên năng lực này giống như một kỵ sĩ cưỡi ngựa.

163. Những pháp toàn thiện siêu việt của phương tiện (thabs), sức mạnh (stobs), nguyện lực (smon lam) và trí tuệ nguyên sơ (ye shes) được cộng thêm vào với sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật), làm thành mười pháp toàn thiện siêu việt (thập độ ba la mật).

164. Điều này có nghĩa là không đè nén các niệm tưởng mà cũng không chạy theo chúng, không cố ý biến đổi trạng thái tâm của ta hoặc cố đạt được một trạng thái thiền định đặc biệt. Theo một nghĩa nào đó thì mọi niệm tưởng mê lầm là những biến đổi của dòng tuôn chảy tự nhiên của Giác tánh.

165. Đó là không có gì để hổ thẹn khi đứng trước Tam Bảo.

166. Định là sự vắng bặt của những sao lãng. Nguồn mạch của sao lãng đến từ việc coi rằng các ảo tướng như thật có. Thiền định về những ảo tướng như chính là các Bổn Tôn (có nghĩa rằng đây là những hiển lộ của trí tuệ thanh tịnh chứ không có một thể chất nội tại) sẽ giúp ta tập trung tư tưởng, đạt được định.

167. nges shes, nghĩa đen: “những điều chắc chắn,” được dùng ở đây để chỉ những quan điểm cực đoan (biên kiến) như là chủ nghĩa vĩnh hằng và chủ nghĩa hư vô; hai chủ nghĩa này cho rằng các hiện tượng hoặc có hiện hữu, hoặc không hiện hữu một cách dứt khoát.

168. “Ở đây srid pa (vòng sinh tử luân hồi) ám chỉ bất kỳ những gì người ta tin là thật có và bị dính mắc vào đó.” DKR

hoangtri
07-06-2017, 06:32 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


169. Bởi kiến - là sự nhận biết hay trực nghiệm tánh Không - người nhận biết, cái được nhận biết và tiến trình nhận biết được xem như là không có bất kỳ thực chất nội tại nào. Tất cả chỉ xuất hiện như sự phô diễn huyễn hóa của Giác tánh, rỗng rang và chói sáng tự nhiên.

170. Sự hợp nhất của ảo tướng và tánh Không, Giác tánh và tánh Không, hỉ lạc và tánh Không, và tánh sáng (clarity) và tánh Không.

171.Điều này có nghĩa là hành động mà không bị đắm nhiễm các vọng niệm; có thể nhận biết ra được rằng người làm hành động, chính hành động đó, và đối tượng mà hành động đó hướng đến, cả ba đều hoàn toàn không có một thực chất nội tại.

172. Trước khi dấn mình vào pháp tu tập này, ta nên nhận lễ quán đảnh Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) từ một bậc nắm giữ dòng truyền thừa có đầy đủ phẩm hạnh. Nói chung, từ quan điểm này, chỉ nên thực hiện các pháp tu tiếp theo trong phần còn lại của bản văn này dưới sự dẫn dắt của một vị Thầy có phẩm hạnh.

173. Trong các pháp tu của Kim Cương Thừa, ta coi Bổn Tôn được quán tưởng như vị Thầy gốc của ta, Ngài đại diện cho tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Vajrasattva hay Kim Cang Tát Đỏa (Tây Tạng: rdo rje sems dpa’) là một vị Phật đặc biệt, như một vị Bồ Tát, Ngài đã phát thệ nguyện rằng bất kỳ ai trì tụng minh chú của Ngài sẽ tịnh hoá được mọi hành động xấu ác tiêu cực và những che chướng của họ. Danh hiệu của Ngài ám chỉ sự thuần tịnh không thể bị hủy diệt của chân tánh.

174. Angulimala là người đã được truyền cho một giáo lý sai lầm rằng ông ta sẽ được giải thoát bằng cách giết hại một ngàn người và thâu thập một ngón tay từ mỗi người do ông giết. Ông đã giết hại chín trăm chín mươi chín người, và khi đang trên đường đi giết mẹ mình cho đủ số một ngàn người thì gặp Đức Phật, và ông ta cố tình giết Ngài để thay thế. Do thần lực của Đức Phật mà ông không thể tấn công Ngài. Sau đó Đức Phật đã thuyết giảng cho ông và chuyển tâm ông hướng về Pháp.

175. Nanda là tiêu biểu cho loại người cực kỳ tham muốn đạt được giải thoát; Angulimala là điển hình của những người cực kỳ vô minh; Darsaka (tên khác của Ajatasatru, A Xà Thế) là điển hình của tánh cực kỳ thù nghịch; Sankara là điển hình của những người cực kỳ tham luyến và sân hận. Nanda và Angulimala trở thành những vị A La Hán, Darsaka trở thành một Bồ Tát, và Sankara được tái sinh trong một cõi Trời và kết quả là đạt được Kiến Đạo – con đường của cái thấy.

176. NT mô tả điều này như sự hỗ trợ bên ngoài.

177. NT mô tả quy y, phát khởi Bồ Đề tâm, và đặc biệt là lòng bi mẫn như sự hỗ trợ bên trong.

178. NT nói về sáu điều cần quán chiếu suy niệm trong khi phát tâm ân hận: 1) Thời gian: ân hận về tất cả mọi hành động tiêu cực mà ta đã làm từ vô thuỷ tới nay, trong đời này, trong một tháng đặc biệt, hay trong một ngày, trong chốc lát, và v.v... 2) Động lực: ân hận về tất cả mọi hành vi đã mắc phạm dưới thế lực của tham, sân và si. 3) Sự tích tụ: ân hận về bất kỳ những gì tiêu cực thuộc thân, khẩu, ý ta đã tích tụ. 4) Bản chất của hành động: ân hận về những hành động tự bản thân là tiêu cực (chẳng hạn như mười ác hạnh, năm hành vi có quả báo tức thời,v.v...) và những lỗi lầm đặc biệt, những vi phạm thệ nguyện của ta và v.v... 5) Đối tượng: ân hận về tất cả mọi tà hạnh, dù chúng được hướng đến sinh tử hay Niết Bàn. 6) Nghiệp (karma): ân hận về mọi hành vi ác hại và những sa ngã là những điều khiến ta có một thọ mạng ngắn ngủi, nhiều bệnh tật, nghèo túng, sợ hãi kẻ thù và lang thang không dứt trong các cõi thấp.

hoangtri
07-07-2017, 05:49 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


179. Việc in ấn và phát hành tài liệu kinh sách linh thiêng đều được xem như một pháp tu mạnh mẽ để tích lũy công đức và tịnh hoá những chướng ngại, với điều kiện là việc này được thực hiện một cách thanh tịnh như một pháp cúng dường không có chút tư lợi nào.

180. dag pa dran pa: Thành ngữ Tây Tạng này có nghĩa đen là “nhớ lại sự thuần tịnh.” Có nghĩa là mỗi yếu tố quán tưởng không chỉ đơn thuần là một hình ảnh mà đều mang một ý nghĩa đặc biệt, và khi thực hành thì ta cần giữ hiểu biết về những ý nghĩa này. Trong những đoạn tiếp theo sau đó, sẽ có những đoạn giảng giải về các yếu tố và ý nghĩa của pháp tu này liên quan tới bốn lực tịnh nghiệp như thế nào. Mặc dù ở đây chúng ta chỉ đang nói đến những pháp tu dự bị, nhưng nhiều vấn đề được đề cập tới trong chương này cũng hữu ích trong công phu hành trì chính yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu.

181. Trong phần thực hành chính yếu (xem Dẫn Nhập), ta thường tự quán tưởng mình trong sắc tướng của một Bổn Tôn. Ở đây trước tiên ta coi mình như người bình thường và bất tịnh, và nhờ tu tập thực hành mà ta trở nên thanh tịnh. Vì thế, lúc bắt đầu ta nghĩ tưởng thân mình như đang ở trong thân phàm (trong thân tướng bình thường hàng ngày).

182. ston pa: Danh hiệu phổ thông này của Đức Phật có nghĩa đen là “người khám phá” (Thế Gian Giải) và có nghĩa là vị Thầy giảng giải Pháp lần đầu tiên trong đại kiếp và thế giới này của chúng ta. Đức Kim Cang Tát Đoả là vị Thầy đầu tiên của nhiều truyền thống Kim Cương Thừa cũng giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng tạo ra Quả Thừa.

183. Ở đây chày và chuông tượng trưng cho phương tiện thiện xảo và trí tuệ.

184. Chuỗi hạt ngắn xuống tới ngực, chuỗi dài xuống tới rốn.

185. Nhân vật nữ tượng trưng cho trí tuệ, và nhân vật nam tượng trưng phương tiện thiện xảo; ở một khía cạnh khác thì nhân vật nữ tượng trưng tánh Không và nhân vật nam tượng trưng sắc tướng, hoặc các nhân vật này lại có thể tượng trưng Pháp giới tối thượng và trí tuệ nguyên sơ. Sự giao hợp của các Ngài biểu thị rằng trong trạng thái Giác Ngộ, tất cả những điều này được kinh nghiệm như là một sự bất khả phân.

186. Đây không phải là những kinh mạch vật chất mà là những đường kinh nhỏ trong đó các năng lực vi tế trong thân lưu thông. Tầm quan trọng của những kinh mạch này trở nên rõ ràng khi ta thực hành các pháp tu Du già của giai đoạn toàn thiện trong phần thực hành chính yếu.

187. Khi chất Cam lồ tràn ngập từng Luân xa, ta nhận lãnh một năng lực gia trì tương ứng, như đã được đề cập tới trong mỗi một pháp quán đảnh trong số bốn pháp quán đảnh trong đoạn này.

hoangtri
07-07-2017, 06:04 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


188. Nghĩa đen: “trạng thái hợp nhất siêu vượt cái học,” “sự hợp nhất” ám chỉ sự hợp nhất của sắc thân và Pháp Thân. Trong năm con đường tu của Bồ Tát, con đường siêu vượt cái học là con đường thứ năm, và ám chỉ trạng thái Phật Quả tối thượng.

189. Năm màu sắc này tượng trưng cho năm Phật Bộ, mỗi màu tượng trưng cho một khía cạnh đặc biệt của trí tuệ.

190. Ở đây, những từ dag và ma dag cũng có thể được hiểu trong phạm vi của việc trì tụng tất cả các âm tự của câu minh chú một cách đúng đắn hay ngược lại. Nhưng theo như giải thích trong đoạn theo sau nên hai từ này được dịch là “thuần tịnh” và “bất tịnh”.

191.bskyed rim gsal ‘debs, trước khi thực sự trì tụng câu minh chú thì phải tụng đọc phần mô tả hình ảnh quán tưởng và mô tả những tiến trình khác nhau của pháp thiền định. Đây là cấu trúc tiêu chuẩn của những nghi quỹ sadhana (sgrub thabs, nghĩa đen: phương tiện của sự thành tựu) được dùng cho của bất kỳ Bổn Tôn nào. Những nghi quỹ như thế không chỉ được sử dụng trong các buổi lễ cho một nhóm đông vì các mục đích đặc biệt, mà cá nhân có thể sử dụng để hành trì.

192.Việc sử dụng thuốc lá gây ô nhiễm hệ thống kinh mạch và ô nhiễm các năng lực vi tế và vì thế đưa đến một hậu quả tai hại trong tâm thức ở một mức độ sâu xa.

193. Đây là những từ ngữ của phần cúng dường trong nghi quỹ sadhana, và được lập lại sau khi trì tụng minh chú và trước khi kết thúc.
194. Hình ảnh này cho thấy về mặt nghiệp báo, việc sử dụng những vật cúng dường như thế thì rất nguy hiểm và có thể dẫn tới việc tái sinh trong các Địa ngục.

195.Khi ta đã nhận một quán đảnh, năng lực của công phu hành trì cần được duy trì bởi một thời công phu hằng ngày, ngay cả chỉ ngắn gọn. Ở đây các vị Lạt Ma đang hành trì các pháp tu như thế trong buổi lễ hơn là trong thời gian công phu riêng của các Ngài.

196. Ba Mạn đà la của thân, khẩu và ý của vị Thầy.

197.“Uống sức sống của bạn” có nghĩa là huỷ diệt sinh lực của bạn. Mật Thừa khiến ta tiếp xúc với chân tánh và những năng lực nền tảng nhất của ta. Nếu chúng ta giữ gìn các mật nguyện thì nhờ đó ta sẽ tiến bộ nhanh chóng. Còn nếu không, ta tạo nên một lực tự huỷ mạnh mẽ. Lực tự hủy này được gọi là “yêu quái kim cương” và đối ngược lại với các Bổn Tôn trí tuệ.

hoangtri
07-10-2017, 03:22 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


198. Hoàn toàn mắc phạm một sa ngã tối quan trọng nghĩa là vi phạm có chủ ý một trong những giới nguyện căn bản của Tăng đoàn, trong một tình huống lẽ ra có thể làm khác được.

199. Nghĩa là trong đó một nhân vật duy nhất là hiện thân của tất cả các Bổn Tôn. Điều này được giảng đầy đủ hơn trong chương Bổn Tôn Du Già (Guru Yoga).

200. Hai chi thuần tịnh là trước hết, đạt được sự thuần tịnh của Phật tánh, và sau đó đạt được sự thuần tịnh của việc đắc được Phật tánh và thành tựu Phật Quả. “Theo giáo lý của truyền thống Nyingma, bản tánh thuần tịnh nguyên sơ là Phật Quả và những phẩm tính của ba Thân đã an trú trọn vẹn trong chúng ta, và ta không cần tìm kiếm ở đâu khác. Nhưng nếu ta không vận dụng hai phương pháp (tích lũy phước tuệ) như những yếu tố hỗ trợ thì những phẩm tính này sẽ không hiển lộ được. Cũng giống như mặt trời: mặc dù tự thân những tia sáng của nó chiếu sáng bầu trời, nhưng vẫn cần phải xua tan những đám mây che khuất bầu trời.” NT

201. bsags sbyang rang sar dag kyang, nghĩa đen: “ngay cả khi chính tự hai pháp tích lũy công đức và tịnh hoá cũng đều là thuần tịnh.”

202. Những hướng dẫn tiếp theo sau đây đôi khi hoàn toàn có tính chất kỹ thuật và có dụng ý để bổ sung cho những giảng dạy khẩu truyền; thông thường, (trong phần khẩu truyền), có kèm theo phần trình bày (vị Thầy sẽ biểu diễn và chỉ cho cách làm).

203. Chúng ta cúng dường trong sự hiện diện của một Mạn đà la thành tựu. Đúng hơn, Mạn đà la này được sử dụng khi người ta có thể dùng một tượng Phật. Đây là biểu tượng của cõi Phật toàn hảo của năm vị Phật tượng trưng cho năm trí tuệ. Bởi đây là năm trí tuệ ta muốn thành tựu nên Mạn đà la này được gọi là Mạn đà la thành tựu.

204. Quy ước trong một Mạn đà la là: phía trước là phương Đông, phía sau là phương Tây, và v.v… Ở đây Mạn đà la được xoay đối diện với hành giả, vì thế nên cạnh phía Đông thì gần nhất.

205. Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (klong chen snying thig / Longchen Nyingtik) là một trong nhiều giáo lý Tâm-Yếu. Giáo lý tâm-yếu quan trọng nhất trong số đó là Tâm-Yếu của Thiên Nữ Trí Tuệ (Dakini) (mkha’ ’gro snying thig) và Tâm-Yếu của Vimalamitra (bi ma snying thig), được trao truyền cho Yeshe Tsogyal và Vimalamitra một cách tương ứng. Cả hai giáo lý này từng được truyền xuống qua dòng truyền thừa của Longchenpa.

206. Một “hàng rào sắt” được làm sẵn là một cái vòng, thường bằng kim loại mà người ta dùng để đựng tầng đầu tiên gồm những vật cúng dường Mạn đà la. Cái vòng này tượng trưng vòng núi bao quanh thế giới. Tiếp theo, một vòng thứ hai đựng các vật cúng dường gồm tám Thiên nữ và vòng thứ ba gồm mặt trời, mặt trăng v.v… Vật trang hoàng cho đỉnh Mạn đà la được đề cập tới sau này chỉ đơn giản là một vật trang hoàng có dáng một viên ngọc mà người ta đặt trên đỉnh vào lúc cuối. Những phẩm vật hỗ trợ này là những thứ thêm vào để giúp cho phần cúng dường thêm trang nghiêm mà nếu không có chúng thì việc cúng dường vẫn hoàn toàn đúng đắn.

hoangtri
07-10-2017, 03:29 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


207. Nếu bạn sắp đặt mạn đà la để phương Đông hướng về phía bạn thì khi tụng “Con xin cúng dường mạn đà la này...” bạn có thể xoay tròn mạn đà la đã đầy đủ để cuối cùng nó đối diện với mạn đà la thành tựu.

208. Bản văn giảng dạy căn bản cho các thực hành sơ bộ này là Luận Giải Về Pháp Tu Dự Bị của Giáo Lý Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí (Explanation of the Preliminary Practice of the Heart-Essence of the Vast Expanse) do ngài Jigme Lingpa soạn. Mỗi
yếu tố của mạn đà la có vài trình độ ý nghĩa khác nhau, tương ứng với các trình độ thực hành khác nhau.

209. Mặc dù phẩm vật cúng dường này còn bình thường hơn các mạn đà la tiếp theo, tuy nhiên đây là việc cúng dường một vũ trụ lý tưởng, như là những gì đã được các bậc tiến hoá rất cao đón nhận được trong các linh kiến thuần tịnh. Vũ trụ này không giống như vũ trụ hằng ngày tràn đầy đau khổ mà người phàm phu nhìn thấy qua tri kiến mê lầm.

210. mi mjed ’jig rten. Theo lời giảng dạy của DKR, có hàm ý của một cách đánh vần khác (mi ’byed, không bị chia chẻ) thì trong thế giới này, những cảm xúc có một sức mạnh kinh hồn nên chúng sinh không thể nào xa lìa được những xúc cảm đó.

211. bkod pa chen po lnga, nghĩa đen là năm sự sắp xếp vĩ đại. Đây là các cõi Phật của chư Phật trong năm Phật Bộ.

212. Giống như Ngài Milarepa ở những chốn hẻo lánh trong núi non nơi không có ai tiếp tế thực phẩm, và sống bằng cách ăn rau tầm ma.

213. Trong cách cúng dường mạn đà la đơn giản này, ta chỉ dùng bảy nhúm (tụ) hạt để tượng trưng cho Núi Tu Di, bốn trung châu, mặt trời và mặt trăng.

214. zhal zas: một thuật ngữ tôn kính để gọi thực phẩm. Trong trường hợp này, việc cúng dường thực phẩm được tượng trưng bởi một loại bánh cúng torma mang tên này.

215. Các ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động.

216. Việc tinh chiết các tinh chất (bcud len) là một phương pháp khiến ta có thể chỉ cần tiêu thụ một vài chất thể và nguyên tố với một số lượng nhỏ xíu mà không phải dùng thực phẩm thông thường. Đây là căn bản cho các pháp tu vi tế để tịnh hoá thân thể và tinh lọc tâm thức.

217. Đi lên hay đi xuống có thể được áp dụng cho những đặc tính của các đại kiếp khác nhau, hoặc ám chỉ một khung thời gian nhỏ bé hơn: ví dụ như thời đại hiện nay của chúng ta là một kỷ nguyên suy thoái so với thời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

218. Thuật ngữ được dùng ở đây cho thân thể là phung po, cũng ám chỉ các “uẩn”, có nghĩa là những thành phần tâm sinh lý tạo nên một cách tương thuộc cái mà ta cho là bản thân mình.

219. Mẹ: người nữ tức là trí tuệ hay tánh Không; được mô tả như mẹ của tất cả chư Phật bởi ta thành Phật khi chứng ngộ tánh Không.

220. ma cig khro ma nag mo, Phạn: Krodhakali.

hoangtri
07-11-2017, 03:54 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


221. Âm p’et (thường được phát âm là “pay” hay “pet”, mặc dù có nhiều biến cách) được hô lên một cách cộc lốc, cốt để cắt đứt tiến trình tạo tác của vọng niệm.

222. a thung được Patrul Rinpoche sử dụng ở đây so với a shad quen dùng hơn, nghĩa là “vạch của a,” là một đường vạch đơn giản, đậm ở một đầu và nhọn,( ) tạo thành một phần của mẫu tự A của Tây Tạng . Trong pháp thực hành này, đường vạch này nằm lộn ngược xuống, khiến nó có hình dáng của một ngọn lửa. Trong nhiều pháp môn, chữ hang cũng nằm lộn ngược, mặc dù điều đó không được đề cập tới trong bản văn này của chúng ta.

223. Chất cam lồ: Phạn: amrita, nghĩa đen: “kẻ bất tử,” được dịch sang tiếng Tây Tạng là bdud rtsi, chất cam lồ (rtsi) chiến thắng được ma quỷ (bdud) của cái chết. Đây là một biểu tượng của trí tuệ. Tinh khiết (zag med) có nghĩa là “không bị ô uế bởi những cảm xúc phiền não.”

224. dpal mgon bdun cu rtsa lnga, một vài vị Hộ Pháp trong số những Hộ Pháp danh tiếng nhất của Tây Tạng. Các Ngài được coi là các Hoá Thân của Mahakala.

225. Trong pháp môn này, lưỡi của chư Phật và Bồ Tát có hình dạng tượng trưng của phân nửa của chày kim cang, và tượng trưng cho thân trí tuệ bất hoại, chiếc lưỡi kéo dài thành một ống ánh sáng, tượng trưng khả năng đón nhận các phẩm vật cúng dường của các Ngài.

226. Nghĩa đen: “Món nợ cho các lâu đài ở trên và cho các cánh đồng bên dưới,” có nghĩa là món nợ chúng ta nợ những chúa công vì ta có được sự che chở của họ khi chúng ta làm những người thuê mướn (dưới quyền của họ), và món nợ chúng ta nợ các tá điền cho mùa màng mà ta đã nhận của họ khi chúng ta là những chúa công.

227. Bốn điều sau cùng này ám chỉ các thành tựu tâm linh.

228. Xem Phần Một, Chương Ba, Mục II.

229. snyems, nghĩa đen: tánh kiêu ngạo, tự phụ, được dùng trong chương này với nghĩa rất đặc biệt là bám chấp tin tưởng vào “cái tôi” (chấp ngã hay ngã mạn).

230. “Theo Quả Thừa, bốn ma quỷ gồm có: 1/ Ma quỷ thuộc các uẩn, phung po’i bdud, ám chỉ những gì phải chết hay hoại diệt. (Không có năm uẩn thì sẽ không có sự hỗ trợ, hay nền tảng, để cho những đau khổ của sinh tử luân hồi trổ sinh). 2/ Ma quỷ thuộc các cảm xúc tiêu cực, nyon mongs pa’i bdud, tức là tác nhân của cái chết. (Những cảm xúc này phát sinh từ sự bám chấp tin tưởng vào một bản ngã, gây nên các hành động tiêu cực. Hành động tiêu cực tạo ra nghiệp và do nghiệp mà chúng ta phải sinh ra và chết đi một cách bất lực). 3/ Ma quỷ thuộc Thần Chết, ‘chi bdag gi bdud, chính là cái chết hay sự hoại diệt. (Đó có nghĩa là cái chết được hiểu theo nghĩa thông thường, là cái gì chắc chắn phải xảy ra theo sau sự sinh ra đời. Một cách vi tế hơn, đây là sự vô thường xảy ra tự nhiên trong từng giây phút, và tự bản chất, sự kiện này rất là đau khổ.) 4/ Ma quỷ thuộc những đứa con trai của các vị Trời. lha’i bu yi bdud, là cái ngăn cản chúng ta đạt tới trạng thái an bình siêu vượt cái chết. (Trong khi thực hành, điều này ám chỉ sự phóng dật, các niệm tưởng tham đắm ngoại vật).

“Theo Mật Thừa, bốn ma quỷ là: 1/ Ma quỷ hữu hình: những sự vật và chúng sinh bên ngoài gây tác hại cho thân và tâm ta. 2/ Ma quỷ vô hình: tham, sân và si, và 84.000 loại cảm xúc tiêu cực phiền não gây nên mọi đau khổ của sinh tử luân hồi. 3/ Ma quỷ hả hê: có nghĩa là sự hả hê mà ta cảm thấy khi nghĩ rằng vị Thầy tâm linh của riêng mình, các giáo lý mình đã thọ nhận và các thực hành mình tham dự vào thì thật là khác biệt, và cho rằng các huynh đệ và tỉ muội Kim cương của mình thì siêu việt hơn của những người khác. Đặc biệt hơn nữa, đó còn là sự mê đắm mà người ta cảm thấy khi thành tựu “hơi ấm” hoặc thành tựu một năng lực nhỏ bé nhất của công phu hành trì. 4/ Ma quỷ chấp ngã mạn là gốc rễ của ba loại ma quỷ kia: đó là tin tưởng vào “tôi” và “của tôi;” sự tự phụ này khiến chúng ta nhận năm uẩn là “tôi” và “của tôi:” nếu ta tiêu diệt ma quỷ này, tất cả ma quỷ bên ngoài sẽ tự diệt mà không cần làm bất kỳ điều gì để tiêu diệt chúng.”

hoangtri
07-11-2017, 03:58 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


231. “Bà Mẹ Tôn Kính“ tức là Machik Labdron, là vị đang được nói đến trong đoạn trích dẫn này.

232. Thường diễn đạt Giáo Pháp một cách tượng trưng với một bài kệ bốn dòng.

233. Ta thường dùng thuật ngữ Phạn bởi vì dễ sử dụng hơn Tạng ngữ (bla ma’i rnal ’byor) hay Anh ngữ. Cũng như chỉ đơn giản muốn nói “tu tập dựa trên vị Thầy,” thì thuật ngữ có nghĩa là “hợp nhất với chân tánh của tâm Thầy.”

234. Trong triết học Phật Giáo, tánh Không được thiết lập trên căn bản của lý lẽ luận lý. Đây không phải là một sự đeo đuổi thuần tuý trí thức nhưng là một thực tập tâm linh, dùng ý niệm để bẻ gãy ý niệm.

235. dpe’i ye shes. Chẳng hạn như trong Anuyoga (A-Nậu Du Già), qua việc thực tập dựa vào các kinh mạch và năng lực (vi tế), ta kinh nghiệm đại lạc tánh Không, điều đó cho ta một biểu thị về hương vị của trí huệ nguyên sơ chân thật luôn luôn an trú trong ta nhưng ta không thể nhận ra. Đúng hơn, đây giống như là một bức tranh vẽ con voi khiến ta có thể nhận ra con voi thực sự. Trong Đại Viên Mãn, bản tánh của tâm, là trí huệ nguyên sơ chân thật, được trực chỉ (truyền đạt trực tiếp).

236. “Người ta nên coi Ngài như một vị Phật bằng cách nào? Theo Tiểu Thừa thì thậm chí không nhất thiết phải coi vị Thầy của mình là một người đặc biệt hay một vị Phật Độc Giác. Chỉ cần coi Thầy như một người bình thường có một số những phẩm hạnh nào đó là đủ. Đối với con đường Bồ Tát thì phải coi Ngài như một vị tu chứng đã đạt một trong những quả vị siêu việt, như Hoá Thân của một vị Phật hay ít nhất là một vị Bồ Tát đang ở trên con đường của công phu tích lũy (tshogs lam chen po).
Trong truyền thống của Đại Viên Mãn, sẽ không thích hợp nếu ta coi vị Thầy của mình như một người thông thái bình thường, như một A La Hán, như một Bồ Tát đang ở trên một trong những mức độ chứng đắc siêu việt, như Hoá Thân của một vị Phật, hoặc ngay cả như một Báo Thân. Ta phải coi Ngài như Pháp Thân. Nếu ta có thể nguyện cầu Ngài với một niềm tin bền bỉ tuyệt đối thì ta có thể khơi dậy trí tuệ của sự chứng ngộ sâu xa (tuệ giác) mà không cần nương vào những con đường tu nào khác.” NT

237. NT giảng chi tiết như sau: “Nếu ta có lòng quy ngưỡng để nhìn vị Thầy của ta như một vị Phật, tuệ giác sẽ phát sinh cho dù ta không thực hành các giai đoạn phát triển và thành tựu. Tân Phái Dịch Thuật cũng chia sẻ quan điểm này. Tuy nhiên, trong Mahayoga và Anuyoga, các giai đoạn phát triển và thành tựu là các pháp thực hành chính yếu. Nếu ta không có gì mâu thuẫn với vị Thầy cùng các bằng hữu tâm linh của ta, và ta hành trì bằng cách coi Thầy mình như là tinh túy của các Bổn Tôn thì sự thành tựu đã gần kề và năng lực gia trì sẽ tới một cách nhanh chóng.”

238. sgyu ma ngal gso, tác phẩm thứ ba trong Luận Giải Ba Phương Thức An Trú (ngal gso skor gsum) của Longchenpa. Chính Ngài Longchenpa giảng rằng tựa đề của trước tác này không chỉ được hiểu ở ý nghĩa đây là “tìm sự an trú từ ảo hoá,” mà cũng được hiểu là “tìm sự an trú trong ảo hoá,” – sự ảo hoá trong trường hợp sau được hiểu như đang ám chỉ một cách nhìn cho rằng mọi sự tựa hồ như được phô diễn một cách kỳ diệu, không có bất kỳ thực chất cố hữu nào.

hoangtri
07-11-2017, 04:02 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


239. Hoàn toàn quy phục chân tánh của trí tuệ do Thầy biểu hiện sẽ cho phép ta đón nhận được một sự truyền đạt trực tiếp của trí tuệ đó. Không có tiến trình quy phục này thì không thể buông bỏ sự chấp ngã được. Nguyên tắc này áp dụng cho tất cả các giai đoạn của con đường tu, nhưng nó trở nên mãnh liệt và dứt khoát hơn trong pháp Bổn Tôn Du Già. Hiệu quả của bất kỳ con đường tu nào cũng tuỳ thuộc vào phạm vi rộng lớn của sự quy phục theo cách được tiếp cận trong pháp Bổn Tôn Du Già này.

240. Sự hoà hợp của sắc tướng và tâm thức (snang sems ’dres pa) ám chỉ việc ta chứng ngộ được rằng tất cả mọi sắc tướng được sinh ra là do bởi sự tạo tác của tâm thức, và chân tánh của tâm là tánh Không; điều này đưa dẫn ta tới kinh nghiệm rằng mọi sự trong một cách thế nào đó, hoàn toàn siêu vượt bất kỳ một hiện tượng nhị nguyên chủ thể đối tượng nào, và có đặc điểm là ‘trần trụi’ và ‘sâu sắc’ (zang thal) không bị ngăn che. PWR

241. Đây là một hình thức của hiện tượng được gọi là thân cầu vồng (‘ja’ lus).

242. Pháp quán tưởng chính mình là một Bổn Tôn khiến ta vượt lên những giới hạn của các ý niệm quy ước tầm thường không chỉ về vị Thầy mà còn về bản thân ta. NT nói: “ Nếu quán tưởng chính mình trong sắc tướng tầm thường của ta, ý niệm này sẽ cản trở những năng lực gia trì đến với ta.” Cũng thế, ta quán tưởng chính mình trong một thân tướng nữ trong sự nối kết với thân tướng nam của Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche), như thế kết hợp các khía cạnh trí tuệ và phương tiện; và đặc biệt là bằng cách nghĩ tưởng mình có bản tánh của Yeshe Tsogyal, đệ tử tâm truyền nhất của Guru Rinpoche, ta tạo được một rten’brel (liên kết tương thuộc hay nối kết tốt lành) với mối liên hệ phi thường giữa Thầy và trò của các Ngài.

243. brtul zhugs kyi spyod pa: lối sống trái với thông lệ được những hành giả cao cấp nhất tuân theo như một phương tiện để minh chứng một cách xác quyết cái thấy (kiến) của các Ngài. “Khi đã vượt lên các hoạt động tầm thường, dấn thân vào những hoạt động phi thường.” DICT

244. Hươu nai là một biểu tượng của sự thanh bình. Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara) thường được miêu tả khoác miếng da hươu trên vai Ngài. Chiếc mũ này được tô điểm quanh viền bằng da một con hươu nhỏ.

245. Những năng lực mạnh mẽ kinh hồn ở những nơi như thế đem lại một sự thách thức mà các hành giả có thể sử dụng để đối diện với những sợ hãi của họ.

246. Một thán từ chỉ sự ngạc nhiên. “Kỳ diệu xiết bao! Sự thuần tịnh và bao la vô tận của các hiện tượng (các pháp hữu vi).” NT

247. Bài Nguyện Bảy Giòng (Thất chi nguyện) như sau:

Hum! Đản sanh ở Tây Bắc xứ Oddiyana
Trong nhụy một hoa sen,
Kỳ diệu thay, Ngài đã đạt được thành tựu siêu việt.
Ngài lừng danh là Đức Liên Hoa Sanh,
Giáo đoàn gồm nhiều Thiên Nữ Diệu Không (dakini) vây quanh.
Noi gương Ngài, con sẽ hoàn thiện bản thân -
Con khẩn nguyện Ngài, xin hãy đến và từ bi gia hộ.
Guru Padma Siddhi Hum.

Đây là bài cầu nguyện Đức Liên Hoa Sanh tôn kính nhất. Bài này có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau, và tự bài ấy cũng tạo thành một con đường tu trọn vẹn.

hoangtri
07-12-2017, 05:40 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


248.Để không cảm thấy rằng ta chỉ đang chế tác một sự quán tưởng giả tạo, ta mời thỉnh Đức Liên Hoa Sanh “thật” cùng giáo đoàn từ cõi Phật của Ngài là Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ. Những Bổn Tôn Trí Tuệ này (ye shes sems dpa’, Phạn: jnanasattva, trí tuệ tát đoả) tan hoà và gia trì cho các Bổn Tôn Mật Nguyện (dam tshig sems dpa’, nguyện tát đoả) mà chúng ta đã quán tưởng. Điều tương tự diễn ra đối với các cung điện và các yếu tố khác của cõi Phật (ở đây, tất cả các Bổn Tôn lẫn môi trường của các Ngài như cung điện, được bao gồm trong thuật ngữ tam tshig pa). Như chúng ta đã thấy, sự hiện diện của Đức Liên Hoa Sanh thì luôn luôn ở đó. Những phương tiện này dùng để phát triển niềm tin vững chắc về kinh nghiệm đó.

249. “Ẩn mật” bởi vì Đạo Sư Kim Cương có một khả năng tiềm tàng để có thể làm cho công đức của các hành nghiệp tăng trưởng. Đối với “ruộng công đức”, xem chú thích 112 và Thuật Ngữ.

250 “Có ba loại lễ lạy:
Loại lễ lạy cao nhất là ‘gặp được cái thấy.’ Lễ lạy với cái thấy có nghĩa là thấu hiểu rằng không có chủ thể, đối tượng hay hành động để sinh vọng tưởng.
Loại lễ lạy bậc trung được gọi là ‘tu tập trong thiền định.’ Trong cách tu tập này chúng ta quán tưởng đang hiện ra thành vô số thân người, mỗi thân đang hát tụng vô số bài ca tán thán. Ta có thể nghĩ tưởng rằng đây là một pháp tu của giai đoạn phát triển, nhưng không phải vậy, bởi vô số thân đã phát khởi là những thân tướng bình phàm, bất tịnh (và không phải là những Bổn Tôn).
Loại lễ lạy bình thường là ‘lễ lạy của lòng quy kính:’ lễ lạy bằng thân ta, tụng những bài cầu nguyện với ngữ của ta và kinh nghiệm lòng quy ngưỡng bằng tâm ta. Bởi lòng quy ngưỡng là một điều kiện tối quan trọng nên ta cần trì giữ phẩm hạnh của các đối tượng quy y bao la vô hạn trong tâm khi ta lễ lạy.” NT
Một cách lý tưởng, ta nên cố gắng kết hợp cái thấy của loại lễ lạy đầu tiên và pháp quán tưởng của loại thứ hai khi ta thực hành loại lễ lạy thứ ba.

251. Nói chung, “năm trăm ngàn pháp tu dự bị” muốn nói tới sự thuần thục của việc tụng bài nguyện quy y, bài nguyện Bồ Đề tâm, bài bách tự minh chú (minh chú trăm âm), cúng dường mạn đà la, và bài cầu nguyện của pháp Bổn Sư Du Già một trăm ngàn lần. Tuy nhiên, có những cách khác trong việc tính đếm năm pháp hành trì (bao gồm việc lễ lạy, ví dụ thế), và các bài trì tụng bổ sung thường được thêm vào cho năm pháp hành trì căn bản này.

252. Trong công phu hành trì, người ta thường tích lũy số lượng lễ lạy theo cách nằm dài toàn thân (toàn thân áp xuống đất).

253. Loại túi thường được dùng để vận chuyển bơ đã nhiễm đầy chất mỡ, vì thế một khi nó trở nên khô cứng thì việc thêm mỡ vào sẽ không ích lợi gì. Cũng thế, loại hành giả này nắm bắt giáo lý một cách thông tuệ, và trở nên lừ đừ, vô cảm, có cảm tưởng trước đó đã từng nghe tất cả các giáo lý nên việc nhận thêm giáo lý cũng sẽ không ảnh hưởng gì tới họ, mà chỉ khiến họ trở nên kiêu ngạo hơn nữa.

254. Nghĩa đen: “nền móng bằng vàng của thế giới,” là nền tảng của thế giới trong vũ trụ quan truyền thống. DKR gợi ý rằng trong giới hạn của vũ trụ quan hiện đại nơi đây thì có thể được coi như là tâm điểm của trái đất.

hoangtri
07-12-2017, 05:42 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


255. “Pháp cúng dường nên được dùng như một cách đối trị tâm bám luyến, tham lam.”

256. Một trong Tám Pháp Vương Tử (Tám Đại Bồ Tát) (xem Thuật Ngữ), khác biệt với Đức Phật bản nhiên Phổ Hiền.

257. “Pháp sám hối các hành vi tiêu cực là cách đối trị tánh ganh ghét.” NT

258. “Những việc đưa tới giải thoát” ám chỉ các thiện hạnh được làm trong khi áp dụng ba phương pháp siêu việt. Những hành động tích cực tốt lành khác chỉ dẫn tới các tái sinh tốt đẹp hơn.

259. Vài chi tiết được đưa ra trong NT: “Mọi suối nguồn công đức phát sinh từ chân lý tuyệt đối không bị ô nhiễm bởi các cảm xúc tiêu cực (zag med); mọi suối nguồn công đức phát sinh từ chân lý tương đối đều bị ô nhiễm (zag bcas). Mọi suối nguồn công đức được thành tựu trên các con đường tích lũy hai bồ công đức và nối kết thì đều bị ô nhiễm; mọi suối nguồn công đức thành tựu trên các con đường của cái thấy (kiến đạo) và thiền định thì không bị ô nhiễm. Mọi công phu tích lũy phước đức đều bị ô nhiễm; mọi công phu tích lũy trí tuệ thì không bị ô nhiễm.”

260. “Cách đối trị vô minh.” NT

261. NT mô tả điều này như cách đối trị tà kiến, và thêm rằng cầu nguyện sự trường thọ cho vị Thầy hay các huynh đệ và tỉ muội Kim Cương của ta là một pháp tu hết sức sâu xa quét sạch các chướng ngại đe dọa đời sống của riêng ta.
262. “Nhập Niết Bàn” trong mạch văn này ám chỉ rằng chư Phật hay Bồ Tát đang chấm dứt những hoạt động của các Ngài trong thế giới chúng ta, và vì thế chúng ta khẩn cầu các Ngài ở lại (trụ thế) và tiếp tục những công hạnh này vì lợi lạc của chúng sinh, như cư sĩ Cunda đã làm trong trường hợp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

263. “Cách đối trị sự bất quyết.” NT. Nếu không hồi hướng những hành động tích cực ta đã làm, ta không biết được chúng sẽ có kết quả ra sao.

264. Ví dụ như nếu ta thực hiện một hành động bác ái mà không đưa tác ý của ta vào với hồi hướng và nguyện lực, thì hành động đó được mô tả là “không có ý hướng” (lung ma bstan). Không rõ điều lợi lạc nào sẽ đến từ loại hành động này. Tuy nhiên ví dụ nếu ta phát sinh một ước nguyện, chẳng hạn như nguyện không bao giờ phải thiếu thốn những nhu yếu của đời sống trong khi thực hành Phật Pháp, thì hành động ấy có được một ý hướng chính xác và sẽ dẫn tới mục tiêu ao ước.

265. Ta có thể hồi hướng kết quả của một hành động tốt lành cho một người đặc biệt. Tuy nhiên, để hành vi đó thực sự có hiệu quả, ta nên hồi hướng quả lành cho tất cả chúng sinh kể cả người đó.

266. Từ Tây Tạng gsol ba ’debs pa ở đây, như trong hầu hết các trường hợp trong bản văn này, được dịch là “lời cầu nguyện” hay “khẩn nguyện.” Tuy nhiên, cũng nên được hiểu trong ý nghĩa sâu xa và rộng rãi nhất của từ Anh ngữ, và có lẽ với những ý nghĩa hơi khác nhau. Từ đó có nghĩa đen là đưa ra (‘debs) một sự thỉnh cầu (gsol), nhưng gsol cũng bao hàm sự hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi một điều gì đó không thể sai lầm, và ‘debs là một việc làm mạnh mẽ, quả quyết (PWR). Như vậy điều ấy còn ám chỉ thêm một tâm thái được cảm nhận - một tâm thái hoàn toàn xác quyết, cởi mở và tin cậy – chứ không ám chỉ riêng hình thức của sự thỉnh cầu; ta có thể hiểu ý nghĩa của lời cầu nguyện trong đoạn này bao hàm việc thọ nhận bốn quán đảnh.

hoangtri
07-12-2017, 05:45 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


267. “Điều phải được thành tựu là quả vị của bốn Kim Cương (vajra). Các kinh mạch được tịnh hoá là thân Kim Cương, hay Hoá Thân; các năng lực được tịnh hoá là ngữ Kim Cương hay Báo Thân; tâm được tịnh hoá là tâm Kim Cương hay Pháp Thân; chân tánh được tịnh hoá (của ba thân trên) là sự bất khả phân kim Cương hay Thân Tự Tánh.” NT

268. Thuật ngữ heruka thường được dùng cho các Bổn Tôn phẫn nộ, nhưng thực ra muốn nói tới bất kỳ sắc tướng nào tượng trưng cho bản tánh tối hậu của ta. “He tượng trưng cho Pháp Giới (có nghĩa là tánh Không), ka tượng trưng cho trí tuệ, và ru tượng trưng cho sự hợp nhất của hai cái trên” NT. Ý nghĩa của đoạn này trong bản văn là ý nghĩa trong bất kỳ pháp tu Kim Cương Thừa nào mà ta có thể hành trì, bản tánh của Bổn Tôn chính yếu bao giờ cũng là Thầy của riêng ta, do đó Ngài luôn luôn là trọng tâm tối yếu của lòng quy ngưỡng và là suối nguồn của các năng lực gia trì.

269. Sau sự hợp nhất của tinh tuý của mẹ và của cha lúc thụ thai, luân xa hoạt hiện được hình thành (luân xa này, hay cakra, có vị trí ở rốn khi thân thể được cấu tạo). Từ đó xuất hiện ba kinh mạch chính mà sau đó chia nhỏ thành hàng ngàn kinh mạch khác. Xem “kinh mạch” và “luân xa” trong Thuật Ngữ.

270. shes bya bum ‘jug, một trong những giáo huấn về pháp du già (yoga) giấc ngủ được tìm thấy trong giáo lý Đại Viên Mãn.

271. Ở mức độ này, dùng các tri kiến như con đường có nghĩa là kinh nghiệm những cái thấy đó mà không có bất kỳ ý niệm tạo tác nào về một thực tại nội tại của tri kiến hay của người đang có tri kiến. Sáu thức và những đối tượng của thức trở nên không thể nghĩ lường được, giống như không gian (Pháp Giới). Những thức này không tạo ra tham luyến nữa và do đó không còn là một nguồn mạch của đau khổ.

272. Pháp quán đảnh đưa ta tới giải thoát bằng cách giúp cho dòng tâm thức ta được thuần thục.

273. “Quán đảnh nền tảng là như sau. Nếu ta chứng ngộ bản tánh của tâm, là Phật tánh của ta, thì đó là ‘quán đảnh’ Niết Bàn. Nếu không chứng ngộ thì đó là ‘quán đảnh’ sinh tử. Trên con đường, quán đảnh gồm có ba yếu tố:

1) Quán đảnh nền tảng, trong đó ta được một vị Thầy tâm linh chân chính dẫn dắt ta vào trong mạn đà la của một vị Bổn Tôn. Vào lúc này, giỏi lắm là ta sẽ chứng ngộ được cái thấy (kiến) của quán đảnh viên mãn. Trong trường hợp trung bình, ta sẽ có kinh nghiệm về hỉ lạc, về tánh sáng và trạng thái vô niệm. Kém nhất thì ta cũng nên kinh nghiẹäm được một niềm tin vững chắc rằng thân, khẩu và ý của ta là ba Kim Cương, với một tâm thức không bị lung lạc bởi bất kỳ điều gì khác. Một lễ quán đảnh hay gia lực được thọ nhận trong cách thức này sẽ là một hỗ trợ cho con đường Kim Cương Thừa. Tuy nhiên, việc khẩn cầu thêm nhiều lễ quán đảnh nữa cho tới khi đầu ta bị dẹt đi (bởi những món đồ lễ đặt lên đỉnh đầú), trong khi tâm ta không tiến bộ chút nào thì không thể được xem như một quán đảnh chân thực.

2) Quán đảnh con đường. Một khi ta đã nhận quán đảnh nền tảng, thì bất kỳ quán đảnh nào được nhận sau đó, dù ta nhận từ vị Thầy nào khác hay nhận từ chính mình, đều là những quán đảnh trên con đường tu Kim Cương Thừa mà diệu dụng của các lễ ấy là chỉnh sửa và tịnh hoá.

3) Quán đảnh đạo quả là “quán đảnh đại tịnh quang,” quán đảnh này có được nhờ sự bất khả phân của nền tảng và tịnh quang, và nhờ năng lực trí tuệ của quán đảnh viên mãn. Quán đảnh đại tịnh quang có thể tiêu trừ mọi chướng ngại của các tập khí lâu đời, hoặc tiêu trừ các khuynh hướng của ba tri kiến của ta về tánh sáng, kinh nghiệm tăng trưởng, và kinh nghiệm thành tựu trong thời gian chuyển di (vào lúc chết).”

hoangtri
07-12-2017, 05:47 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


274. Các lễ quán đảnh giúp tịnh hoá những tham đắm của ta đối với ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới, hoàn thiện các phẩm tính của ba Thân (kaya) trong ta và làm chín muồi trí tuệ tịnh quang trong chúng ta.

275. Một tên khác của Núi Màu-Đồng Đỏ.

276. spangs rtogs, những phẩm hạnh của một vị Phật -giải thoát khỏi mọi chướng ngại mê lầm và tập khí, và chứng ngộ hai loại hiểu biết thấu suốt -- thấu suốt tất cả những gì phải thấu suốt và thấu suốt bản tánh của mọi hiện tượng và sự việc (vạn pháp).

277. Theo giáo lý Kim Cương Thừa, Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ khi Ngài xuất hiện trong thế giới và mọi hoạt động của Ngài chỉ là một sự phô diễn để giảng dạy cho chúng sinh.

278. Núi Malaya, hay Malayagiri (ri ma la ya), ở Sri Lanka và thường được coi ngang hàng với ngọn núi thiêng Sumanakuta, hiện nay được gọi là Đỉnh Adam, cũng là một nơi có dấu chân của Đức Phật và đã được đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) viếng thăm. Trong vài bài tường thuật, Núi Malaya được mô tả là “chói lọi với những tảng thiên thạch” (gnam lcag ’bar ba).

279. Năm Đấng Tuyệt Hảo Cao Quý Siêu Phàm (dam pa’i rigs can dra ma lnga) là một vị Trời (grags ldan mchog skyong, Phạn: Yasasvi Varapala), một naga (long, rồng) (klu rgyal ‘jog po, long vương Taksaka), một dạ xoa (skar mda’ gdong, Ulkamukha), một la sát (blo gros thabs ldan, Matyaupayika) và một con người (dri med grags pa, Ngài Vimalakirti); hoặc theo một vài nguồn tài liệu, vua Trời Đế Thích (Indra) (rig ‘dzin lha dbang rgyal sbyin) được đưa vào danh sách thay cho Vimalakirti.

280. mdo dgongs ‘dus, cũng được biết là ‘dus pa mdo. Mặc dù được gọi là một Kinh văn (sutra), thực ra bản văn này là một trong bốn Mật điển gốc của Anuyoga. Kinh văn này được La Sát Matyaupayika ghi lại trong chất khoáng beryl nấu chảy.

281. rgyud gsang ba’i snying po, Phạn: Guhyagarbha, ở đây được gọi là Mật điển Bí Mật Huy Hoàng (dpal gsang ba’i rgyud).

282. Câu chuyện của Garab Dorje được kể trong đoạn kế. Mặc dù Ngài có gốc gác Ấn Độ, chúng tôi giữ nguyên tên Tây Tạng của Ngài, bởi trong truyền thống Tây Tạng, tên tiếng Phạn (Pramodavajra hoặc Prahevajra) của Ngài ít được dùng tới, và tên Tây Tạng của Ngài thì có vẻ quen thuộc với độc giả hơn.

283. Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), rdo rje sems dpa’: rdo rje sems có nghĩa là tâm Kim Cương, và ở đây Vajrasattva có thể được hiểu trong ý nghĩa tuyệt đối của Giác tánh nguyên sơ (rig pa) bất hoại.

284. rgyal thabs spyi lugs: pháp quán đảnh không có bất kỳ tiến trình hữu hình hay nghi lễ nào, chỉ đơn giản là sự trao truyền đầy đủ và trạng thái Giác Ngộ tức thời từ tâm qua tâm. spyi lugs, “rót,” ám chỉ sự trao truyền trực tiếp này, trong khi rgyal thabs, “phương tiện của các Đấng Chiến Thắng,” có thể được hiểu là ám chỉ cho Phật Quả và, như một ẩn dụ, cũng ám chỉ vương quyền được ban cho, như do một vị vua truyền cho người kế tục.

hoangtri
07-13-2017, 03:29 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


285. yang sprul: “Hoá Thân của một Hoá Thân” vì Garab Dorje là một Hoá Thân của đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), mà chính Kim Cang Tát Đỏa lại là Hoá Thân của đức Phật Phổ Hiền (Samantabhadra).

286. Bản văn có một cách giải thích khác, ma brtsol nghĩa là “không dụng công.” Tuy nhiên cả hai có nghĩa là không có sự tạo tác hay vận dụng trong tâm thức. ZR

287. byang sems rdo la gser zhun.

288. Nyatri Tsenpo được tôn phong trong thung lũng Yarlung, một trong bảy lãnh địa nhỏ ở trung tâm Tây Tạng, có lẽ vào thế kỷ thứ hai hay thứ ba trước Công nguyên. (HIST cho là năm 247 trước Công nguyên). Dòng dõi của Ngài trở nên nổi danh là triều đại Chogyal, và về sau dần dần nắm được quyền kiểm soát một phần trọng yếu của xứ sở.

289. Lha-Thothori Nyentsen (374-? sau Công nguyên) là vị vua thứ 28 của triều đại Chogyal, và sự kiện mô tả được cho là xảy ra vào năm 433 sau Công nguyên. Những niên đại này được cung cấp trong DICT và bởi Dudjum Rinpoche trong HIST, trong tác phẩm này Ngài nói thêm rằng một biến thể của câu chuyện, theo đó Kinh và các linh vật khác được mô tả là đã được những học giả thăm viếng Ấn Độ mang tới Tây Tạng. Câu truyện biến thể này cũng có thể rất xác thực.

290. Danh hiệu có nghĩa là “viên ngọc như ý.” Để có thêm chi tiết, xin coi HIST.

291. mdo sde za ma tog bkod pa (Phạn: Aryakarandavyuha sutra), một bản thảo về Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara được tìm thấy trong Mani Kahbum của vua Songtsen Gampo).

292. dpang skong phyag brgya pa’i mdo (Phạn: Saksipuranasudrakanama sutra).

293. Niên đại cuộc đời Ngài Songtsen Gampo thường được cho là vào khoảng 609-698, nhưng theo Gendun Chophel thì là 617-650 (xem Biên Niên Bạch Sử trang 13). HIST cũng cho là Ngài sinh năm 617, trong khi các tác giả khác thì cho là năm 629.

294. gtsug lag khang hay điện thờ trung tâm ở Lhasa, Rasa Trulnang, ngày nay được gọi là Jokhang, có thể chỉ được xây dựng trên những vị trí quan trọng được tiên đoán quanh Tây Tạng và những vùng biên giới sau khi bốn điện thờ Thadul (mtha’ ‘dul) hay Thuần Hóa Biên Địa và bốn điện thờ Yangdul (yang’dul) hay Thuần Hoá Ngoại Biên, cùng những điện thờ khác đã được xây cất. Để biết chi tiết câu chuyện và các vị trí, xin xem HIST, quyển 1, trang 510 và các chú thích.

295. Công chúa Văn Thành (Wen-Ch’eng Kung-chu), (người Tây Tạng gọi là Kongjo) là con gái của Hoàng đế Đường Thái Tông đời Đường. Pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi, và từng được một vị vua là Phật tử xứ Bengal tặng cho Hoàng đế Trung Hoa; điện Ramoche được xây năm 641 để an vị pho tượng này nhưng về sau được di chuyển sang điện Rasa Trulnang (Jokhang), là nơi hiện nay có tượng Jowo Rinpoche nổi danh. Hoàng hậu Tritsun là con gái vua Amsuvarman xứ Nepal; pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tám tuổi hiện thờ trong Điện Ramoche.

hoangtri
07-13-2017, 03:31 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


296. Truyền thuyết kể lại rằng pho tượng này (nay vẫn có thể thấy trong điện Potala ở Lhasa) được tạc từ gỗ cây đàn hương thân tròn trong đó người ta tìm thấy năm hình ảnh.

297. Theo DICT, hầu hết các học giả cho rằng niên đại của Trisong Detsen là 790-844, mặc dù theo Buton thì Ngài sinh năm 718 và theo quyển Baikar Yasel thì là năm 730. Xin coi chú thích 301 về những vấn đề niên đại trong thời kỳ này.

298. sa ‘dul: một nghi lễ để tịnh hoá đất đai và chế ngự những thế lực của đất ở nơi đó, trước khi xây dựng một dinh thự.

299. Ngài có thể đương đầu với mọi tình huống xuyên qua cái thấy tối hậu. ZR

300. Stupa (tháp) tại Bodhnath, Nepal. Xem Phần Hai, Chương Hai, Mục I và chú thích 129.

301. Theo Khetsun Zangpo Rinpoche, niên đại trong việc xây dựng Samye như sau: Năm 797, Khenpo Santaraksita cúng đất. Năm 798 Ngài bố trí nền móng. Năm 802, Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) rời Ấn Độ, tới Samye năm 809. Năm 810 Ngài cúng đất lần nữa, và năm 811 bố trí lại đá móng. Năm 814, Samye hoàn tất. Niên đại tương tự được đưa ra trong HIST nhưng với lời chú giải là cũng có thể mọi việc xảy ra ít hơn cách tính truyền thống một chu kỳ sáu mươi năm giữa 790 và 953; nói cách khác, có lẽ tất cả những niên đại này nên được điều chỉnh lại bằng cách trừ đi sáu mươi năm.

302. Ba yếu tố của giáo lý Đại Viên Mãn (shan ‘byed, la bzla ba, rang grol).

303. Những cuộn giấy nhỏ trên đó những biểu tượng được viết ra mà từ đó các vị khám phá kho tàng tâm linh có thể phát lộ toàn bộ một giáo lý hay giáo khoá. Xem Tulku Thondup, Giáo Lý Ẩn Tàng Của Tây Tạng.

304. Ba dòng truyền thừa của sự truyền dạy “dài” bka’ ma là dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng (rgyal ba dgongs pa’i brgyud), dòng truyền thừa qua biểu tượng của các bậc Minh Trì Vidyadhara (rig ‘dzin brda’i brgyud) và dòng truyền qua sự lắng nghe của chúng sinh bình thường (gang zag snyan brgyud). Sáu dòng truyền thừa “ngắn” gter ma hay sự truyền dạy các kho tàng tâm linh cũng chính là ba dòng truyền thừa được quán đảnh do cầu nguyện (smon lam dbang bskur ba’i brgyud), dòng niêm phong và giao phó cho các vị Không Hành nữ (dakini) (mka’ ‘gro gtad rgya’i brgyud), và dòng kế thừa được phó chúc theo tiên tri (bka’ bab lung bstan gyi brgyud). Trong đoạn này, Patrul Rinpoche mô tả vắn tắt sự liên tục của ba dòng sau cùng này, là những dòng đặc trưng đối với các kho tàng tâm linh. “Việc niêm phong và giao phó cho các Không Hành nữ (dakini)” tương ứng với việc cất dấu kho tàng trên thực tế. Để có thêm chi tiết, xin coi HIST quyển I, trang 745. Việc sở hữu “chín” sự truyền dạy ám chỉ các dòng truyền thừa bao gồm bka’ma (ba) và gter ma (sáu) phương pháp truyền dạy.

305. Tất cả những Đạo Sư này sống trước thời Jigme Lingpa rất lâu. Ngài gặp các Đạo Sư này và nhận giáo lý chi tiết từ các Ngài trong các linh kiến. Ngài được biết đến là người có một hiểu biết phi thường thọ nhận được qua linh kiến cho dù Ngài đã không phải nhọc công chút nào trong việc học hỏi nghiên cứu.

306.Vajradhara (rdo rje ‘chang) có nghĩa là “Bậc trì giữ Kim Cương” (Kim Cương Trì). Vị Thầy nắm giữ chìa khoá để đi vào bản tánh bất hoại của ta. Điều này thường được dùng như một cách hết sức tôn kính khi nói tới một bậc Thầy vĩ đại.

hoangtri
07-13-2017, 03:33 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


307. Dòng đầu của câu tục ngữ này, mgo ma tshos gong lce snyabs, có thể được hiểu theo nghĩa đen là để ám chỉ rằng không nên nếm một cái đầu đang được nấu cho tới khi nó sẵn sàng (việc nấu đầu những con trâu yak hay bò được phổ biến ở Tây Tạng, đặc biệt là trong những người chăn cừu du mục). Tuy nhiên, ‘thè lưỡi ra’ có thể ngụ ý biểu lộ sự đồng ý hay bằng lòng, và ‘đầu được nấu’ thì đôi khi được dùng như một sự tiên tri về sự thấu suốt. Như vậy, theo một cách dịch khác – nếu như kém màu sắc hơn – sẽ là “chấp nhận trước khi bạn có được sự thấu hiểu.”

308. “Pháp chuyển di siêu việt được thực hành bởi chư Bồ Tát, là những vị đã thiền định về chân lý của chân như hay thực tại tuyệt đối (chos nyid kyi bden pa) trên Kiến Đạo (Path of Seeing), là những bậc mà ngay trong đời này, đã phát sinh được một cái nhìn đúng đắn về bản tánh bất biến của chân như (gnas lugs) và giữ gìn cái nhìn đúng đắn đó suốt ngày đêm không gián đoạn. Các Ngài thực hành pháp chuyển di theo những giáo huấn cốt tủy về pháp chuyển di từ thân này (grong ‘pho) sang thân khác (grong ‘jug) theo pháp môn hành trì trekcho, hoặc theo các giáo huấn ‘đi vào bên trong thanh tịnh quang’ của pháp môn hành trì thogal.
“Rồi có những người trì giữ mật nguyện rất trong sạch, là những người làm chủ được sự tỉnh giác nhưng chỉ điều phục được tri giác của họ vào ban ngày, và không thể kiểm soát được tri giác của họ vào ban đêm. Khi họ chết và tiến trình tan rã cũng như các hiện tượng của ‘tánh sáng, tăng trưởng, và thành tựu” xảy ra, thì thanh tịnh quang của thân tuyệt đối vào lúc chết xuất hiện. Đó là thanh tịnh quang “mẹ”, là giây phút xuất hiện của (thức) nền tảng. Họ được dẫn dắt bởi thanh tịnh quang “con”, là kinh nghiệm tịnh quang mà họ đã được kinh nghiệm trong đời này. Khi hai thanh tịnh quang gặp nhau thì họ được giải thoát trong (thức) nền tảng nguyên sơ, thuần tịnh.
“Có những người đã bắt đầu có được những kinh nghiệm về ‘sự phát triển kinh nghiệm và huyễn tướng’ trong pháp hành trì thogal. Vào lúc chết, khi thanh tịnh quang của thời điểm chết xuất hiện, họ không nhận ra được tịnh quang bởi họ không có sự chứng ngộ để nhận ra điều đó, và không thể được giải thoát. Nhưng khi trạng thái trung gian (trung ấm) của chân tánh của thực tại (chos nyid bar do) xuất hiện, họ nhận ra được chân tánh và an trú trong sự nhất như và nhờ đó, được giải thoát trong sự hiển lộ tự nhiên (của chân như).
“Cả hai phương thức giải thoát: giải thoát siêu việt trong đời này và giải thoát trung bình trong giai đoạn trung ấm đều được coi là sự chuyển di siêu việt qua dấu ấn của Pháp Thân. (Cũng xem chú thích 314).

hoangtri
07-13-2017, 03:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


309. “Pháp chuyển di trung bình được thực hành bởi những người bắt đầu có được trí tuệ ba la mật của giai đoạn toàn thiện. Sau khi đạt được một trình độ trong sáng của con đường hợp nhất, họ phát sinh trí tuệ của con đường đó và có khả năng nhập vào và lìa bỏ một huyễn thân. Một cách khác, họ bắt đầu có được những chứng ngộ nào đó về một sự hiển lộ thanh tịnh (rtsal nang), về sự hợp nhất bất khả phân của hai khía cạnh phát triển
(generation) và toàn thiện (perfection) của các Bổn Tôn và đã tự quen thuộc với sự biểu hiện này. Vào lúc chết, như ở trong lúc tan rã của trong giai đoạn phát triển, họ hòa tan huyễn thân vào thanh tịnh quang. Nếu trong đời này họ đã từng phát triển thanh tịnh quang rạng ngời (dpe’i ‘od gsal), thì họ sẽ nhận ra được thanh tịnh quang tối thượng trong trạng thái trung ấm, và kết quả là họ sẽ hiện ra trong thân của vị Bổn Tôn, là đại ấn của sự hợp nhất, tuy rằng điều này chưa siêu vượt được yếu tố của việc nghiên cứu học hỏi (slob pa’i zung ‘jug phyag rgya chenpo).” NT
zung ‘jug yeshes kyi sku (Phạn. Yuganaddha-Jnanakaya), “Thân trí tuệ hợp nhất,” là sự hợp nhất của sắc thân và Pháp Thân, hay nói khác đi là sự bất khả phân của huyễn tướng và tánh Không, hoặc của giai đoạn phát triển và toàn thiện. “Sự hợp nhất” (zung ‘jug) có nghĩa là sự nhận thức ra được hai khía cạnh này của chân tánh của thực tại, không phải là hai điều tách biệt, giống như hai sừng của một con bò, nhưng hoàn toàn bất khả phân.

310. Pháp chuyển di này được thực hành bởi những người mới bắt đầu trên con đường vun bồi công đức, là những người đã nhận quán đảnh, tôn trọng các mật nguyện và có một sự hiểu biết thấu suốt về cái thấy (kiến). Pháp này cũng được thực hành bởiø những người sử dụng giai đoạn phát triển như con đường tu nhưng chưa thuần thục. Mặc dù họ không thể được giải thoát trong thanh tịnh quang vào giây phút lìa đời hay trong trạng thái trung ấm của chân tánh, nhưng họ có thể đóng lại con đường dẫn đến một tử cung nào không thuận lợi, và chọn một tái sinh thuận lợi. Nhờ lòng bi mẫn và Bồ Đề Tâm của họ, họ được dẫn dắt tới một cõi Phật thanh tịnh, hay tái sinh như một Hóa Thân (xem Thuật Ngữ) từ những bậc cha mẹ đang thực hành Giáo Pháp. Họ sẽ được giải thoát trong đời kế tiếp.

311.Pháp chuyển di thông thường được thực hành bởi những người sơ cơ chỉ có lòng quy ngưỡng chí thành vào Giáo Pháp và đã không có được dấu hiệu thành công nào trên con đường tu để có thể tự tiên đoán được việc giải thoát của họ.

312.Lúc hơi thở đã ngừng nhưng trái tim vẫn chưa ngưng đập

313.Đây là trường hợp nếu ta không có năng lực trí tuệ cần thiết. Một cách giải thích khác có nghĩa đây không phải là cách thích hợp để trợ giúp cho người chết.

314.mkha’ spyod gnas su khrid par byed. Điều này không nên được hiểu theo một cái nhìn quá duy vật. “Trong thực tế, không có điều gì và không ai dẫn dắt hay được dẫn dắt. Đây chỉ đơn giản là sự hội tụ của tịnh quang ‘mẹ’ và ‘con’.” DKR. Thanh tịnh quang ‘mẹ’ là chân tánh căn bản của chúng ta và chân tánh này nằm ngay trong tất cả mọi chúng sinh, là điều mà vị Thầy đã giới thiệu cho chúng ta. Thanh tịnh quang ‘con’ là sự tương tục của việc nhận ra bản tánh đó là việc mà chúng ta đã nuôi dưỡng trong công phu thực hành của mình. (Cũng xem chú thích 308).

hoangtri
07-13-2017, 03:36 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


315.Những thành phần của thân thể có thể được tập hợp lại thành bốn (đôi khi là năm) yếu tố bên trong (khams): 1) thịt, 2) máu, 3) nhiệt, 4) hơi thở hay năng lực (rlung), (và trong một số luận thư y khoa, dù không có ở đây là 5) các xoang). Những yếu tố này tương ứng với bốn (hay năm) yếu tố bên ngoài là: 1) đất, 2) nước, 3) lửa và 4) gió hay khí (cũng là rlung), (và trong nhiều trường hợp 5. hư không). Cả hai yếu tố bên ngoài và bên trong được hiểu rõ nhất như là những đặc tính hay những trạng thái của cả hai thế giới bên ngoài và những thành phần của thân thể bên trong, gồm có trạng thái đặc chắc, trạng thái lỏng, nhiệt độ, sự chuyển động và chức năng. Những kinh nghiệm được mô tả đã xảy ra khi mà những đặc tính (trong những vai trò đặc biệt như là những thành phần cấu thành một cơ thể sống động) bị hư hoại, và những đặc tính này lại hòa nhập hay “phân rã” trở lại vào trong một tổng thể bao la hơn.

316.“Vào thời điểm của tánh sáng, ý thức của năm cánh cửa (của các giác quan) (sgo lnga’i shes pa) tan hòa trong tâm thức (yid shes). Vào giai đoạn tăng trưởng, tâm thức tan hòa vào trong tâm của các cảm xúc (nyon yid). Vào lúc thành tựu, tâm của các cảm xúc tan hoà vào thức nền tảng (kun gzhi). Khi ta phục hồi được ý thức (thời điểm được gọi là cận kề sự thành tựu), thì thức nền tảng tan hòa vào thanh tịnh quang.” NT. Vào lúc này có một kinh nghiệm trực tiếp của thanh tịnh quang nền tảng. Với những người đã chứng ngộ được phần nào chân tánh của thức nền tảng đó như là Pháp Thân và từng nắm vững được nhận thức đó, thì ngay lúc này, khi thanh tịnh quang mẹ và con hội tụ, sẽ là một cơ hội để có thể đạt được giải thoát tức thời. Đối với phần lớn mọi người, giây khắc này vụt qua không thể nhận ra, nhanh như một ánh chớp.

317.Họ không có được sự vững chãi không gì lay chuyển được trong công phu hành trì, và không có được niềm tin bất thối chuyển về chánh kiến (một cái thấy chân chính); đây là những yếu tố cần thiết để có thể thực hành những pháp chuyển di như đã mô tả ở trên.

318.Ở đây, đối với “thân phàm,” thay vì thuật ngữ tha mal lus thường được sử dụng trong những chỉ dạy về quán tưởng, thì bản văn này dùng thuật ngữ gzhi lus, nghĩa đen là thân “căn bản” hay “nền tảng.” Trong những thuật ngữ nói chung, ý nghĩa cũng tương tự – thân phàm của ta – nhưng cũng có hàm ý là thân phàm của chúng ta thì cũng huyễn hoá. Còn bar do’i sgyu lus, “thân huyễn hoá của trạng thái trung ấm,” nền tảng hay căn bản của mọi kinh nghiệm huyễn hoá mà chúng ta đang trải qua trong cuộc đời hiện tại này – thân ấy không khác gì trạng thái trung ấm của giai đoạn hình thành (srid pa’i bar do), và chính thân ấy cũng là một trạng thái trung ấm (skye gnas bar do). PWR. Xem Thuật Ngữ ‘trạng thái trung ấm.’

319.Ở đây thuật ngữ này có thể được hiểu đơn giản là tâm thức của ta. ZR

320.Ở đây thành ngữ này có nghĩa là một vị Phật.

hoangtri
07-13-2017, 03:40 PM
Lời vàng của thầy tôi
CHÚ THÍCH
__________________________________________________ ______________________________________


321.“Người ta muốn nói gì qua từ năng lực (rlung được tượng trưng bởi giọt tinh chất bindu xanh lục) và tâm (sems được tượng trưng bởi chủng tử tự hrih)? Khía cạnh chuyển động chính là năng lực và khía cạnh thấu biết chính là tâm thức, nhưng tự bản chất thì năng lực và tâm thức chỉ là một và đồng nhất.” NT

322. Một vị tôn giả đã khám phá được những kho tàng tâm linh ở thế kỷ thứ 14.

323.mkha spyod: nói chung, là một cõi Trời. Ở đây một cõi Trời “vĩ đại” (mkha spyod chen po) được ám chỉ như thế có nghĩa là một loại cõi Phật, được hiển lộ vì lợi ích của chúng sinh. Một cõi Trời “nhỏ” (mkha spyod chung ngu) có thể ám chỉ bất kỳ cõi Trời nào. (Cũng xem chú thích 314.)

324.gnam chos. Namcho hay Giáo Lý Hư Không là một tuyển tập giáo lý mười ba cuốn mà Ngài Mingyur Dorje, là một vị khai quật tàng kinh trứ danh, đã thọ nhận được trong một loạt các linh kiến. Mingyur Dorje sinh năm 1645 và tịch năm 1668 lúc hai mươi ba tuổi. Dòng Namcho là một trong những truyền thống tu tập chính yếu của các tu viện Nyingma thuộc phái Palyul và Kathok ở miền Đông Tây Tạng.

325.Những chướng ngại như thế phát sinh chủ yếu do kỹ thuật sai lạc khi hô tiếng “Hik” trong pháp môn này. “Hik là một âm thanh làm rút ngắn thọ mạng. Khi sử dụng âm thanh này, ta phải kéo hơi xuống dưới rốn, kéo dài khí của phần trên cơ thể và nhướng mắt thật mạnh mẽ nhìn vào không gian. Nếu các chướng ngại xuất hiện, hãy nén khí ở trên xuống, xả khí ở dưới và trải rộng khí tại rốn, và trì tụng ba âm Kim Cương (om ah hum, phối hợp với sự hít vào, nín hơi, và thở ra), tập trung tâm bạn vào lòng bàn chân và mắt nhìn xuống dưới. Các chướng ngại sẽ biến mất.” NT

326.Những pháp tu dự bị cho “Đạo và Quảû” (lam ‘bras) của truyền thống Sakya được đặt nền tảng trên ba loại tri giác (snang ba gsum): tri giác bất tịnh (ma dag pa’i snang ba), tri giác hỗn hợp được các hành giả kinh nghiệm qua các pháp thực hành (mal ‘byor nyams kyi snang ba), và tri giác thanh tịnh (dag pa’i snang ba).

327.Như trong “Đại Thừa Tối Thượng Luận” (rgyud bla ma, Phạn ngữ: Uttaratantrasastra) và những bản văn khác. ZR

328.Tây Tạng: rig pa rtsal gyi dbang bskur.

329.Kushab Gemang, Gyalse Shenpen Thaye hay Gyalse Rigpa’i Dorje (sinh năm 1800), là một trong những vị nắm giữ dòng truyền thừa chính yếu của giáo lý Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí.

330.Changchub Dorje (1745–1821), cũng được biết là Jigme Trinle Ozer, là vị Dodrupchen Rinpoche đệ nhất, một trong những đệ tử chính của Jigme Lingpa, và là người đã từ bi gia hộ cho Patrul Rinpoche khi còn bé.

331.Orgyen Jigme Chokyi Wangpo là tên riêng của Ngài Patrul Rinpoche. Lời tự khẩn nguyện trong đoạn này noi theo một hình thức truyền thống. Tuy nhiên lời nguyện này có một sức mạnh đặc biệt phát xuất từ Ngài Patrul Rinpoche, là một người đã cho ta thấy một sự khiêm cung tương tự, toát ra từ trong cách sống của Ngài.

332. Jamgon Kongtrul Vĩ Đại (xem Thuật Ngữ) là một vị Đạo Sư cùng thời với Ngài Patrul Rinpoche và Jamyang Khyentse Wangpo; cả ba vị đều biết nhau rất rõ, cùng học vào lúc thiếu thời tại tu viện Shechen ở tỉnh Kham. Ngài là nhà trước tác trứ danh, đã biên soạn và biên tập nhiều tác phẩm, và Ngài đã viết thêm lời bạt này sau khi hiệu đính theo đúng nguyên văn trong nguyên cảo của Patrul Rinpoche, trong khi tài liệu này đang được chuẩn bị in bản khắc gỗ tại nhà in lớn ở Derge.

333. Sáu phương cách để đạt được giải thoát (grol ba drug): qua sự nhìn thấy, lắng nghe, hồi nhớ, xúc chạm, nếm vị và trang phục.

hoangtri
07-14-2017, 08:32 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________



THUẬT NGỮ


A La Hán (Arhat) – dgra bcom pa. Trở thành một A La Hán là mục đích cuối cùng của Thanh Văn Thừa. Đây là một loại Niết Bàn, siêu vượt sinh tử (không phải bị tái sinh trở lại), nhưng không đạt được Phật Quả. Nghĩa đen của từ Tây Tạng muốn nói tới những bậc đã chế ngự được kẻ thù, tức là chế ngự được những cảm xúc tiêu cực.

A Tỳ Đà hay Vi Diệu Pháp (Abhidharma) – mngon pa, Luận Tạng, một trong Tam Tạng. Đây là nền tảng của khoa tâm lý và luận lý học Phật Giáo. Luận này mô tả vũ trụ, những loại chúng sinh dị biệt, những bước tuần tự trên con đường đi tới giác ngộ, bác bỏ những luận cứ sai lầm, v.v.

A Xà Lê (Acarya) – slod dpon, 1) vị Thầy. 2) tương đương với Đạo Sư tâm linh hay Lạt Ma. Xem Đạo Sư Kim Cương.

A Xà Lê Liên Hoa (Acarya Padma) – slod dpon padma, Đạo Sư Liên Hoa Sanh, xem Padmasambhava.

Adhicitta – sems lhag can, tiền thân của Garab Dorje trong các cõi Trời.

Akanistha (Sắc Cứu Cánh Thiên) – ‘og min, nghĩa đen “tối thượng.” Cõi Trời hay cõi Phật tối cao. Có sáu nơi khác nhau mang tên này, từ cõi Trời thứ tám của các vị Trời thuộc Tứ Thiền lên tới Cõi Akanistha tối thượng, là một cõi Phật siêu vượt mọi nghĩ bàn.

Aksobhya (Bất Động Như Lai) – mi bskyod pa, Đức Phật Bất Động thuộc Kim Cương Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.

Ambrosia (Cam Lồ) – bdud rtsi, Phạn. amrita, nghĩa đen: bất tử. Chất cam lồ (rtsi) chiến thắng quỷ ma (bdud) của sự chết. Đây là một biểu tượng của trí tuệ.

Amitabha (A Di Đà – Vô Lượng Quang Phật) – ‘od dpag med, nghĩa đen: vô lượng ánh sáng. Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thuộc Liên Hoa Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.

Amitayus (Vô Lượng Thọ Phật)– tshe dpag med, nghĩa đen: vô lượng thọ mạng. Đức Phật của sự trường thọ.

Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu Phật) – don yod grub pa, nghĩa đen: đấng thành tựu những điều có ý nghĩa. Đức Phật Bất Không Thành Tựu thuộc Nghiệp Bộ. Xem Ngũ Bộ Phật.

hoangtri
07-14-2017, 08:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


An định (chỉ) – zhi gnas, Phạn: samatha, căn bản của mọi pháp tu thiền định. “Tâm sao lãng do những đối tượng khác gây ra được làm cho an định (zhi), tâm an trụ (gnas) không xao động trong thiền định.” DICT

Ananda – kun dga’ bo, một người em họ của Đức Phật, sau trở thành thị giả của Ngài. Ananda có công trong việc giữ gìn giáo lý sau khi Đức Phật tịch diệt, bởi ông có thể nhớ lại tất cả những gì mà ông đã được nghe Đức Phật giảng dạy.

Anandagarbha – bde mchog snying po, danh hiệu khác của Adhicitta (Garab Dorje).

Angulimala – sor mo threng ba, một trong những đệ tử của Đức Phật, mặc dù đã từng giết hại chín trăm chín mươi chín người, nhưng nhờ tịnh hoá các ác hạnh của mình, Ngài đã đạt được quả vị A La Hán. Danh hiệu của Ngài có nghĩa là “Tràng hoa các ngón tay.”

Anuyoga (A-nậu Du Già) – đứng thứ hai trong ba nội du già (inner yogas) và thứ tám trong chín thừa, theo cách phân loại của phái Nyingmapa. Trong phái du già này, điểm chính yếu được nhấn mạnh được đặt trên giai đoạn toàn thiện (thành tựu), đặc biệt là việc thiền định về các kinh mạch và năng lực.

Arura và kyurura – Terminalia chebula và Emblica officinalis, các dược thảo. Arura là biểu tượng của Đức Phật Dược Sư.

Aryadeva (Thánh Thiên) – ‘phags pa lha (thế kỷ thứ 2), vị đệ tử nổi tiếng nhất của Nagarjuna (Long Thọ). Ngài đã bình giảng giáo lý của Thầy mình trong số luận thuyết về triết học Madhyamika. Xem Trung Đạo.

Asanga (Vô Trước) – thogs med (thế kỷ thứ 4), một trong Lục Pháp Bảo, là vị sáng lập phái Yogachara và tác giả của nhiều bộ luận (sastra) quan trọng, đặc biệt là năm giáo lý mà Ngài thọ nhận từ Đức Maitreya (Di Lặc).

hoangtri
07-14-2017, 08:39 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Atisa – (982-1054), cũng được gọi là Dipamkara hay Jowo Atisa (jo bo a ti sha). Đạo sư và học giả Ấn Độ vĩ đại này là một trong những vị Thầy trưởng lão ở tu viện nổi tiếng Vikramasila, là một đệ tử trì giữ nghiêm cẩn giới luật tu viện. Ngài thọ nhận các giáo lý Bồ Đề tâm từ nhiều bậc Đạo Sư quan trọng, và đặc biệt là từ Pháp vương Suvarnadvipa (Dharmakirti – Pháp Xứng), và học tập dưới chân vị Thầy này ở Indonesia. Ngài trải qua mười năm ở Tây Tạng, giảng dạy và tham gia phiên dịch các bản văn Phật Giáo. Chúng đệ tử của Ngài lập nên phái Kadampa.

Atiyoga (Đại Viên Mãn) – pháp du già cao nhất trong ba nội du già (inner yogas), tột đỉnh của Chín Thừa theo cách phân loại của phái Nyingmapa. Xem Đại Viên Mãn.

Avalokitesvara (Quán Thế Âm/ Quán Tự Tại) – spyan ras gzigs (Chenrezi), một trong Tám Trưởng Tử (của Đức Phật). Là tinh tuý của ngữ của tất cả chư Phật, và là ứng thân của lòng bi mẫn của các Ngài.

Ấn phẫn nộ (đe doạ) – sdigs mdzubs, Phạn: tarjani mudra, cử chỉ đe doạ, chỉ tay bằng cả ngón trỏ và ngón út.

Ba Anh em – sku mched gsum, ba đệ tử chính của Drom Tonpa: Potowa, Chengawa và Puchungwa.

Ba quả vị thanh tịnh (địa)– dag pa sa gsum, các quả vị (địa) Bồ Tát thứ tám, thứ chín và thứ mười; gọi như thế là vì các Bồ Tát ở mức độ tu chứng này hoàn toàn thoát khỏi các chướng ngại thuộc cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng). (nyon sgrib).

Ba Cõi – xem Tam Giới.

Ba độc (Tam độc) – dug gsum, ba loại cảm xúc tiêu cực gồm tham, sân và si. Xem năm độc.

Ba giới nguyện – sdom pa gsum, Phạn: trisamvara, các giới nguyện của Biệt Giải Thoát, các giới luật Bồ Tát và các mật nguyện (samaya) của Mật Thừa.

Ba la mật (Paramita) – xem pháp toàn thiện siêu việt.

Bà la môn – bram ze, một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ thời xa xưa, đẳng cấp tăng lữ.

Ba Mạn đà la – dkyil ‘khor gsum, các mạn đà la của thân, khẩu và ý là những hiển lộ của bản tánh nguyên sơ: sắc tướng như là Bổn Tôn, âm thanh như là câu minh chú và các niệm tưởng như là trí tuệ.

Bà Mẹ Chân Chính Sắc Đen Phẫn Nộ – ma cig khros ma nag mo, Phạn: Krodhakali, nghĩa đen: bà mẹ sắc đen và phẫn nộ. Một hiển lộ của Samantabhadri trong thân tướng của Báo Thân phẫn nộ, một khía cạnh khác của Vajravarahi (rdo rje phag mo).

hoangtri
07-15-2017, 05:08 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Ba môn học – xem tam học.

Ba mươi lăm vị Phật – sangs rgyas so lnga hoặc bde gshegs so lnga, Ba mươi lăm vị Phật Sám hối, tượng trưng cho sự toàn trí toàn giác của chư Phật, sẵn sàng tịnh hoá các tội nghiệp trong tất cả ba mươi lăm phương hướng trong không gian (bốn hướng chính, bốn hướng trung gian, tám và mười sáu hướng phụ, trung ương, điểm thấp nhất và điểm cao nhất).

Ba Nguồn Gia Trì (Ba Lực Gia Trì - Three Roots) – rtsa gsum, Lạt Ma, là cội gốc hay suối nguồn của các năng lực gia trì; Bổn Tôn, là suối nguồn của các thành tựu; và Dakini (Thiên Nữ Trí Tuệ hay các vị Hộ Thần), là suối nguồn của tất cả các công hạnh (hoạt động).

Ba phương pháp siêu việt – dam pa gsum. Xem pháp chuẩn bị, công phu chính yếu và kết thúc.

Ba Thân (kaya) – sku gsum, Phạn: trikaya, nghĩa đen: Ba Thân: gồm ba khiá cạnh của Phật Quả: Pháp Thân, Báo Thân và Hoá Thân.
Ba thực phẩm ngọt – mngar gsum, đường, mật đường và mật ong.

Ba thực phẩm trắng – dkar gsum, sữa, bơ và sữa đông, theo truyền thống là những món được coi là những thực phẩm rất thanh tịnh.

Ba thời – dus gsum, Phạn: trikala, quá khứ, hiện tại và vị lai.

Ba ý niệm (tạo tác) – ‘khor gsum, chủ thể, đối tượng và hành động, được nhìn như là có một sự hiện hữu thực sự và độc lập.

Bách Hộ Phật – xem Trăm Đấng Hộ Phật.

Bách Tự Minh Chú (Một Trăm Âm) – yig brgya, bài chú của Đức Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva), tượng trưng cho tinh tuý của Trăm Đấng Hộ Phật (Bách Hộ Phật).

Bài ca Kim Cương – rdo rje mgur, bài ca (mgur) diễn tả những kinh nghiệm nội tại của một hành giả du già (yogi) và sự chứng ngộ của Ngài về bản tánh bất hoại (kim cương) tối hậu.

Bản tánh chân không, tánh sáng và lòng bi mẫn – ngo bo, rang bzhin, thugs rje. Cái thấy của Đại Viên Mãn: chân tánh cốt tuỷ của tâm và tất cả các hiện tượng đều là tánh Không; sự hiển lộ của chân tánh ấy là tánh sáng; lòng bi mẫn của tánh ấy thì bao trùm rộng khắp.

Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava) – rin chen ‘byung gnas, Đức Phật thuộc Bảo Sanh Bộ. Xem ngũ bộ Phật.

Báo Thân (Sambhogakaya) – longs spyod rdzogs pa’i sku, Thân Thọ Dụng Viên Mãn (Body of Perfect Enjoyment), thể tánh chói sáng tự nhiên của Phật Quả, chỉ các bậc chứng ngộ cao mới nhận biết được.

Bảy báu vật cao quý (Thất thánh tài) – ‘phags pa’i nor bdun, Phạn: saptadhanam, niềm tin, giới luật, rộng lượng (bố thí), kiến thức, tận tâm, khiêm tốn và trí tuệ.

Bám chấp – ‘dzin pa, nghĩa đen; nắm giữ, cũng có nghĩa là có một sự tin tưởng. Vì thế “chấp ngã” cũng có thể được hiểu là “tin vào một cái Tôi.”

Bậc khám phá kho tàng tâm linh (Khai Mật Tạng Vương), xem kho tàng tâm linh.

Bậc siêu phàm – skyes bu dam pa, “bậc chứng ngộ có khả năng hoạt động vì lợi lạc của những chúng sinh khác trong một phạm vi rộng lớn.” DICT.

Bẩm sinh (trí tuệ, hỉ lạc…) – lhan skyes, Phạn: sahaja, nghĩa đen: đồng sinh ra, có nghĩa là Trí tuệ, Tâm thái hỉ lạc, và Niết Bàn nói chung đều hiện diện tiềm tàng trong ta cho dù ta kinh qua vô minh, đau khổ và luân hồi sinh tử. Hai phương diện của một bản tánh và cùng một bản tánh thì “đồng sanh”, nhưng được xem như là như những gì đối nghịch bởi những tâm thức không giác ngộ.

Bất Động Phật – xem Aksobhya hay Điều Hỷ Quốc.

Bất Không Thành Tựu Phật – xem Amoghasiddhi.

hoangtri
07-15-2017, 05:29 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Bằng hữu tâm linh – chos grogs, các đệ tử của cùng một vị Đạo Sư, hay của những vị mà ta đã nhận giáo lý. Có được những mối liên hệ hài hoà với những người như thế được coi là điều trọng yếu, nhất là trong Kim Cương thừa.

Bhagavan (Thế Tôn) – bcom ldan ‘das, một danh hiệu của Đức Phật. Ngài từng chế ngự bốn quỷ ma, sở hữu (ldan) mọi phẩm tính của chứng ngộ, và siêu vượt (‘das) sinh tử và Niết Bàn.

Brahma (Phạm Thiên) – tshangs pa. Trong Phật Giáo, Brahma không được coi là một vị Hộ Phật trường cửu mà chỉ như là một vị cai quản chư Thiên của cõi Sắc Giới.

Bhrikuti – jo mo khro gnyer can, một trong những thân tướng của Đức Quan Âm (Tara), nữ Bồ Tát của lòng từ bi. Danh hiệu này có nghĩa là “Người đàn bà với một cái chau mày trang nghiêm phẫn nộ.”

Biển hồ – rol pa’i mtsho chen, “bảy hồ nước bao quanh Núi Tu Di, trong đó các Long Vương sinh sống và nô đùa.” DICT.

Biệt Giải Thoát Giới (Ba la đề mộc xoa) – so sor thar pa, nghĩa đen: giải thoát cá nhân. Phạn: Pratimoksha. Các giới nguyện giải thoát cá nhân gồm có tám loại giới nguyện được dạy trong Vinaya (Luật Tạng), từ giới nguyện đơn giản trong một ngày cho tới các giới nguyện đầy đủ của các tăng sĩ thọ cụ túc giới. Xem ba giới nguyện.

Bindu (Giọt tinh chất) – thig le, nghĩa đen: một vòng tròn, quả cầu, điểm tròn hay giọt, nhưng cũng cùng một loại với những ý nghĩa trừu tượng hơn. Chúng tôi đã dùng Phạn ngữ này trong chương viết về chuyển di tâm thức để nhấn mạnh về việc các mức độ ý nghĩa của chữ này rất đa tạp; trong những tình huống khác chúng tôi dịch cũng thuật ngữ đó là tinh tuý.

Bình bát bằng sọ người – thod phor, Phạn: kapala. Đỉnh của một cái sọ được một vài hành giả du già dùng làm một cái bát trong một số nghi lễ. Bình bát này tượng trưng cho vô ngã.

Bình đẳng – mnyam pa nyid, Phạn: samata. Vạn pháp cùng có bản tánh của tánh Không.

Bảo bình vĩ đại – gter chen po’i bum pa, một trong tám dấu hiệu tốt lành. Dấu hiệu này tương ứng với cổ họng của Đức Phật và tượng trưng các giáo lý đáp ứng mọi điều mong cầu.

Bảo Tháp (Stupa) – xem Bodhnath.

Bodhnath – bya rung kha shor, được phát âm là “Jarungkashor”, một trong hai đại bảo tháp trong thung lũng Kathmandu. Lịch sử của việc xây dựng tháp này gắn liền với sự du nhập của Phật Giáo ở Tây Tạng và được mô tả trong Lịch Sử Bảo Tháp Jarungkhashor, trong một tàng kinh được Sakya Zangpo khám phá (Keith Dowman phiên dịch là Truyền Thuyết của Đại Bảo Tháp, Berkeley, Nhà Xuất bản Dharma, 1973).

Bonpo – bon po, các tín đồ của đạo Bon, là truyền thống tôn giáo thịnh hành ở Tây Tạng trước khi Phật Giáo du nhập vào xứ này.

hoangtri
07-15-2017, 08:37 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Bồ Đề Tâm – byang chub kyi sems, nghĩa đen: tâm giác ngộ. Trên bình diện tương đối, đây là ước muốn đạt được Phật Quả vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Từ này cũng bao gồm việc thực hành pháp tu của lòng từ, bi, sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật), v.v. là những pháp tu cần thiết để đạt được mục đích của Phật Quả. Trên bình diện tuyệt đối, đây là kinh nghiệm nội quán sâu sắc, chứng ngộ trực tiếp bản tánh của Chân như tối thượng.

Bồ Tát (Bodhisattva)– byang chub sems dpa’, 1) một hiện thân với quyết tâm muốn đưa tất cả chúng sinh tới bờ Giác ngộ và đang thực hành con đường Bồ Tát. 2) một Bồ Tát siêu phàm là bậc đã đạt được một trong mười quả vị (địa) của Bồ Tát.

Bồ Tát Tu Viện Trưởng – danh hiệu đôi khi được biết tới của Ngài Tịch Hộ (Santaraksita).

Bốn ẩn dụ – ‘du shes bzhi, Nghĩ tưởng về bản thân như người bị bệnh, thiện tri thức như thầy thuốc, Pháp như phương thuốc, và việc thực hành giáo huấn của Ngài như phương pháp để hồi phục.

Bốn cách để nhiếp thọ chúng sinh (Tứ nhiếp pháp) – bsdu ba’i ngos po bzhi, Phạn: catuhsamgrahavastu, bốn cách trong đó một vị Bồ Tát có thể thu phục (nhiếp thọ) các đệ tử: 1) rộng lượng (sbyin pa, Phạn: dana), 2) biểu lộ bằng lời nói một cách vui vẻ (snyan par smra ba, priyavadita), 3) giảng dạy phù hợp với căn cơ của từng người (don mthun pa, samanarthata), 4) hành xử phù hợp với những gì Ngài giảng dạy (don spyod pa, arthacarya).

Bốn chướng ngại – sgrib bzhi, các chướng ngại của 1) các cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng), 2) các chướng ngại gây ra bởi nghiệp (nghiệp chướng), 3) các chướng ngại gây bởi ý niệm (sở tri chướng) và 4) các chướng ngại gây ra bởi các tập quán quen thuộc. Xem hai chướng ngại.

Bốn hỉ lạc – dga’ ba bzhi, Phạn: caturananda, bốn kinh nghiệm vi tế tăng trưởng của lạc vượt lên trên các cảm xúc bình phàm, được nối kết với công phu hành trì pháp quán đảnh thứ ba, hay quán đảnh trí tuệ.

Bốn hay sáu phân loại Mật điển (Tantra) – rgyud sde bzhi hay drug, cách phân loại các Mật điển thành ra bốn phần: Kriya, Carya, (hay Upa), Yoga và Anuttarayoga (sự phân loại này thường được dùng trong các phái Tân Dịch - New Translations School); hay thành sáu nhóm: Kriya, Upayoga, Yoga, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga (thường dùng trong Truyền thống Cổ Mật).

Bốn công hạnh (Tứ chủng pháp) – phrin las bzhi, bốn loại hoạt động được những bậc chứng ngộ thực hiện, để giúp đỡ những người khác và tẩy trừ những hoàn cảnh bất lợi: làm cho an bình (zhi ba), làm cho tăng trưởng (sgyas pa), điều phục (dbang) và chế ngự một cách mãnh liệt (drag po).

Bốn nguồn đau khổ – sdug sngal gyi chu bo chen po bzhi, sanh, bệnh, lão và tử.

Bốn quán đảnh – dbang bzhi, quán đảnh tịnh bình, quán đảnh ẩn mật, quán đảnh trí tuệ và quán đảnh ngôn từ cao quý.

Bốn quỷ ma – bdud bzhi, xem chú thích 230. Cũng xem quỷ ma.

Bốn Thân – ba Thân cộng thêm svabhavikakaya, ngo bo nyid kyi sku, Thân Tự Tánh, tượng trưng tính chất bất khả phân của ba Thân đầu tiên.

hoangtri
07-15-2017, 08:44 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Bốn linh kiến – snang ba bzhi, bốn giai đoạn liên tiếp trong pháp hành trì thogal trong Đại Viên Mãn: 1) Pháp tánh (dharmata) thực sự xuất hiện (chos nyid mngon sum), 2) sự phát triển của các kinh nghiệm và các huyễn tướng (nyams snang gong ‘phel), 3) Giác tánh đạt đến mức cao tột (rig pa tshad phebs), 4) sự cạn kiệt của các hiện tượng siêu vượt tâm thức (chos zad blo ‘das).
Bổn Tôn – xem Yidam.

Bốn trạng thái vô sắc – gzugs med bzhi, bốn phân loại của trạng thái định, gồm có không vô biên xứ (nam mkha’ mtha’ yas), Phạn: akasanantya), thức vô biên xứ (nam shes mtha’yas, vijnanasanantya), vô sở hữu xứ (ci yang med pa, akimcanya), và phi tưởng phi phi tưởng xứ(‘du shes med ‘du shes med min, naivasamjnasamjna); bốn cõi Trời tương ứng với những loại định này.

Buddha – xem Phật (Tạng: sangye).

Ca Diếp – xem Kasyapa.

Camaradvipa – rnga yab gling, một trong tám tiểu lục địa trong vũ trụ quan Ấn Độ thời xa xưa, phía tây của Jambudvipa (cõi Diêm Phù Đề). Đây là lục địa Tây Nam được ám chỉ là cõi Phật mang tên Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.

Cảm xúc (cảm thọ) – xem chướng ngại, chướng ngại thuộc cảm xúc tiêu cực hay Bốn chướng ngại.

Cấp độ (tu chứng) – xem địa Bồ Tát.

Cấp độ siêu phàm – xem địa Bồ Tát.

Các vị Trời Phi tưởng – ‘du shes med pa’i lha, chư Thiên trong cõi Vô sắc.

Các vị Trời và Quỷ Ma – lha ‘dre, nói chung ám chỉ mọi loại tinh linh khác nhau, dù có ích lợi (lha) hay là tai hại (‘dre).

Cái thấy (kiến) – lta ba, Phạn: dristi, 1) quan điểm, lòng tin. 2) quan điểm chính xác, hiểu biết thấu suốt chân chính về trạng thái tự nhiên nhất như của tất cả các hiện tượng.

Cây Giác ngộ (cây Bồ Đề) – byang chub kyi shing, Đức Phật đã đạt được giác ngộ ở cội cây này.

Cây như ý – dpag bsam gyi shing, loại cây kỳ diệu có gốc rễ ở cõi A Tu La nhưng lại kết trái trong cõi Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên hay Đế Thích Thiên).

Cam lồ – xem ambrosia.

Cảm xúc tiêu cực – nyon mongs pa, Phạn. klesa, “các hiện tượng trong tâm tấn công thân và tâm, và đưa dẫn tới các hành vi ác hại, gây nên một trạng thái đau khổ trong tâm thức.” DICT. AT: các cảm xúc đau buồn, tham đắm, phiền não. Từ đồng nghĩa với độc (dug). Xem năm độc.

Câu Lưu Tôn Phật (Destroyer-of-Samsara Buddha) – xem Krakucchanda.

Chagme Rinpoche – xem Karma Chagme.

Chakshingwa, (Geshe) – lcags shing ba, một geshe Kadampa, đệ tử của Langri Thangpa.

Chày kim cương – xem vajra.

Chân đế – xem Chân lý tuyệt đối.

hoangtri
07-16-2017, 04:55 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Chân lý tương đối (Tục đế) – kun rdzob bden pa, Phạn. samvriti satya, chân lý hiển lộ bề ngoài được nhận thức và coi như thực có bởi những tâm thức mê lầm.

Chân lý tuyệt đối (Chân đế) – don dam bden pa, Phạn. paramartha satya, chân lý đích thực được nhận thức bằng trí tuệ, không có sự tạo tác của tâm thức. Tính chất của chân đế hay chân lý tối thượng thì “siêu vượt tâm thức, không thể suy lường, không thể diễn bày” (Patrul Rinpoche). Cũng xem chân lý tương đối.

Chân nghĩa (Liễu nghĩa) – nges don, Phạn: nitartha, cách diễn tả trực tiếp chân lý từ quan điểm của những bậc chứng ngộ. Xem phương tiện nghĩa.

Chấp ngã – xem bám chấp.

Chekawa Yeshe Dorje – ‘chad kha ba ye shes rdo rje (1101¬1175), một geshe Kadampa nổi tiếng. Ngài đã hệ thống hoá các giáo lý Chuyển Tâm thành bảy điểm, và làm cho giáo lý này dễ hiểu hơn. Xem Đại Đạo Tỉnh Giác của Jamgon Kongtrul, Shambhala, 1987, và Dũng Khí Toàn Giác, Dilgo Khyentse, Bản của Padmakara, 1992 (khắp thế giới ngoại trừ Bắc Mỹ) và Snow Lion, 1993 (riêng ở Bắc Mỹ).

Chengawa, (Geshe) – spyan snga ba (1038-1103), đệ tử của Drom Tonpa, là người bắt đầu truyền dạy các giáo huấn khẩu truyền Kadampa.

Chenrezi – spyan ras gzigs, danh hiệu Tây Tạng của Đức Avalokitesvara (Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại).

Chín Đại-Quảng-Trí (Nine Expanses) – klong dgu, chín phân loại của Đại-Quảng-Trí (klong sde) trong giáo lý Đại Viên Mãn.
Chư – gcod, nghĩa đen: cắt đứt, đoạn diệt. Phương pháp thiền định trong đó ta cúng dường thân thể chính mình để cắt đứt bốn quỷ ma trong ta. Machik Labdron đã thọ nhận các giáo lý Chư từ vị Thầy Ấn Độ Padampa Sangye và từ Lạt Ma Kyoton Sonam, và truyền bá giáo pháp này trong xứ Tây Tạng.

Chogyal Pakpa – chos rgyal ‘phags pa (1235-1280), một trong tám đại học giả của phái Sakya được gọi là Sakya Gongma. Ngài trở thành vị giáo thọ của Hoàng Đế Mông Cổ Kublai Khan và quan Nhiếp Chính của Tây Tạng.

Chuông – dril bu, Phạn: ghanta. Xem vajra (kim cương).

Chủ nghĩa hư vô (Thuyết hư vô)– chad par lta ba, Phạn: vibhava drsti, thuyết duy vật, quan điểm phủ nhận sự hiện hữu của tiền kiếp trong quá khứ hay các kiếp tương lai, phủ nhận nguyên lý nhân quả, và v.v. (*Kinh văn Hán Việt thường gọi là Đoạn kiến hay Đoạn chấp).

Chủ nghĩa vĩnh cửu (Thuyết vĩnh cửu) – rtag par lta ba, Phạn: atmadrsti, satkayadrsti, niềm tin nơi một thực thể hiện hữu bất diệt, ví dụ như một linh hồn. Được coi như một khuynh hướng triết học cực đoan. Xem chủ nghĩa hư vô. (*Kinh văn Hán Việt thường gọi là Thường kiến hay Ngã kiến, Ngã chấp).

hoangtri
07-16-2017, 05:02 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Chuyển luân vị (Chủ nhân mặt đất) – sa bdag, Phạn: bhumipati, một tinh linh chiếm cứ một địa điểm.

Chuyển Luân Thánh Vương – ‘khor lo sgyur ba’i rgyal po, Phạn: cakravartin, 1) một Thiên vương cai quản một hệ trong thế giới (theo vũ trụ quan của Phật Giáo). 2) một vị Hoàng đế.

Chư Thiên (các vị Trời) – lha, chúng sinh ở một trong sáu cõi, bị chế ngự bởi tánh kiêu ngạo. Để tránh sự lầm lẫn chúng tôi đã dịch lha là “Bổn Tôn” khi (được sử dụng trong một ngữ cảnh) ám chỉ một vị Phật hay một vị Bổn Tôn Trí Tuệ.

Chướng ngại (chướng)– sgrib pa, Phạn: avarana, các yếu tố ngăn che Phật tánh của ta. Cũng xem: hai chướng ngại, bốn chướng ngại.

Chướng ngại thuộc cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng)– nyon mongs kyi sgrib pa Phạn: klesavarana, “các niệm tưởng (thù ghét, tham luyến v.v..); chúng ngăn trở ta không đạt được sự giải thoát.” DICT. Xem chướng ngại.

Chướng ngại thuộc tập khí (nghiệp chướng)– bag chags kyi sgrib pa, Phạn: vasanavarana, các khuynh hướng quen thuộc (tập khí) được in dấu trên tạng thức (thức nền tảng). Xem chướng ngại.

Chướng ngạïi thuộc ý niệm (sở tri chướng) – shes bya’i sgrib pa, Phạn: jneyavarana “Đây là những ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động, chúng ngăn cản ta không đạt được Toàn Giác.” DICT. Xem chướng ngại.

Cõi thấp – ngan song, các cõi Địa ngục, các cõi của Ngạ quỷ và Súc sinh.

Cõi – xem sáu cõi luân hồi.

Cõi Cực Lạc (Tịnh Độ) – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật ở phương Tây của Đức Phật Amitabha (A Di Đà).

Cõi Hỉ Túc – dga’ ldan, xem Cung Trời Đâu Suất.

Cõi Phạm Thiên (Brahma) – tshang pa’i ‘jig rten, Phạn: brahmaloka, nói chung, tất cả các cõi Sắc và vô Sắc.

Cõi Tịnh độ Cực Lạc – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật của Đức Amitabha (A Di Đà).

Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên hay Đế Thích Thiên) – gsum cu rtsa gsum, Phạn: Trayastrimsa, một cõi Trời trong Dục giới, trụ xứ của vua Đế Thích (Indra) và ba mươi hai vị đại thần. Xem tam giới.

Con đường của cái thấy (Kiến đạo) (Path of Seeing) – mthong lam, Phạn: darsanamarga, con đường thứ ba trong năm con đường tu, trên con đường Bồ Tát Đạo. Được gọi là như vạây là bởi trên con đường đo,ù ta thực sự trực nhận được hai loại vô ngã (có nghĩa là vắng mặt của “bản ngã,” vắng mặt của sự hiện hữu vững chắc, độc lập). Hai loại vô ngã này gồm có vô ngã của một cá nhân và vô ngã của các hiện tượng.

Con đường của sự hợp nhất (Path of Joining) – sbyor lam, Phạn: prayogamarga, con đường thứ hai trong năm con đường tu. Trên con đường này, ta tự nối kết hay tự chuẩn bị để có thể trực nhận hai loại vắng mặt của bản ngã.

hoangtri
07-16-2017, 05:11 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Con đường vun bồi công đức (Path of Accumulating) – tshogs lam, Phạn: sambharamarga, con đường thứ nhất trong năm con đường tu hướng tới Giác ngộ theo Bồ Tát Thừa. Trên con đường này, ta tích lũy những nguyên nhân (công đức) giúp ta có thể cất bước hướng tới Giác ngộ.

Cổ Mật – tức là truyền thống Nyingmapa. Xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật.

Cổ phái – tức là truyền thống Nyingmapa. Xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật, Cổ Mật.

Cung điện Liên Hoa Quang – padma ‘od kyi pho brang, cung điện của Đức Padmasambhava trong cõi Phật Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.

Cung điện Toàn Thắng – rnam rgyal pho brang, cung điện của cung Trời Đế Thích (Indra).

Cung Trời Đâu Suất – dga’ ldan, cõi (ở tầng quả thứ tư) của các vị Trời thuộc Dục giới, trong đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tái sinh lần cuối cùng trước khi xuất hiện trong thế giới này. Hiện tại Đức Di Lặc (Maitreya), Đức Phật vị lai, đang an trụ trong Cung Trời Đâu Suất giảng dạy Đại Thừa. Phạn : Tushita. Xem ba cõi hay Tam giới.

Cung Trời Tịnh Quang – ‘od gsal gyi lha, Phạn: Abhasvara, cấp độ cao nhất của các vị Trời thuộc Nhị Thiền (trong Sắc Giới).

Cuộn giấy vàng – shog ser, miếng giấy (không nhất thiết phải là màu vàng) trên đó các bản văn của các kho tàng tâm linh (tàng kinh) được ghi chép lại.

Cúng dường lửa – gsur, pháp cúng dường được thực hiện bằng cách đốt thực phẩm trên than đá. Món cúng phẩm này được dâng lên cúng dường cho chư Phật, các vị Hộ Pháp, tất cả chúng sinh nói chung và đặc biệt là cho những Tinh linh lang thang và những oan gia mà ta có những món nợ nghiệp với họ. gsur trắng thông thường được chuẩn bị với ba thực phẩm trắng và ba thực phẩm ngọt. gsur đỏ được chuẩn bị với thịt.

Cửa Phạm Thiên – tshang pa’i bu ga, Phạn. brahmarandra, điểm tụ ở trên đỉnh đầu nơi kinh mạch trung ương chấm dứt.

Cựu Dịch (Cựu Phái Dịch Thuật) – snga ‘gyur, danh hiệu được ban cho các giáo lý đầu tiên được dịch ra từ Phạn ngữ và truyền bá ở Tây Tạng, là giáo lý của phái Cổ Mật, hay truyền thống Nyingmapa, ngược lại với các giáo lý được chuyển dịch và truyền bá từ thế kỷ thứ mười trở đi và là giáo lý sinh ra Tân Phái của Phật Giáo Tây Tạng.

Dạ Ma (Yama) – ‘thab bral, Phạn: Yama, tên của một cõi Trời trong Dục Giới, có nghĩa là “vô chiến” và được gọi như thế là bởi vì các vị Trời ở đó không phải chiến đấu với các A Tu La. Xem ba cõi.

Dagpo Rinpoche – dwags po rin po che (1079-1153), cũng được gọi là Gampopa, đệ tử nổi tiếng nhất của Milarepa và là vị khai sáng dòng truyền thừa Kagyu.

Daka – mkha ‘gro, nghĩa đen: du hành trong Pháp Giới (Không Hành), hay dpa’ bo, vị anh hùng. Trong Kim Cương Thừa thì các vị Không Hành nam tương đương với Bồ Tát. Các vị Không Hành nam (Daka) tương đương với dakini (của phái nữ).

Dakini (Nữ Không Hành, Thiên Nữ Trí Tuệ, Thiên Nữ Diệu Không) – mkha’ ‘gro ma, nghĩa đen: du hành trong hư không. Nguyên lý nữ được kết hợp với trí tuệ. Thuật ngữ này có vài mức độ ý nghĩa khác nhau. Có những vị Không Hành nữ hay Thiên nữ Diệu Không (dakini) bình thường, là những vị với một mức độ chứng ngộ tâm linh nào đó, và các vị dakini trí tuệ (Thiên Nữ Trí Tuệ) là những bậc hoàn toàn chứng đắc. Xem Ba Nguồn Gia Trì.

hoangtri
07-17-2017, 11:09 AM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Damchen – dam chen (rdo rje legs pa), một vị Hộ Pháp, bị Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) buộc phải hứa nguyện.

Darsaka – mthong ldan, danh hiệu khác của Ajatasatru, nam tử của Vua Bimbisara (Bình Sa), vua xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) và là vị thí chủ quan trọng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù ông đã giết hại thân phụ mình, về sau ông ăn năn và tịnh hoá các hành nghiệp xấu ác của mình tới mức đạt được địa của một Bồ Tát.

Dharmakaya – chos sku, nghĩa đen: Pháp Thân. Đây là thể tính của tánh Không của Phật Quả. Pháp thân cũng có thể được dịch như là thân của chân đếù, một thể tính tuyệt đối.

Dharmata (Pháp tánh) – chos nyid, “bản tánh rỗng rang.” DICT.

Dharmodgata – chos ‘phags, “Pháp Khởi Siêu Phàm,” vị Bồ Tát mà Thường Đề Bồ Tát (Sadaprarudita) đã thọ nhận giáo lý về Trí tuệ bát nhã siêu việt.

Diêm Phù Đề (Jambudvipa) – ‘dzam bu gling, lục địa phía nam, một trong bốn “trung châu” (lục địa) chính trong vũ trụ quan của Ấn Độ thời xa xưa, là nơi chúng ta đang sinh sống. Trong một vài hoàn cảnh, danh hiệu này ám chỉ miền Nam Á, và trong những hoàn cảnh khác, cõi này ám chỉ thế giới theo một ý nghĩa thông thường.

Dipamkara (Nhiên Đăng)– Pháp danh của Ngài Atisa.

Doha – một bài đạo ca trong đó một thành tựu giả (ví dụ như Ngài Saraha hay Virupa) diễn tả sự chứng ngộ của Ngài.

Dòng truyền qua biểu tượng của các Vidyadhara – rig ‘dzin brda yi brgyud, dòng truyền dạy các giáo lý bằng phương tiện thiện xảo qua cử chỉ hay biểu tượng.

Dòng nhĩ truyền hay truyền qua việc lắng nghe của chúng sinh bình thường – gang zag snyan brgyud, dòng truyền dạy mà vị Thầy cần phải sử dụng ngôn từ và đệ tử lắng nghe những lời lẽ ấy, hơn là sự truyền dạy giáo lý bằng tâm truyền tâm hay bằng cách dùng các biểu tượng.

Dòng tâm truyền của các Đấng Chiến Thắng -rgyal ba dgongs brgyud, dòng truyền dạy giáo lý tâm truyền tâm.

Drikung Kyobpa – ‘bri gung skyob pa (1143-1217), vị sáng lập Tu viện Drikung và tông phái Drikung Kagyu.

Drom Tonpa – ‘brom ston pa, được gọi là ‘brom ston rgyal ba’i ‘byung gnas (1005-1064), đệ tử Tây Tạng chính yếu của Atisa, một trong những vị Thầy đầu tiên của phái Kadampa và là vị sáng lập Tu viện Radreng (rva sgreng) (thường được phiên âm là “Reting”).

Druk Pema Karpo – ‘brug padma dkar po (thế kỷ thứ 16), Drukchen Rinpoche thứ 3, Đạo sư và tác gia vĩ đại của phái Drukpa Kagyu và là vị sáng lập Tu viện Sangak Choling.

Du Già – xem Yoga.

Duyên hợp – ‘dus byas, Phạn: samskrita, được tạo nên (byas) do sự kết hợp (‘dus) giữa nguyên nhân và điều kiện (duyên). “Những hành vi thiện lành do duyên hợp có nghĩa là tất cả những hành vi được thực hiện mà không có được sự chứng ngộ tánh Không.” DKR

Đà ra ni (Dharani)– gzungs, bài minh chú được gia trì bởi một vị Phật hay Bồ Tát, có diệu năng cứu giúp chúng sinh. Có nhiều bài Đà ra ni trong các Kinh điển (Sutra), thường khá dài.

hoangtri
07-17-2017, 11:18 AM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Đại Ấn (Đại Thủ Ấn) – xem Mahamudra.

Đại Ca Diếp – ‘od srung chen po, một trong những đệ tử Thanh Văn xuất sắc nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và là vị lãnh đạo trong số những người đầu tiên biên soạn Abhidharma (Vi Diệu Pháp). Sau khi Đức Phật tịch diệt, Ngài trở thành Giáo Chủ đầu tiên của Giáo Pháp, được giao phó trọng trách hộ trì Giáo lý và Tăng Đoàn.

Đại dương bên ngoài – phyi’i rgya mtsho chen po, những đại dương bao quanh Núi Tu Di và bốn trung châu (lục địa) trong vũ trụ học Ấn Độ thời xa xưa.

Đại Lạc và Tánh Không – bde stong, đại lạc được trực chứng mà không có sự bám luyến, rỗng rang như tánh Không.

Đại Thế Chí – xem Vajrapani hay Tám Trưởng Tử Vĩ Đại.

Đại Thành Tựu Giả – grub chen, một hành giả du già đã đạt tới thành tựu tối thượng.

Đại Thừa – theg pa chen po, Phạn: mahayana, thừa (cỗ xe) của các Bồ Tát, “đại” là bởi cỗ xe này nhắm tới Phật Quả viên mãn vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.

Đại tiệc cúng dường – tshogs kyi ‘khor lo, Phạn: ganacakra, một nghi lễ trong đó ta ban gia trì, cúng dường và thọ dụng thức ăn và nước uống như chất Cam lồ Trí tuệ.

Đại Viên Mãn (Dzogchen, Dzogpa Chenpo, Atiyoga) – dzogs pa chen po, tên khác của Atiyoga, pháp tu tối thượng của chín thừa. Viên Mãn có nghĩa là tâm thức, trong bản tánh của tâm, bao gồm một cách tự nhiên tất cả mọi phẩm tính cao quý của ba Thân: bản tánh của tâm ấy là tánh Không, Pháp Thân; biểu lộ tự nhiên của tâm ấy là tánh sáng, Báo Thân, và lòng bi mẫn của tâm ấy thì trùm khắp, Hoá Thân. Đại có nghĩa là pháp viên mãn này chính là một duyên khởi tự nhiên của vạn pháp. AT: đại toàn thiện. Giáo lý của Đại Viên Mãn được phân loại thành ba phần: phần tâm (sems sde), phần hư không (klong sde), và phần giáo huấn tâm yếu trực chỉ (man ngag gi sde). Cũng xem phần Dẫn nhập và Atiyoga.

Đàm – bad kan, một trong ba thể dịch theo y khoa Tây Tạng. Cũng xem gió, mật.

Đạo Sư Kim Cương – rdo rje slod spon, Phạn. vajracarya, “Đạo Sư tâm linh, người đã dẫn dắt ta đến trong một Mạn đà la của Mật Thừa và ban cho ta những giáo huấn giải thoát.” DICT.

Đạo Sư Tôn Quý xứ Oddiyana – o rgyan rin po che, một trong những danh hiệu của Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh).

Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm – ‘phags pa thugs rje chen po, một trong những danh hiệu của Đức Avalokitesvara (Chenrezig), Bồ Tát của lòng bi mẫn hay đại Từ đại Bi.

Đấng Chiến Thắng – rgyal ba, Phạn: jina, một vị Phật.

Đấng Đại Từ Bi (Đấng Bi Mẫn) – thugs rje chen po, danh hiệu của Đức Avalokitesvara (Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại).

Đấng Toàn Giác – kun mkhyen chen po, danh hiệu được biết tới rất nhiều của Ngài Longchenpa.

Diệu Âm Phật – sgra dbyangs mi zad pa sgrogs pa, danh hiệu của một vị Phật (* dùng âm thanh du dương khai diễn Giáo Pháp làm cho tất cả chúng sinh đều được nghe).

Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) – lhas byin, một người anh em họ của Đức Phật; sự ganh tị của ông đã ngăn cản không cho ông rút ra được bất kỳ lợi ích nào từ các giáo lý (của Đức Phật).

Đế Thích – xem Indra.

hoangtri
07-17-2017, 11:25 AM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Đệ tử cư sĩ (Ưu bà tắc, Cận sự nam)– dge bsnyen, Phạn: upasaka, upasa người trì giữ các giới nguyện quy y và năm giới nguyện khác (hay chỉ một vài giới nguyện trong số đó): không sát sanh, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, và không dùng chất gây say. Đây là một trong tám loại giới nguyện của Biệt Giải Thoát (Pratimoksa).

Đức vua, Thần dân và Thiện hữu – rje ‘bangs grogs gsum, Vua Trisong Detsen, đại dịch giả Vairotsana và thánh nữ Yeshe Tsogyal.

Dharma – xem Pháp.

Đi nhiễu (hành đạo) – skor ba, hành vi tôn kính trong việc đi bộ theo chiều kim đồng hồ xung quanh một vật linh thiêng, giữ tâm an định và tỉnh giác, ví dụ như một điện thờ, bảo tháp, núi thiêng, hay ngôi nhà, và thậm chí một nhân vật, như một vị Thầy tâm linh.

Địa Bồ Tát – ‘phags pa’i sa, nghĩa đen: các cấp độ (tu chứng) siêu phàm, Phạn: bhumi. Mười cấp độ (thập địa) của sự chứng ngộ mà các vị Bồ Tát đạt tới trên các con đường của cái thấy (kiến), của thiền định (thiền) và siêu vượt cái học. Một vài cách phân loại khác đã thêm vào những cấp độ phụ. “Những cấp độ này siêu phàm bởi chúng vượt xa chúng sinh bình thường.” DICT.

Địa ngục – dmyal ba, Phạn: naraka, một trong sáu cõi, trong đó ta kinh nghiệm nỗi thống khổ mãnh liệt. Trong cõi Địa ngục ta thường phải kinh qua những hậu quả của các hành nghiệp hơn là tạo ra những nguyên nhân mới.

Điều Hỷ Quốc – mngon par dga’ ba, Phạn: Abhirati, tên của một đại kiếp và của cõi Tịnh độ của Đức Phật Aksobhya (Bất Động Phật hay A Súc Bệ Phật).

Độc Giác Phật (Pratyekabuddha) – rang sangs rgyas, “ người đạt được khả năng chấm dứt luân hồi (đoạn diệt luân hồi) mà không cần sự trợ giúp của một vị Thầy tâm linh. Bằng cách quán sát bản tánh của nguyên lý duyên sinh, một vị Độc Giác Phật có thể chứng ngộ vô ngã thực sự của bản thân và chứng ngộ một-nửa vô ngã thực sự của các hiện tượng.” DICT.

Đối tượng mật nguyện – dam tshig gi rdzas, những đối tượng, (hay vật dụng) hay những chất liệu cần thiết để giúp cho các pháp hành trì của Kim Cương Thừa, hoặc để làm cho các pháp hành trì Kim Cương Thừa thêm phần ý nghĩa.

Đức Phật Thứ Hai (Đức Phật tái thế) – sangs rgyas gnyis pa, một danh hiệu của Đức Liên Hoa Sanh.

Dzogchen – xem Atiyoga, Đại Viên Mãn.

Gampopa – sgam po pa, xem Dagpo Rinpoche.

Gandharva (Càn Thát Bà, Hương Ấm) – dri za, nghĩa đen: ăn mùi hương. Tinh linh sống bằng các mùi hương. Cũng được dùng cho chúng sinh trong trạng thái Trung ấm.

hoangtri
07-17-2017, 11:29 AM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Garab Dorje – dga’ rab rdo rje, danh hiệu Tây Tạng nổi tiếng hơn các danh hiệu khác bằng Phạn ngữ của Ngài là Pramudavajra, Prahevajra, Surativajra hay Prajnabhava. Bậc Thầy đầu tiên mang thân tướng con người của dòng truyền thừa Đại Viên Mãn.

Garuda (Kim xí điểu) – khyung, một con chim thần thoại có kích thước rất lớn có thể bay ngay khi trứng nở, tượng trưng cho Trí tuệ nguyên sơ. Năm màu sắc trong thân chim đôi khi được tượng trưng cho năm trí tuệ. Chim là địch thủ của các naga (Rồng), và được mô tả với một con rắn trong mỏ của nó, tượng trưng cho việc đoạn diệt các cảm xúc tiêu cực.

Gelugpa (Trí Đức) – dge lugs pa, một trong các trường phái chính của Tân Phái, được Ngài Je Tsongkhapa (1357¬1419) sáng lập và lúc đầu được gọi là Gandenpa theo tên trụ xứ của Ngài là ở tu viện Ganden.

Geshe – dge bshes, thiện tri thức. Thuật ngữ thường dùng cho một vị Thầy Kadampa. Về sau nó được dùng để chỉ một tiến sĩ triết học trong phái Gelugpa.

Giác ngộ – byang chub, Phạn: bodhi, tịnh hoá (byang) tất cả mọi chướng ngại và chứng ngộ (chub) được tất cả các phẩm hạnh.

Giác tánh – rig pa, Phạn: vidya, trạng thái nguyên sơ của tâm, tươi mới, bao la, chói ngời, và siêu vượt niệm tưởng.

Giai đoạn phát triển (Generation stage) –bskyed rim, Phạn. utpattikrama “thiền định du già mà qua đó ta tịnh hoá bản thân khỏi các tham đắm quen thuộc đưa ta đến bốn trạng thái tái sinh khác nhau và trong giai đoạn này, ta thiền định về sắc tướng, âm thanh và tư tưởng giống như là những điều này có đầy đủ chân tánh của các vị Hộ Phật (deities), của các câu minh chú và của trí tuệ.” DICT.

Giai đoạn toàn thiện (thành tựu) – rdzogs rim, Phạn. sampannakrama. 1. “với các đặc tính” (mtshan bcas), đó là pháp môn thiền định dựa trên các kinh mạch và năng lực của thân, được quán tưởng như là một thân kim cương. 2. “không có các đặc tính” (mtshan med), đó là giai đoạn thiền định trong đó các sắc tướng đã được quán tưởng trong giai đoạn phát triển đều tan hoà, và ta an trụ trong kinh nghiệm về tánh Không.

Giải thoát (Liberation) – thar pa, Phạn: moksa, 1) đạt được sự tự do, thoát khỏi luân hồi sinh tử, là một vị A La Hán hay một vị Phật. 2) đôi khi, bsgral las byed pa, một pháp môn giúp đem lại giải thoát, một pháp môn để giải thoát (dẫn dắt) tâm thức của một chúng sinh hiểm ác vào một cõi Phật. Cũng xem chú thích 75.

Giáo huấn tâm-yếu – man ngag, Phạn. upadesa, các giáo huấn giảng dạy về những chủ đề giáo lý sâu xa nhất, trong một phương pháp cô đọng và trực tiếp vì mục đích của việc tu tập.

hoangtri
07-18-2017, 06:24 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Gió (khí) – 1) xem năng lực. 2) một trong ba thể dịch theo y khoa Tây Tạng. Cũng xem mật, đàm.

Gọi Thầy từ chốn xa – bla ma rgyang ‘bod, một thể loại cầu nguyện khao khát vị Thầy tâm linh của ta.

Gotsangpa (Gonpa Dorje) – rgod tshang pa mgon po rdo rje (1189-1258), Đạo sư Kagyupa, đệ tử của Tsangpa Gyare, vị sáng lập một nhánh của tông phái Drukpa Kagyu và của nhiều tu viện.

Guru Rinpoche – guru rin po che, danh hiệu phổ thông nhất của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) ở Tây Tạng.

Guru Yoga (Bổn Sư Du Già) – bla ma’I rnal ‘byor, pháp môn hành trì để hoà nhập tâm ta với tâm của vị Thầy.

Gyalse Rinpoche – rgyal sras rin po che, nghĩa đen: Nam tử Tôn Quý của các Đấng Chiến Thắng. Một danh hiệu được ban cho Thogme Zangpo (1295-1369), một Đạo sư vĩ đại của các truyền thống Nyingma và Sakya và là tác giả của trước tác có tên Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo (rgyal sras lag len).

Gyelgong – rgyal ‘gong. Một loại Tinh linh hiểm ác.

Hai bồ công đức (two-fold accumulation) – tshogs gnyis, Phạn: sambharadvaya, tích lũy phước đức (bsod nams, Phạn: punya) và tích lũy trí tuệ (ye shes, jnana).

Hai Chân lý – bden pa gnyis, Chân lý Tuyệt đối (Chân đế) và Chân lý Tương đối (Tục đế).

Hai chướng ngại – sgrib gnyis, các chướng ngại của những cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng) và các chướng ngại thuộc ý niệm (sở tri chướng). Cũng xem bốn chướng ngại.

Hai Đấng Siêu Việt – mchog gnyis, Gunaprabha (yon tan ‘od) và Sakyaprabha (sha kya ‘od).

Hai mươi lăm đại đệ tử – rje ‘bang nyer lnga, các đệ tử Tây Tạng vĩ đại nhất của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Tất cả các Ngài đã đạt được thành tựu siêu việt. Những vị nổi tiếng nhất là Vua Trisong Detsen, Yeshe Tsogyal, và Vairotsana. Nhiều Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng là các Hoá Thân của hai mươi lăm đệ tử này.

Hai mươi mốt ‘Genyen’ – dge bsnyen nyer gcig, một nhóm Tinh linh bị Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) nhiếp phục và trở thành các vị Hộ Pháp.

Hai tánh thuần tịnh – dag pa gnyis, tánh thuần tịnh nguyên sơ (rang bzhin ye dag), là Phật tánh trong mọi chúng sinh, và tánh thuần tịnh thoát khỏi tất cả mọi ô nhiễm ngẫu nhiên (blo bur phral dag). Chỉ duy một vị Phật là người vừa có tánh thuần tịnh nguyên sơ thứ nhất và cũng có tánh thuần tịnh thoát mọi đắm nhhiễm thứ hai.

Hành giả chai lì – chos dred, nghĩa đen: “con gấu Pháp.” Người không được Giáo Pháp điều phục, người hiểu biết Pháp nhưng không thực hành, khiến tâm thức họ trở nên chai cứng...” DICT. Người chỉ có hiểu biết lý trí mà không có chút kinh nghiệm nào, nhưng lại cho rằng mình thấu suốt toàn bộ Giáo Pháp.

Hành giả du già – xem yogi hay yogini.

Hành vi tích cực (thiện hạnh) – dge ba, Phạn: kusala. “ Những gì tạo nên hạnh phúc” (Dudjom Rinpoche). AT: những hành vi lợi lạc, đức hạnh.

Hành vi tiêu cực (ác hạnh) – sdig pa hoặc mi dge ba, Phạn: asubha. “Những gì tạo nên đau khổ” (Dudjom Rinpoche). AT: hành vi ác hại, việc làm không lành mạnh, điều xấu ác.

Hạnh đầu đà – xem mười hai giới khổ hạnh.

hoangtri
07-21-2017, 05:35 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Hiền kiếp – bskal pa bzang po, Phạn: bhadrakalpa, kiếp hiện tại, được gọi là hiền (tốt lành) bởi đây là một kiếp trong đó một ngàn vị Phật xuất hiện.

Hiện tượng tan hoà trong Chân tánh – chos nyid zad pa, một trong bốn linh kiến hay kinh nghiệm tu chứng trên con đường tu tập pháp Thogal (một trong các pháp của Đại Viên Mãn). “ Tất cả mọi hiện tượng đều được tịnh hoá trong Mạn đà la của tinh tuý vĩ đại duy nhất, tất cả mọi tạo tác do tâm đều tan biến vào Chân tánh. Thậm chí cũng không bám chấp vào chân tánh.” DICT.

Hình thành – srid pa, tiến trình của luân hồi sinh tử. Từ Tây Tạng này thường được dùng trong ý nghĩa của “triển vọng,” là kết quả của tất cả những ý niệm mà ta phóng chiếu lên thực tại -- những ý niệm này trở thành thế giới huyễn hoá mà chúng ta nhìn thấy qua tri kiến. Từ hình thành này thường được dùng như là một từ đồng nghĩa với luân hồi sinh tử (samsara), đối nghịch với zhi ba, sự an
tịch của Niết Bàn.

Hộ Thần – xem Hộ Pháp.

Hộ Pháp – chos skyong, Phạn: dharmapala. Các vị Hộ Pháp bảo vệ Giáo Pháp không bị suy vi và để cho sự truyền dạy Giáo Pháp không bị quấy nhiễu, xuyên tạc. Đôi khi các Hộ Pháp là Hoá Thân của chư Phật và Bồ Tát, và đôi khi là những Tinh linh, các vị Trời hay Quỷ Ma đã được một Đạo Sư tâm linh vĩ đại nhiếp phục và bị buộc phải hứa nguyện (để trở thành Hộ Pháp).

Hộ Pháp thuộc Tam Thánh Bộ – rigs gsum mgon po, các Bồ Tát Manjusri (Văn Thù), Avalokitesvara (Quán Thế Âm) và Vajrapani (Kim Cương Thủ). Đây là những vị được tôn kính thuộc về thân, ngữ và ý của Đức Phật.

Hộ Phật Tài Bảo – nor lha, một vị Hộ Phật (deity) mà ta giữ mối hoà hảo để tăng trưởng tài bảo.

Hoá Thân (nirmanakaya) – sprul sku, thân hoá hiện, là một phần của Phật Quả hiển lộ qua lòng Bi mẫn để cứu giúp những chúng sinh bình thường.

Hơi ấm (dấu hiệu) – drod rtags, một dấu hiệu cho thấy công phu thực hành đang bắt đầu tiến triển. (Khi một ngọn lửa tạo nên nhiệt thì có nghĩa là nó đã bắt đầu cháy tốt.) Thành ngữ này không đặc biệt nói tới một kinh nghiệm về thân nhiệt.

Huyễn tướng (hình tướng) – snang ba, xem tri giác (tri kiến).

Huynh đệ và tỉ muội kim cương – rdo rje spun, các hành giả cùng một Thầy, hoặc cùng học với những vị Thầy mà ta đã từng thọ lãnh các giáo lý Kim Cương Thừa. Xem các bằng hữu tâm linh.

Indra (Đế Thích) – brgya byin, vua Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba.

Jamgon Kongtrul (Vĩ Đại), Lodro Thaye – ‘jam mgon kong sprul blo gros mtha’yas (1813-1899) là một vị Thầy vĩ đại của phong trào bất bộ phái (Rimé) và cùng với Jamyang Khyentse Wangpo, chịu trách nhiệm biên khảo một số tuyển tập vĩ đại, kể cả Kho Báu Các Giáo Lý Được Tái Phát Hiện (rin chen gter mdzod), trong đó bao gồm các giáo lý và pháp môn hành trì từ tất cả mọi truyền thống.

hoangtri
07-21-2017, 05:46 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Jetsun Mila (Milarepa) – re brtsun mi la (1040-1123), hành giả du già và thi sĩ vĩ đại của Tây Tạng mà tiểu sử và các bài ca tâm linh của Ngài nằm trong số những tác phẩm được yêu quý nhất trong Phật Giáo Tây Tạng. Là một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Marpa, Ngài ở trong số các Đạo Sư vĩ đại nhất vào thời kỳ phôi thai của phái Kagyupa.

Jigme Lingpa – ‘jigs med gling pa (1729-1798), xem dẫn nhập của sách này. Ngài được coi là một hiện thân hợp nhất của cả ba vị Vimalamitra, Vua Trisong Detsen và Gyalse Lharje. Patrul Rinpoche thường được coi là hiện thân về ngữ của Jigme Lingpa.

Jowa và Sakya – jo shag rnam gnyis, Jowo Mikyo Dorje và Jowo Sakyamuni, hai pho tượng của Đức Phật đưa sang Tây Tạng một cách thật trang trọng bởi hai vị công chúa xứ Nepal và Trung Quốc mà Vua Songtsen Gampo đã kết hôn vào thế kỷ thứ 7.

Jowo – jo bo, nghĩa đen: vương (lord). Một danh hiệu thường được người Tây Tạng sử dụng đối với học giả Ấn Độ Atisa.

Jowo Rinpoche – jo wo rin po che, một pho tượng tượng trưng cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc 12 tuổi, trong điện Jokhang ở Lhasa.
Jungpo – ‘byung po, một loại Tinh linh hiểm ác.

Kadampa – bka’ gdams pa, phái thứ nhất trong các trường phái thuộc Tân Phái Dịch Thuật, thuận theo các giáo lý của Ngài Atisa. Phái này chú trọng vào lòng Bi mẫn, học tập và giới luật thanh tịnh. Giáo lý của truyền thống Kadampa được tiếp nối bởi tất cả các trường phái khác, đặc biệt là phái Gelugpa. Phái Gelugpa cũng được gọi là phái Tân Kadampa.

Kagyupa – bka’ brgyud pa, một trong những trường phái của Tân Phái, thuận theo giáo lý được Dịch giả Marpa đem từ Ấn Độ sang Tây Tạng và được truyền dạy tới Ngài Milarepa. Phái này có nhiều tiểu phái.

Kalpa – xem Kiếp.

Kapala – ka pa la, một cái bình bát được làm bằng đỉnh sọ người.

Karma Chagme – karma chags med (thế kỷ 16), Lạt Ma nổi tiếng của phái Kagyupa, người hợp nhất giáo lý của phái Kagyupa với giáo lý phái Nyingmapa và là giáo thọ của Namcho Mingyur Dorje, một vị khai quật kho tàng tâm linh.

Karmapa – kar ma pa, danh hiệu của những đại Lạt Ma thuộc phái Kagyupa mà dòng truyền thừa của các vị Hoá Thân của các Ngài bắt đầu từ Ngài Dusum Khyenpa (Karmapa đời thứ Nhất) (1110-1193). Các vị Karmapa là những vị Hoá Thân (tulku) đầu tiên được tuyên nhận ở Tây Tạng.

Kasyapa (Ca Diếp) – ‘od srung, vị thứ ba trong một ngàn vị Phật trong kiếp hiện tại, là vị Phật xuất hiện trước Đức Thích Ca Mâu Ni. Kasyapa cũng là tên của một trong những đệ tử Thanh Văn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Katyayana– Vị A La Hán Ấn Độ là một đệ tử của Đức Phật và đã ghi chép lại một phần của Abhidharma (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp).

Kaya (Thân Phật) – sku, xem ba Thân, bốn Thân, năm Thân.

Kiếp (Kalpa) – bskal pa. Một đại kiếp, tương ứng với một chu kỳ hình thành và hoại diệt của một thế giới (theo vũ trụ quan của Phật Giáo), được phân ra thành tám mươi trung kiếp. Một trung kiếp bao gồm: một tiểu kiếp trong đó thọ mạng v.v.. tăng trưởng và một tiểu kiếp trong đó thọ mạng suy giảm.

hoangtri
07-21-2017, 06:15 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Kim xí điểu – xem Garuda.

Khai Mật Tạng Vương – xem Bậc Khám Phá Kho Tàng Tâm Linh.

Khampa Lungpa – khams pa lung pa (sgang sha’kya yon tan) (1025-1115), một Lạt Ma Kadampa, một trong những trưởng tử của Drom Tonpa.

Kharak Gomchung, (Geshe) – kha rag sgom chung, một Lạt Ma Kadampa sống vào thế kỷ thứ 11, đệ tử của Geshe Potowa. Danh hiệu của Ngài có nghĩa là “Tiểu Thiền Giả Xứ Kharak,” và Ngài nổi tiếng do tánh kiên trì và cách áp dụng giáo lý một cách nghiêm cẩn. Được biết rằng Ngài đã thọ nhận giáo lý Đại Viên Mãn và thành tựu thân cầu vồng.

Khatvanga – một chĩa ba với nhiều vật trang sức có tính chất tượng trưng.

Kho tàng – xem kho tàng tâm linh.

Kho tàng tâm linh – gter ma, các giáo lý, cùng những pho tượng và những đồ vật khác đã được cất dấu bởi Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava), Yeshe Tsogyal và những vị khác. Những kho tàng này được dấu trong đất, đá, hồ nước và cây cối, hoặc ngay cả trong những nơi vi tế hơn chẳng hạn như trong không gian hay trong tâm thức vì sự lợi ích cho các thế hệ tương lai, và sau đó những kho tàng tâm linh này được phát hiện lại bằng những cách thế phi thường bởi những Hoá Thân của các vị đệ tử của Đức Liên Hoa Sanh, là những bậc khai quật kho tàng (Khai Mật Tạng Vương).

Khởi từ vô thủy – Chúng tôi đã dùng từ này để dịch ye trong các thành ngữ như ye nas, “ngay từ lúc bắt đầu” hay ye dag “thanh tịnh từ lúc khởi đầu.” Tuy nhiên phải hiểu rằng từ này không nói tới một giây phút đầu tiên của một sự bắt nguồn hay sáng thế từ trong quá khứ xa xôi, mà đúng hơn, nói tới bản tánh thanh tịnh đã luôn luôn hiện diện bên trong ta.

Khu, Ngok và Drom – ba đệ tử chính của Atisa. Danh hiệu đầy đủ của các Ngài là Khuton Tsondru Yungdrung, Ngok Lekpai Sherab, và Drom Gyalwai Jungne (Drom Tonpa).

Khuynh hướng quen thuộc (Tập khí)– bag chags, Phạn: vasana, những tập khí quen thuộc của tư tưởng, ngôn ngữ hay hành động được tạo nên bởi những gì ta từng làm trong những đời quá khứ. AT: những tập quán, thiên hướng, sự tiêm nhiễm.

Kila – phur ba, một vị Hộ Phật phẫn nộ, một khiá cạnh của công hạnh của tất cả chư Phật, là một hoạt hiện của Đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Pháp môn hành trì liên quan tới vị Hộ Phật này được đặt nền tảng trên bốn khiá cạnh khác nhau của Kila, đó là các bảo vật có tính cách nghi lễ, lòng Bi mẫn, Bồ Đề Tâm và Tuệ giác.

Kim cương – có các phẩm tính (bất hoại) của kim cương (vajra).

Kim Cương Hỉ – bzhad pa rdo rje, danh hiệu khác của Garab Dorje.

Kim Cương Hoan Hỉ – dgyes pa rdo rje, một danh hiệu của Garab Dorje.

Kim Cang (Kim Cương) Thừa – xem Vajrayana hay Tantra.

Kim Cang (Kim Cương) Trì – xem Vajradhara.

Kinh (Sutra) – mdo, các bản văn súc tích do Đức Phật thuyết; một trong Tam Tạng. Xem Tam Tạng (tripitaka).

hoangtri
07-22-2017, 05:31 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Kinh mạch – rtsa, Phạn. nadi, các kinh mạch vi tế trong đó năng lực vi tế (rlung, Phạn. prana) lưu thông. Các kinh mạch vi tế chính yếu ở bên trái và bên phải, chạy từ các lỗ mũi tới phiá dưới rốn một chút (đan điền), ở đó chúng hợp lại với đường kinh mạch trung ương.

Kinh Mạch và Năng lực (các bài thực tập về) – rtsa rlung gi ‘phrul ‘khor, các bài thực tập kết hợp quán tưởng, thiền định và các chuyển động của thân, trong đó sự luân chuyển của các năng lực vi tế được kiểm soát và hướng dẫn. Các pháp môn thực hành này chỉ nên được nỗ lực thực hiện nương vào sự truyền dạy và hướng dẫn đúng đắn, sau khi đã hoàn tất các pháp tu dự bị và đạt được một vài kinh nghiệm vững chắc trong giai đoạn phát triển.

Kinh mạch trung ương – rtsa dbu ma, Phạn. avadhuti, trục giữa của thân vi tế. Đường kinh mạch trung ương này được mô tả theo những cách thức thay đổi, tuỳ vào pháp môn thực hành đặc biệt. Kinh mạch này tượng trưng cho trí tuệ bất nhị.

Kinh nghiệm (thiền định) – nyams, các kinh nghiệm về đại lạc, tánh sáng, và vô niệm. Ta không nên dính mắc vào những kinh nghiệm như thế hay lầm lẫn cho rằng đây là những mục tiêu cuối cùng.

Krakucchanda (Câu Lưu Tôn Phật)– ‘khor ba ‘jig, Đức Phật đầu tiên của một ngàn vị Phật của Hiền Kiếp này (*Destroyer of Samsara Buddha, còn có tên Hán Việt là Diệt Lũy Phật, Thành Tựu Mỹ Diệu Phật hay Sở Ưng Đoạn Dĩ Đoạn Phật).

Krisnacarya – nag po spyod pa, một trong tám mươi bốn Đại Thành tựu giả của Ấn Độ.

Kriya (yoga) – bya ba, pháp du già thứ nhất trong ba ngoại Mật điển (tantra), và là thưà thứ tư trong chín thừa. Trong pháp tu tập này, điểm trọng yếu được đặt trên cách hành xử đúng đắn và sự tinh sạch.

Ksatriya – rgyal rigs, một trong bốn giai cấp của hệ thống xã hội Ấn Độ thời xa xưa, giai cấp của các vị vua và chiến sĩ (giai cấp Sát-đế-lỵ).

Kusa – ku sha, một loại cỏ được coi là tốt lành, bởi Đức Phật đã an toạ trên một tấm nệm làm bằng loại cỏ này khi Ngài đạt được Giác ngộ.

La Sát – srin po, một loại Tinh linh hiểm độc ăn thịt người.

Lạc (kinh nghiệm) – bde nyams, một trong ba loại kinh nghiệm đạt được trong thiền định. Xem kinh nghiệm.

Lạc Biến Hoá Thiên – ‘phrul dga’, Phạn: Nirmanarata, một cõi Trời trong Dục Giới (ở tầng thứ năm của các vị Trời Dục Giới) trong đó các vị Trời có thể tạo ra bất cứ những gì họ cần một cách thần diệu. Xem ba cõi hay Tam giới.

Lạt Ma – bla ma, Phạn: guru, 1) vị Thầy tâm linh, được giải nghĩa là sự trái ngược với bla na med pa, “không có gì tối thượng hơn” (“vô thượng”). 2) thường được dùng một cách bao quát để chỉ các tăng sĩ hay cách hành giả du già (yogi) Phật Giáo nói chung.

Lakhe – gla khe, loại cây có vỏ ngọt.

Langri Thangpa, (Geshe) – glang ri thang pa (1054-1123), Geshe phái Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa, tác giả của Tám Bài Kệ Luyện Tâm và là vị sáng lập Tu viện Langthang.

hoangtri
07-22-2017, 05:38 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Lâu Chí Phật (Infinite Aspiration) – mos pa mtha yas, (Phạn: rucika), một vị Phật vị lai, vị cuối cùng trong một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện trong Hiền Kiếp hiện tại này. (* Còn có tên là Ái Lạc Phật, Đề Khốc Phật, Lư Già Phật, Lâu Do Phật)

Lễ lạy – phyag ‘tshal ba, cử chỉ tôn kính, trong đó trán, hai bàn tay và hai đầu gối đều chạm đất.

Liên Hoa Sanh – xem Padmasambhava.

Lingje Repa – gling rje ras pa (1128-1188), vị sáng lập phái Drukpa Kagyu.

Longchenpa – klong chen rab ‘byams pa (1308-1363), cũng được gọi là Bậc Toàn Giác hay Pháp Vương, một trong những Đạo Sư tâm linh và học giả phi thường nhất của phái Nyingmapa. Ngài đã biên soạn hơn 250 luận thuyết, bao trùm hầu hết tất cả các lý thuyết và thực hành Phật Giáo cho tới pháp Đại Viên Mãn; Ngài là một trong số những Luận Sư vĩ đại nhất đã diễn giảng về pháp này. Trong số những luận thuyết vẫn còn lưu truyền là các tác phẩm nổi tiếng: Bảy Kho Báu (mdzod bdun), Nyingtk Yabzhi (snying tig ya bzhi), Ba Pháp An Trú (ngal gso skor gsum), Ba Pháp Giải Thoát Như Nhiên (rang grol skor gsum), Ba Pháp Phá Tan Bóng Tối (mun sel skor gsum) và Các Tác Phẩm Góp Nhặt (gsung thor bu).

Long Thọ – xem Nagarjuna.

Luân xa – ‘khor lo, Phạn: cakra, một trong những trung tâm năng lực ở những điểm khác nhau trên đường kinh mạch trung ương, từ đó toả ra những kinh mạch nhỏ, vi tế đi tới mọi cơ quan trong thân thể.

Luân hồi – xem Samsara.

Luận – xem Sastra.

Luật (Vinaya) – ‘dul ba, một trong Tam Tạng (tripitaka), gồm có những giáo lý về giới luật và đạo đức học của tu viện nói chung.

Lục độ ba la mật (six paramitas) – xem sáu pháp toàn thiện siêu việt.

Lục thức – xem sáu thức.

Ma quỷ– ‘dre, tinh hồn của người chết hay tổng quát hơn nữa, Tinh linh hoạ hại.

Machik Labdron – ma cig lab sgron (1031-1129), một đệ tử của Padampa Sangye, Bà trở thành bậc trì giữ các giáo huấn về pháp môn Chư của sư phụ.

Madhyamika – xem Trung Đạo.

Maha (yoga) (Đại du già) – pháp du già đầu tiên trong ba pháp du già tối thượng theo cách phân loại Giáo Pháp thành chín thừa. Trong pháp du già này, chủ yếu được đặt trên giai đoạn phát triển (bskyed rim).

Mahamudra – phyag rgya chen po, nghĩa đen: Đại Ấn. Đại Ấn có nghĩa là dấu ấn của chân tánh trên tất cả mọi sự và trên tất cả mọi hiện tượng nằm trong Mạn đà la trí tuệ. Thuật ngữ này có thể được dùng để chỉ rõ giáo lý, pháp thực hành thiền định hay quả vị thành tựu siêu việt. (* Thường được dịch là Đại Thủ Ấn).

Mahayana – theg pa chen po, xem Đại Thừa.

Mahasiddha – xem Tám mươi Đại Thành Tựu Giả.

Mạn đà la – dkyil ‘khor, nghĩa đen: trung tâm và chu vi. 1) Thế giới với cung điện của Bổn Tôn ở trung tâm, như được quán tưởng trong pháp môn tu tập của giai đoạn phát triển. 2) Thế giới lý tưởng được quán tưởng như một phẩm vật cúng dường.

Mạn đà la bảy cúng phẩm – mandal so bdun ma, mạn đà la gồm có Núi Tu Di, bốn trung châu (lục địa), mặt trời và mặt trăng.

hoangtri
07-22-2017, 05:58 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Maitreya (Di Lặc) – byams pa, Đức Phật sắp xuất hiện, là vị Phật thứ năm trong đại kiếp hiện tại. Ngài cũng là một trong Tám Trưởng Tử (của Đức Phật Thích Ca).

Maitriyogi – byams pa’i rnal ‘byor pa, một trong ba vị Thầy chính của Atisa.

Mamo – mamo, Phạn: matrika, một loại Không Hành nữ.

Mandarava – một Thiên nữ trí tuệ (dakini), con gái của Vua xứ Zahor ở Ấn Độ. Một trong năm đệ tử và phối ngẫu chính của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) và một trong những vị trì giữ chính yếu những giáo lý của Ngài.

Mandhatri – nga las nu, một Hoá Thân khi xưa của Đức Phật, đã trở nên đầy uy lực nhờ vào sức mạnh của các công đức đã tích lũy trong quá khứ, nhưng đã đánh mất hết các thần lực này bởi một số tư tưởng xấu ác.

Mani – minh chú của Đức Avalokitesvara (Chenrezi), om mani padme hum.

Manjusrimitra (Diệu Đức Hữu) – ‘jam dpal bshes gnyen, Đạo sư thứ hai trong nhân loại thuộc dòng truyền thừa Đại Viên Mãn, một đại học giả của Nalanda và đệ tử của Garab Dorje.

Màn trướng quý báu – rin po che’i gdugs, một trong tám dấu hiệu tốt lành, tương ứng với đầu của Đức Phật và tượng trưng cho sự che chở thoát khỏi các hành vi xấu ác.

Ma vương (Mara) – bdud, Quỷ Ma, xem chú thích 230; những gì quyến rũ nói chung, tạo ra chướng ngại cho việc tu hành tâm linh và quả vị Giác Ngộ.

Marpa – lho brag mar pa (1012-1097), Đạo sư và dịch giả vĩ đại của Tây Tạng, đệ tử của Drogmi, Naropa, Maitripa và các Đại Thành tựu giả khác. Ngài mang nhiều Mật điển (Tantra) từ Ấn Độ về Tây Tạng và phiên dịch qua Tạng ngữ. Các giáo lý này được truyền xuống cho Milarepa và các đệ tử khác của Ngài, và là nền tảng của giáo lý dòng truyền thừa Kagyu.

Mật – mkhris pa, một trong ba thứ chất dịch của thân thể, sự mất quân bình của mật tạo nên những loại bệnh tật khác nhau. Cũng xem gió, đàm.

Mật điển – xem Tantra.

Mật nguyện (Hứa nguyện) – xem Samaya.

Mật Thừa – gsang ngags kyi theg pa, một nhánh của Đại Thừa, thừa này sử dụng các kỹ thuật đặc biệt của các Mật điển để việc đeo đuổi con đường giác ngộ vì tất cả chúng sinh có thể được hoàn tất nhanh chóng hơn.

Mâu Ni (Muni) – thub pa, nghĩa đen: Đấng Vĩ Đại (Thánh Giả). Một danh hiệu của một vị Phật.

Melong Dorje – me long rdo rje (1243-1303), Đại Thành Tựu Giả Tây Tạng, đạo sư của Kumaradza (Kumaradza là thầy của Longchenpa).

Milarepa – xem Jetsun Mila.

Minh chú (Mật Chú – Thần Chú - Mantra) – sngags, sự hiển lộ của tâm thức giác ngộ siêu việt qua hình thức các âm thanh. Các âm tiết trong các nghi quỹ (sadhana) của Mật Thừa bảo vệ tâm thức hành giả khỏi những tri giác phàm tục và được trì tụng để khẩn nguyện các Bổn Tôn Trí Tuệ.

Minh Sát (Quán) – lhag mthong, Phạn: vipasyana, “nhìn với con mắt trí tuệ để thấy ra được bản tánh riêng của tất cả mọi sự việc (hay tất cả các pháp).” DICT.

hoangtri
07-22-2017, 06:08 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Một mục đích hai lợi lạc (Two-fold goal) – don gnyis, mục đích, lợi ích hay hạnh phúc (rang don) của riêng ta, và mục đích, lợi ích hay hạnh phúc của những chúng sinh khác (gzhan don). Thường được hiểu trong ý nghĩa tối hậu rằng mục đích cho bản thân sẽ đạt được nhờ chứng ngộ tánh Không hay Pháp Thân, và mục đích cho các chúng sinh khác sẽ đạt được nhờ vào lòng Bi mẫn hoá hiện như Sắc Thân.

Mười hai thể loại giảng dạy trong Tam Tạng (Thập nhị bộ kinh, Thập nhị phần giáo) – sde snod bcu gnyis, nghĩa đen: mười hai Tạng, cũng gọi là Mười hai Thuyết Ngôn Tuyệt Hảo (gsung rab yan lag bcu gnyis). Mười hai thể loại giảng dạy do Đức Phật tuyên thuyết tương ứng với mười hai loại Kinh: Khế Kinh (mdo sde, Phạn: sutra), Trùng tụng (dbyangs bsnyan, geya), Thọ ký (lung bstan, vyakarana), Phúng tụng (tshigs bcad, gatha), Tự thuyết (ched brjod, udana), Nhân duyên (gleng gzhi, nidana), Tự truyện (skyes rab, jataka), Vị tằng hữu (rmad byung, adbhutadharma), Luận nghĩa (gtan babs, upadesa), Ẩn dụ (rtogs brjod, avadana), Bản sự (de ltar byung, itivrittaka), và Phương quảng (shin tu rgyas pa, vaipulya).

Mười hai giới khổ hạnh (Hạnh đầu đà) – sbyangs pa’i yon tan bcu gnyis, Phạn: dvadasadhutaguna, mười hai giới thực hành khổ hạnh của các Thanh Văn và Phật Độc Giác, chẳng hạn như ngày ăn một bữa, sống ở nơi cô tịch, chỉ sở hữu ba tăng y, v.v..

Mười Hai Tiếng Cười Kim Cương – rdo rje gad mo bcu gnyis, một giáo lý của Đại Viên Mãn.

Mười phương (thập phương) – phyogs bcu, bốn phương chính, bốn phương trung gian, phương trên (thượng phương) và phương dưới (hạ phương).

Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) – mo’u ‘gal gyi bu, một trong hai đệ tử Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài được coi là bậc có oai lực thần thông vĩ đại nhất.

Nada – được định nghĩa là chos nyid kyi rang sgra, âm thanh tự nhiên của Pháp Tánh (dharmata). Trong âm tự hum, nada được tượng trưng bởi một ngọn lửa nhỏ nằm phiá trên vòng tròn ở trên đỉnh, biểu tượng cho trạng thái giác ngộ, là giác tánh, tinh tuý độc nhất.

Naga (Long, Rồng) – klu, một sinh loài giống như rắn sống sâu dưới nước hay dưới mặt đất. Mặc dù có các năng lực kỳ diệu, chúng được xếp vào loài súc sinh. Xem Tam giới hay ba cõi.

Nagarjuna (Long Thọ) – klu sgrub (thế kỷ thứ 1-2), Đạo Sư Ấn Độ, một trong Sáu Pháp Bảo. Ngài giảng dạy giáo lý Trung Đạo và biên soạn nhiều luận thuyết triết học và y học.

Nalanda – nơi sinh trưởng gần Rajagriha của đệ tử của Đức Phật là Ngài Xá Lợi Phất, là nơi về sau trong thời của các vị vua Gupta (thế kỷ thứ 5) trở thành một trong những trung tâm tu học vĩ đại nhất của Phật Giáo Ấn Độ. Tu viện này đã bị phá huỷ khoảng năm 1200.

Namcho Mingyur Dorje – gnam chos mi ‘gyur rdo rje, một vị khám phá được các bảo tàng Kinh (Khai mật tạng) vào thế kỷ 16.
Nanda – dga’bo, một người em họ của Đức Phật, về sau trở thành một trong những đệ tử xuất sắc của Ngài.

Naropa – na ro pa (1016-1100), học giả và Thành tựu giả Ấn Độ, là đệ tử của Tilopa và Đạo Sư của Dịch giả Marpa.

Ngũ Bộ Phật – rigs lnga , Phạn: pancakula, Phật, Kim Cương, Bảo Sanh, Liên Hoa và Nghiệp Bộ. Năm Bộ Phật tượng trưng cho Chân tánh của vạn pháp. Ví dụ như, Năm Đấng Chiến Thắng là chân tánh của năm uẩn, Năm vị Phối Ngẫu của các ngài là chân tánh của năm yếu tố (ngũ đại), và năm trí tuệ là chân tánh của năm độc, và v..v..

hoangtri
07-22-2017, 06:16 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Năm con đường – lam lnga, Phạn: pancamarga, năm giai đoạn liên tiếp trên con đường tu dẫn tới Giác ngộ: con đường vun bồi công đức, con đường hợp nhất, con đường của cái thấy (kiến), thiền định, và con đường siêu việt sở học.

Năm khoa học (Ngũ minh) – rig gnas lnga, Phạn: pancavidya, năm khoa học mà một đại học giả (pandita) phải thông suốt: 1) sự chế tạo của các sự vật (gzo rig gnas, silpavidya), 2) tu sửa các sự vật (bao gồm y khoa; gso ba’i rig gnas, cikitsavidya), 3) ngữ văn (sgra’ rigs gnas, Sabdavidya), 4) luận lý học (gtan tshigs kyi rig gnas, hetuvidya) và 5) triết học (nang don rig gnas, adhyatmavidya).

Năm năng lực – xem năng lực.

Năm độc (Ngũ độc) – dug lnga, năm cảm xúc tiêu cực: 1) si, gti mug, Phạn. moha (AT: sự vô minh, lầm lạc), 2) tham, ‘dod chags, raga (AT: dục vọng), 3) sân, zhee sdang, dvesa (bao gồm sự thù ghét, giận dữ, v.v..), 4) ganh tị, phra dog, irsya, và 5) kiêu ngạo, nga rgyal, mana.

Năm mật nguyện thọ dụng – dang du slang ba’i dam tshig lnga, năm mật nguyện (samaya) phụ thuộc trong pháp tu Đại Viên Mãn. Những mật nguyện này có liên quan tới sự vui hưởng năm loại thịt và năm chất cam lồ, là những chất thể được các hành giả Mật Thừa sử dụng mà thông thường được coi là bất tịnh hay bị cấm kỵ.

Năm suy hoại – snyigs ma lnga, đó là sự suy hoại của 1) thọ mạng 2) các cảm xúc tiêu cực (năm độc tăng trưởng) 3) chúng sinh (khó có thể cứu giúp họ) 4) thời đại (chiến tranh và nạn đói kém phát triển) 5) quan niệm (các niềm tin sai lạc lan tràn).

Năm Thân Phật (kaya) – sku lnga, Phạn: pancakaya, ba Thân Phật được cộng thêm vào với Thân Kim Cương Bất Biến (mi ‘gyur rdo rje’i sku, Phạn: vajrakaya) và Thân Toàn Giác (mngon par byang chub pa’i sku, Phạn: abhisambodhikaya). Thành ngữ này cũng có thể ám chỉ năm Bộ Phật: thân, ngữ, ý, các phẩm hạnh và hoạt động của chư Phật. Xem ngũ bộ Phật.

Năm trọng tội có quả báo tức thời (ngũ nghịch trọng tội hay trọng nghiệp) – mtshams med lnga, Phạn: pancanantariya, 1) giết cha hay 2) giết mẹ hay 3) giết một vị A La Hán; 4) gây chia rẽ trong Tăng Đoàn; 5) làm một vị Phật chảy máu với sự ác ý (hay báng bổ, làm dơ bẩn hình tượng Phật). Những người mắc phạm một trong năm hành vi này bị tái sinh lập tức trong Địa ngục Vô Gián sau khi chết mà không kinh qua trạng thái trung gian.

Năm nghiệp tội gần như trọng tội (gần như trọng nghiệp) – nye ba’i mtshams med lnga, 1) hành xử bất tịnh với một vị nữ A La Hán; 2) giết hại một vị Bồ Tát; 3) giết hại hành giả đang tu tập hướng tới Phật Quả; 4) trộm cắp tài sản của Tăng Đoàn; 4) phá huỷ bảo tháp (stupa).

Năm trăm ngàn pháp tu dự bị – ‘bum lnga, năm pháp tu dự bị theo truyền thống: Quy y, Bồ Đề Tâm, Kim Cương Tát Đoả (Vajrasattva), Mạn đà la và Bổn Tôn Du Già (Guru yoga); mỗi pháp tu phải được thực hiện một trăm ngàn lần.

Năm yếu tố toàn hảo – phun sum tshogs pa lnga, vị Thầy toàn hảo, giáo lý toàn hảo, nơi chốn toàn hảo, chúng đệ tử toàn hảo và thời gian toàn hảo.

Ngũ độc – xem năm độc.

Ngũ trí (năm trí) – ye shes lnga, năm phương diện trí tuệ của Phật Quả: Trí tuệ của Pháp Giới tối thượng (Pháp Giới Thể Tánh Trí, chos dbyings kyi ye shes, Phạn: dharmadhatujnana), Trí tuệ như tấm gương (Đại Viên Cảnh Trí, mee long gi ye shes, adarsajnana), Trí tuệ bình đẳng (Bình Đẳng Tánh Trí, mnyam nyid kyi ye shes, samatajnana), Trí tuệ biết phân biệt (Diệu Quan Sát Trí, so sor rtog pa’i ye shes, pratyaveksanajnana), và Trí tuệ hoàn toàn thành tựu (Thành Sở Tác Trí, bya ba grub pa’i ye shes, krityanusthanajnana). Xem ngũ bộ.

hoangtri
07-22-2017, 08:36 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Năng lực – rlung, Phạn: prana, vayu, nghĩa đen: gió (khí). Đặc tính của gió là “nhẹ và chuyển động.” Tâm được mô tả như cưỡi trên gió rung giống như một kỵ sĩ trên lưng ngựa. Năm loại gió rlung khác nhau giúp điều chỉnh các chức năng của thân: 1) năng lực đi lên (gyen rgyu), 2) năng lực đẩy xuống (thur sel), 3) năng lực nồng nhiệt (me mnyam), 4) năng lực toàn-khắp (khyab byed) và 4) sinh lực tức năng lực duy trì sự sống (srog ‘dzin).

Ngạ quỷ – xem preta.

Nghiên cứu (văn) – thos pa, nghĩa đen: lắng nghe. Theo truyền thống, lắng nghe giáo lý là cách thức chính yếu để học tập ở Tây Tạng. Trước khi nghiên cứu một bản văn, điều quan trọng là phải thọ nhận lời dạy của vị Thầy qua tai bằng cách thực sự lắng nghe Pháp ngữ của vị Thầy. Như thế, “nghiên cứu” không chỉ thuần tuý là việc đọc một bản văn.

Nghiệp (Karma) – las. Chúng ta thường thích nói “kết quả của các hành động,” “hành động và kết quả” hay “nguyên lý nhân quả.” Theo nghĩa đen, Nghiệp chỉ có nghĩa đơn thuần là “hành động,” nhưng thường được dùng một cách rộng rãi để chỉ những kết quả do các hành vi trong quá khứ tạo nên (las kyi ‘bras bu, Phạn: karmaphala).

Nghiệp chướng – las kyi sgrib pa, Phạn: karmavarana, các che chướng hay chướng ngại gây ra bởi các hành vi tiêu cực. Xem chướng ngại.

Nghiệp lực – las kyi rlung, năng lực do nghiệp chiêu cảm quyết định, đối nghịch với ye shes kyi rlung, năng lực kết hợp với trí tuệ.

Ngondro – xem các pháp tu dự bị.

Ngũ nghịch trọng tội – xem năm trọng tội có quả báo tức thời.

Nguyên lý nhân quả – las rgyu ‘bras, nghĩa đen: hành vi, nhân và quả… Trong tiến trình nhân quả này, mỗi hành vi tạo ra một kết quả tương ứng. Xem nghiệp.

Nhân quả – xem nguyên lý nhân quả hay nghiệp.

Nhất Lai Vương Phật (Once-Come King) – sngon byung gi rgyal po, Đức Phật của kiếp (Kalpa) đầu tiên.

Nhị nguyên – gnyis ‘dzin, nghĩa đen: sự bám chấp, đối đãi, thấy có hai, Quan niệm về “ta” và “người.”

Như Lai – xem Tathagata.

Như nhiên – ma bcos pa, Phạn: naisargika, để yên trong trạng thái nguyên sơ, không cố tình thay đổi hay tạo tác.

Như thị – de bzhin nyid, Phạn: tathata, “bản tánh của vạn pháp, tánh Không.” DKR.

Nhục kế – gtsug tor, Phạn: usnisa, chỗ nhô lên trên đầu một vị Phật, một trong ba mươi hai tướng chính.

Niết bàn (Nirvana) – mya ngan las ‘das pa, trạng thái siêu vượt đau khổ. Ý niệm về Niết Bàn không giống nhau trong Thanh Văn Thừa, Đại Thừa và Kim Cương Thừa.

Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ – zangs mdod dpal ri, một cõi Phật do Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) hoá hiện, Ngài tới đó khi rời Tây Tạng và hiện vẫn an trụ ở đó.

Núi Tu Di (Meru) – ri rgyal po ri rab, ngọn núi vĩ đại, đỉnh núi rộng lớn hơn chân núi, bốn trung châu (lục địa) của thế giới ấy được bố trí quanh núi, phù hợp với khoa vũ trụ học của Ấn Độ thời cổ.

Nyingmapa – xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật.

Oddiyana – o rgyan, một trụ xứ của các Nữ Không Hành (dakini) là nơi đản sinh của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Theo một vài tài liệu thì nơi đây được xác định là ở giữa Afghanistan và Kashmir ngày nay. Đây cũng là nơi sinh ra đời của Garab Dorje. Việc dùng từ “Oddiyana” gắn liền với các danh hiệu chẳng hạn như “Đấng Vĩ Đại,” “Đức Phật Thứ Hai,” “Đạo Sư Vĩ Đại,” và v.v. luôn luôn ám chỉ Đức Liên Hoa Sanh.

Orgyenpa (Rinchen Pal) – o rgyan pa rin chen dpal (1230¬1309), một đại thành tựu giả của truyền thống Drukpa Kagyu, đệ tử của Gotsangpa. Ngài du hành khắp nơi, thăm viếng Oddiyana, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) và Trung Hoa. Trong số các đệ tử của Ngài có các vị Karmapa Rangjung Dorje, Kharchupa và Dawa Senge.

Ô nhiễm (hành vi) – zag bcas, Phạn: sasrava, được làm với ba ý niệm (tạo tác) về chủ thể, đối tượng và hành động.

hoangtri
07-27-2017, 03:30 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Padampa Sangye – pha dam pa sangs rgyas (thế ky1-12), Thành tựu giả Ấn Độ lập nên giáo lý của phái Shijepa (zhi byed pa). Ngài là Đạo sư của Machik Labdron, Ngài đã trao truyền cho Bà giáo lý Chư. Ngài đã du hành tới Tây Tạng vài lần.

Padma – danh hiệu mà Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) dùng để chỉ chính mình. Padma có nghĩa là “hoa sen.”
Padma Thotreng – padma thod phreng rtsal, nghĩa đen: Hoa sen đeo vòng hoa sọ người. Một trong những danh hiệu của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).

Padmasambhava xứ Oddiyana (Liên Hoa Sanh) – o rgyan padma ‘byung gnas, Đạo Sư đản sanh từ Hoa Sen ở xứ Oddiyana, Đức Liên Hoa Sanh, thường được gọi là Guru Rinpoche (Đạo Sư Tôn Quý). Trong triều đại của Vua Trisong Detsen, vị Đạo Sư vĩ đại này đã chế phục các thế lực xấu ác chống đối lại việc truyền bá Phật Giáo ở Tây Tạng, phổ biến giáo lý Phật Giáo thuộc Kim Cương Thừa ở đất nước Tây Tạng và cất dấu vô số kho tàng tâm linh vì lợi lạc của những thế hệ tương lai. Ngài được tôn kính như Đức Phật Thứ Hai mà sự xuất hiện của Ngài đã được vị Phật thứ nhất là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phó chúc, để ban dạy các giáo lý đặc biệt của Kim Cương Thừa.

Palmo (ni cô) – dge slong ma dpal mo, ni cô Ấn Độ nổi tiếng đã truyền bá pháp tu Nyung-ne (ăn chay một ngày, lễ lạy và giữ giới im lặng) và đạt được thành tựu siêu việt nhờ vào pháp hành trì nương nơi Đức Avalokitesvara.

Palyul (tu viện) – dpal yul, một trong sáu đại tu viện của phái Nyingmapa.

Pandita – một học giả, bậc uyên bác thấu suốt năm khoa học truyền thống (xem: năm khoa học – ngũ minh). Đặc biệt được dùng để ám chỉ các học giả Ấn Độ.

Paramita – xem pháp toàn thiện siêu việt (ba la mật).

Pháp – chos. Thuật ngữ này có một số ý nghĩa khác nhau. Trong ý nghĩa rộng lớn nhất thì Pháp có nghĩa là tất cả những gì có thể biết được (vạn pháp). Trong bản văn này thì thuật ngữ Pháp được dành riêng để chỉ giáo lý của Đức Phật (Phật Pháp). Pháp gồm có hai phương diện: Pháp của sự truyền giảng (lung gi chos), đó là những giáo lý thực sự được ban truyền, và Pháp của sự chứng ngộ (rtogs pa’i chos), hay là các trạng thái trí tuệ, v.v. là những gì đạt được nhờ vào việc áp dụng giáo lý. Pháp thường được ám chỉ là “Pháp Tối Thắng” (siêu việt) bởi Pháp có thể giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ. Pháp (Dharma) hay chos cũng có thể chỉ đơn giản có nghĩa là “các hiện tượng” (các pháp hữu vi). Khi mang ý nghĩa này thì Pháp được dịch theo nghĩa hẹp.

Pháp chuẩn bị, công phu chính yếu và kết thúc – sbyor dngos rjes gsum, ba phương pháp siêu việt cho bất kỳ pháp môn tu tập nào: 1) bắt đầu bằng cách kiểm soát xem ta có động lực từ bi hay không, 2) thực hành công phu mà không để cho các ý niệm hướng về của cải tài lộc xen vào, và 3) chấm dứt bằng cách hồi hướng công đức cho đạo quả giác ngộ của tất cả chúng sinh.

hoangtri
07-27-2017, 03:37 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Pháp chuyển di (Phowa) – ‘pho ba, 1) di chuyển từ nơi này sang nơi khác, chuyển kiếp (sau khi chết). 2) pháp môn thực hành để hướng dẫn tâm thức chuyển di vào lúc chết.

Pháp Giới – chos dbyings, Phạn. dharmadhatu, AT: thực tại trải rộng. Từ quan điểm của cái thấy chứng ngộ, mọi hiện tượng xuất hiện như là sự trải rộng của tánh Không.

Pháp luân – chos kyi ‘khor lo, Phạn: dharmacakra, biểu tượng của Phật Pháp. Chuyển Pháp Luân có nghĩa là giảng dạy Giáo Pháp. Trong đời Ngài, Đức Phật đã tuyên thuyết ba loạt giáo lý chính yếu, được nhắc tới như là những lần chuyển Pháp Luân thứ nhất, thứ nhì và thứ ba.

Pháp toàn thiện siêu việt (Ba la mật) – pha rol tu phyin pa, Phạn: paramita. Sáu phương pháp tu tập theo con đường của Bồ Đề Tâm hạnh. Các pháp này siêu việt bởi được đi kèm với trí tuệ của tánh Không. Cũng xem sáu pháp toàn thiện siêu việt (Lục độ ba la mật).

Pháp trì tụng Kim Cương – rdo rje bzlas pa, trì tụng các câu minh chú trong khi phối hợp với việc hít vào, nín hơi và thở ra.

Pháp tu dự bị (Ngondro) – sngon ‘dro. Xem năm trăm ngàn các pháp tu dự bị.

Pháp Vương của những điều Mật diệu – gsang ba’i bdag po, một danh hiệu của Vajrapani (Kim Cương Thủ).

Pháp Vương Toàn Giác – danh hiệu của Ngài Longchenpa.

Phật (Buddha) – sangs rgyas, “ Người đã đoạn diệt được (sangs) bóng tối của hai chướng ngại và phát triển được (rgyas) hai trí tuệ toàn giác (thấu suốt bản tánh của hiện tượng và thấu suốt được các hiện tượng phức tạp đa dạng.) DICT.

Phật Pháp – xem Pháp (Dharma).

Phật Tánh – de gshegs snying po, Phạn: tathagatagarbha, tiềm năng của Phật Quả hiện diện trong mỗi chúng sinh. AT: tinh túy của Phật Quả.

Phong trào bất bộ phái – ris med (rimé), nghĩa đen: không phân biệt. Phong trào tâm linh được phát động bởi các đại Lạt ma lừng danh Jamyang Khyentse Wangpo cũng như Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, Mipham, Chogyur Lingpa và Patrul Rinpoche. Đặc điểm của phong trào Rimé là tôn trọng tất cả mọi giáo lý và trường phái Phật Giáo.

Phowa – xem Pháp Chuyển Di.

Phối ngẫu – 1) yum, nữ Hộ Phật (deity) được mô tả trong sự hợp nhất với một nam Hộ Phật (yab). Bà tượng trưng cho trí tuệ bất khả phân với phương tiện thiện xảo, được tượng trưng bởi nam Hộ Phật. Các Ngài cũng tượng trưng cho Pháp Giới của tánh Không, bất khả phân với giác tánh. 2) gsang yum, nghĩa đen: bà mẹ bí mật. Vợ của một đại Lạt Ma.

Phước đức – bsod nams, Phạn: punya, thiện nghiệp, năng lực được phát sinh bởi các hành vi thiện lành của thân, ngữ và ý.
Phướn Toàn Thắng – phyogs las rnam par rgyal ba’I rgyal mtshan, một trong tám dấu hiệu tốt lành. Phướn này tương ứng với thân Phật và tượng trưng cho tính chất bất khả hoại của Giáo lý của Ngài.

Phương – xem mười phương.

Phương tiện – thabs, xem phương tiện thiện xảo.

hoangtri
07-28-2017, 04:06 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Phương tiện nghĩa – drang don, Phạn: neyartha, ám chỉ các giáo lý với ý định thích hợp để dẫn dắt chúng sinh chưa chứng ngộ đến được với chân lý của ý nghĩa rốt ráo hay chân nghĩa.

Phương tiện thiện xảo – thabs, Phạn: upaya, hoạt động tự nhiên, vị tha, phát sinh từ trí tuệ.

Pitaka (Tạng) – xem Tam Tạng (Tripitaka).

Pitaka (thứ tư) – sde snod bzhi pa, pitaka (Tạng) của Mật Thừa.

Potowa, (Geshe) – po to ba (1031-1105), một trong Ba Anh em, ba đệ tử nổi tiếng của Drom Tonpa (vị sáng lập phái Kadampa).

Pratyekabuddha – xem Độc Giác Phật.

Preta (ngạ quỹ) – yi dvags, AT: tinh linh đói khát, tinh linh, quỷ đói.

Puchungwa, (Geshe) – phu chung ba, một trong Ba Anh em.

Purnakasyapa – od srung rdzogs byed, một Đạo sư thủ lãnh những kẻ ngoại đạo (tirthika) vào thời Đức Phật.

Quả (kết quả của hành nghiệp) – las rgyu ‘bras, Phạn: phala. Xem nghiệp (karma).

Quả chín muồi (Quả báo thành thục) – rnam smin gyi ‘bras bu, Phạn: vipakaphala, thời điểm một hành nghiệp trổ quả cực đại, ví dụ như phải bị đoạ sanh vào trong Địa ngục.

Quả trổ sanh nghiệp cảnh – dbang gi ‘bras bu, tác dụng của các hành nghiệp báo ứng vào hoàn cảnh sống của ta trong một đời tương lai.

Quả vị hợp nhất – zung ‘jug gi go ‘phang, quả vị của Kim Cương Trì (Vajradhara). Sự hợp nhất của Pháp Thân và Sắc Thân.

Quan Âm – xem Tara. Quán – xem minh sát. Quán đảnh – dbang bskur, Phạn: abhiseka, nghĩa đen: trao truyền năng lực (gia lực). Sự cho phép nghe, nghiên cứu và thực hành giáo lý Kim Cương Thừa. Việc này xảy ra trong một nghi lễ có thể hết sức phức tạp hoặc hoàn toàn đơn giản. Xem bốn quán đảnh.

Quán đảnh bí mật – gsang dbang. Quán đảnh thứ nhì, “quán đảnh tịnh hoá những ô nhiễm của ngữ (khẩu), khiến ta có thể thiền định về các kinh mạch và năng lực, có thể trì tụng các câu mật chú, và gieo trồng hạt giống để đạt được ngữ (khẩu) kim cương và Báo Thân.” DICT.

Quán đảnh tịnh bình – bum dbang, quán đảnh thứ nhất “tịnh hoá các ô nhiễm của thân, khiến ta có thể thiền định về giai đoạn phát triển và gieo trồng hạt giống để đạt được thân kim cương và Hoá Thân.”

Quán đảnh quả vị – ‘bras bu’i dbang, quán đảnh xảy ra vào lúc đạt được giác ngộ viên mãn.

Quán đảnh ngôn từ quý báu – tshig dbang rin po che, quán đảnh thứ tư “quán đảnh diệt trừ những ô nhiễm của thân, ngữ, ý và các tập khí (các khuynh hướng quen thuộc), khiến ta có thể thiền định về Đại Viên Mãn bẩm sinh và gieo trồng hạt giống để đạt được trí tuệ kim cương và Thân Tự Tánh.” DICT.

Quán đảnh trí tuệ – shes rab kyi dbang, quán đảnh thứ ba “tịnh hoá các ô nhiễm của tâm, giúp cho ta có khả năng thiền định về giai đoạn toàn thiện và gieo trồng hạt giống để đạt được tâm kim cương và Pháp Thân.” DICT.

Quán Thế Âm (Quán Tự Tại) – xem Avalokiteshvara hay Đấng Đại Từ Đại Bi hay Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.

Quảng đại (Rộng lượng) – sbyin pa, Phạn: dana, nghĩa đen: bố thí.

Quy y – 1) skyabs yul, đối tượng mà ta quy y. 2) skyabs ‘gro, sự thực hành quy y.

Repa Shiwa O – ras pa zhi ba ‘od, một trong những đệ tử chính của Milarepa.

Rinchen Zangpo – rin chen bzang po (958-1055), dịch giả nổi tiếng nhất trong công cuộc truyền bá Phật Giáo lần thứ hai ở Tây Tạng, khi phái Tân Dịch bắt đầu.

Risi – drang srong, 1) nhà hiền triết, ẩn sĩ, thánh nhân, đặc biệt là những hiền triết nổi tiếng của thần thoại Ấn Độ, là những vị trường thọ và có oai lực thần thông vĩ đại. 2) tên của một chòm sao.

hoangtri
07-28-2017, 04:16 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Ruộng công đức – tshogs zhing, trọng tâm, hoặc đối tượng của việc cúng dường, quy ngưỡng, cầu nguyện, lễ lạy, v..v. của ta, qua đó ta có thể thực hiện các pháp tích tập công đức và trí tuệ cần thiết. Thuật ngữ thường hàm ý một trọng tâm được quán tưởng trong các pháp môn hành trì chẳng hạn như quán tưởng các Bổn Tôn quy y, vị Thầy trong pháp Bổn Sư Du Già, v.v… Công phu hành trì và các hành động tốt lành của ta nếu được hướng tới một hiện thân như thế của Phật, Pháp và Tăng, sẽ đem lại cho công phu của ta một năng lực to lớn hơn thế nữa.

Sa di – dge tshul, Phạn: sramanera. Một sa di có ít giới để giữ hơn một vị sư thọ cụ túc giới (dge slong, Phạn: bhiksu, Tỳ kheo).

Sadaprarudita (Thường Đề Bồ Tát) – rtag tu ngu, một vị Bồ Tát mà danh hiệu có nghĩa là “Luôn Luôn Than Khóc”, vì lý do Ngài đã phải đổ lệ khi tìm cầu giáo lý Trí tuệ Bát nhã.

Sắc Thân (Rupakaya) – gzugs sku, Thân của sắc tướng, bao gồm Báo Thân và Hoá Thân cùng một lúc.

Sakyapa – sa skya pa, một trong các trường phái của Truyền Thống Mới do Ngài Khon Konchok Gyalpo sáng lập (1034-1102).

Samantabhadra (Phổ Hiền) – kun tu bzang po, 1) Đức Phật nguyên thuỷ (Adibuddha), Đấng không bao giờ rơi vào mê lầm, Đức Phật Pháp Thân hiện thân là một nhân vật trần trụi, sắc xanh dương đậm như bầu trời, trong sự hợp nhất với Samantabhadri, như một biểu tượng của giác tánh,tánh Không, bản tánh thuần tịnh, tối thượng, luôn luôn hiện diện và không bị ngăn che. Suối nguồn của dòng truyền thừa Mật điển của trường phái Nyingma. 2) Đại Bồ Tát Samantabhadra (Phổ Hiền), một trong Tám Pháp Vương Tửû (của Đức Phật Thích Ca), mà qua oai lực thiền định, Ngài nổi danh về phương thức làm gia tăng bội phần những phẩm vật cúng dường do Ngài dâng cúng một cách thật thần diệu.

Samaya (Mật nguyện) – dam tshig, nghĩa đen: hứa nguyện, thệ nguyện. Mối liên kết thiêng liêng giữa Thầy và trò, và giữa các đệ tử với nhau trong Kim Cương Thừa. Từ Phạn ngữ samaya có thể có nghĩa là: thoả thuận, cam kết, quy ước, giới luật, ranh giới, v.v... Mặc dù có nhiều luật lệ rất chi tiết, nhưng samaya tối quan trọng là coi thân, ngữ và ý của vị Thầy là cái gì vô cùng thanh tịnh.

Samsara (Luân hồi) – ‘khor ba, vòng luân hồi trong đó ta bị xô đẩy không ngưng nghỉ bởi những cảm xúc tiêu cực và bởi nghiệp lực của những hành vi tạo tác của chính ta, đưa ta từ một trạng thái tái sinh này tới trạng thái tái sinh khác.

Samvarasara – bde mchog snying po, một trong những danh hiệu của Manjusri (Văn Thù Bồ Tát).

Samye – bsam yas, tu viện đầu tiên ở Tây Tạng, trong thung lũng Tsangpo miền đông nam thủ đô Lhasa, được xây dựng trong thời Vua Trisong Detsen. Tên này có nghĩa là “không thể nghĩ bàn.”

Samye Chimpu – bsam yas mchims phu, tên của một tập hợp các tu viện nằm ở trên sườn núi của Tu viện Samye, nơi nhiều Đại Đạo sư Phật Giáo đã đạt được thành tựu.

Sang Rinpoche – bla ma zhang rin po che (brtson ‘grus grags pa) (1121-1193), một đại Lạt ma dòng truyền thừa Kagyupa , vị sáng lập phân phái Tsalpa Kagyu.

Sankara – bde byed, ví dụ về một người mà dục vọng và sự thù ghét của ông ta mạnh tới nỗi giết chết mẹ mình. Ông hối hận và sau khi tịnh hoá những ác hạnh của mình, ông đã được tái sinh ở một cõi Trời.

hoangtri
08-02-2017, 08:51 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Santaraksita (Tịch Hộ) – zhi ba mtsho, cũng được gọi là Bồ Tát Tu viện trưởng. Vị học giả (pandita) Ấn Độ vĩ đại của Đại Thừa này là tu viện trưởng của Đại Học Viện Phật Giáo Nalanda và là tác giả của một số các luận giảng triết học, chẳng hạn như Vật Trang hoàng của Trung Đạo (dbu ma rgyan, Phạn: Madhyamakalmkara-karika). Ngài được Vua Trisong Detsen mời tới Tây Tạng để hiến cúng địa điểm của tu viện Tây Tạng đầu tiên ở Samye và ban giới cho những Tăng sĩ đầu tiên ở Tây Tạng.

Santideva (Tịch Thiên) – zhi ba lha (thế kỷ thứ 7), thi sĩ vĩ đại và đại thành tựu giả Ấn Độ, là người đã làm kinh ngạc các tu sĩ của tu viện Nalanda của Ngài bằng bài kệ nổi tiếng về pháp tu Bồ Đề Tâm, Bodhicaryavatara (spyod ‘jug), hay Nhập Bồ Tát Hạnh.

Saraha – sa ra ha, đại thành tựu giả Ấn Độ, tác giả của ba giáo khoá của các bài đạo ca (doha).

Sarvanivaranaviskambhin (Trừ Cái Chướng Bồ Tát)– sgrib pa rnam sel, một trong Tám Trưởng Tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Sastra (Luận) – bstan bcos, luận giảng về giáo lý của Đức Phật.

Sattvavajra (Tát Đoả Kim Cang) – sems dpa’ rdo rje, một danh hiệu được ban cho Đức Kim Cang Thủ (Vajrapani).

Sáu cõi luân hồi – ‘gro drug, Phạn: sadgati, sáu phương cách hiện hữu được tạo ra và bị thống trị bởi một độc tố đặc biệt trong tâm: cõi Địa ngục (sân), cõi Ngạ quỷ (keo kiệt), cõi Súc sinh (si mê), cõi Người (tham ái), cõi Bán Thiên (demi-gods) hay A tu la (ganh tị), và cõi Trời (kiêu ngạo). Các cõi này tương ứng với những tri kiến mê lầm được tạo nên bởi nghiệp (karma) của chúng sinh và được nhận thức như thật có. Người ta cũng nói năm cõi, tính chung chư Thiên và bán Thiên vào một cõi.

Sáu loại chúng sinh – ‘gro drug, xem sáu cõi luân hồi.

Sáu thức (lục thức) – rnam shes tshogs drug, Phạn: sadvijnanakaya, nghĩa đen: sáu sự tập hợp của thức, nghĩa là sự tập hợp của đối tượng giác quan (trần), của giác quan (căn) và của thức. Chúng là nhãn thức (nhìn), nhĩ thức (nghe), tỉ thức (ngửi), thiệt thức (nếm), xúc thức (chạm) và ý thức.

Sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) – pha rol tu phyin pa drug, Phạn: sad paramita: bố thí siêu việt (dana¬paramita), giới luật siêu việt (Sila-paramita), nhẫn nhục siêu việt (ksanti-paramita), tinh tấn siêu việt (virya¬paramita), thiền định siêu việt (dhyana-paramita) và trí tuệ siêu việt (prajna-paramita). Cũng xem pháp toàn thiện siêu việt, ba la mật, paramita.

Sáu Bảo Trang – rgyan drug, sáu luận sư vĩ đại của Phật Giáo: Nagarjuna (Long Thọ), Aryadeva (Thánh Thiên), Asanga (Vô Trước), Vasubandhu (Thế Thân), Dignaga (Trần Na) và Dharmakirti (Pháp Xứng).

Savaripa – sha ba ri pa hoặc ri khrod dbang phyug, một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ. Ngài là thợ săn ở một bộ tộc vùng đồi núi xứ Bengal, và đã cùng hai người vợ trở thành các đệ tử của Nagarjuna (Long Thọ).

Shapkyu – zhabs kyu, nghĩa đen: chân móc. Một dấu hiệu có dáng của một cái móc được đặt dưới một phụ âm để tượng trưng cho âm u.

Sharawa – shara ba (yon tan grags) (1070-1141), danh hiệu của một geshe Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa.

hoangtri
08-02-2017, 09:00 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Shubu Palgyi Senge – shud bu dpal gyi seng ge, một trong hai mươi lăm đại đệ tử của Padmasambhava.

Siddhi (thành tựu) – dngos grub, xem thành tựu.

Six Paramitas (Lục độ ba la mật) – xem Sáu Pháp Thành Tựu Siêu Việt.

Smrtijnana – (thế kỷ 10-11), Đạo sư và pandita (học giả) Ấn Độ nổi tiếng, người góp phần vào việc phiên dịch sang tiếng Tây Tạng và hiệu đính một số Mật điển và luận giảng. Ở Tây Tạng, cái chết của Ngài đánh dấu sự chấm dứt của giai đoạn Cựu Dịch (Cựu Phái Dịch Thuật).

So, Zur và Nub – so zur gnubs, ba Đạo Sư vĩ đại, là những bậc trì giữ dòng truyền thừa Nyingma Kahma lúc ban đầu (sự truyền dạy đầy đủ từ Đạo Sư sang đệ tử của giáo lý Nyingma, tương phản với Terma (kho tàng tâm linh) được ẩn dấu, về sau mới được khai quật, đôi khi sau một thời gian rất dài). Tên họ của các Ngài là So Yeshe Wangchuk, Zur Shakya Jungne và Nub Chen Sangye Yeshe.

Songtsen Gampo – srong btsan sgam po (617-698), Vua thứ 33 của Tây Tạng và một trong ba Pháp Vương vĩ đại. Chính trong thời của Ngài mà những ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên được xây dựng.

Sri Simha (Cát Tường Sư Tử) – dpal gyi seng ge (thế kỷ thứ 4), vị Thầy thứ ba trong loài người thuộc dòng truyền thưà Đại Viên Mãn, đệ tử của Manjusrimitra (Diệu Đức Hữu).

Srona (Sronajat) – gro byin skyes, một người chơi đàn vina sau trở thành đệ tử của Đức Phật và đạt được oai thần có thể viếng thăm các cõi khác, đặc biệt là các cõi ngạ quỷ.

Stupa (bảo tháp) – mchod rten, nghĩa đen: hỗ trợ cho việc cúng dường, tượng trưng cho tâm Phật. Đài kỷ niệm tiêu biểu nhất, thường có một đáy vuông rộng lớn, phần giữa tròn, và một phần trên lớn, hình nón, trên đỉnh là một mặt trời và mặt trăng. Bảo tháp thường chứa xá lợi của những bậc chứng ngộ. Kích thước của bảo tháp biến đổi từ những mô hình đất sét nhỏ xíu tới những bảo tháp rộng mênh mông tại Borobodur ở Indonesia và Bodha (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Nepal.

Sugata (Thiện Thệ) – bde bar gshegs pa, nghĩa đen: đạt được hạnh phúc: một vị Phật, Đấng Thiện Thệ. “Đấng sử dụng con đường hạnh phúc của Bồ Tát Thừa, đạt được kết quả hạnh phúc là Phật Quả viên mãn.” DICT.

Sunaksatra (Thiện Tú) – legs pa’i skar ma, anh em họ của Đức Phật, là người mặc dù trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả của Đức Phật và thấu hiểu tất cả giáo lý của Ngài, nhưng vẫn không thể nhận thấy ra được bất kỳ phẩm tính thiện lành nào nơi Ngài. Ông chết không lâu sau khi rời Đức Phật và bị tái sinh làm một Ngạ quỷ.

Suvarnadvipa (Pháp Vương) – gser gling pa, một Đạo sư Phật Giáo, Pháp Xứng (Dharmakirti), sống ở Sumatra vào thế kỷ thứ 10. Atisa coi Ngài như bậc Thầy quan trọng nhất trong các vị Thầy. Từ Ngài, Atisa thọ nhận giáo lý Bồ Đề Tâm.

Tà kiến – log lta, Phạn: mithyadristi, AT: niềm tin sai lạc, đặc biệt là một quan điểm sai lầm sẽ dẫn ta tới những tiến trình hành động gây thêm nhiều đau khổ hơn nữa.

Tam Bảo – dkon mchog gsum, Phạn: triratna, Phật, Pháp và Tăng đoàn.

Tam độc – xem ba độc.

Tam giới (Ba cõi) – 1) khams gsum, Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thế giới thứ nhất bao gồm chúng sinh ở các cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Người và A Tu La, cùng một vài cõi Trời. Hai thế giới kế tiếp là các cõi Trời với một kinh nghiệm tinh tế là kết quả của một vài loại thiền định mãnh liệt (xem thiền định thế tục), 2) Đôi khi được dùng để dịch sa gsum, Phạn: tribhvana, nghĩa đen là ba tầng lớp: phía trên mặt đất (sa bla), mặt đất (sa steng) và bên dưới mặt đất (sa ‘og); được gọi là cõi Trời, cõi người và cõi Rồng.

Tam học (Tam-yếu Pháp) – bsab pa gsum, Phạn: trisiksa, giới (tsul khrims, sila), định (ting nges’ dzi, citta) và tuệ (shes rab, prajna).

hoangtri
08-05-2017, 06:30 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Tam Tạng (Tripitaka) – sde snod gsum, Ba tạng Giáo lý của Đức Phật, Sutra (Kinh) , Vinaya (Luật) , Abhidharma (Luận). Đôi khi giáo lý Kim Cương Thừa được coi là pitaka (tạng) thứ tư . Tripitaka có nghĩa là “ba cái giỏ” - được gọi như thế là vì trước tiên Kinh điển được chép lại trên những trang sách bằng lá cây cọ, được tập hợp lại và chứa trong những cái giỏ (rổ).

Tam thiên đại thiên thế giới – stong gsum, Phạn: trisahasra, vũ trụ gồm có một tỉ thế giới giống như thế giới của chúng ta và tương ứng với phạm vi hoạt động của một vị Phật.

Tám dấu hiệu cát tường (Eight auspicious signs) – bkra shis rtags brgyad, tám biểu tượng (tương ứng với các bộ phận khác nhau trên thân Phật): nút vĩnh cửu, hoa sen, màn trướng, ốc xà cừ, bánh xe, cờ, bảo bình, và cá vàng.

Tám hành vi sai lầm – log pa rgyad, 1) chỉ trích điều tốt, 2) khen ngợi điều xấu, 3) làm ngưng trệ việc tích lũy công đức của một người đức hạnh, 4) làm náo động tâm thức của người có lòng quy kính, 5) từ bỏ vị Thầy tâm linh, 6) từ bỏ Bổn Tôn, 7) từ bỏ các huynh đệ và tỉ muội Kim cương, 8) phỉ báng một Mạn đà la.

Tám mối quan tâm thế tục – ‘jig rten chos brgyad, Phạn: astalokadharmah, những mối bận tâm bình thường của những người chưa chứng ngộ và không có được một nhãn kiến tâm linh trong sáng. Đó là: được và mất, vui và buồn (khổ), khen và chê, vinh và nhục.

Tám Mộ Địa Vĩ Đại – dur khrod chen po brgyad, những nơi kinh hoàng (mộ địa) mà các Không Hành nam (daka) và Không Hành nữ (dakini) tụ hội. Trong ý nghĩa sâu xa thì những mộ điạ này tương ứng với tám thức (rnam shes brgyad).

Tám mươi Đại Thành Tựu Giả (Mahasiddha)– 1. tám mươi (hay tám mươi tư) đại thành tựu giả của Ấn Độ thời cổ mà cuộc đời các Ngài đã được Abhayadatta thuật lại (xem Sư Tử của Đức Phật, Emeryville, Nhà Xuất bản Dharma, 1979). 2) tám mươi thành tựu giả xứ Yerpa ở Tây Tạng, các đệ tử đạt được những thành tựu siêu việt của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).

Tám Pháp Vương Tử Vĩ Đại (Tám Đại Bồ Tát) – nye ba’i sras chen brgyad, các vị Đại Bồ Tát chính trong giáo đoàn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Manjusri (Văn Thù), Avalokitesvara (Quán Tự Tại), Vajrapani (Kim Cương Thủ), Maitreya (Di Lặc), Ksitigarbha (Địa Tạng), Sarvanivaranaviskambhin, và Samantabhadra (Phổ Hiền). Mỗi vị đóng một vai trò đặc biệt để cứu giúp chúng sinh. Các Ngài tượng trưng cho trạng thái thuần tịnh của tám thức.

Tám Thiên Nữ cúng dường – mchod pa’i lha mo brgyad: Thiên Nữ Nhan Sắc (sgeg mo ma, Phạn: Lasya), Thiên Nữ Tràng Hoa (phreng ba ma, Mala), Thiên Nữ Hát Ca (glu ma, Gita), Thiên Nữ Vũ Điệu (gar ma, Nrtya), Thiên Nữ Bông Hoa (me tog ma, Puspa), Thiên Nữ Hương Đăng (bdug spos ma, Dhupa), Thiên Nữ Nhiệt Đăng (snang gsal ma, Aloka) và Thiên Nữ Hương Thơm (dri chab ma, Gandha). Trong mạn đà la của các Bổn Tôn Báo Thân an bình, tám Thiên Nữ cũng là những vị phối ngẫu của tám vị Đại Bồ Tát (xem Tám Pháp Vương Tử Vĩ Đại), và tượng trưng, tương ứng cho trạng thái thuần tịnh của bốn đối tượng của các giác quan (sắc tướng, âm thanh, mùi hương, và mùi vị), cũng như của bốn khía cạnh của tư tưởng (quá khứ, hiện tại, tương lai và thời gian không xác định).

hoangtri
08-05-2017, 06:42 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Tangka – thang ka, tranh vẽ (có thể cuộn lại) của Tây Tạng.

Tangtong Gyalpo – thang stong rgyal po (1385-1509), thành tựu giả Tây Tạng nổi tiếng, đã du hành khắp Trung Hoa, Tây Tạng và các quốc gia miền Đông khác, xây dựng nhiều ngôi chùa và các cây cầu kim loại, và sáng lập các tu viện tại vùng Derge và những nơi khác.

Tạng Thức (Thức Nền Tảng hay A Lại Da Thức) – kun gzhi, Phạn: alaya, hình thức ngắn gọn của kun gzhi mam par shes pa, là tạng thức, tâm thức nền tảng trong đó các tập khí (khuynh hướng quen thuộc) được tàng trữ. Tạng thức là nền tảng cho những thức khác. Đôi khi, trong một vài giáo lý, kun gzhi được dùng cho bản tánh nguyên sơ hay sự thuần tịnh nguyên sơ (ka dag).

Tánh sáng (kinh nghiệm) – gsal nyams, một trong ba loại kinh nghiệm trong thiền định. Xem kinh nghiệm.

Tánh sáng, tăng trưởng và thành tựu (Clarity, increase and attainment) – snang mched thob, ba kinh nghiệm xảy ra liên tục cái này tiếp cái kia vào lúc chết.

Tantra (Mật điển) – rgyud, bản văn được đặt nền tảng trên tánh thuần tịnh nguyên sơ của bản tâm, và kết quả chính là sự chúng ngộ tánh thuần tịnh nguyên sơ đó. Các bản văn gốc của giáo lý Vajrayana (Kim Cương Thừa).

Tantric – có liên quan tới các Mật điển (tantra), liên quan tới Kim Cang Thừa (Vajrayana).

Tara (Quan Âm) – sgrol ma, nữ Bồ Tát sinh ra từ một giọt nước mắt của Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara); sự hiển lộ của nữ tánh của lòng Đại Bi.

Tathagata (Như Lai) – bde bzhin gshegs pa, đấng đã đạt được Chân tánh _ một vị Phật.

Tánh Không – stong pa nyid, Phạn: sunyata, tất cả mọi hiện tượng đều không có sự hiện hữu thực sự.

Tánh sáng tạo của Giác tánh (creativity of awareness) – rig pa’i rtsal, năng lực bẩm sinh và tự nhiên của Giác tánh để làm cho các hiện tượng hiển lộ.

Tân Dịch (Tân Phái Dịch Thuật)– gsar ma pa, các tài liệu của Mật điển được phiên dịch và truyền bá từ thời đại của dịch giả Rinchen Zangpo (958-1055) trở đi. Tân Phái chỉ tất cả các trường phái của Phật Giáo Tây Tạng ngoại trừ phái Nyingmapa, hay phái Cựu Dịch.

Tân phái – xem Tân Dịch, Tân Phái Dịch Thuật hay Cổ phái.

Tập khí – xem khuynh hướng quen thuộc.

Tăng đoàn – dge ‘dun. Theo nghĩa rộng, tăng đoàn ám chỉ tất cả những hành giả của Phật Giáo. Tăng đoàn có thể cũng có một ý nghĩa giới hạn hơn phù hợp với văn cảnh, ám chỉ những Tăng sĩ, A La hán, Bồ Tát, v.v.

Tenma – rten ma bcu gnyis, mười hai nữ Hộ Thần địa phương phát nguyện bảo vệ Giáo Pháp trước sự hiện diện của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).

Thanh Văn (Sravaka) – nyan thos, một đệ tử theo Thừa nguyên thuỷ của Phật Giáo, có mục đích giải thoát khỏi đau khổ của luân hồi sinh tử như một vị A La Hán. Không giống như các đệ tử của Đại Thừa, các vị Thanh Văn không khao khát đạt được Toàn Giác vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Thanh Văn Thừa (Sravakayana) – nyan thos kyi theg pa, Thừa của các Thanh Văn.

Thành tựu giả – grub thob, nghĩa đen: bậc đã đạt được thành tựu. Một số đã đạt được đạo quả nhờ vào các pháp tu của Mật Thừa.

hoangtri
08-05-2017, 06:48 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Thành tựu – 1) dngos grub, Phạn: siddhi. “Kết quả mong muốn và đạt được nhờ công năng tu tập hành trì các giáo huấn.” DICT. Những thành tựu thông thường có thể chỉ là những năng lực siêu nhiên, nhưng trong quyển sách này thuật ngữ “thành tựu” luôn luôn ám chỉ thành tựu siêu việt, tức là đạt được Giác Ngộ. 2) sgrub pa. Trong bối cảnh của việc trì tụng các câu minh chú hay mật chú, xem triệu thỉnh và thành tựu.

Thành tựu siêu việt (thành tựu xuất thế)– mchog gi dngos grub, xem thành tựu.

Thành tựu thông thường (thành tựu thế gian) – thun mong gi dngos grub, các năng lực siêu nhiên phát sinh từ kinh nghiệm tu chứng trong thiền định, không dành riêng cho Phật Giáo mà cũng phổ biến đối với những con đường tu khác. Xem thành tựu.

Thân Tự Tánh (Svabhavikakaya) – ngo bo nyid kyi sku, Thân của Bản Tánh Tâm Yếu; Thân (kaya) thứ tư, mang tính cách bất khả phân của Pháp Thân, Báo Thân và Hoá Thân.

Thân, ngữ (khẩu), ý, các phẩm tính và hoạt động – sku, gsung, thugs, yon tan, phrin las, năm phương diện của Phật Quả. Đôi khi được ám chỉ như năm Thân (kaya). Cũng xem ngũ bộ Phật.

Thất Bảo (Bảy đặc tính của vương quyền) – rgyal srid sna bdun, Phạn: saptaratna, bảy tài sản của một vị Đế Vương hoàn vũ, mỗi tài sản có một ý nghĩa tượng trưng. Đó là bánh xe vàng quý báu, viên ngọc như ý, nữ hoàng tôn quý, thượng thư tôn quý, voi quý, ngựa quý và đại tướng tôn quý.

Thế giới Bất khả phân – mi ‘byed ‘jig rten, thế giới của chúng ta, phạm vi hoạt động của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Theurang – the’u rang, một loại tinh linh xuất hiện giống như một người lùn nhỏ bé chỉ có một chân.

Thích Ca Mâu Ni – sha kya thub pa, Đức Phật của thời đại chúng ta, Ngài sống vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên.

Thiền định (định, thiền na) – bsam gtan, Phạn: dhyana, nhập định, một trạng thái của tâm không có bất kỳ xao lãng nào. Mặc dù trạng thái này quan trọng đối với các pháp thiền định của Phật đạo ở tất cả các cấp độ, nhưng tự trạng thái ấy không đầy đủ mà phải được kết hợp với động lực và cái thấy (kiến) đúng đắn. Cũng xem tứ thiền.

Thiền định thế tục – xem tứ thiền bát định.

Thiền, thiền định – sgom pa, để tâm an nghỉ dựa trên một đối tượng của tư duy hoặc quán chiếu, hoặc duy trì sự vận hành của một cái thấy (kiến) chân thực.

Thiện tri thức – dge ba’i gshes gnyen, Phạn: kalyanamitra, một từ đồng nghĩa của vị Thầy tâm linh.

Thuần tịnh nguyên sơ – ka dag, bản tánh của Phật Quả, hiện diện trong tất cả chúng sinh, sự thuần tịnh của bản tánh đó không bao giờ bị hư hoại.

Thừa (Cỗ xe) – theg pa, Phạn: yana, phương tiện để du hành trên con đường dẫn tới Giác ngộ.

Thường Đề Bồ Tát – Xem Sadaprarudita.

Tịch Hộ – Xem Santaraksita.

Tiến trình suy hoại (Tiến trình tan rã) – thim rim, một chuỗi hiện tượng xảy ra vào lúc chết: sự suy hoại (tan rã) của các đại và sự xuất hiện của ba kinh nghiệm được gọi là kinh nghiệm của tánh sáng, tăng trưởng và thành tựu.

hoangtri
08-06-2017, 05:20 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Tilopa – ti lo pa, một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ. Sư phụ của Naropa.

Tingdzin Zangpo (Nyang) – myang ting ‘dzin bzang po (thế kỷ thứ 9), đại thành tựu giả Tây Tạng, đệ tử của Vimalamitra (từ vị này Ngài nhận toàn bộ giáo lý Tâm-Yếu) và của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Ngài được coi là người Tây Tạng đầu tiên đạt được thân cầu vồng (rainbow body) của pháp Đại Chuyển Di siêu việt (‘ja’ lus ‘pho ba chen po), là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của pháp tu Đại Viên Mãn.

Tình Nhân Thiên Tú – skar ma la dga’ ba, danh hiệu của một Bồ Tát. Ngài là điển hình của một người mà nguyện lực vô ngã đã khiến Ngài vun bồi công đức mặc dù Ngài đã phạm phải một lỗi lầm mà thông thường được coi là một hành vi xấu ác.

Tinh tuý – thig le, nghĩa đen: giọt. “Tinh tuý hay chủng tử của đại lạc; trong các kinh mạch có nhiều loại, thanh tịnh hay suy hoại.” DICT. Thuật ngữ thig le có một số ý nghĩa khác nhau phù hợp với hoàn cảnh và các pháp tu khác nhau.

Tịnh Độ – dag pa’i zhing, một trụ xứ hay một thế giới được hoá hiện nương vào những phẩm tính (thần lực) có được do sự chứng ngộ của một vị Phật hay một vị Bồ Tát. Ở đó chúng sinh có thể tiến xa trên con đường đi tới Giác ngộ mà không sợ bị đọa những cõi thấp.

Tịnh Độ Cực Lạc – bde ba can, Phạn: Sukhavati, cõi Phật của Đức Amitabha (A Di Đà).

Tịnh quang – ‘od gsal, Phạn: prabhasvara, tích cách tự nhiên, chói ngời (hay thấu suốt) của chân tâm – hay giác tánh.

Tịnh Quang (cõi của chư Thiên) – ‘od gsal gyi lha, Phạn: Abhasvara, tầng trời cao nhất của chư Thiên trong Nhị Thiền (thuộc Sắc Giới).

Thanh tịnh quang của giây khắc nền tảng (Clear light of the moment of the ground) – gzhi dus kyi ‘od gsal, “bản tánh của tâm thức tất cả chúng sinh, thanh tịnh từ vô thuỷ và chói ngời tự nhiên; sự tương tục căn bản (của Giác tánh), tiềm năng của Phật Quả.” DICT. Thanh tịnh quang có thể được một vị Đạo Sư chứng ngộ “giới thiệu” (trực chỉ) cho một đệ tử, và người đệ tử sau đó tiếp tục làm cho thuần thục và phát triển kinh nghiệm này bằng những pháp môn hành trì thâm diệu của Đại Viên Mãn. Chúng sinh bình thường chỉ cảm nhận được tịnh quang trong một thời khắc ngắn bằng một tia chớp vào lúc chết.

Tirthika (Ngoại Đạo, Phi Phật Giáo) – mu stegs pa, kẻ đề xướng những quan điểm triết học cực đoan chẳng hạn như thuyết hư vô và thuyết vĩnh cửu. Thường được dùng cho các trường phái tư tưởng triết học và tôn giáo ở Ấn Độ đối lập với Phật Giáo.

Toà Kim Cương – rdo rje gdan, Phạn: Vajrasana, địa điểm ở Ấn Độ (ngày nay có tên là Bồ Đề Đạo Tràng - Bodh Gaya) nơi tất cả chư Phật trong kiếp này sẽ đạt được Giác Ngộ.

Toàn Giác – rdzogs pa’i byang chub, Phạn: sambodhi, Phật Quả viên mãn.

Tonpa (Geshe) (1005-1064), danh hiệu khác của Drom Tonpa.

Torma – gtor ma, một cúng phẩm, thường được nặn từ bột mì và bơ có thể là biểu tượng của một vị Bổn Tôn, một Mạn đà la, một vật cúng dường, hay đôi khi một vũ khí để chiến đấu với các thế lực ác hại.

Torma nước – chu gtor, một phẩm vật cúng dường làm bằng nước, sữa và các loại hạt.

Tối Thượng – ‘og min, Phạn: Akanistha, xem Akanistha (Sắc Cứu Cánh Thiên).

Tha Hoá Tự Tại Thiên – gzhan ‘phrul dbang byed, Phạn: Paranirmitavasavartin, tầng Trời thứ sáu và là tầng cao nhất của các vị Trời trong Dục giới, trong đó các vị Trời vui hưởng những gì được những vị Trời tạo ra một cách thật phi thường. khác. Xem ba cõi hay tam giới.

hoangtri
08-09-2017, 06:12 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Thất chi nguyện – yan lag bdun, Phạn: satanga, một hình thức cầu nguyện gồm có bảy phần: lễ lạy, cúng dường, sám hối, hoan hỉ, cầu thỉnh các vị Thầy chuyển Pháp luân, khẩn cầu các Ngài không nhập Niết Bàn, và hồi hướng công đức.

Thiện căn (căn lành) – dge ba’i rtsa ba, Phạn: kusalamula, những hành vi tích cực giống như gốc rễ (căn) (rtsa ba) của công đức hay của những điều tốt lành (dge ba).

Three Roots – xem Ba Nguồn Gia Trì, Ba Lực Gia Trì.

Thuyết ngôn – gsung rab, Skt. Pravacana, lời Đức Phật.

Trạng thái như nhiên (Bản Tánh, Tự Tánh, Tự Tánh Đế) – gnas lugs, Phạn: prakriti, nghĩa đen: cách thức an trụ. “Bản tánh hay duyên sinh của vạn pháp.” DICT.

Trạng thái trung ấm (Bardo) – bar do, Phạn: antarabhava, thuật ngữ được dùng cho những giai đoạn kinh nghiệm khác nhau giữa cái chết và giai đoạn tái sinh kế tiếp; với một lối giải thích rộng lớn hơn bao gồm các trạng thái tâm thức khác nhau trong cuộc đời. Bốn trạng thái trung ấm được phân định như:
1) trạng thái trung ấm tự nhiên của đời này (rang bzhin skyes gnas bar do),
2) trạng thái trung ấm của lúc chết (‘chi kha’i bar do),
3) trạng thái trung ấm của thực tại tối thượng (chos nyid bar do), và
4) trạng thái trung ấm của sự hình thành (srid pa’i bar do); hoặc để tạo thành sáu trạng thái trung ấm, hai trạng thái đặc biệt nữa được thêm vào trạng thái thứ nhất: 5) trạng thái trung ấm của giấc mộng (rmi lam bar do) và 6) trạng thái trung ấm của thiền định (bsam gtan bar do).

Trạng thái trung ấm của sự hình thành – srid pa’i bar do, trạng thái trung ấm trong đó nghiệp lực xô đẩy ta tới sự tái sinh kế tiếp trong luân hồi sinh tử. AT: trạng thái trung ấm của những triển vọng, trạng thái trung ấm của sự hiện hữu.

Trạng thái trung ấm của chân tánh – chos nyid bar do, trạng thái trung ấm khi mà chân tánh hiển lộ như những sắc tướng thuần tịnh của hai tánh an bình và phẫn nộ, phù hợp với các khuynh hướng cá nhân của riêng ta.

Trăm Đấng Hộ Phật – rigs brgya, bốn mươi hai vị Hộ Phật an bình (peaceful deity) và năm mươi tám vị Hộ Phật phẫn nộ (wrathful deity).

Trakpa Gyaltsen – grags pa rgyal mtshan (1147-1216), một trong năm đại học giả của phái Sakya; năm đại học giả này được biết đến như là Sakya Gongma (Năm Đại Trưởng Lão Dòng Sakya).

Tri giác (Tri kiến) – snang ba, những gì xuất hiện trong mắt của mỗi cá nhân tuỳ theo khuynh hướng (tập khí) hay sự phát triển tâm linh của họ. NT, trích dẫn Patrul Rinpoche, nói về ba loại tri giác (và tri kiến):
1) các tri kiến sai lầm xuất hiện trong tâm thức của chúng sinh trong sáu cõi do sự hiểu biết sai lạc; những tri kiến này được gọi là các tri kiến mê lầm bất tịnh của thế giới và chúng sinh.
2) các tri giác về duyên khởi (rten ‘brel), các ảo giác huyễn hoặc (sgyu ma), tương ứng với tám ẩn dụ về ảo giác mà ta không xem là thật có (xem Phần Một, Chương Hai, Mục III, tiết 2.6.
3) đây là những tri giác của các Bồ Tát thuộc mười địa trong trạng thái hậu-thiền định của các Ngài (rjes thob). 3) các tri giác xác thực, toàn thiện của trí tuệ; khi ta chứng ngộ trạng thái như nhiên của vạn pháp, chúng sinh và toàn thể thế giới xuất hiện như là sự hiển bày của các thân (kaya) và trí tuệ.

Tri giác thanh tịnh (Tri kiến thuần tịnh) – dag snang, “tri giác cho rằng toàn thể thế giới và những gì được chứa đựng trong đó là một cõi Phật thuần tịnh, là sự hiển bày của các Thân (kaya) và trí tuệ.” DICT

Trích xuất tinh chất – bcud len, một phương pháp khiến ta có thể chỉ dùng những chất thể hay yếu tố nào đó với một lượng ít ỏi, mà không phải dùng thực phẩm thông thường.

Triệu thỉnh và thành tựu – bsnyen sgrub, hai bước trong các pháp hành trì liên quan tới việc trì tụng một mantra (minh chú). Trong bước thứ nhất, các hành giả triệu thỉnh Bổn Tôn mà họ đang quán tưởng bằng cách trì tụng câu minh chú của Bổn Tôn. Trong bước thứ hai, họ đủ thuần thục để tự đồng nhất với Bổn Tôn.

hoangtri
08-09-2017, 06:37 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Tripitaka – xem Tam Tạng.

Trisong Detsen – khri srong sde’u btsan (790-844), vị vua thứ 38 của Tây Tạng, là vị thứ hai trong ba vị Pháp Vương vĩ đại. Nhờ nỗ lực của Ngài mà các Đại Đạo Sư từ Ấn Độ đã tới và thiết lập một nền Phật Giáo thật vững chắc tại Tây Tạng.

Trí tuệ – shes rab, Phạn: prajna, khả năng thấu hiểu đúng đắn, thường là với cảm thức đặc biệt của kinh nghiệm thấu suốt tánh Không. AT: trí tuệ phân biệt. Cũng xem trí tuệ nguyên sơ.

Trí tuệ nguyên sơ – ye she, Phạn: jnana, “khả năng thấu suốt (shes pa) đã luôn luôn hiện diện từ vô thuỷ (ye nas), giác tánh, tánh sáng-tánh Không, an trụ tự nhiên trong dòng tâm thức của tất cả chúng sinh.” DICT.

Trống sọ người nhỏ – thod pa’i da ma ru, trống (damaru) nhỏ có hai mặt làm bằng hai đỉnh sọ người.

Trung Đạo (Madhyamika) – dbu ma’i lam, Phạn: madhyamika, giáo lý về tánh Không được Ngài Long Thọ (Nagarjuna) giảng dạy trước tiên và được coi như nền tảng của Mật Thừa. “Trung” có nghĩa là vượt lên các quan điểm cực đoan của chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa vĩnh cửu.

Tsampa – tsam pa, bột mì làm bằng lúa mạch nướng hay các loại hạt khác. Một loại thực phẩm chính ở Tây Tạng.

Tu hu (Illustrative wisdom) – dpe’i ye shes, trí tuệ đạt được nhờ công phu tu tập tâm linh (thiền định), giống như là một cái que để chỉ cho thấy trí tuệ nguyên sơ.

Tu viện trưởng – mkhan po, nói chung có nghĩa là những vị có thể ban các giới nguyện tăng sĩ. Danh hiệu này cũng được ban cho một người đã đạt một mức độ hiểu biết cao rộng, thấu suốt Giáo Pháp và đảm trách việc giảng dạy Giáo Pháp. Cũng có thể chỉ là danh hiệu đuợc ban cho nhà sư cao tuổi nhất trong một kỳ nhập hạ truyền thống.

Tục đế – xem Chân lý tương đối.

Tulku – sprul sku, từ Tây Tạng được dịch từ nirmanakaya (Hoá Thân) trong Phạn ngữ, cũng được dùng như một danh hiệu tôn kính và là một thuật ngữ thông thường đối với những vị Hoá Thân đã được tuyên nhận là hoá thân của các Lạt Ma, là những vị thường được tìm ra khi còn thơ ấu và được dạy dỗ để kế tục dòng truyền thừa và trong nhiều trường hợp, kế thừa tu viện của các vị tiền nhiệm.

Tư thế kim cương – rdo rje dkyil krung, Phạn: vajrasana, tư thế thiền định với chân xếp chéo và bàn chân đặt trên đùi.

Tư thế đang bước – mnyam pa’i ‘dor stabs, thế đứng với cả hai chân nhưng bàn chân phải hơi nhón tới (tượng trưng cho nhiệt tâm cứu giúp chúng sinh).

Tư thế vương giả – rgyal po’i rol stabs, thế ngồi với chân phải duỗi nửa chừng và chân trái kéo vào.

Tư tưởng (ý niệm) – rnam rtog, Phạn: vikalpana, nói chung bất kỳ điều gì phát khởi trong tâm với tính cách đối đãi nhị nguyên.

Tứ Thiên Vương – rgyal chen rigs bzhi, Phạn: caturmaharajakayika, bốn vị Trời mà theo truyền thống là những vị bảo vệ bốn phương. Cõi giới của họ là cõi thứ nhất trong sáu cõi Trời trong Dục Giới. Xem ba cõi hay Tam giới.

Tứ thiền (tứ định) – bsam gtan bzhi, Phạn: caturdhyana, bốn mức độ thiền định, kết quả của công phu hành trì thiền định này là được tái sinh trong bốn loại cõi trời trong Sắc Giới. Tuy nhiên tứ thiền cũng có thể được vận dụng trên con đường dẫn tới Giác ngộ.

Tứ thiền bát định (thiền định thế tục) – những loại thiền định không đưa tới giác ngộ mà chỉ dẫn tới sự tái sinh trong các cõi Trời. Xem tứ thiền.

Tứ Vô Lượng – tshad med bzhi, Phạn: caturaprameya, Từ (byams pa, Phạn: maitri), Bi (snying rje, karuna), Hỉ (dga’ba, mudita), và Xả (btang snyoms, upeksa) vô lượng.

Tử Thần (Diêm Vương) – ‘chi bdag, Yama.

hoangtri
08-10-2017, 03:50 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Tướng chính và phụ – mtshan dang dpe byad, ba mươi hai tướng chính (mtshan bzang, Phạn: mahapurusa laksana) và tám mươi tướng phụ (dpe byad, anuvyanjana) của một vị Phật.

Tỳ Bà Thi (Phật) – xem Vipasyin.

Tỳ Lô Giá Na – xem Vairocana.

Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) – rnam par snang mdzad, Đức Phật thuộc Phật Bộ. Xem năm bộ.

Vairotsana – bai ro tsa na, dịch giả vĩ đại nhất của Tây Tạng và là một trong bảy tăng sĩ đầu tiên được thọ giới ở Tây Tạng. Ngài là một trong những đệ tử chính của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) và Cát Tường Sư Tử (Sri Simha).

Vaisakha – sa ga zla ba, tháng thứ tư trong âm lịch Tây Tạng. Đức Phật đản sanh, đạt được Giác ngộ và nhập Niết Bàn
vào ngày rằm (ngày mười lăm) trong tháng đó. (*Người Tây Tạng gọi là Saka Dawa)

Vaisravana (Đa Văn Thiên Vương hay Tài Bảo Vương) – rnam thos sras, một trong Tứ Thiên Vương (cõi Trời của Ngài là cõi thứ nhất trong Dục Giới), là vị bảo vệ phương Bắc và vị Trời tài bảo.

Vajra (Chày Kim Cương) – rdo rje, AT: kim cương, ánh sét kim cương. Sự biểu tượng của trí tuệ bất biến và bất hoại có thể xuyên thấu mọi sự. Pháp khí tượng trưng cho lòng Bi mẫn, phương tiện thiện xảo, giác tánh. Luôn luôn được kết hợp với chuông, dril bu, Phạn: ghanta, biểu tượng của trí tuệ, tánh Không. Đối với hình tướng của chày kim cương, xin xem hình minh hoạ Đức Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) cầm chày kim cương trong tay phải và chuông trong tay trái.

Vajra Yogini (Nữ Kim Cang Du Già) – rdo rje ‘ rnal ‘byor ma, một hình thức Báo Thân nữ của Đức Phật.

Vajradhara (Kim Cương Trì) – rdo rje ‘chang, nghĩa đen: bậc trì giữ kim cương. Theo phái Tân Dịch, Ngài là Đức Phật nguyên sơ, là nguồn mạch của tất cả các Mật điển. Trong phái Cựu Dịch, Vajradhara tượng trưng cho nguyên lý của vị Thầy, như bậc trì giữ giác ngộ của giáo lý Kim Cương Thừa.

Vajradhatvisvari – rdo rje dbyings ‘phugs ma, một trong những vị Phối ngẫu của chư Phật trong Ngũ Bộ Phật.

Vajrapani (Kim Cương Thủ) – phyag na rdo rje, một trong Tám Trưởng Tử Vĩ Đại.

Vajrasattva (Kim Cương Tát Đoả) – rdo rje sems dpa’, vị Phật hiện thân Trăm Đấng Hộ Phật. Hành trì pháp Vajrasattva và trì tụng thần chú của Ngài thì đặc biệt hữu hiệu để tịnh hoá các ác hạnh. Theo dòng truyền thừa Đại Viên Mãn, Ngài là Báo Thân Phật.

Vajrayana (Kim Cương Thừa)– rdo rje theg pa, xem Mật Thừa.

Văn Thù (Manjusri) – ‘jam dpal dbyangs, một vị Bồ Tát thập địa. Ngài hiện thân cho sự toàn giác và trí tuệ của tất cả chư Phật.

Vidyadhara (Trì Minh Vương) –rig ‘dzin, bậc trì giữ thấu suốt. “Bậc trì giữ các Bổn Tôn, mật chú, và trí tuệ đại lạc bằng những phương tiện thâm diệu.” DICT. Trong truyền thống Nyingmapa có bốn cấp độ vidyadhara: 1) hoàn toàn thuần thục (rnam smin), 2) làm chủ thọ mạng của đời mình (tshe dbang), 3) Mahamudra (Đại Ấn, phyag chen), và 4) thành tựu tự nhiên (lhun grub).

Viên ngọc như ý – yid bzhin nor bu, Phạn: cintamani, một viên ngọc tuyệt diệu được tìm thấy trong các cõi Trời hay rồng có diệu năng đáp ứng được mọi ước muốn của ta.

hoangtri
08-10-2017, 04:01 PM
Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Vikramasila – một trong những Đại Học Viện Phật Giáo nổi tiếng nhất ở Ấn Độ, bị phá huỷ vào thế kỷ thứ 12.

Vimalamitra (Tì Ma La Mật Đa) – dri med bshes bnyen, một trong những Đạo Sư Phật Giáo Ấn Độ uyên bác nhất. Ngài tới Tây Tạng vào thế kỷ thứ 9, ở đó Ngài giảng dạy rộng rãi, biên soạn và phiên dịch nhiều bản văn Phạn ngữ. Tinh hoa của giáo lý của Ngài được gọi là Vima Nyingtig (Tâm-Yếu của Vima), một trong các giáo lý Tâm yếu của Đại Viên mãn.

Vina – một nhạc cụ Ấn Độ có dây.

Vipasyin (Tỳ Bà Thi) – rnam par gzigs, vị thứ nhất trong sáu vị Phật đã xuất hiện trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Virupa – một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ. Là suối nguồn của các giáo lý quan trọng của truyền thống Sakyapa.

Vị Thầy gốc (Bổn Sư) – rtsa ba’i bla ma, 1) vị Thầy tâm linh chính yếu, hay vị Thầy đầu tiên mà ta nhận các quán đảnh, các bình giảng và giáo huấn cốt tuỷ từ Ngài. 2) vị Thầy đã trực chỉ cho ta bản tánh của tâm.

Vô nhiễm (hành động) – zag med, Phạn: anasrava, được làm với tâm không đắm nhiễm, không có các ý niệm (đối đãi) về chủ thể, đối tượng và hành động.

Vô ngã – bdag med, Phạn: anatman, nairatmya, sự vắng bặt của cái ngã (*ngã là một sự hiện hữu độc lập và tin là có thật) của bản thân, hay sự vắng bặt cái ngã của các hiện tượng bên ngoài (chos kyi bdag med).

Vô hành – hành động mà không có vọng tưởng, xuất phát từ trạng thái chứng ngộ mà người làm hành động (tác nhân), chính hành động ấy, và đối tượng mà hành động ấy hướng tới đều hoàn toàn không có thực chất.

Vô niệm – mi rtog pa’i nyams, Phạn: avikalpa, nirvikalpa, một trong ba loại kinh nghiệm thiền định. Một trạng thái an tĩnh trong đó không có các niệm tưởng. Xem các kinh nghiệm.

Vô trụ Niết Bàn – mi gnas pa’i myang ‘das, Toàn Giác, siêu vượt cả sinh tử lẫn Niết Bàn, không “trụ” trong cái nào trong hai trạng thái trên.

Xá Lợi Phất (Sariputra) – sha ri’i bu, một trong hai đệ tử Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích ca Mâu Ni.

Xứ biên địa – mtha’ ‘khob, một miền mà giáo lý (của Đức Phật) không hề được biết tới.

Yaksa (Dạ xoa) – gnod sbyin, một loại tinh linh.

Yama – gshin rje, Tử Thần, Diêm Vương.

Yamantaka – gshin rje bshed, hình tướng phẫn nộ của Manjusri (Văn Thù).

Yeshe Tsogyal – ye shes mtsho rgyal, vị phối ngẫu huyền nhiệm và đệ tử vĩ đại nhất của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Bà phụng sự Ngài thật hoàn hảo, và hộ pháp cho Ngài trong việc truyền bá giáo lý, đặc biệt là cất dấu những kho tàng tâm linh để sau này các kho tàng tâm linh (tàng kinh) ấy được khám phá trở lại vì lợi lạc của các đệ tử trong các đời tương lai.

Yidam (Bổn Tôn) – yidam, Phạn: devata, istadevata, Bổn Tôn tượng trưng cho sự giác ngộ, trong hình tướng nam hay nữ, an bình hay phẫn nộ tương ứng với bản tánh riêng của ta. Yidam là cội nguồn của những thành tựu. Xem Ba Nguồn Gia Trì, Ba Lực Gia Trì.

Yoga (Du già) – rnal ‘byor, pháp môn thực hành, nghĩa đen: một phương pháp để hợp nhất (‘byor) với trạng thái như nhiên (rnal ma).

Yogi hay yogini (Hành giả du già) – rnal ‘byor pa hoặc rnal ‘byor ma, những người thực hành các pháp du già (yoga), một hành giả tâm linh.

Ý niệm hay quan hệ thuộc ý niệm – dmigs pa, bất kỳ khái niệm (tạo tác) nào về chủ thể, đối tượng và hành động.
(Chú thích của TBĐ 2008)


HẾT